You are on page 1of 501

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG


TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP
ĐIỀU DƯỠNG HẠNG III
(Ban hành theo Quyết định số 2599/QĐ-BYT ngày 21/6/2019 của Bộ Y tế)

1
MỤC LỤC
Chuyên đề NỘI DUNG Trang
Phần I
KIẾN THỨC VỀ CHÍNH TRỊ, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VÀ CÁC KỸ NĂNG CHUNG
Đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát
1 4
triển y tế
Cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin
2 37
trong lĩnh vực y tế
Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công việc của
3 72
viên chức điều dưỡng
Kỹ năng quản lý thời gian và kỹ năng phối hợp trong công
4 94
việc của viên chức điều dưỡng
5 Chuyên đề báo cáo 120
PHẦN II
KIẾN THỨC, KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH
VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
Nghiên cứu điều dưỡng và thực hành chăm sóc dựa vào
1 124
bằng chứng
2 Công tác đào tạo liên tục cho điều dưỡng 162
3 Giới thiệu về tài chính y tế và bảo hiểm y tế của Việt Nam 184
4 An toàn người bệnh 245
5 Thực hiện mô hình 5S trong cải tiến chất lượng chăm sóc 294
Tổ chức chăm sóc lấy người bệnh là trung tâm. Kỹ năng
6 332
lập kế hoạch, đánh giá công tác chăm sóc người bệnh
Kiểm soát nhiễm khuẩn trong thực hành chăm sóc người
7 353
bệnh
Lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá hoạt động truyền
8 373
thông và tư vấn sức khỏe
Kiểm soát yếu tố nguy cơ và phòng chống dịch trong thảm
9 389
họa
10 Quản lý trang thiết bị, phương tiện chăm sóc tại cơ sở y tế 425
Tổng quan về đạo đức và đạo đức trong thực hành điều
11 438
dưỡng
Văn hóa ứng xử trong thực hành chăm sóc sức khỏe và
12 473
tiếp cận cộng đồng

2
Phần I
KIẾN THỨC VỀ CHÍNH TRỊ, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VÀ CÁC KỸ NĂNG CHUNG

3
CHUYÊN ĐỀ 1
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ PHÁT TRIỂN Y TẾ

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 12 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 6 tiết
Thảo luận, thực hành: 6 tiết
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chuyên đề, học viên cần đạt được:
1. Hiểu được những vấn đề cơ bản về phát triển y tế Việt Nam gồm: mạng lưới cơ sở y
tế, y tế tư nhân, nhân lực ngành y tế, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân.
2. Nhận thức đầy đủ, đúng đắn chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển y tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Biết được thành tựu, hạn chế và những thách thức đặt ra cho ngành y tế Việt
Nam.
4. Nắm vững được những quy định về chức danh nghề nghiệp điều dưỡng hạng III
5. Trên cơ sở những nắm vững vững vấn đề trên, học viên có thái độ tin tưởng
vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển y tế và vận dụng
thực hiện trong công việc chuyên môn.
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN Y TẾ VIỆT NAM
1.1. Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế
a. Về mô hình tổ chức
- Mạng lưới y tế được tổ chức theo tổ chức hành chính Nhà nước
+ Y tế tuyến Trung ương.
+ Y tế địa phương bao gồm: Y tế tuyến Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương.

4
+ Y tế tuyến cơ sở: Phòng y tế huyện, quận, thị xã; Trạm y tế xã, phường,
cơ quan, trường học...
- Mạng lưới y tế tổ chức theo thành phần kinh tế
+ Cơ sở y tế Nhà nước
+ Cơ sở y tế Tư nhân
- Mạng lưới y tế tổ chức theo các lĩnh vực hoạt động
+ Lĩnh vực khám chữa bệnh, điều dưỡng, phục hồi chức năng
+ Lĩnh vực y tế dự phòng, y tế công cộng
+ Lĩnh vực đào tạo nhân lực y tế
+ Lĩnh vực giám định, kiểm định, kiểm nghiệm
+ Lĩnh vực dược - thiết bị y tế
+ Lĩnh vực giáo dục, truyền thông và chính sách y tế
- Mạng lưới y tế tổ chức theo 2 khu vực và các tuyến
+ Khu vực y tế phổ cập có nhiệm vụ đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân hàng ngày. Cụ thể là đáp ứng được các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe ban đầu, sử dụng các kỹ thuật thông thường, phổ biến nhưng có tác
dụng tốt. Khu vực y tế phổ cập bao gồm từ tuyến y tế Tỉnh/ Thành phố trực
thuộc Trung ương trở xuống. Hiện nay tuyến y tế tỉnh còn đảm nhiệm cả nhiệm
vụ của khu vực y tế chuyên sâu. 
+ Khu vực y tế chuyên sâu có nhiệm vụ sử dụng các kỹ thuật cao mũi nhọn, tập
trung vào các hoạt động NCKH, chỉ đạo khoa học kỹ thuật và hỗ trợ cho tuyến trước.

5
Mô hình chung hệ thống tổ chức Ngành Y tế  Việt Nam.
b. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức xây dựng
Thứ nhất, phục vụ nhân dân tốt nhất và hiệu quả cao
Các cơ sở y tế gần dân, rộng khắp ở mọi khu vực: Thành thị, nông thôn,
miền núi, hải đảo... Thực hiện đa dạng hoá các loại hình dịnh vụ chăm sóc sức
khỏe (công, tư, bán công, lưu động, tại nhà… ). Với đặc điểm này các cơ sở y tế
Việt Nam có khả năng đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cụ
thể là đảm bảo phục vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân kịp thời, hiệu quả và công
bằng, thực hiện các nội dung và nguyên lý của chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Thứ hai, xây dựng theo hướng dự phòng chủ động và tích cực
Mạng lưới y tế Việt Nam xây dựng theo hướng dự phòng chủ động và tích
cực được thể hiện trong các nội dung hoạt động sau:
Mạng lưới y tế làm tham mưu tốt công tác vệ sinh môi trường: Vệ sinh ăn, ở,
sinh hoạt, lao động... Tích cực tuyên truyền giáo dục sức khỏe, vận động nhân dân
thực hiện các biện pháp dự phòng. Việc kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế với các
ngành khác, với các tổ chức xã hội nhằm thực hiện dự phòng theo hướng xã hội hoá.
Thứ ba, các cơ sở y tế xây dựng phù hợp với tình hình kinh tế địa phương
Quy mô cơ sở y tế hợp lý (số giường bệnh, kinh phí, cơ sở vật chất...). Địa

6
điểm của các cơ sở thuận lợi cho nhân dân trong quá trình sử dụng: Thuận tiện
giao thông, trung tâm của các điểm dân cư, đảm bảo bán kính ngắn cho nhân
dân đi lại được dễ dàng. Cán Bộ Y tế phù hợp về số lượng và chất lượng (loại
cán bộ, trình độ chuyên môn). Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng làm từ khi bắt đầu xây dựng cũng như suốt trong quá trình sử dụng. Động
viên cộng đồng tham gia xây dựng màng lưới về mọi mặt. Phát triển cân đối
giữa các khu vực phổ cập và chuyên sâu, phòng bệnh và chữa bệnh, y và dược,
chuyên môn và hành chính, hậu cần.
Thứ tư, các cơ sở y tế xây dựng phù hợp trình độ khoa học kỹ thuật, khả
năng quản lý
Đủ trang thiết bị y tế thông thường và hiện đại để thực hiện những kỹ
thuật điều trị theo tuyến quy định, có tính đến khả năng sử dụng trang thiết bị
của nhân viên y tế tại cơ sở y tế. Diện tích sử dụng phù hợp, có thể đáp ứng
được các yêu cầu hiện tại và các yêu cầu mới về quy hoạch và phát triển kinh tế
trong tương lai.
Thứ năm, đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ
Chất lượng phục vụ bao gồm chất lượng về chuyên môn kỹ thuật, chất
lượng quản lý ngành y tế và đạo đức phục vụ. Để không ngừng nâng cao chất
lượng phục vụ cần:
Phát huy mọi tiềm lực về cơ sở, trang thiết bị, nhân lực trong các cơ sở y
tế Nhà nước, liên doanh và tư nhân để ngày càng nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khoẻ nhân dân: lồng ghép các hoạt động phòng bệnh và chữa bệnh, khám
chữa bệnh và đào tạo, nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên
tiến trong nước và trên thế giới.
Tăng cường hợp tác trong khu vực và quốc tế, kêu gọi đầu tư để phát triển
khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao trình độ chuyên môn nhằm
nâng cao chất lượng phục vụ.
Đổi mới và hiện đại hóa công tác quản lý, trang thiết bị y tế; tăng cường
đào tạo, thực hiện đào tạo liên tục để nâng cao chất lượng phục vụ.
c. Về quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam
Theo Kế hoạch Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai

7
đoạn 2016 - 2020, nhiệm vụ thứ nhất liên quan đến quản trị hệ thống y tế là Đổi
mới và hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế từ trung ương đến địa phương sau khi
Quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2025 được phê duyệt theo
hướng giảm đầu mối, phù hợp với hội nhập quốc tế nhằm sử dụng có hiệu quả
nguồn lực ở các tuyến. Trong đó có 3 nhiệm vụ cụ thể được nêu trong Dự thảo
Quy hoạch, gồm: (i) sáp nhập bệnh viện (BV) huyện và TTYT huyện thành
TTYT có 2 chức năng là phòng bệnh, khám chữa bệnh (KCB) và quản lý các
trạm y tế xã; (ii) từng bước sáp nhập các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ dự
phòng tuyến tỉnh thành Trung tâm kiểm soát bệnh tật tuyến tỉnh (CDC), chuyển
nhiệm vụ điều trị sang các bệnh viện; (iii) sáp nhập các đơn vị kiểm nghiệm
thuốc, mỹ phẩm, vắc-xin, sinh phẩm y tế, ATTP, TTBYT ở trung ương thành
đơn vị kiểm nghiệm, quản lý chất lượng thực phẩm và dược phẩm. Thành lập
một số trung tâm kiểm nghiệm vùng.
Kết quả đạt được
Về tổ chức y tế trung ương
Bộ Y tế tổ chức đánh giá việc thực hiện Nghị định số 63/2012/NĐ-CP
ngày 31/8/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ Y tế. Trên cơ sở đó, đã xây dựng và trình Chính phủ ban
hành Nghị định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20/06/2017 quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế trong nhiệm kỳ Chính phủ khóa
XIV (2016 - 2021). Về cơ bản, vẫn giữ nguyên các nội dung trong Nghị định 63,
theo đó Bộ Y tế là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về y tế, bao gồm các lĩnh vực: y tế dự phòng, khám bệnh, chữa bệnh, phục
hồi chức năng, giám định y khoa, pháp y, pháp y tâm thần, y dược cổ truyền, sức
khỏe sinh sản, trang thiết bị y tế, dược, mỹ phẩm, an toàn thực phẩm, bảo hiểm y
tế, dân số, quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản
lý nhà nước của Bộ. Một số nội dung chi tiết có chỉnh sửa, cập nhật theo các văn
bản quy phạm pháp luật mới được ban hành.
Về tổ chức y tế địa phương
Bộ Y tế và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 51/2014/TTLT-
BYT-BNV ngày 11/12/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Sở Y tế và Phòng Y tế huyện. Bộ Y tế cũng đã xây dựng và ban

8
hành Thông tư 37/2016/TT-BYT ngày 25/10/2016 hướng dẫn chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của TTYT huyện, Thông tư số 59/2015/TT-
BYT ngày 31/12/2015 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của TTYT tỉnh. Đây là các văn bản pháp lý quan trọng để tổ chức y tế địa
phương tinh gọn, hiệu quả, đảm bảo sự phối hợp, tính liên tục trong cung ứng
dịch vụ y tế (DVYT).
Tuyến tỉnh: Thông tư 51 quy định “… thực hiện mô hình Trung tâm Kiểm
soát bệnh tật tuyến tỉnh trên cơ sở sáp nhập các trung tâm có cùng chức năng;
các trung tâm chuyên khoa, trung tâm có giường bệnh chuyển về bệnh viện đa
khoa tỉnh hoặc thành lập bệnh viện chuyên khoa khi có nhu cầu và có đủ điều
kiện về nguồn lực”. Đây là điểm mới có tính đột phá trong tổ chức hệ thống y tế
dự phòng (YTDP). Tính đến tháng 10/2016, đã có 23 tỉnh được UBND tỉnh ban
hành quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Sở Y tế, trong đó 17 tỉnh quy định thực hiện Trung tâm kiểm soát bệnh tật ở
tuyến tỉnh. Mô hình y tế địa phương của các tỉnh khác vẫn đang trong quy trình
xem xét, phê duyệt của UBND các tỉnh.
Tuyến huyện: Thông tư 51 quy định “… TTYT huyện được tổ chức thống
nhất trên địa bàn cấp huyện, thực hiện chức năng về YTDP, KCB và PHCN; các
phòng khám đa khoa khu vực (PKĐKKV), nhà hộ sinh khu vực (nếu có) và
TYT xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện là đơn vị y tế thuộc TTYT
huyện…”; “… chỉ thành lập Bệnh viện đa khoa ở tuyến huyện khi thực sự có
nhu cầu, điều kiện và phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn là bệnh viện hạng II trở
lên…”. Đến tháng 10/2016, đã có 18 tỉnh quy định thống nhất mô hình TTYT
huyện thực hiện chức năng YTDP và KCB (14 tỉnh sáp nhập TTYT với bệnh
viện huyện, 4 tỉnh đã có mô hình TTYT huyện thực hiện 2 chức năng từ trước).
Việc thực hiện tổ chức TTYT huyện có 2 chức năng phù hợp với điều kiện thực
tế, tránh đầu tư dàn trải; tập hợp được nhân lực, có thể điều động, luân chuyển,
huy động cán bộ y tế giữa các tuyến; tăng kết nối giữa lĩnh vực YTDP và KCB;
đảm bảo được sự chỉ đạo, hướng dẫn thống nhất giữa tuyến huyện và tuyến xã.
Tuyến xã: Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 33/2015/TT-BYT hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ của TYT xã, phường, thị trấn. Trước đó, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 117/2014/NĐ-CP về y tế xã. Đến nay đã có 62/63 tỉnh đã quy

9
định TYT xã là đơn vị y tế thuộc TTYT huyện.
Hình: Một số thay đổi về mô hình tổ chức y tế địa phương

(Nguồn: Bộ y tế, Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2016, NXB.
Y Hà Nội-2018)
Khó khăn, hạn chế
Một loạt các Nghị định, Thông tư liên quan đến tổ chức y tế địa phương
được ban hành, trong khi Quy hoạch tổng thể về phát triển hệ thống y tế chưa
được phê duyệt, đặt ra yêu cầu phải có kế hoạch hướng dẫn chi tiết về sắp xếp,
tổ chức các khoa phòng trong các đơn vị y tế tại địa phương. Văn bản về chức
năng, nhiệm vụ và hoạt động của Trung tâm kiểm soát bệnh tật tuyến tỉnh
(CDC) được ban hành chậm (Thông tư 26/2017/TT-BYT mới được ban hành
ngày 26/6/2017).
Đổi mới tổ chức y tế cần phải kèm theo các quy định chi tiết về tổ chức,
sắp xếp lại về cơ sở vật chất, nhân lực y tế (tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công
chức, viên chức, hợp đồng), cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính. Tuy nhiên, chưa
có các hướng dẫn cụ thể về các nội dung này, ví dụ về nhân lực, các quy định về
định mức biên chế quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2007/ TTLT-BYT-BNV
hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế nhà nước đến nay
không còn phù hợp với tổ chức và hoạt động của các cơ sở y tế

10
1.2. Vai trò của y tế tư nhân
a. Tình hình phát triển y tế tư nhân ở Việt Nam
Chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế trong CSSK (tức là bên
cạnh mạng lưới y tế công, cần phát triển mạng lưới y tế tư) đã được nêu lên
trong Nghị quyết 4 BCH Trung ương khóa VII năm 1993. Từ đó đến nay lĩnh
vực y tế tư nhân ngày càng phát triển, đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
Các cơ sở y tế tư nhân có bước phát triển lớn, đóng vai trò quan trọng
trong cung ứng dịch vụ y tế cho người dân. Số bệnh viện và số giường bệnh
ngoài công lập tăng nhanh: Năm 2005 có 43 bệnh viện trên địa bàn của 9 tỉnh,
thành phố với 3.324 giường bệnh, nay đã tăng lên 250 bệnh viện với 15.475
giường bệnh (đạt 1,7 giường/vạn dân, chiếm 15% số bệnh viện và 5,6% số
giường bệnh trong toàn quốc), có khoảng gần 40.000 nhà thuốc, 35.000 phòng
khám đa khoa, chuyên khoa, cung cấp 43% dịch vụ ngoại trú và 2,1% tổng số
dịch vụ nội trú cho người dân (một số bệnh viện 100% vốn nước ngoài có trang
thiết bị hiện đại đã được đưa vào hoạt động). Một số phòng khám bác sĩ gia đình
tư nhân tham gia thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Việc phát triển y tế tư đã thể hiện mặt được là:
- Chia sẻ với y tế công một phần trong việc cung cấp dịch vụ, đặc biệt là
việc khám chữa bệnh;
- Huy động được nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng trong khi ngân
sách nhà nước chưa thể cung cấp đủ cho CSSK;
- Tạo ra sự canh tranh với y tế công nhằm nâng cao chất lượng khám và
chữa bệnh, phát huy tính năng động trong quản lý, khắc phục tính trì trệ, ỷ lại và
đảm bảo tính minh bạch trong quản lý tài chính, lập lại những kỷ cương về văn
hóa ứng xử nói riêng và đạo đức nghề nghiệp y tế nói chung;
- Tạo điều kiện cho người sử dụng các dịch vụ CSSK chọn lựa theo “nhu
cầu” và “yêu cầu”, đặc biệt là tạo cơ hội cho người  sử dụng các dịch vụ tiếp cận
với kỹ thuật cao;
- Tận dụng nguồn nhân lực cán bộ y tế đã nghỉ hưu mà vẫn còn sức khỏe
và có nhiều kinh nghiệm về nghề nghiệp.

11
Tuy nhiên, bên cạnh các đóng góp tích cực của các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh tư nhân, còn bộc lộ nhiều hạn chế về mặt quản lý. Các phòng khám tư
nhân còn vi phạm các quy định về pháp luật khám bệnh, chữa bệnh như: mời
bác sỹ người nước ngoài hành nghề khi chưa có chứng chỉ hành nghề; hành
nghề quá phạm vi chuyên môn cho phép; sử dụng thuốc không rõ nguồn gốc,
thuốc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam; quảng cáo quá phạm vi hoạt động
chuyên môn cho phép; không công khai giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh hoặc
có niêm yết giá nhưng thu phí cao hơn giá đã niêm yết; việc lưu đơn thuốc, hồ
sơ bệnh án chưa đúng theo quy định của Bộ Y tế.
b. Một số giải pháp đổi mới quản lý y tế tư tại Việt Nam
- Về đổi mới nhận thức:
Trước hết phải xác định mối quan hệ giữa y tế công và y tế tư: Nói y tế
công là chủ đạo có nghĩa là Nhà nước phải định hướng hệ thống y tế về chính
sách (đặc biệt những chính sách liên quan đến định hướng công bằng, hiệu quả,
phát triển); về bố trí mạng lưới để cân bằng cung - cầu trong các chuyên khoa,
địa phương; về định hướng kỹ thuật để đảm bảo cho phát triển một nền y tế toàn
diện; về thanh tra, kiểm tra để bảo đảm nền y tế thực hiện đúng các chính sách
đã đề ra. Nói y tế công là chủ đạo, không nhất thiết y tế công phải chiếm một tỷ
lệ giường bệnh cao trong mọi chuyên khoa và mọi lĩnh vực. Chẳng hạn như
những vấn đề liên quan đến thỏa mãn “yêu cầu” dựa trên khả năng chi trả thì có
thể trao cho y tế tư và khuyến khích y tế tư đầu tư, trong khi y tế công phải tập
trung cho đáp ứng theo “nhu cầu” dựa trên tình hình bệnh tật phổ biến của nhân
dân mỗi vùng, đặc biệt là lĩnh vực y tế dự phòng. Phát triển y tế tư không nhất
thiết chỉ khuyến khích ở thành thị mà ngay tại tuyến y tế cơ sở, chúng ta có thể
khuyến khích các hình thức chăm sóc sức khỏe gia đình do y tế tư đảm nhận
dưới các hình thức phù hợp.
Phải nhận thức y tế tư là một bộ phận cấu thành không tách rời trong hệ
thống y tế Việt Nam và ứng xử với y tế tư một cách bình đẳng trên mọi khía
cạnh quản lý như y tế công. Muốn phát triển y tế tư thì ngoài các chủ trương còn
cần có những chính sách cụ thể để khuyến khích đặc biệt với các loại hình dịch
vụ không vì lợi nhuận và doanh nghiệp nhỏ vì lợi nhuận, bởi vì trên thực tế của
tất cả các nước, nhất là các nước nghèo, lĩnh vực CSSK không phải là lĩnh vực

12
thu hút các nhà đầu tư do mang lại lợi nhuận ít hơn việc đầu tư vào các ngành
nghề khác, nếu chưa nói là có nhiều rủi ro. Bên cạnh chính sách khuyến khích,
Nhà nước cần có những chính sách bảo hộ y tế tư, nhất là y tế tư tại các vùng
nghèo, khó khăn (kể cả luật bảo vệ cán bộ y tế khi làm nhiệm vụ). Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã nói rõ: “Hoàn thiện cơ chế chính sách
để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền
kinh tế”. Báo cáo chính trị trình trước Đại hội XI cũng chỉ rõ: “Phát triển mạnh
các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy
hoạch và quy định của pháp luật”.
- Về mặt tổ chức
Một là, xây dựng chiến lược phát triển y tế tư ở Việt Nam. Chiến lược này
cần khẳng định phát triển y tế tư là một chủ trương lâu dài của y tế Việt Nam, y tế
tư phải được coi là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong hệ thống y tế
Việt Nam.
Hai là, chuyển đổi cung cách quản lý y tế tư. Khác với quản lý y tế công,
điều chủ yếu trong quản lý y tế tư là quản lý mục đích đầu tư, chứ không phải chỉ
có quản lý kỹ thuật và thu chi tài chính đơn thuần như trong quản lý y tế công.
Ba là, tùy theo mục đích đầu tư mà Nhà nước áp dụng các chính sách sao
cho phù hợp. Chỉ có như vậy mới hạn chế mặt tiêu cực của y tế tư do khuynh
hướng chạy theo lợi nhuận mà coi nhẹ tính nhân đạo trong y tế, đồng thời lại
khuyến khích những mặt ưu điểm của y tế tư.
Bốn là, phải coi trọng việc tạo sự liên kết chặt chẽ giữa nhà quản lý - nhà
đầu tư - nhà khoa học (thầy thuốc). Vai trò của nhà đầu tư rất quan trọng: Họ
quyết định mục đích đầu tư, ấn định cả cung cách làm việc, ứng xử của thầy
thuốc, nhất là trong các cơ sở dịch vụ vì lợi nhuận. Trong nhiều trường hợp, thầy
thuốc chỉ đóng vai trò người làm thuê cho nhà đầu tư và phải tuân theo những
yêu cầu và mục đích của nhà đầu tư. Khi ấy vai trò chủ thể trong hoạt động lại là
các nhà đầu tư, chứ không phải là thầy thuốc. Bởi vậy không coi trọng việc tạo
liên kết giữa các nhà đầu tư với các nhà quản lý và thầy thuốc (liên kết ở đây là
muốn nói đến liên kết trong quản lý, tạo ra sự đồng thuận để phát triển y tế tư
đúng hướng chứ không phải liên kết nhằm lợi ích cá nhân và lợi nhuận không
chính đáng) thì không thể giải quyết được những bất cập trong hoạt động y tế tư.

13
Năm là, đưa ra các mô hình cơ sở dịch vụ tư và phân loại theo tiêu chí
mục đích đầu tư. Từ đó xây dựng và áp dụng những chính sách phù hợp với
từng loại mô hình. Có chính sách khuyến khích với các mô hình không vì lợi
nhuận (như chính sách thuế, hỗ trợ vốn, đất đai...), trái lại quản lý chặt chẽ các
mô hình vì lợi nhuận như trong quản lý doanh nghiệp. Nếu không làm như vậy
mà cứ đánh đồng mọi cơ sở y tế tư thành một loại hình để quản lý thì không thể
phát huy những ưu điểm của y tế tư và cũng không hạn chế được những bất cập
của y tế tư.
Sáu là, nghiên cứu hoàn chỉnh những quy định cụ thể để quản lý y tế tư.
Theo kinh nghiệm của các nước thì bộ quy định ấy tập trung vào 5 loại sau: (1)
Quy định về đăng ký, cấp phép hoạt động cho cơ sở hành nghề; (2) Các quy
định về tự kiểm soát thực hành chuyên môn; (3) Quy định về kiểm định cho cơ
sở khám chữa bệnh; (4) Quy định về công bố thông tin; (5) Quy định kiểm soát
tài chính thông qua hệ thống chi trả.
Bảy là, tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật liên quan đến y tế tư,
tăng cường vai trò của hội (Tổng hội Y học Việt Nam và các hội thành viên)
trong giám sát, phát huy vai trò của người bệnh trong hoạt động giám sát.
Trong giai đoạn hiện nay, phát triển y tế tư là một xu thế tất yếu và phù
hợp với nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy
vậy, y tế tư nhân ở nước ta chưa phát triển đúng với tiềm năng và nhu cầu của xã
hội. Nguyên nhân hàng đầu lại nằm ở những bất cập trong công tác quản lý. Vì
vậy đổi mới quản lý y tế tư có một ý nghĩa quyết định để phát triển y tế tư trong
giai đoạn hiện nay.
1.3. Chất lượng nhân lực ngành y tế
a. Kết quả đạt được
- Về số lượng và trình độ nhân lực y tế. Đội ngũ cán bộ y tế đã có những
bước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Tổng số cán bộ y tế trong toàn
ngành năm 2009 là 364.876 trong đó, có 19.083 dược sĩ; 56.661 bác sĩ; 1.510
cán bộ y tế công cộng; 55.999 y sĩ.
Đến năm 2014, tổng số cán bộ trong toàn ngành y tế tăng lên 430.496
người, trong đó có 70.362 bác sĩ (kể cả tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ); 21.843 dược

14
sĩ (kể cả tiến sĩ, phó tiến sĩ); 1.733 cán bộ y tế công cộng (bao gồm tiến sĩ, thạc
sĩ, cử nhân y tế công cộng); 59.060 y sĩ, 9.426 điều dưỡng đại học, 17.052 kỹ
thuật viên y, 44.867 dược sĩ trung học và kỹ thuật viên dược, 83.797 điều dưỡng
cao đẳng và trung học,v.v..
Số bác sĩ trên 1 vạn dân tăng: năm 2010 là 7,2 đến năm 2014 đạt 7,8 (năm
2015 đạt 8 bác sĩ/vạn dân.
- Về phân bố. Thực hiện Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân và Quy hoạch tổng thể hệ thống y tế Việt Nam, với mục
tiêu đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế xây dựng các tuyến hợp lý, y tế tuyến
huyện có sự cải thiện về nhân lực. Tổng số bác sĩ tuyến huyện tăng từ 15.521
người (năm 2010) lên 18.870 người (năm 2014), tổng số dược sĩ đại học ở các
bệnh viện huyện tăng từ 698 người (năm 2010) lên 1.699 người năm 2014.
Tại tuyến xã, năm 2013 có 76,9% trạm y tế xã có bác sĩ làm việc (bao
gồm cả các trạm y tế xã có bác sĩ làm việc từ 3 ngày/tuần trở lên). Ở các huyện
miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, nhất là ở một số
huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa tỷ lệ này thấp hơn.
Bên cạnh đó, các kỹ thuật chuyên sâu, kỹ thuật cao cũng được khuyến
khích triển khai để khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trung
ương và tuyến tỉnh và đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa trong ngành y tế.
Một số chuyên khoa và tuyến y tế cơ sở khó tuyển dụng về nhân lực y tế
cũng đã được Nhà nước và ngành y tế tìm ra những giải pháp nhằm tháo gỡ.
Một số chính sách, dự án đã được ban hành và triển khai như: Quyết định số
319/QĐ-TTg (2013) của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án khuyến khích
đào tạo và phát triển nhân lực y tế các chuyên ngành Lao, Phong, Tâm thần,
Pháp y, Giải phẫu bệnh giai đoạn 2013-2020; Dự án thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình
nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (ưu tiên 62 huyện nghèo) theo Quyết định số
585/QĐ-BYT đã được triển khai và đến năm 2016 có khoảng 500 bác sĩ trẻ về
công tác tại các vùng này.
- Về công tác đào tạo. Mạng lưới các cơ sở đào tạo cán bộ y tế đã được
mở rộng đáng kể trong thời gian qua. Tính đến tháng 6-2014, cả nước đã có 173
cơ sở đào tạo cán bộ y tế ở tất cả các trình độ. Trong đó, có 35 cơ sở đào tạo

15
trình độ đại học, 44 cơ sở đào tạo trình độ cao đẳng và 123 cơ sở đào tạo trình
độ trung cấp chuyên nghiệp. Hệ thống các cơ sở đào tạo cán bộ y tế đã được sắp
xếp lại, mở rộng về quy mô trên cả nước với nhiều hình thức đào tạo nhằmkhắc
phục tình trạng thiếu hụt cán bộ y tế, nhất là vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Hệ thống các trường này tạo ra nguồn bổ sung cho đội ngũ nhân lực y tế dồi
dào. Số lượng sinh viên đại học ra trường tăng nhanh, năm 2014 có trên 7 nghìn
bác sĩ ra trường, tăng hơn một nghìn so với năm 2013.
Nguồn nhân lực điều dưỡng được đào tạo bao gồm các bậc đại học, cao
đẳng, trung cấp với quy mô lớn. Với chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng, trung cấp
điều dưỡng từ khoảng trên 11 nghìn người năm 2006 và tăng dần đến trên 35
nghìn người năm 2014. Đào tạo sau đại học (bác sĩ chuyên khoa I, II, nội trú,
thạc sĩ và tiến sĩ) ngành y tế được tăng cường ở tất cả các loại hình, số lượng
học viên sau đại học tốt nghiệp năm 2010 là 3.378 người, đến năm 2013 đã
tăng lên 4.680 người.
Thực hiện Đề án 1816 về luân chuyển cán bộ y tế,từ năm 2008 đến năm
2014 đã có 15 nghìn lượt cán bộ của các bệnh viện thuộc Bộ Y tế đi luân
phiên chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ tuyến dưới; 1.905 lượt cán bộ thuộc
bệnh viện tỉnh được cử luân phiên hỗ trợ bệnh viện huyện và 3.234 lượt cán
bộ thuộc bệnh viện huyện cử xuống hỗ trợ 1.815 trạm y tế xã thực hiện khám
chữa bệnh qua đó nhằm chuyển giao kỹ thuật y học tiên tiến, từng bước đào
tạo cán bộ có nghiệp vụ tại cơ sở.
b. Một số bất cập, hạn chế
Công tác đào tạo cán bộ y tế chủ yếu vẫn dựa trên năng lực và công tác
bảo đảm chất lượng của các trường y dược. Chương trình đào tạo chưa được
thực hiện hiệu quả do còn hạn chế trong việc hướng dẫn, theo dõi, giám sát và
đánh giá chặt chẽ; chương trình đào tạo chưa hội nhập với thế giới cả về cách
tiệp cận, phương pháp và nội dung đào tạo.
Kết quả giám sát tại 44 trường cao đẳng y tế cho thấy, nhiều trường đào
tạo quy mô lớn (có 5 trường trên 2 nghìn sinh viên) nhưng nhân lực giảng viên
trình độ sau đại học còn ít (42% số trường còn dưới 20% giảng viên trình độ đại
học). Kết quả giám sát tại 10 trường đại học về đào tạo theo chế độ cử tuyển,
liên thông và theo địa chỉ sử dụng cho thấy số lượng cử tuyển, liên thông y đa

16
khoa và liên thông ngành dược lớn.
Hiện nay, Bộ Y tế vẫn chưa có chương trình thực tập chuẩn 18 tháng tại
các bệnh viện cho các bác sĩ sau khi tốt nghiệp đại học y để đủ điều kiện cấp
chứng chỉ hành nghề theo qui định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Chính vì
vậy, chưa tạo được sự kết nối giữa các hoạt động đào tạo liên tục với việc cấp
chứng chỉ hành nghề.
Chất lượng nhân lực y tế, đặc biệt là ở tuyến xã trong sơ cấp cứu, chẩn
đoán và điều trị một số bệnh, cũng như kiến thức về xử lý bệnh dịch còn hạn
chế. Theo một nghiên cứu ở khu vực miền núi, chỉ có 17,3% số bác sĩ và y sĩ
được hỏi có kiến thức và kỹ năng đúng trong xử trí sơ cấp cứu, 17% biết được
các dấu hiệu nguy hiểm trong thời kỳ phụ nữ mang thai, 50,5% biết cách chẩn
đoán tăng huyết áp và 15,6% biết cách xử trí một vụ dịch...).
Phân bổ nhân lực y tế còn nhều bất cập. Mặc dù đã có những biến chuyển
trong tuyển dụng, phân bổ nhân lực nhưng vẫn còn nhiều bất cập; chênh lệch về
số lượng và chất lượng nhân lực y tế giữa khu vực điều trị và dự phòng, giữa các
chuyên ngành, giữa trung ương và địa phương.
Phân bố nhân lực y tế chưa hợp lý giữa các khu vực địa lý, giữa thành thị
và nông thôn, đặc biệt khu vực miền núi.Hiện nay, cán bộ y tế có trình độ đại
học trở lên tập trung chủ yếu ở các thành phố và khu vực kinh tế phát triển. Hiện
có tới 45% nhân lực y tế có trình độ đại học trở lên ở tuyến trung ương, trong
khi ở địa phương chỉ là 23%.
Tại địa phương, 50% bác sĩ và 69% dược sĩ đại học làm việc ở tuyến tỉnh,
34% bác sĩ và 31% dược sĩ đại học làm việc ở tuyến huyện, 17% bác sĩ và 1%
dược sĩ đại học làm việc ở tuyến xã.
Số lượng dược sĩ đại học ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn
48% tổng số dược sĩ của cả nước; chủ yếu (92%) số dược sĩ này làm việc trong
khu vực tư nhân, chiếm hơn một nửa số dược sĩ thuộc khối tư nhân của cả
nước19. Tại các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, số lượng dược sĩ đại học chỉ
chiếm tỷ lệ 19,6% nhân lực dược chung.
Tỷ số bác sĩ trên một vạn dân trên cả nước tăng đều và ở một số địa
phương khá cao, nhưng ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam

17
Bộ, tỷ lệ này vẫn còn thấp.
1.4. Hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân
a. Vấn đề về chính sách và Luật Bảo hiểm Y tế 2008 (sửa đổi bổ sung
năm 2014)
Phát triển hệ thống BHYT tiến tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân được
Đảng và Nhà nước ta xác định là một trong những chính sách quan trọng, là trụ
cột trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần tích cực vào việc ổn định xã hội,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành
quan trọng để sớm hoàn thành mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Cụ thể:
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020;
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020;
Quyết định số 538/QĐ/TTg ngày 29/03/2013 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân giai đoạn 2012 -
2015 và 2020.
Luật Bảo hiểm Y tế năm 2008 ra đời và đến năm 2014 Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật BHYT đã quy định những nội dung cơ bản, phù hợp
với điều kiện, tình hình kinh tế - xã hội hiện nay, nhất là vấn đề phát triển, mở
rộng diện bao phủ BHYT.
Những điểm cơ bản trong Luật Bảo hiểm Y tế:
- Tham gia BHYT là bắt buộc. Theo lộ trình bao phủ của các nhóm đối
tượng, đến 2014 nhóm dân số cuối cùng phải tham gia BHYT theo Luật định để
tiến tới mục tiêu bao phủ toàn dân; nhà nước hỗ trợ kinh phí đóng BHYT cho
nhóm bảo trợ XH, người nghèo, cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, HSSV.
- Phạm vi quyền lợi được xác định tương đối toàn diện, cả dự phòng (cá
nhân), chữa bệnh và phục hồi chức năng; Mức đóng tối đa là 6% và được xác
định trên cơ sở tiền lương, tiền công;
- Áp dụng quy định cùng chi trả (với một số nhóm đối tượng) như một

18
biện pháp quản lý chống lạm dụng;
- Bình đẳng giữa cơ sở y tế công và tư trong cung ứng dịch vụ KCB cho
người bệnh có BHYT;
- Tiếp tục duy trì hệ thống điều trị theo tuyến/ bậc thang điều trị, bảo đảm
thuận lợi, tiết kiệm chi phí, chống quá tải ở các cơ sở tuyến trên;
- Thay đổi và linh hoạt áp dụng các cơ chế thanh toán giữa quỹ BHYT và
cơ sở y tế cho phù hợp, hướng tới chất lượng, hiệu quả và an toàn quỹ;
- Luật hóa việc giám định KCB BHYT và vai trò, trách nhiệm của BHXH
trong thực hiện công tác giám định;
- Quỹ BHYT vừa tập trung thống nhất, vừa có sự phân cấp quản lý, sử
dụng giữa trung ương và địa phương; các địa phương được sử dụng một phần
kinh phí còn dư để đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, nâng cao chất lượng dịch vụ;
- Quản lý nhà nước về BHYT, điều tiết mối quan hệ 3 bên giữa BHYT -
cơ sở KCB - người tham gia BHYT, được giao cho Bộ Y tế; UBND tỉnh/TP có
trách nhiệm quản lý và chỉ đạo thực hiện chính sách BHYT tại địa phương.
b. Kết quả thực hiện
- Thành tựu.
Tỷ lệ người dân tham gia BHYT tăng từ 45% (năm 2009) lên 89,6%
(tháng 6/2019) vượt chỉ tiêu mà Thủ tướng Chính phủ giao là 88,1%. Trong đó
người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính
sách xã hội đã được Nhà nước hỗ trợ toàn bộ mức đóng BHYT.
Hiện chỉ còn hơn 10% dân số (khoảng 10 triệu người) chưa có BHYT,
thuộc nhóm tham gia theo hộ gia đình, làm nông lâm ngư nghiệp có mức sống
trung bình, người lao động trong doanh nghiệp tư nhân và sinh viên.
Chất lượng khám chữa bệnh BHYT, sự hài lòng của người bệnh ngày
càng tăng, người dân đã tin tưởng vào chính sách BHYT...Về quyền lợi của
người tham gia BHYT, do người tham gia BHYT thuộc các nhóm đối tượng
khác nhau có các mức hưởng BHYT khác nhau: Người nghèo, đối tượng ưu đãi
xã hội, trẻ em được hưởng 100%; người cận nghèo, người nghỉ hưu hưởng mức
95%, và người lao động hưởng 80%.

19
Quyền lợi về khám chữa bệnh BHYT tương đối toàn diện và ngày càng
được mở rộng. Danh mục thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật được sử dụng theo
năng lực chuyên môn, tuyến chuyên môn kỹ thuật, vừa để đảm bảo quyền lợi
của người có thẻ khi đến cơ sở y tế, vừa là yêu cầu nâng cao trình độ chuyên
môn kỹ thuật của cơ sở y tế.
Cùng với việc mở rộng số lượng người tham gia BHYT, ngành y tế cũng
tập trung nâng cao chất lượng khám chữa bệnh BHYT với hàng loạt biện pháp
đổi mới, cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người bệnh như: Lấy
người bệnh làm trung tâm; đổi mới về quản lý, cách làm và phương pháp kiểm
tra, đánh giá bệnh viện hàng năm; triển khai các đề án giảm tải, bác sĩ gia đình.
Đặc biệt là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bệnh viện,
quản lý BHYT để giảm thủ tục, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh, thực
hiện công khai, minh bạch các khoản chi phí mà người bệnh phải chi trả.
Tỷ lệ chi trả chi phí y tế từ tiền túi của người sử dụng dịch vụ giảm từ
49% năm 2012 xuống còn khoảng 40% năm 2018
- Hạn chế
Trong phát triển người tham gia BHYT còn gặp một số khó khăn, vướng
mắc như:
Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách BHYT là một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhưng một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, đơn vị
chưa quan tâm đúng mức, coi đây là nhiệm vụ riêng của ngành BHXH, hình
thức tuyên truyền chưa phù hợp với đối tượng dẫn tới hiệu quả chưa cao.
Một bộ phận người dân chưa nhận thức đúng, đầy đủ về chính sách
BHYT, chưa có ý thức bảo vệ sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng.
Tình trạng trốn đóng, chậm đóng BHYT của một số chủ sử dụng lao động
vẫn xẩy ra ở hầu hết các địa phương.
Chất lượng KCB BHYT chưa đáp ứng sự hài lòng của người bệnh, nhất là
y tế tuyến cơ sở.
c. Các giải pháp
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHYT với những đổi

20
mới về nội dung, hình thức phù hợp, hấp dẫn với người dân, từng nhóm đối
tượng.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách TTHC, ứng dụng CNTT nhằm đơn giản hóa
thủ tục, cắt giảm mẫu biểu không cần thiết và giảm chỉ tiêu kê khai, tạo điều
kiện thuận lợi cho người dân tham gia BHYT.
Phát triển hệ thống đại lý thu BHXH, BHYT theo hướng chuyên nghiệp,
thân thiện; đề xuất tăng mức chi phí thù lao, linh hoạt cho đại lý thu để khuyến
khích việc vận động người tham gia BHYT.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động có dấu hiệu
vi phạm về tình hình thực chính sách, pháp luật BHYT; kiên quyết xử lý các
hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Tăng cường chất lượng KCB BHYT, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh,
nhất là y tế tuyến cơ sở. Xử lý kịp thời các vướng mắc trong quá trình thực hiện
chính sách BHYT để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên.
II. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN Y TẾ VIỆT NAM
Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, là một trong những
nhiệm vụ quan trọng, và là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách quan trọng để lãnh đạo và tổ chức thực hiện vấn đề quan
trọng này. Trong đó phải kể đến các Nghị quyết quan trọng của Đảng như:
Nghị quyết số 04 của Hội nghị lần thứ 4 ngày 14/01/1993 của BCHTW
Đảng khoá VII về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ nhân dân;
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005, của Bộ Chính trị về Công tác
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới;
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
Thông qua các Nghị quyết quan trọng trên, chủ trương của Đảng về phát
triển y tế Việt Nam có những nội dung cơ bản sau:

21
2.1. Chủ trương về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân.
Xuất phát từ quan điểm sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi người dân và
của cả xã hội. Do đó, vấn đề bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là
nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể, các ngành, trong đó ngành Y tế là nòng cốt.
2.2. Chủ trương về đầu tư, huy động nguồn lực cho y tế; các cơ chế, chính
sách để phát triển y tế.
Đảng và Nhà nước Việt Nam coi đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ nhân dân là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách
và có cơ chế, chính sách huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân; tổ chức cung cấp dịch vụ công, bảo
đảm các dịch vụ cơ bản, đồng thời khuyến khích hợp tác công - tư, đầu tư tư
nhân, cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu.
2.3. Chủ trương xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và
gần dân.
Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả nhằm tạo cơ
hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Xây dựng hệ thống y tế theo phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh; y
tế dự phòng là then chốt, y tế cơ sở là nền tảng; y tế chuyên sâu đồng bộ và cân
đối với y tế cộng đồng; gắn kết y học cổ truyền với y học hiện đại, quân y và
dân y. Phát triển dược liệu, công nghiệp dược và thiết bị y tế.
Hệ thống mạng lưới y tế phải rộng khắp, gần dân; được chỉ đạo thống
nhất, xuyên suốt về chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành từ Trung ương tới địa
phương trong phạm vi cả nước, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
uỷ, chính quyền địa phương.
2.4. Chủ trương phát triển y tế tư nhân, cung cấp dịch vụ y tế công cơ bản.
Các loại hình y dược tư nhân hoạt động theo pháp luật là bộ phận cấu
thành của hệ thống y tế. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục đầu tư; có

22
chính sách khuyến khích về thuế, đất đai... để phát triển các cơ sở y tế ngoài
công lập. Khuyến khích các hoạt động nhân đạo vì sức khoẻ.
Mọi người dân đều được bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong
thụ hưởng các dịch vụ y tế. Tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế và có cơ chế giá,
cơ chế đồng chi trả nhằm phát triển vững chắc hệ thống y tế cơ sở.
2.5. Chủ trương về xây dựng đội ngũ nhân lực y tế.
Xuất phát từ quan điểm, nghề y là một nghề đặc biệt. Do đó, nhân lực y tế
phải đáp ứng yêu cầu chuyên môn và y đức; cần được tuyển chọn, đào tạo, sử
dụng và đãi ngộ đặc biệt.
Mỗi cán bộ, nhân viên y tế phải không ngừng nâng cao đạo đức nghề
nghiệp và năng lực chuyên môn, xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã
hội, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Người thầy thuốc giỏi đồng
thời phải là người mẹ hiền”.
2.6. Chủ trương về bảo hiểm y tế toàn dân.
Phát triển bảo hiểm y tế toàn dân, nhằm từng bước đạt tới công bằng trong
chăm sóc sức khỏe, thực hiện sự chia sẻ giữa người khỏe với người ốm, người
giầu với người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già; công
bằng trong đãi ngộ đối với cán bộ y tế.
Tuyên truyền, giáo dục, để mọi người dân đều tự nguyện tham gia bảo
hiểm y tế. Đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm y tế, chú ý các loại hình dựa vào
cộng đồng; tạo nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước, viện trợ, các quỹ từ
thiện, quỹ cộng đồng, quỹ xoá đói giảm nghèo... để trợ giúp cho người nghèo,
người sống ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa tham gia các loại hình bảo
hiểm y tế phù hợp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, củng cố tổ chức và nâng cao
năng lực quản lý, điều hành của hệ thống bảo hiểm y tế. Có phương thức thanh
toán phù hợp để người tham gia bảo hiểm y tế được chăm sóc với chất lượng tốt,
không bị phân biệt đối xử trong khám chữa bệnh.

23
III. CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN Y TẾ VIỆT NAM
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự
tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và
của toàn xã hội trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân
Cấp uỷ, chính quyền các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân, coi đây là một trong những nhiệm vụ
chính trị quan trọng hàng đầu. Thống nhất nhận thức, quyết tâm hành động của
cả hệ thống chính trị và của mỗi người dân trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ cho bản thân, gia đình, cộng đồng.
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Đưa các mục tiêu, chỉ tiêu về y tế và các
lĩnh vực ảnh hưởng đến sức khoẻ như môi trường, thể dục, thể thao, văn hoá…
vào chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp.
Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các chế độ, chính sách
về y tế và các lĩnh vực liên quan tới sức khoẻ.
Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
và của cả cộng đồng trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân
dân. Phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đối với từng ngành, từng cơ quan,
đoàn thể trong thực hiện các mục tiêu, giải pháp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ, trước hết là trong bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi
trường, rèn luyện thân thể, xây dựng nếp sống văn minh, tham gia bảo hiểm y tế
toàn dân và thực hiện các quy định về phòng dịch, phòng và chữa bệnh.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, các phong trào thi
đua, các cuộc vận động có các nội dung, tiêu chí liên quan tới công tác bảo vệ,
chăm sóc, nâng cao sức khoẻ. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, tạo các
điều kiện thuận lợi để huy động các tổ chức xã hội, tôn giáo tham gia bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân theo quy định của pháp luật.
3.2. Nâng cao sức khoẻ nhân dân
Tập trung nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, đề cao trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mỗi người dân; xây dựng và tổ chức thực
hiện đồng bộ các đề án, chương trình về nâng cao sức khoẻ và tầm vóc người

24
Việt Nam. Quan tâm các điều kiện để mỗi người dân được bảo vệ, nâng cao sức
khoẻ, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi, hải đảo.
Khuyến nghị, phổ biến chế độ dinh dưỡng, khẩu phần ăn phù hợp cho
từng nhóm đối tượng, nguồn nguyên liệu, khẩu vị của người Việt. Các sản
phẩm, thực phẩm đóng gói phải có đầy đủ thông tin về thành phần, năng lượng,
cảnh báo về sức khoẻ trên bao bì. Triển khai các chương trình bổ sung vi chất
cần thiết cho phụ nữ có thai, phụ nữ cho con bú, trẻ em, người cao tuổi.
Khẩn trương hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn thực
phẩm. Thực hiện việc kiểm soát an toàn thực phẩm dựa trên đánh giá nguy cơ,
sản xuất kinh doanh theo chuỗi, truy xuất nguồn gốc.
Tập trung chỉ đạo công tác phòng, chống và cai nghiện ma tuý. Thực hiện
đồng bộ các giải pháp nhằm giảm tiêu thụ rượu, bia, thuốc lá.
Đổi mới căn bản giáo dục thể chất, tâm lý, tăng số môn tập luyện tự chọn
trong nhà trường, kết hợp chặt chẽ với tập luyện ngoài nhà trường. Phát triển
mạnh các phong trào rèn luyện thân thể. Tăng cường công tác y tế học đường.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm thiểu ảnh hưởng xấu từ ô nhiễm
môi trường, biến đổi khí hậu tới sức khoẻ. Tập trung nguồn lực xây dựng, nâng
cấp các hệ thống cấp thoát nước; bảo đảm người dân được tiếp cận sử dụng
nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh; xử lý chất thải; khắc phục ô nhiễm các dòng
sông, các cơ sở sản xuất. Tăng cường cải tạo, hạn chế san lấp hệ thống kênh
rạch, hồ ao; chống lạm dụng hoá chất trong nuôi trồng.
Phát huy hiệu quả các thiết chế, đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, thể
thao. Tăng cường tuyên truyền, vận động xây dựng nếp sống văn minh, lối sống
lành mạnh, vệ sinh; xoá bỏ các tập tục lạc hậu ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ.
Triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống thảm hoạ, bảo đảm trật tự,
an toàn giao thông, an toàn lao động; phòng, chống tai nạn, thương tích, cháy,
nổ, bệnh nghề nghiệp.
3.3. Nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới y tế cơ sở
Bảo đảm an ninh y tế, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phòng,
chống dịch bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Ứng phó kịp thời với các tình
huống khẩn cấp. Tăng nguồn lực trong nước cho công tác phòng, chống HIV/AIDS,

25
bệnh lao, bệnh sốt rét. Củng cố vững chắc hệ thống tiêm chủng. Tăng số vắc xin
trong chương trình tiêm chủng mở rộng phù hợp với khả năng ngân sách.
Phát triển y học gia đình. Triển khai đồng bộ các hoạt động phòng, chống
các bệnh không lây nhiễm; chú trọng dự phòng, nâng cao năng lực sàng lọc,
phát hiện sớm và kiểm soát bệnh tật; đẩy mạnh quản lý, điều trị các bệnh không
lây nhiễm, bệnh mạn tính, chăm sóc dài hạn tại y tế cơ sở. Đẩy mạnh kết hợp
quân - dân y, y tế ở vùng biên giới, hải đảo. Kết nối y tế cơ sở với các phòng
khám tư nhân, phòng chẩn trị đông y.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của y tế cấp xã để thực
hiện vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ. Triển khai đồng bộ
hệ thống công nghệ thông tin trong quản lý trạm y tế, tiêm chủng, quản lý bệnh tật,
hồ sơ sức khoẻ người dân gắn với quản lý thẻ, thanh toán bảo hiểm y tế.
Thiết lập hệ thống sổ sức khoẻ điện tử đến từng người dân. Thực hiện cập
nhật các thông tin, chỉ số sức khoẻ khi đi khám sức khoẻ, chữa bệnh. Có cơ chế,
lộ trình phù hợp, từng bước thực hiện để tiến tới mọi người dân đều được theo
dõi, quản lý sức khoẻ, khám và chăm sóc sức khoẻ định kỳ.
Chú trọng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, đặc biệt là ở khu vực miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo. Quan tâm chăm sóc
sức khoẻ người cao tuổi, người khuyết tật, người bị ảnh hưởng bởi hậu quả của
chiến tranh và các đối tượng ưu tiên; phát triển các mô hình chăm sóc người cao
tuổi phù hợp.
3.4. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng
quá tải bệnh viện
Phát triển hệ thống khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng hoàn chỉnh ở
từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bên cạnh hệ thống bệnh viện thuộc
lực lượng vũ trang; tăng cường phối hợp quân - dân y.
Hoàn thiện hệ thống phác đồ, quy trình, hướng dẫn điều trị thống nhất
trong cả nước. Ban hành tiêu chí đánh giá, thực hiện kiểm định độc lập, xếp
hạng bệnh viện theo chất lượng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thực hiện lộ trình thông tuyến khám, chữa bệnh; lộ trình liên thông, công
nhận kết quả xét nghiệm, giữa các cơ sở khám, chữa bệnh gắn với nâng cao chất

26
lượng dịch vụ và có chính sách khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ ngay
tại tuyến dưới.
Phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh; tăng cường đào tạo, luân phiên
cán bộ y tế, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Ban hành danh mục dịch vụ
kỹ thuật các tuyến phải có đủ năng lực thực hiện, tiến tới bảo đảm chất lượng
từng dịch vụ kỹ thuật đồng đều giữa các tuyến.
Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển y học cổ truyền, tăng
cường kết hợp với y học hiện đại trong phòng bệnh, khám, chữa bệnh, phục hồi
chức năng, nâng cao sức khoẻ.
Phát triển đồng bộ, tạo môi trường bình đẳng cả về hỗ trợ, chuyển giao
chuyên môn kỹ thuật giữa các cơ sở khám, chữa bệnh công và tư.
Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức; xây dựng bệnh viện
xanh - sạch - đẹp, an toàn, văn minh, hướng tới thực hiện chăm sóc toàn diện người
bệnh.
Tập trung đẩy nhanh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin
từ quản lý bệnh viện, giám định bảo hiểm y tế, bệnh án điện tử tới chẩn đoán,
xét nghiệm, khám, chữa bệnh từ xa.
Tăng cường khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách. Phát huy thế
mạnh y tế của lực lượng vũ trang; triển khai các mô hình tổ chức linh hoạt, phù
hợp với điều kiện từng nơi để bảo đảm dịch vụ khám, chữa bệnh cho người dân
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
3.5. Đẩy mạnh phát triển ngành Dược và thiết bị y tế
Bảo đảm thuốc đủ về số lượng, tốt về chất lượng, giá hợp lý, đáp ứng nhu
cầu phòng, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khuyến khích sử dụng thuốc sản
xuất trong nước.
Tăng cường đấu thầu tập trung, giảm giá thuốc, thiết bị, hoá chất, vật tư y
tế, bảo đảm công khai, minh bạch. Hoàn thiện cơ chế đầu tư, mua sắm và kiểm
soát chặt chẽ chất lượng, chống thất thoát, lãng phí.
Quản lý chặt chẽ nhập khẩu thuốc. Củng cố hệ thống phân phối thuốc,
bảo đảm kỷ cương pháp luật, hiệu quả, chuyên nghiệp. Thực hiện nghiêm các

27
quy định pháp luật về quyền phân phối thuốc, không để các doanh nghiệp không
được phép nhưng vẫn thực hiện phân phối thuốc trá hình. Tập trung quản lý hệ
thống bán buôn, bán lẻ, các nhà thuốc trong và ngoài bệnh viện. Thực hiện đồng
bộ các giải pháp để truy xuất nguồn gốc thuốc, chấn chỉnh tình trạng bán thuốc
không theo đơn. Ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện kết nối mạng, bảo
đảm kiểm soát xuất xứ, giá cả thuốc được mua vào, bán ra ở mỗi nhà thuốc trên
toàn quốc.
Nâng cao năng lực nghiên cứu, sản xuất thuốc, vắc xin. Đầu tư đủ nguồn
lực để làm chủ công nghệ sản xuất vắc xin thế hệ mới, vắc xin tích hợp nhiều
loại trong một, cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêm chủng mở rộng trong nước, tiến tới
xuất khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất thuốc, vắc xin, sinh
phẩm, thiết bị, vật tư y tế, tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị dược phẩm
trong khu vực và trên thế giới.
Đẩy mạnh nghiên cứu, kiểm nghiệm, chứng minh tác dụng của các
phương thức chẩn trị, điều trị không dùng thuốc, các bài thuốc, vị thuốc y học cổ
truyền. Hỗ trợ phát hiện, đăng ký, công nhận sở hữu trí tuệ và thương mại hoá
các bài thuốc y học cổ truyền; tôn vinh và bảo đảm quyền lợi của các danh y.
Có chính sách đặc thù trong phát triển dược liệu, nhất là các dược liệu quý
hiếm; ưu tiên đầu tư và tập trung phát triển các vùng chuyên canh, hình thành
các chuỗi liên kết trong sản xuất, bảo quản, chế biến dược liệu.
Đẩy mạnh phòng, chống buôn lậu, sản xuất kinh doanh thuốc, thực phẩm
chức năng giả, kém chất lượng. Kiểm soát chặt chẽ thực phẩm chức năng và hàng
hoá có nguy cơ gây hại cho sức khoẻ. Tăng cường kiểm soát chất lượng dược liệu
ngoại nhập; giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn dược liệu của nước ngoài.
3.6. Phát triển nhân lực và khoa học - công nghệ y tế
Đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo nhân lực y tế, đáp ứng yêu
cầu cả về y đức và chuyên môn trong điều kiện chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế. Khẩn trương hoàn thiện các quy định pháp luật và triển khai khung cơ
cấu hệ thống giáo dục quốc dân, khung trình độ quốc gia trong đào tạo nhân lực
y tế, phát huy trách nhiệm, vai trò các bệnh viện trong đào tạo, phát triển bệnh
viện đại học.

28
Thành lập hội đồng y khoa quốc gia, tổ chức thi, cấp chứng chỉ hành nghề
có thời hạn phù hợp thông lệ quốc tế. Thí điểm giao cho cơ quan độc lập tổ chức
cấp chứng chỉ hành nghề.
Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học - công nghệ y tế, dược, y sinh
học. Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến, phát triển đội ngũ
cán bộ chuyên ngành thiết bị y tế. Có cơ chế giao trách nhiệm, tôn vinh các bệnh
viện, viện nghiên cứu, các bác sĩ, nhà khoa học tham gia đào tạo nhân lực y tế.
Thực hiện đãi ngộ xứng đáng đối với cán bộ y tế. Xác định bậc lương
khởi điểm phù hợp với thời gian đào tạo. Có các chính sách đủ mạnh để khuyến
khích người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở, các vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo và trong các lĩnh vực y tế dự phòng, pháp
y, tâm thần, lao, phong,...
Tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức
nghề nghiệp cho cán bộ y tế. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy chế chuyên
môn và đạo đức nghề nghiệp, xâm hại đến nhân phẩm và sức khoẻ thầy thuốc;
bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn cơ sở y tế.
3.7. Đổi mới hệ thống quản lý và cung cấp dịch vụ y tế
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế theo hướng tinh gọn,
hiệu lực, hiệu quả và hội nhập quốc tế. Bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất xuyên
suốt về chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành từ Trung ương tới địa phương trong
phạm vi cả nước, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính
quyền địa phương.
Tiếp tục sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp
tỉnh và Trung ương, hình thành hệ thống trung tâm kiểm soát dịch bệnh đồng bộ
ở tất cả các cấp và kết nối với mạng lưới kiểm soát bệnh tật thế giới.
Sắp xếp lại các đơn vị làm nhiệm vụ kiểm nghiệm, kiểm định để hình
thành hệ thống cơ quan kiểm soát dược phẩm và thực phẩm, thiết bị y tế phù
hợp, hội nhập quốc tế.
Tổ chức hệ thống cung ứng dịch vụ y tế theo 3 cấp chuyên môn. Tổ chức
hệ thống trạm y tế xã, phường, thị trấn gắn với y tế học đường và phù hợp với
đặc điểm của từng địa phương. Phát triển mạnh hệ thống cấp cứu tại cộng đồng

29
và trước khi vào bệnh viện.
Về cơ bản, các bộ (trừ Bộ Quốc phòng, Bộ Công an), các cơ quan ngang
bộ không chủ quản các bệnh viện; Bộ Y tế chỉ chủ quản một số rất ít bệnh viện
đầu ngành. Tập trung hoàn thiện bệnh viện đa khoa hoàn chỉnh trước khi thành
lập mới các bệnh viện chuyên khoa ở cấp tỉnh. Điều chỉnh, sắp xếp các bệnh
viện, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận thuận lợi về mặt địa lý. Thí điểm
hình thành chuỗi các bệnh viện. Khuyến khích phát triển mạnh mẽ hệ thống
bệnh viện, cơ sở chăm sóc sức khoẻ, điều dưỡng ngoài công lập, đặc biệt là các
mô hình hoạt động không vì lợi nhuận.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Tăng
cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm. Đẩy mạnh cải cách hành
chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ, giảm
phiền hà, tạo thuận lợi cho người dân.
3.8. Xây dựng cơ chế tự chủ, đổi mới mạnh mẽ tài chính y tế
Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý và tổ chức hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp y tế công lập. Đẩy mạnh thực hiện quyền tự chủ về nhiệm vụ chuyên
môn, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính gắn với trách nhiệm giải trình, công
khai, minh bạch. Áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp y tế
công lập trong bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như quản trị doanh
nghiệp. Có chính sách ưu đãi về đất, tín dụng… để khuyến khích các cơ sở y tế
đầu tư mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá, đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh của
nhân dân, kể cả của người có thu nhập cao, người nước ngoài.
Tăng cường đầu tư và đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại ngân sách nhà nước
trong lĩnh vực y tế để có nguồn lực triển khai toàn diện công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân, nhất là đối với các đối tượng chính sách,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới, hải đảo.
Ưu tiên bố trí ngân sách, bảo đảm tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ
tăng chi ngân sách nhà nước. Tập trung ngân sách nhà nước cho y tế dự phòng,
y tế cơ sở, bệnh viện ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo, các lĩnh vực phong,
lao, tâm thần...; dành ít nhất 30% ngân sách y tế cho công tác y tế dự phòng.

30
Tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các hàng hoá có hại cho sức khoẻ như
đồ uống có cồn, có ga, thuốc lá để hạn chế tiêu dùng.
Thực hiện nguyên tắc y tế công cộng do ngân sách nhà nước bảo đảm là chủ
yếu. Khám, chữa bệnh do bảo hiểm y tế và người dân chi trả. Chăm sóc sức khoẻ
ban đầu do bảo hiểm y tế, người dân và ngân sách nhà nước cùng chi trả; bảo hiểm
y tế đối với người lao động phải do người sử dụng lao động và người lao động
cùng đóng góp; ngân sách nhà nước bảo đảm đối với một số đối tượng chính sách.
Ban hành "Gói dịch vụ y tế cơ bản do bảo hiểm y tế chi trả" phù hợp với khả năng
chi trả của quỹ bảo hiểm y tế và "Gói dịch vụ y tế cơ bản do Nhà nước chi trả" phù
hợp với khả năng của ngân sách nhà nước; đồng thời huy động các nguồn lực để
thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu, quản lý sức khoẻ người dân.
Ngân sách nhà nước, bảo hiểm y tế bảo đảm chi trả cho các dịch vụ ở mức
cơ bản; người sử dụng dịch vụ chi trả cho phần vượt mức. Có cơ chế giá dịch vụ
và cơ chế đồng chi trả phù hợp nhằm khuyến khích người dân khám, chữa bệnh
ở tuyến dưới và các cơ sở y tế ở tuyến trên tập trung cung cấp các dịch vụ mà
tuyến dưới chưa bảo đảm được.
Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực phát triển hệ thống y tế. Đa
dạng hoá các hình thức hợp tác công - tư, bảo đảm minh bạch, công khai, cạnh
tranh bình đẳng, không phân biệt công - tư trong cung cấp dịch vụ y tế. Khuyến
khích các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở y tế (kể cả trong chăm sóc sức
khoẻ ban đầu), tập trung vào cung cấp dịch vụ cao cấp, theo yêu cầu. Các cơ sở
y tế, cơ sở chăm sóc người cao tuổi hoạt động không vì lợi nhuận được miễn,
giảm thuế theo quy định của pháp luật.
Tăng cường quản lý nhà nước, xây dựng và thực hiện các giải pháp đồng
bộ nhằm phòng, chống, ngăn chặn và chấm dứt tình trạng lợi dụng chủ trương
xã hội hoá để lạm dụng các nguồn lực công phục vụ các "nhóm lợi ích", tạo ra
bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ y tế.
Từng bước chuyển chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cấp trực tiếp
cho cơ sở khám, chữa bệnh sang hỗ trợ người tham gia bảo hiểm y tế gắn với lộ
trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế. Nâng cao hiệu quả quỹ hỗ trợ khám,
chữa bệnh cho người nghèo. Đẩy mạnh phương thức nhà nước giao nhiệm vụ,
đặt hàng và thực hiện cơ chế giá gắn với chất lượng dịch vụ, khuyến khích sử

31
dụng dịch vụ y tế ở tuyến dưới.
Triển khai đồng bộ các giải pháp để thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
Điều chỉnh mức đóng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, thu nhập của
người dân và chất lượng dịch vụ. Đa dạng các gói bảo hiểm y tế. Tăng cường
liên kết, hợp tác giữa bảo hiểm y tế xã hội với bảo hiểm y tế thương mại. Nâng
cao năng lực, chất lượng giám định bảo hiểm y tế bảo đảm khách quan, minh
bạch. Thực hiện các giải pháp đồng bộ chống lạm dụng, trục lợi, bảo đảm cân
đối quỹ bảo hiểm y tế và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế, cơ sở y tế.
3.9.Chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
Tăng cường hợp tác và chủ động hội nhập, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, đào
tạo và tài chính của các nước, các tổ chức quốc tế. Tăng cường hợp tác quốc tế
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực y dược.
Chủ động đàm phán và thực hiện có hiệu quả các hiệp định hợp tác song
phương và đa phương về y tế. Tích cực tham gia xây dựng các chính sách, giải
quyết các vấn đề y tế khu vực và toàn cầu, nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của y
học Việt Nam. Tăng cường quảng bá, đưa y dược cổ truyền Việt Nam ra các
nước trên thế giới.
Hài hoà hoá các thủ tục, quy trình với ASEAN và thế giới về y tế. Tăng
cường xây dựng và áp dụng các chuẩn mực y tế trong nước theo hướng cập nhật
với thế giới và khu vực. Phấn đấu hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững
của Liên hợp quốc về sức khoẻ; hoàn thành trước thời hạn một số mục tiêu.
IV. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC TRONG QUÁ
TRÌNH THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH
CỦA NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN Y TẾ
4.1. Thành tựu
Sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII và các chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân đã đạt được những kết quả to lớn, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hệ thống chính sách, pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Mạng lưới cơ
sở y tế phát triển rộng khắp. Đội ngũ thầy thuốc và cán bộ, nhân viên y tế phát

32
triển cả về số lượng và chất lượng. Ngân sách nhà nước và nguồn lực xã hội đầu
tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân ngày càng tăng. Chính
sách tài chính y tế có nhiều đổi mới; diện bao phủ bảo hiểm y tế ngày càng được
mở rộng. Tỉ lệ chi tiền túi của hộ gia đình cho khám, chữa bệnh giảm nhanh.
Ứng dụng công nghệ thông tin từng bước được đẩy mạnh.
Y tế dự phòng được tăng cường, đã ngăn chặn được các bệnh dịch nguy
hiểm, không để xảy ra dịch lớn. Các yếu tố ảnh hưởng tới sức khoẻ như môi
trường, thực phẩm, rèn luyện thân thể, đời sống tinh thần… được quan tâm hơn.
Năng lực và chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, tiếp cận được hầu hết
các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Lĩnh vực dược, thiết bị y tế có bước tiến bộ.
Mô hình kết hợp quân - dân y được đẩy mạnh, phát huy hiệu quả, đặc biệt là ở
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Các chỉ số sức khoẻ, tuổi thọ bình quân được cải thiện. Việt Nam được
các tổ chức quốc tế đánh giá là điểm sáng về thực hiện các Mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Đạo đức, phong cách, thái độ phục vụ, trình
độ chuyên môn của cán bộ y tế được chú trọng, nâng cao. Nhiều tấm gương y
bác sĩ tận tuỵ chăm sóc, cứu chữa người bệnh được xã hội trân trọng, ghi nhận.
4.2. Hạn chế
Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập. Chất lượng môi trường sống, làm việc, chế độ dinh
dưỡng, rèn luyện thân thể, văn hoá tinh thần... ở nhiều nơi chưa được chú
trọng, bảo đảm. Nhiều hành vi, thói quen ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ chưa
được khắc phục căn bản.
Hệ thống tổ chức y tế còn thiếu ổn định, hoạt động chưa thực sự hiệu quả,
đặc biệt là y tế dự phòng, y tế cơ sở và chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Chất lượng
dịch vụ, nhất là ở tuyến dưới chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng quá tải ở một số
bệnh viện tuyến trên chậm được khắc phục. Thái độ phục vụ thiếu chuẩn mực
của một bộ phận cán bộ y tế, một số vụ việc, sự cố y khoa gây phản cảm, bức
xúc trong xã hội. Lợi thế của y, dược cổ truyền, dược liệu dân tộc chưa được
phát huy tốt.
Quản lý nhà nước về y tế tư nhân, cung ứng thuốc, thiết bị y tế còn nhiều
yếu kém. Công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường còn

33
nhiều hạn chế. Công nghiệp dược, thiết bị y tế phát triển chậm. Đổi mới cơ chế
hoạt động, quản lý trong các cơ sở y tế công lập còn lúng túng. Đào tạo, sử
dụng, cơ cấu, chế độ đãi ngộ cán bộ y tế còn nhiều bất cập.
Chênh lệch chỉ số sức khoẻ giữa các vùng, miền còn lớn. Tỉ lệ suy dinh
dưỡng thể thấp còi còn cao. Tầm vóc người Việt Nam chậm được cải thiện. Số
năm sống khoẻ chưa tăng tương ứng với tuổi thọ.
Nguyên nhân hạn chế
- Năng lực tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
nước còn hạn chế. Nhận thức về vai trò, vị trí của công tác bảo vệ, chăm sóc,
nâng cao sức khoẻ nhân dân có nơi, có lúc còn chưa đầy đủ, sâu sắc; chưa coi
công tác này là một trụ cột trong phát triển nhanh, bền vững đất nước.
- Trong nhận thức và hành động, chưa thực sự coi y tế cơ sở, y tế dự
phòng là gốc, là căn bản. Tư duy bao cấp, ỷ lại vào Nhà nước còn nặng, thiếu cơ
chế đồng bộ, phù hợp để người dân tham gia bảo hiểm y tế và thu hút mạnh mẽ
nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư phát triển y tế.
Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp. Nguồn lực tài chính chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Ngân sách nhà
nước còn hạn hẹp, thu nhập của người dân còn thấp, tiềm lực kinh tế chưa đủ
mạnh, trong khi nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân ngày càng cao, đa
dạng; yêu cầu đầu tư cho y tế lớn. Dược phẩm, thiết bị y tế chủ yếu phải nhập
khẩu, theo mặt bằng giá quốc tế.
Việc đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập chậm, còn nhiều lúng túng,
chưa có sự chỉ đạo tập trung quyết liệt. Cơ chế, chính sách về bảo hiểm y tế, giá
dịch vụ, tổ chức, biên chế... còn thiếu đồng bộ.
Tác động mặt trái của cơ chế thị trường, cạnh tranh thiếu bình đẳng; còn
có sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa các cơ sở y tế công lập với tư nhân, giữa
các bộ phận trong cùng cơ sở. Công tác giáo dục y đức ở nhiều nơi bị buông
lỏng. Một số nơi đề cao, tuyệt đối hoá cơ chế thị trường, coi người bệnh chỉ là
khách hàng.
V. CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP ĐIỀU DƯỠNG HẠNG III
Chức danh nghề nghiệp điều dưỡng Hạng III được quy định tại Thông tư liên tịch

34
26/2015/TTLT-BYT-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp điều
dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y do Bộ trưởng Bộ Y tế - Bộ Nội vụ ban hành.
5.1. Đạo đức nghề nghiệp và nhiệm vụ của điều dưỡng Hạng III
a. Đạo đức nghề nghiệp
Điều 3, Thông tư liên tịch số 26, quy định Tiêu chuẩn chung về đạo đức
nghề nghiệp:
1. Tận tụy phục vụ sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
2. Hiểu biết và thực hiện đúng quy tắc ứng xử của viên chức ngành y tế.
3. Thực hành nghề nghiệp theo đúng quy chế, quy định, quy trình chuyên
môn kỹ thuật và các quy định khác của pháp luật.
4. Không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
5. Tôn trọng quyền của người bệnh, tôn trọng phụ nữ, quyền con người;
6. Trung thực, khách quan, công bằng, trách nhiệm, đoàn kết, tôn trọng và
hợp tác với đồng nghiệp trong thực hành nghề nghiệp.
b. Nhiệm vụ
1) Chăm sóc người bệnh tại cơ sở y tế:
Khám, nhận định, xác định vấn đề, lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá
kết quả chăm sóc người bệnh;
Theo dõi, phát hiện, ra quyết định, xử trí về chăm sóc và báo cáo kịp thời
những diễn biến bất thường của người bệnh cho bác sĩ điều trị;
Thực hiện và kiểm tra, đánh giá công tác chăm sóc giảm nhẹ cho người
bệnh giai đoạn cuối và hỗ trợ tâm lý cho người nhà người bệnh;
Thực hiện kỹ thuật điều dưỡng cơ bản, kỹ thuật điều dưỡng chuyên sâu,
phức tạp, kỹ thuật phục hồi chức năng đối với người bệnh;
Nhận định nhu cầu dinh dưỡng, thực hiện và kiểm tra đánh giá việc thực
hiện chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh;
Thực hiện và tham gia việc ghi chép hồ sơ theo quy định;
Tham gia xây dựng và thực hiện quy trình chăm sóc người bệnh.

35
2) Sơ cứu, cấp cứu:
Chuẩn bị sẵn sàng thuốc và phương tiện cấp cứu;
Thực hiện kỹ thuật sơ cứu, cấp cứu, xử trí trong những tình huống khẩn
cấp như: sốc phản vệ, cấp cứu người bệnh ngừng tim, ngừng thở và một số kỹ
thuật sơ cứu, cấp cứu chuyên khoa;
Tham gia cấp cứu dịch bệnh và thảm họa.
3) Truyền thông, tư vấn, giáo dục sức khỏe:
Đánh giá nhu cầu tư vấn, giáo dục sức khỏe đối với người bệnh;
Hướng dẫn người bệnh về chăm sóc và phòng bệnh;
Tham gia xây dựng nội dung, chương trình, tài liệu và thực hiện truyền
thông, tư vấn, giáo dục sức khỏe;
Đánh giá công tác truyền thông, tư vấn, giáo dục sức khỏe.
4) Chăm sóc sức khỏe cộng đồng:
Truyền thông, giáo dục vệ sinh phòng bệnh tại cơ sở y tế và cộng đồng;
Thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu và các chương trình mục tiêu quốc gia;
Thực hiện kỹ thuật chăm sóc điều dưỡng tại nhà: tiêm, truyền, chăm sóc
vết thương, chăm sóc người bệnh có dẫn lưu và chăm sóc phục hồi chức năng.
5) Bảo vệ và thực hiện quyền người bệnh:
Thực hiện quyền của người bệnh, biện hộ quyền hợp pháp của người bệnh
theo quy định của pháp luật;
Thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho người bệnh.
6) Phối hợp, hỗ trợ công tác điều trị:
Phối hợp với bác sĩ điều trị phân cấp chăm sóc và tổ chức thực hiện chăm
sóc người bệnh;
Phối hợp với bác sĩ điều trị chuẩn bị và hỗ trợ cho người bệnh chuyển
khoa, chuyển cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, ra viện;
Hỗ trợ, giám sát và chịu trách nhiệm về chuyên môn đối với việc thực
hiện nhiệm vụ của điều dưỡng cấp thấp hơn;

36
Thực hiện quản lý hồ sơ, bệnh án, buồng bệnh, người bệnh, thuốc, trang
thiết bị y tế, vật tư tiêu hao.
7) Đào tạo, nghiên cứu và phát triển nghề nghiệp:
Đào tạo và hướng dẫn thực hành cho học sinh, sinh viên và viên chức điều dưỡng;
Thực hiện nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong chăm
sóc người bệnh và áp dụng cải tiến chất lượng trong chăm sóc người bệnh;
Tham gia xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo liên tục đối với viên
chức điều dưỡng.
5.2. Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng
a) Tốt nghiệp đại học trở lên chuyên ngành điều dưỡng;
b) Có trình độ ngoại ngữ bậc 2 trở lên theo quy định tại Thông tư số
01/2014/TT-BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc có chứng
chỉ tiếng dân tộc đối với vị trí việc làm có yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc;
c) Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ
bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11 tháng 3 năm
2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chuẩn kỹ năng sử dụng công
nghệ thông tin.
5. 3. Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
a) Hiểu biết về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân;
b) Hiểu biết về sức khỏe, bệnh tật của cá nhân, gia đình và cộng đồng, sử
dụng quy trình điều dưỡng làm cơ sở để lập kế hoạch chăm sóc và thực hiện can
thiệp điều dưỡng bảo đảm an toàn cho người bệnh và cộng đồng;
c) Thực hiện kỹ thuật điều dưỡng cơ bản, sơ cứu, cấp cứu và đáp ứng hiệu
quả khi có tình huống cấp cứu, dịch bệnh và thảm họa;
d) Có kỹ năng tư vấn, giáo dục sức khỏe và giao tiếp hiệu quả với người
bệnh và cộng đồng;

37
đ) Có kỹ năng đào tạo, huấn luyện, nghiên cứu khoa học, hợp tác với
đồng nghiệp và phát triển nghề nghiệp;
e) Viên chức thăng hạng từ chức danh nghề nghiệp điều dưỡng hạng IV lên
chức danh nghề nghiệp điều dưỡng hạng III phải có thời gian giữ chức danh nghề
nghiệp điều dưỡng hạng IV tối thiểu là 02 năm đối với trường hợp khi tuyển dụng
lần đầu có trình độ tốt nghiệp điều dưỡng cao đẳng hoặc 03 năm đối với trường
hợp khi tuyển dụng lần đầu có trình độ tốt nghiệp điều dưỡng trung cấp.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Ngoài những vấn đề về y tế nêu trên, theo anh (chị), ngành y tế còn có
những vấn đề nào khác cần được quan tâm?
Câu 2. Những tiêu chuẩn của Điều dưỡng hạng III
Câu 3. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay được
đặt ra như thế nào? Liên hệ với đạo đức nghề nghiệp của ngành y.
Câu 4. Nội dung đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đến năm 2020 tầm nhìn 2030.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ban Khoa giáo Trung ương: Một số văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam
về công tác khoa giáo: Chăm sóc sức khỏe nhân dân; dân số-gia đình và trẻ
em; thể dục thể thao, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
2. Bộ Nội vụ: Thông tư Số 12/2012/TT-BNV ngày 18 tháng 12 năm 2012 Quy
định về chức danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với
viên chức
3. Bộ Nội vụ: Thông tư Số 03/2019/TT-BNV ngày 14 tháng 5 năm 2019 Thông
tư sửa đổi, bổ sung một số điều về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng
ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và thực hiện
chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập.
4. Bộ Y tế - Bộ Nội vụ: Thông tư liên tịch 10/2015/TTLT-BYT-BNV quy định
mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp bác sĩ, bác sĩ y học dự phòng, y sĩ
5. Bộ Y tế - Bộ Nội vụ: Thông tư liên tịch số 56/2015/TTLT-BYT-BNV ngày

38
29/12/2015 về tiêu chuẩn, điều kiện, nội dung, hình thức thi thăng hạng chức
danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành y tế.
6. Bộ Y tế: Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Nxb Y học, Hà Nội, 1996
7. Chính phủ: Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10/01/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn đến năm 2030
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 46-NĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 23-5-
2005 về công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
10.Trương Thị Thanh Quý: Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng
hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân, http://www.tapchicongsan.org.vn,
cập nhật 17/6/2016

Chuyên đề 2
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC Y TẾ

39
THỜI LƯỢNG HỌC TẬP
Tổng số tiết: 8 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chuyên đề, học viên cần đạt được:
1. Trình bày được khái niệm cải cách hành chính, vai trò và mục tiêu của cải
cách hành chính;
2. Trình bày được được các xu thế cải cách hành chính của các nước phát triển
và khả năng áp dụng ở Việt Nam;
3. Trình bày được những vấn đề cơ bản trong chương trình cải cách hành chính
ở Việt Nam đang thực hiện;
4. Trình bày được những đổi mới trong cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp công;
5. Trình bày được vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực y tế;
6. Trên cơ sở, trình bày được những vấn đề trên, học viên vận dụng vào quá
trình công tác, trong đó có việc chung tay gióp phần thực hiện các cải cách hành
chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong đơn vị.
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm cải cách và cải cách hành chính nhà nước
Theo cách hiểu chung nhất, cải cách là những thay đổi có tính hệ thống và có
mục đích nhằm làm cho một hệ thống hoạt động tốt hơn. Điều đó làm phân biệt cải
cách với những hoạt động khác cũng chỉ sự biến đổi như sáng kiến, thay đổi,...
Cải cách hành chính, theo đó, được hiểu là những thay đổi có tính hệ
thống, lâu dài và có mục đích nhằm làm cho hệ thống hành chính nhà nước hoạt
động tốt hơn, thực hiện tốt hơn các chức năng, nhiệm vụ quản lý xã hội của
mình. Như vậy, cải cách hành chính nhằm thay đổi và làm hợp lý hóa bộ máy
hành chính, với mục đích tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả quản lý nhànước.

40
Cải cách hành chính nhà nước là một trong những nội dung quan trọng
của khoa học hành chính, có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn mang tính
thực tiễn cao. Mọi hoạt động cải cách hành chính nhà nước đều hướng tới việc
nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhằm đáp ứng
các yêu cầu quản lý cụ thể của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển. Vì
bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận không tách rời của bộ máy nhà
nước nói riêng và hệ thống chính trị của một quốc gia nói chung nên cách thức
tổ chức và hoạt động của nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố chính trị, mức
độ phát triển kinh tế-xã hội, cũng như các yếu tố mang tính chất đặc trưng khác
của mỗi quốc gia như truyền thống văn hoá, lịch sử,...
Cải cách hành chính nhà nước ở các nước khác nhau, vì vậy, cũng mang
những sắc thái riêng, được tiến hành trên những cấp độ khác nhau, với những nội
dung khác nhau. Ở Việt Nam, có thể xem cải cách hành chính nhà nước là một bộ
phận quan trọng của công cuộc đổi mới, là trọng tâm của tiến trình xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm các thay đổi
có chủ đích và lâu dài nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước để đáp ứng những đòi hỏi của tiến trình đổi mới.
1.2. Mục đích và vai trò của cải cách hành chính nhà nước
Hoạt động hành chính nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm trật tự của xã hội, duy trì sự phát triển xã hội theo định hướng của nhà
nước, qua đó hiện thực hóa mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền đại diện cho
lợi ích của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước là yêu cầu và mong muốn của mọi
quốc gia. Cải cách hành chính nhà nước, xét cho cùng, không có mục đích tự
thân mà nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính
nhà nước trong quá trình quản lý các mặt của đời sống xã hội, trước hết là quản
lý, định hướng và điều tiết sự phát triển kinh tế - xã hội và duy trì trật tự của xã
hội theo mong muốn của Nhà nước.
Công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng và lãnh đạo ở nước
ta gần 30 năm qua đã tạo nên những thay đổi vượt bậc trong đời sống kinh tế -xã
hội của đất nước. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp đã từng
bước vững chắc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đời

41
sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, duy trì được định hướng phát
triển xã hội chủ nghĩa. Những thành công kể trên có nhiều nguyên nhân, trong
đó có một nguyên nhân rất quan trọng là trong toàn bộ tiến trình đổi mới đất
nước từ năm 1986 cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến cải
cách nền hành chính nhà nước. Cải cách hành chính nhà nước đã trở thành một
trong những đòi hỏi khách quan của sự phát triển và đổi mới. Khẳng định tầm
quan trọng của cải cách hành chính nhà nước với tư cách là một bộ phận không
tách rời và quyết định thành công của đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định: cải cách hành chính là nội dung trọng tâm của công cuộc đổi mới và cải
cách nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
II. VẬN DỤNG CÁC KINH NGHIỆM CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC CỦA CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN VÀO CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Ở VIỆT NAM
2.1. Kinh nghiệm cải cách hành chính ở các nước phát triển
Ngày nay, cải cách hành chính nhà nước là một lĩnh vực được hầu hết các
nước trên thế giới quan tâm. Nhiều quốc gia coi cải cách hành chính là một
yếu tố hết sức quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng
thời thông qua cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước; tăng khả năng phát triển kinh tế -xã hội. Tuy nhiên,
những nội dung cải cách hành chính được đề cập tới không giống nhau ở các
quốc gia do có sự khác biệt về chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế -
xã hội cũng như truyền thống, phong tục, tập quán,... Tùy từng điều kiện
phát triển của mỗi quốc gia, mà việc cải cách hành chính tập trung vào
những khâu, những bộ phận nhất định.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy một trong những xu hướng chung của cải cách
hành chính trên thế giới hiện nay là hướng tới làm thế nào xây dựng một chính phủ
gọn nhẹ hơn để có thể vận động một cách nhanh nhạy hơn và hiệu quả hơn nhằm
tăng năng lực cạnh tranh của nhà nước trong bối cảnh toàn cầuhoá. Xu hướng này
ở các nước phát triển thường được thể hiện qua các thuật ngữ “Tái tạo lại chính
phủ“(Mỹ), “Mô hình quản lý mới“ (CHLB Đức), “Hành chính công định hướng
hiệu quả” (Thụy Sĩ),... Cuộc cải cách này không chỉ mang ý nghĩa của một cuộc
thay đổi nội bộ mà còn phản ánh một xu hướng mới trong hoạt động của nhà nước:

42
nền hành chính không chỉ làm chức năng “cai trị” mà chuyển dần sang chức năng
“phục vụ”, cung cấp các dịch vụ công cho xã hội.
Mục tiêu tổng quát trong cải cách hành chính của tất cả các nước trên thế
giới là hướng tới việc xây dựng một bộ máy hành chính gọn nhẹ hơn, hoạt động
hiệu lực và hiệu quả hơn, hướng tới phục vụ tốt hơn các nhu cầu và lợi ích hợp
pháp của mỗi công dân và cả xã hội. Xu hướng chủ đạo của các cuộc cải cách
này là chuyển đổi nền hành chính công truyền thống, được xây dựng trên nền
tảng những nguyên tắc tổ chức cơ bản của mô hình “bộ máy thư lại” của Max
Weber sang xây dựng mô hình “quản lý công mới”. Đây là xu hướng mới xuất
hiện vào cuối những năm 70- đầu những năm 80 của thế kỷ XX ở các nước phát
triển. Nội dung của xu hướng cải cách này là đưa tinh thần doanh nghiệp và các
yếu tố của thị trường vào hoạt động của nhà nước, vận dụng các nguyên tắc và
phương pháp quản lý doanh nghiệp vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, đặc biệt vào quản lý cơ quan hành chính nhằm nâng cao tính kinh tế, hiệu
lực và hiệu quả của hoạt động hành chính.
Có thể nhận thấy những giải pháp chủ yếu ở các nước phát triển khi tiến
hành các hoạt động cải cách hành chính như sau:
- Tăng cường tư nhân hoá: Quá trình tư nhân hóa là giải pháp mạnh mẽ
nhất được áp dụng trong cải cách hành chính ở các nước phát triển. Các nhà
nước theo đuổi mô hình Quản lý công mới luôn tìm cách giảm bớt số lượng và
quy mô của các dịch vụ vốn trước đây do nhà nước tự mình cung cấp và chuyển
giao lại cho khu vực tư nhân đảm nhiệm. Quá trình tái cơ cấu khu vực công
bằng cách chuyển giao cho tư nhân và huy động các nguồn lực của tư nhân tham
gia cùng với nhà nước cung cấp dịch vụ công làm giảm gánh nặng chi ngân sách
của nhà nước, giảm nợ công, đồng thời giúp bộ máy nhà nước tái cơ cấu để trở
nên gọn nhẹ hơn, vận động nhanh nhạy hơn, đáp ứng các đòi hỏi của quá trình
toàn cầu hóa. Nhưng việc đẩy mạnh tư nhân hoá không đồng nghĩa với việc
giảm trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ cho công dân và xã
hội. Thay cho việc trực tiếp đứng ra cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công thiết
yếu (chèo thuyền), Nhà nước chỉ cần đứng ra điều tiết, đảm bảo sự có mặt của
các hàng hoá và dịch vụ công đó, việc trực tiếp cung ứng được giao cho các chủ
thể khác (lái thuyền).

43
- Hướng tới kiểm soát kết quả: Với mục đích tăng cường hiệu quả của
hoạt động hành chính nhà nước, thay cho việc kiểm soát nghiêm ngặt các yếu tố
đầu vào và quy trình, thủ tục như trong mô hình truyền thống, trong mô hình
Quản lý công mới người ta hướng tới việc kiểm soát đầu ra, đánh giá các hoạt
động theo kết quả thu được. Điều này giúp cho các cơ quan hành chính nhà
nước và cán bộ, công chức có thể phát huy tính sáng tạo trong quá trình thực thi
công vụ, cải tiến quy trình, thủ tục cho phù hợ với đặc điểm của mỗi công việc
và theo hoàn cảnh cụ thể để mang lại hiệu quả hoạt động cao nhất.
- Điều chỉnh mối quan hệ giữa trung ương và địa phương: Về nguyên tắc,
đó là quá trình hợp lý hoá mức độ phân cấp giữa chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau. Xu
hướng chung trong lĩnh vực cải cách này là đẩy mạnh quá trình phân quyền cho
địa phương để tăng tính chủ động, sáng tạo cho địa phương. Nhiều nước đã áp
dụng nguyên tắc “tự quản địa phương” cho phép các địa phương tự quyết định
các vấn đề liên quan tới công việc của địa phương mình và chỉ khi nào cấp dưới
không thể hoàn thành được nhiệm vụ thì cấp trên mới tiến hành can thiệp.
- Phi quy chế hoá: Trong quá trình chuyển từ việc giám sát đầu vào và sự
tuân thủ quy trình sang việc giám sát đầu ra, đánh giá hoạt động thông qua kết
quả hoạt động, tính chủ động của cơ quan nhà nước và người công chức được
nâng lên. Xu hướng này dẫn tới việc cần phải loại bỏ đi các quy định vốn cứng
nhắc, phức tạp trong các quy trình xử lý công việc, tạo thêm không gian cho
người công chức thể hiện năng lực giải quyết vấn đề của mình.
- Cấu trúc tổ chức của bộ máy hành chính: cũng được đổi mới theo hướng
“phẳng” hơn, thay cho bộ máy quan liêu đồ sộ, hình tháp trước đây. Một trong
những giải pháp để thực hiện hướng đi này là việc hình thành các nhóm chuyên
gia kiểu dự án để giải quyết các vấn đề và tăng cường thông tin theo chiều ngang.
- Cải cách chế độ công vụ, công chức: Trong lĩnh vực nhân sự, các cơ
quan nhà nước đưa các yếu tố của mô hình “quản lý nguồn nhân lực” từ lâu đã
là một động lực quan trọng trong khu vực tư nhân vào khu vực nhà nước thay
thế cho mô hình „quản trị nhân sự truyền thống“. Quá trình thay đổi này khiến
cho đội ngũ công chức hoạt động tích cực hơn và mang lại hiệu quả hoạt động
cao hơn. Đồng thời, việc giao lưu nhân sự giữa khu vực công và khu vực tư trở

44
nên dễ dàng hơn và nhờ đó những ý tưởng quản lý theo kiểu doanh nghiệp được
vận dụng vào khu vực nhà nước cũng ngày càng nhiều hơn.
- Cải cách tài chính công: Ở nhiều nước theo mô hình quản lý mới, thay
cho việc cấp phát ngân sách hàng năm trên căn cứ vào biên chế, người ta đã tiến
hành cấp phát ngân sách theo chương trình, dự án cụ thể (trừ những chi tiêu tất
yếu và ổn định) nhằm tăng cường hiệu quả, tiết kiệm tiền thuế do nhân dân đóng
góp. Việc cấp phát ngân sách được kiểm tra rất chặt chẽ, đảm bảo những quy tắc
tài chính và coi trọng tính hiệu quả.
- Hiện đại hoá nền hành chính: Việc ứng dụng các thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại vào các hoạt động hành chính góp phần quan trọng làm giảm
số lượng nhân sự và nâng cao năng suất lao động trong các cơ quan nhà nước.
Ngoài ra, việc ứng dụng khoa học - công nghệ còn làm thay đổi cách thức làm
việc, ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng chuyên nghiệp.
2.2. Vận dụng vào cải cách hành chính ở Việt Nam
Cải cách hành chính nhà nước liên quan tới nhiều yếu tố mang tính nội tại
của từng quốc gia trong mỗi giai đoạn, do đó không có một nền hành chính
khuôn mẫu cho tất cả các nước. Cải cách hành chính nhà nước phải bắt nguồn từ
thực tiễn của mỗi quốc gia, phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển
kinh tế- xã hội và cả những yếu tố khác như truyền thống, văn hoá, lịch sử,…của
quốc gia đó. Tuy nhiên, những kinh nghiệm của các nước khác đều là những bài
học quan trọng, có thể tham khảo và vận dụng một cách thích hợp.
Mô hình “quản lý công mới” xuất hiện trong môi trường các nước phát
triển phản ánh một cách rõ nét những gì cần phải làm ở các nước này. Tuy
nhiên, việc ứng dụng mô hình này vào các nước đang phát triển nói chung và
Việt Nam nói riêng vẫn còn là vấn đề phải tranh luận không chỉ trong giới học
thuật, mà cả giữa các nhà nghiên cứu hành chính thực tiễn.
Các nước phát triển với truyền thống hành chính lâu đời, với hệ thống luật
pháp đã tương đối ổn định và đầy đủ, trình độ phát triển kinh tế-xã hội và tương
ứng với nó là ý thức dân chủ, ý thức pháp luật của đại bộ phận dân cư cũng như
đội ngũ cán bộ, công chức đã đạt tới mức độ tương đối cao khiến cho các giải
pháp cải cách hành chính nhà nước được áp dụng sẽ khác với ở các nước đang
phát triển.

45
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, cải cách hành chính là một quá
trình thay đổi có chủ định nhằm hoàn thiện các bộ phận của nền hành chính để
nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hành chính công trong
quản lý nhà nước và phục vụ nhân dân, góp phần thực hiện thành công công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng và Nhà nước ta đã xác định:
Cải cách hành chính phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt Nam, có
tham khảo kinh nghiệm của các nước. Việc nghiên cứu, vận dụng những bài học
kinh nghiệm từ các cuộc cải cách ở các nước sẽ góp phần quan trọng tạo nên
thành công của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
III. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1. Chương trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam (2011 - 2020)
a. Mục tiêu của cải cách hành chính ở Việt Nam
Thực hiện các mục tiêu chung đặt ra đối với công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước, trong giai đoạn 2011-2020, ba nhiệm vụ trọng tâm của cải cách
hành chính được Chính phủ xác định là cải cách thể chế hành chính nhà nước,
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính và nâng cao chất lượng cung
cấp dịch vụ công.
Những mục tiêu cụ thể được xác định trong giai đoạn 2011-2020 bao gồm:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực cho phát triểnđất nước.
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh
bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.
- Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới
cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính
dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ
quan hành chính nhà nước.
- Bảo đảm thực hiện trên thực tếquyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.

46
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng
lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụnhân dân và sự phát triển của đất nước.
b. Nội dung chương trình cải cách hành chính ở Việt Nam
- Cải cách thể chế hành chính nhà nước. Cải cách thể chế hành chính nhà
nước nhằm tạo ra hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động hành chính nhà
nước đầy đủ, chính xác, rõ ràng. Những nhiệm vụ chủ yếu của cải cách thể chế
hành chính nhà nước bao gồm:
+ Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đổi mới và nâng cao chất
lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng, ban hành
luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư và văn bản quy phạm pháp luật
của chính quyền địa phương nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng
bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật;
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, trước
hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng
trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã hội;
+ Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách
quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu
khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở hữu đất đai,
phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền của người sử
dụng đất;
+ Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là xác
định rõ vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà
nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản
trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh
doanh vốn nhà nước;
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng
quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng
các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh;
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt

47
động của các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp;
+ Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà
nước và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng
và về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước.
- Cải cách thủ tục hành chính. Cải cách thủ tục hành chính nhằm giải
quyết mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau và cơ quan nhà nước với
công dân và tổ chức trong xã hội theo hướng đơn giản, gọn nhẹ và công khai,
minh bạch. Những nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong cải cách thủ tục hành chính giai
đoạn 2011-2020 bao gồm:
+ Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực
quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp;
+ Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các
ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;
+ Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy
định của pháp luật;
+ Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức
thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ
chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà
nước; duy trì và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính;
+ Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể
chế, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với
doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và
chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ
tục hành chính; giảm mạnh các thủ tục hành chính hiện hành; công khai các chuẩn
mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện;
+ Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định
hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát

48
việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Lĩnh vực cải cách tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước hướng tới xây dựng một bộ máy hành chính đơn giản, gọn
nhẹ, vận hành thông suốt từ trung ương tới cơ sở với chức năng, nhiệm vụ giữa các
cơ quan hành chính nhà nước và các cấp hành chính không chồng chéo, trùng lắp.
Những nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong lĩnh vực này bao gồm:
+ Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu
tổ chức và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà
nước ở trung ương và địa để trên cơ sở đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng
chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chuyển
giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm
hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận;
+ Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính
quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định
đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng
mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp.
+ Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về tài nguyên,
khoáng sản quốc gia; quy hoạch và có định hướng phát triển; tăng cường giám
sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời, đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách
nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành;
+ Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà
nước; thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một
cửa liên thông tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn phòng Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân,
tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80%
vào năm 2020;
+ Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ công từng bước được
nâng cao, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự hài lòng của cá

49
nhân đối với dịch vụ do đơn vị sựnghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo
dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020.
- Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là yếu tố cơ bản, quyết
định tới hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
nói riêng và cả bộ máy hành chính nhà nước nói riêng. Do đó, đây là một trong
những nội dung được chú trọng nhất trong tiến trình cải cách hành chính ở nước
ta. Những nhiệm vụ chủ yếu đặt ra trong giai đoạn 2011-2020 trong lĩnh vực này
bao gồm:
+ Phấn đấu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ,công chức, viên chức có số
lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân
dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước;
+ Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức
tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ
nhân dân thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả;
+ Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn
nghiệp vụ của cán bộ,công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh
đạo,quản lý;
+ Xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí
việc làm;
+ Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm
vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển;
thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để
bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung
ương), giám đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống;
+ Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức
trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn
những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân;
quy định rõ nhiệm vụ,quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức tương ứng với
trách nhiệm và có chếtài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật,
vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức;

50
+ Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự
trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào
tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến
thức, kỹ năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm;
+ Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ
bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công;đến năm 2020, tiền lương của cán
bộ,công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán
bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội.
+ Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công
vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
- Cải cách tài chính công. Cải cách tài chính công trong tổng thể cải cách
hành chính có ý nghĩa quan trọng. Thực tiễn cho thấy các giải pháp ở các lĩnh
vực khác chi có thể được thực hiện tốt nếu gắn liền với một cơ chế tài chính
minh bạch và hiệu quả.
Những nhiệm vụ chính đặt ra đối với cải cách tài chính công giai đoạn
2011- 2020 bao gồm:
+ Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các
chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích
cực, bảo đảm tỷ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; dành nguồn lực cho con
người, nhất là cải cách chính sách tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm
dần bội chi ngân sách;
+ Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà
nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty; quản lý chặt chẽ việc vay và
trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn
an toàn;
+ Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng,
triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả
ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ
sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học,

51
công nghệ, các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ
chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và
công nghệ;
+ Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước,
tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế
cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát
đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính
nhà nước;
+ Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã
hội chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể
dục, thể thao, đồng thời đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của
các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh
giá dịch vụ sự nghiệp công phù hợp; chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các
cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ,công khai, minh bạch.
Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; nâng cao chất lượng
các cơ sở giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn
khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y
tế, khám, chữa bệnh; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
- Hiện đại hóa hành chính. Hiện đại hóa hành chính là xu hướng không
thể phủ nhận trong bối cảnh cách mạng khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ
hiện nay. Việc ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào hoạt động hành
chính nhà nước không chỉ làm tăng năng suất lao động mà còn góp phần quan
trọng làm thay đổi phương thức làm việc của cán bộ, công chức, hướng tới một
môi trường hành chính hiện đại. Những nhiệm vụ chủ yếu của hiện đại hóa hành
chính trong giai đoạn tới thể hiện trên các mặt:
+ Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành
chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin -
truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm
2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính
nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức
thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu
điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch

52
của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử,
mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết
các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành
chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người
dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau;
+ Ứng dụng công nghệ thông tin -truyền thông trong quy trình xử lý công
việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà
nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt
động dịch vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công;
+ Công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên mạng thông tin
điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Xây dựng và sử dụng thống nhất
biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức và
cá nhân, đáp ứng yêu cầu đơn giản và cải cách thủ tục hành chính;
+ Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan
hành chính nhà nước;
+ Xây dựng trụ sở cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện đại,
tập trung ở những nơi có điều kiện.
3.2. Đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập
Ngày 25 tháng 10 năm 2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung
ương khóa XII đã ra Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ
chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập, bao gồm những nội dung chính sau:
a. Quan điểm chỉ đạo
- Đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm ưu tiên hàng đầu, là nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách, vừa lâu dài của tất cả
các cấp uỷ đảng, chính quyền và toàn hệ thống chính trị.
- Nhà nước chăm lo, bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản,
thiết yếu, nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công cho
mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo,

53
vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp, ưu việt, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận
của các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các ngành, lĩnh vực và địa bàn mà
khu vực ngoài công lập làm được và làm tốt; huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường dịch vụ sự nghiệp
công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công
khai, minh bạch, không thương mại hoá. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa
các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập.
- Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong quá
trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi mới hệ thống chính trị và
cải cách hành chính, đồng thời có lộ trình và bước đi phù hợp, có trọng tâm,
trọng điểm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn để kịp
thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách.
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm toàn diện về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân
sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, phát huy vai trò giám sát của
người dân trong quá trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
b. Mục tiêu
- Mục tiêu tổng quát. Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các
đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự
chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then
chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công
cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối, khắc phục
tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lắp; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao
hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại
ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên
chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp
công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự
nghiệp công.

54
- Mục tiêu đến năm 2025, tầm nhìn 2030
+ Tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp công
lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm
2021. Chấm dứt số hợp đồng lao động không đúng quy định trong các đơn vị sự
nghiệp công lập (trừ các đơn vị bảo đảm tự chủ tài chính).
+ Phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính.
+ 100% đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện hoàn
thành chuyển đổi thành công ty cổ phần.
+ Tiếp tục giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho
đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2016 - 2020.
- Tầm nhìn đến năm 2030
+ Tiếp tục thực hiện việc giảm đầu mối, phấn đấu chỉ còn các đơn vị sự
nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ quản lý nhà nước và các
đơn vị cung ứng các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu.
+ Giảm 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so
với năm 2025.
+ Giảm bình quân 15% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự
nghiệp công lập so với giai đoạn 2021 - 2025.
c. Nhiệm vụ và giải pháp
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về mục tiêu, ý nghĩa,
yêu cầu, nội dung đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ
thống các đơn vị sự nghiệp công lập nhằm nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận ở
các ngành, các cấp, các đơn vị sự nghiệp và toàn xã hội trong việc thực hiện chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội
hoá dịch vụ sự nghiệp công.
Thứ hai, sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tiêu chí phân loại, điều kiện
thành lập, sáp nhập, hợp nhất, giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập theo từng
ngành, lĩnh vực. Trên cơ sở đó, sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập

55
của từng ngành, lĩnh vực theo nguyên tắc:
(1) Pháp luật chuyên ngành không quy định việc thành lập tổ chức bộ máy
các đơn vị sự nghiệp công lập;
(2) Trường hợp cần thiết phải thành lập mới đơn vị sự nghiệp công lập, thì
đơn vị đó phải tự bảo đảm toàn bộ về tài chính (trừ trường hợp phải thành lập
mới để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu);
(3) Một đơn vị sự nghiệp công lập có thể cung ứng nhiều dịch vụ sự
nghiệp công cùng loại nhằm giảm mạnh đầu mối, khắc phục chồng chéo, dàn
trải, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ;
(4) Cơ cấu lại hoặc giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động
không hiệu quả;
(5) Đẩy mạnh xã hội hoá, chuyển các đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự
nghiệp khác đủ điều kiện thành công ty cổ phần.
- Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập đối với lĩnh vực y tế
+ Tổ chức các cơ sở y tế theo hướng toàn diện, liên tục và lồng ghép theo
3 cấp: Chăm sóc ban đầu, chăm sóc cấp 2, chăm sóc cấp 3. Sắp xếp lại các đơn
vị làm nhiệm vụ kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm chuẩn thành đơn vị kiểm soát
dược phẩm, thực phẩm và thiết bị y tế.
+ Xây dựng một số bệnh viện hiện đại ngang tầm khu vực và quốc
tế. Sớm hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh
và Trung ương thành trung tâm phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh cùng cấp
trên cơ sở sáp nhập các tổ chức, đơn vị có cùng chức năng, nhiệm vụ và hoạt
động lồng ghép.
+ Thực hiện thống nhất mô hình mỗi cấp huyện chỉ có một trung tâm y tế
đa chức năng (trừ các huyện có bệnh viện đạt hạng II trở lên), bao gồm y tế dự
phòng, dân số, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng và các dịch vụ y tế
khác; trung tâm trực tiếp quản lý trạm y tế xã và phòng khám đa khoa khu vực
(nếu có). Rà soát, sắp xếp hợp lý các phòng khám đa khoa khu vực. Nơi đã có
cơ sở y tế trên địa bàn cấp xã thì có thể không thành lập trạm y tế xã.
+ Điều chỉnh, sắp xếp lại các bệnh viện bảo đảm mọi người dân đều có

56
thể tiếp cận thuận lợi về mặt địa lý. Chuyển dần các bệnh viện thuộc Bộ Y tế và
các bộ, cơ quan nhà nước ở Trung ương về địa phương quản lý (trừ các bệnh
viện thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; một số ít bệnh viện chuyên khoa đầu
ngành, bệnh viện của các trường đại học).
Thứ ba, quản lý biên chế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Đổi mới cơ chế xác định và giao biên chế theo hướng quản lý, giám sát
chặt chẽ biên chế của các đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước bảo
đảm toàn bộ hoặc một phần chi thường xuyên; đẩy mạnh thí điểm việc thi tuyển
và thực hiện thuê giám đốc điều hành tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Thực
hiện chế độ hợp đồng viên chức có thời hạn đối với những trường hợp tuyển
dụng mới (trừ các đơn vị sự nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn). Không thực hiện chế độ công chức
trong đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các đơn vị phục vụ nhiệm vụ chính trị và
phục vụ quản lý nhà nước). Thực hiện nghiêm việc đánh giá, phân loại viên
chức hằng năm theo quy định hiện hành để đưa ra khỏi đội ngũ những người 2
năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ.
- Chấm dứt việc tự phê duyệt và giao biên chế sự nghiệp vượt quá số
lượng được cơ quan có thẩm quyền giao hoặc thẩm định; có kế hoạch và giải
pháp để giải quyết dứt điểm số viên chức và số người lao động vượt quá số biên
chế được giao (trừ các đơn vị đã tự chủ tài chính). Các cơ quan, đơn vị chưa sử
dụng hết số biên chế được giao phải xem xét, cắt giảm phù hợp.
- Tổ chức phân loại viên chức theo vị trí việc làm và sắp xếp, bố trí lại cơ
cấu viên chức theo hướng vị trí chuyên môn, nghiệp vụ chiếm tỉ lệ ít nhất 65%.
Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ, bố trí, sử
dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ này.
- Quy định và thực hiện nghiêm về số lượng lãnh đạo cấp phó. Trong thời
gian thực hiện sắp xếp lại, số lượng cấp phó của các đơn vị sự nghiệp công lập
do sáp nhập, hợp nhất có thể cao hơn quy định, nhưng khi có cấp phó nghỉ hưu
hoặc điều chuyển công tác thì không được bổ sung; đồng thời phải có giải pháp
điều chuyển, sắp xếp lại số lượng cấp phó trong thời hạn tối đa 3 năm kể từ ngày
sáp nhập, hợp nhất. Trường hợp điều chuyển giữ chức vụ thấp hơn thì được bảo
lưu phụ cấp chức vụ đến hết thời hạn bổ nhiệm.

57
- Đổi mới cơ chế, phương thức tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức
(bao gồm cả cán bộ quản lý). Có chính sách thu hút nhân tài, thu hút đội ngũ
viên chức có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi vào làm việc trong đơn vị sự nghiệp
công lập. Thực hiện đào tạo lại, hỗ trợ thích hợp đối với viên chức và người lao
động dôi dư do sáp nhập, giải thể hoặc chuyển thành đơn vị sự nghiệp ngoài
công lập.
Thứ tư, đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị
trường, thúc đẩy xã hội hoá dịch vụ sự nghiệp công
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách tạo điều kiện đẩy mạnh
cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường và thúc đẩy xã hội hoá
trong việc cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công: (1) Xác định các dịch vụ sự
nghiệp công do ngân sách nhà nước phải bảo đảm, nhất là đối với vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn; các dịch vụ công khác không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước, xác
định giá theo cơ chế thị trường, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu
bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích luỹ để thu hút nhà đầu tư thuộc các thành
phần kinh tế ngoài công lập tham gia cung cấp dịch vụ sự nghiệp công; (2) Có
chính sách khuyến khích ưu đãi về đất đai, thuế, phí, tín dụng,… tạo điều kiện
hỗ trợ cho các đơn vị ngoài công lập, nhà đầu tư tham gia đầu tư, nâng cao chất
lượng dịch vụ sự nghiệp công; (3) Có chính sách đối xử bình đẳng giữa các đơn
vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập trong việc cung cấp dịch vụ công; các
đơn vị sự nghiệp ngoài công lập được tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công của Nhà nước.
- Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang mô hình
tự chủ hoàn toàn cả về chi đầu tư, chi thường xuyên, thực hiện quản lý, kế toán
theo mô hình doanh nghiệp. Các đơn vị được Nhà nước giao vốn, tài sản để thực
hiện cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từng bước tính đủ chi phí đầu vào (kể cả
khấu hao) để xác định giá dịch vụ. Các đơn vị đã bảo đảm chi đầu tư và chi
thường xuyên được quyền quyết định số lượng người làm việc, tiền lương theo
kết quả hoạt động, được Nhà nước hỗ trợ về thuế, phí để tăng cường năng lực tài
chính và khả năng tự cân đối.
- Chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện sang công ty

58
cổ phần. Không tách, điều chuyển các cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp và
khám, chữa bệnh trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước khi các tập đoàn,
tổng công ty này thực hiện cổ phần hoá.
- Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ, xã hội hoá, trước hết là các cơ
sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và các cơ sở y tế, tổ chức khoa học và
công nghệ ở các địa bàn có khả năng xã hội hoá cao. Có chính sách thí điểm đổi
mới theo lộ trình, đẩy mạnh xã hội hoá các cơ sở giáo dục mầm non và phổ
thông ở các địa bàn có khả năng xã hội hoá cao để mở rộng quy mô, nâng cao
chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhất là đối với các thành phố,
đô thị lớn có dân số tăng nhanh do nhập cư.
- Thực hiện chuyển đổi hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đủ
điều kiện sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hạch toán như doanh nghiệp,
kiên quyết chuyển sang cơ chế tự bảo đảm hoàn toàn về tài chính đối với nhóm
các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công có khả năng
xã hội hoá cao trên cơ sở Nhà nước thực hiện lộ trình bảo đảm kinh phí hoạt
động có thời hạn.
- Khuyến khích thành lập các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, nhất là
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, y tế, khoa học và
công nghệ.
- Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để thành lập doanh nghiệp
đa sở hữu trong các viện nghiên cứu, trường đại học nhằm thực hiện hoạt động
ứng dụng, triển khai, thương mại hoá các kết quả nghiên cứu và cung ứng dịch
vụ sự nghiệp công.
- Tăng cường gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp
theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp phát triển các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp để đào tạo đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động.
Xây dựng chính sách để doanh nghiệp được tham gia giáo dục nghề nghiệp theo
hình thức đặt hàng của Nhà nước và của doanh nghiệp khác; được tham gia xây
dựng danh mục ngành, nghề đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo tại
cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên.
- Có chính sách thuận lợi để tổ chức khoa học và công nghệ công lập
được quyền sở hữu và có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý đối với kết quả nghiên

59
cứu khoa học sử dụng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình
thương mại hoá ứng dụng kết quả nghiên cứu.
- Tiếp tục thực hiện cơ chế kết hợp công - tư về nhân lực và thương hiệu
trong lĩnh vực y tế; xây dựng cơ chế hợp tác đầu tư giữa bệnh viện công và bệnh
viện tư, giữa các bệnh viện công. Minh bạch hoá các hoạt động liên doanh, liên
kết, hợp tác công - tư, nhất là ở các đơn vị thuộc lĩnh vực do Nhà nước cấp phép
hoạt động; bảo toàn và phát triển vốn, tài sản nhà nước.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập
- Đổi mới phương thức quản lý, nâng cao năng lực quản trị đơn vị, bảo
đảm chặt chẽ, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cung ứng các
dịch vụ sự nghiệp công, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
- Rà soát, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong từng đơn vị theo
hướng tinh gọn, giảm mạnh đầu mối, bỏ cấp trung gian, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và khoa học - công nghệ tiên tiến, áp dụng các tiêu chuẩn,
chuẩn mực quản trị quốc tế.
- Nâng cao chất lượng quản trị tài chính, tài sản công của đơn vị. Ban
hành quy chế quản lý tài chính, tài sản công, xác định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của từng bộ phận, cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu. Hoàn
thiện chế độ kế toán, thực hiện chế độ kiểm toán, giám sát, bảo đảm công khai,
minh bạch hoạt động tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
- Áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi
thường xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp. Nâng cao hiệu
lực, hiệu quả cơ chế hội đồng trường trong các trường đại học theo hướng, hội
đồng trường là cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học; bí thư đảng uỷ
kiêm chủ tịch hội đồng trường.
- Thực hiện kiểm định, đánh giá và xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công
lập, nhất là đối với trường đại học, bệnh viện.
Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế tài chính
- Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập thuộc các ngành, lĩnh vực trên cơ sở mức độ tự chủ về tài chính, tăng cường
phân cấp và tăng tính chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập.

60
- Có cơ chế tài chính phù hợp để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư
cho lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công, nhất là cho y tế và giáo dục, kể cả hình
thức hợp tác công - tư, liên doanh, liên kết.
- Phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao
với hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Xây dựng
và hoàn thiện các danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước
theo nguyên tắc: Đối với các dịch vụ thiết yếu thì Nhà nước bảo đảm kinh phí;
đối với các dịch vụ cơ bản thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện; đối với các
dịch vụ mang tính đặc thù của một số ngành, lĩnh vực thì thực hiện theo cơ chế
đặt hàng hoặc đấu thầu để tạo điều kiện cho các cơ sở ngoài công lập cùng tham
gia; đối với các dịch vụ khác thì đẩy mạnh thực hiện theo cơ chế xã hội hoá, huy
động sự tham gia cung ứng của các thành phần kinh tế.
- Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự
nghiệp công theo hướng Nhà nước quy định khung giá dịch vụ, từng bước tính
đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu, đồng thời cần gắn với
chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách. Đối với giá
dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, giao quyền tự chủ
cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự quyết định theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp
chi phí và có tích luỹ.
- Đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực, quản lý, cấp phát ngân sách nhà
nước. Ngân sách nhà nước bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ công cơ bản, thiết
yếu (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; y tế dự phòng, y tế cơ sở, khám,
chữa các bệnh phong, lao, tâm thần; nghiên cứu khoa học cơ bản; văn hoá, nghệ
thuật dân gian truyền thống, đào tạo huấn luyện vận động viên, huấn luyện viên
thể thao quốc gia; bảo trợ xã hội và chăm sóc người có công,...) và đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc ít người.
Ngân sách nhà nước chuyển từ hỗ trợ cho các đơn vị sự nghiệp công lập
sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng người nghèo, đối tượng chính sách khi sử
dụng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế cấp
phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ
sự nghiệp công căn cứ vào chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự

61
nghiệp công. Thực hiện cơ chế giao vốn, tài sản cho đơn vị sự nghiệp công lập;
xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu về tài chính và tài sản công của đơn vị sự
nghiệp công lập trong toàn quốc.
- Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo mức độ tự chủ khác nhau
về tài chính. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được trả lương theo kết quả
hoạt động. Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, thực hiện trả
lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp theo quy định hiện hành;
đối với phần tăng thu, tiết kiệm chi, được trích lập các quỹ bổ sung thu nhập và
phát triển hoạt động sự nghiệp. Các đơn vị được giao tự chủ tài chính ổn định từ
3 đến 5 năm theo phương án thu chi tài chính được cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Đối với các đơn vị được Nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động,
cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế khoán chi.
- Rà soát các quy định về thuế nhằm khuyến khích tự chủ tài chính và
có tích luỹ cho đầu tư. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được tính chi
phí tiền lương theo doanh thu hoặc quỹ lương khoán trong chi phí hợp lệ để
tính thuế thu nhập.
- Có cơ chế, chính sách đủ mạnh để tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích
việc tinh giản biên chế, bổ sung vào diện tinh giản biên chế một số đối tượng
hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Bảo đảm nguồn kinh phí để giải quyết
chính sách đối với những người dôi dư do sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp
công lập và thực hiện tinh giản biên chế. Đối với công chức, viên chức làm việc
trong đơn vị tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, kinh phí lấy từ
nguồn thu sự nghiệp của đơn vị. Đối với công chức, viên chức làm việc trong
đơn vị do ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần hoặc bảo đảm toàn bộ kinh phí
hoạt động thì lấy từ nguồn kinh phí hoạt động của đơn vị. Trường hợp kinh phí
của đơn vị không đủ thì ngân sách nhà nước bổ sung theo quy định hiện hành về
phân cấp ngân sách.
Thứ bảy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
- Sửa đổi, bổ sung pháp luật về công chức, viên chức, đội ngũ nhà giáo và
pháp luật có liên quan. Đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn
vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản
trị đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.

62
- Chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập có tính chất cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công của bộ, ngành về chính quyền địa phương quản lý; bộ chỉ thực hiện
chủ quản đối với các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà
nước của bộ và những đơn vị trọng điểm, chuyên sâu.
- Rà soát, hoàn thiện quy hoạch định hướng mạng lưới các đơn vị sự
nghiệp công lập gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và
từng địa phương; chuyển từ quy hoạch theo đơn vị hành chính sang quy hoạch
theo ngành, lĩnh vực, nhu cầu của xã hội và thị trường.
- Ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật đối với từng loại hình dịch vụ sự
nghiệp công; tiêu chí phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập; tiêu chí đánh giá
kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng dịch vụ của đơn vị theo ngành, lĩnh
vực; hệ thống tiêu chuẩn chức danh những người làm việc trong đơn vị sự
nghiệp công lập; thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý,
điều hành đơn vị sự nghiệp công lập, cơ chế giám sát, kiểm tra trách nhiệm của
người đứng đầu. Lấy kết quả thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế hằng năm là
một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại kết quả công tác của người đứng
đầu cấp uỷ, đơn vị sự nghiệp công lập.
- Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành với
cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính các cấp trong quản lý ngân sách
nhà nước chi cho lĩnh vực sự nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà
nước, tránh chồng chéo, lãng phí. Quy định rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm
người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, đặc biệt là người
đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Tăng cường công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm, cố tình né tránh hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao
đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Hình thành các tổ chức kiểm định, đánh giá
độc lập về chất lượng dịch vụ sự nghiệp công theo ngành, lĩnh vực.
Thứ tám, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò của
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
- Các cấp uỷ và tổ chức đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo tổ chức và
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Ban hành quy định về vai trò và chức

63
năng lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng trong đơn vị sự nghiệp công lập.
- Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội trong giám sát, phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập.
IV. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC Y TẾ
4.1. Sự cần thiết phải tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh
vực y tế
a. Sự tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với lĩnh vực y tế
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là một xu thế lớn hội tụ nhiều
công nghệ trên nền tảng số hóa của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 với
sự phát triển đột phá của công nghệ Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, xử lý dữ
liệu lớn, điện toán đám mây và các công nghệ số khác để thực hiện siêu kết nối,
tích hợp các hệ thống số hóa - vật lý - sinh học, giữa thế giới thực và không gian
số tạo ra lực lượng sản xuất và quản hệ sản xuất mới, chuyển đổi toàn diện trên
tất cả các mặt của cuộc sống, từ tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ, phương
thức kinh doanh đến cách thức tiêu dùng, giao tiếp xã hội, thậm chí thay đổi
chính bản thân con người.
Công nghệ số đang phát triển mạnh mẽ và tác động sâu rộng đến mọi mặt
của đời sống kinh tế - xã hội trên toàn cầu. Những thay đổi mang tính cách
mạng về khoa học, đột phá của công nghệ số dẫn tới xu hướng phát triển và yêu
cầu thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu, mô hình kinh tế, xã hội quốc gia cũng như hệ
thống quản lý của các ngành, lĩnh vực.
a) Điện toán đám mây (Cloud computing). Điện toán đám mây cho phép
cung cấp không giới hạn và theo nhu cầu của từng đơn vị theo kiểu cung cấp
dịch vụ ba gồm dịch vụ hạ tầng lưu trữ, dịch vụ nền tảng phát triển và dịch vụ
phần mềm. Điều này cho phép các đơn vị có thể sử dụng điện toán đám mây cho
quản lý, lưu trữ ứng dụng, dữ liệu lớn, phức tạp mà không mất quá nhiều thời
gian, công sức để quản lý, mở rộng, tối ưu.
b) Dữ liệu lớn (Bigdata). Dữ liệu lớn là một thuật ngữ cho việc quản lý,
lưu trữ, khai thác, phân tích, dự báo dựa trên một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức
tạp mà các ứng dụng xử lý dữ liệu truyền thống không xử lý được.

64
Khả năng xử lý dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo hỗ trợ đắc lực cho ngành y tế
trong nhiều hoạt động khác nhau như theo dõi, kiểm soát dịch bệnh, thống kê y
tế, khám chữa bệnh, quản trị y tế.
c) Trí tuệ nhân tạo (AI). Trí tuệ nhân tạo là một thuật ngữ chỉ việc con
người phát triển các ứng dụng trên máy tính cho phép máy tính có thể tự động
thực hiện các hành vi thông minh như con người.
Một số ứng dụng của trí tuệ nhân tạo trong ngành y tế như hỗ trợ chẩn
đoán hình ảnh bệnh lý, hỗ trợ phân tích, đánh giá kết quả xét nghiệm, phẫu thuật
bằng robot.
d) Internet kết nối vạn vật (IoT). Internet kết nối vạn vật (IoT) là một
thuật ngữ chỉ việc kết nối và trao đổi giữa các thiết bị vật lý như các máy tính,
điện thoại di động, thiết bị điện tử, cảm biến, xe cộ, đồ gia dụng điện tử...
e) Công nghệ chuỗi khối (Blockchain). Blockchain là công nghệ quản lý
cơ sở dữ liệu phân tán, ghi lại mọi thông tin, giao dịch trong các block (khối)
trong một chuỗi thời gian với đặc điểm là khi giao dịch đã được ghi vào các khối
thì không ai có thể thay đổi hay làm giả mạo. Tính năng này đảm bảo không
thay đổi hay giả mạo liên quan đến “an toàn” cho cả hệ thống. Công nghệ chuỗi
khối gần đây được coi như là một công nghệ hiệu quả trong việc đảm bảo an
toàn, tính riêng tư trong hồ sơ sức khỏe người dân.
g) Công nghệ in 3D. Công nghệ in 3D là sự phát triển tầm cao của công
nghệ in, làm cho người ta có thể sản xuất ra những sản phẩm có cấu trúc tương
đối phức tạp nhưng lại được gói thành một khối duy nhất.
Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe, công nghệ in 3D giúp tạo ra
nhiều sản phẩm như các dụng cụ y tế, các mô hình trong khám chữa bệnh, các
phụ tùng giả, xương, sụn tai, van tim, các mô, mô hình cơ thể người,..., được sử
dụng khá phổ biến trong những năm gần đây.
b. Những lợi ích của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong y tế
Ứng dụng và phát triển công nghệ thông y tế được triển khai sẽ hình thành
hệ thống phòng bệnh và chăm sóc sức khỏe thông minh, giúp người dân chủ
động phòng bệnh, dễ dàng tiếp cận các thông tin y tế, đồng thời được tư vấn,
giúp đỡ chăm sóc sức khỏe kịp thời, hiệu quả.

65
Với hệ thống khám bệnh, chữa bệnh thông minh, người dân sẽ được sử
dụng các dịch vụ khám chữa bệnh tiên tiến và thuận lợi, hạn chế các rủi ro, tai
biến khi điều trị, tiết kiệm được thời gian và chi phí khám chữa bệnh. Hệ thống
khám bệnh, chữa bệnh thông minh sẽ góp phẩn giảm tải bệnh viện, nâng cao chất
lượng khám bệnh, chữa bệnh của bệnh viện, giảm thiểu tối đa các lỗi bất cẩn của
con người. Góp phần xây dựng hình ảnh mới của bệnh viện: văn minh, hiện đại,
hết lòng vì bệnh nhân. Quản lý, khai thác thông tin bệnh viện nhanh chóng, hiệu
quả, thuận tiện.
Hệ thống quản trị y tế thông minh sẽ giúp cho các cơ quan quản lý y tế ra
quyết định chính sách kịp thời dựa trên khả năng phân tích dữ liệu lớn, quản lý,
theo dõi hiệu quả hoạt động của toàn bộ mạng lưới dịch vụ y tế trên toàn quốc,
tăng khả năng ứng phó nhanh với các tình huống bất ngờ như: kiểm soát, khống
chế dịch bệnh, chia sẻ phương pháp điều trị mới, đào tạo từ xa, giúp cho hệ
thống y tế Việt nam dễ dàng liên thông, hội nhập với thế giới.
Hình thành hệ thống y tế thông minh, góp phần nâng cao hình ảnh, chất
lượng dịch vụ y tế tại Việt Nam, tăng sự tin tưởng của người dân, doanh nghiệp
khi sử dụng các dịch vụ y tế, hướng đến nền y tế Việt Nam hiện đại, chất lượng,
công bằng, hiệu quả và hội nhập quốc tế.
4.2. Xây dựng hệ thống thông tin bệnh viện
“Hệ thống thông tin bệnh viện”  tiếng Anh “Hospital Information System”
viết tắt là HIS. Hệ thống thông tin bệnh viện thường được biết đến với tên gọi
khác là "Hệ thống quản lý bệnh viện"; phục vụ công tác quản lý, điều hành tại
Bệnh viện với các chức năng chính: quản lý thông tin bệnh nhân và bệnh sử;
quản lý bệnh nhân đến khám và điều trị nội và ngoại trú, quản lý bệnh án, dược,
tài chính, viện phí, trang thiết bị vật tư y tế, nhân sự... Ngày nay, HIS là công cụ
tối ưu hóa trong quản lý điều hành; phục vụ điều trị; phục vụ nghiên cứu và đào
tạo; thống kê, dự báo, dự phòng... tại các Bệnh viện.

Mô hình hệ thống thông tin bệnh viện

66
4.3. Thiết lập và đảm bảo sự kết nối, liên thông giữa các hệ thống thông tin y tế
Việc thiết lập và đảm bảo sự kết nối, liên thông giữa các hệ thống thông
tin y tế là một nội dung quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ
thống y tế. Nội dung này đã được thể hiện ở “Tiêu chuẩn HL7”. Tiêu chuẩn
HL7 là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Health Level 7 Standard” là tiêu
chuẩn quốc tế cung cấp giao thức về quản lý, trao đổi và tích hợp thông tin y tế
điện tử giữa các hệ thống thông tin y tế.
So với HIS (tập trung vào vấn đề quản lý bệnh viện), HL7 tập trung vào
việc kết nối, chia sẻ dữ liệu về lâm sàng, hành chính và chuyên môn giữa các
đơn vị y tế với nhau.
Nhiệm vụ của HL7 là cung cấp một chuẩn cho trao đổi, quản lý và tích
hợp thống nhất dữ liệu về trợ giúp chăm sóc lâm sàng bệnh nhân, quản lý, phân
phát, đánh giá về hoạt động y tế. Đặc biệt, HL7 giúp cho việc tiếp cận, chuẩn
hoá, hướng dẫn, phương pháp và phục vụ liên quan cho khả năng giao tiếp giữa
các hệ thống thông tin y tế. HL7 là định dạng các gói thông tin (dữ liệu) gửi đi
giữa các bệnh viện với nhau, các bệnh viện với sở y tế, với Bộ Y tế. 
Như vậy, với việc xây dựng chuẩn HL7 được sử dụng dùng chung trong

67
hệ thống hệ thống bệnh viện trong toàn quốc sẽ giải quyết được sự đa dạng,
không thống nhất của các phần mềm quản lý ở các bệnh viện khác nhau, mà vẫn
kết nối, báo cáo, trao đổi thông tin, hình ảnh cho nhau được.  Tiêu chuẩn HL7
giúp cho việc kết nối giữa các hệ thống IT trong lĩnh vực y tế, các hệ thống này
gửi đi hoặc tiếp nhận các bản tin về việc đăng ký/nhập viện của bệnh nhân, dữ
liệu xuất viện hoặc chuyển chuyên khoa (ADT), truy vấn, nguồn tài nguyên và
xếp lịch bệnh nhân, chỉ định, kết quả, các quan sát lâm sàng, lập hóa đơn, thông
tin cập nhật danh mục dùng chung, hồ sơ bệnh án, lập lịch/kế hoạch, giới thiệu
bệnh nhân (chuyển viện), chăm sóc bệnh nhân, tự động hóa phòng xét nghiệm
cận lâm sàng, quản lý ứng dụng và quản lý nhân sự.
4.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công việc của viên chức điều dưỡng
Trong giai đoạn hiện nay, ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế
đã và đang được triển khai mạnh mẽ, tạo ra những chuyển biến tích cực trong
hoạt động bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Với mục tiêu, xây
dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh thông minh, góp phần thực
hiện thành công chương trình sức khỏe Việt Nam, những chương trình lớn về
ứng dụng công nghệ thông tin đang được triển khai như: Xây dựng và triển khai
hồ sơ sức khỏe điện tử toàn dân: Hồ sơ sức khỏe điện tử ghi lại và lưu trữ thông
tin tóm tắt các đợt khám chữa bệnh xuyên suốt theo thời gian sống của người,
quản lý sức khỏe cá nhân phục vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu. Phấn đấu đến
năm 2025 bảo đảm 100% người dân có hồ sơ sức khỏe điện tử; Tin học hóa
hoạt động trạm y tế: Xây dựng, triển khai phần mềm quản lý hoạt động trạm
y tế, bảo đảm kết nối và chia sẻ thông tin với các hệ thống thông tin bệnh
viện, hồ sơ sức khỏe điện tử, hệ thống giám định và thanh toán bảo hiểm y
tế, hệ thống thống kê y tế điện tử trong toàn quốc; Ứng dụng trí tuệ nhân tạo
và các công nghệ thông minh trong phòng bệnh, môi trường, an toàn thực
phẩm, dinh dưỡng và phòng chống HIV/AIDS. Ưu tiên triển khai các ứng
dụng trí tuệ nhân tạo trong việc theo dõi, cảnh báo dịch bệnh trên cả nước;
Phát triển các ứng dụng cung cấp tri thức phòng bệnh, khám bệnh, chữa
bệnh, chăm sóc sức khỏe người dân; các thông tin về cơ sở y tế, bác sĩ, dịch
vụ y tế trên môi trường web, di động, giúp người dân có thể tra cứu thông
tin y tế dễ dàng, hiệu quả, kịp thời, mọi lúc, mọi nơi, kết nối với hệ tri thức
Việt số hóa; Phát triển các ứng dụng thông minh cho phép cung cấp các dịch

68
vụ theo dõi, trợ giúp, chăm sóc sức khỏe người dân từ xa , kết nối trực tuyến
giữa người bệnh, các thiết bị theo dõi sức khỏe và cán bộ y tế.
Trước yêu cầu ngày càng cao của người dân về dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, cũng như những chương trình về ứng dụng công nghệ thông tin đang diễn
ra, yêu cầu đặt ra cho mỗi cán bộ, nhân viên ngành y tế không ngừng nâng cao
trình độ tay nghề, đổi mới tinh thần, tác phong và thái độ làm việc, thì một vấn
đề đặt ra nữa là phải có năng lực sử dụng, ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động chuyên môn của mình, trong đó có đội ngũ viên chức điều dưỡng.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin đối với viên chức điều dưỡng sẽ mang
lại nhiều lợi ích trong các công việc như: chăm sóc bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh;
lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện chăm sóc; tổ chức thực hiện và kiểm tra việc theo
dõi, đánh giá diễn biến hằng ngày; giám sát, thực hiện chăm sóc giảm nhẹ và hỗ trợ
tâm lý. Tổ chức khám và quản lý thai đối với sản phụ trong trường hợp sản phụ
không thể đến cơ sở y tế, lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện khám, chăm sóc bà mẹ
và trẻ sơ sinh trong giai đoạn sau sinh tại nhà;giám sát, hỗ trợ hoạt động chăm sóc
sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh, kế hoạch hóa gia đình tại cộng đồng… được diễn ra
thuận lợi, dễ dàng
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Anh/chị hãy phân tích xu hướng cải cách hành chính nhà nước một số
nước phát triển
Câu 2. Anh/chị hãy đánh giá khả năng vận dụng các xu hướng ở các nước phát
triển vào Việt Nam.
Câu 3. Tại sao cải cách hành chính nhà nước ở nước ta được Đảng và Nhà nước
ta xác định là trọng tâm của cải cách nhà nước theo hướng pháp quyền
XHCN? Nội dung của chương trình cải cách hành chính gồm những vấn
đề nào?
Câu 4. Theo anh/chị, công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở nước ta hiện
nay đang gặp phải thách thức nào? Cần làm gì để khắc phục?
Câu 5. Những lợi ích và thách thức khi ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh
vực y tế

69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ: Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2001- 2010 ban hành kèm theo Quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng
9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ.
2. Chính phủ: Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2011- 2020 ban hành kèm theo Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11
năm 2011 của Chính phủ.
3. Chính phủ: Báo cáo Kết quả thực hiện chương trình tổng thể Cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và phương hướng cải cách hành chính
giai đoạn 2011-2020.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII (Khóa 7)
tháng 01/1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương V (Khóa X) năm
2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của bộ máy nhà nước.
6. Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức (Chủ biên): Cải cách hành chính địa
phương: Lý luận và thực tiễn. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
7. Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên): Những giải pháp thúc đẩy cải cách hành
chính ở Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
8. Viện nghiên cứu và Đào tạo về quản lý: Hành chính công và Quản lý hiệu
quả chính phủ, NXB. Lao động Xã hội, Hà Nội, 2005.

70
Chuyên đề 3
KỸ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CÔNG VIỆC CỦA VIÊN CHỨC ĐIỀU DƯỠNG

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 12 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 8 tiết
I. KỸ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chuyên đề, học việc cần đạt được:
1. Hiểu được khái niệm kế hoạch, lập kế hoạch các loại kế hoạch
2. Nhận thức được ý nghĩa của việc lập kế hoạch trong công tác
3. Biết được một số phương pháp và kỹ thuật lập kế hoạch
4. Biết vận dụng kỹ năng lập kế hoạch công việc trong quá trình công tác.
NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về kế hoạch, lập kế hoạch
1.1. Khái niệm kế hoạch, lập kế hoạch và phân loại kế hoạch
a. Kế hoạch, lập kế hoạch
Kế hoạch là một tập hợp những hoạt động được sắp xếp theo lịch trình, có
thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp tốt
nhất… để thực hiện một mục tiêu cuối cùng đã được đề ra.
Kế hoạch có thể là các chương trình hành động hoặc bất kỳ danh sách, sơ
đồ, bảng biểu được sắp xếp theo lịch trình, có thời hạn, chia thành các giai đoạn,
các bước thời gian thực hiện, có phân bổ nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ
thể và xác định biện pháp, sự chuẩn bị, triển khai thực hiện nhằm đạt được
một mục tiêu, chỉ tiêu đã được đề ra. Thông thường kế hoạch được hiểu như là

71
một khoảng thời gian cho những dự định sẽ hành động và thông qua đó ta hy
vọng sẽ đạt được mục tiêu. Nói đến kế hoạch là nói đến những người vạch ra mà
không làm nhưng họ góp phần vào kết quả đạt được như bản kế hoạch đề ra.
Kế hoạch có thể được thực hiện một cách chính thức hoặc không chính thức,
bằng văn bản, văn kiện hoặc bất thành văn, công khai minh bạch hoặc bí mật
Lập kế hoạch là một hoạt động có ý thức, mang tính định hướng toàn bộ
các hoạt động của con người. Trong tổ chức thì lập kế hoạch được xem là chức
năng cơ bản và quan trọng nhất trong các chức năng quản lý.
Lập kế hoạch là một tiến trình xác định mong muốn của tổ chức là gì và
có thể đạt được mong muốn đó như thế nào. Hay nói cách khác, lập kế hoạch là
một quá trình xác định xem phải làm cái gì, làm như thế nào, ai làm, làm khi
nào, làm ở đâu, cần những điều kiện gì để đạt những mục tiêu nhất định.
Tóm lại, lập kế hoạch là một quá trình nhằm xác định mục tiêụ của tổ
chức cùng các phương thức thích hợp và các nguồn lực để đạt mục tiêu.
b. Phân loại kế hoạch
Có nhiều loại kế hoạch và các loại kế hoạch này được phân loại theo các
tiêu chí khác nhau. Cách phân loại phổ biến nhất là mô tả các kế hoạch theo
phạm vi của chúng, theo khuôn khổ thời gian, và theo tính cụ thể. Tuy nhiên,
các cách phân loại kế hoạch này không độc lập với các cách phân loại khác và
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như mối quan hệ giứa các kế hoạch dài hạn và
ngắn hạn với các loại kế hoạch chiến lược và thực thi.
- Phân loại theo phạm vi: Theo cách phân loại này, kế hoạch được chia
thành kế hoạch chiến lược và kế hoạch thực thi hay kế hoạch hoạt động.
Các kế hoạch áp dụng cho toàn bộ tổ chức, thiết lập các mục tiêu toàn
diện và xác định vị trí tương lai của tổ chức trong môi trường gọi là kế hoạch
chiến lược. Các kế hoạch mà ghi rõ chi tiết về cách thức đạt được các mục tiêu
toàn diện được gọi là kế hoạch thực thi.
Kế hoạch chiến lược và thực thi khác nhau ở khuôn khổ thời gian, phạm
vi xác định mục tiêu của tổ chức. Các kế hoạch thực thi thường có thời gian
ngắn hơn. Ví dụ, các kế hoạch ngày, tuần, tháng, quý hầu hết là các kế hoạch
thực thi. Kế hoạch chiến lược thường hướng đến một thời gian dài, thường là 5

72
năm trở lên. Chúng cũng có phạm vi rộng hơn và ít giải quyết những vấn đề chi
tiết. Cuối cùng, các kế hoạch chiến lược bao gồm việc xây dựng các mục tiêu,
trong khi đó các kế hoạch thực thi thừa nhận sự tồn tại các mục tiêu và đưa ra
các phương pháp để đạt mục tiêu đó.
- Phân loại theo khuôn khổ thời gian: Theo khuôn khổ thời gian, kế hoạch
được phân thành kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
Kế hoạch ngắn hạn là kế hoạch có thời gian thực hiện nó từ 01 năm trở
xuống. Kế hoạch dài hạn là kế hoạch cỏ thời gian thực hiện nó từ 5 năm trở lên.
Còn kế hoạch có thời gian thực hiện từ trên 1 năm đến dưới 5 năm được gọi là
kế hoạch trung hạn.
- Phân loại theo mức độ cụ thể:
Bằng trực giác, chúng ta không thể khẳng định kế hoạch nào là cụ thể,
hay nói cách khác mọi kế hoạch đều là kế hoạch định hướng. Tuy nhiên, khi
chúng ta đi sâu nghiên cứu các kế hoạch theo tính cụ thể, có thể phân các kế
hoạch thành kế hoạch định hướng và kế hoạch cụ thể.
Kế hoạch cụ thể có các mục tiêu xác đinh rõ ràng và không cần giải thích
thêm, không có sự mơ hồ, không có sự hiểu nhầm. Ví dụ, hàng năm đào tạo, bồi
dưỡng cho 100 cán bộ, công chức, thì có thể thiết lập các thủ tục cụ thể, phân bổ
ngân sách và kế hoạch hoạt động để đạt mục tiêu đó. Những nội dung đó thể
hiện trong các bản kế hoạch cụ thể. Kế hoạch cụ thể đòi hỏi phải rõ ràng và
thường không tồn tại khả năng phán xét của người thực hiện.
Khi độ không chắc chắn cao, sẽ đòi hỏi người thực hiện duy trì tính linh hoạt
để ứng phó với những thay đổi không lường trước, trong trường hợp này tổ chức
thường lập kế hoạch định hướng. Kế hoạch định hướng xác định những chi dẫn cơ
bản, không xác định những mục tiêu hoặc các đường lối hành động cụ thể. '
- Phân loại theo đổi tượng hoặc lĩnh vực hoạt động: Là cách phân loại dựa
vào vấn đề hoặc đối tượng mà hoạt động lập kế hoạch hướng tới. Theo cách
phân loại này, trong thực tiễn có các loại ké hoạch chủ yếu dưới đâỹ:
+ Kế hoạch nhân sự: Là ké hoạch xác định nhu cầu nhân sự tương lai cho
một cơ quan, tổ chức về số lượng, chất lượng (kiến thức, kỹ năng và thái độ đối
với công việc) và thời điểm cung cấp nguồn nhân lực cho việc thực hiện các

73
chương trình hành động cụ thể. Ke hoạch nhân sự cũng xác định những biện
pháp cần thiết để đáp ứng nhu cầu nhân sự nhằm đảm bảo cho cơ quan, tổ chức
hoàn thành những chức năng, nhiệm vụ của mình.
+ Kế hoạch tài chính (ngân sách): Là kế hoạch xác định khả năng thu và
nhu cầu chi ngân sách, bao gồm tổng thu, tổng chi và các khoản mục thu, chi
trong kỳ ngân sách. Đồng thời, xác định các biện pháp để tiếp cận được các
nguồn thu phù họp, tận thu và sử dụng các khoản chi ngân sách một cách có
hiệu quả theo trình tự thời gian thích họp.
+ Kế hoạch tác nghiệp: Là kế hoạch xác định các hoạt động nghiệp vụ cần
phải tiến hành, các nguồn lực và lịch trình thực hiện nhằm hoàn thành tốt một
công việc cụ thể.
+ Kế hoạch dự án: Là kế hoạch để lập và thực hiện một dự án phát triển,
bao gồm việc xác định mục tiêu, các công việc và hoạt động cần phải tiến hành,
cách thức thực hiện, quản lý công việc và nguồn lực cần thiết cho các hoạt động
đó nhằm hoàn thành mục tiêu dự án.
1.2. Ý nghĩa của lập kế hoạch
- Lập kế hoạch giúp tổ chức ứng phó với những thay đổi trong tương lai.
Do sự bất định của tương lai nên việc lập kế hoạch trở thành tất yếu. Thông qua
việc lập kế hoạch mà nhà quản lý dự đoán trước được những gì sẽ diễn ra trong
tương lai, lường trước được những khó khăn, thậm chí giúp tránh được những
do dự. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, kế hoạch cũng chỉ mang tính tương đối, lập kế
hoạch cho khoảng thời gian càng dài thì độ chính xác càng giảm.
- Lập kế hoạch giúp hướng các nỗ lực vào việc hoàn thành các mục tiêu.
Lập kế hoạch là nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. Ke hoạch được xây
dựng sẽ góp phần huy động sự tham gia, thống nhất được nỗ lực của các cá
nhân, bộ phận trong tổ chức góp phàn vào thực hiện các mục tiêu. Nhờ có các kế
hoạch mà nhà quản lý phối họp các hoạt động của các cá nhân cũng như các bộ
phận trong việc thực hiện nhiệm vụ chung nhằm hướng tới mục tiêu chung.
- Lập kế hoạch tạo ra khả năng tiết kiệm các nguồn lực cho tổ chức. Kế
hoạch sẽ góp phần vào tối thiểu hoá chi phí về nguồn lực vì nó chú trọng vào hiệu
quả của hoạt động và sự phù họp. Khi lập kế hoạch, nhà quản lý đã xây dựng các

74
phương án và lựa chọn phương án tối ưu để đạt mục tiêu. Mặt khác các kế hoạch
có thể biến các hoạt động không được phối họp thành những nỗ lực có định
hướng chung, đảm bảo cho các hoạt động diễn ra đều đặn, nhịp nhàng, cân đối;
khắc phục tình trạng không ăn khớp, chồng chéo, bất hợp lý gây tốn kém, lãng
phí nguồn lực của cơ quan, xã hội. Ngoài ra, do lập kế hoạch tốt giúp tổ chức ứng
phó với sự bất định của môi trường vì vậy giảm thiểu rủi ro giúp tổ chức tiết kiệm
được các nguồn lực.
- Lập kế hoạch là cơ sở để thực hiện chức năng kiểm soát. Lập kế hoạch
xác định các mục tiêu, các kết quả cần đạt được, và chính các mục tiêu này lại là
tiêu chuẩn để kiểm tra, đánh giá hoạt động của từng bộ phận, từng cá nhân. Trên
cơ sở các kế hoạch, nhà quản lý tiến hành các hoạt động giám sát, kiểm tra,
thanh tra hay thực hiện chức năng kiểm soát thông qua việc đối chiếu, so sánh
giữa kết quả thực hiện với mục tiêu đã định.
2. Phương pháp và kỹ thuật lập kế hoạch
2.1. Phương pháp lập kế hoạch
Lập kế hoạch là một công tác quan trọng, không thể thiếu của quy trình
quản lý tổ chức. Có 2 phương pháp lập kế hoạch cơ bản:
- Lập kế hoạch kiểu truyền thống từ trên xuống. Phương pháp lập kế
hoạch từ trên xuông thông thường dựa trên nguồn ngân sách có sẵn và tập trung
giải quyết các khó khăn trước mắt mà người lập kế hoạch thấy được một cách
chủ quan thông qua quan sát và xem xét các báo cáo của kỳ trước. Theo phương
pháp này, người lập kế hoạch thường đánh giá tình hình một cách chủ quan, độc
lập và dựa vào nguồn ngân sách hiện có để ra quyết định phải làm gì trong kỳ kế
hoạch tới. Phương pháp lập kế hoạch này theo kiểu từ trên xuống, người lập kế
hoạch thường không phải là người thực hiện kế hoạch. Do đó người thực hiện kế
hoạch ít chủ động và không có ý thức làm chủ cao.
- Phương pháp lập kế hoạch từ dưới lên, có sự tham gia: chủ thể lập kế
hoạch hiểu rõ là nguồn lực luôn hạn chế nên cần phải có phương pháp tối ưu để
sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả nhất. Do đó, việc đánh giá nội lực (điểm
mạnh và điểm yếu) và các tác động từ bên ngoài (cơ hội và thách thức) được thực
hiện rất bài bản và kỹ lưỡng trên cơ sở sự tham gia hiệu quả của các bên liên quan
nhằm đưa ra các thứ tự ưu tiên họp lý cho các giải pháp thực hiện. Phương pháp

75
này phù hợp với xu thế dân chủ hóa đời sống xã hội và điều kiện các nguồn lực
hạn chế.
2.2. Kỹ thuật lập kế hoạch
2.2.1. Kỹ thuật xác định cây vấn đề
Sau khi xác định vấn đề chính cần ưu tiên can thiệp trong tổ chức, các nhà
quản lý cần phải phân tích vấn đề để xác định các nguyên nhân gốc rễ gây ra vấn
đề. Nguyên nhân gốc rễ của vấn đề được hiểu là nguyên nhân gây nên vạn đề và
có thể can thiệp, giải quyết được trong điều kiện thực tế của tổ chức.
Việc phân tích vấn đề có những lợi ích sau:
- Phát hiện được những nguyên nhân gây nên vấn đề, nguyên nhân nào là
nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân nào là nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân
nào là nguyên nhân chính, nguyên nhân nào là nguyên nhân bổ trợ...
- Việc phân tích một cách khoa học, đúng kỹ thuật sẽ giúp xác định được
các nguyên nhân một cách hệ thống, logic, tránh bỏ sót nguyên nhân.
- Dựa trên việc tìm được các nguyên nhân gốc rễ sẽ giúp tổ chức xác định
được mục tiêu, các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của tổ chức.
Kỹ thuật cây vấn đề là một trong
những kỹ thuật phân tích vấn đề thường
gặp và dễ áp dụng trong thực tiễn lập kế
hoạch của tổ chức. Kỹ thuật phân tích vấn
đề này thường được sử dụng để mô tả mối
quan hệ giữa các nguyên nhân một cách
logic, toàn diện.
Đây là một trong những kỹ thuật để
lập kế hoạch, giúp tìm giải pháp bằng lập
bản đồ cấu trúc giữa nguyên nhân, kết quả
và hệ quả (hiệu ứng).
Theo kỹ thuật này, cần tập trung trả lời 3 câu hỏi lớn sau:
- Xác định vấn đề chính của tổ chức là gì - “thân cây”?
- Vấn đề chính đó được hình thành từ những nguyên nhân nào - “rễ cây”?

76
- Vấn đề chính đó sẽ tạo ra kết quả gì - “thân, lá cây”?
Kỹ thuật xác định cây vấn đề được sử dụng trong lập kế hoạch của tổ
chức với một số mục đích sau:
- Là bước để tìm kiếm vấn đề hạn chế chính của tổ chức.
- Xác định các nguyên nhân ảnh hưởng đến vấn đề chính.
- Các nguyên nhân khác ảnh hưởng đến nguyên nhân cơ bản (mối quan hệ
của các nguyên nhân).
- Giúp tìm thêm thông tin và nguồn lực để giải quyết vấn đề hoặc xác định
giải pháp hợp lý để xử lý vấn đề hiện tại. .
- Hình dung được hệ quả của vấn đề nêu ra.
Các hoạt động xác định cây vấn đề của tổ chức:
- Đặt vấn đề chính vào giữa trang giấy, khoanh vuông vấn đề (tạo thân
cây).
- Xác định các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề-và phát triển
thêm những nguyên nhân khác có ảnh hưởng đến nguyên nhân trực tiếp này.
- Xác định các hệ quả do vấn đề sinh ra và phát triển thêm những hệ quả
khác có thể phát sinh do các hệ quả đã tìm ra. Nối vấn đề với các hệ quả bằng
các mũi tên 1 chiều đi lên (tạo cành và lá cây). Có thể thực hiện việc xác định
cây vấn đề theo sơ đồ 1 dưới đây:

Kết quả

Nguyên nhân/
Kết quả
Nguyên nhân/
Kết quả
Nguyên nhân/
Kết quả
Nguyên nhân/
Kết quả
Nguyên
nhân

77
Trong thực tế, khó có thể xác định sẽ phải hỏi bao nhiêu lần "tại sao" để
có thể tìm được nguyên nhân gốc rễ. Điều này hoàn toàn rất linh hoạt vì nguyên
nhân gốc rễ được định nghĩa là nguyên nhân gây nên vấn đề và có thể can thiệp,
giải quyết được trong điều kiện thực tế của tổ chức. Như vậy, cùng một vấn đề
của các tổ chức khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau sẽ có thể xuất phát
từ những nguyên nhân gốc rễ khác nhau.

2.2.2. Kỹ thuật phân tích SWOT:


SWOT là tập hợp viết tắt những chữ cái 'đầu tiên của các từ tiếng Anh:
Strengths (Điểm mạnh), Weaknesses (Điểm yếu), Opportunities (Cơ hội) và
Threats (Nguy cơ, thách thức). Đây là công cụ cực kỳ hữu ích giúp chúng ta tìm
hiểu vấn đề hoặc lập kế hoạch trong tổ chức. Phân tích môi trường bên trong và bên
ngoài là một ừong các phương pháp rất quan trọng nhằm xác định những điểm
mạnh, điểm yếu cũng như chỉ ra những cơ hội, thách thức mà tổ chức gặp phải.
Kỹ thuật này cho phép xây dựng được bức tranh toàn cảnh về các vấn đề
cần giải quyết trong lập kế hoạch đồng thời giúp tìm ra mục tiêu quan trọng cho
tổ chức. Để tiến hành phân tích SWOT phục vụ công tác lập kế hoạch, tổ chức
cần trả lời các câu hỏi sau:
- Những điêm mạnh của tổ chức:
+ Những lợi thế cơ bản của tổ chức là gì (về vị thế pháp lý, chức năng,
nhiệm vụ, địa điểm đặt trụ sở cơ quan, nhân sự.. .)•
+ Các đơn vị trong tổ chức đã làm tốt việc gì?
+ Đã tận dụng và sử dụng được những nguồn lực thích hợp nào cho sự
phát triển của tổ chức?
Nhóm lập kế hoạch phải trả lời đầy đủ các câu hỏi trên và phải xuất phát
từ tình hình thực tiễn của tổ chức.
- Những điểm yếu của tổ chức:
+ Tổ chức chưa làm tốt những vấn đề gì?
+ Tổ chức có những vấn đề gì cần phải cải thiện?
+ Những vấn đề gì tổ chức cần tránh?
- Những cơ hội tổ chức đang có:

78
+ Những cơ hội mà tổ chức đang có?
+ Những xu hướng quan trọng mà tổ chức nhận thức được là gì?
Các cơ hội đối với tổ chức thường xuất phát từ: Những thay đổi trong
chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến lĩnh vực công tác mà tổ chức đảm
nhiệm; Những thay đổi về chính sách của Bộ, ngành, địa phương; Sự phát triển
của công nghệ, thông tin; Yêu cầu phát triển của công nghệ thông tin; Yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội; sự hỗ trợ, hợp tác của nước ngoài.
- Những thách thức tổ chức đang đổi mặt:
+ Những trở ngại mà tổ chức đang gặp phải là gì?
+ Những yêu cầu về nhiệm vụ, công việc của tổ chức có thay đổi gì không?
+ Tổ chức gặp phải những vấn đề ngân sách không?
+ Có những yếu tố nào của địa phương có thể đe dọa nghiêm trọng đến
hoạt động của tổ chức không?
+ Những yếu tố đe dọa từ môi trường tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội.
Sau khi đã xác định các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của tổ
chức nhóm lập kế hoạch sắp xếp các nội dung trên theo bảng sau:
Bảng 1: Phân tích môi trường bên trong và bên ngoài của tô chức
Những mặt mạnh Những mặt yếu
1.……………………………… 1……………………………………….
2.……………………………… 2……………………………………….
3.……………………………… 3……………………………………….
Những cơ hội Những thách thức
1. ………………………………….. 1.…………………………………..
2…………………………………… 2.…………………………………..
3…………………………………… 3.…………………………………..

Bảng 2: Ma trận phân tích SWOT

79
Cơ hội Thách thức, nguy cơ
(Opportunities) (Threats)
Điểm mạnh SO: Kết hợp điểm mạnh và cơ hội. ST: Kêt hợp điêm mạnh và
(Strength) Các mục tiêu được xây dựng dựanguy cơ. Các mục tiêu dựa trên
trên điểm mạnh, ưu thế của tổ chức ưu thế của tổ chức để tránh các
để tận dụng các cơ hội của môi nguy cơ từ môi trường.
trường.
Điểm yếu WO: Kêt hợp điêm yêu và cơ hôi.WT: Kêt hợp điêm yếu và nguy
(Weeknesses) Các muc tiêu dưa trên khả năng vượtcơ. Các mục tiêu dựa trên khả
qua các yếu điểm của tổ chức để tậnnăng vượt qua hoặc hạn chế tối
dụng cơ hội của môi trường bênđa các điểm yếu của tổ chức để
ngoài đem lại. tránh các đe dọa từ môi trường
bên ngoài.

Kết quả của quá trình phân tích SWOT phải đảm bảo cụ thể, thực tế và
khả thi vì tổ chức sẽ sử dụng kết quả đó để thực hiện những bước tiếp theo như:
hình thành mục tiêu kế hoạch và cơ chế kiểm soát ké hoạch cụ thể. Một bản kế
hoạch có hiệu quả là kế hoạch có thể tận dụng tối đa các cơ hội bên ngoài và sức
mạnh bên trong, cũng như vô hiệu hóa được những nguy cơ bên ngoài và hạn
chế hoặc vượt qua được những yếu kém của bản thân tổ chức. Chất lượng phân
tích của mô hình SWOT phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thông tin thu thập
được. Do đó, thông tin cần khách quan, chính xác, tránh cái nhìn chủ quan từ
một phía, nên tìm kiếm thông tin từ nhiều bên khác nhau như Lãnh đạo cơ quan,
các cơ quan cấp trên, cấp dưới, các đối tác, nhà tư vấn và công dân, tổ chức.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÔNG VIỆC CỦA VIÊN CHỨC ĐIỀU DƯỠNG
2.1. Tổ chức không gian làm việc
a. Những yêu cầu chung cần thiết của nơi làm việc:
- Phù hợp với tính chất và quy mô hoạt động của cơ quan: trụ sở cơ quan 
phải thể hiện được bộ mặt cơ quan, tương thích với vị trí, tuy nhiên không phô
trương quá mức làm lãng phí tiền của đối với cơ quan nhà nước. Các cơ quan
cần sắp xếp, bố trí, sử dụng hợp lý trụ sở làm việc và phương tiện hiện có để
phục vụ công việc.

80
- Tính thuận lợi phục vụ công việc: môi trường xung quanh thích hợp
(không quá ồn ào),  trang bị phương tiện đầy đủ (luôn được hoàn thiện, cải tiến)
phục vụ cho công vụ và sinh hoạt cá nhân, cách thức tổ chức và tạo ra một tâm
lý tích cực, giảm căng thẳng, mệt nhọc, tình cảm gắn bó giữa cán bộ, nhân viên
cũng như giữa họ và nơi làm việc.
- Tính dễ dàng liên hệ giao dịch;
- Tính bảo mật.
b. Sắp xếp bố trí  nơi làm việc:
- Các bộ phận lãnh đạo, văn phòng: cần được bố trí ở nơi dễ giao dịch
nhất và có tư thế nhất. Các phòng làm việc  được bố trí theo nguyên tắc bảo đảm
giải quyết dây chuyền giải quyết công việc, các phòng ban có quan hệ thường
xuyên với nhau được bố trí gần nhau , các phòng ban tiếp khách được bố trí gần
lối ra vào - Các phòng có phương tiện máy móc, kỹ thuật, lưu trữ nên bố trí ở
vị trí biệt lập, cần trang bị các phương tiện bảo quản giữ gìn máy móc, thiết bị
- Diện tích phòng làm việc phải phù hợp với tính chất của từng bộ phận
- Các đồ dùng văn phòng, bàn ghế , tủ hồ sơ, các lọai sổ sách, giấy bút…
cần bố trí sắp xếp phù hợp với động tác làm việc, ngăn nắp tạo không khí thoải
mái trong làm việc.
- Phòng làm việc phải bảo đảm phát huy hết tác dụng tích cực của các yếu
tố tác động đến năng suất lao động như sự thoáng mát, nhiệt độ, tiếng ồn, ánh
sáng, màu sắc…
- Có hệ thống bảng chỉ dẫn hành chính toàn cơ quan, từng phòng làm
việc, từng chức danh công vụ để dễ tìm, liên hệ công tác.
2.2. Lập mô tả công việc
Một bản mô tả công việc cho một vị trí công việc (hay “chức danh công
việc”) là cơ sở để người quản lý giao việc, theo dõi thực hiện công việc, tuyển
dụng, đào tạo nhân viên, và đánh giá kết quả công việc nhân viên. Đồng thời,
bản mô tả công việc cũng là cơ sở để nhân viên đảm nhận vị trí công việc đó
biết rõ mục tiêu của công việc, chức năng và nhiệm vụ, yêu cầu kết quả đối với
các công việc được giao, quyền hạn và trách nhiệm có được khi thực hiện các

81
chức năng đó. Như vậy, bản mô tả công việc không chỉ là bản cam kết công việc
giữa người quản lý và nhân viên, mà còn là cơ sở hướng dẫn để nhân viên thực
hiện công việc của mình một cách phù hợp nhất, đóng góp vào việc hoàn thành
kế hoạch hoạt động của bộ phận, cũng như của tổ chức.
Những nội dung cơ bản trong bảng mô tả công việc
- Mục tiêu công việc
Bản mô tả công việc phải nêu lên được mục tiêu của vị trí công việc: “vị
trí này tồn tại để làm gì cho tổ chức?”. Đây chính là mục tiêu công việc phù hợp
với các chức năng chính yếu mà vị trí này đảm nhận. Ví dụ, đối với vị trí
Trưởng phòng nhân sự có chức năng đề xuất chính sách nhân sự, theo dõi và tư
vấn thực hiện chính sách thì mục đích có thể là “Bảo đảm chất lượng và số
lượng nguồn nhân lực cho tổ chức thông qua việc thực hiện các chính sách nhân
sự phù hợp với nhu cầu quản lý và hiệu quả nhất”
- Chức năng và nhiệm vụ
Chức năng của mỗi vị trí được phân bổ từ chức năng chung của bộ
phận. Để thực hiện được từng chức năng này, bản mô tả công việc phải chỉ ra
được các nhiệm vụ chủ yếu. Nói cách khác, chức năng là tổng hợp của một
nhóm các nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được mô tả với các động từ hành động cụ thể nhưng không phải
là dạng quy trình. Mô tả “làm cái gì” chứ không mô tả “làm như thế nào”.
Chức năng và nhiệm vụ cần được sắp xếp theo thứ tự quan trọng và
trình tự thực hiện, đồng thời nên được diễn tả ngắn gọn và rõ rang. Một số
bản mô tả công việc cố gắng liệt kê tất cả các nhiệm vụ dẫn đến danh sách
nhiệm vụ rườm rà mà vẫn có thể không mô tả hết được các nhiệm vụ có thể
phát sinh khi thực hiện công việc.
Mỗi nhiệm vụ riêng lẻ hoặc một vài nhóm nhiệm vụ sẽ có mô tả yêu cầu
kết quả kỳ vọng tổng thể cho vị trí công việc. Đây là nhưng tiêu chuẩn đánh giá
định tính, là cơ sở để quản lý thực hiện công việc đối với người quản lý cũng
như tiêu chí thực hiện công việc cho nhân viên như đã đề cập trên đây.
- Quyền hạn và trách nhiệm

82
Quyền hạn và trách nhiệm phải tương ứng với chức năng và nhiệm vụ của
vị trí. Mỗi cá nhân được chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình với các
quyền hạn này, đồng thời phải chịu trách nhiệm cho kết quả công việc của các
nhiệm vụ đó. Các quyền hạn chủ yếu thường bao gồm quyền hạn về sử dụng
nguồn lực tài chính, nhân sự, hoạt động, hay đại diện ký kết văn bản, quyết định.
Trong khi đó, các trách nhiệm chủ yếu là về tài sản, tài chính, pháp lý, con
người liên quan tới quá trình thực thi nhiệm vụ.
- Yêu cầu năng lực
Đây là những yêu cầu về năng lực cần thiết ở mức tối thiểu đối với vị trí
để thực hiện được các nhiệm vụ đã nêu, chứ không phải là mô tả về năng lực của
các cá nhân. Các yêu cầu năng lực cơ bản có thể bao gồm học vấn, chuyên môn,
kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ.
Như vậy, để viết một bản mô tả công việc tốt sẽ cần nhiều thông tin hơn
so với một danh sách các công việc thường làm của một vị trí. Hệ thống các bản
mô tả công việc được xây dựng một cách bài bản chắc chắn sẽ là công cụ đắc
lực trong quản lý nhân sự và quản lý hoạt động của đơn vị
2.3. Kiểm soát và đánh giá công việc
a. Kiểm soát công việc
Kiểm soát là quá trình giám sát, đo lường, đánh giá và điều chỉnh hoạt
động nhằm đảm bảo sự thực hiện theo kế hoạch
Kiểm soát là chức năng quan trọng của nhà quản lý nhằm thu thập thông
tin về các quá trình, hiện tượng đang diễn ra trong một tổ chức.
Tính chất quan trọng của kiểm soát được thể hiện ở cả hai mặt. Một mặt,
kiểm soát là công cụ quan trọng để nhà quản lý phát hiện ra những sai sót và có
biện pháp điều chỉnh. Mặt khác, thông qua kiểm soát, các hoạt động sẽ được
thực hiện tốt hơn và giảm bớt được sai sót có thể nảy sinh.
Thường thường, người ta chỉ nhấn mạnh đến ý nghĩa thứ nhất (phát hiện
sai sót) của kiểm soát vì cho rằng mọi hoạt động đều không tránh khỏi sai sót và
kiểm soát là bước cuối cùng để hạn chế tình trạng này. Điều đó đúng, nhưng
chưa đủ, vì trong thực tế, kiểm soát có tác động rất mạnh đến các hoạt động.
Một công việc, nếu không có kiểm soát sẽ chắc chắc nảy ra nhiều sai sót hơn

83
nếu được theo dõi, giám sát thường xuyên. Điều đó khẳng định rằng kiểm soát
không chỉ là giai đoạn cuối cùng trong quá trình hoạt động của hệ thống hoặc là
khâu sau cùng của chu trình quản lý (từ lập kế hoạch đến tổ chức lãnh đạo).
Kiểm tra cũng không phải là hoạt động đan xen mà là một quá trình liên tục về
thời gian và bao quát về không gian. Nó là yếu tố thường trực của nhà quản lý ở
mọi lúc, mọi nơi.
Như vậy, chức năng quản lý của hoạt động kiểm soát là giám sát, đo
lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm để đảm bảo rằng các mục tiêu của
tổ chức và các kế hoạch vạch ra để đạt tới các mục tiêu này đã và đang được
hoàn thành.
b. Đánh giá công việc
Đánh giá thực hiện công việc thường được hiểu là sự đánh giá có hệ
thống và chính thức tình hình thực hiện công việc của người lao động trong
quan hệ so sánh với các tiêu chuẩn đã được xây dựng và thảo luận về sự đánh
giá đó với người lao động.
- Tính hệ thống được thể hiện qua 3 góc độ:
+ Đánh giá sử dụng một hệ thống gồm nhiều chỉ tiêu liên quan đến nhau
chứ không phải theo các chỉ tiêu đơn lẻ;
+ Đánh giá theo một chu kỳ nhất định (1 tháng, 1 quý, 6 tháng, 1 năm…);
+ Đánh giá theo một quy trình thống nhất.
- Tính chính thức được thể hiện qua 3 góc độ:
+ Đánh giá công khai trong toàn tổ chức;
+ Đánh giá bằng các văn bản chính thức;
+ Kết quả đánh giá được phản hồi đến các đối tượng liên quan (người lao
động, người quản lý…).
- Mục đích của đánh giá. Trong tổ chức, đánh giá thực hiện công việc có ý
nghĩa quan trọng vì nó phục vụ được nhiều mục tiêu quản lý và tác động trực tiếp
tới cả người lao động và tổ chức nói chung. Các mục tiêu mà đánh giá thực hiện
công việc phục vụ có thể được quy về hai mục tiêu cơ bản là cải tiến sự thực hiện
công việc của người lao động và giúp cho những người quản lý có thể đưa ra

84
được các quyết định nhân sự đúng đắn như đào tạo và phát triển, thù lao, thăng
tiến, kỷ luật…
- Các yếu tố của hệ thống đánh giá thực hiện công việc. Để đánh giá thực hiện
công việc, cần phải thiết lập một hệ thống đánh giá với ba yếu tố cơ bản sau:
+ Xây dựng các tiêu chuẩn thực hiện công việc.
+ Đo lường sự thực hiện công việc theo các tiêu thức trong tiêu chuẩn:
Người đánh giá sử dụng các phương pháp đánh giá để tiến hành đo lường sự
thực hiện công việc của người lao động thông qua việc so sánh thực tế thực hiện
công việc với các tiêu chuẩn.
+ Thông tin phản hồi đối với người lao động và bộ phận quản lý nguồn
nhân lực. Các kết quả đánh giá được thảo luận với người lao động để nhằm hoàn
thiện sự thực hiện công việc của họ. Đồng thời, các kết quả đánh giá được cung
cấp tới bộ phận quản lý nguồn nhân lực, được lưu giữ trong hồ sơ nhân viên,
làm cơ sở để ra các quyết định về nguồn nhân lực có liên quan đến công việc
của người lao động mà mục tiêu cuối cùng cũng là nhằm hoàn thiện sự thực hiện
công việc của người lao động.
- Các yêu cầu đối với một hệ thống đánh giá thực hiện công việc
Để đánh giá có hiệu quả, hệ thống đánh giá thực hiện công việc phải đáp
ứng các yêu cầu sau:
+ Tính phù hợp. Yêu cầu này đòi hỏi phải có sự liên quan rõ ràng giữa các
tiêu chuẩn thực hiện công việc. các tiêu thức đánh giá với các mục tiêu của tổ
chức. Nói cách khác, hệ thống đánh giá phải phù hợp với mục tiêu quản lý, phục
vụ được mục tiêu quản lý. Đồng thời, phải có sự liên quan rõ ràng giữa các yếu
tố chủ yếu của công việc đã được xác định thông qua phân tích công việc với
các chỉ tiêu đánh giá được thiết kế trong phiếu đánh giá.
+ Tính nhạy cảm. Đòi hỏi hệ thống đánh giá phải có những công cụ đo
lường có khả năng phân biệt được những người hoàn thành tốt công việc và
những người không hoàn thành tốt công việc.
+ Tính tin cậy. Được thể hiện ở sự nhất quán của đánh giá. Có nghĩa là, hệ
thống đánh giá phải đảm bảo sao cho đối với mỗi một người lao động bất kỳ, kết
quả đánh giá độc lập của những người đánh giá khác nhau về họ phải thống nhất

85
với nhau về cơ bản.
+ Tính được chấp nhận. Đòi hỏi hệ thống đánh giá phải được chấp nhận
và ủng hộ bởi người lao động.
+ Tính thực tiễn. Để có thể thực hiện được trên thực tế, các phương tiện
đánh giá phải đơn giản, dễ hiểu và dễ sử dụng đối với người lao động và với người
quản lý.
- Các lỗi cần tránh trong đánh giá thực hiện công việc. Trong đánh giá
thực hiện công việc, cần tránh mắc các lỗi sau đây:
+ Lỗi thiên vị: người đánh giá sẽ mắc lỗi thiên vị khi họ ưa thích một
người lao động nào đó hơn những người khác.
+ Lỗi xu hướng trung bình: những người đánh giá ngại đương đầu với
thực tế, không muốn làm mất lòng người khác thường có xu hướng đánh giá tất
cả mọi người ở mức trung bình.
+ Lỗi thái cực: lỗi này sẽ xảy ra khi người đánh giá tỏ ra quá nghiêm khắc
hoặc quá dễ dãi trong đánh giá.
+ Lỗi định kiến do tập quán văn hoá: ý kiến của người đánh giá có thể bị
sai lệch do ảnh hưởng của tập quán văn hóa của bản thân.
+ Lỗi thành kiến: người đánh giá có thể không ưa thích một tầng lớp hay
một nhóm người lao động nào đó và không khách quan trong đánh giá.
+ Lỗi do ảnh hưởng của sự kiện gần nhất: ý kiến của người đánh giá cũng
có thể bị chi phối bởi những hành vi mới xảy ra nhất của người lao động.
2.4. Danh mục công việc hàng ngày
Nếu sử dụng thời gian chưa hiệu quả thì việc đầu tiên nên làm là xem xét
một cách cẩn thận về việc phân bổ thời gian cho các công việc. Việc phân tích
cách phân bổ và sử dụng thời gian là giải pháp tốt nhất để giúp chúng ta biết
mình đang lãng phí thời gian vào những việc gì để có thể phân bổ lại thời gian
cho hợp lí hơn.
Một công cụ giúp công chức có cái nhìn tổng quan về hiện trạng phân bổ và sử dụng thời gian là Nhật
ký thời gian. Có thể tham khảo mẫu nhật ký thời gian bên dưới hoặc điều chỉnh cho phù hợp với bản thân. Khi
lập nhật ký thời gian, nên bắt đầu từ thời điểm bắt tay vào công việc đầu tiên cho đến khi kết thúc công việc
cuối cùng trong ngày để nghỉ ngơi.

86
NHẬT KÝ THỜI GIAN
Thứ….ngày….tháng…..năm….
Thời gian thực hiện Nội dung công việc Thời lượng
…………………………… …………………………… ……………………
…………………………… …………………………… ……………………
…………………………… …………………………… ……………………

Điều quan trọng là phải ghi lại các công việc cùng với thời lượng đã sử
dụng một cách chính xác và theo trình tự thời gian. Không chỉ ghi lại các công
việc lớn, quan trọng chiếm nhiều thời gian hoặc đã được lên lịch trước như đến
công sở, hội họp, viết báo cáo, xử lý công việc… mà cả các việc nhỏ, không
quan trọng nhưng vẫn chiếm thời gian trong ngày của bạn như thăm hỏi, hiếu hỉ,
mua sắm hay tán gẫu với đồng nghiệp….
2.5. Sắp xếp công việc theo thứ tự ưu tiên theo ma trận thời gian
Một công cụ nữa cũng rất hữu ích để giúp công chức quản lý thời gian
một cách hiệu quả đó là, ma trận quản lý thời gian của Stephen Covey.
Quản lý thời gian bằng ma trận thời gian được thực hiện theo các bước sau đây:
Bước 1: Liệt kê những công việc phải làm, kể cả những hoạt động không
quan trọng nhưng làm mất thời gian tại nơi làm việc.
Bước 2: Sắp xếp các công việc và hoạt động vào bảng ma trận, dựa trên
tầm quan trọng và tính cấp thiết của chúng.
Quan trọng là những hoạt động mà kết quả của chúng sẽ dẫn đến mục
tiêu, cho dù đó là những hoạt động của cá nhân hoặc trong công việc.
Khẩn cấp là những hoạt động không cho phép chậm trễ, đòi hỏi phải có
ngay những hành động đối phó.

Ma trận thời gian

87
QUAN TRỌNG I II

KHÔNG
III IV
QUAN TRỌNG

KHẨN CẤP KHÔNG KHẨN CẤP

+ Phần tư (I) là dành cho những việc vừa khẩn cấp và vừa quan trọng.
Những công việc rơi vào ô này phải được thực hiện ngay và trước tiên. Quan
trọng Không quan trọng
+ Phần tư (II) là dành cho những công việc quan trọng song lại không
khẩn cấp. Những công việc rơi vào ô này cần phải xây dựng kế hoạch thực hiện
một cách thích hợp.
+ Phần tư (III) là dành cho những công việc không quan trọng nhưng lại khẩn
cấp, đòi hỏi phải thực hiện ngay. Những việc này thực hiện càng sớm càng tốt.
+ Phần tư (IV) là dành cho những hoạt động không quan trọng và cũng
không khẩn cấp. Những công việc thuộc nhóm này, công chức có thể thực hiện
khi có thời gian rảnh rỗi.
Bước 3: Đánh giá thời gian đã được sử dụng như thế nào, và nếu cần thiết,
sắp xếp lại các công việc.
+ Nếu phần lớn khối lượng công việc tập trung ở ô số I, công chức sẽ luôn
rơi vào tình trạng căng thẳng, khủng hoảng, và cảm thấy kiệt sức vì công việc.
+ Nếu hầu hết các công việc của bạn được sắp xếp vào ô số II, điều đó
chứng tỏ công chức luôn chủ động với công việc, làm việc theo kế hoạch, có
tầm nhìn dài hạn, không bị rơi vào tình trạng khủng hoảng và áp lực.
+ Nếu phần lớn công việc nằm ở ô số III, nghĩa là công chức thường xuyên
phải giải quyết các công việc vụn vặt mang tính đối phó, không tập trung vào mục tiêu
dài hạn, không hướng tới mục tiêu và sẽ luôn cảm thấy mình là nạn nhân, thụ động.

88
+ Nếu phần lớn công việc thuộc ô số IV, điều đó chứng tỏ công chức bị
tiêu tốn thời gian vào những việc vô ích mà không đem lại lợi ích gì đáng kể,
thiếu trách nhiệm với công việc, phụ thuộc vào người khác…
Dưới đây là cách phân bố thời gian hợp lý theo phương pháp này:

Ô số I: 15% - 20% Ô số II: 60% - 65%

Ô số IV: dưới 5%
Ô số III: 10% - 15%

2.6. Phối hợp thực hiện công việc hiệu quả theo kế hoạch
Sự cần thiết của hoạt động phối hợp thực hiện công việc trong hoạt động
công việc của cán bộ, viên chức.
Thứ nhất, phối hợp là một yêu cầu quan điều hành công việc. Phối hợp
chính là quá trình làm việc cùng nhau của một nhóm người hay của các tổ chức
nhằm đạt được mục đích của mà họ muốn hướng tới. Mục đích của phối hợp
chính là tăng cường trách nhiệm, năng lực tổ chức thực hiện và sự liên kết của
các cơ quan liên quan bảo đảm sự thống nhất từ trung ương cho đến địa phương,
giữa các cơ quan có liên quan và trong nội bộ cơ quan, tổ chức nhằm nâng cao
hoạt động trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan đơn vị.
Thứ hai, phối hợp là điều kiện để tổ chức hoạt động hiệu quả. Bởi hoạt
động phối hợp sẽ giúp các tổ chức, cá nhân hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau thực hiện tốt
công việc trong bối cảnh yêu cầu của xã hội ngày càng cao.
Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý phối hợp tốt giúp thiết lập các mối liên
hệ hợp tác giữa các chủ thể nhằm chống lại bệnh cục bộ, chỉ quan tâm đến vai
trò chuyên môn và quyền lợi của bộ phận mình mà không nghĩ đến vai trò,
nhiệm vụ của bộ phận khác. Đồng thời, phối hợp là cơ sở để thiết lập những mối
quan hệ hợp tác giữa các bộ phận, các tổ chức và cá nhân có liên quan. Phối hợp
còn là cơ sở nhằm thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt
động phối hợp của các chủ thể, nhằm đảm bảo cho các chủ thể hoạt động nhịp
nhàng, ăn khớp; là thước đo hiệu quả trong quy trình phối hợp quản lý công việc

89
được giao.
2.7. Sắp xếp và lữu trữ thông tin
a. Sắp xếp thông tin
- Phân loại thông tin. Việc phân loại thông tin rất quan trọng, nếu phân
loại có hệ thống thì sẽ dễ dàng cho việc kiểm tra, sắp xếp. Nên phân loại theo
cách như sau:
+ Phân loại theo chủ đề. Trong cùng một loại hồ sơ nên chia nhỏ theo
từng chủ đề ví dụ như: báo cáo, kế toán, hợp đồng, quảng cáo, tiếp thị…
+ Phân loại theo cụm. Trong cùng một loại chủ đề nên chia nhỏ thông tin
theo từng cụm ví dụ như: cụm quý 1, cụm quý 2, cụm quý 3, cụm 4.
+ Phân loại theo nhóm. Trong cùng một cụm thông tin nên chia nhỏ ra
theo từng nhóm ví dụ như: nhóm quý 1, nhóm quý 2, nhóm quý 3, nhóm quý 4.
- Sắp xếp thông tin: Sau khi phân loại, chúng ta cần sắp xếp thông tin một
cách khoa học. Nên sắp xếp theo cách như sau:
+ Sắp xếp theo thời gian: Dựa theo thứ tự thời gian của sự việc để sắp xếp
trước sau. Cần ghi chú cẩn thận thời điểm để khi tìm kiếm được dễ dàng.
+ Sắp xếp theo mẫu tự: Sắp xếp dựa theo thứ tự mẫu tự (A,B,C…) của thông
tin. Ví dụ mẫu tự T sẽ xếp theo thứ tự: thiệp mời - thống kê – thư từ - tiếp thị.
+ Sắp xếp theo tính chất. Sắp xếp dựa theo tính chất của thông tin. Ví dụ:
Thông tin bình thường, mật, tối mật; Thông tin chưa giải quyết, đang giải quyết
chưa dứt điểm, đã giải quyết xong
- Lập danh mục thông tin. Danh mục thông tin là bản liệt kê một cách hệ
thống thông tin của đơn vị. Nhờ vào danh mục này mà chúng ta có thể sắp xếp,
quản lý và tra cứu thông tin nhanh chóng.
+ Tạo một danh mục cụ thể, chính xác. Sau khi đã chọn cách sắp xếp,
chúng ta tạo danh mục thông tin chi tiết. Nên đưa vào máy vi tính, tạo cây thư
mục, với thư mục cấp 1 là danh mục thông tin, thư mục cấp 2 là chủ đề thông
tin… Như vậy, lúc cần tra cứu chúng ta có thể xem nhanh nhờ cây thư mục trên
máy vi tính.
+ Danh mục thông tin phải được cập nhật thường xuyên. Khi đã đưa danh

90
mục vào máy vi tính, chúng ta nên lưu lại cây thư mục cũ trước khi cập nhật.
Như vậy, lúc cần xem xét lại, chúng ta biết được từng thời điểm bổ sung thông
tin mới mới.
b. Lữu trữ thông tin
- Phương tiện giấy: tủ kệ tiêu chuẩn văn phòng, tủ kệ mở (không cửa), tủ
kệ di động, tủ kệ an toàn, tủ kệ xoay, tủ kệ đặc biệt có phím ấn, tủ kệ liên hợp.
- Phương tiện điện từ: đĩa mềm, đĩa cứng, đĩa CD-ROM, chụp vi phim,…
- Vật dụng bổ trợ: nhãn bìa kẹp, nhãn thẻ chỉ dẫn, nhãn ngăn kéo, bìa kẹp ‘out’
Dù sử dụng phương tiện lưu trữ gì, áp dụng vật dụng hỗ trợ tìm kiếm nào,
thì việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào công tác này là rất quan trọng trong thời
đại ngày nay, mà phổ biến nhất hiện nay là máy vi tính cá nhân.
BÀI TẬP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
1. Phân tích các lợi ích của lập kế hoạch để thấy được tầm quan trọng của công
tác này tại cơ quan, đơn vị.
2. Sử dụng kỹ thuật phân tích cây vấn đề để phân tích một vấn đề cụ thể tại cơ
quan, đơn vị nơi anh (chị) công tác.
3. Dùng kỹ thuật SWOT để phân tích môi trường bên ngoài và thực trạng của cơ
quan, đơn vị nơi anh (chị) công tác.
4. Thực hành xây dựng một kế hoạch của cơ quan, đơn vị nơi anh (chị) công tác
theo đúng quy trình, kỹ thuật trong lập kế hoạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: sổ tay hướng dẫn lập ké hoạch phát triển kinh tế - xã
hội hàng năm ở cấp xã, 2011.
2. Bộ Nội vụ, Trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: Tài liệu bồi dưỡng
nghiệp vụ, kỹ năng quản lý đối với Trưởng phòng, phó trưởng phòng ngành
nội vụ.
4. Học viện Hành chính - Dự án hỗ trợ Học viện Hành chính của DANIDA: Kỹ
năng lập và thực hiện kế hoạch trong hành chính cấp xã, 2006.
6. Ủy ban dân tộc: Chuyên đề Lập kế hoạch có sự tham gia của người dân,

91
2008.

92
Chuyên đề 4
KỸ NĂNG QUẢN LÝ THỜI GIAN VÀ KỸ NĂNG PHỐI HỢP TRONG
CÔNG VIỆC CỦA VIÊN CHỨC ĐIỀU DƯỠNG

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 12 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 8 tiết
I. KỸ NĂNG QUẢN LÝ THỜI GIAN
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chuyên đề, học việc có thể:
1. Hiểu được sự cần thiết phải quản lý thời gian, nguyên nhân của việc lãng phí
thời gian;
2. Biết được các biện pháp sử dụng thời gian có hiệu quả như: Hiểu về bản
thân, thực hành sự ngăn nắp, lập kế hoạch công việc và giáo tiếp hiệu quả
hơn.
3. Có kỹ năng sử dụng một số công cụ quản lý thời gian có hiệu quả, như: Nhật
ký thời gian; lịch công việc và Ma trận thời gian.
NỘI DUNG
1. Sự cần thiết phải quản lý thời gian
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý thời gian, chẳng hạn như:
- Quản lý thời gian có nghĩa là làm được nhiều việc hơn trong một khoảng
thời gian nhất định.
- Quản lý thời gian là việc không lãng phí thời gian vào những việc không
liên quan.
- Quản lý thời gian để tránh được việc vội vã khi hoàn thành công việc
vào phút cuối.
- Quản lý thời gian là việc quyết định sử dụng thời gian một cách tốt nhất.

93
Trong hoạt động công việc, quản lý thời gian được hiểu là việc cán bộ,
công chức, viên chức kiểm soát tốt hơn khoảng thời gian 8h tại cơ quan; đồng
thời vận dụng các kỹ năng để sử dụng, phân bổ khoảng thời gian đó một cách
hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả thực thi công việc. Do đó, việc quản lý thời gian
là một việc làm hết sức cần thiết. Sự cần thiết phải quản lý thời gian vì những lý
do đặc tính của thời gian và lợi ích của việc quản lý thời gian mang lại.
1.1. Do đặc tính của thời gian
Khác với các nguồn lực khác, thời gian chứa đựng những đặc tính mà
không một nguồn lực nào có được:
- Không thể quay lại;
- Không thể dự trữ;
- Không thể thay thế;
- Không thể đảo ngược.
Điều đó có nghĩa là, thời gian đã trôi qua thì không thể lấy lại được, thời
gian đã lãng phí thì không thể đảo ngược được, thời gian không sử dụng sẽ
không thể tiết kiệm hay dự trữ cho các mục tiêu tương lai, và thời gian là duy
nhất mà không thể có sự thay thế.
1.2. Lợi ích của việc quản lý thời gian hiệu quả
Sử dụng nguồn lực thời gian tốt và hợp lý sẽ mang lại rất nhiều lợi ích
thuyết phục. Người ta thường nói rằng, sự khác nhau cơ bản giữa người thành
công và kẻ thất bại chính nằm ở cách mà họ sử dụng thời gian của bản thân, bởi
vì quản lý thời gian tốt sẽ mang lại những giá trị sau đây:
- Nâng cao hiệu quả và năng suất làm việc: Quản lý thời gian tốt sẽ giúp
công chức biết cách phân bổ thời gian hợp lý giữa công việc chuyên môn, công
việc cá nhân và thời gian giải trí; sẽ giúp tập trung cho những công việc mang
tính mục tiêu và dài hạn; sẽ giúp lựa chọn khung giờ tốt nhất để hoàn thành
những công việc quan trọng nhất; giúp thực hiện công việc một cách trôi chảy,
tuần tự, theo kế hoạch, từ đó nâng cao được hiệu suất của công việc.
- Có thể dự trù được nhiều việc cho kế hoạch tương lai và giải quyết các
vấn đề mang tính dài hạn: Quản lý thời gian tốt luôn gắn với việc xây dựng kế

94
hoạch thực hiện công việc, giúp chủ động với những mục tiêu mang tính dài
hạn, tránh tập trung vào những công việc vụn vặt, tức thì nhưng lại không quan
trọng, không mang lại giá trị.
- Giảm bớt áp lực trong công việc: Khi biết cách quản trị thời gian hợp lý,
công chức sẽ luôn chủ động với các kế hoạch của mình, không rơi vào tình trạng
căng thẳng hay khủng hoảng do công việc bị ứ đọng hoặc dồn nén. - Tăng lượng
“thời gian riêng tư” cho mỗi cá nhân: Quản lý thời gian tốt sẽ tạo thêm nhiều
thời gian dành cho những những giá trị cá nhân …
- Tăng niềm vui trong công việc và cuộc sống: Khi cán bộ, công chức hài
lòng với kết quả công việc, chủ động với công việc được giao, không bị áp lực
về thời gian, có đủ thời gian cho cá nhân, đó chính là lúc cán bộ, công chức luôn
cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc.
Như vậy, quản lý thời gian hiệu quả không chỉ mang lại ích lợi là nâng
cao hiệu suất làm việc của cá nhân mà còn góp phần nâng cao hiệu quả công
việc của cơ quan, tổ chức. Đặc biệt trong bộ máy cơ quan nhà nước, quản lý thời
gian hiệu quả là nâng cao năng suất lao động trong khu vực công, là cơ sở để
xác định lại vị trí việc làm, xác định khối lượng biên chế phù hợp và góp phần
vào thành công của chủ trương tinh giản biên chế trong giai đoạn hiện nay.
2. Nguyên nhân gây lãng phí thời gian
2.1.Thiếu các mục tiêu
Khi không đặt ra mục tiêu, sẽ không biết cần làm gì có ích cho công việc
và cuộc sống, không biết công việc nào quan trọng để ưu tiên làm trước. Khi đó
sẽ rất dễ sa đà và mất thời gian vào những việc không mang lại nhiều giá trị cho
bản thân.
2.2. Làm việc không có kế hoạch
Khi không kiểm soát được các việc cần làm, công chức sẽ rơi vào tình
trạng lúc thì thảnh thơi lúc thì “vắt chân lên cổ” để giải quyết công việc. Tuy
nhiên, công việc đã được lên kế hoạch (không phải cứng nhắc) được thực hiện
theo thời gian đã định trong kế hoạch, đôi khi người ta phải biết điều chỉnh linh
hoạt cho phù hợp với tình trạng công việc và khi có những tình huống bất ngờ
xảy đến.

95
2.3. Tính trì hoãn
Trì hoãn hay còn có những cách gọi khác với nghĩa tương tự là tính chần
chừ, hay thói lề mề, sự lần lữa làm cho thời gian trôi qua lãng phí. Điều này sẽ
khiến cho công việc bị dồn lại, ứ đọng, và rơi vào trạng thái mất kiểm soát khi
đến hạn chót.
2.4. Không có khả năng nói “không”
Khi không biết nói “không” với những công việc mà người khác nhờ làm,
có nghĩa công chức đã làm mất thời gian của chính mình bởi những công việc
không phải của bản thân và khi đó khó có thể tránh được những áp lực sau này.
2.5. Chủ nghĩa hoàn hảo
Người theo chủ nghĩa hoàn hảo hay còn gọi là người cầu toàn là những
người luôn nỗ lực làm mọi thứ một cách hoàn hảo nhất, không có sai sót và đặt
ra những tiêu chuẩn lẫn mục tiêu phi thực tế cho chính họ. Những người cầu
toàn lại liên tục trì hoãn vì họ sợ bị từ chối, chê bai và thất bại. Đối với họ, sẽ
luôn có thứ phải sửa chữa, thay đổi và họ nhất định không thực hiện nếu chưa
cảm thấy hài lòng. Bởi thế, sự trì hoãn rất thường xảy ra với những người có
tính cầu toàn.
2.6. Góc làm việc không gọn gàng
Đối với cán bộ, công chức, đây là một nguyên nhân gây lãng phí thời gian
khá phổ biến. Khi rơi vào bẫy này, công chức thường mất thời gian để tìm kiếm
vật dụng, tài liệu, hay những thiết bị làm việc khi cần sử dụng đến chúng. Đây là
một “tên trộm thời gian” rất thường xuyên gặp do chính thói quen của công chức
tạo nên.
2.7. Điện thoại - internet, chuyện phiếm
Thời gian sẽ lãng phí nếu dành nhiều thời gian cho nhắn tin, chat, các
mạng xã hội… đặc biệt là trong 8h làm việc tại cơ quan
3. Các biện pháp sử dụng thời gian hiệu quả
3.1. Hiểu về bản thân
a. Xác định mục tiêu cá nhân

96
Việc xác định mục tiêu trong công việc sẽ giúp công chức xem xét và
thực hiện công việc của mình một cách logic, và đạt hiệu quả cao. Xác định mục
tiêu nhằm: Tập trung cho những công việc quan trọng nhất, xác định được
phương hướng làm việc, ít tốn thời gian cho những việc không quan trọng, hạn
chế việc lãng phí thời gian. Do vậy, bước đầu tiên khi tiến hành công việc là
công chức cần phải xác định mục tiêu cụ thể cần đạt được khi hoàn tất công
việc. Để xác định mục tiêu tốt, cần vận dụng nguyên tắc dưới đây để mục tiêu
của bạn trở thành mục tiêu SMART (thông minh).
Mục tiêu cần phải có sự rõ ràng cụ thể về cái
Specific gì, ai, ở đâu, khi nào và tại sao. Có mục tiêu cụ
S
(cụ thể) thể, chúng ta sẽ biết mình cần gì, biết mình cần
bắt đầu từ đâu và khi nào kết thúc.
Measurable Mục tiêu đặt ra phải đo lường được cụ thể giá
M
(đo lường được) trị, số lượng hoặc khối lượng, thời gian …

Phải đảm bảo mục tiêu đặt ra có khả năng thực


hiện được nếu không sẽ dễ dàng mất tự tin và
thấy nản lòng. Tuy nhiên đừng đề ra những
mục tiêu quá đơn giản hoặc dễ dàng thực hiện
với bản thân mình quá. Khi đó chúng ta sẽ chủ
Achievable
A quan và đạt được mục tiêu dễ dàng quá sẽ
(Khả thi)
không tạo ra cảm giác hài lòng. Tốt nhất nên
thiết lập một mục tiêu thực tế nhưng thử thách
để cân bằng mọi thứ khiến bạn phải “nâng cao
khả năng” và mang lại sự hài lòng lớn nhất cho
bản thân
Khi đặt mục tiêu thích hợp với định hướng
cuộc sống và sự nghiệp, có thể tập trung để
Relevant luôn tiến lên và hoàn thiện mình. Còn nếu đặt
R
(Thích hợp) mục tiêu quá rộng và không phù hợp, chúng ta
sẽ thấy thời gian sẽ đi một đường, còn cuộc
sống sẽ đi một nẻo.

97
Timely Mục tiêu phải có thời gian để biết mình cần
thực hiện cách nào nhanh nhất, thời gian chờ
T (Thời hạn)
đợi kết quả là khi nào. Nếu không có thời gian
cụ thể sẽ khiến nhanh nản lòng.
Cần phải thường xuyên xem xét (cập nhật) lại các mục tiêu sao cho phù
hợp nhiệm vụ, công vụ được giao, có thể bằng các câu hỏi:
Các mục tiêu này có còn thực tế không?
- Các mục tiêu này có còn phù hợp không?
- Các mục tiêu này có còn liên quan không?
- Nếu bỏ các mục tiêu này có ảnh hưởng đến người khác không?
b. Xác định khung thời gian làm việc tốt nhất.
Khung giờ vàng là những thời điểm trong ngày mà người ta có năng
lượng dồi dào nhất, điều này sẽ phụ thuộc theo nhịp sinh học mỗi người khác
nhau. Một khi tự mình khám phá ra thời điểm tối ưu theo nhịp sinh học của
chính mình, chúng ta có thể tái thiết lập thời gian biểu để làm các nhiệm vụ hay
công việc quan trọng và ý nghĩa nhất trong các thời điểm này. Vậy, những việc
mà công chức cho là quan trọng nhất hãy dành thực hiện vào thời điểm khi tỉnh
táo và tràn đầy năng lượng nhất, khi đó công việc sẽ được giải quyết một cách
nhanh chóng và có kết quả như mong muốn.
c. Kiểm tra cách sử dụng thời gian của cá nhân
Để quản lý thời gian tốt, một trong những biện pháp nên thường xuyên
thực hiện, đó là kiểm kê thời gian để từ đó đánh giá mức độ hiệu quả trong việc
sử dụng thời gian cá nhân của bản thân. Kiểm kê thời gian nghĩa là liệt kê tất cả
công việc từ việc lớn đến việc nhỏ, từ việc chuyên môn đến việc riêng tư... trong
khoảng thời gian từ 5, 10, 15, 20 phút...; ghi chép và thống kê chi tiết việc sử
dụng thời gian liên tiếp trong 3 ngày đến 1 tuần; và khuyến khích lặp lại ít nhất
3 lần trong 1 năm. Cách thức mổ xẻ thời gian như vậy sẽ giúp trả lời các câu
hỏi: Tôi dành thời gian bao nhiêu để họp hành? Tôi đã làm công việc của người
khác mất bao lâu? Bao nhiều thời gian trong ngày, tôi đã dành cho việc đi tìm tài
liệu, sổ sách? ... Từ đó, công chức sẽ có phương hướng điều chỉnh thời gian cho
hợp lý và hiệu quả phù hợp với mục tiêu. Một công cụ tốt để giúp đánh giá việc

98
sử dụng và phân bổ thời gian của mình, đó là nhật ký thời gian. Công cụ này
được trình bày cụ thể trong phần 3 của chuyên đề.
d. Kiểm soát cảm giác căng thẳng
Kiểm soát căng thẳng hiệu quả có thể giúp công chức vượt qua áp lực của
công việc, từ đó sẽ cảm thấy yêu công việc hơn, hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn
và làm việc năng suất hơn. Một số chuyên gia khuyên rằng, một cách tốt để xóa
tan căng thẳng hay áp lực công việc là vận động và tập thể dục. Bên cạnh đó,
cũng có thể giải tỏa căng thằng trong công việc bằng cách dành thời gian để thư
giãn và giải trí, đừng cố gắng theo đuổi nhịp sống vội vã đến nỗi quên đi những
nhu cầu của chính bản thân công chức.
đ. Giữ tập trung khi làm việc
Việc vận dụng các nguyên tắc để quản lý thời gian hiệu quả đòi hỏi phải
có tính kỷ luật và rèn luyện thường xuyên để tạo thói quen. Nếu đã lập kế hoạch
thực hiện cụ thể, nhưng lại không có kỷ luật tuân thủ thực hiện công việc theo
thời gian đã xác định trong kế hoạch thì kế hoạch sẽ bị phá vỡ. Điều này có
nghĩa là quản lý thời gian bị thất bại.
Để rèn tính kỷ luật và tập trung, phải luôn nghiêm khắc với chính mình.
Cần xác định công việc đó ảnh hưởng đến công chức thế nào và nếu không hoàn
thành công việc thì sẽ có một kết quả không tốt. Hôm nay không làm được việc
đó, sẽ phải làm vào hôm sau, và nó sẽ chiếm mất thời gian biểu hôm sau, cứ thế
dần dần công chức sẽ không đạt được mục tiêu đã đề ra chỉ vì một ngày không
hoàn thành công việc.
e. Chuẩn bị cho sự thay đổi
Ở các cơ quan nhà nước, trong quá trình thực hiện công việc, cán bộ, công
chức có thể gặp phải những sự vụ mang tính đột xuất và khẩn cấp, sự cố... Các
sự cố này có thể làm "cháy" kế hoạch công việc đã lập sẵn. Mặc dù không thể
dự đoán được khi nào chúng xảy ra, song công chức có thể luôn sẵn sàng chuẩn
bị cho sự thay đổi này bằng cách dự trù trước một lượng thời gian nhất định để
giải quyết những sự vụ đột xuất và khẩn cấp. Dựa vào đó, công chức có thể chủ
động lên kế hoạch công việc cho mình.

99
3.2. Thực hành ngăn nắp
a. Dọn dẹp bàn làm việc
Sắp xếp nơi làm việc một cách gọn gàng, ngăn nắp và khoa học cũng là
một cách hiệu quả để tránh lãng phí thời gian. Điều này tuy rất nhỏ nhưng nó sẽ
giúp tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Thay vì phải lục tung mọi thứ để tìm
một văn bản nào đó thì chỉ cần đọc danh sách tài liệu là biết ngay nó đang ở đâu.
Thói quen này sẽ giúp công chức không mất quả nhiều thời gian vào việc tìm
kiếm đồ đạc hay tổng vệ sinh đống lộn xộn trong phòng.
b. Thực hành 5S: Sàng lọc, Sắp xếp, Sạch sẽ, Săn sóc, Sẵn sàng.
5S là tên của một phương pháp quản lý, sắp xếp nơi làm việc được vận
dụng đầu tiên ở Nhật. Áp dụng 5S mang lại nhiều lợi ích như: chỗ làm việc sạch
sẽ, gọn gàng, mọi người đều cảm thấy thoải mái, vui vẻ, năng suất lao động cao,
hiệu quả tức thời, hiện ra ngay trước mắt, tạo hình ảnh tốt cho tổ chức.
S1 - Sàng lọc: Sàng lọc có nghĩa là phân loại, tổ chức các tài liệu, vật
dụng theo trật tự. Đây chính là bước đầu tiên cần làm trong thực hành 5S. Nội
dung chính của S1 là phân loại, loại bỏ những thứ không cần thiết.
S2 - Sắp xếp: Sau khi đã loại bỏ các tài liệu, vật dụng không cần thiết thì
công việc tiếp theo là tổ chức các tài liệu, vật dụng còn lại một cách hiệu quả
theo tiêu chí dễ tìm, dễ thấy, dễ lấy, dễ trả lại.
S3 - Sạch sẽ: Thường xuyên vệ sinh, giữ gìn nơi làm việc sạch sẽ thông
qua việc tổ chức vệ sinh tổng thể và tổ chức vệ sinh hàng ngày nơi làm việc. S3
hướng tới cải thiện một môi trường làm việc sạch sẽ, thoải mái, thoáng mát...
nhằm nâng cao tinh thần và hứng thú với công việc.
S4 - Săn sóc: Luôn luôn kiểm tra, duy trì 3S ở trên. Bằng việc phát triển
S4, các hoạt động 3S sẽ được cải tiến dần dựa theo tiêu chuẩn đã đặt ra và tiến
tới hoàn thiện 5S trong cơ quan, tổ chức.
S5 - Sẵn sàng: Nghĩa là rèn luyện, tạo nên một thói quen, nề nếp, tác
phong cho mọi người trong cơ quan để thực hiện 5S thường xuyên và chủ động.
3.3. Lập kế hoạch công việc
a. Lập danh sách các công việc cần sẵn sàng

100
Một lỗi hay gặp về quản lý thời gian là cố gắng sử dụng trí nhớ để ghi nhớ
quá nhiều chi tiết dẫn đến việc thông tin bị quá tải. Sử dụng danh sách việc phải
làm để viết ra các việc là một cách rất hiệu quả nhằm kiểm soát dự án và các
nhiệm vụ phải thực hiện và giữ cho bản thân làm việc có tổ chức.
b. Lập kế hoạch làm việc và các bước thực hiện
Dành thời gian vào đầu tuần để lên kế hoạch công việc cho một tuần làm
việc. Điều này sẽ giúp tăng hiệu suất làm việc và cân bằng những dự án quan
trọng dài hạn với những nhiệm vụ đang cần kíp. Tất cả những gì chúng ta cần là
15 đến 30 phút mỗi tuần để lên kế hoạch cho cả tuần làm việc.
Một cách lập kế hoạch công việc khá hiệu quả, đó là vận dụng công thức
STARS.
 Steps - Các bước công việc (số thứ tự công việc)

 Timing - Ấn định thời gian cho thực hiện công việc

 Assignment - Phân công người thực hiện

 Responsibility - Người chịu trách nhiệm


 Success Criteria - Tiêu chí thành công, kết quả đạt được
Người chịu
Người thực Tiêu chí cần
Các bước (S) Thời gian (T) trách nhiệm
hiện (A) đạt được (S)
(R)

Một số lưu ý khi lập kế hoạch STARS:


- Đừng chia quá ít thời gian cho những việc trọng yếu, chỉ để làm xong
nhiều việc hơn trong hôm nay, vì như thế sẽ thất bại. Cần xác định đâu là việc
cần thêm thời gian và đâu là việc có thể rút ngắn thời gian thực hiện.
- Cần chú ý đôi khi có những việc chen ngang, có những chuyện đột xuất
ngoài dự tính, đều phải ghi ra giấy, để xem xét và phân bố lại thời gian.
- Đánh dấu chéo vào những công việc đã hoàn thành trong ngày. Dù là
việc rất nhỏ nhưng một khi đã làm tròn theo đúng kế hoạch, nó sẽ khiến chúng
ta vui với cảm giác thành công.

101
c. Luôn chủ động không trì hoãn
Tư tưởng trì hoãn công việc là kẻ thù của thành công. Một số biện pháp
khắc phục tư tưởng trì hoãn như sau:
- Đặt ra thời hạn phải hoàn thành công việc.
- Bắt đầu với những việc nhỏ.
- Nhờ người khác giúp đỡ. Nếu đang gặp vướng mắc trong công việc, hãy
nhờ một đồng nghiệp hay trợ lý của mình giúp đỡ thay vì trì hoãn công việc dó.
d. Xác định những việc quan trọng và cấp thiết
Sau khi lập thời gian biểu xong, công chức cần phân loại công việc theo
mức độ quan trọng và cấp thiết, để từ đó có phương án hành động hợp lý.
- Sắp xếp công việc theo mức độ quan trọng “có” và “không”, nghĩa là
phải tính đến hậu quả của các quyết định và hành động. Sẽ là lãng phí thời gian
nếu bị kẹt vào những điều không quan trọng so với mục tiêu đề ra và trách
nhiệm chính của công chức.
- Sắp xếp công việc theo mức độ khẩn trương: Công việc có khẩn trương
và cần làm ngay không? Cần điều kiện thời gian đủ để hoàn tất công việc ngay,
liệu có thể để lúc khác được không?
- Phân biệt rõ việc “khẩn” và việc “quan trọng”: Việc “khẩn” nhiều khi
không quan trọng nhưng lại chiếm chỗ trước việc “quan trọng”. Việc quan trọng
gắn liền với kết quả phải đạt được, trong khi việc “khẩn” thường do người khác
tác động.
- Kiểm soát lượng thời gian dành cho việc “khẩn”, sắp xếp thứ tự ưu tiên
giữa những việc khẩn và quan trọng theo nguyên tắc sau:
Khi thật quan trọng và thật khẩn, hãy làm ngay đi, không thể do dự vì đó
là công việc quá quan trọng.
Khi thật quan trọng nhưng chưa thật khẩn trương thì vẫn còn thời gian sắp
xếp và giao phó cho ai một phần để bắt đầu công việc. Dù sao cũng đừng để lâu
quá bởi vì đó là việc quan trọng liên quan đến kết quả.
Nếu thật khẩn nhưng không mấy quan trọng, có hai giải pháp: Một là, làm

102
ngay nhưng đừng kéo dài thời gian, chấm dứt sớm. Hai là, chuyển giao cho
người khác thực hiện.
Nếu chẳng khẩn cũng chẳng quan trọng lắm, hãy tự hỏi có nên làm
không? loại việc này có thể bỏ qua, quên đi hoặc giao cho ai khác để đi đến
quyết định. Nói “không” là một kỹ năng quan trọng đối với nhóm công việc
kiểu này.
đ. Ủy thác hiệu quả
Đôi khi, công chức phải đối mặt với quá nhiều việc mà bản thân không có
đủ thời gian và sức lực để hoàn thành cùng lúc. Nếu cứ khăng khăng “ôm” tất cả
công việc để tự mình giải quyết, công chức sẽ rơi vào trạng thái căng thẳng và
áp lực không cần thiết. Đối mặt với vấn đề này, ủy thác công việc cho người
khác, cho cấp dưới là một biện pháp hữu hiệu để giải phóng bản thân và đầu tư
thời gian một cách hiệu quả hơn. Hãy học cách ủy thác công việc, giao đúng
người, đúng việc sao cho phù hợp với thế mạnh và kỹ năng của họ.
e. Lập kế hoạch cho những cuộc họp
- Hội họp, đặc biệt khi giữ vai trò quản lý, có thể chiếm một lượng lớn
thời gian trong ngày. Bất kể là người chủ trì một cuộc họp hay chỉ là người tham
dự, hãy tự đánh giá xem liệu khoảng thời gian ngồi trong phòng họp có thực sự
giá trị hay không - hơn cả những việc khác mà công chức có thể làm trong thời
gian đó.
- Nếu là người chủ trì cuộc họp: Đừng nên mặc định thời gian của cuộc
họp phải kéo dài một giờ hay tương tự. Đôi khi chương trình hội họp chỉ cần đến
nửa giờ hoặc ít hơn. Hãy xem xét khả năng sắp xếp các cuộc họp trong vòng 20
phút hoặc 50 phút nếu bản thân và những người tham gia có thể hoàn thành các
công việc sau cuộc họp trong vòng 10 phút còn lại.
- Nếu là người tham dự cuộc họp: Hãy tham gia các cuộc họp một cách
có chọn lọc. Tuy nhiên, nếu từ chối tham gia một cuộc họp, cần có sự đồng ý
của người chủ trì. Có thể trao đổi với những đồng nghiệp đã tham gia hoặc
xem lại biên bản cuộc họp sau đó nếu cần phải nắm bắt thông tin (trong
trường hợp vắng mặt).
3.4. Giao tiếp hiệu quả hơn

103
a. Hãy nghĩ về cách giao tiếp của bản thân
Khi giao tiếp, nói chuyện với các chuyên viên trong cùng phòng hay với
cấp trên về công việc, cần phải nói một cách rõ ràng và súc tích. Hãy đi thẳng
trực tiếp vào những vấn đề quan trọng. Hãy luôn tự hỏi xem họ có hiểu những gì
mình đang nói hay không? Đồng thời luôn sẵn lòng để giải thích.
b. Nói chuyện điện thoại
Để tránh lãng phí thời gian vào các cuộc điện thoại, cần lưu ý một số
vấn đề sau:
- Không thể gọi điện với mục đích trao đổi về công việc song lại không
biết nói gì, hoặc mất nhiều thời gian để suy nghĩ câu hỏi. Hãy viết trước tất cả
những gì muốn nói ra giấy để cuộc giao tiếp được suôn sẻ, tránh bị lạc đề, đi quá
xa mục tiêu của cuộc nói chuyện.
- Hãy luôn chuẩn bị cây bút và cuốn sổ tay khi có điện thoại để ghi lại
những thông tin quan trọng, để chắc chắn rằng đã không để sót chi tiết của cuộc
trò chuyện. Cách làm này cũng giúp cho chúng ta chủ động khi trả lời những câu
hỏi, thắc mắc của người gọi đến.
c. Lắng nghe cẩn thận
Những người lắng nghe tốt luôn là người kiểm soát được tình hình. Với
quá trình lắng nghe, công chức có thể nắm bắt vấn đề, thu thập thông tin, qua đó
nâng cao khả năng tương tác qua lại. Lắng nghe tốt sẽ giúp công chức hiểu rõ
được mong muốn của đối phương, nắm bắt tốt hơn những yêu cầu của công việc
được giao phó. Từ đó, sẽ giúp thực hiện công việc theo đúng mục đích và yêu
cầu. Trường hợp ngược lại, công chức sẽ có thể rơi vào tình trạng làm đi làm lại,
mất rất nhiều thời gian và tốn nhiều công sức để hoàn thành công việc theo như
mong đợi. Trong khi nghe, không nên nghĩ về những gì mà mình sẽ nói bởi nếu
như vậy, chúng ta sẽ không tập trung vào những gì người khác đang nói.
4. Các công cụ quản lý thời gian hiệu quả
4.1. Nhật ký thời gian
Nếu công chức đang sử dụng thời gian chưa hiệu quả thì việc đầu tiên nên
làm là xem xét một cách cẩn thận về việc phân bổ thời gian cho các công việc.

104
Việc phân tích cách phân bổ và sử dụng thời gian là giải pháp tốt nhất để giúp
chúng ta biết mình đang lãng phí thời gian vào những việc gì để có thể phân bổ
lại thời gian cho hợp lí hơn.
Một công cụ giúp công chức có cái nhìn tổng quan về hiện trạng phân bổ
và sử dụng thời gian là Nhật ký thời gian. Có thể tham khảo mẫu nhật ký thời
gian bên dưới hoặc điều chỉnh cho phù hợp với bản thân. Khi lập nhật ký thời
gian, nên bắt đầu từ thời điểm bắt tay vào công việc đầu tiên cho đến khi kết
thúc công việc cuối cùng trong ngày để nghỉ ngơi.
NHẬT KÝ THỜI GIAN
Thứ….ngày….tháng…..năm….
Thời gian thực hiện Nội dung công việc Thời lượng
………………………… …………………………… ………………………
………………………… ……………………………. ………………………
………………………… …………………………… ………………………

Điều quan trọng là phải ghi lại các công việc cùng với thời lượng đã sử
dụng một cách chính xác và theo trình tự thời gian. Không chỉ ghi lại các công
việc lớn, quan trọng chiếm nhiều thời gian hoặc đã được lên lịch trước như đến
công sở, hội họp, viết báo cáo, xử lý công việc… mà cả các việc nhỏ, không
quan trọng nhưng vẫn chiếm thời gian trong ngày của bạn như thăm hỏi, hiếu hỉ,
mua sắm hay tán gẫu với đồng nghiệp….
Để phân tích việc phân bổ và sử dụng thời gian, phải ghi lại nhật ký
thời gian ít nhất là 3 ngày, kết quả sẽ tốt hơn nếu ghi nhật ký thời gian trong
một tuần.
Sau khi có nhật ký thời gian, chúng ta tiến hành phân tích nhật ký. Công
việc phân tích nhật ký thời gian gồm 2 bước:
Bước 1: Phân loại công việc theo các nhóm
Việc phân loại công việc theo nhóm dựa vào bản chất công việc. Công
việc (CV) có thể được phân loại thành 3 nhóm như sau:

105
Nhóm CV 1: Công việc phục vụ nhu cầu cá nhân (ăn uống, nghỉ ngơi…)
Nhóm CV 2: Công việc phục vụ cho công tác, chuyên môn
Nhóm CV 3: Công việc dành cho xã hội, gia đình và sở thích Sau khi
hoàn thành việc phân loại công việc, bạn tính tỷ lệ phần trăm (%) thời gian đã sử
dụng cho từng nhóm công việc.
Bước 2: Nhận định cách phân ổ thời gian cho từng nhóm công việc. Có
thể nhận định về cách phân bổ thời gian cho từng nhóm công việc thông qua trả
lời các câu hỏi sau:
Tôi đã dành thời gian nhiều nhất cho nhóm công việc nào?
Tôi đã dành bao nhiêu thời gian cho công việc chuyên môn?
Tôi có đang làm quá nhiều việc so với khả năng của mình không?
Bao nhiêu thời gian của tôi đã bị “đánh cắp” vào những việc không phải
của mình hoặc không thực sự cần đến sự có mặt của mình?
Phân bổ thời gian lý tưởng:
CV3: 25%
CV2: 50%
CV1: 25%
Kết quả phân tích nhật ký thời gian sẽ là cơ sở để chúng ta phân bổ lại
thời gian cho các nhóm công việc hợp lý hơn.
4.2. Lịch công việc
Để có thể kiểm soát và sử dụng thời gian của mình một cách hiệu quả,
điều quan trọng cần phải trù tính và lập kế hoạch trước cho thời gian của mình.
Một trong những công cụ để thực hiện điều đó là Lịch công việc. Lịch công việc
dành cho việc lập kế hoạch ngắn hạn (cho 1 tuần hoặc 1 ngày).
Việc lên lịch làm việc sẽ giúp theo dõi được sự tiến triển nhiều việc cùng
lúc và lập kế hoạch cho bước tiếp theo trong chuỗi các công việc. Việc lập lịch
công việc phải trải qua 3 bước theo trình tự như sau: (1) Lập danh sách các công
việc cần làm; (2) Xác định trình tự giải quyết các công việc cần làm; (3) Phân bổ
thời gian cho các công việc.

106
Bước 1: Lập danh sách (liệt kê) những công việc cần làm Ở bước này, hãy
ghi lại tất cả những công việc cần làm trong một khoảng thời gian cụ thể (chẳng
hạn trong 1 tuần). Trong đó, lưu ý một số công việc có tính chất lặp đi lặp lại
thường xuyên do đặc điểm công việc như họp hành định kỳ, nghiên cứu tài liệu,
soạn thảo văn bản…. vẫn phải tính đến và luôn ghi vào danh sách. Danh sách
công việc có thể được lập theo mẫu sau đây:
Công việc Thời gian hoàn thành Thời gian ước tính
………………………… ………………………… ……………………
………………………… … …

………………………… ………………………… ……………………


… …
………………………… ……………………
… …

Trong cột công việc, ghi lại tất cả những công việc muốn làm trong tuần,
kể cả những việc thường xuyên, cố định lặp lại.
Trong cột thời hạn hoàn thành, hãy ghi thời hạn (deadline) phải hoàn
thành công việc. Một số công việc có thể xác định mốc thời hạn phải hoàn thành
rất rõ ràng, song một số công việc có thời hạn hoàn thành lại phụ thuộc vào thời
điểm kết thúc công việc trước đó.
Trong cột thời gian ước tính, ghi lại lượng thời gian cần thiết để thực hiện
công việc.
Bước 2: Xác định trình tự giải quyết công việc theo danh sách
Bước tiếp theo, sắp xếp trình tự giải quyết công việc dựa trên thời hạn phải
hoàn thành công việc, cũng như căn cứ vào mức độ quan trọng của công việc;
sau đó đánh số thứ tự công việc cần thực hiện. Đây là một bước quan trọng
của Lịch công việc bởi nếu bỏ qua bước này, chúng ta sẽ có khuynh hướng
giải quyết các công việc dễ dàng, thú vị trước rồi mới đến các công việc khó
khăn và phức tạp sau.

107
Bước 3: Phân bổ thời gian cho các công việc
Việc phân bổ thời gian cho các công việc tùy thuộc vào tính chất công
việc (khó/dễ thực hiện) và tùy thuộc vào năng lực hoàn thành công việc . Sau
khi kết thúc bước 3, sắp xếp lại danh sách công việc cần làm ban đầu theo một
trật tự mới, theo mẫu gợi ý dưới đây:
LỊCH CÔNG VIỆC
Số thứ tự Công việc Thời gian Thời gian Kết quả
ước tính bắt đầu –
kết thúc

Như vậy, kết thúc 3 bước xây dựng Lịch công việc, công chức đã có trong
tay một danh mục các công việc đã được xác định chính xác thời hạn phải hoàn
thành, theo thứ tự ưu tiên, đồng thời quy định rõ ràng thời gian dự kiến bắt đầu
và kết thúc công việc. Lịch công việc sẽ là một bản kế hoạch hoàn hảo, căn cứ
vào đó chúng ta thực hiện công việc theo đúng lịch trình và tiến độ đã đặt ra.
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, với sự
thông dụng của máy tính và điện thoại di động, có rất nhiều công cụ thông minh
có thể hỗ trợ quản lý lịch công việc một cách thuận tiện, dễ dàng đồng thời
mang lại hiệu quả cao. Ví dụ: Google calendar, Due, Any.do, Todoist...
4.3. Ma trận thời gian
Một công cụ nữa cũng rất hữu ích để giúp công chức quản lý thời gian
một cách hiệu quả đó là, ma trận quản lý thời gian của Stephen Covey.
Quản lý thời gian bằng ma trận thời gian được thực hiện theo các bước
sau đây:
Bước 1: Liệt kê những công việc phải làm, kể cả những hoạt động không
quan trọng nhưng làm mất thời gian tại nơi làm việc.
Bước 2: Sắp xếp các công việc và hoạt động vào bảng ma trận, dựa trên
tầm quan trọng và tính cấp thiết của chúng.

108
Quan trọng là những hoạt động mà kết quả của chúng sẽ dẫn đến mục
tiêu, cho dù đó là những hoạt động của cá nhân hoặc trong công việc.
Khẩn cấp là những hoạt động không cho phép chậm trễ, đòi hỏi phải có
ngay những hành động đối phó.

Ma trận thời gian

QUAN TRỌNG I II

KHÔNG
III IV
QUAN TRỌNG

KHẨN CẤP KHÔNG KHẨN CẤP

+ Phần tư (I) là dành cho những việc vừa khẩn cấp và vừa quan trọng.
Những công việc rơi vào ô này phải được thực hiện ngay và trước tiên. Quan
trọng Không quan trọng
+ Phần tư (II) là dành cho những công việc quan trọng song lại không
khẩn cấp. Những công việc rơi vào ô này cần phải xây dựng kế hoạch thực hiện
một cách thích hợp.
+ Phần tư (III) là dành cho những công việc không quan trọng nhưng lại khẩn
cấp, đòi hỏi phải thực hiện ngay. Những việc này thực hiện càng sớm càng tốt.
+ Phần tư (IV) là dành cho những hoạt động không quan trọng và cũng
không khẩn cấp. Những công việc thuộc nhóm này, công chức có thể thực hiện
khi có thời gian rảnh rỗi.
Bước 3: Đánh giá thời gian đã được sử dụng như thế nào, và nếu cần thiết,

109
sắp xếp lại các công việc.
+ Nếu phần lớn khối lượng công việc tập trung ở ô số I, công chức sẽ luôn
rơi vào tình trạng căng thẳng, khủng hoảng, và cảm thấy kiệt sức vì công việc.
+ Nếu hầu hết các công việc của bạn được sắp xếp vào ô số II, điều đó
chứng tỏ công chức luôn chủ động với công việc, làm việc theo kế hoạch, có
tầm nhìn dài hạn, không bị rơi vào tình trạng khủng hoảng và áp lực.
+ Nếu phần lớn công việc nằm ở ô số III, nghĩa là công chức thường
xuyên phải giải quyết các công việc vụn vặt mang tính đối phó, không tập trung
vào mục tiêu dài hạn, không hướng tới mục tiêu và sẽ luôn cảm thấy mình là nạn
nhân, thụ động.
+ Nếu phần lớn công việc thuộc ô số IV, điều đó chứng tỏ công chức bị
tiêu tốn thời gian vào những việc vô ích mà không đem lại lợi ích gì đáng kể,
thiếu trách nhiệm với công việc, phụ thuộc vào người khác…
Dưới đây là cách phân bố thời gian hợp lý theo phương pháp này:

Ô số I: 15% - 20% Ô số II: 60% - 65%

Ô số IV: dưới 5%
Ô số III: 10% - 15%

II. KỸ NĂNG PHỐI HỢP TRONG CÔNG VIỆC


A. MỤC TIÊU
Sau khi tìm hiểu kỹ năng phối hợp trong công việc, học việc cần đạt được:
1. Hiểu được những vấn đề chung về kỹ năng phối hợp như: vai trò, các
loại phối hợp và cơ chế phối hợp
2. Nhận biết được những kỹ năng cơ bản giúp cho việc phối hợp trong
công việc có hiệu quả như: kỹ năng xây dựng kế hoạch phối hợp, kỹ năng chia
sẽ thông tin trong phối hợp, kỹ ăng xử lí xung đột trong phối hợp
3. Trên cơ sở nắng vững những vấn đề lý thuyết nêu trên, học viên biết

110
vận dụng, sử dụng kỹ năng phối hợp trong công việc trong quá trình công tác đạt
hiệu quả cao.
B. NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về phối hợp
1.1. Khái niệm phối hợp
Thuật ngữ phối hợp có mối quan hệ, tương đồng gần gũi với nhiều thuật
ngữ khác như: kết hợp, hợp tác, cộng tác, hỗ trợ, điều hoà, hợp lực, liên hiệp,
liên kết.

Về thực chất, phối hợp trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp
là hoạt động hỗ trợ lẫn nhau của các phòng, ban, tổ, nhóm, công chức, viên
chức để thực hiện các nhiệm vụ trong của tổ chức, bảo đảm cho xã hội được
điều hoà, điều chỉnh.
Phối hợp là quá trình liên kết các hoạt động hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau của
các thành viên trong tổ chức nhằm thực hiện các nhiệm vụ để đạt được mục tiêu
chung của tổ chức.
Trong thực hiện công việc, phối hợp là quá trình liên kết các hoạt động
của các cán bộ, viên chức, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức xã hội một cách có
ý thức và có kế hoạch, nhằm thực hiện mục tiêu chung theo phương pháp can
thiệp đã được thống nhất trước

111
1.2. Vai trò của phối hợp
Sự cần thiết của hoạt động phối hợp thực hiện công việc trong hoạt động
công việc của cán bộ, viên chức.

Thứ nhất, phối hợp là một yêu cầu quan điều hành công việc. Phối hợp
chính là quá trình làm việc cùng nhau của một nhóm người hay của các tổ chức
nhằm đạt được mục đích của mà họ muốn hướng tới. Mục đích của phối hợp
chính là tăng cường trách nhiệm, năng lực tổ chức thực hiện và sự liên kết của
các cơ quan liên quan bảo đảm sự thống nhất từ trung ương cho đến địa phương,
giữa các cơ quan có liên quan và trong nội bộ cơ quan, tổ chức nhằm nâng cao
hoạt động trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan đơn vị.
Thứ hai, phối hợp là điều kiện để tổ chức hoạt động hiệu quả. Bởi hoạt
động phối hợp sẽ giúp các tổ chức, cá nhân hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau thực hiện tốt
công việc trong bối cảnh yêu cầu của xã hội ngày càng cao.
- Phối hợp là hoạt động cơ bản trong quản lý tổ chức sự nghiệp công lập,
trong hầu hết công việc cần có sự phối hợp của nhiều chủ thể. Cần thiết phải
phối hợp bởi: sau khi đã tiến hành chuyên môn hóa và phân công lao động. Phân
công, chuyên môn hóa càng cao thì phối hợp càng cần thiết, tổ chức có cơ cấu
càng phức tạp thì càng phải đặt ra yêu cầu phối hợp.
- Yêu cầu của người dân về dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe ngày càng đa
dạng và cao, đòi hỏi các tổ chức phải có khả năng thích ứng cao hơn, phối hợp
chặt chẽ hơn. Đồng thời quá trình vận động theo cơ chế thị trường đặt ra những
yêu cầu mới về quan hệ đối tác, phối hợp.
- Các vấn đề trở nên phức tạp hơn, có sự phụ thuộc và tương tác với nhau
nhiều hơn đòi hỏi phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp.Với các vấn đề đa
ngành, đòi hỏi các giải pháp liên ngành; phối hợp cho phép chia sẻ thông tin,
phát huy sức mạnh tổng hợp, giải quyết hiệu quả các vấn đề đa chiều.
Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý phối hợp tốt giúp thiết lập các mối liên
hệ hợp tác giữa các chủ thể nhằm chống lại bệnh cục bộ, chỉ quan tâm đến vai
trò chuyên môn và quyền lợi của bộ phận mình mà không nghĩ đến vai trò,
nhiệm vụ của bộ phận khác. Đồng thời, phối hợp là cơ sở để thiết lập những mối

112
quan hệ hợp tác giữa các bộ phận, các tổ chức và cá nhân có liên quan. Phối hợp
còn là cơ sở nhằm thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt
động phối hợp của các chủ thể, nhằm đảm bảo cho các chủ thể hoạt động nhịp
nhàng, ăn khớp; là thước đo hiệu quả trong quy trình phối hợp quản lý công việc
được giao.
1.3. Phân loại phối hợp
Có nhiều cách để phân loại phối hợp, tuy nhiên xét theo quy mô thì phối
hợp cho hai hình thức cơ bản:
- Phối hợp bên trong là dạng phối hợp cơ bản, phổ biến trong các phòng
ban, các nhóm thực thi công việc của các tổ chức công, trong đó xác định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức, phòng ban, nhiệm vụ cụ thể của các công
chức khi tham gia vào thực hiện công việc, mối quan hệ công tác giữa các
phòng, các cơ quan đồng cấp; giữa các thành viên với các cơ quan, bộ phận
chuyên môn; giữa các cơ quan, bộ phận chuyên môn với cơ quan cấp trên, giữa
các thành viên thực hiện nhiệm vụ chung.
- Phối hợp bên ngoài là dạng hoạt động mang tính hướng ngoại nhằm để
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Khi nói đến lựa chọn cách thức
phối hợp theo hướng ngoại thì nên hiểu rằng đó là sự phối hợp thực hiện công
việc phát sinh giữa các cơ quan, bộ phận không nằm trong nội bộ với nhau. Do
yêu cầu công việc mà nhất định họ phải phối hợp với nhau.
1.4. Cơ chế phối hợp
Để có thể thành công, các hoạt động phối hợp cần đáp ứng những cơ chế
sau sau:
- Có cơ chế về người/tổ chức chủ trì phối hợp: Người này thường là lãnh
đạo cơ quan/đơn vị. Lãnh đạo cơ quan/đơn vị cũng là người đứng ra phân xử khi
cần đi đến ý kiến thống nhất trong phối hợp.
- Có cơ chế về mặt pháp lý, quy định, quy chế để tạo cơ chế phối hợp
mang tính chính thức và bắt buộc giữa các cá nhân/đơn vị.
- Có cơ chế làm việc phù hợp cho phép huy động sự tham gia, phối hợp
của các bên.

113
- Có cơ chế hợp tác, làm việc theo nhóm. Các bên tham gia cần tuân thủ
những yêu cầu, đòi hỏi của quy luật khách quan.
- Có cơ chế phân công trách nhiệm rõ ràng, tiêu chuẩn hóa quy trình phối
hợp cũng như thời hạn phối hợp.
- Có cơ chế giao tiếp, đàm phán hiệu quả và cởi mở, các bên tham gia
phối hợp chia sẻ thông tin;
- Có cơ chế để giải quyết vấn đề và xử lý xung đột khi cần thiết, đồng thời
cần có sự mềm dẻo và linh hoạt trong quá trình phối hợp.
Phối hợp thường di n ra trong bối cảnh tương quan quyền lực, vì vậy,
trong quá trình phối hợp, không phải lúc nào vấn đề cũng được giải quyết một
cách tuần tự, tuyến tính. Nhiều khi, mối tương quan, "trò chơi" quyền lực này có
thể là yếu tố cản trở tiến trình phối hợp. Lãnh đạo, quản lý cần tính đến các yếu
tố này để có thể ra quyết định một cách phù hợp và khéo léo.
2. Một số kỹ năng giúp phối hợp có hiệu quả
2.1. Kĩ năng xây dựng kế hoạch phối hợp
Lập kế hoạch phối hợp là nhằm chuẩn bị các điều kiện, nguồn lực cần thiết
cho việc thực công việc. Kết quả của hoạt động phối hợp phụ thuộc trực tiếp vào giai
đoạn lập kế hoạch. Trong việc lập kế hoạch phối hợp cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Xác định mục tiêu rõ ràng. Khi hoạt động phối hợp được hình thành, nó
cần những mục tiêu. Như trên đã nêu, các mục tiêu rõ ràng, cụ thể, có tính khả
thi, có ý nghĩa thực tiễn và phù hợp với tầm nhìn và giá trị của tổ chức. Cần có
hạn định rõ ràng về thời gian để xây dựng kế hoạch phối hợp hợp lý đảm bảo
việc thực hiện theo mục tiêu và kết quả công việc đã đề ra;
- Xác định vai trò và trách nhiệm của các bên tham gia. Đây là bước tiếp
theo cần được tiến hành để đảm bảo cho mỗi thành viên trong tổ chức thực hiện
đúng chức trách, nhiệm vụ được giao và phối hợp hiệu quả vì mục tiêu chung
của tổ chức; Cần có sự cam kết của các thành viên về việc thực hiện nhiệm vụ
và yêu cầu tuân thủ quy chế trong quá trình làm việc.
- Xác định tiêu chí đánh giá. Các thành viên trong nhóm cần phải biết và
thống nhất các tiêu chí đánh giá công việc trên cả phương diện năng lực, phẩm

114
chất và hiệu quả công việc. Điều này rất quan trọng trong việc đảm bảo sự công
bằng đối với từng thành viên. Đồng thời có tác dụng khích lệ, động viên, tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh cho khả năng cống hiến của mỗi thành viên;
- Chọn thành viên trong hoạt động phối hợp. Đây được coi là khâu quan trọng
nhất trong hoạt động phối hợp. Sự thành bại trong hoạt động phối hợp là ở bước lựa
chọn các thành viên có phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức hay không. Nhìn
chung, những người có các phẩm chất sau đây phù hợp với hoạt động phối hợp:
+ Thẳng thắn, trung thực;
+ Biết từ chối những lời đề nghị khi quỹ thời gian làm việc của họ đã bị
sử dụng hết;
+ Chuyển giao và nhận ý kiến phản hồi có tính xây dựng, cả đối với
những ý kiến tích cực hay tiêu cực;
+ Mạnh dạn đưa ra đề xuất với lãnh đạo cấp trên những vấn đề cần thiết
để hỗ tổ chức;
+ Có khả năng thương lượng;
+ Chịu trách nhiệm về hành động của mình;
+ Có trình độ và năng lực chuyên môn phù hợp hoặc tôn trọng chuyên
môn theo yêu cầu công việc của nhóm.
2.2. Kĩ năng chia sẻ thông tin trong phối hợp
Việc chia sẻ thông tin là một vấn đề mang tính bắt buộc trong quá trình
phối hợp, đây là vấn đề ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả của sự phối
hợp. Việc chia sẻ thông tin có thể bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng có thể
sử dụng các hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, tổ chức cuộc họp. Chia sẻ thông tin qua việc họp giao ban, định
kỳ hoặc đột xuất. Đây là cách thức thường áp dụng diễn ra liên tục trong các cơ
quan đơn vị. Sau một khoảng thời gian nhất định thường là một tuần, tháng, quý,
năm thì các cơ quan đơn vị hoặc các bộ phận, các thành viên kiểm điểm lại hoạt
động đã qua. Qua đó đánh giá rút kinh nghiệm đồng thời đưa ra phương hướng
nhiệm vụ cho thời gian tới.
Thứ hai, phối hợp thông qua mạng. Đây là hình thức chia sẻ mà trong

115
hoạt động quản lý ở nước ta hiện nay cần đặc biệt quan tâm. Chia sẻ thông qua
mạng là yêu cầu tất yếu để phát triển chính phủ điện tử. Hình thức chia sử thông
qua mạng phát triển sẽ rất có ích cho hoạt động quản lý. Từ đó, hình thức này sẽ
dần trở thành hình thức phối hợp cơ bản, sẽ thay thế những hình thức phối hợp
khác tốn kém hơn nhưng không còn phù hợp nữa. Đó cũng là yêu cầu khách
quan của công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Để việc chia sẻ thông tin có hiệu quả, cần lưu ý một số vấn đề sau: Chia
sẻ thông tin phải kịp thời, chính xác và đảm bảo sự bảo mật của thông tin; xác
định rõ đối tượng cụ thể và loại thông tin được chia sử với đối tượng đó. Chia sẻ
thông tin phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
2.3. Kĩ năng xứ lý xung đột trong phối hợp
Xung đột là vấn đề thường xảy ra trong hoạt động phối hợp. Lý do của
xung đột xuất phát từ sự khác biệt về trình độ, năng lực, kinh nghiệm, nền
tảng văn hóa, hay bất đồng về quan điểm, quyền lợi, trách nhiệm giữa các cá
nhân và tổ chức với nhau.
Xung đột có thể tạo động lực, nhưng cũng có thể là nhân tố phá hoại hoạt
động phối hợp. Chính vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động phối hợp diễn ra thuận
chiều, cần nhanh chóng và tích cực giải quyết xung đột. Tránh việc đẩy những
xung đột nhỏ lên thành xung đột lớn, hoặc phát sinh thêm những xung đột mới.
Cách giải quyết xung đột tốt nhất là tất cả các thành viên đều “gặp
nhau ở điểm giữa”. Chia sẻ và thông cảm với nhau vì một mục tiêu chung.
Không tìm cách xoáy sâu vào điểm khác biệt. Trong thực tế có nhiều cách
giải quyết xung đột:
+ Bằng biện pháp áp đảo: Thể hiện sự cứng rắn, cương quyết của số đông
hoặc người có uy tín, người đứng đầu trong tổ chức, áp đặt các thành viên còn
lại theo quan điểm, hướng giải quyết của mình. Tuy nhiên, biện pháp này dễ dẫn
tới kết quả các thành viên bị áp đảo không thoải mái, ấm ức, thậm chí bất mãn.
+ Bằng biện pháp né tránh: Ngại va chạm, sẵn sàng đồng ý giải pháp dung
hòa cho các bên mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nào, không quan
tâm đến chất lượng, hiệu quả của vấn đề được đưa ra giải quyết. Thực chất biện
pháp này các bên tham gia đều không hài lòng nhưng đành chấp nhận.

116
+ Biện pháp nhường nhịn: Đây là biện pháp mà quyết định cuối cùng được
đưa ra nhằm xoa dịu sự căng thẳng, giải quyết căn bản mối quan hệ hơn là đáp
ứng yêu cầu công việc ở mức cao nhất. Biện pháp này thường được thực hiện khi
một bên chấp nhận hi sinh, thiệt thòi phần mình. Thực tế có những trường hợp
bên “thua” nhận thấy giải pháp của mình là tối ưu, tuy nhiên vì sợ mất quan hệ
nên họ đành nhường nhịn. Dẫn tới tình trạng hoạt động phối hợp khó đạt được kết
quả tốt nhất.
+ Biện pháp hợp tác: Xung đột nảy sinh khi các bên không đồng quan
điểm, nhưng trong trường hợp các bên đều cùng một mục tiêu chung là đạt được
hiệu quả công việc cao nhất, nỗ lực phân tích, đánh giá và đồng thuận với những
giải pháp cho kết quả tốt nhất. Đây là biện pháp lý tưởng mà mọi xung đột diễn
ra trong hoạt động phối hợp đều mong muốn đạt được. Thắng lợi cuối cùng
thuộc về tập thể.
Giải quyết xung đột là một vấn đề khá phức tạp. Đòi hỏi trước hết là khả
năng điều hành hoạt động phối hợp của người đứng đầu. Tiếp đó là sự hưởng
ứng tích cực của chính các thành viên trong tổ chức vì một mục tiêu chung.
Để quản lý xung đột cần tiến hành các bước sau:
+ Xác định xung đột: Vấn đề gây xung đột là gì? Thuộc loại xung đột
nào? Những ai tham gia vào xung đột đang diễn ra;
+ Tiên liệu về xung đột: Xung đột đơn giản hay phức tạp? Nguy cơ về gia
tăng xung đột;
+ Tìm biện pháp giải quyết xung đột: Trưng cầu những ý kiến khác nhau
để giải quyết xung đột. Huy động sự tham gia của mọi người vì một mục tiêu
chung? Tránh đề cập quan điểm cá nhân. Tránh định kiến hoặc áp đặt với các
nhóm xung đột;
Nếu có thể huy động nhóm nhỏ có quan điểm dung hòa các bên xung đột
để làm dịu xung đột. Tiếp đó tìm điểm tương hợp giữa các bên và động viên,
khích lệ các bên cùng tập trung giải quyết nhiệm vụ của phối hợp.

BÀI TẬP RÈN LUYỆN LỸ NĂNG

117
1. Nêu lên sự cần thiết phải quản lý thời gian của bản thân?
2. Bản thân đã sử dụng có hiệu quả thời gian hay chưa? Những nguyên nhân gây
nên sự lãng phí thời gian
3. Cá nhân đã hiểu biết được bản thân hay chưa? Sự hiệu biết của bản thân có ý
nghĩ như thế nào đối với việc sử dụng hiệu quả thời gian?
4. Hãy lập kế hoạch công việc cụ thể
5. Sử dụng ma trận thời gian để quản lý thời gian của bản thân

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trần Thị Bích Nga, Phạm Ngọc Sáu, Nguyễn Thu Hà (biên dịch): Xây dựng
nhóm làm việc hiệu quả, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
2. PGS.TS Vũ Hoàng Ngân, Ths Trương Thị Nam Thắng: Xây dựng và phát
triển nhóm làm việc, NXB Phụ nữ, 2009.
3. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2013), Kỹ năng tìm kiếm việc làm của
sinh viên trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Báo cáo hội thảo
khoa học toàn quốc về vấn đề việc làm, tháng 09/2013
4. Nguyễn Thanh Bình, Giáo trình chuyên đề Giáo dục kỹ năng sống, Nhà xuất
bản Đại học Sư phạm Hà Nội
5. Michel Maginn: Thúc đẩy nhóm làm việc hiệu quả, NXB Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, 2007.

118
Chuyên đề báo cáo

I. THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 8 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
Mục đích
Chuyên đề báo cáo giúp học viên liên hệ, vận dụng, đối chiếu so sánh giữa
lý thuyết được cung cấp trong phần kiến thức chung với thực tiễn quản lý hành
chính nhà nước của đơn vị mình đang công tác.
Yêu cầu
Sau khi học xong 5 chuyên đề của phần I, học viên sẽ viết một báo cáo
chuyên đề với các yêu cầu dưới đây:
Số trang của chuyên đề từ 10-15 trang, font chữ Times New Roman, cỡ
chữ 13 đến 14, giãn dòng 1,5;
III. NỘI DUNG VÀ BỐ CỤC BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
1.1. Nội dung: NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐƠN VỊ
SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1. Thực trạng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập
2. Mục đích, yêu cầu về hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế
công
3. Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả của các đơn vị

119
sự nghiệp y tế công lập
4. Vai trò của điều dưỡng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp y tế công lập
1.2. Bố cục báo cáo chuyên đề
Những gợi ý sau đây nhằm hỗ trợ cho quá trình xây dựng và trình bày báo cáo.

Bìa: Nêu rõ tên tiểu luận, tên tác giả


Phần đầu báo cáo: cần có các mục sau:
Mục lục
Bảng chú giải các ký hiệu, đơn vị đo, từ viết tắt, thuật ngữ
Phần chính báo cáo: nên chia thành các mục như sau:
I. Đặt vấn đề:
Giới thiệu về chủ đề và các nội dung cơ bản mà học viên muốn trình bày trong
báo cáo chuyên đề với mục đích nêu lên lý do lựa chọn chủ đề viết báo cáo.
Mục đích yêu cầu của chuyên đề: Trình bày các mục đích của báo cáo
III. Nội dung của báo cáo:
3.1. Các luận điểm lý thuyết chính của nội dung chuyên đề đã quy định
3.2. Vận dụng các luận điểm, lý thuyết vào thực tiễn hoạt động ở các mức
độ cá nhân, đơn vị, ngành.
- Các vấn đề thực tiễn ở mức độ cá nhân, đơn vị, ngành liên quan tới các
nội dung lý thuyết được học.
- Bàn luận về những thuận lợi và khó khăn áp dụng lý thuyết vào thực tiễn;
- Phân tích và rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn.
IV. Kết luận và kiến nghị:
Rút ra những kết luận chính.
Khuyến nghị.
V. Tài liệu tham khảo:

120
Cách trích dẫn tài liệu tham khảo tuân thủ đúng yêu cầu trích dẫn tài liệu
tham khảo của Bộ Giáo dục và đào tạo.
Ví dụ cho cách viết trích dẫn tài liệu tham khảo:
Tài liệu là sách, luận án, báo cáo: Đảng Cộng sản Việt Nam (1997', Nghị
quyết trung ương ba, khóa VIỈI, NXB CTQG, Hà Nội .
Tài liệu là bài báo trong tạp chí, trong sách: Phan Văn Tường( 1998)
“Đánh giá nhu cầu đào tạo về lập kế hoạch bệnh viện của cán bộ quản lý bệnh
viện huyện năm 1997”, Tạp chí Y học thực hành, NXB Y học, (3) tr. 10-16.
Tài liệu trên Internet: Phạm Đình Thành (2012), Bào hiểm XH - Trụ cột
chính trong hệ thống an sinh XH quốc gia, http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn,
trích dẫn 30/5/2016.
Tài liệu tham khảo sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Việt chữ cái
đầu tiên trong tên của tác giả hoặc tên cơ quan ban hành.
VI. Phụ lục: Những tài liệu, hình, ảnh cần thiết để làm sáng tỏ báo cáo,
nếu đưa vào báo cáo sẽ quá dài thì đưa vào phụ lục.

121
PHẦN II
KIẾN THỨC, KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH
VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP (180 TIẾT)

122
CHUYÊN ĐỀ 1
NGHIÊN CỨU ĐIỀU DƯỠNG VÀ THỰC HÀNH
CHĂM SÓC DỰA VÀO BẰNG CHỨNG

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 20 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 8 tiết
Thảo luận, thực hành: 12 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP:
Sau khi học xong bài này học viên có khả năng:
1. Trình bày được khái niệm và vai trò của nghiên cứu khóa học điều dưỡng.
2. Nêu được cấu trúc cơ bản của một nghiên cứu và ứng dụng trong thực hành.
3. Nêu được vai trò của thực hành dựa vào bằng chứng và cách xây dựng một
can thiệp thực hành điều dưỡng dựa trên bằng chứng.
NỘI DUNG
1. Đại cương về nghiên cứu khoa học
1.1. Khái niệm nghiên cứu khoa học và nghiên cứu điều dưỡng
Nghiên cứu là quá trình thu thập thông tin có hệ thống và phân tích thông
tin để tăng cường sự hiểu biết của chúng ta về hiện tượng/vấn đề được nghiên
cứu. Đây là chức năng của nhà nghiên cứu để đóng góp vào sự hiểu biết về hiện
tượng này và truyền đạt sự hiểu biết đó đến những người khác. Các mục tiêu
chung của nghiên cứu là: (i) Quan sát và Mô tả; (ii) Dự đoán; (iii)xác định các
nguyên nhân; và (iv) Giải thích.
Nghiên cứu là quá trình thu thập, phân tích, diễn giải và trình bày dữ liệu
một cách khách quan, chính xác và hệ thống để trả lời hoặc giải quyết vấn đề
quan tâm.

123
Nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi nhằm phát hiện qui luật của sự vật, hiện
tượng và/hoặc vận dụng qui luật để tạo dựng nguyên lý công nghệ.
Đặc điểm của nghiên cứu khoa học
- Có tính thông tin và bao giờ cũng hướng tới cái mới.
- Có tính tin cậy cao: lặp lại được những kết quả đúng như đã công bố.
- Có tính giá trị
- Có tính chính xác.
- Có độ tín nhiệm.
- Có tính khái quát. 
Nghiên cứu điều dưỡng là một bộ phận của nghiên cứu y học. Mục đích
nghiên cứu điều dưỡng nhằm sàng lọc, phát triển và mở rộng kiến thức nghề
nghiệp và dựa vào các bằng chứng tin cậy để cải tiến thực hành điều dưỡng.
Nghiên cứu điều dưỡng là môn học về các phương pháp quan sát, can
thiệp, diễn giải những hiện tượng, sự vật và hành vi liên quan tới chăm sóc điều
dưỡng và trình bày kết quả một cách khách quan, chính xác và hệ thống.
Nghiên cứu điều dưỡng có tầm quan trọng rất lớn trong nâng cao chất
lượng dịch vụ chăm sóc và phát triển nghề nghiệp, cụ thể là:
Tạo ra kiến thức mới: Một trong những đặc điểm của NCKH nói chung và
NCĐD nói riêng là bao giờ cũng hướng đến cái mới: Kiến thức mới, thay đổi
phương pháp chăm sóc, kỹ thuật chăm sóc, cách tiếp cận người bênh/cộng
đồng… Tất cả những cái mới này đều được mang lại dựa trên những kết quả
nghiên cứu khoa học điều dưỡng, những bằng chứng và phát minh khoa học.
Nâng cao chất lượng và sự an toàn của các dịch vụ chăm sóc: Các kết quả
nghiên cứu điều dưỡng là những bằng chứng giúp cho nhà quản lý điều dưỡng
đưa ra các chính sách, qui định phù hợp nhằm nâng cao chất lượng và đảm bảo
an toàn cho các dịch vụ chăm sóc; giúp cho các điều dưỡng viên tiến hành các
kỹ thuật chăm sóc đúng qui trình, đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Tăng cường giá trị nghề nghiệp:

124
- Theo quan niệm cũ điều dưỡng là một nghề phụ thuộc, người điều dưỡng
thực hành chăm sóc theo y lệnh của bác sĩ. Ngày nay trước nhu cầu chăm sóc sức
khoẻ ngày càng tăng và áp dụng mới các thành tựu khoa học công nghệ vào y học
ngày càng nhiều đòi hỏi người điều dưỡng phải nâng cao tính chuyên nghiệp.
- Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo dịch vụ chăm sóc do điều dưỡng cung
cấp là một trong những trụ cột của hệ thống dịch vụ y tế. Vì vậy người điều
dưỡng cần được khuyến khích làm nghiên cứu để phát triển kiến thức nghề
nghiệp, đồng thời chứng tỏ sự đóng góp của họ sẽ tạo ra sự khác biệt trong chăm
sóc sức khoẻ nhân dân.
- Như vậy, nghiên cứu không những góp phần tăng cường uy tín nghề
nghiệp mà còn làm cho xã hội đánh giá đúng mức giá trị của các dịch vụ chăm
sóc và vị thế của người điều dưỡng.
Tăng cường hiệu quả chi phí trong lĩnh vực chăm sóc:
- Một chương trình y tế được đánh giá hiệu quả khi nó mang lại nhiều lợi
ích hơn mà chỉ sử dụng một lượng kinh phí nào đó. Việc phân tích chi phí sẽ giúp
chúng ta đánh giá được hiệu quả dịch vụ chăm sóc hoặc một chương trình y tế.
- Hiện nay, do chi phí trả cho dịch vụ y tế ngày càng cao làm cho các nhà
quản lý y tế và người bệnh quan tâm ngày càng nhiều tới chi phí cho các loại
dịch vụ y tế mà họ nhận được. Hơn nữa, hệ thống bệnh viện đang từng bước
chuyển dịch tiến tới tự chủ về tài chính theo chủ trương của Nhà nước, đặt ra
yêu cầu không chỉ đối với người quản lý bệnh viện mà cả thầy thuốc và điều
dưỡng lâm sàng cũng phải quan tâm tới vấn đề chi phí. Giảm một đồng chi phí
tức là tăng thêm một đồng đóng góp vào công quỹ của bệnh viện hoặc để hỗ trợ
người nghèo.
- Chính vì vậy mà điều dưỡng cần phải nghiên cứu, đánh giá hiệu quả chi
phí trong lĩnh vực chăm sóc người bệnh, để các nguồn hạn hẹp của bệnh viện
được sử dụng một cách hiệu quả nhất.
1.2. Cấu trúc cơ bản của một nghiên cứu điều dưỡng
1.2.1. Xác định vấn đề nghiên cứu

125
Vấn đề/ đề tài nghiên cứu chính là sự vật, hiện tượng (vấn đề) đang tồn tại
quanh chúng ta, đòi hỏi hay có nhu cầu cần phải được giải quyết và có thể giải
quyết được. Vấn đề được coi là vấn đề nghiên cứu khi
- Vấn đề đó là có thật và đang tồn tại.
- Vấn đề đó gây bức xúc cho người bệnh, người nhà, chúng ta hoặc xã hội.
- Có đủ năng lực, vật lực và tài lực để giải quyết vấn đề đó.
Trước khi làm nghiên cứu cần bắt đầu với câu hỏi nghiên cứu. Đó là
những câu hỏi cụ thể mà nhà nghiên cứu muốn trả lời cho vấn đề nghiên cứu.
Câu hỏi nghiên cứu chỉ dẫn cho việc thu thập thông tin cho nghiên cứu. Những
câu hỏi nghiên cứu thuộc những vấn đề nghiên cứu cụ thể như dự đoán được trả
lời thông qua việc kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.
Trong báo cáo nghiên cứu, đôi khi chúng ta sẽ gặp một sự thuật ngữ khác
như mục đích nghiên cứu, được tổng hợp từ các mục tiêu nghiên cứu. Một
nhà nghiên cứu đôi khi cũng xác định một số mục tiêu nghiên cứu cụ thể.
Một nghiên cứu không thể thực hiện được nếu không lựa chọn được vấn
đề phù hợp. Vấn đề và các câu hỏi nghiên cứu cần phải được viết ra một cách
cẩn thận trước khi bắt tay vào thiết kế nghiên cứu haythực hiện nghiên cứu.
Một vấn đề được coi là vấn đề nghiên cứu khi
- Vấn đề đó là có thật và đang tồn tại.
- Vấn đề đó gây bức xúc cho người bệnh, người nhà, chúng ta hoặc xã hội.
- Có đủ năng lực, vật lực và tài lực để giải quyết vấn đề đó.
Khi vấn đề được tìm hiểu sẽ cung cấp thêm kiến thức hay định hướng cho
những nghiên cứu hay chiến lược can thiệp tiếp theo. Việc trình bày vấn đề
nghiên cứu bao hàm việc xác định bản chất của vấn đề đang được đề cập trong
nghiên cứu, và thường là bối cảnh và ý nghĩa của nó.
- Bản chất của vấn đề là gì?
- Sự chi phối của vấn đề: Ai/cái gì có ảnh hưởng đến ai/cái gì? Khi nào?
ảnh hưởng như thế nào?

126
- Tầm cỡ của vấn đề: Có rộng không? Có quan trọng không? Hậu
quả/hiệu quả ra sao?
Nhìn chung, việc mô tả vấn đề cần phải đủ rộng để bao gồm các mối quan
tâm trọng tâm, nhưng phạm vi vừa đủ để có thể gợi ý thiết kế nghiên cứu.
Các nguồn tìm kiếm vấn đề nghiên cứu
Ý tưởng của vấn đề nghiên cứu xuất hiện từ đâu? Xuất phát điểm đầu tiên
của các chủ đề nghiên cứu chính là những quan tâm của nhà nghiên cứu. Nghiên
cứu là một công trình cần nhiều thời gian, hứng thú và những quan tâm của nhà
nghiên cứu chính là chìa khóa thành công của nghiên cứu.
Trong các báo cáo, nhà nghiên cứu thường không chỉ ra vấn đề nghiên
cứu xuất phát từ đâu, tuy nhiên, có rất nhiều nguồn mà từ đó chúng ta có thể
nhận thấy cảm hứng của nhà nghiên cứu xuất phát từ:
- Kinh nghiệm lâm sàng: kinh nghiệm hàng ngày của người điều dưỡng
trong chăm sóc người bệnh chính là nơi bắt đầu của nhiều ý tưởng nghiên cứu.
- Tổng quan nghiên cứu điều dưỡng: ý tưởng của các nghiên cứu thường
đến từ các nghiên cứu điều dưỡng. Các nghiên cứu thường gợi ý những vấn đề
gián tiếp thông qua trí tưởng tượng của nhà nghiên cứu hay trực tiếp những vấn
đề mà nhà nghiên cứu thấy cần bổ sung thêm cho nghiên cứu hiện tại
- Vấn đề xã hội: các chủ đề nghiên cứu có thể xuất phát từ các vấn đề xã
hội toàn cầu, hay những vấn đề liên quan đến sức khỏe cộng đồng. Sự thay đổi
của chủ nghĩa nam nữ bình quyền (feminist) đã đưa ra những câu hỏi về chủ đề
bình đẳng giới và những vấn đề về bạo lực gia đình.
- Học thuyết: những vấn đề nghiên cứu cũng có thể xuất phát từ các học
thuyết của điều dưỡng cũng như học thuyết của các ngành khoa học tương
đương. Nhà nghiên cứu có thể đặt câu hỏi: nếu học thuyết là chính xác thì tôi có
thể dự đoán gì về hành vi, cảm xúc của con người. Các dự đoán đó sau đó được
kiểm nghiệm lại thông qua nghiên cứu.
- Các ý tưởng bên ngoài: các nguồn dữ liệu bên ngoài đôi khi cũng mang
đến ý tưởng nghiên cứu. Ví dụ, ý tưởng nghiên cứu xuất hiện khi nhà nghiên
cứu tìm kiếm các chủ đề mà các tổ chức hỗ trợ kinh phí nghiên cứu ưu tiên hay
qua thảo luận với các điều dưỡng viên.

127
Cách tìm vấn đề nghiên cứu:
- Chọn chủ đề
Sự phát triển của một vấn đề nghiên cứu là một quá trình sáng tạo phụ
thuộc vào trí tưởng tượng và sự khéo léo. Trong giai đoạn đầu, khi các ý tưởng
nghiên cứu đang được tạo ra, không nên chỉ trích chúng ngay lập tức. Tốt hơn là
hãy bắt đầu bằng cách lắng nghe và ghi lại các lĩnh vực chung mà họ quan tâm.
Tại thời điểm này, vấn đề ít có ý nghĩa khi được mô tả bằng các thuật ngữtrừu
tượng hoặc rõ ràng, rộng hoặc cụ thể, liên quan đến kỹ thuật hoặc chuyên ngành
- điểm quan trọng là đưa ra một số ý tưởng trên giấy. Ví dụ về một số chủ đề
rộng có thể bao gồm giao tiếp điều dưỡng- người bệnh, quản lý đau ở người
bệnh ung thư và những ảnh hưởng sau phẫu thuật.
Sau bước đầu tiên này, các ý tưởng có thể được sắp xếp theo sở thích,
kiến thức về chủ đề và tính khả thi của việc chuyển chủ đề thành một dự án
nghiên cứu. Khi ý tưởng hiệu quả nhất đã được chọn, không nên loại bỏ những ý
tưởng còn lại, chúng ta có thể sẽ dùng đến khi cần thiết.
- Thu hẹp Chủ đề
Một khi các nhà nghiên cứu đã xác định một chủ đề quan tâm, họ cần phải
đặt câu hỏi dẫn đến một vấn đề có thể nghiên cứu được. Vẽ cây vấn đề có thể
giúp tập trung cho việc đánh giá bao gồm:
Các nhà nghiên cứu khi bắt đầu thường phát triển các vấn đề có phạm vi
quá rộng hoặc quá phức tạp và khó tiến hành đối với trình độ chuyên môn về
phương pháp luận của họ. Việc chuyển đổi chủ đề chung thành một vấn đề có
thể thực hiện bằng một số bước. Trong đó, mỗi bước sẽ dẫn tới việc thu hẹp
phạm vi của vấn đề và làm sắc nét và rõ nghĩa các khái niệm.
Lựa chọn các vấn đề nghiên cứu ưu tiên
Không có quy tắc để đưa ra quyết định cuối cùng về vấn đề nghiên cứu.
Tuy nhiên, một số tiêu chí nên được ghi nhớ trong quá trình ra quyết định. Bốn
vấn đề quan trọng nhất là tầm quan trọng, khả năng nghiên cứu, tính khả thi của
vấn đề, và sự quan tâm của nhà nghiên cứu.

128
- Tầm quan trọng của vấn đề
Một yếu tố quyết định trong việc lựa chọn một vấn đề cần được nghiên cứu
là ý nghĩa của nó đối với điều dưỡng - đặc biệt là đối với thực hành điều dưỡng.
Bằng chứng từ nghiên cứu nên có tiềm năng đóng góp ý nghĩa cho kiến thức về
điều dưỡng. Các nhà nghiên cứu nên đưa ra các loại câu hỏi sau:
Vấn đề có quan trọng không?
Liệu những người bệnh, điều dưỡng, cộng đồng hay xã hội có được lợi ích
từ những bằng chứng sẽ được tạo ra?
Các kết quả có dẫn đến các ứng dụng thực tiễn?
Các kết quả nghiên cứu có liên quan học thuyết?
Các kết quả tìm được có củng cố cho các giả định?
Nghiên cứu có hỗ trợ thay đổi thực hành hoặc chính sách điều dưỡng?
Nếu câu trả lời cho tất cả các câu hỏi này là "không", thì vấn đề nên bị loại bỏ.
- Khả năng nghiên cứu của vấn đề
Không phải tất cả các vấn đề đều có thể được tiến hành nghiên cứu. Các
vấn đề về bản chất đạo đức hoặc đạo đức, mặc dù đáng được quan tâm, nhưng
khó có khả năng nghiên cứu. Ví dụ như: Nếu người bệnh mong muốn được hỗ
trợ để chết theo nguyện vọng, có nên hợp pháp hoá?
Câu trả lời cho một câu hỏi như vậy dựa trên giá trị của con người. Không
có câu trả lời đúng hoặc sai, chỉ có các quan điểm. Vấn đề thích hợp để tranh
luận, chứ không phải để nghiên cứu. Để chắc chắn, có thể hỏi các câu hỏi liên
quan có thể được nghiên cứu. Ví dụ, mỗi câu hỏi dưới đây có thể được thực hiện
với một dự án nghiên cứu:
- Thái độ của điều dưỡng đối với việc hỗ trợ để người bệnh chết theo
nguyện vọng (tự tử có trợ giúp)?
- Điều dưỡng chăm sóc người bệnh ung thư có đồng quan điểm về tự tử có
trợ giúp hơn các điều dưỡng khác không?
- Điều dưỡng có nhận thức được những vấn đề về đạo đức khi tham gia vào
việc tự tử có trợ giúp?

129
- Thái độ của người bệnh giai đoạn cuối về tự sát được hỗ trợ như thế nào?
- Những người bệnh bị bệnh nặng có mong muốn tự tử có trợ giúp hơn
những người bệnh nhẹ hơn hơn?
- Các thành viên gia đình chịu đựng sự mất mát người thân thông qua tự tử
hỗ trợ như thế nào?
Những phát hiện từ những giả thuyết này sẽ không ảnh hưởng đến việc liệu
pháp tự sát có hỗ trợ có được hợp pháp hóa hay không, tuy nhiên thông tin có
thể hữu ích trong việc phát triển sự hiểu biết tốt hơn về các vấn đề này.
Trong các nghiên cứu định lượng, các vấn đề nghiên cứu là những vấn đề
liên quan đến các biến có thể được xác định và đo lường chính xác. Ví dụ, giả sử
một nhà nghiên cứu đang cố gắng để xác định những gì tác động trên người
bệnh phục hồi và được xuất viện sớm. Sự phục hồi (well-being) là một khái
niệm tương đối trừu tượng trong nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu sẽ phải xác
định rõ và định nghĩa khái niệm để nó có thể quan sát và đo lường được. Tức là,
nhà nghiên cứu sẽ phải thiết lập các tiêu chí để đánh giá sự phục hồi của người
bệnh.
1.2.2. Biến số nghiên cứu
Biến số là một đặc tính của người, vật, sự việc, hiện tượng mà có thể mang
các giá trị khác nhau. Khi nó được người nghiên cứu lựa chọn để quan sát, đo
lường trong quá trình nghiên cứu thì nó là các biến số nghiên cứu.
Biến số có thể là tiêu thức của đối tượng nghiên cứu, có thể là các yếu tố
bên ngoài như môi trường tự nhiên, xã hội ảnh hưởng đến đối tượng nghiên cứu.
Giá trị của biến số thường khác nhau giữa các cá thể trong cùng một quần
thể, giữa các lần quan sát. Thông qua việc quan sát, đo lường các biến số này,
người nghiên cứu mới có được các số liệu để phân tích, báo cáo.
Như vậy, biến số chính là các thuộc tính của người, vật, sự việc, hiện tượng
mà người nghiên cứu quan sát, đo lường trong khi tiến hành nghiên cứu.
* Phân loại biến số:
Phân loại theo bản chất của biến số:

130
Biến số được phân theo hai nhóm chính là: các biến định lượng và các biến
định tính.
Các biến định lượng (quantitative variable)
Một biến số được gọi là biến định lượng khi giá trị của biến được biểu thị
bằng các con số, có thể đo lường được, có đơn vị và được sắp xếp trong một
khoảng nào đó.
Ví dụ: Cân nặng được biểu thị bằng kilogram, gram…
Chiều cao được biểu thị bằng centimet, mét…
Tuỳ theo bản chất của các số đo, biến định lượng có thể được chia theo hai
nhóm:
- Biến liên tục (continuous): là biến mà các số đo có thể mang giá trị thập
phân (giá trị của nó có thể được biểu thị liên tục trên một trục số)
Ví dụ: chiều cao, cân nặng, vòng đầu, vòng ngực, hàm lượng đường huyết,
tuổi…
- Biến rời rạc (discrete): là biến mà các số đo chỉ mang các giá trị là các số
nguyên, không có giá trị thập phân.
Ví dụ: số giường trong một bệnh viên, số người đến khám và điều trị, số
người bệnh phẫu thuật trong tháng, số hồng cầu/1ml máu…
Ngoài ra, tùy theo bản chất của giá trị zero, người ta còn phân biến định
lượng ra làm hai loại:
- Biến tỷ suất (ratio): là biến mà các giá trị zero là thực. Nghĩa là khi giá trị
của biến này = 0 thì không có biến đó.
Ví dụ: biến cân nặng là biến tỷ suất vì giá trị zero là thực. Khi cân nặng
bằng 0, tức là không có trọng lượng nào cả. Phần lớn các biến liên tục thuộc
nhóm này.
- Biến khoảng chia (interval): biến có giá trị zero không thực (chỉ do quy
ước).
Ví dụ: biến nhiệt độ bách phân ( oC). Giá trị zero là không thực vì nhiệt độ
bằng 0oC không có nghĩa là không có nhiệt độ mà chỉ là nhiệt độở thời điểm

131
nước chuyển trạng thái từ lỏng sang rắn. Các số đo của biến này không thể nhân
chia cho nhau được. Ví dụ như nhiệt độ: Khi nhiệt độ bằng O oC không có nghĩa
là không có nhiệt độ vì OoC = 32oF= 273oK và cũng không thể nói được là 80 oC
nóng gấp 2 lần 40oC.
Các biến định tính (qualitative variable)
Một biến được gọi là biến định tính khi giá trị của biến được biểu thị bằng
các chữ hoặc ký hiệu được xếp vào các nhóm khác nhau.
Ví dụ: 1. Trình độ văn hoá: biểu thị bằng cấp, lớp học, mức độ mù chữ, biết
chữ…
2. Mức độ kiến thức: Giỏi, khá, trung bình, yếu, kém.
3. Biến về ho: có ho, không ho, ho khan, ho có đờm, ho ra máu…
4. Biến về sốt: Sốt nhẹ, sốt cao…
Cũng như với biến định lượng, tuỳ theo bản chất cách sắp xếp các giá trị
trong một biến định tính mà người ta chia ra các loại:
- Biến danh mục (nominal): là các biến mà các loại, các nhóm của biến
không cần sắp xếp theo một trật tự nhất định.
Ví dụ: nơi ở hiện tại của các đối tượng nghiên cứu là một biến địa dư. Nó
có thể là Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình… Việc sắp xếp tên các địa
dư này không cần phải theo một trật tự nào và cách sắp xếp đó không ảnh hưởng
đến việc phân tích và trình bày số liệu sau này.
- Biến thứ hạng (ordinal): là các biến mà các loại, các nhóm của biến phải
được sắp xếp theo một trật tự nhất định.
Ví dụ: Biến trình độ văn hoá của các bệnh nhân lao mới nhập viện có thể
có các nhóm như: mù chữ, văn hoá tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung
học, đại học, sau đại học. Các nhóm của biến này khi sắp xếp phải theo thứ tự
tăng dần hoặc giảm dần chứ không tuỳ tiện như với biến danh mục. Điều này có
ý nghĩa trong việc chọn test phân tích số liệu sau này (sẽ được trình bày trong
phần lựa chọn test thống kê)

132
- Biến nhị phân (binominal): là một biến định tính đặc biệt rất hay gặp
trong y học. Các giá trị trong biến này bao giờ cũng chỉ được phân thành hai
nhóm.
- Ví dụ: Biến tăng huyết áp chia thành hai nhóm: có hay không; biến hút
thuốc lá: có hút, không hút; biến giới tính: nam, nữ; người bệnh: phẫu thuật hay
không phẫu thuật
Phân loại theo mối tương quan giữa các biến số nghiên cứu:
- Biến độc lập (independent variable)
Biến độc lập là biến được sử dụng để mô tả hoặc đo lường các yếu tố mà
người nghiên cứu cho rằng nó có thể là nguyên nhân hoặc là yếu tố ảnh hưởng
đến vấn đề đang được nghiên cứu, biến này thường là các yếu tố nguy cơ trong
mối quan hệ nhân quả với hiện tượng sức khoẻ cần nghiên cứu. Nó tồn tại một
cách độc lập, không chịu sự chi phối của yếu tố “quả”.
Ví dụ: Độ ẩm thấp và thiếu ánh sáng trong nhà ở là yếu tố nguy cơ (biến
độc lập) của bệnh lao chứ bệnh lao không gây ra nhà ẩm thấp và thiếu ánh sáng.
- Biến phụ thuộc (dependent variable)
Biến phụ thuộc là biến số được sử dụng để mô tả hoặc đo lường vấn đề cần
nghiên cứu. Nó thường là các vấn đề sức khoẻ mà người nghiên cứu mong muốn
khảo sát. Nó có thể là hậu quả trong mối liên quan với nhiều yếu tố khác. Vì vậy
giá trị của nó thường phụ thuộc vào sự biến đổi của các biến ảnh hưởng đến nó.
Ví dụ: Bướu cổ đơn thuần là một biến phụ thuộc vào tình trạng thiếu
iodine trong chế độ ăn, uống. Suy dinh dưỡng của trẻ là một biến số phụ thuộc
vào cân nặng khi sinh của trẻ, chế độ ăn uống và phương pháp nuôi con của mẹ.
- Các yếu tố nhiễu (confounding factor)
Một yếu tố được coi là nhiễu khi tác động của nó làm sai lệch ảnh hưởng
của phơi nhiễm đối với bệnh. Nhiễu thường được nêu ra dựa vào kinh nhiệm
nhưng chỉ được khẳng định khi phân tích số liệu.
Tiêu chuẩn một yếu tố được gọi là nhiễu:
 Phải là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh.
 Phải có liên quan với phơi nhiễm nhưng lại không phụ thuộc vào phơi
nhiễm
 Không phải là yếu tố trung gian giữa yếu tố phơi nhiễm và bệnh

133
 Phải thực sự tác động lên mối liên quan giữa phơi nhiễm và bệnh. Điều
này chỉ có thể được khẳng định trong quá trình phân tích số liệu (sẽ được
phân tích ở phần sau)
 Nhiễu và yếu tố phơi nhiễm có thể đổi chỗ cho nhau tuỳ theo mục đích
của người làm nghiên cứu.
1.2.3. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, nghiên cứu can thiệp
1.2.3.1. Nghiên cứu mô tả:
- Quan tâm tới việc mô tả các đặc tính chung của sự phân bố một loại bệnh
trong mối liên hệ với các đặc tình con người, địa điểm và thời gian;
- Con người bao gồm: các yếu tố nhân khẩu như tuổi, giới, tình trạng hôn
nhân, nghề nghiệp
- Địa lý như thành thị, nông thôn
- Thời gian: nghiên cứu mô tả tập trung vào xu hướng của mùa khi khởi
phát bệnh hay so sánh tần suất của ngày hôm nay với 5, 10, 20… năm sau;
- Thường được sử dụng để xác định vấn đề cần nghiên cứu, hình thành giả
thuyết, được kiểm định bằng các nghiên cứu phân tích tiếp theo.
- Bao gồm các loại nghiên cứu sau: Nghiên cứu tương quan, Nghiên cứu ca
bệnh hay chùm bệnh, loạt bệnh nhân, Nghiên cứu cắt ngang- thuần tập
Nghiên cứu mô tả là nghiên cứu mô tả lại một hiện tượng cùng với một hay
một số yếu tố được cho là nguy cơ để tìm ra mối liên quan có thể cho là kết hợp
nhân quả tại thời điểm nghiên cứu, do vậy nó có giá trị để hình thành giả thuyết
nghiên cứu
Đặc điểm
- Thiết kế nghiên cứu mô tả bao gồm các nội dung chính sau: lựa chọn vấn
đề nghiên cứu, xác định các biến số, khung nghiên cứu và đưa ra định nghĩa về
các biến số.
- Quần thể được quan sát trong một thời điểm nhất định hoặc theo thời
gian dài mà không có sự can thiệp vào đối tượng nghiên cứu và thông tin cần
thu thập về phơi nhiễm/tình trạng sức khỏe được thực hiện trong một thời gian
nhất định.

134
- Mục tiêu chủ yếu của nghiên cứu là mô tả dịch tễ học nhằm tìm ra tần số
của một phơi nhiễm (hay một bệnh) hoặc sự phân bố của một hiện tượng sức
khỏe nào đó.
- Sản phẩm của nghiên cứu mô tả là ước lượng ra tỷ lệ hiện mắc của bệnh,
nghĩa là phần trăm các cá thể hiện đang bị ốm trong quần thể và giả thuyết nhân
quả.
- Nghiên cứu mô tả thường được áp dụng nhằm mô tả các hiện tượng lâm
sàng và mối tương quan giữa các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng với bản
chất của bệnh.
- Nghiên cứu mô tả được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của y tế
như: mô tả các hiện tượng sức khoẻ, đánh giá hiệu quả các chương trình y tế,
chất lượng các dịch vụ y tế, các hành vi ứng xử và đánh giá về kiến thức, kỹ
năng và thái độ của người cung cấp dịch vụ và người nhận dịch vụ y tế, sự hài
lòng và sử dụng dịch vụ y tế của người dân trong cộng đồng..
1.2.3.2. Nghiên cứu can thiệp
Trong nghiên cứu can thiệp nhà nghiên cứu tác động lên tình hình và đo
lường kết quả của việc tác động. Thông thường có hai nhóm được so sánh,
nhóm được can thiệp (thí dụ như được điều trị với một loại thuốc) và nhóm
không được can thiệp (nhóm sử dụng giả dược).
Nghiên cứu can thiệp được chia thành nghiên cứu thực nghiệm và nghiên
cứu bán thực nghiệm
Trong nghiên cứu thực nghiệm, các cá nhân được chia ngẫu nhiên thành (ít
nhất) hai nhóm. Một nhóm  được nhận can thiệp (nhóm thử nghiệm) và một
nhóm không được nhận can thiệp (nhóm chứng). Kết cuộc của can thiệp được
tính từ việc so sánh kết quả ở hai nhóm.
Nghiên cứu thực nghiệm có 3 đặc tính:
- Thao tác
- Có nhóm chứng
- Chia nhóm ngẫu nhiên: sức mạnh của nghiên cứu thực nghiệm chính là
việc chia nhóm ngẫu nhiên giúp loại bỏ yếu tố gây nhiễu.

135
Nghiên cứu bán thực nghiệm là  nghiên cứu có sự thao tác của nhà nghiên
cứu nhưng thiếu một trong hai đặc tính còn lại của nghiên cứu thực nghiệm (thí
dụ như không có nhóm chứng hay không được chia nhóm ngẫu nhiên.
Nghiên cứu thực nghiệm có thể được chia làm 3 loại:
1- Thử nghiệm lâm sàng: là nghiên cứu trên đối tượng bệnh nhân.  Loại
nghiên cứu bao gồm việc thử nghiệm một điều trị mới hay một biện pháp dự
phòng các di chứng trên bệnh nhân nhằm đánh giá hiệu quả của việc điều trị hay
dự phòng kể trên.
2- Thử nghiệm thực địa là việc can thiệp trên người chưa có bệnh. Loại
nghiên cứu này chủ yếu đánh giá các biện pháp dự phòng.Để nghiên cứu có tính
xác  hợp người ta thường chỉ sử dụng thử nghiệm thực địa để đánh giá các giải
pháp can thiệp dự phòng cho các bệnh bệnh phổ biến hay trầm trọng. Các thử
nghiệm vaccine là một loại thử nghiệm thực địa phổ biến nhất.
3- Can thiệp cộng đồng tương tự như thử nghiệm thực địa nhưng có đặc
điểm là biện pháp can thiệp được áp dụng cho cả cộng đồng chứ không phải có
một cá nhân đơn lẻ. Can thiệp cộng đồng áp dụng khi biện pháp can thiệp này
chỉ có thể áp dụng cho quy mô  cộng đồng thí dụ như việc đánh giá hiệu quả của
việc cải tạo vệ sinh môi trường trong việc phòng chống sốt rét.
Nghiên cứu can thiệp chính thống có 3 đặc điểm quan trọng: có việc can
thiệp chủ động và đặc hiệu cho nghiên cứu, có nhóm đối chứng và sử dụng việc
phân nhóm ngẫu nhiên để đưa các đối tượng vào nhóm  can thiệp và  hay nhóm
đối chứng đối chứng. Nghiên cứu can thiệp không có đủ 3 đặc tính trên được gọi
là nghiên cứu bán can thiệp (quasi experiment). Việc sai lệch thông tin trong
nghiên cứu can thiệp có thể được giảm thiểu nếu với phương pháp mù đơn (có
nghĩa là làm sao cho đối tượng không biết loại điều trị của cá nhân mình) hoặc
mù đôi (cả đối tượng điều trị và nhà nghiên cứu đều không biết loại điều trị
được thực hiện trên từng cá nhân). Tuy nhiên tính chất mù của nghiên cứu can
thiệp không phải là yêu cầu tuyệt đối.
Do nghiên cứu thực nghiệm có chia làm 2 nhóm can thiệp và nhóm chứng
bằng phương pháp chia nhóm ngẫu nhiên, sẽ phân bố đều yếu tố gây nhiễu trong
2 nhóm và hạn chế vai trò của yếu tố gây nhiễu, đặc biệt khí cỡ mẫu đủ lớn. Đó
là lí do tại sao những bằng chứng từ nghiên cứu thực nghiệm được đánh giá cao.

136
1.2.4. Các phương pháp thu thập số liệu
Thu thập là tìm kiếm, góp nhặt và tập hợp lại. Thu thập thông tin là quá
trình tập hợp thông tin theo những tiêu chí cụ thể nhằm làm rõ những vấn đề, nội
dung liên quan đến lĩnh vực nhất định. Thu thập thông tin/số liệu là quá trình
xác định nhu cầu thông tin, tìm nguồn thông tin phù hợp, thực hiện tập hợp
thông tin theo yêu cầu nhằm đáp ứng mục tiêu đã được định trước.
Phương pháp thu thập số liệu nghiên cứu là các kỹ thuật áp dụng để thu
thập thông tin một cách có hệ thống, khách quan, chính xác về các đối tượng
nghiên cứu.
1.2.4.1. Cơ sở để lựa chọn phương pháp thu thập số liệu
- Mục tiêu nghiên cứu
- Đối tượng, quy mô của nghiên cứu
- Loại thông tin cần thu thập (các biến số)
- Thông tin có sẵn và độ tin cậy của thông tin
1.2.4.2. Các phương pháp thu thập số liệu thường được sử dụng trong nghiên
cứu điều dưỡng
- Quan sát
- Phỏng vấn sâu
- Điều tra theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn
- Khám lâm sàng, xét nghiệm sàng lọc tại cộng đồng
- Thảo luận nhóm
- Sử dụng thông tin có sẵn.
1.2.4.3. Các phương pháp thu thập số liệu
Kỹ thuật phỏng vấn
Phỏng vấn là sự giao tiếp có chủ định. Cuộc phỏng vấn thông thường có ba
giai đoạn: mở đầu, nội dung và kết thúc. Các yếu tố ảnh hưởng tới cuộc phỏng
vấn là: thời gian, địa điểm, chỗ ngồi, cách thức giao tiếp, sự tin tưởng, khoảng
cách ngồi.

137
- Mở đầu cuộc phỏng vấn
Là bước rất quan trọng vì những câu nói và việc làm trong giai đoạn này
quyết định chất lượng cuộc phỏng vấn. Người phỏng vấn cần chủ động chào hỏi,
tự giới thiệu tên và nói rõ mục đích cuộc phỏng vấn, thời gian phỏng vấn và nói
cho người được phỏng vấn biết họ có quyền không trả lời các thông tin mà họ
không muốn.
- Nội dung cuộc phỏng vấn
Trong giai đoạn này người được phỏng vấn dần dần bày tỏ điều họ biết,
họ cảm thấy, điều họ đang nghĩ và nhận thức của họ về các vấn đề mà người
phỏng vấn hỏi. Người phỏng vấn có thể chuyển sang giai đoạn phỏng vấn liên
quan đến mục đích nghiên cứu bằng một câu hỏi dễ trả lời hoặc không gây tâm
lý cho người bệnh. Ví dụ: làm sao hôm nay bác phải đi khám? Người phỏng vấn
cần sử dụng kỹ thuật giao tiếp để đảm bảo hai bên đều cảm thấy thoải mái trong
việc đặt câu hỏi và trả lời. Người phỏng vấn nêu câu hỏi cần ngắn gọn, hỏi từng
câu hỏi một, các câu hỏi theo thứ tự logic, chú ý lắng nghe câu trả lời, tránh áp
đặt kinh nghiệm cá nhân như "nếu tôi là anh/chị thì…", sử dụng ngôn ngữ
không lời biểu lộ sự tôn trọng, dùng ánh mắt để thể hiện sự thông cảm, chấp
nhận giây phút im lặng để người được phỏng vấn sắp xếp ý tưởng trả lời.
- Kết thúc cuộc phỏng vấn
Khi có được các thông tin cần thiết, người phỏng vấn chủ động kết thúc
cuộc phỏng vấn. Đôi khi người được phỏng vấn chủ động kết thúc trước. Dưới
đây là một số kỹ thuật để kết thúc cuộc phỏng vấn:
+ Hãy đưa ra ám hiệu là cuộc phỏng vấn đã xong bằng cách hỏi "Ông bà có
điều gì muốn nói nữa không? Tôi rất vui lòng được trả lời câu hỏi của ông bà?
+ Để chấm dứt cuộc phỏng vấn có thể nói rằng: "Vâng, đó là tất cả những
thông tin chúng tối muốn biết"
+ Thể hiện sự hài lòng và đánh giá cao cuộc phỏng vấn "tôi rất vui được
nói chuyện với anh chị", "xin cảm ơn sự giúp đỡ của anh chị" hoặc "thông tin
anh chị cung cấp sẽ rất hữu ích cho bệnh viện cải tiến công tác phục vụ"
+ Ám hiệu đã hết giờ "thời gian hôm nay trôi nhanh quá", "xin cảm ơn anh
chị", “chúc anh chị may mắn"…
Phân loại phỏng vấn
- Phỏng vấn trực tiếp

138
Phỏng vấn trực tiếp là hình thức người đi thu thập thông tin phỏng vấn trực
tiếp đối tượng nghiên cứu mà không thông qua bất kỳ một phương tiện hỗ trợ
nào (điện, thoại, email, máy tính….). Đây là phương pháp phổ biến nhất khi
điều tra với cỡ mẫu không lớn. Áp dụng khi hiện tượng nghiên cứu phức tạp,
cần phải thu thập nhiều dữ liệu; khi muốn thăm dò ý kiến đối tượng qua các câu
hỏi ngắn gọn và có thể trả lời nhanh được,…
Có hai hình thức phỏng vấn trực tiếp gồm: phỏng vấn cá nhân và phỏng
vấn nhóm.
- Phỏng vấn trực tiếp cá nhân là hình thức người đi thu thập thông tin
phỏng vấn trực tiếp duy nhất một người bằng một bộ câu hỏi có cấu trúc đã
được thiết kế sẵn.
Ví dụ: một điều dưỡng viên phỏng vấn một người bệnh về kiến thức và
thực hành của họ trong việc tự chăm sóc sau mổ ruột thừa.
- Phỏng vấn trực tiếp theo nhóm là hình thức người đi thu thập thông tin
phỏng vấn trực tiếp cùng lúc nhiều người bằng một bộ câu hỏi có cấu trúc đã
được thiết kế sẵn.
Thực chất đây là hình thức điều tra viên hướng dẫn một nhóm đối tượng
nghiên cứu tự điền vào một bộ câu hỏi có cấu trúc đã được thiết kế sẵn. Việc
điều tra có thể sử dụng bằng bộ câu hỏi đã được in sẵn hoặc sử dụng máy tính để
hỗ trợ. Thông thường hình thức này không áp dụng cho các cuộc điều tra về kiến
thức, mà thường sử dụng cho các cuộc điều tra về thái độ và đặc biệt là những
hành vi mà họ đã thực hiện trong quá khứ.
Ví dụ: một nghiên cứu muốn tìm hiểu các bà mẹ có con bị tiêu chảy đã
chăm sóc con họ như thế nào trước khi họ đưa con mình vào bệnh viện. Nhà
nghiên cứu đã thiết kế một bộ câu hỏi có cấu trúc về những hành vi tự chăm sóc
trẻ bị tiêu chảy tại nhà. Sau đó nhà nghiên cứu này mời các bà mẹ đang chăm
sóc con bị tiêu chảy tại khoa vào hội trường của khoa và hướng dẫn họ tự điền
bộ câu hỏi.
Ưu điểm: Thu được số liệu nhanh, thông tin chính xác, có thể thuyết phục
đối tượng trả lời, tỷ lệ tham gia cao; có thể giải thích rõ cho đối tượng về các câu
hỏi; có thể dùng hình ảnh kết hợp với lời nói để giải thích; có thể kiểm tra dữ

139
liệu tại chỗ trước khi ghi vào phiếu điều tra; những người không biết chữ cũng
có thể tham giam; thích hợp cho những nghiên cứu có bộ câu hỏi dài, phức tạp.
Nhược điểm: Chi phí cao, mất nhiều thời gian và công sức. Phỏng vấn
viên khác nhau có thể giải thích khác nhau cho cùng một câu hỏi. Trong quá
trình hỏi thăm dò, một số người phỏng vấn có thể gợi ý câu trả lời cho người trả
lời. Đặc điểm cá nhân của người phỏng vấn có thể ảnh hưởng đến thái độ của
người trả lời, ví dụ, tuổi tác, giới tính, chủng tộc. Khi kém tập trung, người
phỏng vấn có thể đọc những câu hỏi sai lệch. Đây là các nguồn chính của các sai
số không do chọn mẫu mà do người phỏng vấn Một số lưu ý khi áp dụng: Khi
đặt câu hỏi để trả lời thì yêu cầu điều tra viên phải hiểu rõ mục đích của câu hỏi
như giải thích trong hướng dẫn dành cho người phỏng vấn và thường xuyên
tham khảo hướng dẫn. Hỏi theo trình tự các câu hỏi: trật tự các câu hỏi liên quan
đến động cơ thúc đẩy người được hỏi, liên kết các chủ đề, tạo điều kiện dễ nhớ
lại các sự kiện trong quá khứ, và tạo sự tin cậy để trả lời câu hỏi nhạy cảm.
Người phỏng vấn không gợi ý câu trả lời. Để giảm thiếu bỏ sót câu, kiểm tra
những câu không có câu trả lời, câu hỏi nhảy cách. Nếu có câu nào không phù
hợp với đối tượng nghiên cứu thì ghi chú bênh cạnh. Chọn địa điểm phù hợp
trong các hoàn cảnh cụ thể để phỏng vấn đạt được kết quả cao.
- Phỏng vấn gián tiếp
Phỏng vấn gián tiếp là hình thức người đi thu thập thông tin phỏng vấn đối
tượng nghiên cứu thông quan các phương tiện hỗ trợ như điện thoại, qua email,
máy tính, qua thư, phiếu tự điền. Phương pháp này phù hợp khi việc tiếp cận trực
tiếp đối tượng có nhiều trở ngại như đối tượng ở xa, đối tượng không có khả năng
giao tiếp bằng lời, đối tượng thường xuyên di chuyển… Các hình thức phỏng vấn
gián tiếp bao gồm: tự điền phiếu, qua thư viết tay, qua điện thoại, email.
Phỏng vấn gián tiếp bằng hình thức tự điền trực tiếp: Đây là hình thức
mà nhà nghiên cứu soạn thảo một bộ câu hỏi có cấu trúc theo mục tiêu nghiên
cứu sau đó gửi trực tiếp cho đối tượng tự điền. Nhà nghiên cứu có thể gặp từng
đối tượng để họ tự điền sau đó thu phiếu luôn. Hoặc cũng có thể tập hợp một
nhóm đối tượng và phát phiếu trực tiếp để đối tượng điền sau đó thu phiếu luôn.
Hình thức này có điểm tương đồng so với phỏng vấn trực tiếp theo nhóm tuy
nhiên điểm khác biệt là nhà nghiên cứu chỉ hướng dẫn tự trả lời cho cả bộ câu

140
hỏi mà không đọc từng câu hỏi để đối tượng tự điền như là phỏng vấn trực tiếp.
Ví dụ: một nghiên cứu tìm hiểu hành vi chăm sóc trẻ em bị nhiễm khuẩn
hô hấp cấp của các bà mẹ. Nhà nghiên cứu đã soạn thảo một bộ câu hỏi sau đó
mời một nhóm bà mẹ đến một địa điểm định trước, giới thiệu cho họ về mục
đích và nội dung của cuộc điều tra sau đó hướng dẫn họ trả lời (cách đánh dấu,
tích vào bộ câu hỏi như thế nào…) rồi phát phiếu để họ tự điền. Tiến hành thu
phiếu sau khi đối tượng đã hoàn thành. Ngoài ra phương pháp điều tra tự điền
theo nhóm cũng có thể thực hiện trên máy tính. Đây là hình thức thu thập thông
tin tương đối nhanh và chính xách. Tuy nhiên kết quả có thể bị sai lệch nếu áp
dụng phương pháp tự điền theo nhóm. Nên áp dụng với các cuộc điều tra về
hành vi và thái độ, khi chủ đề không mang tính chất nhậy cảm, việc tiếp cận đối
tượng là tương đối dễ dàng.
Phương pháp thu thập số liệu qua thư (thư viết tay, email): Thực chất
đây cũng là hình thức điền tuy nhiên nhà nghiên cứu không trực tiếp gặp đối
tượng mà gửi bộ câu hỏi điều tra đến cho đối tượng thông qua bưu điện, email
điện tử hoặc qua máy tính.
Áp dụng khi: rất khó tiếp cận đối tượng, do họ ở quá xa, sống quá phân tán,
sống ở khu dành riêng rất khó vào, hay họ thuộc giới kinh doanh muốn gặp phải
qua bảo vệ, thư ký, những người rất bận rộn. Vấn đề cần điều tra thuộc loại khó
nói, riêng tư. Vấn đề cần nghiên cứu rất hấp dẫn đối với đối tượng nghiên cứu.
Ưu điểm: Có thể điều tra với số lượng lớn đơn vị. Có thể đề cập đến nhiều
vấn đề riêng tư tế nhị. Có thể dùng hình ảnh minh họa kèm với bảng câu hỏi.
Thuận lợi chongười trả lời vì họ có thời gian để suy nghĩ kỹ câu trả lời, họ có
thể trả lời vào lúc rảnh rỗi. Chi phí điều tra thấp; chi phí phát sinh thấp vì chỉ tốn
thêm tiền gửi thư, không tốn kém tiền thù lao cho phỏng vấn viên. Không có sai
số do người phỏng vấn.
Nhược điểm: khó có sự hợp tác từ đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ trả lời
thường thấp. Mất nhiều thời gian chờ đợi thư đi và thư hồi âm. Không kiểm soát
được người trả lời, người trả lời thư có thể không đúng đối tượng mà ta nhắm
tới. Nếu là một cuộc khảo sát thái độ, rất khó để xác định xem người trả lời có
sự trợ giúp trả lời từ người khác không. Phương pháp này chỉ có ích khi các câu
hỏi khá đơn giản, không thích hợp cho các cuộc điều tra phức tạp, các cuộc điều

141
tra về kiến thức. Giả định: người được hỏi biết chữ và họ điền vào bảng hỏi của
chính mình.
Phương pháp thu thập số liệu qua điện thoại: Điều tra viên tiến hành
việc phỏng vấn đối tượng được điều tra bằng điện thoại theo một bảng câu hỏi
được soạn sẵn. Phương pháp này có điểm giống với phỏng vấn trực tiếp cá nhân
đó là điều tra viên và đối tượng có thể trao đổi với nhau nghe nhau nói.
Áp dụng khi mẫu nghiên cứu gồm nhiều đối tượng là cơ quan, trường học,
bệnh viện, hoặc đối tượng phân tán trên nhiều địa bàn thì phỏng vấn bằng điện
thoại có chiphí thấp hơn phỏng vấn bằng thư. Nên sử dụng kết hợp phỏng vấn
bằng điện thoại với phương pháp thu thập dữ liệu khác để tăng thêm hiệu quả
của phương pháp.
Ưu điểm: Dễ thiết lập quan hệ với đối. Có thể kiểm soát được phỏng vấn
viên tốt hơn do đó nâng cao được chất lượng phỏng vấn. Tỷ lệ trả lời cao (có thể
lên đến 80%).Trong quá trình phỏng vấn, có thể giải thích nếu đối tượng không
hiểu câu hỏi. Thu được kết qua nhanh.
Nhược điểm: Thời gian phỏng vấn bị hạn chế vì người trả lời thường
không sẵn lòng nói chuyện lâu qua điện thoại. Nhiều khi người cần hỏi từ chối
trả lời hay không có ở Nhà. Không thể trình bày các hình ảnh minh hoạ để thăm
dò ý kiến. Hạn chế đối với những nghiên cứu có bộ câu hỏi phức tạp.
Kỹ thuật thảo luận nhóm
Là một kỹ thuật thu thập thông tin được sử dụng nhiều trong nghiên cứu
định tính. Thông tin trong nghiên cứu được thu thập thông qua sự thảo luận của
một nhóm người đại diện về chủ đề nào đó. Câu hỏi thảo luận là các câu hỏi mở
như: tại sao ? như thế nào ?.
Các bước thảo luận của nhóm:
- Giai đoạn chuẩn bị :
Sự chuẩn bị bao gồm: Chủ đề thảo luận và mục tiêu cần đạt được, dự kiến
các câu hỏi cần thảo luận (câu hỏi dẫn gợi ý), số lượng tốt nhất 5-7 người, địa
điểm: Chú ý địa điểm thuận lợi, đủ chỗ ngồi, hướng dẫn viên dễ quan sát, và
giảm tối đa các yếu tố ảnh hưởng xung quanh.

142
- Giai đoạn tiến hành thảo luận:
Giới thiệu làm quen, nêu quy tắc làm việc, nội dung thảo luận nên đi dần từ
tổng quát sang chi tiết cụ thể. Hướng dẫn viên cần có kỹ năng điều hành, bám
sát mục tiêu, mềm dẻo, điều hoà mâu thuẫn giữa các đối tượng tham gia, ghi
chép tóm tắt. Thời gian thảo luận không quá 120 phút
- Giai đoạn kết thúc:
Người điều hành cần tóm tắt nội dung thảo luận kể cả những ý kiến chưa
thống nhất, có thể cần làm sáng tỏ thêm vấn đề cần thiết chưa đạt mục tiêu khi
thảo luận.
Quan sát
Quan sát là sự thu thập số liệu bằng 5 giác quan. Mặc dù việc quan sát chủ
yếu sử dụng mắt nhưng trong hầu hết các quan sát đều có sự tham gia của các
giác quan khác. Quan sát có hai mặt: nhìn và làm sáng tỏ thông tin. Ví dụ: người
điều dưỡng nhìn thấy người bệnh mặt đỏ ửng: có thể là dấu hiệu của sốt và để có
thể khẳng định là sốt thì phải sờ vào trán hoặc chính xác hơn thì phải dùng đến
nhiệt kế.
Quan sát trực tiếp (Direct observation)
- Áp dụng
+ Quan sát tiến trình công việc, thủ thuật, sự di chuyển của đối tượng.
+ Thu thập thông tin về cơ sở hạ tầng, phương tiện dụng cụ.
+ Phối hợp quan sát và phỏng vấn (so sánh thông tin thu được giữa phỏng
vấn và quan sát).
- Ưu điểm
+ Người nghiên cứu cảm nhận trực tiếp vấn đề nghiên cứu
+ Nhanh chóng thu được kết quả.
- Nhược điểm
+ Dễ ngộ nhận, nhất là người nghiên cứu từ bên ngoài đến với thời gian ngắn.
+ Sự có mặt của người quan sát sẽ tác động ít nhiều đến tâm lý và hành vi
người được quan sát.
+ Kết quả có thể sai lệch do chọn mẫu hoặc sai số hệ thống.
- Yêu cầu đối với người quan sát

143
+ Phải có kiến thức về vấn đề quan sát.
+ Phải nhớ được nội dung quan sát.
+ Hạn chế được sự đối phó của người được quan sát.
+ Hiểu biết về tập quán, ngôn ngữ nơi nghiên cứu.
Quan sát tham gia (Participatory observation)
- Áp dụng
+ Thu thập thông tin thông qua chia sẻ kinh nghiệm.
+ Rất tốt cho việc nghiên cứu lập kế hoạch dự án.
+ Đánh giá hiệu quả dự án/công việc.
- Ưu điểm
+ So sánh được lý thuyết với thực tiễn.
+ Kiểm tra và xác định tính chính xác của thông tin.
+ Hiểu và mô tả được công việc, sự kiện và can thiệp dễ dàng hơn.
- Nhược điểm
+ Cần nhiều thời gian.
+ Không đưa ra được số lượng chính xác.
+ Khó suy rộng ra các vùng và miền khác.
- Yêu cầu đối với người quan sát tham gia
+ Hiểu biết và có kinh nghiệm về lĩnh vực quan sát
+ Hiểu biết về tập quán, điều kiện kinh tế văn hoá nơi nghiên cứu
+ Có khả năng giao tiếp và làm việc cùng người địa phương.
Điều tra theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn
Phạm vi áp dụng
- Mô tả hiện tượng sức khoẻ cộng đồng.
- Đánh giá các chương trình y tế.
- Đánh giá kiến thức, kỹ năng, thái độ của nhóm đối tượng nghiên cứu.
Kỹ thuật xây dựng câu hỏi.
-Câu hỏi đóng
Câu hỏi đóng có ưu điểm là: dễ trả lời, dễ mã hoá và nhập số liệu, phân tích
nhanh chóng. Tuy nhiên với câu hỏi đóng, lượng thông tin thu được sẽ hạn chế.

144
Câu hỏi đóng là loại câu hỏi đã liệt kê sẵn các nội dung trả lời. Người trả
lời chỉ được chọn một hay nhiều nội dung trả lời đã có sẵn, không được chọn
những gì không có trong nội dung trả lời.
+ Câu hỏi đúng sai
Dùng để đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ của người được phỏng vấn. Dưới đây là các ví dụ về kỹ
thuật đặt câu hỏi đúng sai?

Nội dung Đúng Sai


Có ba vị trí lấy nhiệt độ cơ thể
Thời gian đo nhiệt độ ở nách là 5 phút
Phân tích số liệu phải dựa vào mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả nhằm kiểm tra giả thuyết nghiên
cứu
+ Câu hỏi nhiều lựa chọn
Câu hỏi nhiều lựa chọn gồm hai phần. Phần câu hỏi và phần liệt kê các
nội dung trả lời để lựa chọn. Thông thường người ta đưa ra 4 lựa chọn để chọn
lấy một câu đúng nhất.
Ví dụ. Trong bữa ăn chính hằng ngày anh/chị thường ăn thức ăn gì nhất?
A. Thịt hoặc cá hoặc tôm tép
B. Trứng gà hoặc trứng vịt
C. Sữa hoặc pho mát
D. Đậu đỗ hoặc rau xanh
+Câu trả lời cấu trúc theo thang điểm nhiều bậc
Thang điểm có hai cực, từ kém nhất đến tốt nhất. Thang điểm thông
thường có 4 - 5 bậc. Người trả lời phải chọn một mức điểm đã được ghi trên
thang điểm.
Ví dụ: Ông /bà cho biết chất lượng dịch vụ chăm sóc trong bệnh viện.
Rất kém 1 2 3 4 5 Rất tốt.
- Câu hỏi mở

145
Là câu hỏi không có câu trả lời sẵn, đòi hỏi đối tượng phải sử dụng kiến
thức/hiểu biết của bản thân để trả lời theo ngôn ngữ riêng của mình. Loại câu
hỏi mở thích hợp với các nghiên cứu về tâm lý, thái độ, kiến thức hoặc tìm hiểu
sâu một vấn đề chưa biết. Nhược điểm của sử dụng câu hỏi mở là khó phân tích
và tổng hợp kết quả.
Câu hỏi mở được sử dụng nhằm khám phá và làm rõ những thông tin cần
nghiên cứu và người được phỏng vấn được tự do trả lời. Loại câu hỏi này rất có
ích khi bắt đầu cuộc phỏng vấn hoặc khi chuyển chủ đề. Ví dụ: hôm nay ông/bà
cảm thấy thế nào? Vì sao ông/bà đến bệnh viện? Câu hỏi mở thường bắt đầu
bằng cái gì, như thế nào, vì sao.
Ví dụ:
- Anh chị hãy kể tên các biện pháp tránh thai mà anh chị biết?
- Tiêm không an toàn có thể lây truyền các bệnh gì qua đường máu?
- Anh chị hãy liệt kê nội dung 5 đúng khi dùng thuốc cho người bệnh?
Câu trả lời bằng số: Đối với loại câu hỏi này, chỉ áp dụng khi người hỏi
phải biết chắc là đối tượng nghiên cứu đã có trải qua vấn đề mà mình muốn
nghiên cứu.
Ví dụ: Lương và các khoản thu nhập bình quân của ông/bà hàng tháng
là...........................đồng.
- Câu hỏi nửa đóng, nửa mở
Là loại câu mà phần đầu là một câu hỏi đóng với những nội dung trả lời
có sẵn hoặc là “có”/ “không”, đồng thời có thêm một câu hỏi mở ở cuối câu trả
lời. Câu hỏi nửa đóng nửa mở thường được áp dụng khi người nghiên cứu không
thể liệt kê hết được các khả năng trả lời có thể xảy ra, hoặc muốn tìm hiểu thêm
về lý do tại sao đối tượng nghiên cứu lại chọn “có” hoặc “không”.
Ví dụ:
- Anh chị có hài lòng với công việc đang làm không?
Có:
Không:

146
Nếu không vì sao? ………………………………………
- Anh chị có bị rủi ro do vật sắc nhọn trong 3 tháng gần đây không?
Có:
Không:
Nếu có, anh chị bị rủi ro khi đang làm việc gì?........................................
Những chú ý khi đặt câu hỏi
- Tránh dùng các câu hỏi dẫn đường cho sự trả lời (leading question).
Ví dụ: ông bà đang lo lắng về cuộc phẫu thuật trong ngày mai phải không?
hoặc ông bà sẽ uống thuốc chứ? Loại câu hỏi này thường đưa đến câu trả lời có
thể đoán trước được.
- Một bộ câu hỏi nên phân chia thành từng nhóm chủ đề có trình tự, logic
để dễ hỏi, dễ trả lời.
- Cần sử dụng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu và phù hợp với ngôn ngữ địa
phương để đặt câu hỏi.
- Mỗi câu hỏi chỉ nên chọn một trả lời.
- Độ dài của cuộc phỏng vấn không nên kéo dài quá 30 phút.
Khám lâm sàng, xét nghiệm sàng lọc tại cộng đồng
- Khám lâm sàng: là phương pháp thu thập số liệu được áp dụng rộng rãi.
Người điều dưỡng sử dụng các phương pháp nhìn, sờ, gõ, nghe và phỏng vấn để
thu thập số liệu và đưa ra các chẩn đoán điều dưỡng.
- Khám sàng lọc: áp dụng đối với các bệnh có tỷ lệ mắc, tử vong cao trong
cộng đồng, có kỹ thuật phát hiện ở giai đoạn sớm, được cộng đồng chấp nhận,
có biện pháp dự phòng và điều trị có hiệu quả khi phát hiện được bệnh.
Ví dụ: đo huyết áp để phát hiện những người tăng huyết áp; xét nghiệm
đờm để tìm trực khuẩn lao trong số bệnh nhân viêm phế quản mãn tính; đo cân
nặng và chiều cao để phát hiện suy dinh dưỡng ở trẻ em < 5 tuổi; khám phát
hiện mắt hột ở cộng đồng, xét nghiệm lam máu tìm ý sinh trùng sốt rét, xét
nghiệm đường niệu để chẩn đoán sớm bệnh đái đường...

147
Sử dụng thông tin có sẵn
Tiêu chuẩn thu thập thông tin sẵn có
- Thông tin có sẵn phải phù hợp với vấn đề nghiên cứu.
- Yếu tố thời gian: mới, gần thời điểm điều tra.
- Có thể so sánh, đối chiếu được với thông tin từ phương pháp thu thập khác
- Thông tin có độ tin cậy cao.
Cách thu thập thông tin có sẵn
- Sử dụng trực tiếp số liệu có sẵn khi số liệu đáp ứng được tiêu chuẩn.
- Xử lý các thông tin có sẵn theo mục đích nghiên cứu.
- Thu thập thông tin bổ sung khi không có sẵn thông tin theo yêu cầu.
2. Khái niệm y học dựa vào bằng chứng
2.1.Khái niệm thực hành điều dưỡng dựa vào bằng chứng
Thực hành điều dưỡng dựa trên bằng chứng là việc sử dụng có chủ ý, chọn
lọc nền tảng lý thuyết y học, các kết quả nghiên cứu liên quan đến sức khỏe của
con người để hướng dẫn các hành động trong thực hiện quy trình điều dưỡng.
Thực hành điều dưỡng dựa vào bằng chứng là một quá trình thu thập, giải
thích, thẩm định và tích hợp các kết quả nghiên cứu có ý nghĩa lâm sàng và ứng
dụng vào trong thực hành điều dưỡng. Thực hành điều dưỡng dựa vào bằng
chứng là một phương pháp thực hành dựa vào phối hợp kĩ năng lâm sàng với
bằng chứng khoa học nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho bệnh nhân. Thực hành
dựa trên bằng chứng đòi hỏi sự tích hợp của chứng cứ tốt nhất từ các nghiên cứu
khoa học với kinh nghiệm lâm sàng vào tình huống cụ thể của người bệnh.
Thực hành điều dưỡng dựa vào bằng chứng là một quá trình liên tục mà
bằng chứng, lý thuyết điều dưỡng và kinh nghiệm lâm sàng được đánh giá và
xem xét nghiêm túc, kết hợp với sự tham gia của bệnh nhân, để cung cấp dịch
vụ chăm sóc điều dưỡng tối ưu cho người bệnh.
2.2.Tầm quan trọng của thực hành điều dưỡng dựa vào bằng chứng
Thực hành điều dưỡng dựa vào bằng chứng giúp đưa ra quyết định rõ ràng
và hợp lý về việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho các cá nhân hoặc

148
nhóm bệnh nhân dựa trên các bằng chứng phù hợp từ kết quả nghiên cứu, nền
tảng lý thuyết và nhu cầu chăm sóc.
Mục tiêu của Thực hành điều dưỡng dựa vào bằng chứng là cải thiện sức
khỏe và sự an toàn của bệnh nhân đồng thời cung cấp dịch vụ chăm sóc một
cách hiệu quả về mặt chi phí để cải thiện kết quả cho cả bệnh nhân và hệ thống
chăm sóc sức khỏe.
Người điều dưỡng có thể đưa ra những quyết định, hành động trong chăm
sóc phù hợp với từng đối tượng dựa trên các nghiên cứu, thống kê có giá trị. Từ
đó nâng cao hiệu quả trong chăm sóc cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ
chăm sóc.
Người điều dưỡng phải thực hành dựa vào bằng chứng vì: Chi phí công và
tư cho y tế ngày càng tăng trên toàn cầu làm cho chính phủ của các quốc gia cần
bảo đảm chắc chắn rằng chi phí cho chăm sóc sức khỏe đạt được mục tiêu cung
cấp dịch vụ y tế hiệu quả với những kết quả đầu ra tích cực cho công chúng và
tiết kiệm chi phí. Số lượng tài liệu liên quan đến chăm sóc sức khỏe đang tăng
lên theo cấp số nhân. Quyết định chăm sóc sức khỏe chuyển qua người chi trả.
Trách nhiệm của người làm chuyên môn tăng lên. Thay đổi sự kỳ vọng của công
chúng, người dân quan tâm đến chất lượng dịch vụ hơn, người dân hiểu biết hơn
và cũng khắt khe hơn (nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhiều hơn và yêu cầu cũng
cao hơn). Sự tin tưởng rằng áp dụng kết quả nghiên cứu có chất lượng tốt sẽ cải
thiện kết quả cho người bệnh do vậy đó là điều quan trọng với chất lượng chăm
sóc người bệnh.
3. Các bước thực hành y học dựa vào bằng chứng
3.1. Đặt câu hỏi PICOT
Bước 1: Phát hiện tình huống/vấn đề và chuyển thành câu hỏi có thể trả lời
được. Diễn dịch một vấn đề lâm sàng thành một câu hỏi có thể trả lời được là
một việc làm hết sức quan trọng và là vấn đề mấu chốt trong quy trình thực hành
dựa vào bằng chứng.
Một câu hỏi tốt nên có 4 phần (PICO):
- Người bệnh (Patient): là ai?, bị bệnh gì?

149
- Can thiệp (Intervention): dùng thuốc, phương pháp chăm sóc, xét nghiệm,
có yếu tố nguy cơ, v.v…
- So sánh (Comparison): So sánh với phương pháp khác.
- Kết quả đầu ra (Outcome): chỉ số lâm sàng, thời gian nằm viện.
- Thời gian (Time):
Khi các câu hỏi được hỏi theo định dạng PICOT, nó sẽ mang lại kết quả tốt
nhất, phù hợp và tiết kiệm thời gian, ngược lại, một câu hỏi không phù hợp sẽ
dẫn đến một kết quả tìm kiếm có thể bao gồm hàng trăm tóm tắt không thể sử
dụng và không liên quan. Câu hỏi PICOT rõ ràng sẽ giúp việc tìm kiếm, thực
hiện các buốc tiếp theo một cách hiệu quả nhất.
3.2. Tìm kiếm, tổng hợp các bằng chứng
Bước 2: Tìm kiếm bằng chứng “tốt nhất”.
Bằng chứng là cơ sở để tin tưởng, thực tế hoặc có giấy tờ xác nhận, kết
luận, thông tin (từ cá nhân, từ tài liệu) hướng tới hình thành một sự thật, dùng để
chỉ thị, làm chứng. Một nguyên tắc cơ bản để được gọi là bằng chứng là dù bằng
chứng thu được bằng cách nào đi chăng nữa thì cũng phải có thể quan sát độc
lập được và kiểm định được.
Bằng chứng khoa học là những dữ liệu rút ra từ những nghiên cứu đã qua
thẩm định và được công bố trên các tạp chí y học chuyên môn được nhiều người
thừa nhận). Bằng chứng khoa học cũng được phân loại theo mức độ tin cậy từ
cao đến thấp. Nguồn bằng chứng có thể từ các nghiên cứu lâm sàng có giá
trị khoa học, có độ tin cậy, cũng có thể từ các khung lý thuyết đã được xây dựng
dựa trên một hệ thống các nghiên cứu.
Việc tìm kiếm bằng chứng tốt nhất nên bắt đầu bằng cách xem xét các yếu
tố của câu hỏi PICOT. Mỗi từ khóa từ PICOTquestion nên được sử dụng để bắt
đầu tìm kiếm. Loại nghiên cứu sẽ cung cấp câu trả lời tốt nhất cho câu hỏi can
thiệp sẽ đánh giá hệ thống hoặc phân tích tổng hợp, được coi là bằng chứng
mạnh mẽ nhất để đưa ra quyết định can thiệp. Có nhiều bằng chứng khác nhau
cho từng loại câu hỏi PICOT. Mặc dù có nhiều hệ thống bằng chứng có sẵn
trong tài liệu để trả lời các câu hỏi PICOT can thiệp

150
3.3. Đánh giá giá trị bằng chứng
Bước 3: Đánh giá nghiêm túc những kết quả nghiên cứu được lựa chọn.
Bước này trong quy trình EBP là rất quan trọng, trong đó nó liên quan đến
việc đánh giá quan trọng các bằng chứng thu được từ quá trình tìm kiếm. Mặc
dù các chuyên gia chăm sóc sức khỏe có thể coi việc đánh giá quan trọng là một
quá trình tốn nhiều thời gian, nhưng bước đầu tiên của việc đánh giá quan trọng
có thể được thực hiện một cách hiệu quả bằng cách trả lời ba câu hỏi chính như
một phần của quy trình đánh giá quan trọng nhanh chóng trong đó các nghiên
cứu được đánh giá tính hợp lệ của chúng, độ tin cậy và khả năng ứng dụng để trả
lời câu hỏi lâm sàng đặt ra.
1) Kết quả nghiên cứu có hợp lệ không? (validity) Đó là, kết quả càng gần
với sự thật càng tốt? Các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu bằng cách sử
dụng các phương pháp nghiên cứu tốt nhất có thể?
Ví dụ, trong các thử nghiệm can thiệp, điều quan trọng là xác định liệu các
đối tượng được phân ngẫu nhiên vào các nhóm điều trị hoặc nhóm kiểm soát và
liệu họ có bằng nhau về các đặc điểm chính trước khi điều trị hay không.
2) Kết quả là gì? (reliability) Ví dụ, trong một thử nghiệm can thiệp, điều
này bao gồm (a) liệu can thiệp có hiệu quả hay không, (b) hiệu quả điều trị đạt
được lớn như thế nào và (c) liệu các bác sĩ lâm sàng có thể mong đợi kết quả
tương tự nếu họ tự thực hiện can thiệp thiết lập thực hành lâm sàng (nghĩa là sự
chính xác của hiệu ứng can thiệp). Trong các nghiên cứu định tính, điều này bao
gồm việc đánh giá liệu phương pháp nghiên cứu có đúng mục đích của nghiên
cứu hay không, cùng với việc đánh giá các khía cạnh khác của nghiên cứu.
3) Kết quả có giúp chăm sóc bệnh nhân không? (Khả năng áp dụng) Câu
hỏi thẩm định quan trọng thứ ba này bao gồm hỏi liệu (a) các đối tượng trong
nghiên cứu có giống với bệnh nhân được chăm sóc hay không, (b) lợi ích lớn
hơn rủi ro điều trị (nghĩa là có khả năng gây hại), (c) việc điều trị là khả thi để
thực hiện trong môi trường thực hành và (d) bệnh nhân mong muốn điều trị.
Các câu trả lời cho những câu hỏi này đảm bảo sự liên quan và khả năng áp
dụng của bằng chứng cho đối tượng chăm sóc.
3.4. Ứng dụng vào thực hành điều dưỡng

151
Bước 4: Tích hợp bằng chứng với kiến thức, kinh nghiệm lâm sàng và các
ưu tiên của người bệnh để áp dụng giải quyết tình huống lâm sàng.
Bước quan trọng tiếp theo trong EBP là ứng dụng các bằng chứng tốt nhất
tìm thấy từ tài liệu, các ưu tiên và giá trị của người bệnh để thực hiện quyết định
hành động ưu tiên. Sau khi thẩm định bằng chứng, cần phải tích hợp nó với
chuyên môn của nhà cung cấp và sở thích của bệnh nhân. Bệnh nhân được
khuyến khích thực hành tự chủ và tham gia vào quá trình ra quyết định. Do đó,
ngay cả khi nghiên cứu có kết quả thành công, bệnh nhân có thể từ chối điều trị.
Kết quả đánh giá và tiền sử bệnh nhân có thể tiết lộ thêm các chống chỉ định đối
với một điều trị dựa trên bằng chứng nhất định. Cuối cùng, sự sẵn có của các
nguồn lực chăm sóc sức khỏe có thể hạn chế việc thực hiện điều trị ngay cả khi
nó được chứng minh là có hiệu quả trong một nghiên cứu.
3.5. Đánh giá việc ứng dụng
Bước 5: Đánh giá hiệu quả việc dùng bằng chứng về việc tiến hành các
bước từ 1 đến 4 để cải thiện cho lần sau.
Trong tất cả các can thiệp lâm sàng thì việc lượng giá kết quả luôn là quan
trọng nhất, nó giúp đánh giá được hiệu của của việc thực hành dựa trên những
bằng chứng đã tìm được. Kết quả đánh giá này sẽ là cơ sở để đưa ra những quyết
định chăm sóc lâm sàng tiếp theo trên người bệnh, giúp cho thực hành lâm sàng
ngày càng hoàn thiện và có hiệu quả hơn trên từng đối tượng cụ thể.
Bước 5 trong thực hành dựa vào bằng chứng là đánh giá dựa trên bằng
chứng về cách thay đổi ảnh hưởng đến kết quả của bệnh nhân hoặc hiệu quả của
quyết định lâm sàng đối với một bệnh nhân hoặc cơ sở thực hành cụ thể. Loại
đánh giá này rất cần thiết trong việc xác định liệu sự thay đổi dựa trên bằng
chứng dẫn đến kết quả mong đợi khi được thực hiện trong môi trường thực hành
lâm sàng thực.
Đo lường kết quả là quan trọng để xác định và ghi lại tác động của thay đổi
EBP đến chất lượng chăm sóc sức khỏe và / hoặc kết quả của bệnh nhân. Nếu
một sự thay đổi trong thực hành dựa trên bằng chứng không tạo ra những kết
quả giống như đã được chứng minh trong nghiên, người điều dưỡng lâm sàng
nên đặt ra nhiều câu hỏi khác nhau.

152
Bước cuối cùng là chia sẻ thông tin đặc biệt là nếu đạt được kết quả tích
cực. Bằng cách chia sẻ kết quả của quá trình thực hành dựa trên bằng chứng,
những người khác có thể được hưởng lợi, áp dụng. Một số phương pháp để phổ
biến thông tin bao gồm thuyết trình tại các hội nghị, báo cáo trong tổ chức của
chính mình và các ấn phẩm tạp chí.
4. Phương pháp tìm kiếm, tổng hợp các bằng chứng
Phương pháp tìm kiếm, tổng hợp các bằng chứng là việc tìm và tổng hợp
những thông tin có giá trị giúp cho việc áp dụng vào việc đưa ra những quyết định
chăm sóc người bệnh phù hợp. Nguồn thông tin có thể thu thập đó là từ các
nghiên cứu, những học thuyết, hay những hướng dẫn thực hành cụ thể đã được
các tác giả, tổ chức xây dựng dựa trên các nghiên cứu, tài liệu phù hợp, có giá trị.
Có rất nhiều nguồn các tạp chí có giá trị khoa học cao, người tìm kiếm có
thể sử dụng các công cụ tìm kiếm như: Google Scholar, hay ISI Web of
Knowledge, hoặc IEEE Xplore… Điều quan trọng là phải tìm được những bài
báo mới nhất trong lĩnh vực đang quan tâm. Điều này không khó nếu biết lựa
chọn khéo léo các từ khóa (key words). Hoặc cũng có thể vào trực tiếp các tạp
chí online và tìm các nội dung phù hợp với vấn đề quan tâm.
Khi tìm kiếm thông tin dựa trên bằng chứng, người ta nên chọn mức độ
bằng chứng cao nhất có thể - đánh giá có hệ thống hoặc phân tích tổng hợp. Các
đánh giá có hệ thống, phân tích tổng hợp và các chủ đề / bài viết được đánh giá
phê bình đều đã trải qua một quy trình đánh giá: chúng đã được "lọc". Thông tin
chưa được thẩm định được coi là "chưa được lọc".
Tuy nhiên, khi bạn di chuyển lên kim tự tháp trong quá trình tìm kiếm
thông tin, có ít nghiên cứu hơn; điều quan trọng là phải nhận ra rằng mức độ
bằng chứng cao có thể không tồn tại cho câu hỏi lâm sàng của bạn. Nếu đây là
trường hợp, bạn sẽ cần phải di chuyển xuống kim tự tháp nếu nhiệm vụ tìm kiếm
tài nguyên của bạn trên đỉnh kim tự tháp không thành công.
5. Đánh giá giá trị bằng chứng
5.1.Đánh giá giá trị bằng chứng dựa trên thiết kế nghiên cứu
Khi tìm kiếm thông tin dựa trên bằng chứng, người ta nên chọn mức độ
bằng chứng cao nhất có thể - đánh giá có hệ thống hoặc phân tích tổng hợp. Các

153
đánh giá có hệ thống, phân tích tổng hợp và các chủ đề / bài viết được đánh giá
phê bình đều đã trải qua một quy trình đánh giá: chúng đã được "lọc". Thông tin
chưa được thẩm định được coi là "chưa được lọc".
Tuy nhiên, khi bạn di chuyển lên kim tự tháp trong quá trình tìm kiếm
thông tin, có ít nghiên cứu hơn; điều quan trọng là phải nhận ra rằng mức độ
bằng chứng cao có thể không tồn tại cho câu hỏi lâm sàng của bạn. Nếu đây là
trường hợp, bạn sẽ cần phải di chuyển xuống kim tự tháp nếu nhiệm vụ tìm kiếm
tài nguyên của bạn trên đỉnh kim tự tháp không thành công.
Dựa trên thiết kế nghiên cứu để phân ra thành các nhóm bằng chứng như
sau:
Phân tích tổng hợp (Meta-Analysis): Một tổng quan hệ thống sử dụng các
phương pháp định lượng để tóm tắt kết quả.
Đánh giá hệ thống (Systematic Review): Các tác giả đã tìm kiếm, đánh giá
và tóm tắt một cách có hệ thống tất cả các tài liệu y khoa cho một chủ đề cụ thể.
Chủ đề được đánh giá cao (Critically Appraised Topic): Các tác giả đánh
giá và tổng hợp nhiều nghiên cứu.
Các bài viết, bài báo được đánh giá cao (Critically Appraised Articles): Các
tác giả đánh giá và đồng bộ các nghiên cứu cá nhân.
Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (Randomized Controlled Trials):
Bao gồm một nhóm bệnh nhân ngẫu nhiên trong một nhóm thử nghiệm và một
nhóm đối chứng. Các nhóm này được theo dõi cho các biến / kết quả quan tâm.
Nghiên cứu đoàn hệ (Cohort Study): Xác định hai nhóm (đoàn hệ) bệnh
nhân, một nhóm đã nhận được sự quan tâm và một nhóm không, và theo dõi các
đoàn hệ này về phía trước cho kết quả quan tâm.
Nghiên cứu trường hợp kiểm soát (Case-Control Study): Xác định bệnh
nhân có kết quả quan tâm (trường hợp) và kiểm soát bệnh nhân mà không có kết
quả tương tự, và tìm kiếm sự tiếp xúc của mối quan tâm.
Thông tin cơ bản / Ý kiến chuyên gia (Background Information/Expert
Opinion): Sổ tay, bách khoa toàn thư và sách giáo khoa thường cung cấp một
nền tảng hoặc giới thiệu tốt và thường bao gồm thông tin khái quát về một điều
kiện. Mặc dù thông tin cơ bản trình bày một bản tóm tắt thuận tiện, thường phải
mất khoảng ba năm để loại tài liệu này được xuất bản.

154
Nghiên cứu động vật / Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm (Animal
Research/Lab Studies): Thông tin bắt đầu ở dưới cùng của kim tự tháp: đây là
nơi diễn ra ý tưởng và nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Ý tưởng biến thành
liệu pháp và công cụ chẩn đoán, sau đó được thử nghiệm với các mô hình phòng
thí nghiệm và động vật.
5.2. Bảng kiểm đánh giá bằng chứng
Bảng kiểm đánh giá các mức độ của bằng chứng được chi làm 7 mức độ và
mỗi mức độ chia làm 3 loại: Chất lượng cao; chất lượng tốt; và chất lượng thấp.
Cách chia và phân loại mức độ cũng như chất lượng trên mỗi mức độ dựa vào
chất lượng của nghiên cứu, giá trị nội dung, tính khoa học, độ tin cậy và mức độ
cập nhật.
   Bảng kiểm đánh giá các mức độ bằng chứng sử dụng trong thực hành điều dưỡng

STT Nội dung Mức Chất lượng Chất lượng Chất lượng
độ cao: tốt: thấp
1 Bằng chứng từ các Cấp I: Kết quả nhất Kết quả Ít bằng
nghiên cứu đánh giá có quán, khái hợp lý phù chứng với
hệ thống hoặc phân quát; cỡ mẫu hợp; cỡ kết quả
tích tổng hợp các thử đủ cho thiết mẫu đủ cho không nhất
nghiệm đối chứng kế nghiên thiết kế quán;
ngẫu nhiên cứu; trình nghiên cứu; không đủ
2 Bằng chứng từ các Cấp bày cân đối; một số kết cỡ mẫu cho
nghiên cứu thử nghiệm II: kết luận dứt quả, kết thiết kế
đối chứng ngẫu nhiên khoát; luận khá nghiên cứu;
được thiết kế tốt khuyến nghị dứt khoát; kết luận
nhất quán khuyến không thể
dựa trên tổng nghị hợp lý được rút ra;
3 Bằng chứng từ các Cấp quan tài liệu, phù hợp hoặc đưa ra
nghiên cứu thử nghiệm III: kết quả của dựa trên kết luận
kiểm soát được thiết nghiên cứu; đánh giá tài không rõ
kế tốt không ngẫu có tính khoa liệu khá ràng.
nhiên học. toàn diện
bao gồm

155
4 Bằng chứng từ các Cấp một số tài
nghiên cứu trường hợp IV: liệu tham
hoặc đối chứng khảo có
bằng chứng
khoa học.
5 Bằng chứng từ các Cấp Tài liệu Tài liệu Tài liệu
nghiên cứu tổng hợp độ V: chính thống chính thức không được
có hệ thống về các được công công bố công bố bởi
nghiên cứu mô tả hoặc bố bởi một đăng bởi một tổ chức
định tính tổ chức có một tổ chức hoặc cơ
uy tín; tài có uy tín; quan chính
liệu tìm kiếm chiến lược thức; chiến
có hệ thống; tìm kiếm có lược tìm
kết quả phù hệ thống kiếm tài
hợp với đủ hợp lý và liệu không
số lượng thích hợp; xác định,
nghiên cứu kết quả phù xác định
được thiết kế hợp, đủ số kém, hoặc
tốt; đánh giá lượng hạn chế;
dựa trên tiêu nghiên cứu không đánh
chí về sức được thiết giá điểm
mạnh khoa kế tốt; đánh mạnh và
học tổng thể giá điểm hạn chế của
và chất mạnh và các nghiên
lượng của hạn chế của cứu được
các nghiên các nghiên đưa vào,
cứu được cứu được không đủ
đưa vào và đưa vào với bằng chứng
kết luận dứt kết luận với kết quả
khoát; khá dứt không nhất
chuyên môn khoát; quán, có
rõ ràng; tài chuyên thể rút ra
liệu sử dụng môn rõ kết luận;

156
được phát ràng; tài không được
triển hoặc liệu sử sửa đổi
sửa đổi trong dụng được trong vòng
vòng 5 năm phát triển 5 năm qua
qua. hoặc sửa
đổi trong
vòng 5 năm
qua
6 Bằng chứng từ một Cấp Mục đích và Mục đích Mục đích
nghiên cứu mô tả hoặc VI: mục tiêu rõ và mục tiêu và mục tiêu
định tính ràng; kết quả rõ ràng; kết không rõ
nhất quán quả nhất ràng hoặc
trên nhiều quán cho còn thiếu;
nội dung; kết một nội kết quả
luận dứt dung duy không nhất
khoát; nhất; cải quán; cải
khuyến nghị thiện chất thiện chất
phù hợp với lượng hoặc lượng được
tài liệu tham phương xác định
khảo có bằng pháp đánh kém,
chứng khoa giá được sử phương
học dụng; pháp đánh
khuyến giá tài
nghị hợp lý chính hoặc
phù hợp chương
với một số trình kém;
tài liệu khuyến
tham khảo, nghị không
có bằng thể được
chứng khoa thực hiện
học
7 Bằng chứng từ ý kiến Cấp Chuyên môn Chuyên Chuyên
độ rõ ràng; đưa môn có vẻ môn không

157
chuyên gia VII: ra kết luận đáng tin thể nhận
dứt khoát; cậy; rút ra thấy hoặc
cung cấp cơ kết luận không rõ
sở khoa học; khá dứt ràng; kết
nhà quản lý, khoát; cung luận không
chuyên gia cấp lập thể được
am hiểu luận hợp lý rút ra
trong lĩnh cho các ý
vực chăm kiến
sóc

6. Phương pháp tổng quan


Tổng quan là phương pháp tổng hợp, mô tả, phân tích một cách khái quát
hóa, có cái nhìn tổng quát về vấn đề, chủ đề quan tâm.
6.1.Tổng quan mô tả
Tổng quan mô tả bằng chứng thực hành là mô tả hệ thống các vấn đề liên
quan đến chủ đề mà tác giả muốn thực hành. Tổng quan mô tả cần trình bày khái
quát hiện trạng của vấn đề quan tâm qua thông tin, thông báo của các tác giả
trong và ngoài nước có liên quan (băng chứng).
Việc trình bày này hoàn toàn không phải chỉ đơn thuần là liệt kê, điểm tài
liệu theo một trình tự nào đó, mà cần phải phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp
những tài liệu này trong mối liên hệ với thực hành dự định tiến hành. Tác giả
cần đưa ra những nhận xét bình luận của bản thân đối với những thông tin thu
thập được, có thể đưa ra những quan điểm đối lập. Phân tích phương pháp luận
và giá trị của các kết quả thu được trong các công trình khác nhau được sử dụng
trong bài. Trình bày tóm tắt trong những đoạn cuối của bài tổng quan những số
liệu và kết quả có giá trị nhất. Xem xét cụ thể các hướng nghiên cứu nào, vấn đề
đặc trưng của mỗi hướng là gì, các kết quả đã đạt được, đánh giá ưu điểm,
khuyết điểm của các hướng nghiên cứu đó.
6.2.Tổng quan hệ thống

158
Khác với tổng quan mô tả, tổng quan hệ thống y học sử dụng các biện pháp
chặt chẽ để hệ thống y học của một chủ đề cụ thể. Tổng quan hệ thống y học
được sử dụng rộng rãi để trả lời các câu hỏi cụ thể về thực hành lâm sàng.
Tổng quan hệ thống y học yêu cầu người viết phải mô tả rõ khung thời gian
của các y học được sử dụng, phương pháp sử dụng để tổng hợp và đánh giá kết
quả của các y học được sử dụng. Để cho người đọc có thể đánh giá được tính tin
cậy và giá trị của bài tổng quan, người viết cần trình bày cụ thể và chính xác các
tiêu chí đã sử dụng để:
Hình thành câu hỏi nghiên cứu
Chọn vào và loại ra
Lựa chọn và tiệp cận y học
Đánh giá chất lượng của y học được chọn
Phân tích, tổng hợp và trình bày kết quả
Khác với tổng quan mô tả, tổng quan hệ thống y học cung cấp hoàn thiện
đến mức có thể các nghiên cứu đã được xuất bản và chưa xuất bản liên quan đến
chủ đề cụ thể. Trong khi tổng quan mô tả chỉ dừng lại ở việc tổng hợp các kết
quả của các nghiên cứu, tổng quan hệ thống y học sử dụng các tiêu chí chặt chẽ
để nhận định, đánh giá và tổng hợp tất các các y học liên quan đến một chủ đề.
Phân tích hệ thống (Meta-analysis)
Phân tích hệ thống là một quá trình thu thập một số lượng lớn kết quả của
các nghiên cứu định lượng, rồi thực hiện phân tích thống kê cho ra kết quả, từ đó
tăng sự hiểu biết về một vấn đề. Phân tích hệ thống được xem như là một hình
thức của tổng quan hệ thống y học (Systematic review) chủ yếu dựa trên kỹ
thuật thống kê. Phân tích hệ thống sử dụng kết quả của nhiều nghiên cứu trên
cùng chủ đề và dùng các quy trình phân tích chuẩn để phân tích. Cách phân tích
này giúp nhà nghiên cứu đưa ra được các kết luận, xác định được các mô hình
và mối liên quan giữa các yếu tố quan tâm.
Tổng thuật hệ thống (Meta-synthesis)
Meta-synthesis là phương pháp phi thống kê được sử dụng để tổng hợp,
đánh giá và diễn giải kết quả của nhiều nghiên cứu định tính. Nghiên cứu này có
thể được sử dụng để nhận biết những điểm chung và cụm từ tương đồng. Kết
quả của các hiện tượng khoa học, các nghiên cứu về văn hóa xã hội có thể được

159
sử dụng cho Meta-synthesis. Trong khi meta-analysis chú trọng vào cô lọc kết
quả, meta-synthesis là một quá trình phân tích tổng hợp các yếu tố chính để kết
hợp các kết quả riêng lẻ thành một khái niệm hay học thuyết.
Tổng quan mô tả bằng chứng thực hành là mô tả hệ thống các vấn đề liên
quan đến chủ đề mà tác giả muốn thực hành. Tổng quan mô tả cần trình bày khái
quát hiện trạng của vấn đề quan tâm qua thông tin, thông báo của các tác giả
trong và ngoài nước có liên quan (băng chứng).
Việc trình bày này hoàn toàn không phải chỉ đơn thuần là liệt kê, điểm tài
liệu theo một trình tự nào đó, mà cần phải phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp
những tài liệu này trong mối liên hệ với thực hành dự định tiến hành. Tác giả
cần đưa ra những nhận xét bình luận của bản thân đối với những thông tin thu
thập được, có thể đưa ra những quan điểm đối lập. Phân tích phương pháp luận
và giá trị của các kết quả thu được trong các công trình khác nhau được sử dụng
trong bài. Trình bày tóm tắt trong những đoạn cuối của bài tổng quan những số
liệu và kết quả có giá trị nhất. Xem xét cụ thể các hướng nghiên cứu nào, vấn đề
đặc trưng của mỗi hướng là gì, các kết quả đã đạt được, đánh giá ưu điểm,
khuyết điểm của các hướng nghiên cứu đó.

CÂU HỎI, BÀI TẬP ÁP DỤNG


Câu 1: Trình bày vai trò của nghiên cứu khóa học điều dưỡng?
Câu 2: Trình bày cấu trúc cơ bản của một nghiên cứu?
Câu 3: Trình bày vai trò của thực hành dựa vào bằng chứng và cách xây dựng
một can thiệp thực hành điều dưỡng dựa trên bằng chứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Derntl M. (2014), Basics of research paper writing and publishing, Int J
Technology Enhanced Learning, 6(2).
2. Rita H. Pickler, (2019). Nursing Research. Volume 68 - Issue 5,
Philadelphia, PA: Wolters Kluwer Health, DOI:
10.1097/NNR.0000000000000378.
3. Scott, K. & McSherry, R. (2009). Evidence Based Nursing: clarifying the
concepts for nurses in practice." Journal of Clinical Nursing; 18(8): 1085-95.

160
CHUYÊN ĐỀ 2
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO LIÊN TỤC CHO ĐIỀU DƯỠNG

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 8 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong bài này, học viên có khả năng:
1. Trình bày được quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục tại bệnh viện.
2. Xây dựng kế hoạch triển khai một khóa học đào tạo liên tục tại bệnh viện.
3. Nêu các nội dung đánh giá người học khi thực hiện kế hoạch đào tạo liên tục
tại bệnh viện.
NỘI DUNG
1. Kế hoạch đào tạo liên tục tại bệnh viện
1.1. Quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục 5 năm ở bệnh viện.
1.1.1. Kế hoạch của bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế
Vì việc đào tạo liên tục thường là thời gian ngắn (dưới 1 năm) nên kế
hoạch đào tạo liên tục của các bệnh viện có nhiệm vụ chỉ đạo tuyến thường là kế
hoạch 5 năm và cần trình Bộ Y tế phê duyệt vì vậy quy trình xây dựng và phê
duyệt đòi hỏi có đủ thời gian để xem xét và báo cáo các cơ quan có thẩm quyền
nhà nước đưa vào kế hoạch kinh phí cho năm sau, vì vậy quy trình thông thường
như quy trình xây dựng kế hoạch của ngành cụ thể như sau:
Tháng quý 3 hàng năm: xây dựng kế hoạch 5 năm tại bệnh viện

161
- Thu thập thông tin và tiến hành xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục
- Xin góp ý của các bộ phận liên quan trong bệnh viện
- Hoàn thiện và trình giám đốc bệnh viện xem xét để có tờ trình Bộ Y
tế xin thẩm định, phê duyệt (do lãnh đạo bệnh viện ký trình Bộ Y tế)
Tháng 10: Trình bản dự thảo kế hoạch dài hạn xin Bộ Y tế thẩm định và
phê duyệt (theo quy trình thẩm định và phê duyệt của Bộ Y tế)
- Cục khoa học công nghệ và Đào tạo đầu mối báo cáo Bộ trưởng thành
lập hội đồng thẩm định (phối hợp với Vụ Kế hoạch- Tài chính).
- Sau khi hội đồng thẩm định thông qua, Cục khoa học công nghệ và Đào
tạo đầu mối phối hợp Vụ Kế hoạch – Tài chính trình Bộ trưởng phê duyệt.
Lưu ý: Bộ Y tế phê duyệt kế hoạch 5 năm của bệnh viện thuộc Bộ về đào
tạo liên tục. Nếu được ủy quyền thì giám đốc bệnh viện mới phê duyệt.
Tháng 11: Bộ Y tế (Vụ Kế hoạch - Tài chính) tổng hợp và đưa vào kế
hoạch chung hàng năm của Bộ để trình các cơ quan chính phủ cấp kinh phí.
Tháng 12. Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ tài chính thông báo kế hoạch cho Bộ Y tế
Trước 31/12. Bộ Y tế thông báo cho các bệnh viện thuộc Bộ kế hoạch
năm sau (trong đó có kế hoạch đào tạo liên tục của bệnh viện).
Từ tháng 1 năm tới cho đến hết kỳ kế hoạch 5 năm: Các bệnh sau khi
nhận được kế hoạch của Bộ Y tế
- Đưa vào kế hoạch hàng năm,
- Tổ chức triển khai thực hiện theo kế hoạch năm
- Giám sát việc thực hiện kế hoạch (giám sát giữa kỳ)
- Điều chỉnh kế hoạch 5 năm (nếu cần thiết)
1.1.2. Kế hoạch của bệnh viện trực thuộc Sở Y tế và các Bộ, Ngành
Quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục 5 năm cũng tương tự
như quy trình của các bệnh viện trung ương, có điểm khác biệt sẽ là cấp trên
quản lý trực tiếp của bệnh viện phê duyệt kế hoạch (Sở Y tế). Sau đó Sở sẽ tập
hợp báo cáo tỉnh để đưa vào kế hoach chung của tỉnh/thành phố.

1.2. Quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục hằng năm ở bệnh viện

162
Kế hoạch đào tạo liên tục hàng năm của bệnh viện được xây dựng dựa
trên kế hoạch 5 năm đã được phê duyệt. Kế hoạch đào tạo liên tục của bệnh
viện là bộ phận của kế hoạch chung hàng năm. Kế hoạch chung của bệnh viện
trình cấp thẩm quyền phê duyệt cần có dòng kinh phí đào tạo liên tục.
Quy trình cũng tương tự như xây dựng kế hoạch 5 năm, đầu mối xây dựng
kế hoạch đào tạo là đơn vị phụ trách đào tạo liên tục, phòng kế hoạch tổng hợp
sẽ tổng hợp trong kế hoạch chung. Quy trình cụ thể như sau:
Quý 3: Thu thập thông tin
- Tiến hành xây dựng dự thảo kế hoạch đào tạo liên tục
- Xin ý kiến của các đơn vị liên quan và hoàn thiện
- Chuyển phòng kế hoạch tổng hợp của bệnh viện tập hợp trong kế hoạch
chung (cũng có thể là kế hoạch riêng biệt – do lãnh đạo Bệnh viện quyết định)
Quý 4:
- Hội đồng (khoa học) của bệnh viện thẩm định, góp ý
- Sửa chữa và hoàn thiện
- Lãnh đạo bệnh viện ký quyết định phê duyệt
Từ quý 1 năm sau:
- Tổ chức triển khai
- Giám sát việc thực hiện kế hoạch
- Rút kinh nghiệm và đánh giá việc thực hiện
- Chuẩn bị cho kế hoạch năm tiếp sau
Lưu ý
- Kế hoạch đào tạo liên tục hàng năm do Giám đốc bệnh viện phê duyệt
- Kế hoạch hàng năm là 1 phần của kế hoạch 5 năm đã được phê duyệt
- Trong trường hợp chưa có kế hoạch 5 năm thì kế hoạch hàng năm được
đưa vào kế hoạch chung của bệnh viện
- Trong kế hoạch chung của bệnh viện nhất thiết có dòng kinh phí cho đào
tạo liên tục.

163
1.3. Nội dung hoạt động về đào tạo liên tục trong 1 năm
Kế hoạch 5 năm của các bệnh viện sẽ được phê duyệt của cấp có thẩm
quyền quy định tại Điều 12 của thông tư 22/2013/TT-BYT. Sau đó các bệnh
viện sẽ có kế hoạch hàng năm. Kế hoạch hàng năm là trích từ kế hoạch 5 năm
đã được phê duyệt.
Kế hoạch hàng năm tương tự như kế hoạch 5 năm nhưng đòi hỏi cụ thể
hơn về số lượng người học, số lớp học, nội dung của mỗi lớp, địa điểm tổ chức,
kinh phí, vật tư trang thiết bị, giảng viên và công tác quản lý.
Một bản kế hoạch đào tạo liên tục có các nội dung sau đây:
1. Số lớp học theo từng chủ đề các khoá đào tạo.
2. Số lượng học viên của mỗi khoá và thời gian khoá học.
3. Kinh phí, vật tư trang thiết bị:
- Bao nhiêu? nguồn kinh phí từ đâu: học viên đóng góp học phí? kinh phí
của tỉnh, Kinh phí từ chương trình dự án y tế? viện trợ, tài trợ?
- Các trang thiết bị, vật tư, hóa chất, khoa lâm sàng,...
4. Địa điểm triển khai
- Tổ chức tại bệnh viện
- Gửi đào tạo ở đơn vị đào tạo liên tục khác (BV khác, trường y tế,...)
5. Đơn vị/ người đấu mối tổ chức triển khai
6. Thực hiện kế hoạch đào tạo liên tục
Sau khi đã chuẩn bị xong bản kế hoạch của bệnh viện chúng ta còn phải
tiến hành các công việc khác nữa để kế hoạch được thực hiện là:
Thảo luận để thống nhất bản kế hoạch
Kế hoạch đào tạo liên tục là khung để kiểm tra các hoạt động của các bộ
phận trong bệnh viện vì vậy nó phải được sự chấp thuận của họ. Bản kế hoạch
có sự tham gia của các đơn vị liên quan như phòng tài chính, Kế hoạch - tổng
hợp và được phê duyệt của cấp có thẩm quyền.
Thông báo về kế hoạch nhân lực

164
- Khi bản kế hoạch 5 năm được phê duyệt của cấp có thẩm quyền, bản kế
hoạch đó cần được nhân bản để tổ chức việc triển khai thực hiện.
- Đơn vị phụ trách đào tạo liên tục căn cứ vào kế hoạch 5 năm để xây dựng
kế hoạch đào tạo liên tục hàng năm của bệnh viện
- Thông báo kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm cho các bộ phận liên quan
việc thông báo cần thiết để mọi người biết rằng chúng ta đang trông chờ gì trong 5
năm tới và cung cấp thông tin về mục tiêu ngắn hạn để theo dõi, giám sát.
Giám sát thực hiện công tác đào tạo liên tục
Trong năm, cần giám sát số lượng được đào tạo liên tục và so sánh với các
chỉ tiêu đã ghi trong kế hoạch theo từng loại hình nhân lực y tế của bệnh viện.
So sánh hàng quý để biết sự tiến triển của việc thực hiện kế hoạch. Giám sát
giúp chỉ ra chỗ khó khăn, yếu kém để tìm giải pháp khắc phục. Nếu số lượng ít
hơn đã ghi trong kế hoạch nghĩa là không có khả năng thực thi kế hoạch trong
tương lai, khi đó cần tìm cách điều chỉnh kế hoạch. Nếu đánh giá thực hiện kế
hoạch đào tạo liên tục mà thành công trong việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của bệnh viện thì kế hoạch này tốt cần tiếp tục trong những năm tới,
còn nếu không cải thiện đáng kể chất lượng thì hoạt động đào tạo liên tục cần
được xác định là ưu tiên hơn nữa cho những năm tiếp theo.
Cập nhật kế hoạch hàng năm
Bản kế hoạch chúng ta xây dựng cho 5 năm ví dụ 2020-2025 như vậy
trong năm 2019 phải chuẩn bị cho xây dựng kế hoạch 2020-2025. Đến 2020
chúng ta sẽ cập nhật kế hoạch này cho 2021-2026 như vậy chúng ta luôn có kế
hoạch cho 5 năm tới. Quy trình cập nhật có vẻ như rất nhiều việc, tuy nhiên một
khi đã có kế hoạch 5 năm thì sẽ dễ dàng hơn để cập nhật, điều chỉnh kế hoạch
so với bản đầu tiên. Chúng ta cần giám sát tất cả các loại thay đổi để đưa vào
khi cập nhật, điều chỉnh kế hoạch, ví dụ như bệnh tật mới xuất hiện (như cúm
AH7N9) thì cần đưa nội dung này vào kế hoạch.
1.4. Kế hoạch triển khai một khóa học
Sau khi kế hoạch hàng năm được phê duyệt, cần xây dựng kế hoạch triển
khai từng khóa học, lớp học. Kế hoạch triển khai một khóa học là bảng ghi các
nội dung cụ thể, chi tiết. Căn cứ vào kế hoạch năm đã được duyệt, cán bộ quản

165
lý đào tạo liên tục xây dựng kế hoạch triển khai. Một bản kế hoạch đào tạo liên
tục cho một khóa học có các nội dung sau đây:
- Tên khóa học
- Mục tiêu khóa học
- Số lượng và đối tượng học viên
- Thời gian mở lớp: ghi rõ bao nhiêu ngày, từ ngày tháng nào đến ngày
tháng nào? Bố trí học liên tục hay từng đợt
- Địa điểm: lớp học ở đâu, học lý thuyết ở hội trường nào, thực hành ở
bệnh viện, khoa phòng nào,…
- Chương trình/ thời khóa biểu của lớp học có ghi kèm tên giảng viên
- Các tài liệu giảng dạy chính, tài liệu tham khảo, tài liệu phát tay và tài
liệu cho giảng viên (nếu có)
- Giảng viên: yêu cầu ghi rõ tên giảng viên, trợ giảng
- Cán bộ tổ chức/phụ trách lớp học
- Yêu cầu chứng chỉ: số lượng, do ai cấp: Bộ Y tế, bệnh viện, Sở Y tế,…
- Kinh phí: bao nhiêu, từ nguồn nào?
- Điều kiện hậu cần cho lớp học: Hội trường, trang thiết bị, học liệu, những
khóa học lâm sàng cần chỉ rõ khoa nào, buồng bệnh nào và loại bệnh nào cần
chuẩn bị, điều kiện ăn ở, đi lại của học viên, giảng viên
- Dự toán kinh phí chi tiết để trình phê duyệt
- Các phụ lục đính kèm như: Công văn triệu tập, chương trình và lịch dạy-
học chi tiết, tài liệu, trang thiết bị và vật tư phục vụ cho khóa học
2. Các bước triển khai một khoá đào tạo liên tục tại bệnh viện
2.1. Chuẩn bị nguồn lực
2.1.1. Địa điểm dạy-học
- Phòng dạy lý thuyết cần đảm bảo các điều kiện sau đây:

166
+ Diện tích phù hợp với số lượng học viên, đủ chỗ để xếp bàn học theo
hình chữ U/V/xếp bàn tròn theo nhóm, có chỗ cho các nhóm làm việc, có chỗ
để thực hiện trò chơi, ôn bài và khởi động
+ Có các ổ cắm điện thuận tiện cho việc sử dụng các phương tiện dạy -
học, có chỗ để treo hoặc dán tranh minh họa hoặc các sản phẩm làm việc của
các nhóm
+ Có đủ các phương tiện dạy – học như bảng, bảng lật, máy tính, máy
chiếu…
+ Đủ sáng, thoáng và yên tĩnh
- Phòng dạy thực hành: Tùy thuộc nội dung thực hành mà bố trí phòng
thích hợp:
+ Dạy thái độ hoặc kỹ năng giao tiếp: Đủ diện tích để xếp bàn ghế cho
nhóm học viên tham gia đóng vai và sắp xếp chỗ ngồi cho các học viên làm
nhiệm vụ quan sát sao cho họ có thể nghe rõ những điều nhóm đóng vai nói và
nhìn rõ các cử chỉ/động tác nhóm đóng vai thực hiện. Nếu trong phòng dạy có
hệ thống camera để ghi lại lời nói/cử chỉ của người tham gia đóng vai giúp cho
việc thảo luận rút kinh nghiệm sau đóng vai thì hiệu quả dạy – học sẽ tốt hơn
nhiều.
+ Dạy thủ thuật/kỹ năng thao tác: Đủ diện tích và phương tiện để thủ thuật
tiến hành thuận lợi, an toàn, đảm bảo đúng quy định chống nhiễm khuẩn, đủ
chỗ để học viên quan sát rõ diễn biến khi thực hiện thủ thuật/kỹ năng. Trong
một số trường hợp thủ thuật cần tiến hành trong điều kiện vô khuẩn không cho
phép học viên quan sát trực tiếp thì cần có hệ thống truyền hình ảnh và lời nói
của giảng viên ra một phòng khác nơi có học viên theo dõi.
+ Dạy lâm sàng trên người bệnh: Dạy lâm sàng trên người bệnh cần được
tiến hành trong một phòng riêng, không nên dạy cho học viên trong phòng bệnh
có vì sẽ ảnh hưởng đến các người bệnh khác. Phòng dạy lâm sàng cần có đủ
diện tích cho người bệnh nằm/ngồi, cho học viên quan sát được các động tác
thăm khám của giảng viên hoặc bạn học.
2.1.2. Tài liệu, vật liệu dạy – học, phương tiện và văn phòng phẩm
- Tài liệu: Sách, tài liệu phát tay

167
- Vật liệu: Tình huống, kịch bản đóng vai, tranh - ảnh minh họa, băng
video/đĩa CD, công cụ lượng giá trước - trong và cuối khoá, các mẫu phiếu
đánh giá khoá đào tạo…
- Phương tiện và văn phòng phẩm: Bảng/phấn, bảng trắng/bút, bảng lật,
máy tính, máy chiếu, giấy A0, giấy A4 các màu, giấy trắng A4, băng dính, dao,
kéo, bút viết giấy A0/A4.
2.1.3. Học viên:
- Thông báo về khoá đào tạo đăng trên trang Web của bệnh viện và gửi về
các cơ sở y tế (3 tháng trước khoá đào tạo) bao gồm các thông tin:
Chủ đề, thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc, địa điểm học, số lượng học
viên, tiêu chuẩn lựa chọn học viên, học phí/quyền lợi của học viên, thời hạn
đăng ký học.
- Gửi thư mời đích danh những học viên được lựa chọn trong đó ghi rõ
thời gian và địa điểm tập trung, những tài liệu cần mang theo, điều kiện sinh
hoạt, tên và địa chỉ/số điện thoại của người tổ chức để liên lạc (2 tuần đến 1
tháng trước khoá học).
2.1.4. Giảng viên:
- Nguyên tắc lựa chọn giảng viên
+ Là những người có kinh nghiệm về chủ đề đào tạo
+ Là những người có kinh nghiệm sử dụng các phương pháp đào tạo khích
lệ sự tham gia tích cực của học viên mà người lập kế hoạch đã lựa chọn
+ Là những người có khả năng làm việc nhóm với đồng nghiệp và với học viên
+ Là những người nhất trí với kế hoạch đào tạo do bệnh viện đề xuất kể cả
nội dung, phương pháp và thời gian biểu
- Gửi thư mời giảng viên (2 tuần đến 1 tháng trước khoá học). Trong thư
mời cần ghi rõ nội dung mời dạy, trách nhiệm và quyền lợi.
- Giảng viên có thể là cán bộ của bệnh viện, có thể là người ngoài bệnh viện.

168
- Số lượng giảng viên: Mỗi nội dung nên có một giảng viên chính và một
người trợ giảng để hỗ trợ cho giảng viên chính đồng thời cùng theo dõi khi học
viên làm việc nhóm.
- Tổ chức họp giảng viên (1 tuần trước khoá học) để thảo luận và thống
nhất mục tiêu, nội dung, lịch học, phương pháp dạy – học, phân công, tài
liệu/vật liệu dạy – học, câu hỏi lượng giá học viên trước-trong-cuối khoá học,
các mẫu phiếu đánh giá, các quy định của khoá đào tạo, chứng chỉ và tiêu chuẩn
được cấp chứng chỉ (Có ghi biên bản thảo luận về các nội dung trên).
2.1.5. Nhân lực phục vụ cho khoá đào tạo
- Người chịu trách nhiệm chính, người phối hợp- Thư ký đánh máy tính và
người ghi hình cho khoá đào tạo
- Khách mời trong buổi khai mạc, người quan sát và cơ quan thông tin
(nếu cần)
2.1.6. Thiết kế thời gian biểu:
Cần ghi rõ ngày giờ tiến hành từng nội dung, tên giảng viên và trợ giảng
chịu trách nhiệm, phương pháp dạy – học và hoạt động của học viên cho từng
nội dung. Để gây hứng thú cho học viên và đa dạng các phong cách dạy – học,
trong mỗi buổi học nên có ít nhất 2 giảng viên tham gia.
2.1.7. Chuẩn bị chứng chỉ:
Thiết kế mẫu chứng chỉ, các điều kiện được cấp chứng chỉ cuối
khoá học.
2.2. Tiến hành khoá đào tạo
2.2.1. Những nội dung cần làm trong buổi đầu tiên của khoá đào tạo
- Khai mạc khoá đào tạo
+ Phát biểu khai mạc của lãnh đạo bệnh viện
+ Phát biểu của nhà tài trợ
- Lượng giá ngay trước khoá học: Nội dung của phiếu lượng giá thường
gồm 2 phần:

169
+ Một số câu hỏi liên quan đến kinh nghiệm của học viên về chủ đề đào
tạo và nhu cầu của học viên
+ Một bài kiểm tra liên quan đến các nội dung của khoá học dưới dạng câu
hỏi trắc nghiệm. Bài kiểm tra này sẽ được lặp lại vào cuối khoá học để đánh giá
sự tiến bộ của học viên và kết quả của khoá đào tạo.
- Giới thiệu giảng viên và học viên: Có thể có nhiều cách, thí dụ một vài
cách giới thiệu học viên
+ Chia học viên thành các nhóm theo tháng sinh trong từng quý, theo đặc
điểm hình thức…Mỗi nhóm tìm những đặc điểm chung của nhóm, thí dụ cùng
đã có gia đình/cùng có con trai/cùng thích nghe nh ạc/cùng thích đi du lịch/cùng
không thích sự giả dối…
+ Chia học viên theo từng cặp 2 người phỏng vấn lẫn nhau theo các câu
hỏi như: Nói 3 điều thích và một điều không thích, mong muốn gì từ khoá đào
tạo, có khó khăn gì khi tham dự khoá đào tạo. Sau 3 phút từng nhóm nêu ngắn
gọn kết quả phỏng vấn bạn mình.
Mục đích của hoạt động giới thiệu học viên là để học viên và giảng viên
làm quen với nhau, tạo không khí hiểu biết và hoà đồng, xóa bỏ sự ngăn cách
và e dè ban đầu.
- Giới thiệu mục đích, mục tiêu, nội dung, lịch học, tài liệu, phương pháp
dạy – học sử dụng trong khoá đào tạo, trách nhiệm và quyền lợi của học viên.
Mục đích của hoạt động này là để mọi học viên hiểu rõ tất cả những vấn đề liên
quan đến khoá đào tạo để yên tâm và chủ động trong học tập.
- Xây dựng nội quy khoá học nhằm tạo ra một môi trường học tập an toàn
và hỗ trợ lẫn nhau. Nội quy do học viên tự xây dựng với những điều nên làm và
không nên làm. Sau khi mọi học viên đã thống nhất, nội quy được viết lên giấy
A0 và treo ở chỗ tất cả đều nhìn thấy trong suốt khoá đào tạo.
2.2.2. Tiến hành đào tạo theo thời gian biểu

Nội dung Phương pháp dạy – học


Đào tạo lý Thuyết trình có minh họa, thuyết trình ngắn kết hợp thảo luận
thuyết nhóm lớn/thảo luận nhóm nhỏ dựa trên các vấn đề thực tế

170
hoặc các tình huống.
Đào tạo thái Đóng vai dựa trên kịch bản hoặc tình huống
độ/kỹ năng giao
tiếp/kỹ năng tư
vấn
Đào tạo kỹ năng + Với các kỹ năng/thủ thuật mới không quá phức tạp: Thường
thao tác/thủ dùng phương pháp làm mẫu và thực hành lại.
thuật mới + Với các thủ thuật phức tạp: Xem băng ghi hình quay chậm
để quan sát từng bước tiến hành sau đó chia nhóm nhỏ 2
người cùng làm với giảng viên.
Chuẩn hoá kỹ Cầm tay chỉ việc
năng/thủ thuật
mà học viên đã
có trải nghiệm
Đào tạo kỹ năng Minh họa lâm sàng và dạy hình thành năng lực (CBT) hoặc
tiếp cận người Bài giảng lâm sàng tích cực hoá và có minh họa
bệnh và khám
lâm sàng
Đào tạo kỹ năng Nghiên cứu tình huống
ra quyết định và
giải quyết vấn
đề
2.2.3. Những hoạt động cần có trong buổi cuối cùng của khoá đào tạo
- Thực hiện bài kiểm tra kiến thức cuối khoá (30 phút): Sử dụng đúng bài
kiểm tra đầu khoá để có thể so sánh sự tiến bộ của học viên sau khi được đào
tạo. Bài kiểm tra thực hành thường được tiến hành trước dựa trên cơ sở mục
tiêu của khoá đào tạo. Kết thúc thời gian kiểm tra, giảng viên sẽ chấm bài của
học viên trong thời học viên điền vào phiếu đánh giá. Điểm lượng giá cuối khoá
học sẽ được đưa vào bảng so sánh kết quả giữa trước và cuối khoá học đồng
thời phân loại học viên theo các mức độ.

171
- Điền vào phiếu đánh giá khoá đào tạo (30 phút): Nội dung phiếu đánh giá
khoá đào tạo cần bao gồm các câu hỏi về các khâu và các thành phần tham gia
vào khoá đào tạo như: Đánh giá về tính phù hợp/cần thiết đối với từng nội dung
và thời lượng dành cho từng nội dung, phương pháp đào tạo, mức độ đạt mục
tiêu, tài liệu/vật liệu/phương tiện dùng cho dạy – học, cách thức tổ chức (Thời
gian biểu, thời gian tổ chức và thời lượng của toàn khoá đào tạo, địa điểm học
lý thuyết và thực hành, điều kiện sinh hoạt, thái độ phục vụ của người tổ chức),
giảng viên, các nhân viên phục vụ cho các hoạt động thực hành, các ý kiến
đóng góp với ban tổ chức. Kết thúc thời gian, ban tổ chức tổng kết các ý kiến
phản hồi.
- Tổng kết khoá học: Thường tiến hành sau giờ nghỉ giải lao để giảng viên
và ban tổ chức có thời gian chấm bài kiểm tra và tổng kết số liệu.
+ Báo cáo kết quả lượng giá học viên so sánh với kết quả lượng giá đầu
khoá học và phân loại học viên qua kết quả kiểm tra
+ Báo cáo kết quả phản hồi từ phía học viên qua tổng kết các phiếu đánh
giá khoá học
+ Trao chứng chỉ cho các học viên đạt tiêu chuẩn của khoá đào tạo
+ Phát biểu ý kiến của đại diện học viên
+ Phát biểu của nhà tài trợ (Nếu có)
+ Phát biểu bế mạc của lãnh đạo bệnh viện
2.2.4. Tổ chức họp rút kinh nghiệm (1 tuần sau khi kết thúc khoá đào tạo)
- Thành phần tham gia: Giảng viên, trợ giảng, người tổ chức, đại diện các
khoa/phòng/labo thực hành, lãnh đạo bệnh viện/ nhà tài trợ (Nếu có).
- Nội dung: Đánh giá toàn bộ khoá đào tạo dựa vào diễn biến toàn khoá
đào tạo, kết quả kiểm tra học viên, kết quả phản hồi của học viên, ý kiến phản
hồi của giảng viên và những người tham gia tổ chức, ý kiến nhận xét của lãnh
đạo và nhà tài trợ.
2.2.5. Viết báo cáo tổng kết khoá đào tạo và quyết toán kinh phí:
Báo cáo tổng kết bao gồm các cấu phần sau đây:

172
- Mô tả tóm tắt khoá đào tạo
- Danh sách học viên
- Danh sách giảng viên
- Chương trình và thời gian biểu của khoá đào tạo
- Thời gian và địa điểm tiến hành
- Kết quả lượng giá học viên
- Ý kiến phản hồi từ học viên và giảng viên
Những ưu điểm và hạn chế cần rút kinh nghiệm từ khoá đào tạo.
- Nội dung: Đánh giá toàn bộ khoá đào tạo dựa vào diễn biến toàn khoá
đào tạo, kết quả kiểm tra học viên, kết quả phản hồi của học viên, ý kiến phản
hồi của giảng viên và những người tham gia tổ chức, ý kiến nhận xét của lãnh
đạo và nhà tài tr
3. Đánh giá đào tạo liên tục
3.1 Đánh giá kết quả học tập của học viên trong khóa đào tạo liên tục
Là một hoạt động bắt buộc đối với mọi khóa ĐTLT, kế hoạch đánh giá kết
quả học tập của học viên đã được xác định cụ thể trong chương trình khóa
ĐTLT
Mục đích của đánh giá học viên là để biết học viên đã học được bao nhiêu,
đã thực hành được những gì, thực hành như thế nào, có thái độ, hành vi ra sao
trước nhiệm vụ họ thực hiện Đánh giá kết quả học tập của học viên chủ yếu là
nhiệm vụ của các giảng viên trực tiếp dạy học thực hiện. Cán bộ quản lý ĐTLT
của bệnh viện có thể tham gia cùng giảng viên trong các hoạt động đánh giá
nhưng quan trọng hơn là họ có nhiệm vụ theo dõi, quản lý các hoạt động đánh
giá kết quả học tập của học viên
Đánh giá kết quả học tập của học viên bao gồm:
- Đánh giá quá trình: Được thực hiện trong suốt quá trình đào tạo, thường
thể hiện bằng các bài kiểm tra kiến thức, các bài tập thực hành, các bản theo
dõi, nhận xét thái độ học tập của học viên.
+ Chức năng của đánh giá quá trình là để cải tiến quá trình học tập của học viên

173
+ Mục đích của đánh giá quá trình là để hướng dẫn hoặc phản hồi cho học
viên trong quá trình học tập
+ Quyết định đánh giá quá trình phải dựa trên kết quả chung của các điểm
đánh giá quá trình
- Đánh giá cuối kỳ: Là những bài thi, bài kiểm tra cuối khóa
+ Chức năng đánh giá cuối kỳ là xác định kết quả đạt được của học viên
đối với khóa đào tạo
+ Mục đích của đánh giá cuối kỳ là để quyết định đỗ hay trượt, xếp loại và
là một tiêu chuẩn để đề nghị cấp giấy chứng nhận hoàn thành khóa đào tạo
Để đánh giá kết quả học tập của học viên, giảng viên và người đánh giá
cần sử dụng bộ công cụ đánh giá. Bộ công cụ đánh giá kết quả học tập của học
viên tùy thuộc vào lĩnh vực của mục tiêu học tập:
- Đánh giá kiến thức:
+ Vấn đáp
+ Câu hỏi tự luận, bài tập tình huống, câu hỏi trắc nghiệm khách quan
- Đánh giá kỹ năng, thái độ:
+ Bảng kiểm
+ Bảng thang điểm
Cán bộ quản lý ĐTLT của bệnh viện thực hiện chức năng quản lý hoạt
động đánh giá kết quả học tập của học viên trong các khóa ĐTLT do bệnh viện
tổ chức thông qua các hoạt động sau:
- Đảm bảo các hoạt động đánh giá quá trình và đánh giá kết thúc được tổ
chức thực hiện đúng theo kế hoạch quy định trong chương trình khóa ĐTLT (số
lần, khoảng cách, hình thức các bài kiểm tra thường xuyên, hình thức kiểm tra
thi cuối khóa, cách tính điểm và ghi hồ sơ ...)
- Đảm bảo các công cụ đánh giá đạt chuẩn: có giá trị, đáng tin cậy, khách
quan quan, thích hợp và tách biệt
- Cùng với giảng viên cải tiến nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học
tập của học viên trong các khóa ĐTLT của bệnh viện

174
- Sử dụng kết quả đánh giá học viên trong các khóa ĐTLT vào mục đích
nâng cao chất lượng ĐTLT của bệnh viện, cụ thể:
+ Phản hồi cho học viên để họ cải tiến việc học tập
+ Cung cấp thông tin, giúp giáo viên cải tiến phương pháp dạy học
+ Xếp loại, chọn lọc học viên trong khóa đào tạo
+ Cải tiến chương trình, nội dung các khóa đào tạo cho phù hợp và hiệu
quả
+ Đảm bảo nguồn nhân lực do bệnh viện đào tạo đạt chuẩn theo mục tiêu
của khóa ĐTLT
3.1.1. Các phương pháp lượng giá, đánh giá
Có rất nhiều phương pháp lượng giá, đánh giá người học.
- Ðánh giá kiến thức:
+ Vấn đáp
+ Câu hỏi tự luận, bài tập tình huống, câu hỏi trắc nghiệm khách quan
- Ðánh giá kỹ năng, thái độ:
+ Bảng kiểm
+ Bảng thang điểm
3.1.2. Câu hỏi đúng – sai
- Cách viết câu hỏi đúng – sai: thân câu hỏi là một mệnh đề, chỉ có một
yếu tố thích hợp khi trả lời đúng hay sai. Không thể vừa có yếu tố đúng vừa có
yếu tố sai trong một thân câu hỏi, hay chọn đúng hay sai trong đáp án đều được.
Ví dụ: Người bệnh tràn dịch màng phổi (đã được dẫn lưu) bị suy hô hấp
cấp không được thở máy. Đ/S
Ưu điểm
+ Ra câu hỏi nhanh và viết được nhiều câu hỏi trong cùng một nội dung
+ Kích thích và dễ cho tự lượng giá
+ Thích hợp cho lượng giá trình độ thấp
Nhược điểm

175
+ Độ khó và tính phân biệt khó đạt được như mong muốn
Chú ý
+ Đáp án phải rõ ràng đúng hoặc sai
+ Viết và sắp xếp để các câu không trả lời cho nhau
3.1.3. Câu hỏi nhiều lựa chọn
- Cách viết: Thân câu hỏi là một câu hoàn chỉnh, một mệnh đề, một tình
huống, một bài tập…
Câu trả lời: mỗi thân câu trả lời có từ 4 câu trả lời trở lên, được mã hóa
theo thứ tự A, B,C,D. Trường hợp có một câu đúng nhất, các câu trả lời khác
cũng phải có lý để người học tư duy.
Có thể ra câu hỏi chọn nhiều đáp án, tuy nhiên dạng câu hỏi này chỉ nên để
lượng giá cuối bài hoặc ở bậc học thấp, không nên dùng cho đề thi vì dễ nhầm
Có thể xây dựng câu hỏi âm tính, có yếu tố phủ định. Chú ý yếu tố phủ
định cần được làm nổi bật lên để người học không bị nhầm.
Ví dụ: Đặt ống nội khí quản cho người bệnh KHÔNG được chỉ định
trong trường hợp nào?
A: Tắc nghẽn đường hô hấp.
B: Người bệnh hôn mê.
C: Sốt xuất huyết
D: Bơm rửa phế quản.
Có thể xây dựng trong các câu trả lời có một câu là nhận xét các trả lời
khác cùng câu “tất cả các ý trên”
Ưu điểm: - Thích hợp cho lượng giá kiến thức, có thể lượng giá nhiều nội dung
Nhược điểm: Khó xây dựng và mất nhiều thời gian để xây dựng câu hỏi
Lưu ý: Thống nhất danh từ/thuật ngữ trong câu hỏi và câu trả lời
Không nên để câu hỏi và câu trả lời cùng chứa yếu tố phủ định hay các câu
trả lời có độ dài ngắn khác nhau
3.1.4. Câu hỏi ngỏ ngắn

176
- Cách xây dựng: Từ một câu đã có nội dung, cấu trúc thành câu hỏi.
Thường một câu ngắn chọn 1 đến 2 từ/cụm từ, câu dài chọn 2 đến 3 từ/cụm từ.
Xóa từ/cụm từ đã chọn, để khoảng trống với các ký hiệu A, B, C, D tương ứng
và yêu cầu người học điền thông tin vào các khoảng trống hoặc từ các đáp án đã
được cung cấp để chọn đáp án tượng tự với chỗ trống.
Ví dụ: Hãy chỉ ra các dấu hiệu mất máu nhiều
A. Người bệnh hoảng hốt, ý thức lú lẫn, vật vã kích thích hoặc li bì
B. Da xanh, niêm mạc nhợt, vã mồ hôi, sờ vào thấy lạnh
C. …………
D……………..
Ưu điểm: Dễ viết câu hỏi
Nhược điểm: Đáp án có thể có nhiều từ/cụm từ đồng nghĩa nên khó chấm
3.1.5. Nghiên cứu tình huống
- Cấu trúc: thân câu hỏi là tình huống, thông tin đưa ra cần chính xác và
phù hợp cũng như dễ hiểu để trả lời. Câu hỏi có thể xây dựng dưới dạng câu hỏi
đúng sai, câu hỏi ngỏ ngắn, câu hỏi nhiều lựa chọn…
3.1.6. Câu hỏi ghép cặp
Cấu trúc: cho một số yếu tố ghi mã bằng chữ cái A,B,C,D…, những chữ
cái đó có thể dùng 1 lần, nhiều lần hoặc không dùng lần nào. Đặt các tình
huống ghi mã bằng số, ghép cặp một cách phù hợp với các mã bằng chữ cái để
tạo nên một nội dung chính xác.
Ví dụ: Những biểu hiện của giai đoạn hấp hối
A. Nguyên nhân B. Biểu hiện
1. Rối loạn vận mạch A. Chân tay lạnh
2. Lưu thông máu giảm B. Vã mồ hôi đầm đìa
3. Giảm trương lực cơ C. Miệng lệch, nói khó, nuốt khó
D. Mạch nhanh nhỏ, khó bắt
3.1.7. Bảng kiểm

177
Bảng kiểm được áp dụng rộng rãi trong đánh giá thực hành đặc biệt là
đánh giá thực hành quy trình tại lâm sàng. Quy trình xây dựng bảng kiểm được
thực hiện như sau:
(1) Chọn một kỹ thuật thích hợp cho đánh giá bằng bảng kiểm
(2) Liệt kê các thao tác trong quy trình kỹ thuật, tuy nhiên không nên quá
chi tiết, cũng không nên quá chung chung cho các bước kỹ thuật. Nếu kỹ thuật
có quá nhiều thao tác thì nên chia thành các bước lớn, mục lớn và nên làm mỗi
bước đó thành một bảng kiểm riêng.
(3) Sắp xếp các bước theo trình tự hợp lý
(4) Viết thành bảng kiểm với các cột: số thứ tự, thao tác, thang điểm
(5) Chia thang điểm:
1. Có thể chia thành: làm đúng, đủ; làm chưa đủ, làm sai hoặc không làm
2. Chia thành đạt, không đạt
3. Tốt, khá, kém
Việc chia thang điểm cũng có thể mã hóa cho các đánh giá tương ứng:
0,1,2
Chú ý: phải quy định mức điểm, đánh giá trước. Nhấn mạnh bằng cách
cho hệ số vào những bước quan trọng hoặc điều kiện tiên quyết cho các bước
quan trọng.
- Ưu điểm: Dễ thống nhất khi chuẩn bị.
Thuận tiện khi quan sát và lượng giá khách quan kỹ năng của người học.
- Nhược điểm: Không dùng được cho các kỹ năng phức tạp hoặc phối hợp
nhiều kỹ năng trong một tình huống.
3.1.8. Phương pháp chạy trạm OSPE/OSCE
Việc đánh giá có thể được thực hiện thông qua việc người học sẽ trải qua
các trạm để đánh giá kiến thức hoặc kỹ năng. Tại các trạm được bố trí các câu
hỏi hoặc yêu cầu về kỹ năng, người học sẽ hoàn thiện trạm đó trong thời gian từ
3 đến 5 phút. Một buổi kiểm tra tùy theo thời gian có thể bố trí từ 5 đến 10

178
trạm, có thể chỉ bố trí tất cả các trạm thực hành hoặc xem kẽ lý thuyết và thực
hành.
Khi đánh giá bằng chạy trạm, cần chuẩn bị các yêu cầu của các trạm, đáp
án và phiếu chấm. Đối với các trạm lý thuyết cần cung cấp phiếu làm bài cho
người học. Đối với các trạm thực hành tùy theo yêu cầu mà các trang thiết bị
cần thiết cho việc thực hiện phải được chuẩn bị đầy đủ và phải sắp xếp/ bố trí
không gian hợp lý cho việc tiến hành kỹ thuật/ kỹ năng.
Trước khi chạy trạm giảng viên chấm tại các trạm cần thống nhất về cách
chấm và cách cho điểm vào phiếu chấm cũng như mức độ đạt hay không đạt
của người học. Người học cần được hướng dẫn đầy đủ, cụ thể về cách tiến hành
chạy giữa các trạm và cần có thời gian để quan sát các trạm trước khi tiến hành.
Người học phải chạy theo một chiều nhất định.
- Ưu điểm: Lượng giá được nhiều nội dung, đảm bảo tính công bằng và tin cậy.
- Nhược điểm: tốn công chuẩn bị, phải có địa điểm rộng và đầy đủ trang
thiết bị cần thiết.
Phương pháp này thích hợp cho lượng giá kết thúc giai đoạn đào tạo hoặc
chương trình đào tạo.
3.2. Đánh giá đào tạo liên tục của bệnh viện
Đánh giá đào tạo liên tục của bệnh viện không chỉ đơn thuần là đánh giá
kết quả học tập của học viên trong các khóa ĐTLT như đã trình bày ở phần trên
mà là một quá trình đánh giá từ khi lập kế hoạch, tổ chức khóa đào tạo, theo dõi
kết quả học viên và tác động của ĐTLT đến chất nguồn nhân lực y tế.
Đánh giá ĐTLT của bệnh viện nhằm mục đích:
- Xác định xem các khóa ĐTLT có đạt được các mục tiêu không
- Đánh giá tính phù hợp và giá trị của các chương trình ĐTLT của bệnh viện.
- Xác định những lĩnh vực của chương trình ĐTLT cần cải thiện.
- Xác định các đối tượng CBYT phù hợp cho các chương trình ĐTLT
trong tương lai.

179
- Rà soát và củng cố các điểm mấu chốt trong nội dung của các chương
trình ĐTLT.
- Nhận xét về sự thành công hoặc thất bại của công tác ĐTLT của
bệnh viện.
- Xem xét khả năng tiếp tục thực hiện chương trình ĐTLT tại bệnh viện
và chuyển giao để nhân rộng chương trình ĐTLT cho bệnh viện khác
Tham gia đánh giá đào tạo liên tục của học viên có thể là:
- Các giảng viên
- Học viên
- Cán bộ quản lý ĐTLT
- Cơ quan quản lý, cơ quan tài trợ, v.v
Quá trình đánh giá ĐTLT gồm các hoạt động sau đây:
- Đánh giá hàng ngày: Giúp cho giảng viên và người tổ chức khóa đào
tạo giải quyết ngay các các ý kiến phản hồi của học viên, những vấn đề liên
quan đến khóa đào tạo giúp học viên hoàn thành các mục tiêu đào tạo
- Đánh giá định kỳ: Giúp giảng viên và người tổ chức khóa đào tạo cải
tiến cách thức và chỉnh sửa các vấn đề nhỏ trước khi chúng trở thành các vấn đề
lớn, mang lại lợi ích cho học viên ngay trong quá trình đào tạo
- Đánh giá khi kết thúc khóa đào tạo: Giúp giảng viên và người tổ chức
khóa đào tạo cải tiến các hoạt động trong tương lai và lập kế hoạch cho việc
giám sát hỗ trợ các học viên đã được đào tạo
- Đánh giá học viên sau khi đã trở về nơi làm việc: Giúp giảng viên và
người tổ chức khóa đào tạo thu nhận được kết quả và tác động của học viên đã
được đào tạo vào thực tế làm việc
Đánh giá đào tạo liên tục có nhiều mức khác nhau, thường người ta chia
làm 4 cấp độ, tùy theo mục tiêu của cuộc đánh giá, những người tham gia đánh
giá ĐTLT của bệnh viện lựa chọn cấp độ đánh giá cho phù hợp
+ Cấp độ 1: Phản ứng của học viên đối với khóa đào tạo. Nếu học viên
“hài lòng”, có nhiều ‘niềm vui” trong khi đào tạo sẽ tác động đến thành công của

180
khoá đào tạo. Đánh giá cấp độ 1 được tiến hành trong suốt khóa huấn luyện và ở
cuối khóa huấn luyện. Để đánh giá phản ứng của học viên với khóa đào tạo (về
nội dung, tài liệu, phương pháp dạy học, giảng viên, mội trường học tập, hậu cần
…) có thể sử dụng các Phiếu hỏi ý kiến học viên, các bài tập, các trò chơi, hộp
thư trong lớp học để thu nhận những phản hồi của học viên
Tham khảo gợi ý thiết kế mẫu đánh giá cấp độ 1 tại Phụ lục số 1
+ Cấp độ 2: Đánh giá kết quả học tập của học viên. Cụ thể là những kiến
thức, kỹ năng học viên đã đạt được trong quá trình tham dự kháo ĐTLT. Được
tiến hành trong hoặc ngay sau khóa đào tạo. Bao gồm các bài kiểm tra trước và
sau khóa học; các bảng kiểm, thang điểm đánh giá kỹ năng, thái độ; các câu hỏi
trả lời miệng, câu hỏi tự luận, các bài kiểm tra bằng trắc nghiệm khách quan; các
bài tập tình huống.
+ Cấp độ 3: Đánh giá việc thay đổi hành vi và khả năng học viên áp dụng
các kiến thức và kỹ năng đã được đào tạo vào thực tế công việc của họ. Việc này
có thể được tiến hành tại nơi học viên đang làm việc 3-6 tháng sau khóa đào tạo.
Đánh giá ở cấp độ 3 nhằm đánh giá các kết quả lâu dài hơn của khóa đào tạo.
Phương pháp đánh giá bao gồm quan sát CBYT (đã được ĐTLT) thực hiện các
kỹ năng; phỏng vấn, thảo luận nhóm cùng CBYT hoặc cũng có thể là các cuộc
khảo sát với các bài kiểm tra lại kiến thức.
+ Cấp độ 4: Đánh giá kết quả hoặc tác động của nguồn nhân lực đã được
ĐTLT đối với công tác CSSKND. Tác động ngắn hạn của ngồn nhân lực đã được
đào tạo có thể là những sự thay đổi tốt lên của các chỉ số sức khỏe, có thể là sự
tăng lên số người sử dụng dịch vụ CSSK do người CBYT đã được ĐTLT ...
Đánh giá cấp độ 4 bao gồm các con số thống kê về dịch vụ CSSK, các cuộc
phỏng vấn những người sử dụng dịch vụ y tế, những chỉ số về CSSK. Tuy nhiên
khi đánh giá cấp độ 4 thường gặp phải khó khăn đó là có nhiều yếu tố tác động
đến việc cải thiện chất lượng dịch vụ y tế ngoài ĐTLT. Do vậy cần phải loại trừ
các yếu tố này bằng cách khảo sát song song với nhóm đối chứng (những CBYT
không được ĐTLT).
+ Ngoài ra, trong khía cạnh kinh tế - y tế của bối cảnh đổi mới kinh tế- xã
hội của nước ta hiện nay cũng cần đề cập đến việc đánh giá chi phí của các hoạt
động ĐTLT. Đó là phương pháp đánh giá bằng cách so sánh lợi ích kinh tế của
kết quả, tác động ĐTLT CBYT với chi phí của các khóa ĐTLT (tài liệu đào tạo,

181
trang thiết bị, giảng viên và học viên …). Có người xếp nội dung đánh giá này
vào mức độ 4, cũng có người đề nghị xếp thành mức độ 5. Trong phạm vi đào
tạo liên tục cán bộ y tế của một bệnh viện, chúng tôi chỉ đề cập tới nội dung này
nhằm mục đích tham khảo mà chưa sắp xếp vào cấp độ đánh giá.
Cán bộ quản lý đào tạo liên tục của bệnh viện thực hiện chức năng tổ chức
hoạt động đánh giá ĐTLT CBYT của bệnh viện thông qua các hoạt động sau:
Phối hợp cùng giảng viên tổ chức các hoạt động thu nhận phản hồi của
học viên (hộp thư, phiếu hỏi ý kiến học viên, các trò chơi ... ) để đánh giá cấp
độ 1 của các khóa ĐTLT CBYT do bệnh viện tổ chức.
Tham gia cùng với các giảng viên thực hiện các hoạt động đánh giá học
viên trong quá trình tham dự các khóa ĐTLT do bệnh viện tổ chức, đánh giá ở
cấp độ 2.
Biên soạn các bộ công cụ đánh giá, lập kế hoach đánh giá, tổ chức các
cuộc đánh giá ĐTLT của bệnh viên ở cấp độ 3 và cấp độ 4.
Tổng hợp và báo cáo kết quả các cuộc đánh giá theo cấp độ của từng
khóa, hay một số khóa ĐTLT do bệnh viện tổ chức được tổ chức trong khoảng
thời gian nhất định (6 tháng, 1 năm).

CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG


Câu 1: Trình bày quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục tại bệnh viện?
Câu 2: Trình bày các bước triển khai một khóa học liên tục tại bệnh viện?
Câu 3: Trình bày phương pháp đánh giá học học tập của sinh viên khóa đào tạo
liên tục?
Câu 4: Trình bày cách đánh giá đào tạo liên tục của bệnh viện ?
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Thông tư 22/2013/TT-BYT ngày 9/8/2013 của Bộ Y tế Hướng dẫn việc


đào tạo liên tục cho cán bộ y tế.
2. Quyết định 492/QĐ-BYT ngày 17/2/2012 của Bộ Y tế về việc cấp mã
chứng nhận đào tạo liên tục cho các đơn vị tham gia công tác đào tạo liên tục
cán bộ y tế.

182
3. Quyết định 493/QĐ-BYT ngày 17/2/2012 của Bộ Y tế về việc ban hành
quy định về tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng đơn vị đào tạo liên tục cán bộ y tế.
4. Công văn số 1853/BYT-K2ĐT ngày 7/4/2009 của Bộ Y tế hướng dẫn xây
dựng chương trình và tài liệu đào tạo liên tục.
5. Công văn số 2585/BYT-K2ĐT ngày 27/4/2010 của Bộ Y tế về việc ban
hành chương trình đào tạo sư phạm y học cơ bản
6. Bộ Y tế (2014). Tài liệu đào tạo quản lý đào tạo liên tục tại bệnh viện.

CHUYÊN ĐỀ 3
GIỚI THIỆU VỀ TÀI CHÍNH Y TẾ
VÀ BẢO HIỂM Y TẾ CỦA VIỆT NAM

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 8 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chuyên đề này, học viên có khả năng:
1. Mô tả được một số khái niệm liên quan đến Tài chính Y tế và Bảo hiểm Y tế.
2. Phân tích được nhiệm vụ và chức năng của hệ thống Tài chính Y tế.
3. Trình bày được thực trang các nguồn tài chính cho y tế và một số giải pháp.
4. Mô tả được nguyên lí căn bản và các loại hình Bảo hiểm Y tế.
5. Trình bày được một số quy định của Bảo hiểm Y tế liên quan đến quyền lợi
và nghĩa vụ của cơ sở cung cấp dịch vụ y tế.
6. Trình bày được đặc thù, đánh giá thực trạng của Bảo hiểm Y tế.
7. Trình bày được vai trò việc của Điều dưỡng trong quản lí tài chính tại cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế.
NỘI DUNG

183
1. Tài chính y tế
1.1. Một số khái niệm cơ bản về Tài chính Y tế
1.1.1. Khái niệm về Tài chính Y tế
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tài chính Y tế (TCYT) là một chức
năng của hệ thống y tế, thực hiện việc huy động, tập hợp và phân bổ nguồn kinh
phí cho nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân, cho cá nhân và cộng đồng.
Khái niệm Tài chính Y tế (TCYT, ở nơi này hay nơi khác chưa được thống
nhất, cả ba nội dung tập hợp lại thành TCYT hay mỗi một nội dung nói trên đều
có thể được hiểu là TCYT.
TCYT không chỉ là tạo đủ nguồn kinh phí cho chăm sóc sức khỏe, mà còn
là việc tạo nguồn tài chính sao cho công bằng (ai đóng góp và đóng góp bao
nhiêu), và sử dụng nguồn tiền có được sao cho có hiệu quả nhất. Hơn thế nữa,
năm 2007, WHO cho rằng: “Một hệ thống TCYT tốt huy động đủ tiền để người
dân có thể sử dụng dịch vụ y tế khi cần, và được bảo vệ trước chi phí y tế thảm
họa hoặc bảo vệ không bị nghèo hóa do phải chi trả chi phí y tế. Hệ thống
TCYT tốt khuyến khích cung ứng và sử dụng dịch vụ một cách hiệu quả”.
Dịch vụ y tế thường tiêu tốn rất nhiều tiền, trong khi đó người cần sử
dụng dịch vụ y tế nhiều khi lại không có đủ khả năng về tài chính. Điều này có
thể dẫn đến tình trạng sử dụng này một cách không đầy đủ. Chính vì thế, các
chính phủ đều tìm cách tạo nguồn kinh phí cho ngành y tế thích hợp nhất cho
quốc gia của mình trong từng thời gian cụ thể
1.1.2. Chức năng và luồng của hệ thống Tài chính y tế ở Việt Nam
Về TCYT, tỉ trọng các nguồn tài chính công trong tổng chi tiêu y tế của
toàn xã hội, trong đó có nguồn chi từ ngân sách nhà nước còn thấp; chi trực tiếp
(tiền túi của người dân) còn rất cao, tác động bất lợi tới sự công bằng trong
chăm sóc sức khỏe. Bảo hiểm y tế (BHYT) có diện bao phủ tương đối hẹp, mức
phí bảo hiểm hiện ở mức thấp. Tỉ lệ bao phủ của người hưởng lương thường
xuyên thấp (46%) và số người tham gia đóng phí bảo hiểm cũng ít so với tổng
số người được bảo hiểm (6,2 triệu/36 triệu). Chính sách BHYT tự nguyện được
sửa đổi để mở rộng khả năng tham gia của nhân dân, tăng quyền lợi của người
có BHYT tự nguyện, nhưng lại làm nặng thêm các vấn đề cân đối quỹ BHYT do

184
lựa chọn bất lợi trong số người tham gia. Việc phân bổ ngân sách dựa trên số
giường kế hoạch mà không phải trên nhu cầu thực tế và kết quả hoạt động của
cơ sở. Tỉ lệ phân bổ ngân sách cho dự phòng và chi cho đầu tư phát triển còn
thấp (điểm này đang có hướng khắc phục bằng một số giải pháp được nêu trong
Nghị quyết của Quốc hội mới ban hành nêu ở phần trên), nhiều cơ sở y tế Nhà
nước đang hoạt động trong tình trạng xuống cấp. Phương thức thanh toán (viện
phí) không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả nguồn tài chính. Viện phí chưa
được tính đúng, tính đủ với các chi phí cho dịch vụ. Còn thiếu một cơ chế quản
lí giá thuốc và sử dụng thuốc hợp lí.

185
Đơn vị thu Đơn vị quản lí Đơn vị cung
phí quỹ ứng dịch vụ

Viện trợ Nhà nước Bộ Y tế Bệnh viện/


quốc tế trung ương, đơn vị thuộc
Bộ Y tế trung ương

Chương
Trợ cấp trình mục Bệnh viện tỉnh
tiêu
Doanh Chính
nghiệp/ chủ quyền địa Bệnh viện
sử dụng lao phương/ Sở Sở Y tế
huyện/ Trạm y
động Tài chính
tế xã

Các đơn vị y
tế dự phòng/
đào tạo, v.v.
BHXH BHXH tỉnh
(BHYT) Các cơ sở y tế
Cá nhân/
hộ gia đình/ tư nhân
người lao
động BHYT tư nhân

Nhà thuốc

Chi tiền túi hộ gia đình (OOP)

Nguồn tài Cơ chế tài chính/ Cơ Kết quả


chính chế thanh tóan đầu ra

Hình 1: Luồng TCYT của Việt Nam


Hệ thống TCYT của Việt Nam được chỉ ra ở hình 1 với các ví dụ cụ thể về
những đơn vị, cơ quan trực tiếp tham gia vào hệ thống TCYT.
Hình 1 cũng chỉ ra luồng tài chính chu chuyển từ đơn vị thu phí, đến đơn vị
giữ quỹ và cuối cùng đến đơn vị cung ứng dịch vụ. Ở Việt Nam có 2 nguồn thu
lớn cung cấp tài chính cho y tế, đó là nguồn thu ngân sách của Nhà nước và
nguồn thu BHYT của BHXH Việt Nam.
Tuy nhiên trong thực tế, có những kênh tài chính không tuân theo hoặc bỏ
qua các bước - đó là khi người dân/ hộ gia đình chi trả trực tiếp cho nhà cung

186
ứng khi ốm đau, có sử dụng và chi trả cho các sản phẩm, dịch vụ y tế. Kênh tài
chính này được thể hiện bằng đường đậm, chỉ luồng tiền từ hộ gia đình trực tiếp
đến nhà cung ứng (không qua đơn vị quản lí quỹ trung gian). Những khoản tiền
trả như thế này được gọi là chi trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình cho y tế (out
of pocket payment), bất kể khoản tiền này được thu bởi nhà cung ứng công (Nhà
nước sở hữu) hay nhà cung ứng tư (tư nhân sở hữu).
Hệ thống TCYT phải thực hiện 3 chức năng cơ bản:
(1)- Huy động nguồn tài chính/thu phí (để có nguồn tài chính đủ lớn và có
tính công bằng). Thu từ nguồn nào, bao nhiêu, thu như thế nào để đảm bảo công
bằng và hiệu suất cao nhất (tốn ít chi phí nhất).
(2)- Tập trung thành quỹ/quản lí quỹ tài chính (quản lí tốt, tránh thất thoát,
tạo được tiếng nói với bên nhà cung ứng, đảm bảo đủ tài chính cho các ưu tiên
sức khỏe của xã hội và chia sẻ rủi ro giữa các thành viên trong cộng đồng).
(3)- Chi trả/ mua dịch vụ hoặc phân bổ cho đơn vị cung ứng (nhằm tạo nên
giá trị sức khỏe cao nhất, thỏa mãn nhu cầu sức khỏe của người dân với chi phí
thấp nhất, giúp người dân, đặc biệt là người nghèo tránh các rủi ro về tài chính).
Cả ba chức năng trên của hệ thống TCYT đều có ý nghĩa quan trọng đối
với việc thực hiện công bằng. Trong TCYT, vấn đề công bằng thường được cân
nhắc trong hai lĩnh vực chính: công bằng trong đóng góp về tài chính cho hệ
thống và công bằng trong hưởng thụ từ hệ thống. Các cơ chế tài chính và các
chính sách tài chính khác nhau sẽ có những tác động khác nhau đến hai lĩnh vực
này.
Về nguyên tắc, công bằng trong đóng góp nghĩa là đóng góp tùy theo khả
năng chi trả - người có thu nhập nhiều thì đóng góp nhiều và thu nhập ít, đóng
góp ít. Như vậy, đóng góp cho hệ thống y tế thông qua nộp thuế thu nhập là một
đóng góp mang tính công bằng. Đóng góp phí BHYT xã hội, theo phần trăm
nhất định của thu nhập của người lao động, cũng được coi là công bằng. Những
người thu nhập thấp hoặc không có thu nhập, về danh nghĩa không phải đóng gì
cả, hoặc hoàn toàn được bao cấp bởi ngân sách nhà nước. Việc hưởng thụ không
có liên quan đến mức đóng góp - người hưởng thụ được hưởng theo nhu cầu
bệnh tật của mình. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc vào khả năng huy động nguồn
lực tài chính qua việc thu thuế và phí bảo hiểm.

187
Như vậy, hai cơ chế tài chính công - sử dụng nguồn thu thuế của Nhà nước
và nguồn thu của BHYT, được coi là có tính công bằng cao hơn so với cơ chế
tài chính do bệnh nhân tự trả trực tiếp. Khi tổng chi phí qua cơ chế tài chính tư
này chiếm tỉ lệ lớn trong tổng chi y tế quốc gia (> 50%), thì hệ thống TCYT đó
được coi là rất mất công bằng.
Chức năng thứ 3 của TCYT - phân bổ nguồn lực/ mua dịch vụ, có ý nghĩa
quan trọng bảo đảm tính công bằng và hiệu quả của hệ thống y tế. Chức năng
này thường được đề cập dưới nhiều tiêu đề khác như phương thức phân bổ ngân
sách (trong trường hợp quỹ ngân sách; phương thức thanh toán/ chi trả/ bồi hoàn
chi phí cho bên cung ứng dịch vụ, cho bệnh viện (trong trường hợp quỹ BHYT).
Có nhiều phương thức thanh toán khác nhau, mỗi phương thức có điểm mạnh,
điểm yếu và thường gây nên những động cơ khác nhau từ nhà cung ứng. Phương
thức thanh toán có thể khuyến khích những động cơ sai, thiên về gây lãng phí,
gây lạm dụng, hay có thể khuyến khích những động cơ đúng, thiên về nâng cao
hiệu suất (giảm chi phí) và chất lượng dịch vụ. Phương thức thanh toán cũng
thường quyết định ai là người chịu rủi ro về tài chính, đó là đơn vị quản lí quỹ,
là nhà cung ứng, hay là bệnh nhân.
Dịch vụ y tế thường tiêu tốn rất nhiều tiền, trong khi đó người cần sử dụng
dịch vụ y tế nhiều khi lại không có đủ khả năng về tài chính. Điều này có thể
dẫn đến tình trạng sử dụng dịch vụ này một cách không đầy đủ. Chính vì thế,
các chính phủ đều tìm cách tạo nguồn kinh phí cho Ngành Y tế thích hợp nhất
cho quốc gia của mình trong từng thời gian cụ thể.
Dòng của nguồn tiền chi trả cho chăm sóc sức khoẻ hay cho hệ thống
BHYT bao gồm 3 nội dung:
(1) Nguồn kinh phí để chi trả cho các hoạt động y tế.
(2) Phân bổ kinh phí đã có cho các cơ sở y tế khác nhau của hệ thống y tế.
(3) Việc trả tiền công, tiền lương lao động cho các cá nhân tham gia vào hệ
thống chăm sóc sức khoẻ.
1.1.3. Tổng chi y tế quốc gia
Tổng chi y tế quốc gia là khái niệm và là một chỉ số được dùng khá thường
xuyên trong phân tích TCYT quốc gia và so sánh hệ thống TCYT giữa các quốc

188
gia. Tổng chi y tế quốc gia thể hiện tổng chi của toàn xã hội huy động được cho
y tế. Tổng chi y tế được tạo nên bởi hai nhóm chi tiêu chính là chi công và chi tư
cho y tế.
Tổng chi y tế quốc gia = Chi công cho y tế + Chi tư cho y tế
1.1.4. Chi công cho y tế
Nói theo cách đơn giản nhất, khi một dịch vụ được chi trả thông qua cơ chế tài
chính công (như đã thảo luận ở phần trên) hay từ nguồn vốn vay hoặc viện trợ nước
ngoài nhưng do Nhà nước điều phối, thì khoản chi đó được gọi là chi công.
Chi công = chi trực tiếp từ NSNN + chi quỹ BHYT xã hội
+ chi nguồn ODA
1.1.5. Chi tư cho y tế
Các khoản chi do cá nhân, hộ gia đình trả trực tiếp cho nhà cung ứng dịch
vụ khi ốm đau và sử dụng dịch vụ, khi mua thuốc và các vật tư thiết bị liên quan
đến sức khỏe, là chi tư. Với khái niệm như vậy, viện phí và các khoản đồng chi
trả (khi khám chữa bệnh BHYT) do bệnh nhân trả trực tiếp từ tiền túi, dù được
thu ở bệnh viện công hay bệnh viện tư, đều là chi tư. Ngoài ra, chi tư còn bao
gồm các khoản chi khác do doanh nghiệp, do các tổ chức xã hội, từ thiện chi trả,
nhưng quy mô thường nhỏ. Chi từ BHYT tư nhân vì lợi nhuận cũng được tính là
chi tư.
Chi tư = chi trực tiếp của hộ gia đình (OOP) + chi bởi doanh nghiệp
(không kể đóng góp của doanh nghiệp cho BHYT xã hội) + chi BHYT tư
nhân
Hai khái niệm này không có liên quan gì đến chủ sở hữu đơn vị cung ứng
dịch vụ, cho dù đó là sở hữu Nhà nước (hoạt động phi lợi nhuận) hay tư nhân (vì
lợi nhuận). Trên thực tế, chi công thường được dùng chủ yếu để trả cho đơn vị
cung ứng công, nhưng cũng có thể được trả tại đơn vị cung ứng tư (ví dụ BHYT
xã hội thanh toán cho bệnh viện tư).
Tương tự, chi tư có thể (hoặc phần lớn) được trả tại đơn vị cung ứng công
(ví dụ viện phí thu tại bệnh viện công) hoặc đơn vị cung ứng tư. Trên thế giới,
hầu hết các quốc gia đều có một hệ thống cung ứng dịch vụ công tư hỗn hợp,

189
đồng thời quốc gia nào cũng có một hệ thống TCYT dựa vào chi công và chi tư,
tuy nhiên, về mặt chiến lược, chính phủ các nước thường có xu hướng nâng tỉ
trọng chi công cao lên, bởi chi công thường công bằng hơn, mang tính chia sẻ
hơn. Chi tư, đặc biệt là chi từ tiền túi của hộ gia đình khi ốm đau, là lí do đẩy gia
đình vào hoàn cảnh kinh tế khó khăn và dẫn đến đói nghèo.
1.1.6. Ngân sách Nhà nước cho y tế
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Ngân sách nhà nước (NSNN) cho y tế
là tổng chi phí mà các cơ quan Nhà nước dùng để mua hàng hóa và dịch vụ y tế,
bao gồm chi tiêu cho y tế của Nhà nước tại tất cả các cấp, của các tổ chức Bảo
hiểm Xã hội và chi tiêu trực tiếp cho y tế của các doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài
nguồn kinh phí trong nước, NSNN cho y tế còn bao gồm cả các nguồn viện trợ
và vốn vay thông qua ngân sách quốc gia. NSNN chi cho y tế và nguồn tài chính
của Quỹ BHYT xã hội được coi là nguồn tài chính công cho y tế.
Cho đến nay, NSNN vẫn là nguồn tài chính chủ yếu cho y tế tại 106 nước
trong tổng số 191 nước thành viên của Tổ chức Y tế thế giới. Nhiều ý kiến cho
rằng nguồn tài chính này là yếu tố quan trọng để đảm bảo tính công bằng trong
chăm sóc sức khỏe. Bởi vì đây là nguồn tài chính để đảm bảo thực hiện các chức
năng chủ yếu của Nhà nước trong y tế, một lĩnh vực luôn tồn tại các yếu tố thất
bại của thị trường liên quan đến tính chất dịch vụ công cộng (Public goods).
Trong lĩnh vực y tế, hai chức năng chính của Nhà nước là bảo vệ sức khỏe
cộng đồng và đảm bảo công bằng trong y tế. Bảo vệ sức khỏe cộng đồng nghĩa là
đảm bảo cho người dân được thông báo đầy đủ về các nguy cơ sức khỏe, được đảm
bảo dịch vụ y tế có chất lượng và chi trả được và được giúp cách phòng bệnh.
Đảm bảo công bằng trong y tế nghĩa là giảm thiểu sự khác biệt trong sử
dụng dịch vụ y tế cơ bản và trong chỉ số sức khỏe giữa các vùng và các nhóm
dân cư; tạo ra các cơ chế để chia sẻ gánh nặng chi phí chăm sóc sức khỏe giữa
người giàu và người nghèo, giữa người khỏe và người ốm. Các chương trình,
hoạt động nhằm thực hiện hai chức năng cơ bản đó cần được đảm bảo đủ nguồn
tài chính, chủ yếu từ NSNN, được phân thành 2 loại.
(1)- Phân loại theo nội dung, tính chất hoạt động:
- Ngân sách khoản mục.

190
- Ngân sách chương trình hoặc ngân sách hoạt động.
(2)- Phân loại theo cấp độ hành chính:
- Ngân sách Trung ương.
- Ngân sách các địa phương.
- Ngân sách các bộ, ngành.
NSNN vẫn được bố trí theo các nhiệm vụ chi thường xuyên: chi cho khám
chữa bệnh (KCB), Y tế Dự phòng (YTDP), cải cách tiền lương, chi bổ sung, sửa
đổi chế độ phụ cấp đặc thù và chế độ phụ cấp chống dịch, kinh phí thực hiện
Chương trình Mục tiêu quốc gia (CTMTQG), chi mua BHYT cho người nghèo,
trẻ em dưới 6 tuổi và đối tượng hỗ trợ khác theo Luật Bảo hiểm Y tế.
Tỉ lệ chi cho YTDP và nâng cao sức khỏe tăng lên qua các năm do chi địa
phương tăng mạnh, đến năm 2011 chi cho YTDP chiếm 69,8% tổng NSNN chi
cho y tế. Một số dự án đang được xây dựng để tiếp tục dành kinh phí NSNN cho
các hoạt động ưu tiên trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe ban đầu và y tế tuyến
huyện, xã. Nhiều địa phương lấy kinh phí từ NSNN địa phương để hỗ trợ mua
thẻ BHYT cho người cận nghèo, người mới thoát nghèo. Kinh phí giao cho mua
thẻ BHYT cho các đối tượng yếm thế tăng lên các năm.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT đã được Quốc hội thông
qua ngày 13/6/2014; Bộ Y tế đã ban hành một số thông tư hướng dẫn thực hiện
Luật BHYT sửa đổi. Tỉ lệ bao phủ BHYT đạt 69,5% dân số.
Khó khăn về kinh tế vĩ mô làm giảm tốc độ tăng chi thường xuyên từ
NSNN cho y tế. Một số hoạt động quản lí Nhà nước về y tế như thanh tra, kiểm
tra, thống kê thông tin y tế, hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe, can thiệp
phòng, chống bệnh không lây nhiễm tại cộng đồng thiếu kinh phí để thực hiện.
Tỉ lệ chi tiền túi của hộ gia đình tăng lên mức 49% năm 2012 trong khi chi công
cho y tế giảm còn 42,6%, chưa đạt mục tiêu 50%.
Một số địa phương chưa bố trí đủ chi sự nghiệp y tế theo định mức của Bộ
Tài chính. Các CTMTQG bị cắt giảm kinh phí, gây khó khăn cho hoạt động các
chương trình, dự án, đặc biệt các dự án phòng, chống bệnh không lây nhiễm…,
chủ yếu do nguồn NSNN hạn hẹp.

191
Ưu tiên phân bổ NSNN cho Y tế Dự phòng, y tế cơ sở, CSSKBĐ, thực hiện
chính sách xã hội về y tế.
- Bảo đảm nguồn tài chính cho dự phòng và kiểm soát bệnh không lây
nhiễm một cách bền vững:Sử dụng các bằng chứng về gánh nặng bệnh tật và
gánh nặng kinh tế của bệnh không lây nhiễm để thuyết phục phân bổ nguồn kinh
phí đáp ứng nhu cầu phòng chống bệnh không lây nhiễm. Bổ sung kinh phí cho
hoạt động phòng chống bệnh không lây nhiễm từ các nguồn NSNN, BHYT và
Quỹ phòng chống tác hại thuốc lá/rượu bia.
- Nâng cao hiệu quả chi phí bằng việc lồng ghép thực hiện các chương trình
mục tiêu phòng chống bệnh lây nhiễm và bệnh không lây nhiễm, tiến tới xây
dựng hệ thống chăm sóc sức khoẻ lồng ghép. Xác định gói dịch vụ cơ bản phòng
chống không lây nhiễm dựa trên bằng chứng về chi phí hiệu quả.
- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu cung cấp bằng chứng chi phí hiệu quả
đối với bệnh không lây nhiễm.
1.2. Thực trạng Tài chính Y tế, các nguồn Tài chính Y tế Việt Nam
1.2.1. Mục tiêu của hệ thống Tài chính Y tế
TCYT là một trong những bộ phận chính cấu thành hệ thống y tế quốc gia.
Hệ thống TCYT huy động và phân bổ kinh phí trong hệ thống y tế để đáp ứng
nhu cầu về chăm sóc sức khỏe hiện tại của người dân (cá nhân và tập thể) bao
gồm cả nhu cầu chăm sóc sức khỏe trong tương lai. 
Điều cốt yếu đối với các quốc gia là phải xây dựng được hệ thống TCYT
có thể đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng khi
cần, đồng thời bảo vệ họ tránh được những khó khăn về tài chính do bệnh tật
gây ra. Đó là đảm bảo công bằng, tránh sập “Bẫy nghèo đói do bênh tật” và “Chi
phí thảm họa”
(1)- Bất công bằng y tế, sức khỏe: Bất công bằng về y tế, sức khỏe giữa các
nhóm người dân giữa các vùng của đất nước, và giữa các nhóm thu nhập đang
ngày càng tăng trong những năm gần đây. Tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, tỉ lệ tử
vong ở trẻ dưới 1 tuổi (IMR), tỉ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi (U5MR), và tỉ lệ tử
vong mẹ (MMR) vẫn còn cao ở các vùng nghèo, miền núi, và vùng sâu vùng xa.

192
Đổi mới đổi mới hệ thống y tế có thể được hiểu như là: “Sự thay đổi có
mục đích và được duy trì để nâng cao hiệu suất, công bằng và hiệu quả của hệ
thống y tế”.
Chính phủ và các tổ chức quốc tế đang nhận ra rằng hệ thống y tế công
bằng đóng vai trò quan trọng để đạt được các mục tiêu về sức khỏe liên quan
đến mục tiêu phát triển thiên niên kỉ và để đạt được mục tiêu chăm sóc sức khỏe
toàn dân.
Ở Việt Nam, đổi mới hệ thống y tế theo hướng công bằng được xác định là
một định hướng lớn của hệ thống y Kế hoạch 5 năm của ngành y tế về chăm sóc,
bảo vệ và nâng cao sức khỏe người dân giai đoạn 2011 - 2015 cũng đã xác định
mục tiêu: “Tiếp tục phát triển một hệ thống chăm sóc y tế theo hướng công
bằng, hiệu quả và phát triển, nâng cao chất lượng chăm sóc, đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe của người dân ngày càng tăng và đa dạng”.
Bình đẳng (Equality) và bất bình đẳng (Inequality) đề cập đến sự khác biệt.
Bất bình đẳng sức khỏe y tế, sức khỏe là thuật ngữ dùng để chỉ ra sự khác biệt
về một chỉ số y tế, sức khỏe nào đó giữa các cá nhân hoặc các nhóm kinh tế-xã
hội trong xã hội. Bất công bằng y tế, sức khỏe (Inequity) đề cập đến sự bất bình
đẳng được cho là do có sự bất công nào đó hoặc “những khác biệt về các chỉ số
y tế, sức khỏe giữa nhóm dân số yếu thế so với nhóm dân số có lợi thế hơn trong
xã hội và sự khác biệt này có thể phòng tránh được” .
Ví dụ:
Sự bất bình đẳng y tế, sức khỏe là tỉ lệ mắc bệnh ở những người lớn tuổi
thường cao hơn so với những người trong độ tuổi từ 25-34 tuổi. Điều này là
không thể tránh khỏi (do nguồn gốc sinh học) và không hàm ý bất công bằng.
Tuy nhiên, nếu tỉ lệ mắc bệnh ở những người cao tuổi nghèo cao hơn so với
những người cao tuổi không nghèo thì đây chính là sự bất bình đẳng có thể
phòng tránh được hay là bất công bằng (bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế - xã
hội…). Sự khác biệt giữa sự bất bình đẳng và bất công bằng về y tế được minh
họa trong hình 2.

Bất bình đẳng y tế,


sức khỏe
193
Không phòng tránh được Có thể phòng tránh được,
Có thể giải thích được và không thể giải thích
được = bất công bằng

Hình 2: Bất bình đẳng và bất công bằng y tế, sức khỏe
Công bằng y tế, sức khỏe bao gồm công bằng theo chiều ngang và công
bằng theo chiều dọc.
(2)- “Bẫy nghèo đói do bênh tật”: nghèo đói và bệnh tật có mối quan hệ hai
chiều rất chặt chẽ, bệnh tật dẫn đến nghèo đói và ngược lại, nghèo đói dẫn tới
bệnh tật.
Bệnh tật dẫn tới nghèo đói: về cơ bản, ốm đau, bệnh tật gây nghèo đói bởi
hai lí do: một là giảm năng suất lao động, giảm thu nhập của hộ gia đình; hai là
tăng chi tiêu hộ gia đình cho khám chữa bệnh.
Nghèo đói dẫn tới bệnh tật: Người nghèo dinh dưỡng kém, sức đề kháng
kém, nhà ở chật chội, ẩm thấp, làm việc trong môi trường độc hại, thiếu vệ sinh,
thiếu các điều kiện đảm bảo an toàn, ít có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế
dự phòng và điều trị, ít đi khám bệnh và thường đến bệnh viện khi bệnh đã nặng,
đây là những lí do dẫn tới tình trạng dễ ốm đau, bệnh tật của người nghèo.
Bẫy đói nghèo: Trong những trường hợp bị ốm nặng và cần có chăm sóc
của y tế khẩn cấp, hầu hết mọi người đều cố gắng hết khả năng để tìm đủ kinh
phí chi trả cho những dịch vụ này thậm chí là họ phải bán cả các tư liệu sản
xuất, cho con cái thôi học hoặc đi vay nặng lãi. Hậu quả là, nhiều bệnh nhân
nghèo cố gắng chi trả cho các chi phí y tế đã trở lên nghèo đói hơn, còn những
bệnh nhân thuộc nhóm những người vừa thoát nghèo và những người thuộc
nhóm cận nghèo thì sẽ rơi vào tình trạng nghèo đói.

194
Việc tăng lên của chi tiêu bằng tiền túi đối với các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe tư nhân và công đã làm cho rất nhiều gia đình rơi vào cảnh nghèo đói và
làm cho những người vốn đã nghèo càng trở nên nghèo hơn. Mức độ của tình
trạng này - được biết đến với cái tên là “Bẫy nghèo đói”

Giả m sứ c - Giả m thu nhậ p


- Giả m chi tiêu
- Bá n sả n phẩ m
Tă ng chi LĐ
tiêu cho - Bá n tà i sả n
KCB

Nghèo
ố m đau, bệnh tậ t

Dinh dưỡ ng kém, sứ c đề


khá ng kém, điều kiện lao
độ ng vấ t vả …

Hình 3: Mối liên quan giữa sức khoẻ kém và đói nghèo
Nguồn: MOH-Vietnam Health Report, 2002
Chúng ta có thể làm gì để tránh bẫy nghèo đói? Kết quả thực tế của các
cuộc cải cách theo hướng thị trường trước đây và hiện nay thường trái ngược với
các mục tiêu đã đề ra, đó là khả năng tiếp cận về mặt kinh tế của người nghèo bị
suy giảm và tổng chi phí tăng lên. Khoảng cách giữa mục tiêu và kết quả đã cho
thấy việc thiếu và sự cần thiết phải có cơ sở thực tế vững chắc hơn cho việc
hoạch định chính sách trong lĩnh vực y tế. Rõ ràng cần thiết phải có các nghiên
cứu chính sách để đánh giá độ chắc chắn của những giả định cho cải cách theo
định hướng thị trường, và những lựa chọn, và trở ngại đối với sự phát triển của
hệ thống chăm sóc sức khỏe công bằng và hiệu quả.
Cách tiếp cận dựa trên bằng chứng để đảm bảo cải cách lĩnh vực y tế theo
hướng công bằng và hiệu quả là đã được triển khai quá chậm và đòi hỏi các nhà
hoạch định chính sách tập trung nỗ lực vào nhiều mặt. Nghiên cứu cộng đồng có
một vai trò quan trọng trong việc phân tách lí thuyết và thực tế, và làm rõ những

195
giá trị cơ bản của chính sách đề xuất. Những người làm công tác nghiên cứu y tế
nên mở rộng đối tượng nghiên cứu bao gồm mối quan hệ với chiến lược xoá đói
giảm nghèo và ngược lại

CÁC ĐẶC TRƯNG


CỦA NGƯỜI NGHÈO
- Thiếu dịch vụ, vệ sinh
không đảm bảo, các
phong tục tập quán lạc
hậu...
Nguyên nhân:
- Thiếu thu nhập và kiến
thức. CÁC KẾT
QUẢ SỨC
- Nạn nghèo đói trong KHỎE YẾU
cộng đồng. KÉM:
- Các chuẩn mực xã hội, THU
- Bệnh tật. NHẬP
các thể chế và cơ cấu an
sinh xã hội kém, môi - Suy dinh GIẢM
trường bất lợi. dưỡng. -Mất thu
- Cung cấp dịch vụ y tế - Tỷ lệ sinh nhập.
chưa tốt, không thể sử cao. -Các chi
dụng các dịch vụ, thiếu - Nguy cơ bị phí chữa
các đầu vào quan trọng, đau ốm bệnh
dịch vụ không phù hợp và nghiêm trọng
chất lượng thấp. cao hơn
-Không thể tham gia hệ
thống TCYT, bảo hiểm và
số tiền tự thanh toán bị
hạn chế.

Trên tất cả, sự thay đổi là cần thiết nhằm nhấn mạnh hơn đến tính công
bằng khi đánhHình
giá 4:
tácMối liênlênhệygiữa
động sứcsức
tế và khoẻ và của
khỏe nghèo
cácđói
gia đình của bất kỳ
những thay đổi chính sách nào. Đặc biệt là những thay đổi cần phải được xem
xét đối với những người nghèo - bộ phận dân cư dễ bị tổn thương hơn trong xã

196
hội - để đảm bảo rằng những nhóm người này được chứ không mất trong công
cuộc cải cách chính sách y tế mang tính toàn cầu.
Nghèo đói - bệnh tật, công bằng và phát triển là vấn đề mang tính toàn cầu.
Đó là vấn nạn của các nước đang phát triển, mục tiêu xoá đói, giảm nghèo là
một trong những mục tiêu quan trọng của phát triển bền vững.
Số tiền tự chi trả cho khám chữa bệnh, cho các dịch vụ y tế, đặc biệt khi
nằm điều trị nội trú có thể làm cho các gia đình lâm vào cảnh nghèo khó.

Trách nhiệm giải trình xã hội


Chất lượng kĩ thuật
Tính kịp thời và liên tục
Tính hợp lí của các dịch vụ

Tính sẵn có về nhân lực


Khả năng tiếp cận về mặt vật chất

Hình 5: Tá m bướ c để tiếp cậ n hiệu quả tớ i ngườ i nghèo

Sự gia tăng nhân khẩu trong các gia đình chia nhỏ nguồn lực ít ỏi của các
gia đình nghèo, dẫn đến thiếu dinh dưỡng, dẫn đến suy kiệt và bệnh tật.
Các nhóm nước nghèo và người nghèo phải chịu nhiều hình thái khác nhau
của sự tước đoạt các quyền cơ bản, đặc biệt quyền được chăm sóc y tế khi ốm
đau.
Điều kiện sống: thiếu nước sạch, ô nhiễm môi trường, không có thể tiếp
cận các dịch vụ dự phòng...

197
Tất cả những yếu tố bất lợi đó làm cho người nghèo dễ mắc bệnh hơn và
khi mắc bệnh có khó khăn hơn trong việc chữa trị trên cả phương diện kĩ thuật
và kinh tế.
Tóm lại, người nghèo bị buộc chặt trong một vòng luẩn quẩn, sự nghèo đói
của họ sinh ra bệnh tật, sau đó bệnh tật lại góp phần làm họ nghèo đói thêm
(Hình 4).
Bằng cách sử dụng khuôn khổ phân tích (Hình 5), trong đó có chương trình
y tế (Clacson, et. al 2001), khuôn khổ này kết nối tất cả các yếu tố ảnh hưởng
đến mục tiêu về nghèo đói liên quan đến y tế. Qua khuôn khổ này xem xét đến
các mục tiêu liên quan đến y tế, các cản trở đối với hộ gia đình và cộng đồng,
phân tích về dịch vụ y tế và hệ thống y tế, các chính sách về y tế.
Để đánh giá mức độ của chiến lược quốc gia về xoá đói giảm nghèo giải
quyết các vướng mắc đối với việc cung cấp tốt hơn các dịch vụ cho người
nghèo, người ta đánh giá quy mô các chỉ số hoạt động, được phân tích thành
từng nấc tùy theo mức độ đóng góp vào kết quả và hiệu quả chung của lĩnh vực
y tế trong việc tiếp cận đến người nghèo (Hình 5) dựa theo Clacson et. al 2001.
(3)- Chi phí thảm họa và nghèo hóa do chi phí cho y tế:
“Chi phí thảm họa”: Chi tiêu thảm họa cho y tế (Catastrophic payments):
chi phí cho chăm sóc sức khỏe ở những nước có thu nhập thấp vẫn được thể hiện
qua việc chi trả tiền túi và thiếu cơ chế chi trả trước như thuế và bảo hiểm y tế.
Khi thành viên của hộ gia đình bị ốm đau, việc chi trả bằng tiền túi cho chăm
sóc y tế sẽ ảnh hưởng tới mức sống của hộ gia đình nếu những chi phí này
chiếm một phần lớn trong nguồn chi thường xuyên.
WHO định nghĩa chi tiêu cho y tế được gọi là thảm họa khi tổng số chi trực
tiếp cho y tế của hộ gia đình (thường là 1 năm) lớn hơn hoặc bằng 40% chi tiêu
phi lương thực, thực phẩm hoặc dưới 10% tổng chi cho tiêu dùng của hộ gia
đình.
Nghèo hóa do chi phí y tế: một hộ gia đình không nghèo bị trở thành hộ
nghèo sau khi chi trả các chi phí dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Chi phí thảm họa và nghèo hóa do chi phí y tế là các chỉ số phản ánh mức
độ bảo vệ rủi ro tài chính, cho thấy phần trăm dân số có nguy cơ phải đối mặt

198
với khó khăn tài chính do các chi phí y tế phát sinh, cũng như mức độ của sự
khó khăn đó. Hai chỉ số này được sử dụng để đo lường phạm vi bảo hiểm tài
chính hoặc bảo hiểm chi phí hay mức độ bao phủ của các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe. Các nhóm dân số được thực hiện so sánh bao gồm: hộ gia đình có trẻ dưới
5 tuổi; Hộ gia đình có người già; Dân tộc; Tình trạng kinh tế (phân theo 5 nhóm
tiêu dùng); Nơi cư trú (nông thôn và thành thị).
1.2.2. Cơ chế Tài chính Y tế
Trong chi công, có hai cơ chế tài chính cơ bản:
(1)- NSNN bao cấp trực tiếp cho đơn vị cung ứng dịch vụ;
(2)- Chi cho y tế thông qua cơ chế BHYT.
Chi NSNN được lấy từ nguồn thu của Nhà nước, mà chủ yếu là từ nguồn thu
từ thuế, trong khi đó, nguồn thu của BHYT chủ yếu dựa vào đóng góp của người
lao động và chủ sử dụng lao động trên cơ sở thu nhập của người lao động. Nguồn
ngân sách thường được lập kế hoạch hằng năm, trải qua quá trình xét duyệt và
được cấp trực tiếp cho đơn vị cung ứng dịch vụ thông qua BYT (đối với các bệnh
viện và đơn vị trực thuộc trung ương) hoặc Sở Y tế, Sở Tài chính đối với các đơn
vị cung ứng trực thuộc tỉnh. Như vậy Ngân sách Y tế trung ương cấp cho y tế
tuyến trung ương và ngân sách địa phương cấp cho y tế địa phương (tuyến tỉnh trở
xuống). Đối với những tỉnh nghèo, Nhà nước có các khoản điều tiết/ trợ cấp
chuyển từ ngân sách trung ương cho tỉnh để trang trải chi phí của các tỉnh. Hiện
tại phần lớn kinh phí đầu tư cơ bản và một phần kinh phí chi thường xuyên, đặc
biệt là chi lương cho cán bộ nhân viên y tế của hệ thống cung ứng công, đều đang
được bao cấp từ NSNN. Bên cạnh đó nguồn thu được từ BHYT do cơ quan
BHXH - một cơ quan Nhà nước độc lập quản lí quỹ và thanh toán cho đơn vị
cung ứng cho những dịch vụ được sử dụng bởi người có bảo hiểm.
Từ 2005, với chính sách trợ giúp người nghèo tham gia BHYT, và gần đây
là chính sách cho trẻ em dưới 6 tuổi, một nguồn tiền ngân sách đang được
chuyển hàng năm sang cơ quan BHXH như một khoản đóng góp phí BHYT
thay cho người nghèo và trẻ em. Với cơ chế tương tự, Nhà nước cũng đang bao
cấp phí BHYT cho một số nhóm dân cư khác như những người có công với cách
mạng, người đang hưởng trợ cấp xã hội, v.v. Như vậy, nguồn thu của BHXH
bao gồm phần đóng góp của khối lao động chính quy (do doanh nghiệp và người

199
lao động đóng) và phần bao cấp từ ngân sách. Nhà nước Việt Nam cũng đang
bàn đến việc bao cấp tương tự cho khối dân số cận nghèo. Đây là xu hướng đang
diễn ra không chỉ ở Việt Nam mà còn ở một số nước đang phát triển khác,
những nước đang muốn thiết lập và phát triển cơ chế tài chính thông qua BHYT.
Những nước này đều ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, khối lao động chính
quy nhỏ trong khi khối dân số thu nhập thấp và dễ tổn thương lớn. Cùng với
phát triển kinh tế, khối lao động chính quy sẽ lớn lên, số người lao động đóng
góp và sử dụng dịch vụ y tế thông qua cơ chế BHYT sẽ tăng lên, việc này sẽ dẫn
đến các chi phí trực tiếp từ tiền túi cho các dịch vụ y tế sẽ giảm đi. Tuy nhiên
việc dự đoán này dựa trên các giả thiết là Nhà nước sẽ có những chính sách và
chế tài đồng bộ để củng cố hệ thống đăng ký, thu phí và quản lí, sử dụng hiệu
quả quỹ BHYT.
Hai cơ chế tài chính mô tả ở trên thường được nhắc đến là những cơ chế
chi trả trước, nghĩa là trả khi chưa ốm và được biết trước. Đây là những điểm
chính để phân biệt với một cơ chế chi trả nữa - chi trả trực tiếp từ tiền túi của hộ
gia đình (OOP). Những chi trả này được trả khi hộ gia đình có người ốm và sử
dụng dịch vụ y tế. Chi trả trực tiếp từ hộ gia đình là một bộ phận của chi tư.
Ngoài ra chi tư còn bao gồm chi từ BHYT tư và các chi tư khác (ví dụ chi từ các
tổ chức từ thiện, hảo tâm).
1.2.3. Các nguồn Tài chính Y tế
Có bốn nguồn chính: chi trả trực tiếp, BHYT tư nhân, BHYT xã hội và thuế.
(1)- Chi trả trực tiếp bao gồm các chi trả mà người sử dụng phải lấy tiền túi
của mình để mua dịch vụ y tế. Người sử dụng có thể phải chi trả toàn bộ chi phí
phải trả hay đồng chi trả với BHYT. Các chi trả này xảy ra ngay khi sử dụng
dịch vụ. Ví dụ: một bệnh nhân nội trú khi ra viện, nếu không có BHYT sẽ phải
trả toàn bộ phí khám, chữa bệnh (KCB), nếu có BHYT sẽ chi trả một tỉ lệ nào
đó, hoặc chi trả thêm những phần thuốc không có trong danh mục của BHYT.
Phần này sẽ được phân tích kĩ trong bài viện phí.
(2)- BHYT tư nhân: người sử dụng dịch vụ y tế mua BHYT tư nhân theo
mệnh giá nhất định. Mệnh giá - được quyết định tuỳ theo nguy cơ mắc bệnh của
người mua bảo hiểm. Với mệnh giá này họ sẽ được cung cấp gói dịch vụ như đã

200
thoả thuận với công ty BHYT tư nhân. Công ty bảo hiểm tư nhân là loại công ty
hoạt động có lợi nhuận.
(3)- Bảo hiểm Xã hội (BHYT xã hội): mọi người đều đóng BHYT xã hội
dựa trên thu nhập, không kể người đó có sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
hay không. BHYT xã hội cũng có thể được trích ra thuế.

Hình 6: NSNN hỗ trợ mua BHYT cho các đối tượng (Triệu đồng)
(Nguồn Vụ KHTC, Bộ Y tế 2014)
(4)- Thuế: Có thể dưới hai hình thức:
- Trực tiếp: theo thu nhập, thông thường mức đóng thuế trực tiếp này theo
luỹ tiến, tức là thu nhập càng cao thì tỉ lệ thuế phải đóng càng nhiều.
- Gián tiếp: theo mức tiêu thụ. (Thuế VAT: Value Added Tax).
Trên bình diện quốc tế, về mặt lí thuyết có 4 nguồn TCYT chính đã được
đề cập ở phần trên, tuy nhiên ở Việt Nam hiên nay chia ra:
(1)- Tài chính công bao gồm: NSNN; BHYT; Viện trợ
(2)- Tài chính tư: chi từ tiền túi người dân và chi tư khác.
Trong bối cảnh các nguồn viện trợ cho Việt Nam có xu hướng bị cắt giảm,
Ngành Y tế vẫn tăng cường huy động các nguồn viện trợ.

201
Cùng với việc đảm bảo tăng chi NSNN cho y tế, mở rộng BHYT và huy
động các nguồn hỗ trợ của quốc tế, tổng chi công cho y tế, được tạo thành từ 3
nguồn chủ yếu nói trên, đã có sự gia tăng đáng kể trong thời gian qua.
Việc thực hiện chính sách xã hội về y tế được cụ thể hóa bằng việc đảm bảo
NSNN hỗ trợ trực tiếp cho một số nhóm đối tượng yếm thế. Hàng năm, kinh phí từ
ngân sách trung ương cấp hỗ trợ mua thẻ BHYT cho người nghèo, người dân tộc
thiểu số và TE dưới 6 tuổi và hỗ trợ một phần cho người cận nghèo, học sinh sinh
viên và người thuộc hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệm có mức sống trung bình được
xác định ngay trong Dự toán NSNN cấp hàng năm. Tổng kinh phí từ NSNN để hỗ
trợ mua BHYT cho các đối tượng này tăng lên qua các năm (Hình 6).
1.3. Tự chủ về tài chính của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế
1.3.1. Tự chủ về tài chính của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trên thế giới
Quá trình tự chủ, trong đó có tự chủ tài chính (TCTC) được thực hiện ở
nhiều nước trên thế giới cùng với xu hướng đổi mới quản lí khu vực công diễn
ra vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Khái niệm này ngày càng được xác
định rõ hơn, tuy nhiên vẫn chưa có sự thống nhất. Theo World Bank, tự chủ hóa
và doanh nghiệp hóa là những cải cách đem lại cho các cơ quan cung ứng dịch
vụ công có quyền tự chủ nhiều hơn và dựa vào những khuyến khích của thị
trường hoặc “tương tự thị trường” để thúc đẩy việc cải thiện kết quả hoạt động
của doanh nghiệp.
Từ kinh nghiệm cải cách y tế của các nước, World Bank đã tổng kết đánh
giá và nhận định rằng chính phủ các nước trao quyền tự chủ cho các cơ sở cung
cấp dịch vụ KCB (cơ sở cung cấp dịch vụ y tế) là hướng đi đúng và có hiệu quả
khi hệ thống y tế các nước đạt được các yêu cầu sau:
- Các nước đã thực hiện được BHYT toàn dân hoặc ít ra cơ quan BHYT
phải đủ mạnh để kiểm soát được chất lượng và chi phí KCB của bên cung cấp
dịch vụ.
- Cơ quan quản lí đã xây dựng được các quy trình lâm sàng hoặc các hướng
dẫn điều trị. Các hướng dẫn điều trị có khả năng giúp cải tiến chất lượng dịch vụ
và giảm chi phí bằng cách hạn chế các dịch vụ không cần thiết.

202
Trường hợp các nước trao quyền tự chủ khi đã áp dụng phương thức thanh
toán theo trường hợp bệnh (DRG) cho bên cung cấp dịch vụ cũng góp phần
kiểm soát được chi phí khám chữa bệnh. Phương thức chi trả theo DRG là
phương thức chi trả mà mỗi bệnh nhân cùng một chẩn đoán sẽ thanh toán chi phí
điều trị ở mức như nhau. Thanh toán theo trường hợp bệnh (DRG) sẽ yêu cầu
bên cung cấp dịch vụ phải phấn đấu cắt giảm các chi phí không cần thiết để
giảm chi phí điều trị. Bên cạnh mặt tích cực, DRG cũng có một số hạn chế đó là
các DRG tạo ra động cơ cho những người cung cấp dịch vụ cho bệnh nhân xuất
viện sớm; giảm chất lượng dịch vụ và lựa chọn bệnh nhân nào đem lại nhiều lợi
nhuận hơn (các trường hợp bệnh dễ trong mỗi DRG). DRG cũng có thể tạo ra
tình trạng gian lận như “khai tăng” mã nhằm hưởng chi phí cao hơn có lợi cho
bên cung cấp dịch vụ. Có nhiều giải pháp để giải quyết các hạn chế trên của
DRG như: Có thể đưa ra các quy định cho những trường hợp nằm ngoài hệ
thống (những trường hợp tốn kém một cách bất thường) để tránh trường hợp
người cung cấp dịch vụ cố tình giảm chất lượng dịch vụ trong các trường hợp
bệnh điều trị tốn kém; xây dựng các quy trình lâm sàng; bên chi trả tăng cường
giám sát phát hiện việc “khai tăng” mã của người cung cấp và áp dụng nhiều
hình phạt khác nhau; kết hợp phương thức thanh toán theo DRG với các phương
thức chi trả khác, một biện pháp chi trả bổ xung đang được nghiên cứu ở Mỹ là
thưởng cho các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế bằng cách chi trả thêm nếu cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế đạt điểm cao về các chỉ số chất lượng gọi là chi trả theo
hiệu quả hoạt động P4P (pay for performance) để khuyến khích nâng cao chất
lượng dịch vụ.
Mục đích giao quyền tự chủ cho các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế nhằm nâng
cao chất lượng dịch vụ và giảm chi phí giảm chi phí. Giao quyền quyết định số
giường bệnh, nguồn nhân lực…là những tiến triển quan trọng và thiết yếu để
tăng cường sự linh hoạt vốn rất cần thiết cho cơ sở cung cấp dịch vụ y tế. Tuy
nhiên nếu các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế được quyền tự chủ quá lớn như quyết
định lâm sàng, xác định giá thuốc, giá thu dịch vụ... trong khi chưa có đầy đủ
các điều kiện trên thì chi phí vẫn tiếp tục leo thang và chất lượng dịch vụ KCB
vẫn khó kiểm soát. Chưa có hướng dẫn điều trị sẽ không có cơ sở bảo đảm kiểm
soát chất lượng đáng tin cậy cho các dịch vụ khám chữa bệnh. Các cơ sở cung
cấp dịch vụ y tế có thể tự quyết định điều trị cho bệnh nhân theo cách họ muốn.

203
Phương thức thanh toán theo phí dịch vụ không có tác dụng bắt buộc các cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế phải tiết kiệm chi phí. Để chạy theo mục đích tăng thu các
cơ sở cung cấp dịch vụ y tế sẽ chú trọng nhiều tới các dịch vụ và can thiệp đem
lại nhiều lợi nhuận, dễ có nguy cơ lạm dụng dịch vụ đặc biệt các dịch vụ kĩ thuật
cao làm tăng chi phí điều trị từ đó làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ của người
bệnh đặc biệt là người nghèo.
Từ các kinh nghiệm này, bài học rút ra cho Việt Nam là thực hiện tự chủ cơ
sở cung cấp dịch vụ y tế phải quan tâm đi liền với cải cách BHYT theo lộ trình
thích hợp. Trước mắt cần có biện pháp giảm thiểu các tác động không mong
muốn làm tăng chi phí và giảm chất lượng dịch vụ.
1.3.2. Một số chính sách liên quan đến tự chủ tài chính cơ sở cung cấp dịch vụ y
tế của Việt Nam
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP, ngày 14/08/2005 về việc đẩy mạnh xã hội hóa (XHH) các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao.
Trong lĩnh vực y tế Nghị quyết chủ trương phát triển, nâng cao chất lượng
và đa dạng hóa các loại hình BHYT. Đổi mới chế độ viện phí trên cơ sở từng
bước tính đúng, tính đủ các chi phí trực tiếp phục vụ bệnh nhân. Từng bước
chuyển đổi việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên (HĐTX) cho các cơ sở
khám chữa bệnh sang cấp trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng dịch vụ y tế do nhà
nước cung cấp thông qua hình thức BHYT. Chuyển hầu hết các cơ sở cung cấp
dịch vụ y tế công lập sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ, khuyến
khích các cơ sở y tế tăng cường tính tự chủ, giảm dần sự phụ thuộc vào NSNN.
Tiếp theo Nghị quyết số 05, ngày 25 tháng 4 năm 2006 Chính phủ ban
hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP (Nghị định 43) qui định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp công lập thay thế cho Nghị định 10.
Mục tiêu của Nghị định 43 nhằm trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho đơn vị sự nghiệp trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng
lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy
mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội;
tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động. Thực

204
hiện chủ trương XHH trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động sự đóng
góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng bước giảm
dần bao cấp từ NSNN.
Đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tự bảo đảm một phần chi phí hoạt
động, Nghị định 43/CP quy định: cơ sở cung cấp dịch vụ y tế được quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính. Cơ sở cung cấp dịch vụ y tế được huy động vốn, tổ chức các hoạt động
dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
Giám đốc cơ sở cung cấp dịch vụ y tế được quyết định ký hợp đồng thuê
khoán lao động. Nhà nước khuyến khích cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tăng thu,
tiết kiệm chi, thực hiện tinh giản biên chế, tăng thêm thu nhập cho người lao
động trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ với NSNN và phân phối lợi nhuận góp vốn, cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trích
lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp (PTHĐSN) tối thiểu bằng 25% chênh
lệch thu chi (CLTC), sau đó trích quỹ tiền lương tăng thêm (tối đa không quá 2
lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm) và quỹ khen thưởng, phúc lợi
(tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân
thực hiện trong năm). Việc chi trả thu nhập cho người lao động trong đơn vị
được thực hiện theo nguyên tắc: Người có hiệu suất công tác cao, đóng góp
nhiều cho việc tăng thu, tiết kiệm chi được trả nhiều hơn.
Sau sáu năm thực hiện NĐ 43/2006, ngày 15/10/2012 Chính phủ ban hành
NĐ85/2012/NĐ-CP Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2012 thay
thế NĐ95/CP ngày 27/8/1994 của Chính phủ, NĐ 85 tạo ra bước chuyển đổi cơ
bản một cách có lộ trình về cơ chế hoạt động của các cơ sở y tế công lập.
Mục tiêu của Nghị định 43/2006 trong hoạt động cơ sở cung cấp dịch vụ y
tế là nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế mà đòn
bẩy, động lực chính là nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính. Tự chủ trong tổ
chức hoạt động, trong tổ chức biên chế là điều kiện đủ để các cơ sở cung cấp
dịch vụ y tế thực hiện TCTC, nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính.
Việc huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển các cơ sở y tế công lập
được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: Liên doanh, liên kết để đầu tư trang
thiết bị y tế và phát triển các dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu

205
Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Chính phủ về Cơ chế
hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá
dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập.
Tiếp theo, ngày 14/02/2015 Chính phủ ban hành Nghị định số
16/2015/NĐ-CP: “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”.
Chính sách tự chủ tài chính (TCTC) đã tạo điều kiện cho các cơ sở cung cấp
dịch vụ y tế tự chịu trách nhiệm và chủ động trong hoạt động cung cấp DVYT. Các
cơ sở cung cấp dịch vụ y tế được phép huy động nguồn vốn từ xã hội để đầu tư
thêm TTB, tổ chức cung cấp các dịch vụ có chất lượng đáp ứng nhu cầu của người
bệnh. Để tăng nguồn thu, các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế sẽ tăng cung cấp dịch vụ
về số lượng, đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ y tế từ đó thực hiện chỉ
tiêu chuyên môn tăng, chất lượng các dịch vụ được cải thiện.
Chính sách TCTC cho phép cơ sở cung cấp dịch vụ y tế chủ động sử dụng
nguồn kinh phí được cấp để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sử dụng kinh phí
tiết kiệm để nâng cao hiệu quả tài chính. Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế chủ
động bố trí nhân lực phù hợp về cả số lượng và chất lượng để hoàn thành nhiệm
vụ chuyên môn, tiết kiệm chi phí, cải thiện thu nhập cho nhân viên y tế, gắn chất
lượng với hiệu quả.
Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế chủ động xây dựng qui chế chi tiêu nội bộ,
công khai, minh bạch trong quản lí tài chính và phân phối thu nhập. Thực hiện
cơ chế phân phối thu nhập khuyến khích nhân viên y tế nâng cao hiệu quả làm
việc, nâng cao chất lượng dịch vụ, phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi. Cơ chế
TCTC tạo cho các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế từ một đơn vị sự nghiệp thụ động,
chỉ trông chờ NSNN sang một đơn bị hoạt động gần như cơ chế một doanh
nghiệp công ích, chủ động, năng động và sáng tạo hơn.
1.3.3. Kết quả thực hiện tự chủ tài chính tại Việt Nam
Sau khi thực hiện TCTC, hầu hết các chỉ số về KCB đều tăng, năng suất và
chất lượng chuyên môn của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế ngày càng tăng.
Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế đã thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao
chất lượng khám chữa bệnh, chống quá tải, giảm dần tình trạng nằm ghép như:
- Nâng cao chất lượng chẩn đoán điều trị để rút ngắn thời gian điều trị;

206
- Tăng giường bệnh thông qua việc nâng cấp cơ sở, giảm diện tích hành
chính, mở rộng buồng bệnh;
- Tăng cường giáo dục y đức.
- Các lĩnh vực hoạt động của đơn vị được mở rộng, hầu hết các đơn vị đều
phát triển về quy mô, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, nguồn nhân lực để
tăng số lượng các dịch vụ cung ứng cho xã hội.
Thực hiện TCTC nguồn thu sự nghiệp của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế
tăng đáng kể. Bên cạnh các nguồn thu từ NSNN, BHYT và nguồn thu từ viện
phí theo quy định, các đơn vị còn chủ động trong việc xây dựng giá thu của các
dịch vụ phụ trợ nhằm tạo thêm nguồn thu để bổ sung kinh phí HĐTX. Chỉ tính
riêng các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trực thuộc BYT, năm 2011 tổng nguồn thu
sự nghiệp tăng, bằng 202,3% năm 2006. Tuy nhiên, các cơ sở cung cấp dịch vụ
y tế có mức tự chủ cao thì mức độ tăng thu mạnh hơn, các cơ sở cung cấp dịch
vụ y tế huyện thì xu hướng này không rõ rệt. Cơ cấu của các nguồn thu cũng có
sự thay đổi và khác nhau giữa các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế. Tại các cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế trực thuộc BYT, tỉ trọng nguồn thu sự nghiệp trong thu
thường xuyên có xu hướng tăng (từ 70,2% năm 2006 tăng lên 84% năm 2011)
trong khi nguồn NSNN cấp có xu hướng giảm dần (từ 29,8% giảm xuống chỉ
còn 16% năm 2011).
Tất cả các bệnh viện lớn đều thành lập Khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu,
hoặc Khoa khám chữa bệnh chất lượng cao, coi đây là nguồn tăng thu chủ yếu,
được tập trung đầu tư các máy móc hiện đại, phòng bệnh đầy đủ tiện nghi, chủ
yếu để phục vụ cho những người có khả năng chi trả. Một số bệnh viện có khu
dịch vụ theo yêu cầu riêng biệt, trong khi nhiều bệnh viện không có khu vực
riêng. Bảng giá dịch vụ theo yêu cầu của nhiều bệnh viện được thông báo rộng rãi
cho người bệnh. Giá dịch vụ theo yêu cầu có sự khác nhau giữa các bệnh viện
Nhìn chung, các chính sách xã hội hóa và giao quyền tự chủ đã có tác
động tích cực, tạo được nguồn thu đáng kể và nâng cao tính năng động của các
bệnh viện, để khắc phục những khó khăn về tài chính, tăng cường cơ sở vật chất,
kỹ thuật; nâng cao thu nhập của cán bộ y tế; cải thiện công tác quản lý các
nguồn lực tài chính tại bệnh viện; đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh của
nhân dân, đặc biệt là những người có khả năng chi trả...

207
Thực hiện TCTC làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở cung ứng dịch vụ
về chất lượng, giá cả và phong cách phục vụ người bệnh. Các cơ sở cung cấp
dịch vụ y tế phải phấn đấu tăng hiệu quả hoạt động và tìm cách thu hút thêm
bệnh nhân, đặc biệt là các đối tượng có khả năng chi trả cao. Tự chủ hoá cũng
thúc đẩy việc đổi mới tư duy quản lí tài chính, phương thức hoạt động cũng như
văn hóa ứng xử với người bệnh, tạo sự hài lòng cho bệnh nhân và người nhà
bệnh nhân.
Thực hiện TCTC các đơn vị chủ động hơn trong việc sử dụng các nguồn tài
chính, chủ động điều tiết các khoản chi hợp lí và hiệu quả hơn. Các đơn vị đã
xây dựng được quy chế chi tiêu nội bộ, tăng cường tiết kiệm chi bằng cách cắt
giảm những khoản chi tiêu không hợp lí, khoán chi đến tận các khoa phòng (như
chi phí điện thoại, điện nước, hội họp, công tác phí…). Do tiết kiệm chi nên tỉ
trọng chi cho hành chính phí có xu hướng giảm. Cơ cấu chi cho con người và
phần lương tăng thêm có xu hướng tăng lên ở các đơn vị có nguồn thu lớn, đặc
biệt là các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tuyến trung ương hoặc ở các thành phố
lớn. Tuy nhiên chi phí chuyên môn nghiệp vụ có xu hướng tăng mạnh đặc biệt là
chi phí thuốc.
Thực hiện TCTC, việc huy động vốn để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và
trang thiết bị của các đơn vị được tăng cường. Tính đến năm 2010, các cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế trực thuộc Bộ Y tế đã huy động vốn được khoảng 700 tỉ
đồng để đầu tư trang thiết bị.
Bên cạnh những mặt tích cực, quá trình thực hiện TCTC cơ sở cung cấp
dịch vụ y tế cũng đã xuất hiện một số tác động không mong muốn tại một số cơ
sở cung cấp dịch vụ y tế trong một số lĩnh vực.
Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế được giao tự chủ nhưng không tính đủ chi
phí trong cơ cấu giá viện phí nên thiếu nguồn lực, đã xuất hiện hiện tượng tận
thu. Tăng nguy cơ lạm dụng xét nghiệm, siêu âm, X quang và trang thiết bị kĩ
thuật cao đặc biệt là dịch vụ từ các trang thiết bị đầu tư bằng nguồn vốn huy
động, từ đó làm tăng chi phí điều trị dẫn đến làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ
của người bệnh.

208
Việc thực hiện tiết kiệm chi có thể dẫn đến hiện tượng các cơ sở cung cấp
dịch vụ y tế cắt giảm chi quá mức (tiết kiệm chi không hợp lí) làm ảnh hưởng
đến chất lượng dịch vụ.
Thông thường cắt giảm chi xảy ra ở các nhóm không được tính thu viện phí
gồm: Các nhóm chi thanh toán cá nhân (chi cho con người), các nhóm chi cho
dịch vụ công cộng (DVCC) gồm điện, nước, rác thải đặc biệt là rác, nước thải y
tế, chi sửa chữa; chi thuê mướn (dịch vụ vệ sinh, dịch vụ bảo vệ,...), thậm chí cắt
giảm cả mua sắm để giảm chi, tăng thu nhập cho NVYT.
Tính công bằng. Tự chủ bệnh viện bao gồm cả tự lựa chọn dịch vụ cung
ứng và xác định giá, có xu hướng đẩy chi phí khám chữa bệnh của người dân
ngày một tăng cao, số gia đình gặp khó khăn vì chi phí khám chữa bệnh sẽ ngày
càng nhiều, trong khi bao phủ BHYT còn hạn chế và hỗ trợ từ BHYT cũng chỉ
được một phần. Việc huy động nguồn lực tư nhân và phát triển các dịch vụ theo
yêu cầu, gắn với thu hồi vốn và lợi nhuận của tư nhân (trong đó có người góp
vốn là cán bộ của bệnh viện), cũng có thể tạo ra sự cách biệt về thu nhập của cán
bộ y tế giữa các tuyến y tế, các địa phương, thúc đẩy sự chuyển dịch cán bộ y tế
giỏi từ nông thôn về thành thị, từ tuyến dưới lên tuyến trên, từ y tế dự phòng
sang điều trị.
Tình trạng thu nhập thấp từ tiền lương, phụ cấp và tiền thưởng của cán
bộ, nhân viên các bệnh viện trước đây thường được coi là một trong những nhân
tố tác động đến sự suy giảm đạo đức nghề nghiệp. Song, tình trạng thu nhập
tăng thêm ở các bệnh viện tự chủ dựa vào nguồn thu viện phí trực tiếp hiện nay
cũng đặt ra vấn đề về đạo đức nghề nghiệp cần được xem xét. Việc chỉ định xét
nghiệm, dịch vụ kỹ thuật cao không cần thiết, hoặc kê đơn thuốc để lấy hoa
hồng… về bản chất là các hình thức “kinh doanh kiếm lợi trên người bệnh”, cần
được coi là sự xói mòn đạo đức trầm trọng hơn nhiều so với việc nhận phí ngầm.
Thực hiện tự chủ không được định hướng và kiểm soát chặt chẽ có thể
dẫn đến hậu quả không mong muốn là xa rời mục tiêu chung của công tác khám
chữa bệnh. Nếu tập trung nhiều vào mục tiêu gia tăng nguồn thu và các hoạt
động vì  lợi nhuận, thì hệ thống KCB có thể không còn động lực để thực hiện
mục tiêu của hệ thống y tế nói chung và khu vực KCB nói riêng là chăm sóc sức
khỏe người dân tốt nhất với mức chi phí hiệu quả tối ưu nhất có thể. Khi chạy

209
theo lợi nhuận, công tác cung ứng dịch vụ phòng bệnh và chăm sóc sớm (thường
ít/ hoặc không có lợi nhuận) sẽ không được các các cơ sở KCB quan tâm đúng
mức; các bệnh viện lớn, bệnh viện chuyên khoa sẽ tăng cường cung ứng dịch vụ
thông thường đáng ra do các đơn vị tuyến dưới cung ứng, từ đó sao nhãng nhiệm
vụ trọng tâm của cơ sở tuyến trên là phát triển kỹ thuật chuyên sâu, nghiên cứu
khoa học, đào tạo nhân lực có chất lượng cho cả hệ thống...
Khi việc thực hiện tự chủ bị chệch sang hướng thị trường hóa thì các tác
động không mong muốn trong môi trường cạnh tranh sẽ xuất hiện. Hệ thống
chuyển tuyến sẽ bị phá vỡ khi các bệnh viện tuyến trên gia tăng thu hút người sử
dụng dịch vụ, kể cả những dịch vụ thông thường. Các cơ sở  dự phòng và
KCB tuyến dưới có thể bị suy yếu bởi sức cạnh tranh mạnh hơn của các cơ sở
tuyến trên. Điều này này làm giảm tính hiệu quả của cả hệ thống, gây ra tình
trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên và ảnh hưởng trực tiếp tới tính công
bằng và định hướng phát triển toàn diện của cả hệ thống.
1.4. Thực trạng Tài chính Y tế nước ta và một số giải pháp
1.4.1. Nguồn Ngân sách nhà nước
Cũng như nhiều nước có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới, hệ thống
TCYT Việt Nam là một hệ thống hỗn hợp, trong đó nguồn từ NSNN có vai trò
quan trọng để thực hiện các chức năng của nhà nước trong công tác bảo vệ sức
khỏe cộng đồng và đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khỏe.
Trong nhiều năm qua, Nhà nước luôn xác định ưu tiên ngân sách cho lĩnh
vực y tế, đặt mục tiêu tăng tỉ lệ chi NSNN cho y tế cao hơn tỉ lệ tăng chi NSNN,
đổi mới trong cơ chế phân bổ ngân sách y tế, trong đó 20% ngân sách y tế được
sử dụng để hỗ trợ người dân tham gia BHYT.
Theo Tài khoản Y tế quốc gia 2012, tỉ lệ chi NSNN cho y tế chiếm 26,8%
tổng các nguồn tài chính cho y tế, giảm nhẹ so với năm 2010 là 29,4%. Theo số
liệu của Bộ Y tế, năm 2014, tỉ lệ chi cho y tế chiểm 8,2% tổng chi NSNN, tăng
so với năm 2010 là 7,7%. Theo số liệu báo cáo thực hiện dự toán Ngành Y tế

210
2011–2015, chi NSNN cho y tế trong giai đoạn 2011–2015 tăng qua các năm
với tỉ lệ tăng cao hơn so với chi NSNN, đạt chỉ tiêu theo NQ 18 của Quốc hội
(trừ năm 2011 có mức tăng trưởng âm sau khi trừ đi tỉ lệ giảm phát GDP)
(Hình 7).
Hình 7: NSNN chi cho y tế giai đoạn 2011 – 2015
(Nguồn: Vụ KHTC, Bộ Y tế)
Trong 9 năm thi hành Luật Khám bệnh, chữa bệnh (2011 - 2019), tốc độ
tăng chi từ NSNN cho y tế luôn cao hơn tốc độ tăng chi bình quân chung của
NSNN.
Thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lí và lộ trình điều chỉnh giá dịch
vụ công, các dịch vụ y tế đã được chuyển từ thu một phần viện phí sang cơ chế
giá dịch vụ, thực hiện theo quy định của pháp luật về giá. Đây là bước đổi mới
cơ bản nhất, quan trọng về TCYT, khắc phục tình trạng “bao cấp qua giá”, là
điều kiện cơ bản để các cơ sở khám, chữa bệnh (KCB) thực hiện cơ chế tự chủ
về tài chính, tăng sự lựa chọn của người sử dụng dịch vụ.
Mục tiêu của đổi mới cơ chế quản lí đối với đơn vị sự nghiệp trong việc tổ
chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng nguồn lực tài chính để hoàn thành
nhiệm vụ được giao; phát huy khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất
lượng chuyên môn cao; tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho
người lao động; huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các
hoạt động sự nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ NSNN.
Công tác xã hội hóa, thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư cho y tế
tăng nhanh. Các cơ sở KCB công lập được huy động vốn, liên doanh, liên kết
trên nguyên tắc đảm bảo nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, bảo toàn vốn và tài
sản nhà nước, công khai, minh bạch. Cơ sở KCB tư nhân phát triển nhanh, từ
chỗ không có các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tư, năm 1993 tới nay đã có 206
các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tư nhân với 15.475 giường bệnh và trên 35.000
phòng khám tư nhân. Đặc biệt đã xuất hiện một số mô hình các cơ sở cung cấp
dịch vụ y tế, phòng khám tư nhân hoạt động không vì lợi nhuận.
Tuy nhiên mức chi NSNN cho y tế vẫn chưa đạt mức đề ra trong kế hoạch
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2015 là 10%.

211
Mức tăng cao của NSNN cho y tế trong vài năm gần đây một phần là do tác
động lớn của nguồn trái phiếu Chính phủ cho các đề án:
- Phần kinh phí cấp từ trái phiếu chính phủ cho các đề án nâng cấp các cơ
sở y tế bao gồm Đề án nâng cấp các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế và đầu tư phát
triển trung tâm y tế huyện và trạm y tế xã theo Quyết định số 950/QĐ-TTg
(2007).

Hình 8: Cơ cấu chi NSNN cho y tế giai đoạn 2011 – 2015


(Nguồn: Vụ KHTC, Bộ Y tế)
- Chi thường xuyên chiếm tỉ lệ khoảng 55% trong đó phần lớn được phân
bổ về cho các địa phương.
- Nâng cấp các cơ sở y tế bao gồm Đề án nâng cấp các cơ sở cung cấp dịch
vụ y tế huyện theo Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg.
- Đề án nâng cấp các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tuyến tỉnh và trung ương
theo Quyết định số 930/QĐ-TTg. Do vậy chưa thể coi đây là mức ổn định cho
những năm tới.
- Phần chi từ NSNN mua toàn bộ hoặc hỗ trợ một phần thẻ BHYT cho các
đối tượng quy định theo Luật BHYT chiếm tỉ lệ trên dưới 20% tổng NSNN chi
cho y tế.

212
- Trong tổng chi từ NSNN cho y tế, tỉ lệ chi cho chi đầu tư phát triển bao
gồm cả đầu tư từ trái phiếu chính phủ đạt tỉ lệ dao động trên dưới 20% (Hình 2).
- Từ 2013, nguồn NSNN cho y tế có thêm một nguồn tài chính mới, đó là
Quỹ phòng, chống tác hại thuốc lá. Theo Luật Phòng chống tác hại thuốc lá,
Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá được hình thành từ nguồn đóng góp của các
doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu thuốc lá. Mỗi năm Quỹ có khoảng 400 – 500
tỉ đồng và được sử dụng toàn bộ cho các hoạt động phòng chống tác hại thuốc
lá, các hoạt động truyền thông, xây dựng chính sách, tìm hiểu khảo sát kinh
nghiệm nước ngoài…
1.4.2. Nguồn Bảo hiểm Y tế
Thực hiện chủ trương phát triển BHYT xã hội như một cơ chế tài chính chủ
yếu cho y tế Việt Nam, chính sách BHYT được triển khai từ năm 1992, Luật
Bảo hiểm Y tế đã được ban hành năm 2008 và sửa đổi vào năm 2014. Chính phủ
đã phê duyệt lộ trình bao phủ BHYT toàn dân; năm 2014, đã có 71% dân số
tham gia BHYT.
Tuy nhiên, đóng góp tài chính từ BHYT vào tổng chi y tế toàn xã hội chưa
tương xứng với tỉ lệ người tham gia BHYT. Năm 2012, nguồn từ BHYT đóng
góp xấp xỉ 16% tổng chi y tế toàn xã hội. Mức đóng góp này không tương xứng
với tỉ lệ bao phủ BHYT là 66,4% dân số. Mức đóng BHYT cũng tăng lên theo lộ
trình tăng lương.
Nhiều doanh nghiệp chưa tuân thủ đóng BHYT, số tiền nợ đọng BHXH,
BHYT không ngừng gia tăng. Nguyên nhân của tình trạng này liên quan đến
nhiều vấn đề:
- Do quy định mức lãi suất chậm đóng BHXH thấp hơn mức lãi suất vay
ngân hàng nên đại bộ phận doanh nghiệp cố tình nợ BHXH, chấp nhận chịu phạt
để chiếm dụng quỹ BHXH;
- Chế tài xử lí vi phạm trong lĩnh vực BHXH còn nhiều bất cập như: mức
xử phạt thấp, thủ tục xử phạt phức tạp, không quy định xử lí hình sự khi chiếm
dụng tiền đóng BHXH của người lao động;
- Cơ quan BHXH lại không có chức năng thanh tra, xử phạt vi phạm
BHXH nên khi kiểm tra, phát hiện các đơn vị sử dụng lao động vi phạm pháp

213
luật về BHXH chỉ nhắc nhở và đề nghị doanh nghiệp chấp hành, sau đó dừng lại
ở việc phản ánh với Ủy ban Nhân dân tỉnh hoặc huyện xử lí.
Bảng 1: Số người tham gia BHYT theo nhóm đố tượng (9/2018)
(Nguồn: Công văn số 3681/BHXH-CSYT bổ sung nội dung báo cáo
tình hình thực hiện chế độ chính sách BHYT ngày 20/9/2018)
Đơn vị: Người

Nhóm đối tượng Đối tượng đích Thực hiện Tỉ lệ (%)


(ước tính)
Nhóm do người lao 13.257.552 12.594.674 95,0
động và sử dụng lao
động đóng
Nhóm do cơ quan 3.047.068 3.047.068 100,0
BHXH đóng
Nhóm do NSNN đóng 34.215.442 3.4215.442 100,0
Nhóm do NSNN hỗ trợ 17.718.356 16.566.663 93,5
Nhóm tham gia BHYT 25.194.844 14.765.663 58,6
theo hộ gia đình
Cộng 93.433.261 81.188.991 86,9
Độ bao phủ (tỉ lệ tham gia) BHYT tốt ở khu vực có thu nhập cao và khu
vực thu nhập thấp, nhưng mức độ bao phủ kém ở khu vực người lao động phi
chính thức có thu nhập trung bình (Missing middle problem) và nhóm lao động
trong các doanh nghiệp.
Tỉ lệ tham gia BHYT ở nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình đang ở mức
thấp nhất (Bảng 1).
Các nhóm đối tượng có mức độ bao phủ gần như toàn bộ 100% đó là nhóm hành
chính sự nghiệp, nhóm hưu trí trợ cấp BHXH, nhóm nghèo, dân tộc thiểu số.
Nhóm học sinh, sinh viên cũng có tỉ lệ tham gia rất cao lên tới 94% năm
2014. Cả hai nhóm này đều được NSNN hỗ trợ một phần phí BHYT.

214
Mức phí BHYT hiện là 4,5% đối với người làm công ăn lương, tuy nhiên
việc áp dụng mức đóng theo luật định là 6% khó thực hiện trong ngắn hạn, do
quỹ BHYT đang trong giai đoạn cân đối được thu chi (kết dư liên tục trong ba
năm với số lũy kế năm 2012 ước tính là 7722 tỉ đồng) và do tình hình kinh tế vĩ
mô và hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay đang có những khó khăn.
Vấn đề lựa chọn ngược đang thể hiện rõ ở khu vực tham gia BHYT tự
nguyện. Nhóm tự nguyện chỉ đóng góp 9% kinh phí quỹ BHYT trong khi chiếm
11,4% tổng số người có BHYT, có tần suất và chi phí khám chữa bệnh cao gấp
nhiều lần các nhóm khác.
BHYT thương mại phát triển nhanh nhưng thiếu sự quản lí của Nhà nước.
Hoạt động của BHYT thương mại được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh bảo
hiểm. Các chương trình BHYT thương mại hay Bảo hiểm phi nhân thọ đã bao
phủ hàng chục triệu người, chủ yếu nhằm vào các đối tượng khoẻ mạnh hoặc có
thu nhập cao. Tuy nhiên, hiện không có số liệu theo dõi, đánh giá về hoạt động
của BHYT thương mại và sự đóng góp của BHYT thương mại vào chi tiêu y tế
ở Việt Nam.
1.4.3. Nguồn chi tiền túi hộ gia đình
Tỉ lệ chi trả tiền túi ở mức 48,8% là một thách thức lớn cho Việt Nam thực
hiện mục tiêu bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Các chỉ số về bảo vệ tài
chính như tỉ lệ hộ gia đình mức chi phí y tế thảm họa, tỉ lệ nghèo hóa do chi phí
y tế chưa được cải thiện rõ rệt. Chưa có bằng chứng thuyết phục về tác động bảo
vệ tài chính của BHYT. Bệnh nhân BHYT vẫn phải tự chi trả khi đi KCB do
nhiều nguyên nhân trong đó có cả tình trạng bệnh nhân có BHYT nhưng không
dùng thẻ, bệnh nhân vượt tuyến, trái tuyến. Một trong những mặt trái và nguy cơ
của việc thực hiện chính sách tự chủ các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công chính
là làm gia tăng chi phí tiền túi của bệnh nhân, kể cả bệnh nhân BHYT.

215
Hình 9: Tỉ lệ chi tiền túi trong tổng chi y tế giai đoạn 2008 – 2012
(Nguồn: Tài khoản Y tế quốc gia 1998 - 2012)
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc tăng các nguồn tài chính công thông
qua tăng cấp NSNN cho y tế, mở rộng BHYT song tỉ lệ chi tiền túi từ hộ gia
đình của Việt Nam vẫn cao với tỉ trọng 48,8% năm 2012 và có xu hướng tăng
nhẹ trong vài năm gần đây. Phân tích số liệu lịch sử cho thấy trong giai đoạn
2008-2012 chứng kiến sự biến động khá rõ rệt của chỉ số này (Hình 3).
Tỉ lệ chi tiền túi giảm từ 52,4% năm 2008 xuống còn 44,8% năm 2010, tuy
nhiên sau đó lại có xu hướng tăng lên với mức gần 50% vào năm 2012.
Phân tích số liệu Tài khoản Y tế quốc gia năm 2011 cho thấy toàn bộ chi tiền
túi của các hộ gia đình là cho khám chữa bệnh trong đó 55,8% là chi trả cho dịch vụ
khám chữa bệnh nội trú, 43,7% chi cho tự mua thuốc, chỉ có 0,5% chi cho khám
bệnh ngoại trú. Trong tổng chi tiền túi của hộ gia đình cho khám chữa bệnh thì
62,5% chi trả cho cơ sở KCB công lập, 37,5% chi cho các cơ sở KCB tư nhân.
Theo WHO khó có thể đạt được mục tiêu bao phủ toàn dân về dịch vụ y tế
nếu chi y tế từ tiền túi chiếm hơn 30% tổng chi y tế - Việt Nam còn một khoảng
cách rất lớn để đạt tới mục tiêu này.
1.4.4. Nguồn viện trợ, vốn vay
Nguồn hỗ trợ tài chính quốc tế cho y tế Việt Nam được dự báo sẽ giảm dần
và ít ưu đãi hơn do mức độ phát triển kinh tế Việt Nam tăng lên.
Từ năm 2010 khi Việt Nam đạt GDP bình quân đầu người hơn 1000
USD/năm, nguồn vốn vay ODA với các điều kiện ưu đãi dành cho Việt Nam sẽ
giảm, thay vào đó vốn vay ODA với các điều kiện kém ưu đãi hơn sẽ tăng lên.
Đối với Ngành Y tế, nguồn hỗ trợ quốc tế, dù chiếm một tỉ lệ không lớn,
nhưng vẫn nằm trong chiến lược chung của các nhà tài trợ cũng như định hướng
chính sách của Chính phủ trong phân bổ, quản lí và sử dụng nguồn vốn này. Dự
báo chung là hỗ trợ quốc tế cho y tế sẽ thay đổi về cơ cấu, hình thức và nội
dung. Các nhà tài trợ có thể sẽ tập trung hơn vào các chương trình mục tiêu quốc
gia đi đôi với việc đòi hỏi các phương thức tiếp cận mới, hỗ trợ chương trình,
tiếp cận ngành.

216
Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp,
các nguồn viện trợ cho Việt Nam có xu hướng bị cắt giảm. Tỉ lệ nguồn chi cho y
tế từ viện trợ và vốn vay giảm khá rõ trong những năm gần đây. Năm 2012 tỉ lệ
này ước tính là 1,6% giảm so với các năm trước (2,9% năm 2010 và 2,3% năm
2011).
Kinh phí cho y tế từ bên ngoài do Bộ Y tế quản lí gồm 2 nguồn:
(1)- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): các lĩnh vực chủ yếu được hỗ trợ
từ các dự án ODA bao gồm:
- Nâng cấp cơ sở vật chất, cung cấp trang thiết bị y tế;
- Hỗ trợ y tế dự phòng;
- Hỗ trợ y tế cơ sở;
- Hỗ trợ triển khai các Chương trình mục tiêu y tế quốc gia;
- Hỗ trợ phát triển y tế, phát triển chính sách nâng cao năng lực quản lí.
(2)- Viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ (NGO): Đối với nguồn viện trợ
phi chính phủ, trong vòng 10 năm từ 2003 - 2013, tổng số dự án do Bộ Y tế
quản lí là 384 dự án với tổng giá trị đạt trên 400 triệu đô la Mỹ.
Bên cạnh đó, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài còn cung cấp một số
lượng lớn các dự án thuộc lĩnh vực y tế thông qua UBND các tỉnh/thành trên cả
nước.
Trong tổng số 383 dự án tổ chức phi chính phủ nước ngoài (PCPNN) do Bộ
Y tế quản lí, thì các Tổ chức PCPNN của Hoa Kỳ đứng đầu về số lượng dự án
và kinh phí viện trợ cho Ngành Y tế, với 175 dự án chiếm 46% tổng số dự án và
tổng số vốn 213,7 triệu đô la Mỹ, chiếm 49,7% tổng kinh phí viện trợ phi chính
phủ trong giai đoạn này, tiếp theo là các Tổ chức tổ chức phi chính phủ nước
ngoài của các nước như Pháp, Nhật Bản, Úc, Hà Lan, Anh, Thụy Sỹ, Bỉ, Thụy
Điển, GAVI...
Các dự án viện trợ tổ chức phi chính phủ nước ngoài bao phủ nhiều lĩnh
vực y tế, góp phần cải thiện cơ sở vật chất, kĩ thuật, nâng cao chất lượng dịch vụ
y tế ở các tuyến và định hướng ưu tiên phân bổ cho Y tế Dự phòng, y tế cơ sở,
miền núi, vùng sâu, vùng xa và hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội, thực hiện

217
mục tiêu công bằng trong CSSK đóng góp vào thành tựu chung của Ngành Y tế
trong CSSK nhân dân.
Liên quan đến nguồn viện trợ, nổi lên một số vấn đề liên quan chủ yếu đến
hiệu quả và giải ngân. Để sử dụng hiệu quả nguồn viện trợ đang có xu hướng
giảm đi, Ngành Y tế đã có các báo cáo tổng kết, đánh giá và phân tích các
nguyên nhân hạn chế hiệu quả các nguồn viện trợ liên quan đến:
- Công tác điều phối nguồn viện trợ;
- Các thủ tục hành chính;
- Năng lực thực hiện;
- Công tác theo dõi, đánh giá.
Tuy nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn, nhưng khả
năng vay nợ không còn nhiều.
Tổng nợ quy đổi của Việt Nam hiện nay là 37% GDP, nằm trong khoảng
an toàn (40% GDP là mức an toàn theo khuyến cáo của IMF), nhưng khả năng
vay nợ của Việt Nam không còn nhiều.
Đối với Ngành Y tế, việc đột ngột thiếu đi nguồn hỗ trợ quốc tế sẽ tăng
gánh nặng tài chính, đặc biệt là đối với ngân sách các địa phương ở các vùng
khó khăn và một số chương trình lớn (Chương trình phòng chống HIV/AIDS).
Tương tự, kinh phí đầu tư cơ sở vật chất cho hệ y tế dự phòng phụ thuộc nhiều
vào nguồn vốn viện trợ. Hơn nữa, các hỗ trợ này có vai trò quan trọng trong
chuyển giao kĩ thuật tiên tiến và là những “bà đỡ” cho phát triển các chiến lược
phù hợp của ngành.
1.4.5. Nguồn khác
Ngoài các nguồn tài chính chủ yếu như trên, kinh phí đầu tư cho CSSK còn
được huy động từ khu vực tư nhân dưới hình thức “Xã hội hóa”.
Thực hiện Nghị quyết 46 về việc “khuyến khích các thành phần kinh tế đầu
tư phát triển các dịch vụ chăm sóc và nâng cao sức khoẻ”, các nguồn lực ngoài
NSNN được huy động để đầu tư phát triển các cơ sở y tế công lập hiện đang
được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu:

218
- Liên doanh, liên kết để đầu tư nâng cấp trang thiết bị y tế tại các các cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế công.
- Phát triển các dịch vụ theo yêu cầu tại các các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế
công.
Báo cáo kiểm tra các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công năm 2014 ghi nhận
hầu hết các các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công lớn đều thành lập Khoa khám
chữa bệnh theo yêu cầu, được đầu tư cơ sở tiện nghi, trang thiết bị hiện đại từ
nguồn xã hội hóa. Hoạt động liên doanh, liên kết tại các cơ sở cung cấp dịch vụ
y tế công công đã góp phần đáp ứng nhu cầu cấp thiết về đổi mới trang bị kĩ
thuật y tế, đặc biệt những trang thiết bị kĩ thuật cao, phục vụ nhu cầu KCB của
nhân dân trong hoàn cảnh kinh phí Nhà nước chưa cung cấp đủ để mua sắm các
trang thiết bị này.
Tuy nhiên, các các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công có xu hướng chỉ quan
tâm đến lĩnh vực có thu, tập trung kinh phí để phát triển khu dịch vụ theo yêu
cầu, đầu tư TTB chưa tương xứng với năng lực, trình độ chuyên môn, nhu cầu
KCB; cung ứng dịch vụ quá mức cần thiết đối với thiết bị xã hội hóa, chưa quan
tâm đầy đủ đến công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện quy chế dân chủ. Sự tham
gia góp vốn và điều hành của tư nhân với động cơ vì lợi nhuận trong các dự án
liên doanh liên kết đầu tư TTBYT tại các cơ sở y tế công lập, có nguy cơ làm
tăng các chỉ định không cần thiết, dẫn đến tình trạng tỉ lệ chi phí y tế do người
dân tự chi trả sẽ ngày càng tăng cao nếu không có cơ chế kiểm soát việc chỉ định
và sử dụng trang thiết bị kĩ thuật cao.
Đầu tư cho các cơ sở y tế công lập từ nguồn xã hội hóa đã góp phần đổi
mới trang thiết bị kĩ thuật đáp ứng nhu cầu CSSK nhưng cũng có những tác
động không mong muốn.
1.5. Vai trò việc của Điều dưỡng trong quản lí tài chính tại cơ sở cung cấp
dịch vụ y tế
Điều dưỡng là bộ phận không thể thiếu trong hệ thống chăm sóc sức khỏe
nói riêng và trong toàn xã hội nói chung Điều dưỡng làm tốt nhiệm vụ của mình
là góp phầm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả, chất lượng cho xã hội nói chung,
cho cơ sở cung cấp dịch vụ y tế nói riêng.

219
Chất lượng chăm sóc người bệnh đã có nhiều chuyển biến rõ rệt thông qua
việc đổi mới các mô hình phân công chăm sóc, tổ chức chăm sóc người bệnh
toàn diện, chuẩn hóa các kĩ thuật điều dưỡng.
Điều dưỡng là những người chăm sóc và ở cạnh bệnh nhân nhiều nhất và
thực hiện nhiều kĩ thuật nhất, nên những hành vi, thái độ của người điều dưỡng
ảnh hưởng rất nhiều đến tình cảm và sự hài lòng của người bệnh.
Số liệu nhân lực cán bộ y tế từ 1256 bệnh viện năm 2014 cho thấy, toàn
quốc có 61.251 y bác sỹ làm công tác điều trị, 117.748 điều dưỡng viên, hộ sinh
đang công tác tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Tỉ số điều dưỡng, hộ
sinh/bác sỹ là 1,9.
Có thể nói người điều dưỡng viên là một mắt xích quan trọng của hệ thống
quy trình chăm sóc bệnh nhân trong mỗi cơ sở cung cấp dịch vụ KCB. Trong
mỗi người điều dưỡng viên đều hàm chứa hầu hết các tính năng của cả hệ thống
y tế. Họ là nhà quản lí chuyên môn, tham gia quản lí tài chính, họ là người quyết
định đến sử dụng vật tư tiêu hao cho người bệnh, cho cung cấp dịch vụ
Ngày nay, điều dưỡng đã được công nhận là một nghề nghiệp độc lập, cùng
cộng tác với các bác sỹ, dược sỹ, kĩ thuật viên và các thành phần trong hệ thống
y tế để cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cá nhân, gia đình, cộng đồng và
xã hội.
Cùng với sự phát triển của nền y học thế giới, ngày nay điều dưỡng cũng
được phát triển thành các lĩnh vực chuyên môn theo từng lĩnh vực trong hệ
thống y tế. Sự phát triển này nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị và chăm sóc cho
người bệnh theo từng lĩnh vực chuyên sâu.
Nhận định về vai trò của công tác điều dưỡng, WHO đã khẳng định: “Điều
dưỡng là một mắt xích quan trọng của công tác chăm sóc sức khỏe. Dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ do người điều dưỡng - hộ sinh cung cấp tác động lớn tới sự
hài lòng của người bệnh”.
WHO đã đưa ra khuyến cáo: “Ở bất cứ quốc gia nào, muốn nâng cao chất
lượng chăm sóc sức khỏe thì phải chú ý phát triển công tác điều dưỡng”.
Để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân, bên cạnh việc nâng cao
chất lượng chẩn đoán, điều trị của bác sỹ thì việc nâng cao chất lượng chăm sóc

220
đội ngũ điều dưỡng, được coi là một chiến lược quan trọng để tăng cường sự
tiếp cận của người nghèo với các dịch vụ y tế, cũng như đảm bảo công bằng xã
hội trong y tế và sự hài lòng của người dân.
Điều dưỡng là sự phối hợp giữa điều trị, chăm sóc, nuôi dưỡng, phục hồi
chức năng và giáo dục sức khoẻ. Người điều dưỡng sử dụng kiến thức, kĩ năng
để giúp đỡ người bệnh và cộng đồng trong việc duy trì, nâng cao sức khoẻ,
phòng ngừa bệnh tật, giảm đau đớn về thể chất, tinh thần và biết cách tự chăm
sóc bản thân một cách cơ bản nhất.
Điều dưỡng có nhiệm vụ cá nhân rất quan trọng trong công tác thu viện phí
và thanh toán BHYT của bệnh viện:
- Trực tiếp quản lý, theo dõi, thống kê số lượng dịch vụ KCB, thuốc, vật
tư mà từng bệnh nhân đã sử dụng tại phòng khám, khoa chẩn đoán, xét nghiệm
(đối với bệnh nhân ngoại trú) và tại các khoa phòng chuyên môn trong thời gian
điều trị nội trú, theo mẫu biểu do Bộ y tế quy định.
- Theo dõi sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân để thẩm tra tính chính xác
của giấy chứng nhân là người nghèo để xin miễn giảm viện phí của một số bệnh
nhân trong khoa.
- Nhắc bệnh nhân đóng viện phí định kỳ theo quy định của bệnh viện.
- Quản lý bệnh nhân nội trú để hạn chế tình trạng bệnh nhân trốn viện khi
chưa đóng viện phí.
- Hướng dẫn, phổ biến cho bệnh nhân rõ những vấn đề liên quan đến:
+ Quyền lợi của bệnh nhân khi vào KCB tại bệnh viện; quyền lợi BHYT
của bệnh nhân có BHYT;
+ Trách nhiệm nộp viện phí theo quy định của bệnh nhân, kể cả bệnh nhân
có BHYT; các trường hợp được miễn, giảm viện phí;
+ Phương pháp tính số viện phí viện phí nộp trong từng trường hợp NB;
2. Bảo hiểm y tế
2.1. Khái niệm Bảo hiểm Y tế

221
Bảo hiểm Y tế (BHYT) là cơ chế san sẻ rủi ro (Risk - pooling) về tài chính
khi khám chữa bệnh cho người bệnh (Phua, 1994).
BHYT là hình thức bảo vệ cho người bệnh về tài chính trong trường hợp
rủi ro bị bệnh với khoản chi phí KCB lớn (Siripen Supakankunti, 2000) vì người
tham gia BHYT đóng góp một mức phí từ trước khi ốm đau vào quỹ BHYT và
sẽ được hưởng các quyền lợi về chăm sóc y tế khi đến các cơ sở khám, chữa
bệnh. Cách thức tham gia BHYT còn được gọi là hình thức trả trước chi phí cho
khám, chữa bệnh. Trong quá trình phát triển, BHYT đã trở thành một trong
nhưng phương thức đảm bảo tài chính có nhiều ưu điểm trong lĩnh vực y tế.
BHYT xã hội là chương trình BHYT trong đó mức phí bảo hiểm thường
được tính theo tỉ lệ thu nhập của người lao động, trong khi quyền lợi KCB được
hưởng không theo mức đóng góp mà theo nhu cầu khám, chữa bệnh. Quỹ
BHYT xã hội được hình thành từ nguồn đóng góp của người lao động, chủ sử
dụng lao động và Chính phủ. Chương trình BHYT xã hội thường mang tính bắt
buộc. Quyền lợi của người tham gia BHYT xã hội thường được đảm bảo cho
người tham gia tiếp cận được với các dịch vụ y tế cơ bản theo nhu cầu. Nguồn
tài chính từ quỹ BHYT xã hội được coi là nguồn tài chính công, có vai trò đặc
biệt quan trọng để bảo đảm công bằng trong đóng góp tài chính y tế thông qua
cơ chế chia sẻ rủi ro.
Bảo hiểm Y tế xã hội ra đời nhằm những mục tiêu sau:
(1)- Tăng tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe thông qua cơ chế chia sẻ
rủi ro nhằm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế; Giảm gánh nặng tài chính đối
với người bị bệnh; Chia sẻ gánh nặng chi phí giữa người giàu và người nghèo,
người khoẻ và người ốm.
(2)- Huy động nguồn tài chính cho y tế
(3)- Tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực của ngành y tế (Với chức năng mua
dịch vụ Y tế, BHYT có thể dẫn đến sự kiểm soát tốt hơn và chất lượng cao hơn
do tách riêng hệ thống tài chính và cung cấp dịch vụ)
Sự ra đời của BHYT tạo ra một nguồn tài chính khá ổn định, bền vững cho
các cơ sở KCB. BHYT ra đời nhằm tăng tính công bằng thông qua sự chia sẻ rủi
ro từ người khoẻ cho người ốm. Tuy nhiên, nếu không có cơ chế chi trả phù hợp

222
thì BHYT có khả năng làm giảm hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ y tế do
vấn đề lựa chọn ngược và lạm dụng quỹ BHYT.
Cần lưu ý BHYT xã hội là cơ chế tài chính để cung cấp hàng hóa và dịch
vụ CSSK và việc quản lí BHYT liên quan đến quản lí tài chính. Nguyên tắc các
nguồn tài chính trong BHYT chỉ dùng để thanh toán các hàng hoá và dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ có trong gói dịch vụ “tiêu chuẩn”. Điều này cho phép hình
thành các gói quyền lợi bổ sung (ví dụ gói bệnh viện) với điều kiện đóng thêm
phí trong tương lai và tạo điều kiện quản lý BHYT hiệu quả hơn. Cần hạn chế sử
dụng nguồn tài chính trong BHYT để tăng cường năng lực cho ngành y tế, như
đầu tư vào xây dựng, đổi mới, cấp cứu và các trang thiết bị. Đây là một nhiệm
vụ của Bộ Y tế với vai trò là người chủ sở hữu, hay trách nhiệm của các bệnh
viện tự chủ tài chính hơn là trông chờ vào nguồn thu từ quỹ BHYT.
Khác với một số loại hình bảo hiểm như bảo hiểm về hàng hóa, tài sản
thông thường, BHYT mang tính chính trị và nhân văn. Tính chất nhân văn biểu
hiện ơ chỗ, gánh nặng tài chính cho chăm sóc sức khỏe thường ảnh hưởng đến
các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội nhiều hơn so với các nhóm khác. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra : Tỉ lệ chi phí cho y tế trong tổng chi hộ gia đình của các hộ
gia đình nghèo cao hơn các hộ giàu. Gánh nặng chi phí cho việc sử dụng dịch vụ
chăm sóc sức khỏe cộng với mất thu nhập do bệnh tật có thể làm cho những
người có mức sống trung bình trở thành nghèo. Tính chính trị của BHYT thể
hiện ở chỗ nhiều người cho rằng chăm sóc sức khỏe là quyền lợi hay phúc lợi xã
hội.
2.2. Nguyên lí căn bản và các loại hình Bảo hiểm Y tế của Việt Nam
2.2.1. Nguyên lí căn bản Bảo hiểm Y tế
BHYT được thực hiện theo những nguyên lí cơ bản nhằm bảo đảm sự công
bằng và hiệu quả, giúp phân biệt BHYT xã hội với các loại hình BHYT kinh
doanh (BHYT thương mại).

223
Hình 10: Mối quan hệ 3 bên trong KCB BHYT
(1)- Tính phi lợi nhuận:
BHYT xã hội được tổ chức thực hiện không vì mục tiêu lợi nhuận là một
trong những nguyên tắc cơ bản để phân biệt với các loại hình BHYT thương mại
khác. Theo đó mọi nguồn thu của quỹ BHYT, kể cả số tiền lãi thu được từ hoạt
động đầu tư tăng trưởng quỹ (nếu có) cũng được dùng để chi trả chi phí khám
chữa bệnh cho cộng đồng.
(2)- Đảm bảo chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT, đảm bảo sự
hỗ trợ chéo giữa các nhóm tham gia BHYT:
Nhóm có nguy cơ bệnh tật thấp (nhóm hành chính, doanh ngiệp…) hỗ trợ
nhóm có nguy cơ mắc bệnh cao hoặc không còn ở độ tuổi lao động (nhóm hộ
nghèo, cận nghèo, hưu trí…); nhóm đang ở độ tuổi lao động hỗ trợ nhóm chưa ở
độ tuổi lao động (nhóm trẻ em, nhóm học sinh, sinh viên…). Như vậy phân phối
trong BHYT là không đều, không bằng nhau, nghĩa là không phải ai tham gia
cũng được phân phối và phân phối với số tiền như nhau, nguyên tắc này được
quán triệt trong quá trình phân phối bồi thường.
(3)- Đóng góp theo thu nhập, mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật:

224
Theo nguyên tắc này, mức đóng BHYT của mỗi cá nhân được xác định
theo tỉ lệ phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền trợ cấp, tiền lương hưu hoặc
mức lương cơ sở của khu vực hành chính. Mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh
tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi của người tham gia BHYT.
(4)- Chi trả trước:
Người tham gia BHYT có trách nhiệm đóng góp phí BHYT trước vào quỹ
BHYT khi chưa ốm đau, để được hưởng quyền lợi khi đau ốm.
(5)- Mối quan hệ ba bên trong Bảo hiểm Y tế:
Mối quan hệ giữa các bên liên quan trong hoạt động Bảo hiểm Y tế bao
gồm:
(1)- Người sử dụng dịch vụ CSSK (BN BHYT);
(2)- Người mua dịch vụ CSSK (quỹ BHXH);
(3)- Người cung cấp dịch vụ CSSK (cơ sở KCB).
Mô hình sau thể hiện mối quan hệ giữa ba bên trong hoạt động khám chữa
bệnh BHYT (Hình 10).
Người tham gia BHYT khi sử dụng dịch vụ y tế không trực tiếp thanh toán
chi phí cho người cung cấp dịch vụ hoặc chỉ thanh toán phần cùng chi trả theo
quy định, cơ quan BHXH (quỹ BHYT) thanh toán cho người cung cấp dịch vụ
theo hợp đồng được hai bên thỏa thuận. Ba chủ thể này có chức năng khác nhau
nhưng có mối quan hệ chặt chẽ trong chu trình BHYT nhằm đảm bảo hài hòa lợi
ích giữa các bên. Người tham gia có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm và được
hưởng các quyền lợi KCB BHYT theo quy định. Cơ quan BHXH thực hiện thu
phí, xây dựng, xác định phạm vi quyền lợi của người tham gia và có trách nhiệm
chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí KCB của người bệnh BHYT cho cơ sở y
tế. Đơn vị cung cấp dịch vụ y tế bao gồm bệnh viện các tuyến chuyên môn kĩ
thuật, phòng khám đa khoa và chuyên khoa, thực hiện cung cấp dịch vụ y tế theo
hợp đồng với cơ quan BHXH cho người bệnh có thẻ BHYT.
2.2.2. Các loại hình Bảo hiểm Y tế
Hiện nay ở Việt Nam có 2 loại hình BHYT:

225
- BHYT xã hội, là loại hình bảo hiểm bắt buộc toàn dân, mang tính cộng
đồng chia sẻ, nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều được chăm sóc sức khỏe,
không vì mục đích lợi nhuận và được Nhà nước tổ chức thực hiện theo Luật Bảo
hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14/11/2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Bảo hiểm y tế số 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014.
- BHYT thương mại/tư nhân: mang tính kinh doanh, hoạt động có lợi
nhuận theo Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm số
61/2010/QH12 ngày 24/11/2010.
BHYT thương mại/tư nhân: Là chương trình kinh doanh BHYT vì lợi
nhuận; mức phí BHYT được xác định theo xác suất rủi ro mắc bệnh của người
hoặc nhóm người tham gia BHYT (dựa vào tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tiền sử
bệnh...). Khác với BHYT xã hội, quyền lợi của người tham gia BHYT thương
mại tùy thuộc vào mức phí BHYT đã đóng. Nhà nước thường không tổ chức
kinh doanh loại hình BHYT thương mại mà để cho tư nhân kinh doanh, nên còn
gọi là BHYT tư nhân. BHYT thương mại là hình thức BHYT tự nguyện, nên ở
một số nước, BHYT thương mại còn được gọi là BHYT tự nguyện.
Những người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện có thể tự chọn công ty bảo
hiểm y tế tư nhân. Với trường hợp này thì mệnh giá, quyền lợi của người tham
gia bảo hiểm sẽ là sự thỏa thuận giữa công ty bảo hiểm và cá nhân người tham
gia bảo hiểm. Những công ty bảo hiểm tư nhân do hoạt động vì lợi nhuận nên
quyết định mệnh giá dựa trên tình trạng sức khỏe của từng thành viên mua bảo
hiểm chứ không phải tình trạng sức khỏe chung của cộng đồng. Thường những
người có mức sống cao mới áp dụng hình thức bảo hiểm này vì họ sẽ được nhận
mức bảo hiểm cao khi họ đóng bảo hiểm nhiều
Sự giống và khác nhau của 2 loại hình bảo hiểm:
(1)- Giống nhau:
- Một nguyên tắc chung mà ai tham gia 2 loại bảo hiểm này đều phải thực
hiện đó là: phải đóng phí bảo hiểm thì mới được hưởng quyền lợi, không đóng
phí thì không được hưởng quyền lợi.

226
- Hai loại hình bảo hiểm này đều hướng tới bảo vệ sức khỏe cho người
tham gia bảo hiểm. Họ sẽ nhận được các khoản tiền trợ cấp khi họ ốm đau, bệnh
tật, gặp tai nạn…, cụ thể là người tham bảo hiểm sẽ được cơ quan bảo hiểm chi
trả một phần hoặc toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cũng như chi phí mua thuốc
men điều trị.
- Cách hoạt động của hai loại hình bảo hiểm này đều giống nhau, số tiền
của nhiều người tham gia bảo hiểm sẽ được chia sẻ cho một số ít người gặp phải
các vấn đề về sức khỏe.
(2)- Khác nhau:
- BHYT thương mại được tạo ra vì mục tiêu tạo ra lợi nhuận cho các công
ty bảo hiểm thì mục tiêu của BHYT xã hội là nhằm thực hiện chính sách xã hội
của Nhà nước, giúp đời sống người dân được ổn định hơn. BHYT xã hội là hoạt
động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội. Vì vậy mục tiêu của 2 loại
bảo hiểm này là khác nhau
- BHYT xã hội chỉ có tác dụng trong từng quốc gia cung cấp loại bảo hiểm
này. Còn BHYT thương mại có thể được sử dụng ở nhiều quốc gia khác nhau
tùy thuộc vào khả năng của các công ty bảo hiểm.
- Mức phí phải đóng BHYT xã hội dựa vào thu nhập từ tiền lương của
người tham gia, mức lương cơ sở và mức hưởng được thực hiện theo quy định
chung của Luật Bảo hiểm y tế. Trong khi đó mức đóng phí của BHYT thương
mại là quan hệ tỉ lệ thuận, tức là mức phí đóng bảo hiểm càng cao thì bạn sẽ
nhận được càng nhiều quyền lợi và chất lượng phục vụ tốt hơn.
2.3. Một số quy định của Bảo hiểm Y tế liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ
của cơ sở cung cấp dịch vụ y tế
Luật Bảo hiểm Y tế số 25/2008/QH12 và Luật sửa đổi bổ sung
46/2014/QH13 bao gồm 10 chương và 52 điều.
Nghị định 146/2018/NĐ-CP có hiệu lực kể từ ngày 1 - 12 - 2018, thay thế
Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15-11-2014 của Chính phủ và Thông tư
liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24 – 11 - 2014. Nghị định 146 có
một số điểm mới:

227
- Bổ sung một số đối tượng tham gia BHYT; quy định tham gia theo hộ gia
đình; bỏ quy định giao quỹ khám, chữa bệnh (KCB) cho cơ sở KCB (kể cả Trạm
Y tế xã). Thay vào đó là giao tổng mức thanh toán; sửa đổi, bổ sung một số quy
định cụ thể về thanh toán chi phí KCB; quy định cụ thể hơn về Hợp đồng KCB
BHYT …
- Một số nội dung mới có liên quan đến mức hưởng và thanh toán chi phí
KCB:
(1)- Điều chỉnh tăng mức hưởng BHYT của một số đối tượng:
- Đối tượng người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỉ lệ
suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên: trước đây quy định mức hưởng
100%, có áp dụng giới hạn tỉ lệ thanh toán đối với thuốc, hóa chất, vật tư y tế
(VTYT) và dịch vụ kĩ thuật (DVKT), theo quy định mới mức hưởng vẫn là
100% nhưng không áp dụng giới hạn tỉ lệ thanh toán.
- Người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng sẽ tăng từ
80% lên 100%.
(2)- Thanh toán chi phí KCB BHYT, có một số điểm quy định mới đối với
các trường hợp.
- Cụ thể, trường hợp người bệnh được cơ sở KCB tuyến trên chẩn đoán, chỉ
định điều trị và chuyển về để quản lí, theo dõi, cấp phát thuốc tại cơ sở KCB ở
tuyến xã thì được hưởng quyền lợi bảo hiểm theo quy định (theo hướng dẫn của
Bộ Y tế). Quy định mới này sẽ tạo điều kiện cho các bệnh nhân mắc các bệnh
mãn tính, bệnh nhân cao tuổi, bệnh nhân đi lại khó khăn được đi khám, chữa
bệnh tại nơi gần chỗ cư trú, tiết kiệm thời gian, chi phí.
- Quỹ BHYT sẽ thanh toán trong trường hợp cơ sở KCB gửi mẫu bệnh
phẩm, chuyển bệnh nhân đến cơ sở khác để thực hiện dịch vụ xét nghiệm, chẩn
đoán hình ảnh (theo nguyên tắc và Danh mục do Bộ Y tế quy định). Điều này có
nghĩa, bệnh nhân có thể được cơ sở KCB đang điều trị gửi mẫu xét nghiệm,
chuyển bệnh nhân tới nơi khác mà vẫn được thanh toán BHYT.
- Người có thẻ BHYT đang điều trị nội trú, nhưng thẻ BHYT hết hạn sử
dụng thì được thanh toán chi phí KCB trong phạm vi được hưởng và mức hưởng
cho đến khi ra viện nhưng tối đa không quá 15 ngày kể từ ngày thẻ hết hạn sử

228
dụng. Cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) có trách nhiệm thực hiện việc cấp hoặc
gia hạn thẻ cho người bệnh trong thời gian điều trị tại cơ sở KCB.
- Người có thẻ BHYT tự đi KCB không đúng tuyến, sau đó được cơ sở nơi
tiếp nhận chuyển tuyến đến cơ sở KCB khác, thì được quỹ BHYT thanh toán chi
phí KCB theo như đi trái tuyến, trừ các trường hợp cấp cứu, đang điều trị nội trú
được phát hiện bệnh ngoài phạm vi chuyên môn của cơ sở KCB, tình trạng bệnh
diễn biến vượt quá khả năng chuyên môn của cơ sở KCB.
- Quy định về thanh toán trực tiếp: người có thẻ BHYT đi KCB tại các cơ
sở KCB tuyến huyện không ký KCB BHYT hoặc điều trị nội trú tại các cơ sở
KCB tuyến tỉnh, tuyến T.Ư không ký hợp đồng kCB BHYT hoặc tại cơ sở đăng
ký KCB ban đầu nhưng không xuất trình thẻ BHYT (hoặc giấy tờ tùy thân có
ảnh): người bệnh được quỹ BHYT thanh toán theo tỉ lệ mức lương cơ sở áp
dụng cho từng tuyến bệnh viện nơi người bệnh đến KCB.
Tại Nghị định số 146 có bổ sung thêm Nhóm do NSNN đóng gồm có: 
(1)- Dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ,
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế;
(2)- Thanh niên xung phong cơ sở miền Nam tham gia kháng chiến giai
đoạn 1965 - 1975;
(3)- Nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú được Nhà nước phong tặng có
mức thu nhập bình quân hằng tháng thấp hơn mức lương cơ sở. Và nhóm được
NSNN hỗ trợ đóng BHYT là người thuộc hộ nghèo có thiếu hụt các dịch vụ xã
hội cơ bản.
Theo thống kê của BHXH Việt Nam, năm 2017 có hơn 34,2 triệu đối tượng
được NSNN đóng BHYT, chiếm 42% tổng số người tham gia BHYT. Nguồn
kinh phí NSNN đóng cho nhóm đối tượng này là 25.190 tỉ đồng, chiếm khoảng
31% số thu BHYT của cả nước. Ngoài ra, NSNN còn hỗ trợ đóng BHYT cho
gần 16,6 triệu người với mức hỗ trợ từ 30 - 70%. Ngân sách hỗ trợ cho nhóm
đối tượng này là 4.095 tỉ đồng.
Quy định mới cho phép người có thẻ BHYT đang điều trị nội trú nhưng thẻ
BHYT hết hạn sử dụng thì vẫn được thanh toán chi phí KCB trong phạm vi
được hưởng và mức hưởng cho đến khi ra viện, nhưng tối đa không vượt quá 15

229
ngày kể từ ngày thẻ hết hạn sử dụng. Cơ quan BHXH có trách nhiệm hướng
dẫn, thực hiện việc cấp hoặc gia hạn thẻ cho người bệnh trong thời gian đang
điều trị tại cơ sở KCB.
Theo quy định của Nghị định 146, người thuộc hộ gia đình cận nghèo đang
sinh sống tại các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27-12-
2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững và
các huyện được áp dụng cơ chế, chính sách theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-
CPđược ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% mức đóng BHYT tế.
Người thuộc hộ gia đình cận nghèo theo tiêu chí chuẩn cận nghèo theo quy
định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (trừ đối tượng cận nghèo sinh sống
tại các huyện nghèo nêu trên) được hỗ trợ tối thiểu 70% mức đóng BHYT tế.
Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương căn cứ khả năng ngân sách địa phương và các nguồn hợp pháp khác sẽ
quyết định mức hỗ trợ đóng BHYT cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu quy định tại
Nghị định số 146. Hiện tại nhiều địa phương đã bố trí nguồn ngân sách của tỉnh
để hỗ trợ 30% còn lại cho nhóm đối tượng này.
Để mở rộng tỉ lệ bao phủ BHYT, Nghị định số 146 đã quy định bổ sung
một số đối tượng tham gia BHYT; Hỗ trợ từ ngân sách và huy động các nguồn
hợp pháp khác cho người tham gia BHYT; Ngoài ra, một số các quy định thanh
toán đã tạo điều kiện cho người tham gia BHYT có cơ hội được tiếp cận DVYT
dễ dàng hơn như. Thí dụ, trường hợp người bệnh được cơ sở KCB tuyến trên
chẩn đoán, chỉ định điều trị và chuyển về để quản lí, theo dõi, cấp phát thuốc tại
cơ sở KCB tuyến xã được hưởng quyền lợi theo quy định. Bên cạnh đó còn có
quy định bổ sung quỹ BHYT thanh toán trong trường hợp cơ sở KCB gửi mẫu
bệnh phẩm, chuyển bệnh nhân đến cơ sở khác để thực hiện dịch vụ xét nghiệm,
chẩn đoán hình ảnh; Sửa đổi các quy định về giao tổng mức thanh toán, nâng
cao trách nhiệm của cơ sở KCB trong việc quản lí sử dụng nguồn kinh phí được
giao có hiệu quả hơn; sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể về thanh toán chi
phí KCB ; quy định cụ thể hơn về Hợp đồng KCB BHYT… nâng cao trách
nhiệm của các bên liên quan, nhằm phát triển bền vững chính sách BHYT.
Theo quy định tại Nghị định 146/2018/NĐ-CP, đến năm 2020, BHXH Việt
Nam sẽ phải hoàn thành việc cấp thẻ BHYT điện tử cho người dân. BHXH Việt

230
Nam quyết tâm đến ngày 1 - 1 - 2020, sẽ thực hiện đầy đủ các nội dung liên
quan đến thẻ BHYT điện tử và chắc chắn sẽ phát hành thẻ BHYT điện tử đến
với người dân theo đúng quy định.
Thẻ BHYT sẽ tích hợp dữ liệu cả thẻ BHYT và sổ BHXH, lưu giữ các
thông tin cơ bản về quá trình đóng, hưởng của người tham gia BHXH, BHYT.
Quá trình khám chữa bệnh sẽ thuận tiện nhanh chóng hơn, góp phần cải cách thủ
tục hành chính, hạn chế thời gian chờ đợi.
2.4. Đặc thù của Bảo hiểm Y tế Việt Nam
2.4.1. Chính sách Bảo hiểm Y tế ở Việt Nam
(1)- Sau 17 năm thực hiện chính sách BHYT, năm 2008 Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật BHYT. Luật đã quy định
về chế độ, chính sách Bảo hiểm Y tế, bao gồm đối tượng, mức đóng, trách
nhiệm và phương thức đóng Bảo hiểm Y tế; thẻ Bảo hiểm Y tế; phạm vi được
hưởng Bảo hiểm Y tế; tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia Bảo
hiểm Y tế; thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh Bảo hiểm Y tế; quỹ Bảo
hiểm Y tế; quyền và trách nhiệm của các bên liên quan đến Bảo hiểm Y tế. Đây
là một đạo luật quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình tiến tới BHYT toàn dân.
Tuy nhiên, sau hơn 04 năm triển khai Luật BHYT hiện hành cũng đã bộc lộ một
số bất cập, như quy định tham gia BHYT chưa có tính ràng buộc cao, điều này
dẫn đến việc tiếp tục mở rộng các đối tượng tham gia BHYT gặp nhiều khó
khăn, thách thức. Các chế tài xử phạt khi không tham gia BHYT chưa đủ mạnh
để mọi người phải tham gia BHYT theo luật định vì vậy mục tiêu hướng tới bao
phủ y tế toàn dân khó có thể thực hiện.
(2)- Chính sách Bảo hiểm Y tế Việt Nam từ 2013 đến nay:
Quá trình thực hiện chính sách BHYT từ 1992 đến năm 2012 đã đạt được
nhiều thành tựu hết sức quan trọng như trên đã đề cập. Tuy nhiên, với tỉ lệ bao
phủ còn thấp, khó có thể thực hiện lộ trình BHYT toàn dân. Đây là thách thức
lớn đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải xây dựng phương án và đưa ra
giải pháp đồng bộ và cụ thể, thiết thực phù hợp với sự phát triển của xã hội với
sự tham gia của cả hệ thống chính trị.

231
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Bảo hiểm Xã hội, BHYT giai đoạn 2012
– 2020 đã được cụ thể hóa bằng quyết định số 538/2013/QĐ –TTg ngày
29/03/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án lộ trình tiến tới BHYT
toàn dân giai đoạn 2012 – 2015 và 2020.
Luật Bảo hiểm Y tế sửa đổi, bổ sung có 8 điểm mới mang tính đột phá tạo
hành lang pháp lí giúp thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân:
- Quy định BHYT là hình thức bắt buộc;
- Quy định BHYT theo hộ gia đình;
- Quy định BHYT đối với trẻ em dưới 06 tuổi;
- Quy định mở thông tuyến khám chữa bệnh BHYT;
- Tăng quyền lợi BHYT và mức hưởng BHYT;
- Quy định về tỉ lệ thanh toán;
- Quy định mới về mức đóng BHYT.
- Quy định về thanh toán chi phí KCB trong trường hợp người có thẻ
BHYT đang điều trị tại cơ sở khám, chữa bệnh nhưng thẻ Bảo hiểm Y tế hết hạn
sử dụng.
Quá trình hình thành và phát triển chính sách Bảo hiểm Y tế ở nước ta
được khái quát trên hình 11.

Hình 11: Các giai đoạn hình thành và phát triển BHYT Việt Nam
(3)- Tình hình bao phủ BHYT ở Việt Nam:

232
Trong những năm qua, số người tham gia BHYT ở Việt Nam ngày càng
tăng, tính đến cuối 2010, tỉ lệ người dân tham gia BHYT là 60%, tỉ lệ này tăng
lên 81,7% vào năm 2016 và tỉ lệ này đã là 86,4% năm 2017. Như vậy có thể
thấy với nhiều nỗ lực, Việt Nam đã đạt được mục tiêu bao phủ BHYT 80% sớm
hơn dự kiến là năm 2020.
2.4.2. Giám định và thanh toán chi phí khám chữa bệnh Bảo hiểm Y tế tại
Việt Nam
Theo Luật Bảo hiểm Y tế: “Giám định BHYT là hoạt động chuyên môn do
cơ quan Bảo hiểm Xã hội tiến hành nhằm đánh giá sự hợp lí của việc cung cấp
dịch vụ y tế cho người tham gia Bảo hiểm Y tế, làm cơ sở thanh toán chi phí
khám, chữa bệnh BHYT”.

Hình 12: Tỉ lệ bao phủ BHYT Việt Nam giai đoạn 2005 - 2017
Công tác giám định của cơ quan BHXH luôn được xác định là một nhiệm
vụ trọng tâm trong quản lí sử dụng quỹ BHYT. Nghiệp vụ giám định luôn phải
thường xuyên xử lí một khối lượng lớn thông tin để giải đáp các vấn đề về sử
dụng thuốc, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, vật tư y tế, dịch vụ y tế… hợp lí,
phù hợp với chẩn đoán bệnh, hiệu quả trong KCB BHYT được thực hiện theo
những nguyên tắc sau trước khi thanh toán:
(1)- Đúng chế độ:

233
- Dịch vụ kĩ thuật (DVKT) được thanh toán là DVKT thuộc danh mục đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt và mức giá theo quy định phù hợp với tuyến
chuyên môn kĩ thuật của cơ sở y tế. Người thực hiện DVKT phải được cấp
chứng chỉ hành nghề theo đúng quy định.
- Thuốc được thanh toán theo chế độ BHYT là thuốc nằm trong danh mục
thuốc do Bộ Y tế quy định, được xây dựng phù hợp với tuyến chuyên môn kĩ
thuật và phân hạng bệnh viện, thuốc được mua sắm theo đúng quy định của Luật
đấu thầu và các văn bản hướng dẫn.
- Vật tư y tế (VTYT) được thanh toán phải nằm trong Danh mục do Bộ Y
tế quy định được sử dụng trong và ngoài DVKT, quỹ BHYT thanh toán theo tiêu
chí sau:
- Không thanh toán riêng các VTYT đã được kết cấu và tính trong giá của
DVKT, giá ngày giường điều trị hoặc thu trọn gói theo ca bệnh.
- Những loại VTYT nào chưa được kết cấu và tính trong giá của DVKT,
giá ngày giường điều trị hoặc thu trọn gói theo ca bệnh thì quỹ BHYT sẽ thanh
toán riêng.
(2)- Đúng người:
Đảm bảo người được hưởng quyền lợi khám, xét nghiệm, DVKT, thuốc,
thủ thuật, phẫu thuật… phải là người tham gia BHYT.
(3)- Đúng bệnh:
Việc chỉ định các thuốc, các dịch vụ y tế cụ thể cho người bệnh trong khám
bệnh, điều trị phải phù hợp với tình trạng bệnh, đúng liệu trình, đúng thời lượng,
đúng quy trình chuyên môn trong hướng dẫn điều trị.
(4)- Đúng chi phí:
Được phản ánh thông qua số lượng sử dụng đúng và áp giá đúng, đảm bảo
số lượng sử dụng xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thủ thuật, phẫu thuật, thuốc,
VTYT… thống kê để thanh toán BHYT là số lượng sử dụng thực cho bệnh nhân
BHYT, bệnh nhân BHYT được thụ hưởng phù hợp với chẩn đoán và điều trị.

234
Giá trong thanh toán BHYT chính là giá trên hóa đơn chứng từ hợp lệ theo
quy định của Bộ Tài chính và phù hợp phương thức mua sắm được lựa chọn.
Máu và chế phẩm máu được thanh toán theo giá quy định của Bộ Y tế.
Hoạt động thanh quyết toán chi phí KCB BHYT của cơ sở y tế với cơ quan
BHXH luôn tiềm ẩn những sai sót, từ dữ liệu đầu vào như ghi chép, thực hiện
khám bệnh, chẩn đoán, điều trị, thống kê chi phí… cho người bệnh có thẻ
BHYT đến thông tin đầu ra trình bày và thuyết minh các khoản mục chi phí
chăm sóc sức khỏe trong hồ sơ thanh toán.
Mức độ sai sót cần xem xét trong từng trường hợp cụ thể: quy mô (định
lượng) và tính chất (định tính), bao gồm:
- Sai do không đủ thủ tục hành chính: thiếu chữ ký bệnh nhân, thuốc có
dấu (*) phải hội chẩn khi chỉ định sử dụng cho người bệnh lại thiếu biên bản hội
chẩn.
- Sai sót do áp sai giá: dịch vụ kĩ thuật, thuốc, VTYT, giường…
- Do áp dụng sai danh mục: chỉ định không có trong danh mục thanh toán
với BHYT, hoặc sai mục chi phí như thuốc, vật tư y tế tiêu hao đã tính trong chi
trả trọn gói của dịch vụ kĩ thuật nhưng tách riêng thanh toán BHYT (thuốc cản
quang, thuốc thụt tháo dùng trong siêu âm và chụp đại tràng, …)
- Sai sót về quy chế chuyên môn trong KCB như chỉ định các dịch vụ xét
cận lâm sàng, thuốc không phù hợp với chẩn đoán; thực hiện dịch vụ chưa được
cấp có thẩm quyền phê duyệt; người thực hiện kĩ thuật y tế chưa đủ các điều
kiện về chuyên môn theo quy định.
- Sai do thống kê: thừa hoặc thiếu ngày giường, thừa CĐHA, siêu âm, thừa
thuốc…
Kết quả giám định BHYT cho thấy có tình trạng lạm dụng BHYT cả về
phía cán bộ y tế cũng như người có thẻ BHYT. Những vi phạm phổ biến là lạm
dụng xét nghiệm, thuốc, hóa chất, vật tư y tế, kê đơn thuốc ngoài danh mục cho
phép, kê khống tiền thuốc, bệnh nhân nằm ghép nhưng vẫn thanh toán mỗi
người/1 giường bệnh, lập hồ sơ bệnh án khống (như làm giả kết quả xét
nghiệm), sử dụng chung xét nghiệm ở một số bệnh viện để thanh toán với quỹ
BHYT; có nơi, cán bộ y tế ở bệnh viện sử dụng thẻ BHYT của người thân để

235
làm thủ tục lấy thuốc ở bệnh viện; người có thẻ BHYT lạm dụng thông qua việc
cho mượn thẻ, đi khám nhiều nơi trong ngày (nhất là các bệnh mạn tính), cho
thuê thẻ BHYT và thuê người bị bệnh mạn tính đi KCB để lấy thuốc. Tuy nhiên
số hồ sơ bệnh án giám định chỉ chiếm khoảng 20% nên chưa đảm bảo việc thanh
toán chính xác, chưa thể phát hiện đầy đủ việc lạm dụng BHYT ở các bệnh viện.
Các bệnh viện được thực hiện cơ chế tự chủ tài chính và xã hội hóa đã tìm cách
để tăng nguồn thu từ dịch vụ y tế làm phát sinh nhiều hình thức lạm dụng BHYT
tinh vi khó phát hiện và kiểm soát, đồng thời vai trò quản lí nhà nước ở các địa
phương còn hạn chế.
Tại Việt Nam, công tác giám định quản lí theo ngành dọc từ Trung ương
đến địa phương, dưới sự chỉ đạo của Ban Thực hiện chính sách BHYT, Ban
Dược và Vật tư y tế. Cơ quan BHXH thực hiện việc giám định BHYT và chịu
trách nhiệm về kết quả giám định theo quy định của pháp luật về BHYT. Cơ sở
khám chữa bệnh BHYT cung cấp hồ sơ bệnh án, tài liệu liên quan đến khám
chữa bệnh của người bệnh BHYT theo yêu cầu của cơ quan BHXH. Cơ quan
BHXH tiếp nhận danh sách bệnh nhân và dữ liệu thống kê chi phí KCB BHYT
đề nghị quyết toán của cơ sở KCB BHYT. Nghiệp vụ giám định chi phí KCB
BHYT (gọi tắt là nghiệp vụ giám định) do giám định viên của cơ quan BHXH
thực hiện. Nghiệp vụ giám định được thực hiện trước, trong hoặc sau khi người
bệnh ra viện và phải bảo đảm tính chính xác, công khai, minh bạch. Mọi chi phí
khám, chữa bệnh BHYT của cơ sở y tế được cơ quan BHXH giám định theo
nguyên tắc: đúng chế độ - đúng người - đúng bệnh - đúng chi phí trước khi thực
hiện thanh quyết toán. Kết quả giám định được lập thành văn bản và thông báo
cho cơ sở KCB, trong đó nêu cụ thể những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục,
những chi phí không chấp nhận thanh toán. Cơ sở KCB tiến hành kiểm tra lại và
có trách nhiệm chấp hành kết quả giám định đã được thống nhất giữa hai bên.
Trường hợp chưa thống nhất thì phải ghi rõ ý kiến của các bên và báo cáo với
cấp trên để giải quyết. Trong thời gian chờ ý kiến chỉ đạo của cơ quan có thẩm
quyền, cơ sở KCB BHYT có trách nhiệm thực hiện thông báo kết quả giám định
của cơ quan BHXH.
- Nội dung công tác giám định BHYT, yêu cầu thực hiện theo trình độ đào
tạo, cụ thể như sau:

236
+ Cán bộ có trình độ y, dược đại học có nhiệm vụ thực hiện nghiệp vụ giám
định chuyên sâu về y tế nhằm đánh giá tính hợp lí và hiệu quả của chỉ định chẩn
đoán và điều trị của cơ sở KCB thông qua phân tích các biểu báo cáo của cơ sở
y tế và giám định trực quan từng hồ sơ bệnh án; xem xét sự phù hợp của danh
mục thuốc, dịch vụ y tế tại cơ sở KCB BHYT.
+ Cán bộ được đào tạo về công nghệ thông tin: có nhiệm vụ tổng hợp, kiểm
tra dữ liệu báo cáo của cơ sở KCB trên các Mẫu 79a, 80a, 19/BHYT, 20/BHYT,
21/BHYT (các biểu mẫu trên do Bộ Tài chính và BHXH Việt Nam quy định).
Phân tích đánh giá sơ bộ chi phí KCB BHYT tại cơ sở y tế tăng, giảm... Báo cáo
những vấn đề phát hiện thông qua xử lí số liệu bằng phần mềm, những vấn đề
cần lưu ý chuyển cho cán bộ có chuyên môn y dược (bệnh nhân có chi phí lớn,
trường hợp đi khám chữa bệnh nhiều lần, gia tăng chi phí không hợp lí ...).
+ Cán bộ có chuyên ngành tài chính kế toán và chuyên ngành khác (kinh tế,
luật) kiểm tra việc thống kê tổng hợp chi phí KCB BHYT và lập các biểu quyết
toán cho công tác thanh quyết toán chi phí KCB BHYT giữa cơ quan BHXH với
cơ sở KCB BHYT (Biểu C82); xác định nguồn quỹ, kinh phí tạm ứng, quyết
toán.
2.4.3. Các phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh Bảo hiểm Y tế
Phương thức thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT đã được thay đổi
nhiều lần qua 3 lần ban hành Điều lệ BHYT. Theo quy định hiện hành, có 3
phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT, đó là thanh toán theo phí dịch vụ,
theo định suất và theo ca bệnh.
(1)- Theo phí dịch vụ (fee-for-service payment) là phương thức thanh toán
trong giai đoạn từ 23/11/1994 đến 19/12/1998.
Phương thức thanh toán trong giai đoạn này được quy định theo: Nghị định
số 95/CP và các Thông tư số 20/TT-LB ngày 23/11/1994 của Bộ Y tế, Tài
chính, Lao động TBXH và Ban Vật giá Chính phủ, Thông tư số 14/TTLB ngày
30/9/1995 của liên Bộ Y tế, Tài chính, Lao động, Thương binh và xã hội và Ban
vật giá Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 95/CP về việc thu một
phần viện phí.

237
Nghị định số 95/CP quy định “người có thẻ BHYT được cơ quan BHYT trả
một phần viện phí cho các cơ sở khám, chữa bệnh” (khoản 3, Điều 3). Phương
thức thanh toán một phần viện phí là “thu theo dịch vụ đối với người bệnh ngoại
trú và thu theo ngày giường điều trị đối với người bệnh nội trú” (Khoản 2, Điều
5 của Nghị định) theo khung giá được ban hành theo Thông tư liên bộ số 20/TT-
LB ngày 23/11/1994 và sau đó Thông tư liên bộ số 14/TTLB ngày 30/9/1995.
Như vậy, từ 23/11/1994 phương thức thanh toán chi phí khám, chữa bệnh
BHYT đã có bản chất là chi trả theo phí dịch vụ cho cả hai khu vực nội trú và
ngoại trú. Riêng khu vực ngoại trú, vẫn tiếp tục thực hiện trần thanh toán theo
một tỉ lệ quỹ BHYT của số người đăng ký tại từng cơ sở y tế. Quy định thanh
toán chi phí khám chữa bệnh theo phí dịch vụ không có trần khống chế trong
giai đoạn này đã dẫn tới tình trạng mất cân đối thu chi quỹ BHYT tại nhiều địa
phương trong năm 1996 và 1997. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, việc xem xét tìm
kiếm phương thức thanh toán phù hợp đã được đề cập tới và thảo luận lần đầu
tiên trong hệ thống BHYT.
Với phương thức thanh toán theo phí dịch vụ, cơ sở cung ứng dịch vụ được
hoàn trả cho mỗi dịch vụ đơn lẻ được cung cấp cho khách hàng. Phương thức
này có thể dựa trên đầu vào hoặc đầu ra. Phương thức thanh toán theo phí dịch
vụ cũng còn những bất cập, tạo nên những rào cản về tài chính, cản trở khả năng
tiếp cận và sử dụng dịch vụ CSSK cơ bản của người dân nhất là ở nhóm thu
nhập thấp. Khi phải chi trả tiền túi cho CSSK, người dân phải đối mặt với nguy
cơ chịu chi phí quá mức và bị đẩy vào bẫy nghèo đói. Với các chương trình
BHYT, phương thức thanh toán theo dịch vụ là một trong những nguyên nhân
chủ yếu làm tăng chi phí CSSK.
Tuy nhiên, phương thức thanh toán theo phí dịch vụ cũng có những lợi thế
nhất định. Thứ nhất, phương thức thanh toán này có thể dễ dàng được thực hiện
mà không cần yêu cầu quá nhiều về năng lực mà chỉ cần dựa trên các biểu phí.
Thứ hai, phương thức thanh toán theo phí dịch vụ phản ánh chính xác hơn các
dịch vụ thực sự đã thực hiện, mở rộng hơn so với phương thức thanh toán theo
mục ngân sách. Do đó khuyến khích cơ sở cung ứng phí dịch vụ làm việc nhiều
giờ hơn và cung cấp nhiều dịch vụ hơn. Thứ ba, phương thức thanh toán theo
phí dịch vụ được cho là cải thiện sự tiếp cận và sử dụng cho những vùng khó

238
khăn, cho người nghèo và cũng cho những dịch vụ ưu tiên. Thứ tư, nếu việc xác
định phí dịch vụ phù hợp thì phương thức chi trả này có thể khuyến khích việc
cung cấp các dịch vụ có tính chi phí-hiệu quả cao.
Mặc dù phương thức chi trả theo phí dịch vụ vốn là một phương thức thanh
toán có nhiều bất lợi trong tài chính y tế, hiện nay phương thức thanh toán này
vẫn đang là phương thức thanh toán được sử dụng rộng rãi trong toàn bộ hệ
thống cung ứng dịch vụ cho bệnh nhân BHYT.
(2)- Theo định suất (Per capita/Capitation):
Thanh toán theo định suất được hiểu là một phương thức trả trước cho cơ
sở cung cấp dịch vụ, theo đó tổng quỹ mà cơ sở cung ứng dịch vụ nhận được
phụ thuộc vào số người đăng ký và mức phí cố định theo mỗi đầu thẻ tại đó
nhưng không phụ thuộc vào số lượng dịch vụ đã thực hiện. Luật BHYT ngày
14/11/2008 được Quốc hội thông qua cũng đề cập: “Thanh toán theo định suất
là thanh toán theo định mức chi phí khám bệnh, chữa bệnh và mức đóng tính
trên mỗi thẻ BHYT được đăng ký tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh BHYT trong
một khoảng thời gian nhất định”. Khái niệm này được sửa đổi trong Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT ngày 13/6/2014 của Quốc hội qui định
lại là: “Thanh toán theo định suất là thanh toán theo mức phí được xác định
trước theo phạm vi dịch vụ cho một đầu thẻ đăng ký tại cơ sở cung ứng dịch vụ y
tế trong một khoảng thời gian nhất định”.
Cách tính phí trong phương thức thanh toán theo định suất được thực hiện
dưới hai hình thức:
- Tính theo tỉ lệ phần trăm cố định của số thu mà cơ quan bảo hiểm đã thu
nhận;
- Tính theo giá chi phí thực tế cho từng thẻ đăng ký tại cơ sở cung ứng dịch
vụ dựa vào mức giá viện phí, phạm vi quyền lợi, mức cùng chi trả, số lượng
người đăng ký, tính chất đăng ký (cá nhân, tập thể).
Cách tính phí trong phương thức thanh toán theo định suất được thực hiện
là một cơ chế cung ứng dịch vụ có kiểm soát do có hợp đồng giữa cơ quan
BHYT và cơ sở cung ứng dịch vụ y tế.

239
Trong hệ thống thanh toán theo định suất, cơ sở cung ứng dịch vụ được chi
trả trước một tỉ lệ kinh phí cố định được xác định trước để cung cấp các dịch vụ
đã được xác định cho mỗi cá nhân đăng ký với cơ sở cung ứng dịch vụ trong
một khoảng thời gian cố định. Nguyên tắc của phương thức thanh toán này
không liên quan đến đầu vào mà cơ sở cung ứng dịch vụ sử dụng hoặc khối
lượng dịch vụ được cung cấp.
Vì vậy, một số rủi ro được chuyển từ người mua dịch vụ sang cho cơ sở
cung ứng dịch vụ. Nếu cơ sở cung ứng dịch vụ phải chịu chi phí lớn hơn ngân
sách theo định suất, cơ sở cung ứng dịch vụ phải tự chịu trách nhiệm. Nếu cơ sở
cung ứng dịch vụ đạt được hiệu suất và chi phí thấp hơn so với ngân sách theo
định suất, số dư có thể được giữ lại và tái đầu tư.
Phương thức thanh toán trong giai đoạn từ 1/7/2005 đến 30/6/2009 được
quy định tại Điều lệ BHYT ban hành theo Nghị định số 63, bao gồm các phương
thức thanh toán theo phí dịch vụ, thanh toán theo định suất, theo nhóm chẩn
đoán hoặc các phương thức thanh toán phối hợp khác. Thông tư liên tịch số
21/2005 ngày 27/7/2005 của liên bộ hướng dẫn chi tiết hai phương thức thanh
toán giữa quỹ BHYT và cơ sở y tế là thanh toán theo phí dịch vụ có trần và
thanh toán theo định suất. Theo đó, cơ sở KCB lựa chọn phương thức thanh toán
phù hợp để ký hợp đồng với cơ quan BHXH.
Cả hai phương thức thanh toán theo phí dịch vụ và theo định suất đang
được áp dụng phổ biến nhưng đều có những vướng mắc: chi phí khám chữa của
bệnh nhân được giới thiệu khám, chữa bệnh tại tuyến trên cao, luôn là nguy cơ
gây ra chi phí vượt trần của tuyến dưới do đó cơ sở KCB phải đưa ra các giải
pháp hạn chế quyền lợi củangười bệnh BHYT. Nhiều cơ sở y tế hạn chế gửi
bệnh nhân lên tuyến trên, có thể ảnh hưởng đến tiếp cận dịch vụ y tế của người
tham gia BHYT. Ngay tại bệnh viện tuyến tỉnh, chi phí KCB của bệnh nhân ở
ngoại tỉnh cũng có thể khiến bệnh viện mất khả năng cân đối và phải hạn chế chi
phí cho bệnh nhân BHYT.
(3)- Theo trần thanh toán:
Theo trần thanh toán là phương thức thanh toán trong giai đoạn từ
19/12/1998 đến 1/7/2005 với bản chất là thu phí dịch vụ theo hướng dẫn tại
thông tư liên bộ số 14/TTLB nói trên, nhưng đã có những giải pháp nhằm khống

240
chế tình trạng gia tăng chi phí y tế, theo hướng dẫn tại Thông tư số 17/1998/TT-
BYT của Bộ Y tế ngày 19/12/1998. Bản chất phương thức thanh toán trong giai
đoạn này là:
- Khu vực ngoại trú: thanh toán theo phí dịch vụ, có trần thanh toán bằng
45% quỹ khám, chữa bệnh của số thẻ đăng ký tại cơ sở y tế. Chi phí khám, chữa
bệnh ngoại trú tuyến trên cũng được tính vào trần thanh toán này;
- Khu vực nội trú: thanh toán theo phí dịch vụ, có trần, trần thanh toán bằng
(Chi phí khám, chữa bệnh nội trú bình quân một đợt điều trị năm trước x tổng số
bệnh nhân ra viện trong kỳ thanh toán x 1,1);
- Chi phí vượt trần được cân đối, thanh toán vào quý đầu năm tài chính kế
tiếp; Ngoài ra, cơ sở y tế được sử dụng 5% quỹ KCB cho hoạt động chăm sóc
sức khỏe ban đầu.
(4)- Theo nhóm chẩn đoán (Dianogsis related group: DRG)
Quyết định số 488/QĐ-BYT đã phê duyệt đề án xây dựng và thí điểm
phương thức chi trả chi phí khám chữa bệnh theo nhóm chẩn đoán liên quan
(DRG). Phương thức thanh toán này được sử dụng trong thanh toán trong bệnh
viện như một cơ chế để kiểm soát chi phí và giảm công suất sử dụng giường
bệnh trong lĩnh vực bệnh viện. Khi thanh toán theo trường hợp bệnh, tất cả các
trường hợp bệnh nằm trong một số nhóm thanh toán được xác định trước. Nhóm
thanh toán thường được xác định theo mức độ sử dụng nguồn lực bình quân. Tất
cả các trường hợp bệnh nằm trong một nhóm chẩn đoán được hoàn trả ở tỉ lệ
như nhau.
Bằng chứng trên Thế giới cho thấy thanh toán bệnh viện theo trường hợp
bệnh liên quan đến việc giảm bình quân ngày điều trị nội trú. Sự giảm thời gian
nằm viện được quan sát có ý nghĩa thống kê chủ yếu cho các nhóm bệnh mạn
tính; bình quân ngày điều trị nội trú các bệnh cấp tính không bị ảnh hưởng đáng
kể.
Tuy nhiên, thanh toán theo trường hợp bệnh có thể làm tăng cả số người
bệnh nhập viện và số người bệnh tái nhập viện không cần thiết.
Ở Hungary, Nga và nhiều nước khác, số người bệnh nhập viện tăng đáng
kể sau khi hệ thống thanh toán theo trường hợp bệnh được áp dụng. Phương

241
thức thanh toán này cũng dẫn đến việc để có lợi cho mình, các bệnh viện thường
cố gắng nhận các trường hợp bệnh ít tốn kém hơn trong một nhóm thanh toán,
tránh các trường hợp yêu cầu điều trị tốn kém. Ngoài ra cơ sở cung cấp dịch vụ
y tế cũng có xu hướng phân chia các trường hợp bệnh cần nhiều nguồn lực trong
điều trị (chi phí đắt) thành nhiều đợt nằm viện. Những điểm trên cũng có thể tạo
ra rào cản tiếp cận dịch vụ y tế cho người bệnh nặng. Để giảm những tác động
bất lợi, các phương pháp phân biệt giữa các trường hợp có mức độ nguồn lực
khác nhau đã được áp dụng, phương thức thanh toán theo nhóm bệnh như DRG
đã được phát triển và liên tục được hoàn thiện.
Hệ thống thanh toán theo trường hợp bệnh cũng còn có một số nhược điểm
khác, bao gồm:
- “Chuyển dịch mã bệnh”, trong đó cơ sở cung ứng dịch vụ có khả năng mã
người bệnh vào một nhóm với điểm (hoặc chỉ số) cao để có được sự bồi hoàn
lớn hơn (như đã thấy ở Croatia, Hungary và Slovenia).
- “Chuyển dịch chi phí”, trong đó cơ sở cung ứng dịch vụ thay đổi mô hình
chăm sóc và chi phí cho người bệnh không thuộc nhóm chẩn đoán.
- Khuyến khích xuất viện sớm, trong đó chi phí được chuyển sang dịch vụ
ngoại trú, chăm sóc tại nhà và chăm sóc tại nhà dưỡng lão (làm giảm chất lượng
chăm sóc do gián đoạn) hoặc cung cấp dịch vụ dưới mức cần thiết, không đáp
ứng nhu cầu điều trị thực sự của người bệnh BHYT.

CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG


Câu 1: Trình bày khái niệm tài chính y tế và các nguồn của hệ thống tài chính y
tế, cho ví dụ?
Câu 2: Trình bày các chức năng của hệ thống tài chính y tế.
Câu 3: Trình bày vai trò việc của Điều dưỡng trong quản lí tài chính tại cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế.
Câu 4: Trình bày khái niệm, lý do ra đời và nguyên lý của bảo hiểm y tế?

242
Câu 5: Trình bày các phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh Bảo hiểm
Y tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


1. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Luật
BHYT giai đoạn 2015-2018.
2. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình thực hiện chế độ, chính
sách BHYT.
3. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình sử dụng quỹ KCB BHYT.
4. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình sử dụng quỹ BHYT năm
2017.
5. Bộ Y tế, Tài khoản Y tế quốc gia 2009 – 2011, 1998 – 2012.
6. Bộ Y tế và Nhóm đối tác y tế (2018), Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm
2016: Hướng tới mục tiêu già hóa khỏe mạnh ở Việt Nam, Hà Nội.
7. Bộ Y tế và Nhóm đối tác quốc tế (2014), Báo cáo chung tổng quan ngành y tế
các năm 2008, 2013, 2014.
8. Bộ Y tế và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2017), Thông báo số 789/TB_BHXH VN
kết luận của Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến và Tổng Giám đốc BHXH
Việt Nam.
9. Bộ Y tế (2017), Thông tư số 39/2017/TT-BYT ngày 18 tháng 10 năm 2017 về
quy định gói dịch vụ y tế cơ bản cho tuyến y tế cơ sở.
10.Bộ Y tế & Bộ Tài Chính (2015), Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC
ngày 29 tháng 10 năm 2015 về quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc.
11.Bộ Y tế & Bộ Tài Chính (2014), Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT- BYT-BTC
ngày 24 tháng 11 năm 2014 về hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm Y tế.
12.Bộ Y tế (2018), Thông tư số 15/2018/TT-BYT ngày 30 tháng 5 năm 2018 về
quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các
bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi
phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế trong một số trường hợp.
13.Bộ Y tế (2013), Báo cáo 20 năm hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà
tài trợ..

243
14.Nguyễn Phú Trọng (2017). “Nghị quyết số 20-NQ/TƯ ngày 25 tháng 10 năm
2017 của Ban Chấp Hành Trung Ương về Tăng cường công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”.
15.Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (2013). Dự thảo báo cáo Đánh giá 3 năm
thực hiện Luật Bảo hiểm y tế.
16.Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) (2015). Dự báo kinh tế-xã hội
Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020.
17.Tài liệu Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp bác sĩ chính (hạng
II), Bộ Y tế, Nhà xuất bản Y học, 2019.

CHUYÊN ĐỀ 4
AN TOÀN NGƯỜI BỆNH

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 12 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 8 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong bài này, học viên có khả năng:
1. Giải thích được các thuật ngữ liên quan về an toàn người bệnh
2. Trình bày được tần suất sự cố y khoa và hậu quả
3. Phân loại được các nguyên nhân sự cố y khoa không mong muốn
4. Trình bày được các giải pháp bảo đảm an toàn người bệnh.

244
NỘI DUNG
1. Tổng quan về an toàn người bệnh
1.1. Mở đầu
Bệnh viện là nơi tập trung người bệnh để điều trị, nơi các thầy thuốc đưa
ra các chẩn đoán (cho phép sai số), các quyết định phương pháp điều trị; nơi
diễn ra các phẫu thuật, thủ thuật xâm lấn, nơi người bệnh sử dụng các dược chất,
hóa chất, văc xin để điều trị, nơi có nhiều trẻ được sinh ra và cũng là nơi chứng
kiến nhiều người bệnh qua đời. Hơn thế nữa, bệnh viện là nơi các thầy thuốc
thường xuyên bị áp lực công việc do tình trạng quá tải và áp lực về tâm lí, vì
vậy, sự cố y khoa không mong muốn là điều khó tránh và trong nhiều trường
hợp ngoài tầm kiểm soát. Có thể khẳng định rằng ở bất cứ công đoạn nào của
mọi quy trình khám bệnh, chữa bệnh đều chứa đựng các nguy cơ tiềm tàng cho
người bệnh. Khi sự cố y khoa không mong muốn xảy ra, cả người bệnh và thầy
thuốc đều là nạn nhân, đặc biệt đối với người bệnh phải gánh chịu thêm hậu quả
của các sự cố y khoa không mong muốn làm ảnh hưởng tới sức khỏe hoặc bị
khuyết tật tạm thời hay vĩnh viễn, thậm chí chết người, chẳng khác gì tai nạn
chồng lên tai nạn.
Ở nước ta, một số sự cố y khoa không mong muốn xảy ra gần đây gây sự
quan tâm theo dõi của toàn xã hội đối với ngành y tế. Khi sự cố y khoa không
mong muốn xảy ra, người bệnh và gia đình người bệnh trở thành nạn nhân, phải
gánh chịu hậu quả tổn hại tới sức khỏe, tính mạng, tài chính, tai nạn chồng lên
tai nạn. Và các cán bộ y tế liên quan trực tiếp tới sự cố y khoa không mong
muốn cũng là nạn nhân trước những áp lực của dư luận xã hội và cũng cần được
hỗ trợ về tâm lý khi rủi ro nghề nghiệp xảy ra.
1.2. Các thuật ngữ
Lỗi - Error: Thực hiện công việc không đúng quy định hoặc áp dụng các
quy định không phù hợp.
Sự cố - Event: Điều bất trắc xảy ra với người bệnh hoặc liên quan tới người
bệnh

245
Tác hại - Harm: Suy giảm cấu trúc hoặc chức năng của cơ thể hoặc ảnh
hưởng có hại phát sinh từ sự cố đã xảy ra. Tác hại bao gồm: bệnh, chấn thương,
đau đớn, tàn tật và chết người.
Sự cố không mong muốn - Adverse Events (AE): Y văn của các nước sử
dụng thuật ngữ “sự cố không mong muốn” ngày càng nhiều vì các thuật ngữ “sai
sót chuyên môn, sai lầm y khoa” dễ hiểu sai lệch về trách nhiệm của cán bộ y tế
và trong thực tế không phải bất cứ sự cố nào xảy ra cũng do cán bộ y tế.
- Theo WHO: Sự cố không mong muốn là tác hại liên quan đến quản lý y tế
(khác với biến chứng do bệnh) bao gồm các lĩnh vực chẩn đoán, điều trị, chăm
sóc, sử dụng trang thiết bị y tế để cung cấp dịch vụ y tế. Sự cố y khoa có thể
phòng ngừa và không thể phòng ngừa.
- Theo Bộ sức khỏe và dịch vụ con người của Mỹ: Sự cố không mong
muốn gây hại cho người bệnh do hậu quả của chăm sóc y tế hoặc trong y tế. Để
đo lường sự cố y khoa các nhà nghiên cứu y học của Mỹ dựa vào 3 nhóm tiêu
chí. (1) Các sự cố thuộc danh sách các sự cố nghiêm trọng; (2) Các tình
trạng/vấn đề sức khỏe người bệnh mắc phải trong bệnh viện; Và (3) sự cố dẫn
đến 1 trong 4 thiệt hại nghiêm trọng cho người bệnh nằm trong Bảng 4 Phân loại
mức độ nguy hại cho người bệnh từ F-I, bao gồm: kéo dài ngày điều trị, để lại
tổn thương vĩnh viễn, phải can thiệp cấp cứu và chết người.
1.3. Vài nét về thực trạng sự cố y khoa
1.3.1. Trên thế giới
Theo các nhà nghiên cứu y học Mỹ, lĩnh vực y khoa là lĩnh vực có nhiều
rủi ro nhất đối với khách hàng. Các chuyên gia y tế Mỹ nhận định “Chăm sóc y
tế tại Mỹ không an toàn như người dân mong đợi và như hệ thống y tế có thể, ít
nhất 44.000 – 98.000 người tử vong trong các bệnh viện của Mỹ hàng năm do
các sự cố y khoa. Số người chết vì sự cố y khoa trong các bệnh viện của Mỹ, cao
hơn tử vong do tai nạn giao thông, Ung thư vú, tử vong do HIV/AIDS là ba vấn
đề sức khỏe mà người dân Mỹ quan tâm hiện nay. Tiếp theo nghiên cứu của
Viện Y học Mỹ (Institute of Medicine) các nước như Úc, Anh, Canada,.. đã tiến
hành nghiên cứu sự cố y khoa và đã công bố kết quả như sau:
Bảng 1. Sự cố y khoa tại Mỹ và các nước phát triển

246
Nghiên cứu Năm Số NB Số Tỷ
NC sự cố lệ
(%)
1. Mỹ (Harvard Medical Practice Study ) 1989 30.195 1133 3,8
2. Mỹ (Utah-Colorado Study) 1992 14.565 475 3,2
3. Mỹ (Utah-Colorado Study)* 1992 14.565 787 5,4
4. Úc ( Quaility in Australia Health Case Study) 1992 14,179 2353 16,6
5. Úc (Quaility in Australia Health Case 1992 14,179 1499 10,6
Study)**
6. Anh 2000 1014 119 11,7
7. Đan Mạch 1998 1097 176 9,0
Ghi chú: * Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Úc;
** Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Mỹ.

Bảng 2. Sự cố y khoa trong phẫu thuật tại Bang Minnesota – Mỹ

Loại sự cố Số Tỷ lệ %
lượng
1. Để sót gạc dụng cụ 31 37,0
2. Phẫu thuật nhầm bộ phận cơ thể 27 32,0
3. Chỉ định phẫu thuật sai 26 31,0
4. Phẫu thuật nhầm người bệnh 0 0,0
5. Tử vong trong và ngay sau khi phẫu thuật 0 0,0
Tổng 84 100
Nguồn: Adverse Health Events in Minnesota: Ninth annual Public report,
January 2013.
Sự cố y khoa do phẫu thuật: WHO ước tính hàng năm có khoảng 230 triệu
phẫu thuật. Các nghiên cứu ghi nhận tử vong trực tiếp liên quan tới phẫu thuật từ
0,4-0,8% và biến chứng do phẫu thuật từ 3-16%. Theo Viện nghiên cứu Y học
Mỹ và Úc gần 50% các sự cố y khoa không mong muốn liên quan đến người
bệnh có phẫu thuật.

247
Sự cố y khoa liên quan tới nhiễm khuẩn bệnh viện: WHO công bố NKBV
từ 5-15% người bệnh nội trú và tỷ lệ NKBV tại các khoa điều trị tích cực từ 9-
37%; Tỷ lệ NKBV chung tại Mỹ chiếm 4,5%. Năm 2002, theo ước tính của
CDC tại Mỹ có 1,7 triệu người bệnh bị NKBV, trong đó 417,946 người bệnh
NKBV tại các khoa hồi sức tích cực (24,6%).
1.3.2. Sự cố y khoa tại Việt Nam
Bảng 3. Nhiễm trùng bệnh viện tại một số bệnh viện Việt Nam.

Nghiên cứu Năm NKBV %


Nguyễn Thanh Hà và cộng sự (6BV phía Nam) 2005 5,6
Nguyễn Việt Hùng (36BV phía Bắc) 2006 7,8
Trần Hữu Luyện. Giám sát NKVM của 1000 NB có 2008 4,3
phẫu thuật tại BVTW Huế.
Lê Thị Anh Thư. Giám sát VPBV liên quan thở máy 2011 39,4
của 170NB tại BV Chợ Rẫy.
Nguồn: Báo cáo KSNK Bộ Y tế / Bệnh viện Bạch mai tổ chức năm 2005, 2008,
2012
Các nghiên cứu của các bệnh viện về nhiễm khuẩn bệnh viện được báo cáo
trong các hội nghị, hội thảo về KSNK cho thấy nhiễm khuẩn bệnh viện hiện mắc
từ 4,5%-8% người bệnh nội trú.
1.4. Phân loại sự cố y khoa
1.4.1. Phân loại sự cố y khoa theo mức độ nguy hại đối với người bệnh
Theo kinh nghiệm của một số nước, sự cố y khoa được phân loại theo các
cách khác nhau, tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Bao gồm phân loại theo mức
độ nguy hại của người bệnh, theo theo tính chất nghiêm trọng của sự cố làm cơ
sở để đo lường và đánh giá mức độ nguy hại cho người bệnh10.
Bảng 4. Phân loại sự cố y khoa theo mức độ nguy hại

Mức Mô tả Mức độ nguy


độ hại
A Sự cố xảy ra có thể tạo ra lỗi/sai sót Không nguy hại
B Sự cố đã xảy ra nhưng chưa thực hiện trên NB cho NB

C Sự cố đã xảy ra trên NB nhưng không gây hại


D Sự cố đã xảy ra trên NB đòi hỏi phải theo dõi

248
E Sự cố xảy ra trên NB gây tổn hại sức khỏe tạm
thời đòi hỏi can thiệp chuyên môn Nguy hại cho
F Sự cố xảy ra trên NB ảnh hưởng tới sức khỏe hoặc NB
kéo dài ngày nằm viện
G Sự cố xảy ra trên NB dẫn đến tàn tật vĩnh viễn
H Sự cố xảy ra trên NB phải can thiệp để cứu sống
NB
I Sự cố xảy ra trên người bệnh gây tử vong
Nguồn: NCC MERP Index, Medication Errors Council Revises and
Expended Index for categorizing Errors, June 12,2001.
1.4.2. Danh mục các sự cố y khoa cơ sở y tế phải báo cáo

Bảng 5. Danh mục các sự cố y khoa nghiêm trọng phải báo cáo10
1) Sự cố do phẫu thuật, thủ thuật
- Phẫu thuật nhầm vị trí trên người bệnh
- Phẫu thuật nhầm người bệnh
- Phẫu thuật sai phương pháp trên người bệnh
- Sót gạc dụng cụ
- Tử vong trong hoặc ngay sau khi phẫu thuật thường quy
2) Sự cố do môi trường
- Bị shock do điện giật
- Bị bỏng trong khi điều trị tại bệnh viện
- Cháy nổ ôxy, bình ga, hóa chất độc hại..
3) Sự cố liên quan tới chăm sóc
- Dùng nhầm thuốc ( sự cố liên quan 5 đúng)
- Nhầm nhóm máu hoặc sản phẩm của máu
- Sản phụ chuyển dạ hoặc chấn thương đối với sản phụ có nguy cơ thấp

249
- Bệnh nhân bị ngã trong thời gian nằm viện
- Loét do tỳ đè giai đoạn 3-4 và xuất hiện trong khi nằm viện
- Thụ tinh nhân tạo nhầm tinh trùng hoặc nhầm trứng
- Không chỉ định xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh dẫn đến xử lý không kịp thời
- Hạ đường huyết
- Vàng da ở trẻ trong 28 ngày đầu
- Tai biến do tiêm/chọc dò tủy sống
4) Sự cố liên quan tới quản lý người bệnh
- Giao nhầm trẻ sơ sinh lúc xuất viện
- Người bệnh gặp sự cố y khoa ở ngoài cơ sở y tế
- Người bệnh chết do tự tử, tự sát hoặc tự gây hại
5) Sự cố liên quan tới thuốc và thiết bị
- Sử dụng thuốc bị nhiễm khuẩn, thiết bị và chất sinh học
- Sử dụng các thiết bị hỏng/thiếu chính xác trong điều trị và chăm sóc
- Đặt thiết bị gây tắc mạch do không khí
6) Sự cố liên quan tới tội phạm
- Do thầy thuốc, NVYT chủ định gây sai phạm
- Bắt cóc người bệnh
- Lạm dụng tình dục đối với người bệnh trong cơ sở y tế
Nguồn: NQF, Serious Reportable Event in Health Care 2006 update.
1.4.3. Phân loại sự cố y khoa theo đặc điểm chuyên môn
Hiệp hội an toàn người bệnh Thế giới phân loại sự cố y khoa theo 6 nhóm
sự cố gồm:
1) Nhầm tên người bệnh
2) Thông tin bàn giao không đầy đủ
3) Nhầm lẫn liên quan tới phẫu thuật
4) Nhầm lẫn liên quan tới các thuốc có nguy cơ cao
5) Nhiễm trùng bệnh viện
6) Người bệnh ngã
1.5. Các yếu tố liên quan đến sự cố y khoa

250
Theo các nhà nghiên cứu, các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa gồm: Yếu
tố người hành nghề, yếu tố chuyên môn, yếu tố môi trường công việc và yếu tố
liên quan tới quản lý và điều hành cơ sở y tế
1.5.1. Yếu tố con người
a) Sai sót không chủ định
- Do thiếu tập trung khi thực hiện các công việc thường quy (bác sĩ ghi hồ
sơ bệnh án, điều dưỡng tiêm và phát thuốc cho người bệnh..). Các sai lầm này
không liên quan tới kiến thức, kỹ năng của người hành nghề mà thường liên
quan tới các thói quen công việc
- Do quên ( bác sĩ quên không chỉ định các xét nghiệm cấp để chẩn đoán,
điều dưỡng viên quên không bàn giao thuốc, quên không lấy bệnh phẩm xét
nghiệm,..)
- Do tình cảnh của người hành nghề ( mệt mỏi, ốm đau, tâm lý,..)
- Do kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp hạn chế áp dụng các quy định
chuyên môn không phù hợp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp sự cố y khoa
không mong muốn xảy ra ngay đối với các thầy thuốc có kinh nghiệm nhất và
đang trong lúc thực hiện công việc chuyên môn có trách nhiệm với người bệnh.
b) Sai sót chuyên môn
- Cắt xén hoặc làm tắt các quy trình chuyên môn
- Vi phạm đạo đức nghề nghiệp
1.5.2. Đặc điểm chuyên môn y tế bất định
- Bệnh tật của người bệnh diễn biến, thay đổi
- Y học là khoa học chẩn đoán luôn kèm theo xác suất
- Can thiệp nhiều thủ thuật, phẫu thuật trên người bệnh dẫn đến rủi ro và
biến chứng bất khả kháng
- Sử dụng thuốc, hóa chất đưa vào cơ thể dễ gây sốc phản vệ, phản ứng
v.v,..
1.5.3. Môi trường làm việc nhiều áp lực
- Môi trường vật lý ( tiếng ồn, nhiệt độ, diện tích..)

251
- Môi trường công việc ( quá tải, thiếu nhân lực, thiếu phương tiện..); Môi
trường tâm lý (tiếp xúc với người ốm, tâm lý luôn căng thẳng…)
1.5.4. Quản lý và điều hành dây chuyền khám chữa bệnh
- Một số chính sách, cơ chế vận hành bệnh viện đang tiềm ẩn nhiều nguy
cơ có thể làm gia tăng sự cố y khoa liên quan tới BHYT, tự chủ, khoán quản làm
tăng lạm dụng dịch vụ y tế.
- Tổ chức cung cấp dịch vụ: Dây chuyền khám chữa bệnh khá phức tạp,
ngắt quãng, nhiều đầu mối, nhiều cá nhân tham gia trong khi hợp tác chưa tốt.
- Thiếu nhân lực nên bố trí nhân lực không đủ để bảo đảm chăm sóc
người bệnh 24 giờ/24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần. Các ngày cuối tuần, ngày lễ việc
chăm sóc, theo dõi người bệnh chưa bảo đảm liên tục.
- Đào tạo liên tục chưa tiến hành thường xuyên
- Kiểm tra giám sát chưa hiệu quả, thiếu khách quan.
Sơ đồ mô tả các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa

YẾU TỐ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH


Chính sách, cơ chế vận hành, tổ chức cung cấp dịch vụ, bố trí
nguồn lực, đào tạo nhân viên và kiểm tra, giám sát

YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG NƠI LÀM VIỆC


Môi trường vật lý (ánh sáng, nhiệt độ, tiếng ồn, nơi làm
việc chật hẹp), quá tải công việc, áp lực tâm lý

YẾU TỐ CHUYÊN MÔN


Bệnh bất định, xác suất, dùng thuốc, phẫu thuật,
thủ thuật dễ gây phản ứng

YẾU TỐ NGƯỜI HÀNH NGHỀ


Kiến thức, kinh nghiệm, đạo đức nghề

252
nghiệp, sức khỏe, tâm lý..

SỰ CỐ XẢY RA

Sơ đồ 1. Các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa


1.6. Phân tích nguyên nhân gốc
1.6.1. Mô hình phân tích nguyên nhân sự cố theo Reason J. Cathey

Lỗi hoạt động (active errors)

Nguy

Sự cố Lỗi hệ thống (Latent conditions)

Mô hình các lớp hàng rào bảo vệ của hệ thống phòng ngừa sự cố y khoa
Nguồn: Reason J. Carthey, Diagnosing vulnerable system sysdrome
Trong y tế, lỗi hoạt động (active errors) liên quan trực tiếp tới người hành
nghề vì họ ở lớp hàng rào phòng ngự cuối cùng trực tiếp với người bệnh. Khi sự
cố xảy ra người làm công tác khám chữa bệnh trực tiếp (bác sĩ, điều dưỡng, hộ
sinh…) dễ bị gán lỗi. Tuy nhiên, các yếu tố hệ thống (latent factors) có vai trò
rất quan trọng liên quan tới các sự cố đó là công tác quản lý, tổ chức lao động,
môi trường làm việc, và thường ít được chú ý xem xét về sự liên quan. Các nhà
nghiên cứu nhận định cứ có một lỗi hoạt động thường có 3-4 yếu tố liên quan tới
lỗi hệ thống.
1.6.2. Lợi ích của việc phân tích nguyên nhân gốc
Việc phân tích xác định nguyên nhân gốc không chỉ đơn giản là tìm kiếm
lỗi cá nhân mang tính triệu chứng mà phải loại bỏ các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn
gián tiếp thúc đẩy sự cố xảy ra. Việc phân tích nguyên nhân gốc và thực hiện các
hành động khắc phục được coi là quá trình cải tiến liên tục của cơ sở y tế.
Những yếu kém trong việc tìm hiểu nguyên nhân gốc của các sự cố y
khoa dẫn đến việc mặc dù sự cố y khoa đã tồn tại từ lâu nhưng hệ thống y tế

253
chưa có được bức tranh dịch tễ về sự cố y khoa để có phương sách đối phó hiệu
quả. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra Hội chứng hệ thống suy yếu của tổ chức
(Vulnerable System Syndrome). Hội chứng này có ba nhóm triệu chứng chính
là: (1) Đổ lỗi cho cá nhân trực tiếp (bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh..); (2) Phủ nhận
sự tồn tại các điểm yếu của lỗi hệ thống; (3) Theo đuổi mù quáng các chỉ số tài
chính, lạm dụng các chỉ định chuyên môn.
1.7. Tầm quan trọng của bảo đảm an toàn người bệnh trong hoạt động khám
bệnh, chữa bệnh.
Hậu quả về sức khỏe: hậu quả của các sự cố y khoa không mong muốn làm
tăng gánh nặng bệnh tật, tăng ngày nằm viện trung bình, tăng chi phí điều trị,
làm giảm chất lượng chăm sóc y tế và ảnh hưởng đến uy tín, niềm tin đối với
cán bộ y tế và cơ sở cung cấp dịch vụ.
Tại Mỹ (Utah- Colorado): các sự cố y khoa không mong muốn đã làm tăng
chi phí bình quân cho việc giải quyết sự cố cho một người bệnh là 2262 US$ và
tăng 1,9 ngày điều trị/người bệnh20. Theo một nghiên cứu khác của Viện Y học
Mỹ chi phí tăng $2595 và thời gian nằm viện kéo dài hơn 2,2 ngày/người bệnh.
Ở Australia hàng năm: 470 000 NB nhập viện gặp sự cố y khoa, tăng 8%
ngày điều trị (thêm 3,3 triệu ngày điều trị) do sự cố y khoa, 18000 tử vong,
17000 tàn tật vĩnh viễn và 280000 người bệnh mất khả năng tạm thời.
Tại Anh: Bộ Y tế Anh ước tính có 850.000 sự cố xảy ra hàng năm tại các
bệnh viện Anh quốc, chỉ tính chi phí trực tiếp do tăng ngày điều trị đã lên tới 2
tỷ bảng. Bộ Y tế Anh đã phải sử dụng 400 triệu bảng để giải quyết các khiếu
kiện lâm sàng năm 1998/1999 và ước tính phải chi phí 2,4 tỷ bảng Anh để giải
quyết những kiện tụng chưa được giải quyết. Chi phí cho điều trị nhiễm khuẩn
bệnh viện lên tới 1 tỷ bảng Anh hàng năm. Con số kiện tụng lên tới 38000 đối
với lĩnh vực chăm sóc y tế gia đình và 28000 đơn kiện đối với lĩnh vực bệnh
viện.
Tại Nhật Bản, theo số liệu của tòa án, bình quân mỗi ngày người dân kiện
và đưa bệnh viện ra tòa từ 2-3 vụ. Thời gian giải quyết các sự cố y khoa tại Nhật
Bản trung bình 2 năm/vụ khiếu kiện.
2. Phòng ngừa sự cố, sai sót y khoa

254
2.1. Phòng ngừa sự cố y khoa trong việc xác định người bệnh
2.1.1. Các nguyên tắc chung trong xác định người bệnh:
- Cần xác định một cách đáng tin cậy cá nhân đó chính là người mà ta phải
chăm sóc, điều trị, và phục vụ
- Cần ráp nối việc chăm sóc, điều trị, và phục vụ của người bệnh với nhau
2.1.2. Các nội dung cần thiết trong xác định người bệnh:
- Phải có hai mẫu thông tin để nhận dạng bệnh nhân (ví dụ, tên và ngày
sinh của bệnh nhân). Có thể sử dụng băng cổ tay có ghi tên và một con số riêng
biệt của bệnh nhân để nhận dạng chính xác bệnh nhân (tên và con số riêng biệt
là hai mẫu thông tin).
- Hai công cụ nhận dạng cụ thể này phải được gắn kết trực tiếp với bệnh
nhân, và cũng hai công cụ ấy phải được gắn kết trực tiếp với thuốc men, các sản
phẩm về máu, các ống chứa mẫu vật lưu (chẳng hạn trên nhãn được dán vào).
2.2. Cải thiện thông tin trong nhóm chăm sóc.
Trao đổi là qui trình nhờ đó thông tin được trao đổi giữa các cá nhân, các
khoa phòng, hoặc các cơ sở. Việc trao đổi phải đi vào mọi khía cạnh của cơ sở y
tế, từ thực hiện việc chăm sóc cho đến cải tiến, dẫn đến những tiến bộ đáng kể
trong chất lượng và trong việc thể hiện chức trách. Các công đoạn của qui trình
trao đổi thông tin gồm có:
- Trao đổi giữa nhà cung cấp dịch vụ y tế và/hoặc nhân viên y tế và bệnh nhân.
- Hướng dẫn bệnh nhân và gia đình họ.
- Trao đổi và hợp tác giữa các nhân viên.
- Phân phối thông tin.
- Làm việc theo đội ngũ đa ngành.
2.2.1. Các nguyên tắc chung trong cải tiến việc trao đổi thông tin của nhân viên:
- Lãnh đạo bệnh viện cần thông tin cho NVYT về vai trò của cải tiến việc
trao đổi thông tin đối với chất lượng và sự an toàn trong chăm sóc sức khoẻ.
- Thất bại trong trao đổi thông tin phải được nhìn nhận là do lỗi hệ thống
hơn là quy cho bất cứ một nhân viên cụ thể nào.

255
- NVYT phải nắm được lợi ích của việc làm việc nhóm, sự hợp tác, và trao
đổi thông tin. để có được sự trao đổi thành công trong công việc
- Ngoài việc trao đổi giữa các thầy thuốc với nhau, và với các chuyên gia y
tế khác, trao đổi giữa thầy thuốc với bệnh nhân và gia đình họ là rất cần thiết. .
Bệnh nhân và các thành viên trong gia đình cũng cần được giáo dục về giá trị
của việc trao đổi thông tin với người chăm sóc sức khoẻ cho mình.
- Cơ sở y tế cần phải nắm chắc bệnh nhân là ai.
2.2.2. Các nội dung cần thiết để cải tiến việc trao đổi thông tin của nhân viên:
- Xác định rõ ràng các phương pháp trao đổi thông tin được mong đợi. Sử
dụng các tiến bộ ở nhiều lĩnh vực khác nhau để cải tiến việc trao đổi thông tin
giữa các thầy thuốc. Trao đổi trực tiếp giữa các nhân viên y tế thường là cách tốt
nhất để mang lại sự chăm sóc an toàn, chất lượng cao. Sử dụng tư liệu viết tay
cần triển khai và thực hiện. Chú ý các tài liệu viết tay nhất thiết phải dễ đọc.
- Xây dựng hệ thống và qui trình để hoàn thiện việc trao đổi thông tin liên
quan đến nhu cầu của bệnh nhân trong thời gian điều trị. Với sự tham gia của
bác sĩ và các nhân viên điều trị khác, lãnh đạo phải xây dựng và thực hiện các hệ
thống thông tin để chuyển tải thông tin từ người này qua người kia. Các báo cáo
miệng trực tiếp và các tư liệu bằng văn bàn và điện tử là những thứ hiệu quả
nhất. Các báo cáo thu qua băng đĩa, mặc dù thường được xem là phương tiện hỗ
trợ, cũng không tạo cơ hội cho người chăm sóc sau đặt câu hỏi với người chăm
sóc trước đó. Tuy nhiên, băng đĩa có thể được tham khảo nhiều lần và bởi nhiều
người. Điều cần chú ý là bác sĩ và điều dưỡng phải nhận được tất cả mọi thông
tin cần thiết khi bắt đầu chăm sóc một người bệnh. Các điều dưỡng phải lưu trữ
những điểm quan trọng bằng phương tiện được triển khai ở cơ sở mình để
chuyển giao cho ca trực kế tiếp.
- Xác định và đánh giá các phương pháp trao đổi thông tin được sử dụng tại
cơ sở, bao gồm nói miệng, văn bản, và điện tử. Nhân viên nên khảo sát một cách
có hệ thống các phương pháp trao đổi thông tin sẽ được sử dụng để xác định
những phương pháp nào có thể bị lỗi. Việc chăm sóc dựa trên rất nhiều sự trao
đổi bằng miệng và bằng văn bản và phương pháp nào cũng có thể bị lỗi. Việc
lưu trữ hồ sơ điện tử và vi tính hoá việc kê đơn thuốc là hai việc giúp giảm rắc
rối liên quan đến việc đưa ra y lệnh.

256
- Triển khai và thực hiện các phương thức hiệu quả để liên lạc với các
chuyên gia. Liên lạc nhanh chóng với các chuyên gia và cố vấn là điều rất quan
trọng của cơ sở y tế để bảo vệ người bệnh khỏi những hậu quả xấu và bảo đảm
điều trị được liên tục. Ví dụ, một bác sĩ cấp cứu cần liên lạc các chuyên gia như
bác sĩ phẫu thuật chấn thương và bác sĩ phẫu thuật tim qua máy nhắn tin, điện
thoại, hoặc các phương tiện khác để chăm sóc đúng cho bệnh nhân đang trong
phòng cấp cứu với vết thương do súng đạn và cơn nhồi máu cơ tim.
- Khuyến khích thắc mắc khi nhận y lệnh không rõ ràng hoặc mang tích
cách cưỡng bức. Nhân viên nên được khuyến khích đặt câu hỏi và thắc mắc về
những gì không rõ ràng hoặc những y lệnh không thích hợp.
2.2.3. Cải tiến sự chính xác trong việc xác định bệnh nhân
Biện pháp 1: Sử dụng ít nhất hai công cụ nhận dạng bệnh nhân (nhưng cả hai
đều không phải là số phòng hoặc số giường của bệnh nhân) bất cứ khi nào quản
lý thuốc men và các sản phẩm về máu, lấy mẫu máu và các mẫu khác để xét
nghiệm, hoặc làm công tác điều trị họăc bất cứ công việc nào khác
- Có thể sử dụng thông tin như tên bệnh nhân, ngày sinh bệnh nhân, hoặc
mã vạch làm công cụ nhận dạng
- Khi kiểm tra tên với bệnh nhân, nhân viên y tế không bao giờ nên đọc tên
và yêu cầu bệnh nhân xác nhận nó. Những bệnh nhân bị nhầm lẫn hoặc rối loạn
hành vi có thể đồng ý ngay cả khi đó không phải là tên của họ. Cách làm an toàn
hơn là yêu cầu bệnh nhân tự nói tên của họ.
- Trường hợp bệnh nhân hôn mê, thân nhân người bệnh phải xác định nhân
thân cho họ. Nếu bệnh nhân hôn mê được đưa đến bệnh viện bởi công an hoặc
dịch vụ cấp cứu và không có một chứng cứ nào về nhân thân, hỏi công an hoặc
nhân viên cấp cứu về người bệnh, nếu có thể và cho họ số nhập viện hoặc số cấp
cứu hoặc số hồ sơ.
Đối với các phòng xét nghiệm: Sử dụng ít nhất hai công cụ nhận dạng
bệnh nhân (nhưng cả hai đều không là vị trí của bệnh nhân) bất cứ khi nào lấy
mẫu cho phòng xét nghiệm hoặc quản lý thuốc men và các sản phẩm về máu, và
sử dụng cả hai công cụ nhận dạng để dán nhãn cho các vật chứa mẫu có sự hiện
diện của bệnh nhân. Các quy trình được xây dựng để vẫn giữ được tên chủ nhân

257
của các mẫu trong suốt quá trình trước phân tích, đang phân tích, và sau phân
tích.
Biện pháp 2: Ngay trước khi bắt đầu bất cứ thủ thuật xâm lấn nào, cần tiến hành
qui trình làm rõ sau cùng để xác định chính xác bệnh nhân, phương pháp, vị trí,
và sự sẵn sàng các hồ sơ thích hợp. Việc làm rõ này phải tiến hành ở nơi thủ
thuật được thực hiện, ngay trước giây phút bắt đầu. Nhân thân bệnh nhân được
tái xác định nếu bác sĩ thực hiện đã rời khỏi chỗ nằm của bệnh nhân trước khi
bắt đầu thủ thuật. Đánh dấu vị trí thao tác là điều bắt buộc trừ khi bác sĩ liên tục
có mặt từ lúc quyết định tiến hành phương thức cho đến khi bắt đầu thủ thuật.
Ba vấn đề sau đây cần được xác định:
- Người bệnh chính xác
- Phương pháp chính xác
- Vị trí thủ thuật chính xác
Qui trình làm rõ sau cùng sử dụng các kỹ thuật trao đổi thông tin năng
động. Tất cả nhân viên có liên quan đều phải ngưng lại - có nghĩa là, dùng một
chút “thời gian không thao tác” – để làm rõ rằng đó chính là bệnh nhân chính
xác, phương pháp chính xác, và vị trí chính xác.
Tất cả thành viên của nhóm thực hiện phải tham gia vào qui trình làm rõ
cuối cùng. Tất cả hoạt động trong phòng phải ngưng lại để mọi người tham gia.
Mọi việc sẽ không được bắt đầu cho đến khi bất cứ và tất cả các câu hỏi và vấn
đề đều được giải quyết. Việc thực hiện phải được đọc to lên, chính xác như trên
văn bản đồng ý thực hiện. Ví dụ, tại cuộc phẫu thuật, tất cả các bước kế tiếp
trong một ca có nhiều bước, tất cả mọi hoạt động phải ngưng lại, và một thành
viên được chỉ định, chẳng hạn một y tá vòng ngoài sẽ đọc to cách thức tiến hành
và vị trí thực hiện thao tác.
Phải có chính sách cho việc làm rõ sau cùng và phải theo dõi đôn đốc việc
tuân thủ chính sách này, bảo đảm tất cả thành viên đều theo đúng đường lối và
xác định đúng các lĩnh vực cải tiến.
Biện pháp 3: Đưa bệnh nhân tham gia vào trao đổi thông tin.

258
Yêu cầu bệnh nhân nhắc nhở nhân viên y tế xác định nhân thân cho họ. Có
thể yêu cầu cho bệnh nhân tham gia vào việc đánh dấu vị trí như một phần của
qui trình trước khi thực hiện thủ thuật.
2.2.4. Cải tiến hiệu quả trao đổi thông tin giữa nhân viên y tế
Biện pháp 1: Không khuyến khích lệnh miệng. Khi không thể tránh khỏi lệnh
miệng:
- Nhân viên nhận lệnh miệng phải viết ra và đọc lại đúng nguyên văn cho
người bác sĩ đã ra lệnh nghe. Người bác sĩ này sau đó xác nhận bằng miệng rằng
lệnh đó là chính xác. Yêu cầu này áp dụng cho tất cả mọi y lệnh bằng miệng,
không riêng cho y lệnh cấp thuốc.
- Đối với mệnh lệnh bằng miệng hoặc qua điện thoại về các kết quả xét
nghịêm quan trọng, làm rõ mệnh lệnh đầy đủ hoặc kết quả xét nghiệm bằng cách
yêu cầu nhân viên nhận lệnh “đọc lại” mệnh lệnh đầy đủ hoặc kết quả xét
nghiệm. Tại phòng mổ hoặc phòng cấp cứu, điều dưỡng chuyên viên gây mê
viết ra y lệnh và đọc lại cho người ra lệnh nghe. Người ra lệnh sau đó có thể xác
nhận y lệnh bằng miệng. Để làm rõ hơn, người xử lý lệnh đó có thể đọc to lên
trước khi thực hiện và một lần nữa nhận lời xác nhận từ người ra lệnh. Trong
trường hợp khẩn cấp, việc “lập đi lập lại” vẫn phải được thực hiện.
- Những người nhận y lệnh cấp thuốc cần phải lập lại tên thuốc và liều
lượng cho người ra y lệnh và yêu cầu hoặc tự làm việc đánh vần, dùng các cách
trợ giúp như “B như trong quả bóng”, “M như trong Mary”. Tất cả con số phải
được đánh vần, ví dụ, “21” phải được đọc là “hai một” để tránh nhầm lẫn
- Khi có thể, nhờ một người thư hai nghe mệnh lệnh qua điện thoại để làm
rõ sụ chính xác.
- Ghi lại lệnh miệng trực tiếp vào hồ sơ của người bệnh
Biện pháp 2: Truyền đạt thông tin rõ ràng
- Tránh dùng chữ viết tắt. Ví dụ, “1v/3l/n” phải được viết rõ là “ngày 3 lần,
mỗi lần 1 viên”.

259
- Viết mục đích của thuốc trên y lệnh. Thông tin này có thể giúp dược sĩ kiểm
tra y lệnh cho liều lượng và thời hạn thích hợp. Thông tin này cũng hạn chế sự
nhầm lẫn tiềm ẩn của những loại thuốc trông giống nhau và nghe giống nhau.
- Y lệnh phải bao gồm tên thuốc, liều lượng, hàm lượng, số lần, lộ trình,
khối lượng, và thời hạn.
- Có thể dùng các tờ đơn thuốc được in sẵn để nhân viên kiểm tra các ô có
ghi y lệnh. Các mẫu đơn này làm giảm bớt thời gian viết y lệnh, xoá bỏ việc giải
thích sai khi đọc các lệnh viết tay, tránh được nhầm lẫn và lỗi chính tả.
- Cung cấp tên khoa học và tên thương mại của tất cả các nhãn hiệu thuốc.
Tất cả thuốc được phát theo đơn phải phải được dán nhãn một cách an toàn và
hợp lý với một phương pháp chuẩn hoá trong một cách-thức-sẵn-sàng-để-quản
lý nhất, nhằm hạn chế tối đa các sai sót. Các loại thuốc cho theo y lệnh phải có
cả tên khoa học lẫn tên thương mại, nếu tên thương mại khác với tên khoa học.
Các chuyên viên khảo sát sẽ thẩm định xem tên thuốc trên y lệnh, nhãn dán trên
thuốc, và sổ theo dõi của điều dưỡng có giống nhau không. Việc cung cấp cả hai
loại tên thuốc bảo đảm sự nhất quán trong sổ sách và giúp ngăn ngừa việc giải
thích sai y lệnh.
- Cung cấp cho bệnh nhân các thông tin bằng văn bản về thuốc, gồm cả tên
khoa học và tên thương mại. Xác nhận các thuốc mà bệnh nhân thắc mắc hoặc
không nhận ra.
Biện pháp 3: Chuẩn hoá danh mục các từ rút gọn, từ viết tắt, và các ký hiệu
không được dùng trong cơ sở y tế.
- Cơ sở y tế cần phải rà soát toàn diện danh mục từ rút gọn sử dụng tại cơ
sở, và, với sự tham gia của các bác sĩ, thực hiện một danh mục từ rút gọn và ký
hiệu không chính thức được chia sẻ với tất cả người ra y lệnh.
- In danh mục trên giấy, giấy dán , bìa cứng, v. v.. màu sáng và đặt nó trong
hồ sơ lưu, sơ đồ bệnh án, gần máy tính, và ở khu vực bệnh nhân nằm.
- Cung cấp cho nhân viên các thẻ bỏ túi có in danh mục.
- In danh mục ở lề hoặc ở cạnh dưới của các tờ y lệnh và/ hoặc phiếu theo dõi.
- Gắn các bản sao danh mục vào sau lưng của tờ ghi phác đồ điều trị.

260
- Xoá những từ viết tắt bị cấm trong tờ y lệnh in sẵn và trong các mẫu đơn khác.
- Triển khai thực hiện chính sách bảo đảm rằng nhân viên y tế tham khảo
danh mục và tuân thủ.
Biện pháp 4: Đo lường, đánh giá kết quả và giá trị xét nghiệm quan trọng để cải
tiến sự đúng giờ trong việc báo cáo, và trong tiếp nhận
- Báo cáo và tiếp nhận các kết quả và giá trị xét nghiệm quan trọng đúng
thời điểm chính
- Tất cả các giá trị được xác định là quan trọng bởi phòng xét nghiệm đều
được báo cáo trực tiếp cho nhân viên chịu trách nhiệm. Nếu nhân viên chịu trách
nhiệm không có mặt ở đó trong thời gian làm việc, cần có cơ chế để báo cáo các
thông tin quan trọng cho nhân viên trực.
- Xây dựng chính sách cho: (1) khung thời gian mong muốn cho việc báo
cáo; (2) ai có thể nhận các thông số quan trọng, và (3) một cơ chế báo cáo thay
thế.
2.3. Phòng ngừa sai sót trong sử dụng thuốc
2.3.1. Phân loại sai sót trong sử dụng thuốc giai đoạn
- Một sai sót trong sử dụng thuốc được định nghĩa là một một thuốc được
sử dụng khác với y lệnh trong trên hồ sơ bệnh án của người bệnh. Sai sót này
bao gồm bất kỳ sai sót nào xảy ra trong quá trình kê đơn, cấp phát, sử dụng
thuốc, bất kể sai sót đó có dẫn đến kết quả bất lợi hay không.
- Sai sót trong kê đơn (Prescribing error): lựa chọn thuốc không chính xác
(dựa vào chỉ định, chống chỉ định, tiền sử dị ứng thuốc, các thuốc đã được sử
dụng và các yếu tố khác), là các sai sót về liều dùng, đường dùng, dạng bào chế,
số lượng, nồng độ thuốc, hướng dẫn sử dụng của thuốc trong đơn hay thẩm
quyền kê đơn của bác sỹ, đơn thuốc hoặc các chữ viết tắt không đọc được dẫn
đến dùng sai thuốc hoặc sai người bệnh.
- Sai sót trong cấp phát thuốc (Deteriorated drug error): Cấp phát các thuốc
đã hết hạn hoặc chất lượng không đảm bảo cho người bệnh.

261
- Sai sót trong giám sát thuốc (Monitoring error): Thất bại trong việc kê
đơn theo phác đồ điều trị cho phù hợp với chẩn đoán hay thất bại trong đánh giá
người bệnh thông qua các dữ liệu lâm sàng hoặc các xét nghiệm phù hợp.
2.3.2. Phân loại sai sót trong sử dụng thuốc theo biến cố
- Dùng thuốc không được kê trong đơn (Unauthorized drug error): Cho
người bệnh dùng thuốc không được kê trong đơn/bệnh án
- Sai về thời điểm dùng thuốc (Wrong time error): dùng thuốc không đúng
theo thời gian quy định của thuốc
- Sai liều (Improper dose error): Cho người bệnh sử dụng thuốc với liều
lượng lớn hơn hoặc ít hơn theo yêu cầu của người kê đơn hoặc cho người bệnh
dùng liều bị trùng lặp.
- Sai dạng thuốc (Wrong dosage-form errore): Cho người bệnh dùng thuốc
khác dạng bào chế theo yêu cầu của người kê đơn
- Sai sót trong pha chế thuốc (Wrong drug preparation error): Thuốc được
pha chế không đúng hoặc thao tác không đúng trước khi sử dụng.
- Sai kỹ thuật trong thực hiện thuốc (Wrong administrate technique error):
Sai quy trình hoặc kỹ thuật trong sử dụng thuốc.
- Sai sót trong tuân thủ điều trị (Compliance error): Người bệnh không hợp
tác và không tuân thủ dùng thuốc theo quy định.
2.3.3. Phân loại các sai sót trong sử dụng thuốc theo mức độ nghiêm trọng
Chưa gây
A Sự cố có khả năng gây sai sót
sai sót
B Sai sót đã xảy ra nhưng không ảnh hưởng tới người bệnh
Sai sót, Sai sót đã xảy ra ảnh hưởng tới người bệnh nhưng không gây
C
không tổn hại
gây tổn Sai sót đã xảy ra ảnh hưởng tới người bệnh, yêu cầu giám sát
hại D và báo cáo kết quả có tổn hại đến người bệnh không hoặc có
biện pháp can thiệp làm giảm tổn hại.
Sai sót, E Sai sót đã xảy ra gây tổn hại tạm thời đến người bệnh, yêu cầu

262
có can thiệp
Sai sót đã xảy ra gây tổn hại tạm thời đến người bệnh, yêu
F
gây tổn cầu nằm viện hoặc kéo dài thời gian nằm viện.
hại G Sai sót đã xảy ra gây tổn hại vĩnh viễn đến người bệnh,
Sai sót đã xảy ra, yêu cầu tiến hành các can thiệp cần thiết để
H
duy trì cuộc sống của người bệnh.
Sai sót
dẫn đến I Sai sót đã xảy ra gây tử vong.
tử vong

2.3.4. Nguyên nhân dẫn đến sai sót trong dùng thuốc
Một số vấn đề hay gặp liên quan đến sai sót trong sử dụng thuốc có thể giải
quyết bao gồm
1. Sự quá tải và mệt mỏi trong công việc của cán bộ y tế
2. Cán bộ y tế thiếu kinh nghiệm làm việc hoặc không được đào tạo đầy đủ,
đúng chuyên ngành
3. Trao đổi thông tin không rõ ràng giữa các cán bộ y tế (VD: chữ viết xấu, kê
đơn bằng miệng)
4. Các yếu tố về môi trường như thiếu ánh sáng, quá nhiều tiếng ồn hay
thường xuyên bị gián đoạn công việc
5. Số lượng thuốc dùng cho một người bệnh nhiều
6. Việc kê đơn, cấp phát hay thực hiện thuốc phức tạp
7. Sử dụng nhiều chủng loại thuốc và nhiều dạng dùng (VD thuốc tiêm) gây ra
nhiều sai sót liên quan đến thuốc
8. Nhẫm lẫn về danh pháp, quy cách đóng gói hay nhãn thuốc
9. Thiếu các chính sách và quy trình quản lý thuốc hiệu quả
2.3.5. Giải pháp

263
Một số cách ngăn chặn các sai sót trong dùng thuốc, đặc biệt trong bệnh viện
bao gồm:
- Giải pháp mang tính hệ thống
- Xây dựng các giải pháp với các đối tượng có liên quan: Bác sỹ, dược sỹ,
điều dưỡng.
- Giám sát và quản lý sai sót
2.3.5.1. Giải pháp mang tính hệ thống
* Cung cấp đầy đủ chính xác thông tin người bệnh
- Trả kết quả xét nghiệm qua mạng
- Thông báo về tiền sử dị ứng của người bệnh cho bác sỹ/dược sỹ trước khi
cấp phát và giám sát sử dụng thuốc
- Liệt kê các phản ứng dị ứng và chẩn đoán trên y lệnh hoặc đơn thuốc
- Đeo vòng đeo tay đánh dấu người bệnh có tiền sử dị ứng
- Luôn mang theo y lệnh khi gíam sát sử dụng thuốc, tư vấn cho người bệnh
trước khi cấp phát thuốc
- Yêu cầu theo dõi kỹ người bệnh có nguy cơ cao: béo phì, hen, ngưng thở khi
ngủ… khi sử dụng thuốc nhóm opioids
* Cung cấp đầy đủ thông tin thuốc cho bác sỹ, điều dưỡng
- Cập nhật kịp thời thông tin thuốc
- Có dược sỹ tư vấn cho người bệnh về thuốc
- Cung cấp thông tin dưới dạng biểu đồ, quy trình, hướng dẫn, checklist cho
các thuốc co cảnh báo cao
- Liệt kê liều tối đa của các thuốc có cảnh báo cao, thông tin dưới dạng phiếu
yêu cầu hoặc cảnh báo thông qua hệ thống mạng của bệnh viện
- Có dược sỹ xem xét các đề nghị sử dụng các thuốc cần yêu cầu trước khi sử
dụng
* Đảm bảo trao đổi thông tin giữa bác sỹ-dược sỹ-điều dưỡng đầy đủ, chính
xác

264
- Sử dụng hệ thống kê đơn điện tử và hệ thống mạng bệnh viện
- Sử dụng mẫu yêu cầu thuốc chuẩn và đầy đủ thông tin
- Hạn chế yêu cầu thuốc qua điện thoại, đặc biệt các thuốc điều trị ung thư
(Trừ trường hợp khẩn cấp)
- Đọc lại các yêu cầu về thuốc đảm bảo thông tin đầy đủ và chính xác.
- Xây dựng quy trình, thống nhất từng bước tiến hành khi yêu cầu thuốc
- Gửi tất cả các yêu cầu thuốc cho khoa Dược, kể cả các thuốc có sẵn hay các
thuốc không có sẵn.
* Đảm bảo tên thuốc, nhãn thuốc và dạng đóng gói rõ ràng, đúng quy cách
- Lưu ý các thuốc nhìn giống nhau hoặc tên thương mại giống nhau
- Cấp phát cho khoa lâm sàng thuốc có tên thuốc, hàm lượng.
- Dán nhãn cho tất cả các thuốc, làm nổi bật tên thuốc và hàm lượng
- Trong khoa lâm sàng, các thuốc uống được bảo quản trong hộp đến tận khi
cấp phát cho người bệnh.
- Sắp xếp các thuốc nhìn giống nhau tại các nơi riêng biệt tránh nhầm lẫn
- Sử dụng các nhãn cảnh báo cho nhân viên y tế về các thuốc có chỉ dẫn đặc
biệt về bảo quản hoặc độ an toàn
- Đảm bảo các thuốc đều dễ đọc và dễ hiểu
* Bảo quản, tồn trữ thuốc đạt tiêu chuẩn GSP: dễ thấy, dễ lấy, dễ tìm, tránh
nhầm lẫn, hư hỏng
- Chuẩn hoá nồng độ của Insulin, Heparin, Morphin
- Sử dụng các dung dịch tiêm truyền đã pha sẵn
- Hạn chế việc điều dưỡng pha dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch trong trường
hợp cấp cứu
- Xây dựng quy định lĩnh thuốc hàng ngày, thuốc cấp cứu cho nhân viên y tế
- Bảo quản chặt các thuốc cảnh báo cao, các thuốc dùng cho người bệnh đặc
biệt, thuốc cần quản lý theo quy định

265
- Không để các dung dịch điện giải đạm đặc tại các hộp thuốc cá nhân của
người bệnh
- Cấp phát thuốc cho người bệnh theo liều dùng, không cấp phát theo tổng liều
điều trị
- Loại bỏ các thuốc sử dụng không liên tục ra khỏi các thiết bị kịp thời
- Không vay mượn thuốc của người bệnh trong quá trình điều trị
- Thiết lập tủ thuốc cấp cứu tại các khoa lâm sàng
* Đảm bảo lựa chọn các thiết bị hỗ trợ dùng thuốc phù hợp với bệnh viện và
trình độ chuyên môn
- Kiểm tra kỹ các thiết bị trước khi mua và sử dụng
- Hạn chế sử dụng nhiều loại bơm tiêm nhằm sự chuyên nghiệp của nhân viên
y tế trong thực hành
- Cấm sử dụng các thiết bị truyền dịch không kiểm soát được tốc độ truyền dịch
- Đào tạo kỹ cho nhân viên y tế về các thiết bị mới và kỹ thuật mới trước khi
sử dụng
- Kiểm tra hai lần (double- check) khi truyền dịch bao gồm: dịch truyền, các
thiết bị hỗ trợ, tình trạng người bệnh trước khi truyền các thuốc cảnh báo cao
* Đảm bảo môi trường làm việc không ảnh hưởng đến nhân viên y tế
- Đảm bảo đầy đủ ánh sáng không gian, trong kho thuốc bao gồm tủ đựng
thuốc và hệ thống cấp phát thuốc tự động
- Xây dựng môi trường làm việc không làm mất tập trung cho việc yêu
cầu/đặt đơn hàng thuốc
- Bố trí các khu vực để thuốc tiêm truyền, thuốc uống, thuốc pha chế riêng
biệt, tránh tiếng ồn, đi lại nhiều và các tác động gây mất tập trung.
- Trang bị tủ lạnh có đủ diện tích để bả quản thuốc
- Có kế hoạch về nhân sự thay thế cho cán bộ y tế khi nghỉ ốm, nghỉ phép và
nghỉ lễ.

266
- Quy định rõ ràng về thời gian nghỉ giải lao và nghỉ ăn trưa, ăn tối cho cán bộ
y tế.
- Quản lý và giám sát thời gian làm việc của cán bộ y tế, đảm bảo được nghỉ
ngơi đầy đủ sau ca trực và không làm việc quá 12h mỗi ngày.
- Hạn chế tối đa việc sử dụng nhân viên y tế tạm thời
- Thông báo cho tất cả cán bộ y tế có liên quan về kế hoạch và thực hiện dịch
vụ kỹ thuật mới, bao gồm cả chi phí cần thiết bổ sung đảm bảo sự an toàn cho
người bệnh.
* Đào tạo và đánh giá thường xuyên năng của cán bộ y tế, bố trí công việc
phù hợp
- Bố trí công việc đúng theo chuyên ngành đào tạo, định kỳ đánh giá
- Bố trí công việc hợp lý giảm quá tải trong công việc
- Yêu cầu các điều dưỡng mới phải thực tập tại khoa Dược để làm quen với
công việc cấp phát thuốc.
- Yêu cầu các dược sỹ mới phải thực tập tại khoa lâm sàng để làm quen với
quy trình sử dụng thuốc.
- Cung cấp thông tin thuốc mới trước khi đưa vào sử dụng
- Khoa Dược dán nhãn cảnh báo cho điều dưỡng các thông tin cần lưu ý với
các thuốc cảnh báo cao
- Bố trí nhân viên y tế đã được đào tạo về sai sót trong sử dụng thuốc trong
đơn vị nhằm ngăn chặn các sai sót xảy ra.
- Mô tả và đánh giá công việc cụ thể về với trách nhiệm đối với người bệnh.
- Cung cấp cho cán bộ y tế những hỗ trự cần thiết và thời gian để tham dự các
khoá học trong và ngoài nước về phòng ngừa sai sót trong sử dụng thuốc
* Tư vấn người bệnh về thông tin thuốc và tuân thủ điều trị
- Tư vấn người bệnh cách chủ động trong việc tìm hiểu và xác định đúng
trước khi nhận thuốc hay sử dụng thuốc

267
- Cung cấp thông tin cho người bệnh hoặc gia đình người bệnh về tên thuốc
(bao gồm tên biệt dược và hoạt chất) cách sử dụng, mục đích điều trị, liều dùng và
cách phản ứng phụ nghiêm trọng
- Hỏi ý kiến dược sỹ về cách sử dụng thuốc nêu người bệnh dùng trên 5 loại
thuốc
- Khuyến khích người bệnh hỏi về các thuốc điều trị
- Trả lời đầy đủ các câu hỏi của người bệnh về thuốc (nếu có) trước khi điều
trị.
- Cung cấp cho người bệnh thông tin về các thuốc cảnh báo cao kê trong đơn
thuốc khi xuất viện
- Cung cấp cho người bệnh số điện thoại và người để liên lạc khi cần hỏi
thông tin về thuốc sau khi xuất viện
- Khuyến khích người bệnh giữ tất cả thông tin về đơn thuốc đã dùng, các
thuốc không kê đơn, thuốc đông dược, vitamin và đưa cho nhân viên y tế khi nhập
viện hoặc điều trị tại nhà.
* Xây dựng quy trình quản lý chất lượng và rủi ro tại đơn vị
- Công bố vấn đề an toàn cho người bệnh là nhiệm vụ của đơn vị
- Đào tạo cho cán bộ quản lý bậc trung để đánh giá hiệu quả về năng lực và
khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp.
- Thay đổi cách nghĩ đổ lỗi khi xảy ra sai sót trong sử dụng thuốc, khi các lỗi
đó không dự đoán hoặc không đo đếm được.
- Thúc đẩy việc báo cáo thường xuyên và duy trì các sai sót từ các khoa phòng
điều trị.
- Thông tin tất cả các sai sót cho người bệnh
- Định kỳ thảo luận nhóm về các sai sót đã xảy ra và cách phòng tránh.
- Xây dựng nhóm đa ngành thường xuyên phân tích, đánh giá các sai sót và
các dữ liệu về an toàn người bệnh để thiết lập hệ thống đảm bảo an toàn cho người
bệnh.

268
- Mời đại diện hội đồng người bệnh tham gia thảo luận về vấn đề an toàn,
khuyến khích cùng tham gia.
- Phổ biến rộng rãi thông tin về các giải pháp phòng ngừa sai sót.
- Sử dụng công nghệ mã hoá bệnh nhân trong điều trị.
2.3.5.2. Giải pháp với các đối tượng có liên quan
* Đối với bác sỹ
- Lựa chọn phác đồ điều trị phù hợp, tham khảo ý kiến dược sĩ và tư vấn với
các bác sĩ chuyên ngành sâu.
- Đánh giá tổng trạng của người bệnh và xem xét tất cả các thuốc đang điều trị
để xác định tương tác thuốc. Theo dõi các triệu chứng lâm sàng và các kết quả xét
nghiệm cần thiết để đánh giá và tối ưu hóa điều trị và khả năng đáp ứng với điều trị
bằng thuốc của người bệnh.
- Bác sỹ cần biết về hệ thống quản lý thuốc tại bệnh viện, bao gồm: danh mục
thuốc bệnh viện, quy trình điều tra sử dụng thuốc, hội đồng có thẩm quyền quyết
định lựa chọn thuốc, quy trình thông tin thuốc mới, các quy định về quản lý thuốc
và quy định kê đơn thuốc.
- Đơn thuốc cần ghi đầy đủ các thông tin: Họ tên người bệnh, tên thuốc
( tên gốc và tên thương mại), nồng độ/hàm lượng, đường dùng, dạng dùng, liều
lượng, số lượng, tần suất sử dụng, tên bác sỹ kê đơn.
- Đơn thuốc được ghi rõ ràng, dễ đọc, dễ hiểu:
- Không sử dụng chữ viết tắt.
- Ghi cách sử dụng cụ thể cho mỗi loại thuốc trong đơn
- Ghi rõ số lượng cần sử đúng theo đơn vị đo lường (mg, ml), không nên
ghi theo đơn vị đóng gói (lọ, hộp), ngoại trừ các thuốc dạng phối hợp.
- Kê đơn tên thuốc theo tên gốc, tránh: kê thuốc tên địa phương (thuốc bà
lang…), tên hóa học, viết tắt tên thuốc.
- Luôn sử dụng một số 0 trước đơn vị nhỏ hơn 1 (ví dụ: 0,5 ml). Với đơn
vị lớn hơn 1, không đượ thêm số 0 vào sau (ví dụ, 5,0 ml).

269
- Ghi rõ đơn vị tính, tránh nhầm lẫn (Ví dụ: 10 units Unsulin thay vì 10U,
có thể nhầm là 100)
- Đơn thuốc và chữ ký bác sỹ phải rõ ràng. Nếu có thể nên sử dụng máy
tính hoặc kê đơn thuốc qua hệ thống máy tính.
- Với các y lệnh hoặc kê đơn thuốc bằng miệng, bác sỹ chắc chắn người
thực hiện hiểu đúng đơn thuốc bằng cách đọc lại đơn thuốc cho bác sỹ.
- Hạn chế kê đơn thuốc tiêm
- Giải thích với người bệnh hoặc người nhà về các lưu ý và tác dụng phụ
của thuốc
- Theo dõi người bệnh và định kỳ khám lại
* Đối với dược sỹ
- Triển khai hoạt động Dược lâm sàng tại bệnh viện, có dược sỹ tham gia
giám sát điều trị bằng thuốc (tham gia từ khi khám bệnh, lựa chọn thuốc điều trị
thích hợp, dùng thuốc, xem xét khả năng tương tác thuốc, trùng lặp thuốc, đánh
giá triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm thích hợp với người bệnh), điều tra
sử dụng thuốc để giúp sử dụng thuốc an toàn, hợp lý.
- Sẵn sàng cung cấp thông tin về thuốc cho bác sỹ và điều dưỡng
- Hiểu rõ về các quy trình và quy định trong cung ứng thuốc tại bệnh viện,
kể cả thuốc cấp phát nội trú, ngoại trú và nhà thuốc bệnh viện
- Đảm bảo hiểu rõ đơn thuốc trước khi cấp phát
- Sắp xếp khu vực chuẩn bị thuốc gọn gàng, sạch sẽ và tránh gián đoạn khi
chuẩn bị.
- Trước khi cấp phát thuốc hàng ngày, cần kiểm tra kỹ đơn thuốc. Đảm bảo
thực hiện đúng quy trình cấp phát. Đối với các thuốc cảnh báo cao (thuốc điều
trị ung thư, thuốc cấp cứu…) cần kiểm tra 2 lần.
- Nên sử dụng nhãn phụ để cảnh báo các thuốc có nguy cơ cao và chú ý
cách sử dụng thuốc. Ngăn ngừa các sai sót liên quan đến tên thuốc “nhìn giống
nhau”, “đọc giống nhau” (LASA) [9]

270
1. Cung cấp thông tin về các thuốc LASA cho bác sỹ, điều dưỡng, dược sỹ
trong bệnh viện
2. Xác định mục đích sử dụng thuốc trước khi cấp phát thuốc hay sử dụng
thuốc.
3. Chỉ chấp nhận y lệnh bằng miệng khi thật sự cần thiết, trừ với các thuốc
điều trị ung thư.
4. HĐT&ĐT cần xem xét các thuốc khi lựa chọn thuốc vào Danh mục
thuốc bệnh viện, tránh các thuốc nhìn giống nhau, đọc giống nhau
5. Kê đơn thông qua hệ thống mạng, tránh nhầm lẫn tên thuốc do chữ viết
khó đọc
6. Thay đối cách nhận biết về tên các thuốc nhìn giống nhau (cả trong hệ
thống kho tàng và máy tính) bằng cách đánh dấu, viết chữ cái cao hơn
(DAUNOrubicin và DOXOrubicin)
7. Cảnh báo nguy cơ sai sót do nhầm lẫn thông qua hệ thống mạng bệnh
viện
8. Sắp xếp các thuốc LASA tại các vị trí khác nhau trong kho thuốc, tủ
thuốc, hộp thuốc của người bệnh…. Dán các nhãn cảnh báo cho cán bộ y tế trên
các lọ thuốc.
9. Đề nghị báo cáo các trường hợp sai sót để có biện pháp phòng tránh kịp
thời.
- Đảm bảo thuốc được cấp phát kịp thời, đảm bảo thời gian điều trị
- Giám sát chất lượng và quy trình sử dụng các thuốc tại tủ trực thuốc tại
các khoa lâm sàng, đảm bảo tối ưu hóa trong điều trị
- Giám sát chất lượng và quy trình trả thuốc từ các khoa lâm sàng. Đánh giá
các thuốc không sử dụng do quên liều.
- Với các đơn thuốc kê cho người bệnh xuất viện, tư vấn cụ thể cho người
bệnh hoặc người nhà cách sử dụng của từng thuốc, các lưu ý và cẩn trọng khi sử
dụng.

271
- Thu thập và lưu trữ các dữ liệu về sai sót trong sử dụng thuốc để phòng
ngừa và điều chỉnh các hoạt động về sử dụng thuốc
* Đối với điều dưỡng
- Hiểu rõ về các quy trình và quy định trong cung ứng thuốc tại bệnh viện,
kể cả thuốc cấp phát nội trú, ngoại trú
- Dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ điều trị.
- Chuẩn bị đủ và phù hợp các phương tiện cho người bệnh dùng thuốc; khi
dùng thuốc qua đường tiêm phải chuẩn bị sẵn sàng hộp thuốc cấp cứu và phác
đồ chống sốc, chuẩn bị đúng và đủ dung môi theo quy định của nhà sản xuất.
- Kiểm tra thuốc (tên thuốc, nồng độ/hàm lượng, liều dùng một lần, số lần
dùng thuốc trong 24 giờ, khoảng cách giữa các lần dùng thuốc, thời điểm dùng
thuốc và đường dùng thuốc so với y lệnh). Kiểm tra hạn sử dụng và chất lượng
của thuốc bằng cảm quan: màu sắc, mùi, sự nguyên vẹn của viên thuốc, ống
hoặc lọ thuốc
- Thực hiện 5 đúng khi dùng thuốc cho người bệnh: đúng người bệnh, đúng
thuốc, đúng liều lượng, đúng đường dùng, đúng thời gian dùng thuốc.
- Bảo đảm người bệnh uống thuốc ngay tại giường bệnh trước sự chứng
kiến của điều dưỡng viên, hộ sinh viên.
- Ghi hoặc đánh dấu thuốc đã dùng cho người bệnh và thực hiện các hình
thức công khai thuốc phù hợp theo quy định của bệnh viện.
- Theo dõi, phát hiện các tác dụng không mong muốn của thuốc, tai biến
sau dùng thuốc và báo cáo kịp thời cho bác sĩ điều trị. Điền thông tin cần thiết
vào mẫu báo cáo ADR và thông báo cho dược sỹ phụ trách.
- Hướng dẫn, giải thích cho người bệnh tuân thủ điều trị. Giải thích cho
người bệnh và người nhà về tác dụng và quy trình dùng thuốc. Với người bệnh
từ chối điều trị theo y lệnh, báo cáo cho bác sỹ điều trị.
- Phối hợp giữa các bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng viên, hộ sinh viên trong
dùng thuốc nhằm tăng hiệu quả điều trị bằng thuốc và hạn chế sai sót trong chỉ
định và sử dụng thuốc cho người bệnh.
2.4. Phòng ngừa sự cố y khoa trong phẫu thuật

272
2.4.1. Nguyên nhân của các sai sót, sự cố y khoa liên quan tới phẫu thuật, thủ
thuật
Các biến chứng xảy ra liên quan đến nhiều yếu tố như: lỗi con người, lỗi kỹ
thuật, thiếu sự phối hợp đồng bộ trong quá trình thực hiện phẫu thuật nhất là
nhóm gây mê và phẫu thuật viên, cũng như lỗi phương tiện sử dụng do thiếu
hoặc hỏng hóc.
Các thao tác phẫu thuật thường rất phức tạp và thường vấp nhiều sai sót.
Công việc hành chính trong khoa ngoại cũng có thể dẫn đến sai sót. Trong một
số trường hợp, có những biến chứng và nguy cơ của phẫu thuật dù đã được dự
báo trước nhưng cũng không thể tránh khỏi được.
Những nguyên nhân chính dẫn đến sai sót, sự cố được xếp theo mức độ:
- Bất cẩn/thiếu quan tâm
- Nhân viên chưa được đào tạo/thiếu kinh nghiệm
- Tuổi và sức khoe của “Nhóm phẫu thuật”
- Thiếu thông tin liên lạc
- Chẩn đoán sai
- Nhân viên làm việc quá sức, áp lực công việc
- Đọc toa thuốc sai hoặc sai sót trong cấp phát thuốc, bao gồm cả việc ghi
chép không “rõ ràng” trong hồ sơ bệnh án hoặc do nhầm nhãn
- Thiếu công cụ (Bảng kiểm) để chắc chắn mọi thứ được kiểm tra kỹ lưỡng
- “Nhóm phẫu thuật” chưa thực sự ăn ý và gắn kết
- Áp lực giảm thời gian phẫu thuật
- Phương pháp phẫu thuật yêu cầu các thiết bị hoặc tư thế người bệnh khác
biệt
- Văn hóa tổ chức/ làm việc
- Mức độ thân thiện, an toàn của môi trường làm việc
- Chăm sóc / theo dõi tiếp tục sau phẫu thuật

273
- Đặc điểm người bệnh, nhất là khi người bệnh có nguy cơ như: béo phì,
bất thường giải phẫu,
- Sự hiểu nhầm giữa Người bệnh – Nhóm phẫu thuật do bất đồng ngôn
ngữ: khách du lịch, dân tộc thiểu số …
- Do bản thân người bệnh gây ra: do rối loạn ý thức, thiếu sự hợp tác.
2.4.2. Mười mục tiêu an toàn phẫu thuật theo khuyến cáo của tổ chức y tế thế
giới
Dựa trên kết quả áp dụng thử trên thế giới, theo ý kiến các chuyên gia,
WHO đã đề ra 10 mục tiêu chính trong việc thực hiện An Toàn Phẫu Thuật –
ATPT :
1. Phẫu thuật đúng bệnh nhân, đúng vùng mổ
2. Khi làm giảm đau, sử dụng các phương pháp phù hợp tránh gây tổn hại
cho bệnh nhân.
3. Đánh giá và chuẩn bị đối phó hiệu quả với nguy cơ tắc đường thở và
chức năng hô hấp
4. Đánh giá và chuẩn bị tốt để xử lý nguy cơ mất máu.
5. Tránh sử dụng đồ hay thuốc gây dị ứng ở những bệnh nhân biết có nguy
cơ dị ứng
6. Áp dụng tối đa các phương pháp giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng ngoại
khoa
7. Tránh để quên dụng cụ mổ hay bông gạc trong vùng mổ
8. Kiểm tra đối chiếu kỹ bệnh phẩm phẫu thuật
9. Thông báo kết quả và trao đổi thông tin đến người tổ chức thực hiện an
toàn phẫu thuật
10. Các Bệnh viện và hệ thống Y tế thành lập bộ phận có nhiệm vụ thường
xuyên theo dõi số lượng và kết quả phẫu thuật.
2.4.3. Hướng dẫn bảng kiểm an toàn phẫu thuật

274
Trong Bảng kiểm này “Kíp mổ” bao gồm các bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ gây
mê, điều dưỡng và kỹ thuật viên và các nhân viên khác của nhóm liên quan đến
phẫu thuật. Tuy phẫu thuật viên đóng vai trò quan trọng đối với thành công cuộc
mổ, xong việc chăm sóc người bệnh cần phải có sự phối hợp của toàn nhóm.
Mỗi thành viên của “Kíp mổ” đều có vai trò riêng trong việc đảm bảo sự an toàn
và thành công của ca phẫu thuật. Bảng kiểm được chia ra làm 3 giai đoạn, mỗi
giai đoạn lại tương ứng với một thời điểm cụ thể trong quy trình thao tác: Giai
đoạn tiền mê – Giai đoạn gây mê và trước khi rạch da – Giai đoạn trong suốt
quá trình phẫu thuật, ngay sau khi đóng da và chuẩn bị chuyển người bệnh ra
khỏi phòng mổ. Người phụ trách Bảng kiểm cần phải xác nhận rằng nhóm mình
đã hoàn thành những phần việc trước khi chuyển sang giai đoạn khác.
Giai đoan tiền mê:

275
Tất cả những bước cần được kiểm tra bằng lời với mỗi thành viên có liên
quan trong “Nhóm phẫu thuật” để đảm bảo rằng những hành động chủ chốt
được thực hiện. Do vậy trước khi gây mê người phụ trách Bảng kiểm sẽ kiểm tra
lại bằng lời với bác sĩ gây mê và người bệnh (trường hợp người bệnh có thể nói
được) để xác định nhận dạng, phương pháp và vùng mổ là đúng khi đó người
bệnh đồng ý cho tiến hành phẫu thuật. Trường hợp người bệnh không thể xác
nhận được vì nhiều lý do như: bệnh nhân mê, trẻ em … một người giám hộ của
gia đình người bệnh sẽ đứng ra chịu trách nhiệm. Tình huống cấp cứu mà không
có ai giám hộ được, cả nhóm sẽ hội ý thống nhất để thực hiện bước này.
Người phụ trách “Kíp mổ” diễn đạt bằng lời và hình ảnh xác nhận rằng
vùng mổ đã được đánh dấu (nếu phù hợp). Việc đánh dấu vết mổ do phẫu thuật
viên thực hiện (thường bằng bút) nhất là trong trường hợp có liên quan đến
những vị trí có ở cả hai bên (bên trái và bên phải) hoặc phối hợp nhiều lớp, tầng
(ngón tay, chân, đốt sống …). Việc đánh dấu nhất quán trong tất cả các trường
hợp, nhiều khi là cơ sở để xác nhận đúng thủ thuật và đúng chỗ cần phẫu thuật.
Sau đó họ sẽ trao đổi với bác sĩ gây mê các vấn đề quan tâm: nguy cơ mất máu,
khó thở, dị ứng của người bệnh, cũng như hoàn tất việc kiểm tra toàn bộ máy
móc gây mê và thuốc gây mê. Lý tưởng nhất là phẫu thuật viên nên có mặt thời
điểm này vì những thông tin trao đổi sẽ giúp cho bác sĩ phẫu thuật biết được
diễn biến ca mổ và những nguy cơ có thể xảy ra như tiên lượng máu mất, dị ứng,
các yếu tố biến chứng khác của người bệnh.
Kiểm tra thiết bị đo bão hòa oxy trong máu gắn trên người bệnh để đảm
bảo thiết bị hoạt động bình thường là một khâu quan trọng, nên để chỗ dễ quan
sát thấy của cả nhóm. Việc sử dụng thiết bị đo bão hòa oxy máu được WHO đặc
biệt khuyến cáo để bảo đảm an toàn gây mê. Trường hợp bệnh nhân cần phẫu
thuật khẩn cấp để cứu tính mạng, nhưng thiết bị này có vấn đề thì cả nhóm cần
phải thống nhất bỏ qua và có sự theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình phẫu
thuật.
Ngoài các vấn đề được lưu ý như người bệnh có tiền sử dị ứng? người bệnh
có biểu hiện khó thở/nguy cơ hít khí thở …để điều chỉnh phương pháp gây mê
phù hợp, ví dụ gây mê vùng nếu có thể và chuẩn bị sẵn các thiết bị cấp cứu cần
thiết. Việc gây mê chỉ có thể tiến hành khi bác sĩ gây mê xác nhận đã có đầy đủ

276
các thiết bị và sự hỗ trợ cần thiết bên cạnh người bệnh đối với những người bệnh
có nguy cơ ảnh hưởng đường thở hoặc có biểu hiện khó thở. Việc mất máu trong
quá trình phẫu thuật được dự tính trước, đặc biệt lưu ý khả năng mất trên 500ml
máu (hoặc tương đương 7ml/kg ở trẻ em). Trước mổ cần được tính toán để dự
trữ máu. Trong quá trình phẫu thuật, phẫu thuật viên thường xuyên trao đổi với
bác sĩ gây mê và nhóm điều dưỡng để chuẩn bị đường truyền khi cần.
Giai đoạn gây mê và trước khi rạch da:
Trước khi rach da, mỗi thành viên trong nhóm sẽ giới thiệu tên tuổi và vai
trò. Nếu là nhóm tham gia phẫu thuật hàng ngày thì chỉ cần xác nhận mọi người
trong nhóm đã có mặt đầy đủ và xác nhận mọi người trong nhóm đều biết nhau.
Lần nữa toàn nhóm cần xác nhận họ thực hiện phẫu thuật cho đúng người
bệnhvà xác nhận bằng lời giữa các thành viên, sau đó là những điểm chủ yếu
trong các kế hoạch phẫu thuật sử dụng Bảng kiểm làm cơ sở hướng dẫn.
Mọi người cùng xác nhận việc sử dụng kháng sinh dự phòng trong vòng 60
phút trước mổ. Nếu kháng sinh dự phòng chưa được dùng, cần cho ngay trước
khi rạch da. Trường hợp đã cho người bệnh sử dụng kháng sinh quá 60 phút
“Nhóm phẫu thuật” có thể cân nhắc để bổ xung nếu cần. Trường hợp kháng sinh
dự phòng được cho là không phù hợp (không rạch da, người bệnh đã bị nhiễm
khuẩn trước đó và đã dùng kháng sinh rồi ) thì sẽ đánh dấu vào ô “không áp
dụng” với sự xác nhận của cả nhóm. Tiếp theo đó, cả nhóm cần liên tục trao đổi
các thông tin như: Tiên lượng các biến cố, những bước chính và dự tính có xảy
ra việc gì bất thường trong mổ? Thời gian phẫu thuật dự kiến? Những lo ngại về
phía phẫu thuật viên, về phía bác sĩ gây mê … Điều dưỡng kiểm tra lại tình
trạng vô trùng của vùng mổ người bệnh, cũng như các dụng cụ, thiết bị trước khi
tiến hành rạch da: máy hút, dao mổ điện, dàn mổ nội soi …
Hình ảnh hiển thị tại phòng mổ là việc cần thiết đảm bảo cho việc lên kế
hoạch mổ như đường mổ, cách thức phẫu thuật. Hiển thị hình ảnh cần được đảm
bảo cả trong suốt quá trình phẫu thuật.
Giai đoạn trong suốt quá trình phẫu thuật, ngay sau khi đóng da và
chuẩn bị chuyển người bệnh ra khỏi phòng mổ:
Trước khi rời phòng mổ, cả nhóm đánh giá lại cuộc mổ, hoàn thành việc
kiểm tra thiết bị sử dụng cho cuộc mổ, gạc phẫu thuật và dán mác bệnh phẩm

277
phẫu thuật. Do trong quá trình phẫu thuật có thể thay đổi hoặc mở rộng tùy theo
tình trạng tổn thương nên người phụ trách Bảng kiểm cần xác nhận với “Nhóm
phẫu thuật” xem chính xác là phẫu thuật/thủ thuật gì đã được thực hiện. Câu hỏi
thường đặt ra như “Chúng ta vừa tiến hành thủ thuật/phẫu thuật gì? “hoặc xác
nhận” Chúng ta vừa tiến hành thủ thuật X có đúng không ??” Một bước không
kém phần quan trọng là dán nhãn bệnh phẩm hoặc đọc to nhãn bệnh phẩm bao
gồm cả tên người bệnh. Do việc dán nhãn không đúng bệnh phẩm là nguy cơ
tiềm ẩn đối với người bệnh, thậm chí mất bệnh phẩm sẽ dẫn đến những sai sót
hoặc khó khăn trong việc điều trị người bệnh về sau nên việc dán nhãn cần được
lưu ý. Người phụ trách cần xác nhận việc dán nhãn bệnh phẩm thu được trong
quá trình phẫu thuật là đúng bằng cách đọc to tên người bệnh, mô tả bệnh phẩm
và ghi thông tin người bệnh lên trên. Nhóm phẫu thuật cũng cần đánh giá lại
hoạt động của trang thiết bị, những hỏng hóc xảy ra nếu có hoặc những vấn đề
liên quan cần giải quyết. Cuối cùng cả nhóm sẽ trao đổi kế hoạch chính và
những vấn đề liên quan tới xử lý hậu phẫu và phục hồi của người bệnh trước khi
chuyển người bệnh ra khỏi phòng mổ. Trong quá trình phẫu thuật, đặc biệt các
phẫu thuật phức tạp, nhiều chuyên khoa … việc cử người phụ trách Bảng kiểm
để giám sát mọi thành viên, tránh bỏ sót trong tất cả mọi Giai đoạn. Chừng nào
mà các thành viên của “Nhóm phẫu thuật” còn phải làm quen với những khâu
liên quan, người phụ trách Bảng kiểm sẽ tiếp tục hướng dẫn cả “Nhóm phẫu
thuật” thông qua quy trình bảng kiểm này. Do người phụ trách Bảng kiểm có
quyền dừng không cho tiến hành các bước tiếp theo nếu các bước trước đó chưa
được hoàn thành, đảm bảo cho cuộc mổ an toàn nên họ có thể gặp xung đột với
một vài các thành viên khác của nhóm. Vì vậy việc lựa chọn người phụ trách
Bảng kiểm cần phù hợp: có trách nhiệm và cả có tiếng nói đối với mọi người
2.5. Phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện
2.5.1. Khái niệm: Nhiễm khuẩn mà người bệnh mắc phải trong quá trình khám
bệnh, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở yế được gọi chung là nhiễm
khuẩn bệnh viện (NKBV). Tất cả các người bệnh nằm điều trị tại bệnh viện đều
có nguy cơ mắc NKBV. Đối tượng có nguy cơ NKBV cao là trẻ em, người già,
người bệnh suy giảm hệ miễn dịch, thời gian nằm điều trị kéo dài, không tuân
thủ nguyên tắc vô trùng trong chăm sóc và đều trị, nhất là không tuân thủ rửa
tay và sử dụng quá nhiều kháng sinh.

278
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), nhiễm khuẩn bệnh viện được định
nghĩa như sau: “ Nhiễm khuẩn bệnh viện là những nhiễm khuẩn mắc phải trong
thời gian người bệnh điều trị tại bệnh viện và nhiễm khuẩn này không hiện diện
cũng như không nằm trong giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện. NKBV
thường xuất hiện sau 48 giờ kể từ khi người bệnh nhập viện”

Sơ đồ 1: thời gian xuất hiện NKBV


Nhiễm khuẩn liên quan đến CSYT không chỉ là chỉ số chất lượng chuyên
môn, mà còn là chỉ số an toàn của người bệnh, chỉ số đánh giá sự tuân thủ về
thực hành của nhân viên y tế (NVYT), chỉ số đánh giá hiệu lực của công tác
quản lý và là một chỉ số rất nhạy cảm đối với người bệnh và xã hội.
2.5.2. Hậu quả của nhiễm khuẩn bệnh viện:
Nhiễm khuẩn bệnh viện dẫn đến nhiều hệ luỵ cho người bệnh và cho hệ
thống y tế như: tăng biến chứng và tử vong cho người bệnh; kéo dài thời gian
nằm viện trung bình từ 7 đến 15 ngày; tăng sử dụng kháng sinh dẫn đến tăng sự
kháng thuốc của vi sinh vật và tăng chi phí điều trị cho một NKBV thường gấp 2
đến 4 lần so với những trường hợp không NKBV.
Theo báo cáo của một số nghiên cứu: Chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn
huyết bệnh viện là $34.508 đến $56.000 và do viêm phổi bệnh viện là $5.800
đến $40.000. Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV,
làm tốn thêm 4,5 tỉ dollar viện phí. Ở Việt Nam, chưa có những nghiên cứu quốc
gia đánh giá chi phí của NKBV, một nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy
NKBV làm kéo dài thời gian nằm viện 15 ngày với chi phí trung bình mỗi ngày
là 1.192.000 VND và ước tính chi phí phát sinh do NKBV vào khoảng 8 -
12.880.000 VND/ người bệnh.

279
2.5.3. Phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện
Việc phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện có nhiều hoạt động, tuy nhiên
trực tiếp phải bảo đảo các nguyên tắc của phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa dựa
theo đường truyền.
2.5.3.1. Phòng ngừa chuẩn.
Phòng ngừa chuẩn được định nghĩa là tập hợp các biện pháp phòng ngừa áp
dụng cho tất cả những người bệnh trong bệnh viện không tùy thuộc vào chẩn
đoán và tình trạng nhiễm khuẩn của người bệnh. Mục tiêu của phòng ngừa
chuẩn là nhằm phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm chéo qua máu, dịch tiết cơ
thể, chất tiết (trừ mồ hôi) cho dù chúng được nhìn thấy có chứa máu hay không,
và da không lành lặn và niêm mạc. Coi tất cả máu, dịch sinh học, các chất tiết,
chất bài tiết (trừ mồ hôi) đều có nguy cơ lây bệnh truyền nhiễm. Đây là biện
pháp phòng ngừa quan trọng nhất, nhằm hạn chế cả sự lây truyền từ người sang
người cũng như từ người sang môi trường.
Có 9 nội dung chính khi thực hiện phòng ngừa chuẩn như sau:

Những nội dung chính của phòng ngừa chuẩn


1.Vệ sinh tay
2. Sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân khi xử lý máu, dịch tiết, chất
tiết hay khi dự kiến sẽ tiếp xúc với máu, dịch tiết, chất tiết
3. Tuân thủ quy tắc vệ sinh hô hấp và vệ sinh khi ho
4. Khử, tiệt khuẩn đúng quy định các dụng cụ chăm sóc người bệnh
5. Xếp chỗ cho người bệnh thích hợp
6. Thực hiện tiêm an toàn và phòng ngừa tổn thương do vật sắc nhọn
7. Quản lý đồ vải phòng lây nhiễm
8. Vệ sinh môi trường trong chăm sóc người bệnh
9. Xử lý chất thải đúng quy định

2.5.3.2. Phòng ngừa dựa trên đường lây truyền (phòng ngừa bổ sung)

280
Phòng ngừa này áp dụng cho những bệnh nhân nghi ngờ có nhiễm những
tác nhân gây bệnh quan trọng lây truyền qua tiếp xúc, qua không khí hoặc qua
giọt bắn. Ba phòng ngừa này có thể kết hợp với nhau cho những bệnh có nhiều
đường lây truyền. Khi sử dụng đơn thuần hay phối hợp chúng phải được kết hợp
với phòng ngừa chuẩn.
- Cách ly phòng ngừa qua tiếp xúc (Contact Isolation/Precautions)
Lây truyền qua tiếp xúc xảy ra do sự tiếp xúc giữa da và da và có sự truyền
vi sinh vật từ người bệnh này qua người bệnh khác hay từ nhân viên y tế qua
tiếp xúc về mặt vật lý. Bệnh lây truyền qua đường này thường do cộng sinh hay
nhiễm trùng những vi sinh vật đa kháng, các nhiễm trùng da và đường ruột như
MRSA, Herpes Simplex, chốc, ghẻ, chấy rận, đậu mùa, zona, nhiễm cúm (kể cả
H5N1), SARS. Những trẻ em dưới 6 tuổi thường dễ bị lây truyền virus đường
ruột, viêm gan A qua đường này.
- Cách ly phòng ngừa qua giọt bắn (Droplet Isolation/ Precautions)
Lây truyền theo giọt bắn xảy ra do những bệnh nguyên lây truyền qua
những giọt phân tử hô hấp lớn (>5m) tạo ra trong trong quá trình ho, hắt hơi,
nói chuyện hoặc trong một số thủ thuật như hút rửa, nội soi. Sự lây truyền qua
giọt li ti cần sự tiếp xúc gần giữa người bệnh và người nhận bởi vì những giọt li
ti chứa vi sinh vật xuất phát từ người mang vi sinh vật thường chỉ di chuyển một
khoảng ngắn trong không khí (< 1 mét) và đi vào kết mạc mắt, niêm mạc mũi,
miệng của người kế cận. Các bệnh nguyên thường gặp lây theo đường này bao
gồm viêm phổi, ho gà, bạch hầu, cúm (kể cả H5N1), SARS, quai bị và viêm
màng não.
- Cách ly qua đường khí (Airborne Isolation/ Precautions)
Lây truyền bằng đường không khí xảy ra do sự lây lan những giọt nước bốc
hơi trong không khí chứa tác nhân nhiễm khuẩn có kích thước phân tử nhỏ hơn
(<5m) phát sinh ra khi bệnh nhân ho, hay hắt hơi. Vi sinh vật lan truyền theo
cách này có thể phân tán rộng trong dòng không khí, có thể lơ lửng trong không
khí lưu chuyển trong môt thời gian dài. Vì thế chúng có thể bị hít vào hoặc tích
tụ lại ở những vật chủ nhạy cảm trong cùng một căn phòng hoặc có thể phân tán
đi đến một khoảng cách xa hơn tùy thuộc vào các yếu tố môi trường. Những vi
sinh vật truyền bằng đường khí như lao phổi, rubeola, thủy đậu. H5N1 và SARS

281
cũng có thể lây qua đường này khi thực hiện các thủ thuật có tạo khí dung. Việc
xử lý không khí và thông khí là cần thiết để ngăn ngừa sự truyền bệnh.
2.6. Phòng ngừa sự cố y khoa trong chăm sóc và sử dụng trang thiết bị vật tư
y tế
Môi trường chăm sóc trong các cơ sở y tế cần đạt được các tiêu chuẩn về
an toàn. Các hạn chế trong môi trường chăm sóc và sử dụng trang thiết bị
thường là một trong những nguyên do gốc gây nên sự cố. Theo tổng kết các báo
cáo sự cố, tai nạn té ngã dẫn đến tử vong đứng thứ hạng cao trong danh mục sự
cố thường gặp. Cháy nổ trong phòng mổ cũng là vấn đề ưu tiên hàng đầu ở các
cơ sở cấp cứu và phẫu thuật tại chỗ. Cơ sở y tế cần xây dựng và thực hiện qui
trình báo cáo và điều tra các sự cố liên quan đến môi trường chăm sóc và sử
dụng trang thiết bị. Các sự cố liên quan đến môi trường chăm sóc và sử dụng
trang thiết bị có thể bao gồm:
- Các sự cố về an ninh liên quan đến bệnh nhân, nhân viên, và những người
có mặt hoặc liên quan đến cơ sở vật chất.
- Việc đổ tràn ra ngoài các nguyên vật liệu nguy hiểm và chất thải và những
sự việc liên quan khác
- Các vấn đề về quản lý an toàn cháy nổ, sự thiếu hụt, và sự ngừng hoạt
động.
- Các vấn đề về quản lý thiết bị, sự ngừng hoạt động, và sai sót của người
sử dụng.
- Các vấn đề về quản lý hệ thống tiện ích công cộng, sự ngừng hoạt động,
và sai sót của người sử dụng.
Các sự cố này có thể làm cho bệnh nhân và những người có mặt bị thương,
làm hư hại cơ sở vật chất, gây bệnh nghề nghiệp và các thương tổn khác cho
nhân viên y tế.
2.6.1. Các nguyên tắc phòng ngừa
Các tiêu chuẩn an toàn trong quản lý môi trường chăm sóc đòi hỏi các cơ
sở y tế phải:

282
- Thu thập thông tin về những thiếu sót và những cơ hội cải tiến môi trường
chăm sóc như: rủi ro; sự ngừng hoạt động; các tai nạn trong môi trường liên
quan đến những lĩnh vực như an toàn; an ninh; các vật liệu nguy hiểm; quản lý
khẩn cấp; quản lý trang thiết bị; an sinh; lãng phí và các vấn đề khác về môi
trường.
- Phân tích kịp thời các vấn đề về môi trường đã được xác định và triển
khai các biện pháp giải quyết.
- Xây dựng kế hoạch quản lý môi trường chăm sóc. Các mục tiêu, phạm vi,
viêc thực hiện, và hiệu quả của từng kế hoạch quản lý môi trường chăm sóc
được thẩm định hàng năm
- Xây dựng và thực hiện qui trình theo dõi liên tục các nguy cơ hiện hữu và
nguy cơ tiềm ẩn trong kế hoạch quản lý môi trường chăm sóc.
- Xây dựng các hướng dẫn đánh giá, các qui trình để giải quyết các vấn đề
về môi trường chăm sóc.
- Thành lập hội đồng an toàn người bệnh và họp thường xuyên để đưa ra
các vấn đề về môi trường chăm sóc
- Các vấn đề về môi trường chăm sóc được thông báo cho lãnh đạo cơ sở
và (những) người chịu trách nhiệm cho các hoạt động cải tiến.
- Các đề xuất cần được xem xét và triển khai khi có thể
- Phân công một/nhiều người để theo dõi, giám sát và xừ lý những vấn đề
về môi trường của cơ sở, với nhiệm vụ:
+ Thu thập thông tin liên tục về những thiếu hụt và những cơ hội cải tiến
trong môi trường chăm sóc.
+ Phổ biến các nguồn thông tin, chẳng hạn như các thông báo nguy hiểm
hoặc các báo cáo sự việc đã xảy ra.
+ Báo cáo những hạn chế, khó khăn, sự ngừng hoạt động, và các sai sót
của người sử dụng liên quan đến việc quản lý môi trường chăm sóc.
+ Đề xuất, thực hiện và báo cáo kết quả của các hoạt động cải tiến. Đề
xuất cải tiến giải quyết những vấn đề an toàn môi trường trình ít nhất mỗi năm

283
một lần đến lãnh đạo cơ sở dựa trên sự theo dõi liên tục việc thực hiện các kế
hoạch quản lý môi trường chăm sóc
+ Tham gia vào việc giám sát và báo cáo sự cố.
+ Tham gia vào việc triển khai các chính sách an toàn và các phương thức
thực hiện
Các tiêu chuẩn nhằm giảm sự cố liên quan đến lĩnh vực sử dụng trang thiết
bị bao gồm lập kế hoạch và chọn lựa; bảo trì, thử nghiệm, và kiểm tra; đào tạo
và tập huấn; phân phát và lắp đặt; và ngăn ngừa rủi ro liên quan đến trang thiết
bị và vật dụng khác. Các công đoạn của quy trình này gồm có:
- Chọn lựa.
- Các chiến lược bảo trì.
- Việc thẩm định có định kỳ.
- Hướng dẫn và huấn luyện.
2.6.2. Các biện pháp phòng ngừa
2.6.2.1. Giảm nguy cơ gây thương tổn cho bệnh nhân do bị ngã.
Nguy cơ té ngã có thể do môi trường chăm sóc hoặc do bản thân người
bệnh. Nguy cơ té ngã có thể do môi trường chăm sóc bao gồm những thiết kế cơ
sở vật chất, vật dụng không phù hợp cho người bệnh. Nguy cơ do bản thân
người bệnh bao gồm có tiền sử té ngã trước đó, khiếm khuyết về cảm giác và
thính giác, suy nhược thần kinh, bị xúc động suy nhược thăng bằng hoặc vận
động, các vấn đề về cơ xương, các bệnh mãn tính, rối loạn tiểu tiện, các vấn đề
về dinh dưỡng, và việc sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau.
- Cơ sở y tế, đặc biệt các nhà dưỡng lão, cần thực hiện chương trình giảm
té ngã và đánh giá hiệu quả của chương trình. Chương trình giảm té ngã bao
gồm các chiến lược giảm rủi ro, thực hành tại chỗ, sự tham gia cuả bệnh
nhân/gia đình trong huấn luyện, và việc thẩm định môi trường điều trị.
- Thành lập ban ngăn ngừa té ngã để đánh giá những bệnh nhân mới về
nguy cơ té ngã tiếm ẩn; để rà soát thường xuyên các cú té ngã, thẩm định sự
tham gia, và tìm kiếm các xu hướng và mô hình mới; và để trao đổi những phát
hiện mới với các nhân viên khác.

284
- Cơ sở y tế phải đánh giá ban đầu và thường xuyên nguy cơ té ngã của
bệnh nhân và có biện pháp ngăn ngừa các khả năng té ngã tiềm ẩn. Cần đánh giá
toàn diện bệnh nhân lúc ban đầu khi bệnh nhân nhập viện, xác định mức độ
nhận thức chung, sức mạnh của cơ, sự đau đớn, và khả năng thể hiện hoạt động
hàng ngày của bệnh nhân. Cần đánh giá định kỳ từng nguy cơ bị ngã của bệnh
nhân, bao gồm cả nguy cơ tiềm ẩn.
- Sử dụng các kỹ thuật đánh giá khác nhau, như quan sát hoặc trao đổi với
cá nhân bệnh nhân và gia đình để đánh giá toàn diện đến mức có thể.
- Nhân viên y tế phải trao đổi với gia đình bệnh nhân và những người quan
trọng khác việc đánh giá toàn diện nguy cơ té ngã. Thông báo cho các thành
viên của gia đình bệnh nhân các yếu tố làm gia tăng nguy cơ té ngã
- Dựa vào đánh giá, nhân viên y tế đưa ra những kiến nghị và thực hiện
phương pháp chủ động ngăn ngừa té ngã trong kế hoạch và thực hiện chăm sóc
bệnh nhân. Bất cứ nguy cơ nào đã được nhận diện đều cần được xử lý ngay.
- Nhân viên y tế cần phải xem xét tất cả thuốc gồm tất cả thuốc cấp theo
đơn, thuốc mua tại quầy, và những thứ bổ sung mà bệnh nhân đã sử dụng. Lưu
hồ sơ tình trạng dị ứng thuốc và tiền sử lạm dụng thuốc, kể cả lạm dụng thuốc
an thần và các loại thuốc theo đơn khác. Việc thay đổi thuốc – gồm có thuốc gây
nghiện và càc liều lượng tăng hoặc giảm – đòi hỏi phải theo dõi hết sức cảnh
giác các phản ứng phụ mới có thể xảy ra. Một loại thuốc mới thêm vào các loại
thuốc bệnh nhân đang dùng có thể tạo nên cơn chóng mặt, gây buồn ngủ, hoặc
các triệu chứng khác có thể đưa bệnh nhân đến nguy cơ té ngã nhiều hơn.
+ Thường xuyên tái đánh giá và lưu ý những biểu hiện khi bệnh nhân đã
trải qua gây mê Một số biện pháp cải tiến môi trường giúp giảm té ngã:
- Lắp đặt chuông báo động tại giường hoặc thiết kế lại hệ thống kiểm soát
và kiểm tra chuông báo động tại giường.
- Lắp đặt các ổ khoá tự động ở các phòng phục vụ (như phòng giặt, v.v..) -
Hạn chế việc mở cửa sổ khi có nguy cơ.
- Lắp đặt chuông báo động ở các lối ra vào. - Bổ sung phần ngăn ngừa té
ngã vào chương trình huấn luyện bệnh nhân và gia đình họ.

285
- Cải tiến và chuẩn hoá hệ thống gọi điều dưỡng. - Sử dụng “giường thấp”
cho những người có nguy cơ té ngã.
2.6.2.2. Giảm nguy cơ cháy nổ trong phẫu thuật
Cơ sở y tế có thể ngăn ngừa nguy cơ cháy nổ trong phẫu thuật và quản lý
tốt sự cháy nổ nếu nó xảy ra trong phòng mổ bằng các biện pháp sau:
* Xây dựng kế hoạch, quy trình chống cháy nổ trong phẫu thuật.
Kế hoạch cần đảm bảo cung cấp các nhân viên có đủ thông tin để ngăn
ngừa hoặc quản lý hiệu quả vụ cháy ở phòng mổ. Kế hoạch đưa ra được những
vấn đề như chuỗi mệnh lệnh trong tình trạng khẩn cấp, xác định rõ ràng trách
nhiệm của các thành viên, và các lộ trình sơ tán chính và phụ ngang qua bức
tường lửa. Cần đưa ra các hướng dẫn cụ thể về:
- Việc sơ tán
- Chi tiết các tài liêu lưu trữ, thiết bị, dụng cụ, hàng dự trữ, và những thứ
khác cần được bảo vệ để kiểm tra sau vụ hoả hoạn.
- Bản hướng dẫn sử dụng oxy để giảm đến tối thiểu tập trung oxygen dưới
các drap phủ - Hướng dẫn quản lý các dung dịch có cồn dùng trong sát trùng da.
* Khuyến khích nhân viên y tế học tập và tự rèn luyện về phòng chống cháy
nổ.
- Bảo đảm nhân viên được tập huấn về những rủi ro cháy nổ đặc biệt trong
khu phẫu thuật và cách xử lý ngăn ngừa và dập tắt cháy nổ.
- Khuyến khích nhân viên tham gia vào tìm hiểu các hoạt động tự hướng
dẫn, bao gồm:
+ Từng người cần ghi nhớ vị trí bình chữa lửa, hộp kéo chuông báo động,
cửa thoát hiểm, bình thở oxygen, và lộ trình sơ tán khả thi;
+ Tự học để kích hoạt hệ thống báo động và ghi nhận cháy nổ
- Nhân viên phải biết nơi cất giữ và biết sử dụng bình chữa cháy, cũng như chuẩn
bị tinh thần đón nhận rủi ro cho từng trường hợp phẫu thuật mà họ tham gia.
* Huấn luyện tất cả nhân viên để quản lý 3 yếu tố cháy nổ.

286
Các nguy cơ của một vụ cháy luôn luôn hiện diện trong suốt cuộc phẫu
thuật và hình thành cháy nổ: khí, oxygen, và nguồn nhiệt. Các nhà phẫu thuật
phải kiểm soát được nguồn nhiệt (các dụng cụ mổ như thiết bị đốt điện, dao mổ
laser, nguồn ánh sáng quang học, và các tia cao áp tĩnh điện) bằng cách dùng các
bao che hoặc sử dụng các phương tiện dự trữ và ngăn chúng tiếp xúc khí. Các
điều dưỡng có thể giới hạn sự hiện diện của những chất dễ cháy (chẳng hạn như
các tác nhân prepping, cồn, thuốc nhuộm, thuốc mỡ, và các chất gây mê) để
tránh bùng phát hoả hoạn. Các chuyên gia gây mê có thể giảm đến tối thiểu việc
tạo ra oxygen, có chứa nitrous oxide, và các loại khí hơi khác bằng cách sử dụng
các kỹ thuật tạo nút chặn
- Huấn luyện nhân viên, phẫu thuật viên và chuyên viên gây mê về cách
kiểm soát nguồn nhiệt và quản lý khí: (1) theo đúng các qui tắc an toàn tại khu
vực có tia laser và điện, (2) quản lý khí bằng cách cho đủ thời gian để chuẩn bị
bệnh nhân, và (3) xây dựng bảng hướng dẫn giảm đến tối thiểu việc tập trung
oxygen dưới tấm vải phủ.
- Tiến hành các khoá huấn luyện đặc biệt về (1) việc sử dụng các thiết bị
chống cháy nổ, (2) các phương pháp đúng cách để cứu nạn và thoát hiểm, và (3)
sự xác định đúng vị trí của hệ thống ga y tế, gió, và điện, và các nút điều khiển,
cũng như khi nào, ở đâu, và bằng cách nào tắt các hệ thống này lại. - Không che
phủ bệnh nhân cho đến khi tất cả các vật chuẩn bị dễ cháy đều khô.
- Trong phẫu thuật hầu họng, ngâm miếng gạc hoặc miếng bọt biển dùng
với những cái ống thông khí quản để giảm đến tối thiểu sự rò rỉ O2 vào hầu
họng, và giữ cho chúng luôn ẩm. Cần làm ẩm các miếng bọt biển, gạc, và nút
gạc (và các sợi dây của chúng) để chúng không bắt lửa.
* Tiến hành các buổi tập luyện.
* Ưu tiên ngăn ngừa cháy nổ. Nhắc nhở và thông tin về an toàn cháy nổ
thường xuyên. Rà soát lại các phương thức xử lý khẩn cấp như là một phần của
việc kiểm tra trước khi phẫu thuật. Tất cả mọi người trong phòng mổ, giữ cho
các yếu tố gây cháy nổ không tiếp xúc lẫn nhau.
* Bảo đảm thiết bị được bảo trì và sử dụng hợp lý. Tất cả các thiết bị mổ
bằng điện phải được định lượng và kiểm tra thường xuyên.

287
2.6.2.3. Giảm nguy cơ tử vong do bị giữ chặt.
Những vật dụng có nguy cơ giữ chặt như áo lót hoặc áo chẽn đặc biệt đôi
khi được dùng để kiểm soát hoặc bảo vệ những người lớn tuổi, ốm yếu, không
bình thường, hay lo âu, và thậm chí bị hôn mê. Một số sự cố bị giữ chặt có thể
phát xuất từ một số yếu tố như sau:
- Sử dụng những tay vịn mà không có bộ phận bảo vệ tay vịn.
- Sử dụng thiết bị giữ chặt không đúng
- Sử dụng áo khoác cổ cao.
- Sử dụng không đúng các thiết bị giữ chặt
- Không dùng chuông báo động một cách thích hợp.
- Chuông báo động không hoạt động.
Các cơ sở y tế phải xem xét các biện pháp sau đây để giảm bớt nguy cơ tử
vong vì bị giữ chặt:
- Giảm thiểu đến mức thấp nhất việc sử dụng các vật dùng giữ chặt.
- Triển khai các qui định áp dụng một cách chặt chẽ vật giữ chặt.
- Tăng cường theo dõi những người bệnh nào có nguy cơ bị giữ chặt vì lý
do rối loạn hành vi.
- Nếu cần giữ chặt NB trong lúc đang ở vị trí nằm sấp, phải bảo đảm rằng
đường đi của không khí không bị tắc nghẽn (đặc biệt lưu ý trừơng hợp trẻ con,
người già, và những người béo phì).
- Không giữ chặt bn trên giường có những chấn song ngang khép mở
không an toàn.
- Bảo đảm rằng nhân viện y tế có thể nhanh chóng nới lỏng và di tản người
bệnh đang bị giữ chặt khi có đám cháy hoặc tai nạn do thiên tai.
- Bảo đảm rằng bệnh nhân đang bị giữ chặt không có trong người hoặc
không có thể đến gần bất cứ vật sắc bén hoặc vật bắt lửa nào
- Khuyến khích sử dụng các “biện pháp thay thế” cho việc giữ chặt.
2.6.2.4. Cải tiến an toàn trong việc dùng bơm truyền dịch

288
Thiếu kiểm soát mức độ chảy và không giới hạn dịch truyền và/hoặc thuốc
vào cơ thể bệnh nhân sẽ dẫn đến tử vong hoặc thương tổn nghiêm trọng. Cần
bảo đảm tất cả các bơm truyền dịch tĩnh mạch thông thường và bơm truyền dịch
tĩnh mạch lưu thông thông suốt.
Để kiểm tra xem bơm truyền dịch có thiết bị bảo vệ dòng chảy hay không,
tắt địện nhưng giữ cho bộ phận truyền vẫn truyền và tải trong thiết bị. Trong khi
để tất cả các cái kẹp của hệ thống bơm mở và bình chứa dịch truyền được giữ
trên cao đến mức có thể được, phải không có chút dịch truyền nào chảy ra ngoài
bộ phận này khi nó treo thẳng đứng. Sau đó, tháo rời bộ phận truyền ra khỏi
thiết bị (với các cái kẹp vẫn mở) và một lần nữa kiểm tra rằng hoàn toàn không
có dịch truyền nào chảy ra khỏi bộ phận truyền
3. Báo cáo và ghi nhận sự cố y khoa
3.1. Nhận diện sự cố y khoa
Khi phát hiện sự cố y khoa, nhân viên y tế có trách nhiệm nhận diện và
phân biệt sự cố y khoa theo các trường hợp mô tả, diễn biến tình huống, mức độ
tổn thương quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 43/2018/TT-
BYT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Y tế về hướng dẫn phòng ngừa sự
cố y khoa trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (Phụ lục kèm theo).
3.2. Các hình thức báo cáo sự cố y khoa
a) Báo cáo tự nguyện: được thực hiện bằng văn bản hoặc báo cáo điện tử.
Trường hợp cần báo cáo khẩn cấp thì có thể báo cáo trực tiếp hoặc báo cáo qua
điện thoại nhưng sau đó vẫn phải thực hiện ghi nhận lại bằng văn bản.
b) Báo cáo bắt buộc: báo cáo bằng văn bản hỏa tốc hoặc báo cáo điện tử
đối với sự cố y khoa gây tổn thương nặng (NC3) quy định tại Phụ lục II ban
hành kèm theo Thông tư 43. Riêng đối với sự cố y khoa nghiêm trọng theo quy
quy định phải báo cáo trước bằng điện thoại trong thời hạn 01 giờ, kể từ khi phát
hiện sự cố.
3.3. Hệ thống báo cáo và ghi nhận sự cố y khoa
Thông tư số 43/2018/TT-BYT ngày 26/12/2018 của Bộ Y tế hướng dẫn
phòng ngừa sự cố y khoa trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã quy định
việc báo cáo và ghi nhận sự cố y khoa tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh như sau:

289
3.3.1. Tổng hợp báo cáo sự cố y khoa tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
- Tổng hợp báo cáo sự cố y khoa gửi cơ quan quản lý định kỳ 6 tháng một lần.
- Nội dung tổng hợp báo cáo gồm:
+ Số lượng báo cáo sự cố y khoa bắt buộc và tự nguyện
+ Tần suất xảy ra đối với từng loại sự cố
+ Kết quả phân tích nguyên nhân gốc
+ Giải pháp và khuyến cáo phòng ngừa đã đề xuất và được triển khai
- Ghi nhận sự cố y khoa:
+ Phòng quản lý chất lượng, Tổ quản lý chất lượng hoặc nhân viên chuyên
trách về quản lý chất lượng là bộ phận tiếp nhận và quản lý sự cố y khoa tại cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh và thực hiện việc ghi nhận các báo cáo trực tiếp, báo
cáo qua điện thoại theo Mẫu Báo cáo sự cố y khoa để lưu giữ.
+ Tất cả các sự cố y khoa được báo cáo phải được ghi nhận và lưu giữ vào
hồ sơ hoặc vào hệ thống báo cáo sự cố y khoa trực tuyến. Các sự cố y khoa
nghiêm trọng quy định phải chia sẻ báo cáo đến cơ quan quản lý trực tiếp của cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh và Bộ Y tế.
3.3.2. Báo cáo và ghi nhận sự cố y khoa tại Sở Y tế:
- Phòng Nghiệp vụ Y, Sở Y tế tổng hợp báo cáo sự cố y khoa của các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc đưa ra danh mục sự cố y khoa theo mức độ
nghiêm trọng và tần suất xảy ra để xác định xu hướng của các nhóm sự cố y
khoa, ban hành các khuyến cáo phòng ngừa sự cố y khoa chung cho các đơn vị
trực thuộc.
- Định kỳ hàng quý tổng hợp các khuyến cáo báo cáo về Bộ Y tế (Cục
Quản lý Khám, chữa bệnh).
3.3.3. Báo cáo và ghi nhận sự cố y khoa tại Bộ Y tế:
Cục Quản lý Khám chữa bệnh là đơn vị đầu mối tiếp nhận báo cáo, phân
loại sự cố y khoa của các cơ sở y tế trực thuộc Bộ Y tế.

290
- Cục Quản lý Khám chữa bệnh tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo đột
xuất của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc Bộ Y tế và báo cáo tổng
hợp của các Sở Y tế.
- Định kỳ hàng quý phân tích báo cáo thống kê sự cố y khoa quốc gia, ban
hành các khuyến cáo phòng ngừa sự cố y khoa chung cho các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh toàn quốc.
4. Phản hồi về báo cáo, xử lý sự cố y khoa
4.1. Phản hồi về báo cáo, xử lý sự cố y khoa
- Bộ phận tiếp nhận và quản lý sự cố y khoa của cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh phản hồi lại thông tin cho các cá nhân, tổ chức có báo cáo sự cố y khoa tại
buổi giao ban của khoa, phòng, bệnh viện.
- Đơn vị đầu mối của Bộ Y tế, Sở Y tế phản hồi lại thông tin cho các cá
nhân, tổ chức có báo cáo sự cố y khoa bằng văn bản.
4.2. Xử lý sự cố y khoa
- Nhân viên y tế làm việc trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khi phát hiện
sự cố y khoa phải xử lý ngay để bảo đảm an toàn cho người bệnh trước khi báo
cáo cho bộ phận tiếp nhận và quản lý sự cố y khoa.
- Sở Y tế chỉ đạo trực tiếp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc các biện
pháp bảo đảm an toàn cho người bệnh và tiến hành điều tra, báo cáo nhanh cho
Bộ Y tế trong thời hạn 24 giờ kể từ khi xảy ra sự cố đối với sự cố y khoa quy
định tại điểm b Khoản 1 Điều 5.
- Bộ Y tế chỉ đạo trực tiếp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc biện
pháp bảo đảm an toàn cho người bệnh và tiến hành điều tra, báo cáo nhanh trong
thời hạn 24 giờ kể từ khi xảy ra sự cố đối với sự cố y khoa quy định tại điểm b
Khoản 1 Điều 5.
5. Các văn bản pháp quy liên quan đến an toàn người bệnh
An toàn người bệnh trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh.
Nghị định số 102/2011/NĐ-CP về bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh,
chữa bệnh.

291
Thông tư 43/2018/TT-BYT hướng dẫn phòng ngừa sự cố y khoa trong các
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
Thông tư 19/2013/TT-BYT hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch
vụ khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện
Tiêu chí về an toàn và sự hài lòng của người bệnh trong Bộ tiêu chí đánh
giá chất lượng bệnh viện.
Quy định về phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh
CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG
Câu 1: Trình bày về thực trạng sự cố y khoa?
Câu 2: Trình bày phân loại sự cố y khoa?
Câu 3: Phân tích nguyên nhân gốc của sự cố y khoa?
Câu 4: Trình bày các biện pháp cải tiến sự chính xác trong việc xác định bệnh nhân?
Câu 5: Trình bày các biện pháp giảm nguy cơ gây thương tổn cho bệnh nhân bị ngã?
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Thông tư 16/2018/TT-BYT ngày 20 tháng 7 năm 2018, quy định về kiểm
soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
2. Quyết định số 3916/QĐ-BYT ngày 28/8/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế về
việc phê duyệt các Hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh.
3. Quyết định số 3916/QĐ-BYT ngày 28/8/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế về
việc ban hành hướng dẫn giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện trong các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh.
4. Quyết định số 6858/QĐ-BYT ngày 18 tháng 11 năm 2016 của Bộ trưởng
Bộ Y tế ban hành Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam.

292
CHUYÊN ĐỀ 5
THỰC HIỆN MÔ HÌNH 5S
TRONG CẢI TIẾN CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 12 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 8 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chuyên đề này, học viên có thể:
1. Trình bày được các khái niệm về mô hình 5S, mô tả về năm trụ cột của 5S.
Trình bày được lợi ích của việc thực hiện 5S
2. Áp dụng được các kiến thức về 5S trong cải tiến chất lượng chăm sóc người
bệnh.

293
3. Trình bày được vai trò và sự tham gia của điều dưỡng trong thực hiện mô
hình 5S.
NỘI DUNG
1. Giới thiệu và tổng quan về mô hình 5S trong quản lý y tế
Trong thế giới của y tế, nhu cầu của người bệnh luôn luôn thay đổi, các công
nghệ trong y tế vẫn tiếp tục được phát triển, và ngày càng xuất hiện nhiều thế hệ
thuốc cũng như các kỹ thuật y tế mới hơn. Trong khi đó, áp lực nâng cao chất
lượng và giảm chi phí y tế ngày càng cao hơn qua mỗi năm. Vì những thách thức
này, các cơ sở y tế phải vượt qua các quan niệm và các thói quen lỗi thời về tổ
chức đã không còn thích hợp và thích nghi với các phương pháp mới phù hợp với
thời đại.
Việc áp dụng cẩn thận Năm Trụ Cột của 5S là điểm khởi đầu trong sự phát
triển những hoạt động cải tiến để đảm bảo rằng dịch vụ y tế là dễ tiếp cận hơn,
thích hợp hơn, và giá cả phù hợp hơn cho tất cả người bệnh. Nói cách khác, năm
trụ cột là nền tảng cho tất cả các hoạt động nhằm nâng cao năng suất và hoạt
động, nâng cao chất lượng và giảm bớt chi phí.
Khái niệm 5S (5S methodology) bắt nguồn từ Nhật Bản vào đầu những năm
1980 thế kỷ XX. Năm 1986, 5S được phổ biến ở nhiều nước như Singapore,
Trung Quốc, Ba Lan...  
Được đưa vào Việt Nam khi Nhật mở rộng đầu tư và Vikyno là công ty Việt
Nam đầu tiên áp dụng 5S từ năm 1993.
Hiện nay có rất nhiều bệnh viện trong và ngoài nước áp dụng phương pháp
5S trong quản lý chất lượng bệnh viện. Có thể kể đến các bệnh viện công lập lớn
trong nước như: Bệnh viện Truyền máu huyết học, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện
Trưng Vương Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện đa khoa Trung Ương Quảng
Nam… đến các bệnh viện tư nhân như: Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn, Bệnh viện
Quốc tế Phương Châu…
Một nghiên cứu được thực hiện tại một số bệnh viện trên thế giới đã chỉ ra
rằng, việc áp dụng triết lý Kaizen và phương thức 5S đã làm tăng diện tích lưu trữ
thêm 10%, đồng thời giảm thời gian tìm kiếm tài liệu xuống 20%. 5S không chỉ là
những nguyên tắc mà đã trở thành một tập quán quản trị trong doanh nghiệp Nhật

294
Bản. Đó là văn hóa "sạch sẽ" nơi công sở nhằm triệt tiêu sự lãng phí và tăng hiệu
suất làm việc.
Hiện nay, “việc cải tiến liên tục (Kaizen) các quá trình” là mục tiêu của
nhiều doanh nghiệp trong đó có rất nhiều bệnh viện áp dụng nhằm giảm quá tải.
Kaizen bao gồm việc sáng tạo và thực hiện những ý tưởng nhằm đạt được mục
tiêu bằng những phương pháp mang lại hiệu quả cao hơn. Mục tiêu của Kaizen
không phải là giảm chi phí mà là làm cho công việc đơn giản hơn, nhanh hơn, tiện
ích hơn và hiệu quả hơn. Chìa khóa để thực hiện Kaizen chính là không ngừng
đưa ra các ý tưởng nhằm thúc đẩy cải tiến.
5S ngăn chặn sự xuống cấp của cơ sở hạ tầng, tạo sự thông thoáng cho nơi
làm việc, đỡ mất thời gian cho việc tìm kiếm vật tư, hồ sơ cũng như tránh sự
nhầm lẫn. Người làm việc cảm thấy thoải mái, làm việc có năng suất cao và tránh
được sai sót. Các thiết bị vật tư hoạt động trong môi trường phù hợp với tiêu
chuẩn chất lượng an toàn.
Để thực hiện được điều này, các nhân viên trong khoa đó đã bắt đầu bằng
việc Seiri (Sàng lọc). Cụ thể là, khu vực làm việc đã được đánh dấu rõ ràng đi
kèm với việc áp dụng nhãn đỏ cho tất cả các yếu tố được coi là không cần thiết
cho bộ phận phục vụ bệnh nhân. Đồng thời, mọi vật không có giá trị sử dụng đã
được loại bỏ.
Kết thúc Seiri, hai quá trình tiếp theo được áp dụng là Seiton (Sắp
xếp) và Seiso (Sạch sẽ). Qua hai quá trình này, tất cả các đối tượng được đặt
không phù hợp đã được kiểm kê và được thay thế bằng các vật dụng cần thiết cho
khu vực khám chữa bệnh của khoa đó. Cùng với đó, các tiêu chuẩn trực quan của
sự sắp xếp hợp lý đã được thiết lập.
Để thực hóa 5S cho bệnh viện, chúng ta cần áp dụng từng khoa một, không
nên thực hiện đại trà. Khi áp dụng lần lượt bạn sẽ dễ dàng thu được kết quả tốt
nhất và rút được kinh nghiệm để áp dụng cho những khoa tiếp theo. Trước khi
thực hiện các khoa nên chụp lại tất cả ảnh trước và sau để dễ dàng so sánh.
Khi thực hiện đúng 5S, nhân viên y tế góp phần nâng cao chất lượng phục
vụ của bệnh viện, chi phí khám chữa bệnh của bệnh nhân hợp lý hơn, thời gian
điều trị có thể ngắn hơn, mang lại sự hài lòng của bệnh nhân cho bệnh viện. Đồng
thời chỉ tiết kiệm được sức lực cho nhân viên y tế. Giúp họ sau giờ làm việc vẫn

295
còn sức khỏe tốt, tinh thần sảng khoái để tham gia các hoạt động giải trí, chăm
sóc gia đình tốt hơn.
5S là 5 chữ cái đầu của các từ:
- Sàng lọc (Seiri - Sorting out): Sàng lọc những cái không cần thiết tại nơi
làm việc và loại bỏ chúng.
- Sắp xếp (Seiton - Storage): Sắp xếp mọi thứ ngăn nắp và đúng chỗ của nó
để tiện sử dụng khi cần.
- Sạch sẽ (Seiso - Shining the workplace): Vệ sinh, quét dọn, lau chùi mọi
thứ gây bẩn tại nơi làm việc.
- Săn sóc (Seiletsu - Setting standards): Đặt ra các tiêu chuẩn cho 3S nói trên
và thực hiện liên tục. 
- Sẵn sàng (Shitsuke - Sticking to the rule): Tạo thói quen tự giác, duy trì và
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định tại nơi làm việc để mọi thứ luôn sẵn sàng.

1.1.Giới thiệu về năm trụ cột của 5S


Trong thế giới của y tế, nhu cầu của người bệnh luôn luôn thay đổi, các công
nghệ trong y tế vẫn tiếp tục được phát triển, và ngày càng xuất hiện nhiều thế hệ
thuốc cũng như các kỹ thuật y tế mới hơn. Trong khi đó, áp lực nâng cao chất
lượng và giảm chi phí y tế ngày càng cao hơn qua mỗi năm. Vì những thách thức
này, các cơ sở y tế phải vượt qua các quan niệm và các thói quen lỗi thời về tổ
chức đã không còn thích hợp và thích nghi với các phương pháp mới phù hợp với
thời đại. Việc áp dụng cẩn thận năm trụ cột của 5S là điểm khởi đầu trong sự phát
triển những hoạt động cải tiến để đảm bảo rằng dịch vụ y tế là dễ tiếp cận hơn,
thích hợp hơn, và giá cả phù hợp hơn cho tất cả người bệnh. Nói cách khác, năm
trụ cột là nền tảng cho tất cả các hoạt động nhằm nâng cao năng suất và hoạt
động, nâng cao chất lượng và giảm bớt chi phí.
Từ "trụ cột" được sử dụng như là một phép ẩn dụ để có nghĩa là một trong
một nhóm các thành phần kết cấu cùng nhau hỗ trợ một hệ thống kết cấu. Trong
trường hợp này, năm trụ cột đang hỗ trợ một hệ thống cải tiến trong cơ quan của
bạn.

296
Năm trụ cột được định nghĩa là Sàng lọc, Sắp xếp, Sạch sẽ, Săn sóc, và Sẵn
sàng (Hình 2.1). Bởi vì những từ này bắt đầu với S, nên chúng cũng được gọi là
5S. Hai yếu tố quan trọng nhất là Sàng lọc và Sắp xếp. Sự thành công của các
hoạt động cải tiến phụ thuộc vào hai yếu tố này.
Hãy hình dung một cơ sở y tế đầy nhân viên y tế và đội ngũ hỗ trợ không để
tâm đến việc làm việc giữa sự bề bộn, thiết bị hư hỏng hoặc thất lạc, và đầy chất
thải y tế. Những người làm việc trong cơ sở y tế này luôn xem việc tìm kiếm vật
tư y tế và trang thiết bị thường xuyên như là một phần bình thường trong công
việc của họ.
Những điều kiện này chỉ ra rằng một cơ sở y tế có quá nhiều sai sót trong
dịch vụ lâm sàng, nơi người bệnh thường chờ đợi một thời gian dài để được điều
trị, và các nhân viên y tế và đội ngũ hỗ trợ làm việc với tinh thần và năng suất
thấp. Rõ ràng một cơ sở như vậy đã thất bại trong việc thực hiện các trụ cột Sàng
lọc và Sắp xếp.
1.2.Mô tả về năm trụ cột của 5S
1.2.1. Trụ cột đầu tiên: Sàng lọc
Sàng lọc có nghĩa là bạn loại bỏ tất cả những thứ từ nơi làm việc mà không
cần thiết cho các quá trình và các hoạt động hành chính và lâm sàng.
Đáng ngạc nhiên, khái niệm đơn giản này thì dễ dàng bị hiểu lầm. Đầu tiên,
có thể có khó khăn trong việc phân biệt giữa những gì cần và những gì là không
cần.
Từ lúc khởi đầu, việc loại bỏ những thứ tại nơi làm việc có thể làm nản lòng.
Mọi người có xu hướng bám vào những thứ linh tinh, họ nghĩ rằng chúng có thể
cần thiết cho bệnh nhân hoặc qui trình tiếp theo. Bằng cách này, thiết bị, thuốc
men, vật tư có xu hướng tích lũy và len vào phạm vi của công việc hàng ngày.
Điều này dẫn đến một sự tích tụ một khối lượng lớn các vật không sử dụng trên
toàn đơn vị (hình 2.4 và 2.5). Trong chương 3, bạn sẽ học cách sử dụng một "khu
vực chứa vật được dán nhãn đỏ" để đánh giá sự cần thiết của một thứ thay vì chỉ
đơn giản là loại bỏ nó. Điều này làm giảm đáng kể nguy cơ bỏ đi một vật mà có
thể cần thiết về sau.

297
Hình 1. Khay đựng mẫu xét nghiệm bề bộn đang chờ 5S

Hình 2. Những chiếc hộp không rõ nguồn gốc để bừa bãi


1.2.2 Trụ cột thứ hai: Sắp xếp
Sắp xếp có thể được định nghĩa như việc sắp xếp các vật dụng cần thiết để
có thể dễ dàng cho việc sử dụng và dán nhãn chúng để dễ dàng tìm thấy cũng như
đặt lại chỗ cũ. Sắp xếp nên luôn luôn được thực hiện cùng với Sàng lọc. Một khi
mọi thứ được phân loại tốt, sẽ chỉ còn lại những gì bạn cần để chăm sóc cho
người bệnh. Tiếp theo, phải xác định rõ ràng những vật này ở đâu để bạn có thể
biết ngay vị trí để tìm và nơi để trả chúng trở lại.

298
Hình 3. Ví dụ cho Sắp xếp
1.2.3 Trụ cột thứ ba: Sạch sẽ
Trụ cột thứ ba là Sạch sẽ. Sạch sẽ có nghĩa là lau nền nhà, lau chùi các dụng
cụ và bề mặt, và nói chung là đảm bảo rằng mọi thứ trong cơ sở y tế được giữ
sạch suốt thời gian, 24/7. Trong một cơ sở y tế, Sạch sẽ có thể giúp ngăn ngừa sự
lây lan tình trạng nhiễm trùng bệnh viện, chẳng hạn như tụ cầu vàng đề kháng
methicillin.
Sạch sẽ nên được tích hợp trong các công việc dọn dẹp hàng ngày để duy trì
tình trạng môi trường an toàn cũng như các điều kiện làm việc thích hợp của trang
thiết bị cho hoạt động hành chính và lâm sàng.
1.2.4 Trụ cột thứ tư: Săn sóc
Săn sóc khác với Sàng lọc, Sắp xếp, và Sạch sẽ. Ba trụ cột đầu tiên này có
thể được nghĩ như các hoạt động, như việc gì đó chúng ta làm. Ngược lại, Săn sóc
là phương pháp bạn dùng để duy trì ba trụ cột đầu tiên –Sàng lọc, Sắp xếp, và
Sạch sẽ. Nó cũng có thể là một phương pháp quan trọng để giữ cơ sở của bạn sẵn
sàng cho tiêu chuẩn quốc tế JCI, DNV, hoặc sự khảo sát để công nhận của Bộ Y
tế.
Săn sóc (Standardize) có liên quan đến từng cái trong ba trụ cột đầu tiên,
nhưng nó liên quan mạnh mẽ nhất tới Sạch sẽ (Shine). Nó là kết quả của việc giữ
cho các bề mặt nơi làm việc và trang thiết bị không bị nhiễm bẩn. Đó là tình trạng
có được qua nhiều lần chúng ta thực hiện Sạch sẽ (Shine).
1.2.5. Trụ cột thứ năm: Sẵn sàng

299
Trong bối cảnh của năm trụ cột, Sẵn sàng (Sustain) có nghĩa là tạo một thói
quen duy trì các qui trình đúng và điều kiện môi trường phù hợp. Bốn trụ cột đầu
tiên có thể được thực hiện mà không gặp khó khăn nếu nhưng nhân viên nơi làm
việc cam kết duy trì tình trạng 5S. Một nơi làm việc như thế có thể có được năng
suất và chất lượng cao. Một môi trường làm việc như vậy có khả năng mang lại
an toàn cho cả bệnh nhân và nhân viên y tế.
Trong nhiều cơ sở y tế, khối lượng thời gian và sự nỗ lực đáng kể được sử
dụng một cách vô ích cho việc Sàng lọc và sắp xếp bởi vì cơ quan thiếu kỷ luật để
duy trì tình trạng 5S và tiếp tục việc thực hiện 5S mỗi ngày. Ngay cả khi cơ quan
thỉnh thoảng tổ chức những chiến dịch và các cuộc thi 5S, nếu không có trụ cột
Sẵn sàng, những trụ cột khác sẽ không tồn tại lâu dài được.
1.3.Các loại đối kháng thường gặp đối với việc thực hiện 5S
Bất kỳ cơ quan nào giới thiệu về năm cột của 5S thì có khả năng sẽ chạm
trán với sự đối kháng. Một số loại đối kháng phổ biến được thảo luận dưới đây.
1.3.1. Đối kháng 1: Tại sao phải thực hiện loại bỏ hay làm sạch trong khi đó
không phải là công việc của tôi
Nhiều nhân viên y tế quá bận rộn, thường là kết quả của việc tìm kiếm cho
những thứ bị thất lạc ở nơi làm việc thiếu tổ chức, đến nỗi họ đã phải dựa vào các
đội dịch vụ dọn dẹp vệ sinh và mội trường vào cuối ngày. Khi các phương pháp
5S được giới thiệu, người ta thường nói, "Việc loại bỏ hoặc làm sạch không phải
là công việc của tôi." Trong thực tế, thái độ tiêu cực này góp phần gây nên sự bừa
bãi và hỗn loạn thường xảy ra trong các hoạt động y tế.
1.3.2 Đối kháng 2: Sàng lọc và sắp xếp thì cũng chỉ là công việc thông thường
thôi mà
Sàng lọc và Sắp xếp nghe có vẻ quá đơn giản đến nỗi khó có thể tin chúng
quan trọng và mạnh mẽ như thế nào! Thực tế thì 5S là cần thiết khi các cơ sở y tế
thường xuyên không gọn gàng, thiếu tổ chức, và không sạch sẽ.
1.3.3. Đối kháng 3: 5S sẽ không cho chúng ta nhiều thời gian hơn với người bệnh
Các nhân viên y tế đôi khi nghĩ rằng công việc của họ đơn giản là điều trị
người bệnh, chứ không phải là việc tổ chức hoặc làm sạch mọi thứ. Lối suy nghĩ
này là dễ hiểu nếu công việc của họ trước đây chưa bao giờ bao gồm các chức

300
năng này. Tuy nhiên, đó là một thái độ cần thay đổi vì các nhân viên y tế dần hiểu
ra các hoạt động Sàng lọc, Sắp xếp và Sạch sẽ là quan trọng như thế nào trong
việc bảo đảm an toàn người bệnh, đạt được các dịch vụ không khiếm khuyết, và
giảm chi phí y tế.
1.3.4. Đối kháng 4: Chúng tôi đã thực hiện Sàng lọc và sắp xếp rồi
Một số người chỉ xem năm trụ cột ở các khía cạnh nhìn thấy trực tiếp và hời
hợt. Họ nghĩ rằng việc sắp xếp lại mọi thứ một chút và đưa chúng vào hàng gọn
gàng là xong. Tuy nhiên, "sự ngăn nắp" như thế chỉ mới chạm vào nội dung bên
ngoài của năm trụ cột.
1.3.5. Đối kháng 5: Chúng tôi đã thực hiện việc tổ chức, sắp xếp nơi làm việc từ
nhiều năm trước
Đây là kiểu nhận xét được nghe thường xuyên nhất từ những người nghĩ
rằng phong trào năm trụ cột là một mốt thời thượng. Nếu họ đã cố gắng tổ chức
nơi làm việc một lần cách đây 10 năm, họ không nhìn thấy lý do tại sao họ nên
làm điều đó một lần nữa. Năm trụ cột không phải là một mốt thoáng qua. Chúng
là nền tảng cho việc thực hiện tất cả các loại cải tiến.
1.3.6. Đối kháng 6: Chúng tôi khá bận rộn, không có thời gian cho các hoạt động
5S
Ở một số nơi làm việc, Sàng lọc, Sắp xếp, và Sạch sẽ là những điều đầu tiên
thiếu được quan tâm khi công việc trở nên bận rộn. Và trong y tế, công việc có
thể trở nên rất, rất bận rộn. Vì vậy, lời giải thích thường là "chúng tôi quá bận rộn
cho nó."Thực sự rằng sự ưu tiên công việc đôi khi quá cấp bách đến nỗi các hoạt
động khác cần phải chờ đợi. Tuy nhiên, hoạt động 5S là nền tảng trong y tế cũng
như rửa mặt và đánh răng trong cuộc sống cá nhân. Chúng ta có thể hoãn lại các
hoạt động trong một thời gian ngắn, trong những hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên,
việc hoãn lại chúng quá lâu sẽ có những hậu quả tiêu cực.
1.3.7. Đối kháng 7: Chúng tôi luôn luôn làm như vậy
Nếu bạn nói với mọi người rằng công việc sẽ hiệu quả hơn nếu tất cả dụng
cụ cho mỗi công việc được để cùng 1 nơi thuận tiện, họ có thể phản ứng bằng
cách nói, " âng, nhưng chúng tôi đang làm đúng, và đây là cách chúng tôi đã
luôn luôn thực hiện"

301
Những kiểu đối kháng này phổ biến trong giai đoạn đầu của việc thực hiện
5S. Nếu chúng ta bỏ qua đối kháng như thế và và vẫn tiến hành 5S, bạn sẽ không
thu được kết quả gì ngoài những thay đổi bề mặt. Thay vào đó, chúng ta cần phải
giải quyết những trở ngại này một cách trực tiếp. Để cho năm trụ cột hoạt động,
mọi người cần phải thực sự hiểu an toàn bệnh nhân cần thiết như thế nào
1.4. Mục tiêu chính của chương trình 5S
Lợi ích áp dụng 5S - 5S - một công cụ quản lý, trước kia vốn chỉ được biết
đến như một cách thức hỗ trợ quản lý sản xuất cho các doanh nghiệp và được áp
dụng phổ biến ở các nhà máy và công ty chuyên về sản xuất ở Nhật Bản. Nhưng
giờ đây, nhờ vào tính hiệu quả rất cao và tác động của quá trình toàn cầu hoá, mà
5S đang dần được thừa nhận rộng rãi trên thế giới như là một công nghệ quản lý
có khả năng ứng dụng rộng khắp, không những trong các doanh nghiệp có quy
mô và ngành nghề sản xuất, kinh doanh khác nhau, mà còn trong mọi lĩnh vực
kinh tế, xã hội.
1.5. Tại sao nên thực hiện 5S trong khám bệnh, chữa bệnh
- 5S không chỉ là sự thay đổi và cải tiến nơi làm việc về mặt vật lý mà còn
hình thành thái độ và hành vi mới cho nhân viên và làm cho tất cả mọi người
thấm nhuần ý thức kỷ luật. Có thể nói, 5S có tính hỗ trợ, và cao hơn nữa, 5S còn
là điều kiện tiên quyết đối với các chương trình cải tiến chất lượng toàn doanh
nghiệp, chẳng hạn: quản lý chất lượng toàn diện (TQM), liên tục cải tiến quy trình
(kaizen), và tái cấu trúc quy trình kinh doanh (BPR).
- 5S cũng được coi là hướng tiếp cận có hệ thống đối với phương thức
Lean Production (phương thức sản xuất tiết kiệm tối ưu) - một hệ thống quản lý
và tổ chức sự vận hành sản xuất, trong đó yêu cầu giảm thiểu về nhân lực, không
gian, vốn và thời gian để tạo ra sản phẩm ít lỗi hơn. Nó tạo ra một môi trường làm
việc có kỷ luật, sạch sẽ và có trật tự. Kết quả áp dụng từ đây cho thấy những hạn
chế/ách tắc trong việc vận hành công việc được giảm thiểu trông thấy và những
vấn đề phát sinh đều được phát hiện sớm và giải quyết kịp thời.
- Bên cạnh đó, 5S cũng góp phần làm gia tăng chất lượng cuộc sống cho
nhân viên bởi vì nhân viên tiêu dùng thời gian ở nơi làm việc nhiều hơn là ở nhà.
5S cũng giúp phát triển niềm hãnh diện và tinh thần đồng đội. 5S cũng làm cho
nơi làm việc trở nên dễ dàng quản lý và giám sát hơn bởi vì không còn những vật

302
thừa, lộn xộn gây cản trở cho hoạt động.
- Và điều quan trọng nhất là, khi bạn đã nắm vững tinh thần 5S, biết cách
vận dụng khéo léo mô hình này vào cả trong việc quản lý chính bản thân mình và
cuộc sống của gia đình, thì không chỉ hiệu quả công việc của bạn sẽ tăng lên rất
nhiều, mà bạn đang làm cho cuộc sống của bạn thành đạt và hạnh phúc hơn lên.
1.6. Lợi ích của việc thực hiện 5S
1.6.1. Lợi ích của bệnh nhân
Một cơ sở y tế gọn gàng và sạch sẽ tạo nên ít khiếm khuyết trong lâm sàng.
Một cơ sở y tế gọn gàng và sạch sẽ có nghĩa là người bệnh không phải chờ
đợi điều trị quá lâu.
Một cơ sở y tế gọn gàng và sạch sẽ thì hoạt động ít tốn kém hơn và giúp
giảm chi phí y tế.
Một cơ sở y tế gọn gàng và sạch sẽ đem đến một cảm giác khỏe mạnh, giúp
ích cho tinh thần của người bệnh và nhân viên y tế.
1.6.2. Lợi ích của nhân viên y tế
Cơ hội để bạn đưa ra những ý kiến sáng tạo về nơi làm việc của bạn nên
được tổ chức như thế nào và cách làm việc của bạn nên được thực hiện như thế
nào
Tạo cho nơi làm việc của bạn dễ chịu để làm việc hơn
Tạo cho công việc của bạn thỏa mãn hơn
Giúp bạn biết những gì bạn đang muốn thực hiện, khi nào và nơi nào bạn
mong đợi để làm điều đó.
Giúp bạn giao tiếp và làm việc với mọi người dễ dàng hơn.

303
Hình 4. Cung cấp sự sáng tạo nơi làm việc
1.6.3. Lợi ích của cơ sở khám khám chữa bệnh
Cơ quan của bạn cũng sẽ nhận nhiều lợi ích từ việc thực hiện năm trụ cột,
như nâng cao chất lượng, giảm chi phí, giảm thời gian người bệnh chờ đợi điều
trị, đẩy mạnh an toàn, xây dựng lòng trung thành của người bệnh, và thúc đẩy
tăng trưởng tài chính cho cơ quan
1.6.3.1. Lợi ích 1. Không sai sót giúp chất lượng cao hơn
Các sai sót y khoa do nhiều nguyên nhân, bao gồm cả việc sử dụng nhầm
thuốc và điều trị nhầm bệnh nhân. Sàng lọc và Sắp xếp ngăn chặn các loại lỗi này.
Hơn nữa, việc bảo quản thiết bị và môi trường làm việc sạch sẽ giảm “thời gian
đi" cho việc tìm kiếm dụng cụ thất lạc. Những lợi ích này và các kết quả khác
trong việc thực hiện 5S giúp gia tăng thời gian thăm khám tại giường bệnh và góp
phần làm giảm những sai sót trong lâm sàng.
1.6.3.2 Lợi ích 2: Không lãng phí giúp chi phí thấp hơn
Luôn có quá nhiều lãng phí trong một cơ sở y tế. Thực hiện 5S có thể giúp
loại bỏ các loại lãng phí sau đây:
- Lưu trữ vật tư nhiều quá mức cần thiết tại các nhà kho trung tâm
- Sử dụng quá nhiều không gian cho việc lưu trữ
- Mất thời gian cho việc tìm kiếm hoặc chờ đợi các thuốc hoặc thiết bị khó tìm.
- Lãng phí thao tác do các vật tự và trang thiết bị đặt ở các vị trí khó tiếp cận.

304
Hình 5. Không chậm trễ tạo nên dịch vụ vận chuyển đáng tin cậy.
1.6.3.3 Lợi ích 3: Không chậm trễ nghĩa là người bệnh không chờ đợi
Tại các cơ sở y tế không thực hiện 5S triệt để, thời hạn làm việc thì qua
nhanh và người bệnh thì chờ đợi trong khi mọi người thì lại đang bận rộn cố gắng
để nhớ những gì họ đã làm cho người bệnh cuối cùng, tìm kiếm trang thiết bị và
vật tư, chờ đợi các bác sĩ thực hiện thăm khám, chờ đợi kết quả xét nghiệm ...
danh sách còn rất nhiều. Thật là khó khăn khi bắt người bệnh phải chờ đợi do các
vấn đề như sự di chuyển lãng phí và quá nhiều sai sót và các khiếm khuyết về
hành chính và lâm sàng. Khi các vấn đề này được loại trừ, các quy trình trở nên
đáng tin cậy hơn và người bệnh được đối xử như họ mong muốn.
Tổn thương cho người bệnh hoặc đội ngũ nhân viên có thể xảy ra khi trang
thiết bị, thuốc men, vật tư để trong các hành lang và khi các vật dụng được chất
đống cao trong khu vực lưu trữ, hoặc khi các bề mặt nơi làm việc và thiết bị bị
bao phủ bởi bụi và các chất bẩn khác
1.6.3.5 Lợi ích 5: Không có những tình trạng bất thường giúp cho quy
trình luôn ở trạng thái sẵn sàng
Khi công việc bảo dưỡng hàng ngày được tích hợp với nhiệm vụ làm sạch
hàng ngày, nhân viên y tế sẽ phát hiện các sự cố trước khi chúng gây ra sai sót và
trì hoãn trên lâm sàng. Bằng cách này, khu vực làm việc và trang thiết bị được
chuẩn bị tốt hơn để sử dụng. Khu vực làm việc và trang thiết bị được bảo dưỡng
tốt và sạch sẽ có nghĩa là các sự cố làm gián đoạn quy trình xảy ra ít hơn và việc

305
chẩn đoán và sửa chữa khi sự cố xảy ra cũng dễ dàng hơn.
1.6.3.6. Lợi ích 6: Không khiếu nại mang đến sự tự tin và tin tưởng tốt hơn
Những cơ sở y tế thực hiện năm trụ cột hầu như thoát được các sai sót và
trì hoãn trên lâm sàng. Điều này có nghĩa là họ cũng thoát khỏi sự phàn nàn
của người bệnh về chất lượng điều trị.
- Điều trị tại một nơi làm việc gọn gàng và sạch sẽ sẽ không có các sai sót
về hành chính và lâm sàng.
- Điều trị tại một nơi làm việc gọn gàng và sạch sẽ sẽ giảm chi phí.
- Điều trị tại một nơi làm việc gọn gàng và sạch sẽ không làm cho bệnh
nhân chờ đợi.
- Điều trị tại một nơi làm việc gọn gàng và sạch sẽ là an toàn
1.6.3.7. Lợi ích 7: Nâng cao tinh thần nhân viên sẽ hạn chế nhân viên nghỉ
việc
Năm trụ cột của 5S có thể cải thiện đáng kể tinh thần nhân viên. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng các nhân viên y tế hài lòng hơn với môi trường làm
việc của họ sẽ ít có khả năng tìm kiếm việc làm ở nơi khác. ét về chi phí,
trung bình (tại Hoa Kỳ), mất hơn $80.000 để thay thế một y tá, điều này mang
lại lợi ích về tài chính rất đáng kể cho đơn vị của bạn.
1.6.3.8 Lợi ích 8: Không thâm hụt giúp ổn định tài chính
Các cơ sở y tế không thể kiếm tiền mà không cần đến việc cung cấp dịch
vụ chăm sóc có chất lượng hoặc có được sự tin tưởng của người bệnh. Năm trụ
cột cung cấp một nền tảng vững mạnh cho việc xây dựng chất lượng và niềm
tin của người bệnh và, kế đến, là lòng trung thành của người bệnh. Do đó, các
cơ sở y tế với một nền tảng 5S vững chắc có nhiều khả năng trở nên ổn định về
tài chính hơn.
2. Áp dụng mô hình 5S trong cải tiến chất lượng chăm sóc người bệnh
2.1. Các yếu tố cơ bản để thực hiện thành công chương trình thực hành 5S
- Lãnh đạo luôn cam kết và hỗ trợ: Điều kiện tiên quyết cho sự thành công
khi thực hiện 5S là sự hiểu biết và ủng hộ của lãnh đạo trong việc hình thành
các nhóm công tác và chỉ đạo thực hiện

306
- Bắt đầu bằng đào tạo: Đào tạo cho mọi người nhận thức được ý nghĩa
của 5S, cung cấp cho họ những phương pháp thực hiện là khởi nguồn của
chương trình. Khi đã có nhận thức và có phương tiện thì mọi người sẽ tự giác
tham gia và chủ động trong các hoạt động 5S
- Mọi người cùng tự nguyện tham gia: Bí quyết thành công khi thực hiện
5S là tạo ra một môi trường khuyến khích được sự tham gia của mọi người
- Lặp lại vòng 5S với tiêu chuẩn cao hơn: Thực hiện chương trình 5S là sự
lặp lại không ngừng các hoạt động nhằm duy trì và cải tiến công tác quản lý.
Xuất phát từ triết lý con người là trung tâm của mọi sự phát triển, mô hình
thực hành 5S đã được áp dụng tại Nhật bản như một nền tảng để áp dụng thành
công hệ thống quản lý chất lượng. 5S tạo ra một môi trường sạch sẽ, tiện lợi và
giúp cho tổ chức/doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng, đem lại niềm tin cho khách hàng.
2.2. Các bước áp dụng 5S
2.2.1. Sàng lọc
Việc nhận diện vật dụng, thuốc men và vật tư không cần thiết trong một
cơ sở y tế bận rộn không phải lúc nào cũng dễ dàng. Nhân viên hiếm khi biết
cách tách biệt những thứ cần thiết từ những vật dụng không cần thiết để phục
vụ cho qui trình và thủ tục chăm sóc sức khỏe. Nhà Quản lý y tế và nhân viên
thường không nhận ra sự dư thừa dù chúng ở ngay tầm mắt của họ.
Chiến lược dán nhãn đỏ (red-tagging) là một phương pháp đơn giản để
nhận diện những vật dụng không cần thiết tiềm năng trong cơ sở y tế, lượng giá
tính hữu dụng và xử lý chúng một cách hợp lý
2.2.1.1. Tổng quan về Dán nhãn đỏ
Dán nhãn đỏ (Red-tagging) nghĩa là dán những nhãn, thẻ màu đỏ lên
những vật dụng trong cơ sở y tế cần được đánh giá là cần thiết hay không cần
thiết (hình 3.1). Nhãn màu đỏ thường thu hút sự chú ý của mọi người do màu
đỏ là màu nổi bật so với các màu còn lại. Ba câu hỏi đặt ra cho một sản phẩm
được dán nhãn đỏ là:
- Liệu vật dụng này có cần thiết?
- Nếu vật này là cần thiết thì có phải cần đến số lượng hiện tại không?

307
- Nếu vật này cần thiết thì có cần thiết phải đặt ở đây?

Hình 6. Các ví dụ về vật dán nhãn đỏ


Khi những vật dụng đã được nhận dạng bằng các câu hỏi trên, chúng sẽ
được đánh giá và xử lý một cách thích hợp. Chúng có thể:
- Được giữ ở “khu vực chứa vật dán nhãn đỏ ” một thời gian để xem xét
tính hữu dụng
- Có thể bỏ đi
- Được sắp đặt lại
- Để lại đúng vị trí cũ
2.2.1.2. Khu vực chứa vật dán nhãn đỏ
Để thực hành “Dán nhãn đỏ” có hiệu quả thì phải tạo ra một khu vực để
giữ những vật được dán nhãn đỏ. Khu vực giữ vật dán nhãn đỏ là một khu vực
được thiết lập ra nhằm mục đích lưu trữ những vật dụng đã được dán nhãn đỏ
chờ được lượng giá. Điều này thiết lập một mạng lưới an toàn cho câu hỏi ban
đầu liệu một vật dụng có cần thiết bị loại bỏ. Bước đệm này rất hữu dụng khi
nhu cầu hay mức nhu cầu sử dụng của vật dụng đó chưa được biết hay chưa
được ghi nhận, điều mà rất thường xảy ra Trong các trường hợp khác, khu vực
trữ vật dán nhãn đỏ có thể được dùng như một bước đệm về mặt cảm xúc khi
có sự phân vân liệu có nên loại bỏ một món đồ. Đôi khi chúng ta phân vân về
việc tự bỏ một thứ nào đó mà chúng ta nghĩ sẽ cần thiết về sau. Khi vật dụng bị
xếp qua một bên và được trông coi trong một khoảng thời gian xác định trước,
người ta có xu hướng sẵn lòng từ bỏ nó hơn khi khoảng thời gian ấy kết thúc.

308
2.2.1.3. Khu vực giữ đồ dán nhãn đỏ trung tâm và khu vực
Thông thường, một tổ chức khi thực sự muốn triển khai thực hiện công
tác dán nhãn đỏ thì cần phải thành lập được một khu vực trung tâm lưu giữ
những vật dụng đã dán nhãn đỏ. Khu vực này được sử dụng để quản lý những
vật dụng không thể hoặc không nên bị sắp xếp bởi những khoa phòng hay khu
làm việc riêng biệt.
Mỗi khoa phòng hay khu làm việc tham gia thực hiện việc “dán nhãn đỏ”
cũng cần một khu vực lưu giữ vật dụng đã dán nhãn đỏ tại chỗ. Khu vực lưu
giữ vật dụng dán nhãn đỏ tại chỗ được sử dụng để quản lý những vật dụng
được dán nhãn đỏ trong phạm vi tại khoa phòng hay khu làm việc đó.
Quy trình dán nhãn đỏ trong bộ phận hay khu vực làm việc có thể chia
thành các bước:
Bước 1: Khởi động kế hoạch dán nhãn đỏ.
Bước 2: Xác định đối tượng dán nhãn đỏ.
Bước 3: Xác định các tiêu chí dán nhãn đỏ
Bước 4: Làm nhãn đỏ
Bước 5: Dán nhãn đỏ.
Bước 6: Đánh giá vật dụng dán nhãn đỏ.

NHÃN ĐỎ
Phân loại 1. Thiết bị y tế 6. Thiết bị văn phòng
Khoanh tròn 2. Dụng cụ y tế 7. Dụng cụ văn phòng
3. Thuốc 8. Vật tư văn phòng
4. Vật tư y tế 9. Khác
Tên
GĂNG PHẪU THUẬT
Số hiệu vật dụng 42

309
Số lượng Tiền
500 $2000
1. Không cần thiết
Lý do 2. Hàng lỗi
3. Ít dùng
4. Khác
Hủy bỏ bởi: (khoa/phòng/đơn vị…)
KHO TRUNG TÂM L ƯU TRỮ VẬT DỤNG ĐƯỢC DÁN
NHÃN ĐỎ
Ngày Ngày lập bảng: Ngày hủy:
21/02/2010 28/02/2010 30/03/2010
Số nhãn đỏ 12345
Một vài loại vật dụng không cần thiết nhất định có xu hướng tích tụ ở khu
vực làm việc và phòng lưu trữ tại những vị trí có thể đoán được. Phần này cung
cấp các chỉ điểm về loại cũng như vị trí tích tụ thường gặp của những vật dụng
không cần thiết.
2.2.1.4. Những loại vật dụng không cần thiết
Sau đây là những loại vật dụng không cần thiết có xu hướng tích tụ:
- Dụng cụ hoặc vật tư bị lỗi hay có số lượng dư thừa.
- Thiết bị quá hạn hay hư hỏng.
- Vật tư quá hạn.
- Dụng cụ cấy ghép trong phẫu thuật bị quá hạn (rất đắt tiền!).
- Thiết bị, dụng cụ và vật tư của bác sĩ không còn làm việc trong đơn vị.
- Máy tính và thiết bị điện tử lỗi thời.
- Áp phích, bảng hiệu, thông báo, các ghi chú không còn hiệu lực.
2.2.1.5. Vị trí các vật dụng không cần thiết thường tích tụ
Sau đây là những nơi mà các vật dụng không cần thiết thường tập trung
lại:
- Ở các phòng và khu vực không được thiết kế với chức năng cụ thể.
- Ở các góc gần lối đi, lối thoát hiểm và hành lang thang máy.
- Dọc theo mặt trong và ngoài các bức tường, kế bên các vách ngăn và mặt

310
sau các cột.
- Dưới bàn và kệ hay trong ngăn bàn và ngăn kéo.
- Gần chân các chồng vật dụng xếp cao.
- Phía sau máy tính, các thiết bị ngoại vi và dây cáp.
- Trên các biểu đồ quản lý và bảng thông báo không còn sử dụng.
- Trong ngăn kéo và xe đẩy vật tư không được phân loại rõ ràng.
2.2.2. Sắp xếp
Hai bước để tiến hành “Sắp xếp”
Bước 1: Bạn sẽ học một số nguyên tắc để quyết định vị trí tốt nhất để đặt
thiết bị, thuốc và vật tư y tế. Kế tiếp bạn sẽ học một công cụ là “Bản đồ 5S” rất
hữu ích trong việc đánh giá vị trí hiện tại và quyết định vị trí tốt nhất.
Bước 2: Bạn sẽ học cách nhận diện bằng mắt các vị trí tốt nhất mỗi khi đã
được quyết định.
Bước đầu tiên là tìm vị trí thích hợp nhất để cất giữ thiết bị và dụng cụ y
tế. Những vật dụng này khác với vật tư là chúng phải được đặt lại chỗ cũ sau
mỗi lần sử dụng. Tuy nhiên, một số nguyên tắc sau cũng có thể áp dụng cho
thiết bị, thuốc và vật tư y tế.
- Đặt các vật dụng tại nơi làm việc theo mức độ sử dụng
- Đặt các vật dụng thường dùng gần nơi sử dụng
- Đặt các vật dụng ít dùng xa nơi sử dụng
- Để các vật dụng gần nhau nếu chúng được sử dụng chung với nhau, và
cất theo thứ tự sử dụng
Nếu được, sắp xếp các thiết bị và vật tư thành từng bộ.
Phương pháp này là để chúng vào một hộp đựng tất cả dụng cụ và vật tư
cần thiết để thực hiện một thủ thuật lâm sàng hay hành chính.

311
2.2.2.1. Bước 1: Xác định các vị trí thích hợp
Bản đồ 5S giúp bạn từng bước tiến hành đánh giá các vị trí hiện tại và
quyết định các vị trí thích hợp nhất. Trước khi bắt đầu học Bản đồ 5S, điều quan
trọng đối với học viên là phải biết một số nguyên tắc cơ bản vì sao một số vị trí
này lại phù hợp hơn một số vị trí kia.
- Nơi để thiết bị phải rộng hơn thiết bị để nhân viên dễ dàng di chuyển
thiết bị.
- Giảm số lượng chủng loại thiết bị và dụng cụ bằng cách thiết lập các tiêu
chuẩn cho đơn vị.
- Lưu giữ các thiết bị theo chức năng hay thủ thuật.
- Lưu giữ theo chức năng: nghĩa là cất giữ dụng cụ và vật tư khi chúng có
cùng chức năng. Điều này đạt hiệu quả tốt nhất tại khoa cấp cứu hay phòng mổ
hay phòng thủ thuật.
- Lưu giữ theo thủ thuật: nghĩa là cất giữ dụng cụ và vật tư khi chúng cùng
được sử dụng trong cùng một thủ thuật. Điều này đạt hiệu quả tốt nhất đối với
các hoạt động lập đi lập lại, ví dụ như phẫu thuật, thủ thuật xét nghiệm hay
chuẩn đoán hình ảnh
Sử dụng Bản đồ 5S để xác định vị trí
Bản đồ 5S là công cụ có thể được sử dụng để đánh giá vị trí hiện đang cất
giữ thiết bị, thuốc, vật tư và xác định vị trí thích hợp nhất. Khi sử dụng Bản đồ
5S ta tạo ra 2 bản đồ “trước khi tiến hành” và bản đồ “sau khi tiến hành”. Bản
đồ trước khi tiến hành cho thấy sơ đồ tổng thể cho thấy thiết bị, thuốc, vật tư tại
nơi làm việc trước khi tiến hành “Sắp xếp”. Sơ đồ sau khi tiến hành cho thấy sơ

312
đồ tổng thể cho thấy thiết bị, thuốc, vật tư tại nơi làm việc sau khi tiến hành
“Sắp xếp”.
Bản đồ 5S có thể được sử dụng để đánh giá sự ngăn nắp tại nơi làm việc dù
chật hay rộng – ví dụ nơi làm việc của cá nhân trong khoa xét nghiệm, phòng
phẫu thuật đơn, hay toàn bộ khu vực chăm sóc. Sau đây là các bước để thành lập
và sử dụng bản đồ 5S:
- Lập sơ đồ hoặc biểu đồ nơi làm việc. Nêu ra vị trí cụ thể các trang thiết
bị, vật tư, thuốc.
- Vẽ các mũi tên trên sơ đồ mô tả tiến trình công việc giữa các vật dụng tại
nơi làm việc. Nên có ít nhất một mũi tên cho mỗi thao tác được thực hiện. Vẽ
các mũi tên mô tả các hoạt động được thực hiện và đánh số thứ tự khi tiến hành.
- Hãy nhìn kỹ lưỡng sơ đồ “mì ống Spaghetti”. Đó là bản đồ trước khi
thực hiện cho thấy bản đồ làm việc trước khi thực hiện “Bước Sắp xếp”. Bạn có
thể nhìn thấy vị trí ách tắc hiển nhiên trong quá trình làm việc? Theo các nguyên
tắc được trình bày ở trên trong chương này, bạn có thể nhìn ra cách để loại bỏ
những thứ dư thừa không?
- Lập bản đồ 5S để thử nghiệm với một cách bố trí thích hợp hơn cho khu
vực này. Một lần nữa, vẽ và đánh số các mũi tên để minh họa tiến trình làm việc.
- Phân tích tính hiệu quả của qui trình này, sử dụng các nguyên tắc
đã được thảo luận.
- Tiếp tục trải nghiệm với các qui trình làm việc xử dụng sơ đồ 5S cho đến
khi tìm ra được qui trình thích hợp nhất.
- Thực hiện qui trình làm việc mới tại nơi làm việc, di chuyển thiết bị,
thuốc và dụng cụ và vật tư theo vị trí mới.
- Tiếp tục đánh giá và cải tiến sự ngăn nắp theo qui trình tại nơi làm việc

313
Hình 7. Bản đồ 5S cho cách bố trí cũ ở đơn vị chăm sóc

Hình 8. Bản đồ 5S cho cách bố trí mới ở đơn vị chăm sóc


2.2.2.2. Bước 2: Nhận diện bằng mắt các vị trí
Mỗi khi vị trí thích hợp nhất được xác định, chúng ta cần có cách để xác
định vị trí này từ đó mọi người chỉ bởi việc nhìn thoáng qua có thể nhận biết
phải để một vật ở chỗ nào và số lượng vật dụng tại mỗi vị trí. Chúng ta có nhiều
chiến lược để xác định vật dụng là gì, ở đâu, số lượng bao nhiêu.
- Chiến lược ký hiệu
Chiến lược ký hiệu là sử dụng ký hiệu để xác định cái gì, vị trí và số lượng.
Ba loại ký hiệu chính là:
 Chỉ thị vị trí: cho thấy vị trí vật dụng đang được cất giữ

314
 Chỉ thị vật dụng: cho thấy vật dụng cụ thể đang được cất giữ tại vị trí
đó
 Chỉ thị số lượng: cho thấy số lượng hiện có của vật dụng đó
 Ký hiệu cũng thường được dùng để xác định
 Tên nơi làm việc
 Vị trí cất giữ thuốc và vật tư y tế
 Vị trí cất giữ thiết bị và dụng cụ
 Các qui trình chuẩn
 Sơ đồ thiết bị

Hình 9. Chỉ thị số lượng

315
Hình 10. Nhãn kệ chứa
Chiến lược ký hiệu sơn màu là phương pháp xác định các vị trí trên sàn và
hành lang. Nó được gọi là “Chiến lược ký hiệu sơn màu” vì nó dùng màu sơn để
chỉ thị. Trong một số trường hợp, băng keo dính có thể được sử dụng, tuy nhiên
có thể không đáp ứng tiêu chuẩn JCI hoặc cơ quan quản lý y tế về độ sạch và
tiếp cận hành lang. Chúng tôi khuyến cáo băng keo chỉ được sử dụng tạm thời
để xác định vị trí khi tiến hành thử nghiệm. Vị trí sau cùng nên xác định theo
chiến lược sơn màu.

Hình 11. Nhãn vị trí đồ vật trên kệ


Chiến lược sơn màu được dùng để vẽ vạch phân chia để phân biệt khu vực
đi lại và hành lang của khoa phòng lâm sàng. Khi sắp xếp hành lang và khu vực
làm việc, chúng ta hãy nhớ:
Vật tư y tế đang sử dụng nên đặt tại vị trí thuận tiện nhất cho tiến trình
công việc.
Nếu cần, sàn nên được sửa lại trước khi vẽ vạch phân chia.
Hành lang cần đủ rộng theo các tiêu chuẩn cần thiết và tránh xoay và len
lỏi khi di chuyển để bảo đảm cho bệnh nhân và trang thiết bị vận chuyển an toàn
và trôi chảy.
Vạch phân chia nên rộng 2-4 inch.

316
Màu sơn nên chuẩn hóa, nên sử dụng màu sáng
Ví dụ chuẩn hóa màu sắc:
 Khu vực làm việc: màu xanh lá cây
 Hành lang màu cam dạ quang
 Vạch phân chia màu vàng
 Ranh giới dành cho cứu hỏa màu đỏ

Hình 12. Phân chia khu vực cho thiết bị phòng mổ


Một số loại vạch phân chia:
Các khu vực lưu trữ xe đẩy
- Hướng đi ra hành lang
- Phạm vi cửa, chỉ thị lối cánh cửa sẽ mở
- Đánh dấu khu vực để bàn làm việc
- Đánh dấu vạch kẻ sọc (vạch vàng và vạch đen) chỉ thị khu vực không
được để trang thiết bị hay hàng lưu kho hay chỉ thị khu vực nguy hiểm.
- Vạch màu đỏ cách trần 18 inch chỉ thị cấm để hàng lưu kho trên kệ cao
hơn vạch do nếu làm như vậy thì sẽ làm cản trở hệ thống phun nước chữa cháy
tự động
Bản đồ 5S “hoàn thiện”

317
Bản đồ 5S “hoàn thiện” là 1 loại bảng kí hiệu. Nó cho biết vị trí của thiết
bị, thuốc, và vật tư tại nơi làm việc cụ thể sau khi qui trình Sắp xếp được thực
hiện. Bản đồ 5S hoàn thiện rất hiệu quả trong việc liên kết chuẩn hóa các vị trí
các vật dụng được cất giữ
Chiến lược mã hóa màu sắc
Mã hóa màu sắc có thể được dùng để hiển thị một cách rõ ràng loại thiết bị
nào, thuốc nào và vật tư nào được sử dụng với mục đích gì. Ví dụ, nếu một số
thiết bị và vật tư được sử dụng trong một thủ thuật y khoa, chúng có thể được
mã hóa cùng một màu và thậm chí có thể lưu trữ cùng một vị trí có cùng màu
đó. Tương tự, nhiều loại vật tư sử dụng trên các thiết bị khác nhau, vật chứa các
vật tư đó, thùng chứa chất thải y tế, vật đánh dấu thiết bị đã sử dụng có thể mã
hóa màu chỉ thị “đã sử dụng”

Hình 13. Ví dụ “đường viền” cho 1 mâm dụng cụ gây mê

Chiến lược vẽ “bóng” của vị trí đặt vật dụng (Shadow- Boarding)
Tạo ra bóng của vị trí đặt đồ vật là một giải pháp hay để cho biết thiết bị,
vật tư nào được cất tại vị trí nào. Vẽ bóng đơn giản nghĩa là vẽ và sơn màu hình
bóng thiết bị và dụng cụ tại đúng vị trí lưu trữ chúng. Trong trường hợp bạn
muốn đặt lại, bóng của thiết bị biểu hiện vị trí để cất giữ thiết bị, dụng cụ đó.

318
2.2.3. Sạch sẽ
2.2.3.1. Đặt kế hoạch cho chiến dịch Sạch sẽ của bạn
Làm sạch thường xuyên theo những hoạt động của Sạch sẽ nên được đưa
vào đào tạo như một trong những bước và điều lệ cơ bản mà nhân viên phải thực
hiện cùng với công việc chuyên môn của mình.
Bước 1: Xác định đối tượng của Sạch sẽ
Những đối tượng của Sạch sẽ được phân thành ba nhóm: vật dụng được
lưu trữ, thiết bị và không gian:
- Những vật dụng được lưu trữ bao gồm vật tư, gói công cụ và khay vô
trùng.
- Thiết bị bao gồm những vật dụng phòng thí nghiệm, thiết bị theo dõi, xe
cấp cứu, giường, bàn, ghế và máy tính.
- Không gian là những bề mặt thường được sờ chạm, sàn, khu vực làm
việc, sảnh, tường, trụ cột, trần nhà, cửa sổ, kệ, tủ, phòng ốc và bóng đèn.
Bước 2: Xác định nhiệm vụ của Sạch sẽ
Giữ sạch sẽ ở khu vực làm việc là trách nhiệm của mọi người ở nơi làm
việc. Đấu tiên, chúng ta có thể chia cơ sở vật chất y tế ra các khu vực.
Có hai loại công cụ chúng ta có thể sử dụng là:
Bản đồ nhiệm vụ 5S – một cách để truyền đạt các nhiệm vụ Sạch sẽ là
đánh dấu chúng trên bản đồ 5S. Bản đồ nhiệm vụ 5S thể hiện toàn bộ các khu
vực Sạch sẽ và những cá nhân phải chịu trách nhiệm giữ sạch sẽ chúng. (Chú
ý: Đừng để trống bất kỳ khu vực nào mà không có người quản lý. Chúng ta sẽ
không tính đến đội ngũ dọn dẹp vì họ không sống với quy trình 24/7.)
Lịch trình 5S – Lịch trình này sẽ chỉ ra cụ thể ai sẽ là người chịu trách
nhiệm cho khu vực nào vào ngày nào và thời gian nào. Lịch trình 5S nên được
dán tại khu vực làm việc.

319
Hình 13. Bản đồ phân công công việc

Bước 3: Xác định các phương pháp của Sạch sẽ


Các hoạt động Sạch sẽ hằng ngày nên bao gồm cả việc kiểm tra lại trước
khi thay ca, các hoạt động cần làm sau khi làm việc xong cũng như các hoạt
động được thực hiện vào cuối buổi trực. Điều quan trọng là phải sắp xếp sao
cho những hoạt động của Sạch sẽ trở thành một phần của công việc hằng
ngày. Quá trình xác định các phương pháp của Sạch sẽ bao gồm:
- Chọn đối tượng và công cụ - ác định những gì cần được giữ sạch sẽ
trong mỗi khu vực và những công cụ đồ dùng cần thiết phục vụ cho công tác
trên.
- Thực hiện hoạt động Sạch sẽ trong 5 phút—Giữ sạch sẽ nên được thực
hiện hằng ngày và không nên tốn quá nhiều thời gian. Ví dụ, những công việc
về giữ sạch sẽ có thể được thực hiện trong 5 phút. Chúng ta có thể chỉ định
những công việc cụ thể theo từng khung thời gian theo quy trình Sạch sẽ, giả
định rằng những công việc này được thực hiện suôn sẻ.

320
Hình 14:Sạch sẽ trong 5 phút
- Tạo ra một quy trình chuẩn cho các công việc của “Sạch sẽ”– Mọi người
cần phải biết rõ quy trình để thực hiện đúng cách và sử dụng thời gian của họ
một cách hiệu quả. Nếu không, họ sẽ dùng hầu hết thời gian của mình chỉ để giữ
sạch sẽ và dọn dẹp.
Bước 4: Chuẩn bị công cụ cần thiết
Ở đây chúng ta áp dụng quy trình Sắp xếp trong việc giữ sạch sẽ cho các
loại dụng cụ, lưu trữ chúng ở những vị trí có thể dễ dàng được tìm thấy, sử
dụng và hoàn trả.
Bước 5: Bắt đầu thực hiện “Sạch sẽ”
Sau đây là vài gợi ý về việc thực hiện quy trình Sạch sẽ:
Hãy đảm bảo rằng mọi chất bẩn được quét sạch khỏi mọi ngách như khe
nứt của sàn, trên tường và xung quanh các cột;
- Lau sạch mọi vết dơ, bụi và chất bẩn từ các bề mặt thường xuyên được
chạm vào, bao gồm nội thất, tường, của sổ và cửa ra vào;
- Hãy triệt để dọn sạch mọi chất bẩn, chất thải y tế, bụi và các chất lạ khác
trên mọi bề mặt;
- Sử dụng chất làm sạch và chất khử trùng thích hợp khi việc lau và quét
dọn không thể loại bỏ các chất bẩn.
2.2.3.2. Kiểm tra và duy trì độ sạch liên tục
Sự cần thiết của việc làm sạch/kiểm tra một cách có hệ thống

321
Hình 15. Mục tiêu của làm sạch/kiểm soát là tránh nhiễm khuẩn
Như chúng ta đã thảo luận trước đó ở chương này, việc kiểm tra trong khi
thực hiện quy trình Sạch sẽ là việc đương nhiên. Một khi việc làm sạch hằng
ngày và định kỳ trở thành một thói quen, chúng ta có thể bắt đầu kết hợp các
quy trình kiểm tra hệ thống vào quy trình Sạch sẽ. Nó sẽ biến "làm sạch" thành
"làm sạch/kiểm tra”.
Mặc dù nơi làm việc của bạn có thể trông rất sạch sẽ, nhưng các tác nhân
gây bệnh sẽ không ngừng tích luỹ trên các bề mặt thường được chạm vào và
tạo nên nhiễm khuẩn bệnh viện (Hình 5.6). Bệnh nhân (và người nhà bệnh
nhân), nhân viên y tế và các nhân viên khác sẽ thường xuyên chạm vào những
bề mặt như giường, ghế, nút gọi, điện thoại, máy bán hàng tự động và một số
vật dụng khác. Cần nhớ rằng các nhân viên y tế phải đi tiên phong, chứ không
phải là những người dọn dẹp vệ sinh. Việc tận dụng ưu thế trong sự nhạy bén
của nhân viên y tế đối với các nguồn nhiễm khuẩn bệnh viện là rất quan trọng.
Thường xuyên làm sạch/kiểm soát có thể giúp xác định vị trí và sửa chữa
những vấn đề này.
Các bước làm sạch/ kiểm tra
Các bước làm sạch/kiểm tra cần được thực hiện song song trong các quy
trình của Sạch sẽ nhưng tập trung nhiều hơn cho việc bảo trì các dụng cụ và
điều kiện môi trường để giữ an toàn cho nhân viên y tế và bệnh nhân. Các bước
làm sạch/kiểm tra được liệt kê như sau:

322
Bước 1: Xác định đối tượng cần làm sạch/ kiểm tra
Đối tượng cần làm sạch/kiểm tra cơ bản cũng giống như những đối tượng
liên quan đến trang thiết bị được đề cập ở trên trong quy trình Sạch sẽ.
Chúng bao gồm các bề mặt thường được chạm vào, khu vực làm việc, công
cụ, thiết bị và những vật dụng liên quan khác.
Bước 2: Phân bổ công viêc làm sạch/ kiểm tra
Về nguyên tắc, những người thực hiện công tác làm sạch/kiểm tra trong
một khu vực cụ thể hoặc trên các thiết bị cụ thể nên là người làm việc trong
khu vực đó hoặc là người vận hành chúng. Tùy thuộc vào sự phức tạp của quá
trình, thiết bị, việc có mặt tham gia của nhóm giám sát hay lãnh đạo trong việc
thực hiện công tác làm sạch/ kiểm tra cũng là một ý tưởng hay /Một khi việc
phân bổ công việc làm sạch/kiểm tra được xác định, chúng ta nên (1) ghi rõ
thành bảng lớn đính trong khu làm việc của từng bộ phận hay (2) ghi trên
những bảng nhỏ đính kèm theo từng khu vực cụ thể hoặc theo từng thiết bị cụ
thể.
Bước 3: Xác định phương thức làm sạch/ kiểm tra
Một khi đối tượng cần làm sạch/kiểm tra và công việc đã được xác định,
chúng ta cần xác định cách thức thực hiện. Đầu tiên, liệt kê những danh mục
cần được kiểm tra trong bảng kiểm và kết hợp chúng với nhau tạo thành
“Bảng kiểm cho việc làm sạch và kiểm tra”. Bảng 5.1 sẽ cho chúng ta một ví
dụ về mẫu “Bảng kiểm cho việc làm sạch/ kiểm tra”.
Bước 4: Áp dụng công tác làm sạch/ kiểm tra
Một khi công tác làm sạch/kiểm tra thật sự được thực hiện, vấn đề chủ
chốt là sử dụng mọi giác quan của bạn để phát hiện những điều kiện bất thường
(Ví dụ: các điều kiện không phù hợp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, năng
suất và An toàn của bệnh nhân và nhân viên y tế). Kiểm tra không đơn giản chỉ
là công tác nhìn bằng mắt thường, mà nó bao gồm cả sử dụng năm giác
quan. Sau đây là những lời khuyên để phát hiện những vấn đề về môi
trường và trang thiết bị
- Xem cách bệnh nhân và người nhà họ di chuyển trong cơ sở của bạn như
thế nào để xác định được những bề mặt mà họ thường xuyên sờ chạm có thể

323
chứa mầm bệnh.
- Xem xét kỹ cách những thiết bị hoạt động và tìm ra cả những lỗi nhỏ
(ví dụ, cáng có thể kêu cọt kẹt, dính ổ khóa, cây treo dịch truyền không lăn dễ
dàng, các vật dụng bị mất, bị nấm mốc, cong vênh, cùn mòn, các trường hợp bị
lệch, nghiêng, hay thay đổi màu sắc).
Bước 5: Điều chỉnh những vấn đề về trang thiết bị và môi trường
/
Hình 15. Hai hướng giải quyết vấn đề
- Dọn dẹp tức thời
Những nhân viên y tế và nhân viên khác cần phải điều chỉnh và cải thiện
những vấn đề mà họ phát hiện được trong quá trình làm sạch/kiểm tra bất cứ
lúc nào có thể. Công tác “Dọn dẹp tức thời” yêu cầu những nhân viên y tế
phải qua huấn luyện và chứng nhận bởi đội kiểm soát nhiễm khuẩn và đội dọn
dẹp vệ sinh - môi trường để tự họ có thể đưa ra biện pháp xử lý ngay lập tức khi
cần thiết.
- Dịch vụ dọn dẹp theo yêu cầu
Trong vài trường hợp, nhân viên y tế và các nhân viên khác có thể cảm
thấy rằng những vấn đề kiểm soát nhiễm khuẩn và dọn dẹp vệ sinh môi trường
quá khó để thực hiện một mình hay thực hiện ngay lập tức khi cần thiết. Với
những trường hợp này, nhân viên y tế nên đính thẻ yêu cầu dọn dẹp vệ sinh môi
trường ở vị trí cần thiết để đánh dấu vấn đề và giúp dễ được nhìn thấy. Họ cũng
nên yêu cầu dọn dẹp từ bộ phận cung cấp dịch vụ dọn dẹp vệ sinh môi trường.
Đề xuất đưa các dịch vụ dọn dẹp – vệ sinh môi trường theo yêu cầu vào
một "Bảng kiểm những hoạt động dọn dẹp – vệ sinh môi trường cần thiết" là 1 ý
kiến hay. Một khi một mục Dọn dẹp – vệ sinh môi trường theo yêu cầu đã được
đưa ra và kết quả đã được xác nhận, cột “ ác nhận” sẽ được đánh dấu chọn. Thẻ
yêu cầu dịch vụ nên được lấy ra sau khi được thực hiện.
2.2.4. Săn sóc
2.2.4.1. Tạo thói quen Sàng lọc, Sắp xếp, và Sạch sẽ
Giới thiệu

324
Ba bước để tạo dựng thói quen Sàng lọc, Sắp xếp, và Sạch sẽ (tam trụ
hay 3S) bao gồm:
Bước 1: Phân công người chịu trách nhiệm cho từng hoạt động trong chuỗi
qui trình duy trì 3S
Bước 2: Để ngăn ngừa xuống cấp, lồng ghép nghĩa vụ duy trì 3S vào công
việc thường nhật của các nhân viên y tế và đội ngũ nhân viên hỗ trợ.
Bước 3: Kiểm tra xem tình trạng 3S đang được duy trì bởi các nhân viên y
tế và đội ngũ nhân viên hỗ trợ tốt đến đâu.
Chúng ta sẽ bàn chi tiết hơn về từng mục trong phần sau của chương. Khi
đọc phần này, bạn sẽ nhận thấy một vài công cụ để áp dụng cho Săn sóc (ví dụ
sơ đồ 5S) khá là quen thuộc từ các trụ cột Sàng lọc, Sắp xếp, và Sạch sẽ. Đó là
do để Săn sóc, chúng ta cần sử dùng cùng một công cụ nhưng một cách hệ
thống hơn nhằm đảm bảo 3 trụ cột đầu được duy trì.
Bước 1: Phân công trách nhiệm thực hiện 3S
Để duy trì 3S, mỗi người cần biết rõ trách nhiệm của mình, khi nào thực
hiện, và thực hiện ở đâu, như thế nào. Nếu các nhân viên y tế và các bộ phận hỗ
trợ không nắm rõ sự phân công công việc 3S ngay tại nơi làm việc của chính
họ, thì các hoạt động Sàng lọc, Sắp xếp, và Sạch sẽ không có mấy ý nghĩa.
Tương tự, các hướng dẫn rõ ràng về 3S cần được phổ biến tới những người
phân phối trang thiết bị và vật tư từ kho trung tâm hoặc từ các nhà cung cấp bên
ngoài. Nơi giao nhận và khu vực kho bãi cần có bảng hiệu r ràng và sơ đồ 5S
cần được trưng lên để thấy rõ vị trí thiết bị và vật tư. Ở mỗi khu vực kho, cần có
biển hiệu rõ ràng về số lượng và nơi đặt chúng. Nhân viên quản lý vật tư và
những nhà cung cấp bên ngoài cần chia sẻ trách nhiệm với người giữ kho trong
việc duy trì tình trạng 3S tại khu vực kho của họ và nên khuyến khích họ tham
gia thực thi đầy đủ 5S.
/Các công cụ để phân công trách nhiệm 3S bao gồm:
- Sơ đồ 5S
- Lịch trình 5S/
- Biểu đồ chu kỳ công việc 5S, trong đó liệt kê các việc phải làm trong từng khu vực và đặt tần suất
chu kỳ cho từng công việc

325
BIỂU ĐỒ CHU KỲ Khoa: Cấp cứu
CÔNG VIỆC 5S Người l ậ p bả ng: Ja Ngà y: 10/2/2010
ni ca
Các S Tần suất

Mô tả công việc 5S

Sẵn sàng
Sàng lọc
Sắp xếp

Săn sóc
Sạch sẽ

Mỗi ca
Hàng
Hàng
Hàng
Hàng
Hàng
năm
Dán nhãn đỏ (hàng quý) o o
Dán nhãn đỏ (mỗi ca) o o
Chỉ báo vị trí (kiểm tra hoặc làm o o
mới)
Chỉ báo vật dụng (kiểm tra hoặc o o
làm mới)
Chỉ báo số lượng (kiểm tra hoặc o o
làm mới)
Quét khu vực chờ o o
Quét xung quanh phòng làm việc của o o
điều dưỡng
Quét dưới gầm bàn tiếp nhận o o
Quét hành lang o o
Quét các khu vực thực hiện lâm o o
sàng
…..
Hình 16. Bảng điều phối công việc
Trong ví dụ ở trên, các nhiệm vụ 5S được phân loại theo 3 trụ cột
đầu và sự sắp xếp chu trình. Trong hình, các loại chu kỳ được mã hóa bởi
những chữ cái khác nhau: A là “ liên tục”, B “ hàng ngày”, C “hàng đêm”, D
“ hàng tuần”, E “ hàng tháng”, F “thỉnh thoảng”. Người được ủy thác nhiệm

326
vụ 5S có thể sử dụng bảng này như một danh mục 5S. Ví dụ cụ thể này nêu
rõ người chịu trách nhiệm cho từng công việc, thuộc khu vực nào, cần làm
gì và khi nào thực hiện việc đó.
Bước 2: Lồng ghép nghĩa vụ 3S vào công việc hàng ngày
Nếu các nhân viên y tế chỉ thực hiện nghĩa vụ 3S khi họ thấy tình trạng
3S bị xuống cấp, thì việc thực thi 5S vẫn chưa bén rễ. Duy trì 3S cần mặc
nhiên trở thành phần việc hàng ngày của tất cả mọi người. Nói cách khác,
đây phải là một phần của chu trình làm việc thường qui.
5S trực quan và 5S trong 5 phút là hai cách tiếp cận giúp 5S được duy
trì trong công việc hàng ngày của tất cả những cá nhân tham gia vào quá
trình cung cấp dịch vụ.
/5S trực quan
Phương thức 5S trực quan giúp mọi người thấy rõ ngay từ cái nhìn đầu
tiên. Điều này rất hữu hiệu trong các cơ sở y tế có số lượng bệnh nhân cao
và đa dạng.
Điểm chính của 5S trực quan là tất cả mọi người sẽ ngay lập tức nhận ra
tình trạng khác thường. Điều này vô cùng quan trọng trong y tế, nơi sai sót
trong thuốc men và dụng cụ có thể dễ dàng dẫn đến tổn hại, thậm chí tử vong.
Trong chương 4, chúng ta đã xác định rõ kiểm soát trực quan như một
công cụ cho biết về cách thực hiện công việc. Rõ ràng, sử dụng kiểm soát trực
quan là tâm điểm trong thực thi 5S trực quan trong y tế, nơi chúng ta tập trung
vào công tác chăm sóc người bệnh.
5S trong 5 phút
/Trong chương 5, bạn đã học cách Sạch sẽ trong 5 phút. 5S trong 5 phút
cũng tương tự, nhưng bao trùm lên cả 5 trụ cột thay vì chỉ có trụ cột thứ 3.
Khi sử dụng 5S trực quan, ngay lập tức việc dễ dàng quan sát đóng vai trò kích
hoạt tức thì cho các hành động 3S (Sàng lọc, Sắp xếp, và Sạch sẽ) để ngăn ngừa
các bất thường (lộn xộn, nhiễm bẩn, hư hỏng…).
/

327
/Chúng ta cũng cần xem xét những hoạt động này cần thực hiện với kỹ
năng và hiệu quả ra sao. Thay vì phải mất 1 tiếng mới chuẩn bị xong phòng mổ
cho bệnh nhân kế tiếp, chúng ta có thể thực hiện qui trình Sạch sẽ trong nửa
giờ hoặc dưới 10 phút cho cùng 1 công việc. Thuật ngữ “5S trong 5 phút” nên
được hiểu theo cách tượng trưng – thời gian thực có thể là 3 hoặc 6 phút,
hoặt bất cứ lượng thời gian nào phù hợp, cần thiết cho công việc.Vấn đề là tạo
ra các thói quen công việc 5S ngắn gọn, hiệu quả.
Bước 3: Kiểm tra mức độ duy trì 3S
Sau khi phân công các phần việc và lồng ghép 3S vào thói quen công việc
hàng ngày của các nhân viên y tế, chúng ta cần đánh giá xem họ duy trì 3 trụ
cột này như thế nào.
/Để thực hiện điều này ta có thể sử dụng bảng kiểm xếp hạng mức Săn sóc.
Để đánh giá hiệu quả của các hoạt động duy trì, người đánh giá sắp hạng kết
quả công việc Sàng lọc, Sắp xếp, và Sạch sẽ theo thang điểm từ 1 đến 5. Một
bảng kiểm như vậy có thể được thực hiện riêng biệt cho từng phòng ban
và/hoặc cho các qui trình hoạt động.
Bảng kiểm 5S, như trong hình 6.4 được sử dụng để kiểm tra mức độ 5S
trong toàn bộ tổ chức. Khi một tổ chức thực hiện tháng hành động 5S, bảng
kiểm 5S được sử dụng để đánh giá tình trạng 5S hàng tuần.
/Sức mạnh của bảng kiểm 5S trong y tế không là quá cường điệu. Một tổ
chức thường xuyên duy trì 5S ở mức 2 sẽ ở trong trạng thái tốt để vượt qua kỳ
đánh giá của JCI hay DNV với một vài châm chước. Một tổ chức thường xuyên
duy trì 5S ở mức 3 gần như là sẽ qua được kỳ đánh giá của JCI hay DNV hay
kỳ khảo sát của cơ quan quản lý y tế quốc gia một cách nhẹ nhàng. Với 5S mức
4 hoặc 5, những kiểm soát viên của JCI, DN hay cơ quan quản lý y tế quốc gia
còn học hỏi được vài điều từ cơ sở thực hành tốt này. Chúng ta sẽ tiếp tục khám
phá khái niệm này khi bàn về khái niệm dự phòng.
2.2.5. Sẵn sàng
Tạo những điều kiện để Sẵn sàng kế hoạch của bạn.
Việc thực hiện trụ cột sẵn sàng khác với các trụ cột Sàng lọc, Sắp xếp,
Sạch sẽ, hoặc Săn sóc bởi vì các kết quả là không thể nhìn thấy và không thể

328
đo lường. Cam kết thực hiện tồn tại trong tâm trí mỗi người và chỉ biểu hiện bởi
hành vi của họ. Do đó, nó không thể được "thực hiện" chính xác như một kỹ
thuật. Tuy nhiên, chúng ta có thể tạo điều kiện khuyến khích việc thực hiện trụ
cột Sẵn sàng.
/Chẳng hạn, quay lại ví dụ về chương trình tập luyện, làm thế nào bạn
có thể tạo các điều kiện trong cuộc sống riêng của bạn mà nó sẽ khuyến khích
sự duy trì cho kế hoạch đến phòng tập thể dụcbalần một tuần? Bạn có thể:
Đến phòng tập cùng với bạn bè do đó bạn có thể tập chung với nhau và cổ
vũ lẫn nhau.
Tạo một lịch tập với bạn bè.
Lên kế hoạch với vợ (chồng) ăn chiều trễ 3 lần trong tuần do đó bạn có thể
đi tập sau giờ làm việc.
Ngủ nhiều hơn vào đêm trước, do đó bạn sẽ không quá mệt mỏi vào cuối
ngày để có thể thực hiện chương trình tập luyện của bạn.
Những điều kiện này sẽ làm cho việc duy trì lịch trình tập thể dục tại
phòng tập ba lần một tuần của bạn dễ dàng hơn.
Tương tự như vậy, bạn và đơn vị của bạn có thể tạo các điều kiện và hệ
thống duy trì cam kết cho việc thực hiện năm trụ cột. Các loại điều kiện hữu ích
nhất cho việc này là:
Nhận thức: Bạn và các đồng nghiệp của bạn cần phải hiểu về năm trụ
cột là gì và vì sao duy trì chúng là điều quan trọng.
Thời gian: Bạn cần phải có hoặc tạo đủ thời gian trong lịch làm việc để
thực hiện 5S.
Cách thực hiện: Bạn cần có một hệ thống để đưa ra phương thức và thời
gian cho các hoạt động 5S.
Hỗ trợ: Bạn cần phải có sự hỗ trợ, công nhận những nỗ lực của bạn từ
nhà quản lý, bộ phận lãnh đạo,và quản lý nhân sự.
Khen thưởng, công nhận: Những nỗ lựccủa bạn cần phải được khen
thưởng.

329
Sự hài lòng hứng thú: V iệc thực hiện năm trụ cột cần được vui vẻ và
thoải mái cho bản thân bạn và đơn vị của bạn. Cảm giác của sự phấn khích và
hài lòng sẽ được truyền từ người này sang người khác, thúc đẩy sự phát triển
của chương trình thực hiện 5S vì vận động được nhiều người hơn.
3. Vai trò và sự tham gia của người điều dưỡng trong thực hiện mô hình 5S
Để luôn duy trì việc thực hiện 5S trong đơn vị, cả bạn và nhà quản lý đều
nắm giữ các vai trò quan trọng. Những vai trò này liên quan đến việc tạo ra các
điều kiện để Sẵn sàng cho các hoạt động 5S và thể hiện một cam kết đối với
5S
3.1. Vai trò của nhà quản lý
Những người quản lý và giám sát trong đơn vị có vai trò chính trong việc
đảm bảo sự thành công cho năm trụ cột bằng cách tạo điều kiện giúp Sẵn
sàng các hoạt động 5S. Vai trò này bao gồm
- Giáo dục bản thân và đồng nghiệp về các khái niệm, công cụ và kỹ thuật
5S.
- Tạo các đội cho việc triển khai 5S
- Trao quyền cho những nhân viên cấp dưới trong việc thay đổi hiện trạng
công việc của họ.
- Cho phép thời gian thực hiện và tạo lịch trình cho công việc này.
- Cung cấp các nguồn lực để thực hiện 5S, chẳng hạn như vật tư.
- Ghi nhận và hỗ trợ những nỗ lực thực hiện 5S
- Khuyến khích tham gia sáng tạo của tất cả nhân viên, lắng nghe ý kiến
của họ, và thực hiện nó.
- Tạo cả phần thưởng hữu hình và vô hình cho những nỗ lực 5S.
- Ghi nhậnvà khen thưởng nhân viên nhiệt tình thực hiện 5S
- Thúc đẩy những nỗ lực liên tục về 5S.
- Có mặt tại nơi làm việc để giám sát các công việc đang thực hiện
Người quản lý và giám sát của bạn cũng có vai trò quan trọng trong việc
thực hiện trụ cột thứ năm trong công việc của chính mình. Khi họ duy trì bốn
trụ cột đầu tiên, họ thực hiện ba chức năng rất quan trọng:
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc của riêng mình

330
- Làm gương
- Chứng minh cam kết của đơn vị để thực hiện 5S
3.2. Vai trò của điều dưỡng:
- Tiếp tục tìm hiểu thêm về việc thực hiện 5S
- Giúp truyền đạt cho các đồng nghiệp của bạn về 5S
- Nhiệt tình thực hiện 5S.
- Giúp thúc đẩy những nỗ lực thực hiện 5S
Bạn cũng có một vai trò quan trọng với mục đích để Sẵn sàng các hoạt
động 5S trong chính công việc của bạn. Vai trò này bao gồm:
- Chủ động tìm ra cách thực hiện năm trụ cột ngay trong công việc hàng
ngày của bạn
- Yêu cầu người quản lý hoặc giám sát hỗ trợ các nguồn lực cần thiết để
thực hiện năm trụ cột này
- Tham gia đầy đủ đối với các nỗ lực thực hiện 5S của đơn vị
- Đưa cho người giám sát hoặc quản lý của bạn những ý tưởng sáng tạo
của bạn để khuyến khích hoặc thực hiện năm trụ cột
- Tham gia đầy đủ vào các nỗ lực khuyến khích 5S của đơn vị

CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG


Câu 1: Mô tả về năm trụ cột của 5S.
Câu 2: Trình bày các loại đối kháng thường gặp đối với việc thực hiện 5S
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2016), Quản lý bệnh viện, Nhà xuất bản Y khoa học và kỹ thuật.
2. Bộ Y tế (2014), Tài liệu đào tạo liên tục Quản lý chất lượng bệnh viện, Dự án
tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trong khám chữa bệnh, Nhà xuất bản Y
học.
3. Thomas L. Jackson, Nguyên tắc 5S trong y tế, Tài liệu nội bộ của CLB Quản
lý Chất lượng An Toàn Người Bệnh – Chương trình dịch sách #1.

331
CHUYÊN ĐỀ 6
TỔ CHỨC CHĂM SÓC LẤY NGƯỜI BỆNH LÀ TRUNG TÂM.
KỸ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH, ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC CHĂM SÓC
NGƯỜI BỆNH

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 12 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 8 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chuyên đề này, học viên có khả năng:
1. Trình bày được khái niệm và vai trò của điều dưỡng trong chăm sóc lấy người
bệnh làm trung tâm
2. Trình bày được các lĩnh vực trong chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
3. Thực hiện lập kế hoạch tổ chức công tác chăm sóc lấy người bệnh làm trung
tâm
4. Trình bày được nguyên tắc đánh giá chất lượng chăm sóc người bệnh.
NỘI DUNG
1. Khái niệm chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
Trong chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm, nhu cầu sức khỏe cụ thể
của từng cá nhân và kết quả sức khỏe mong muốn là động lực đằng sau tất cả
các quyết định chăm sóc sức khỏe và đo lường chất lượng. Người bệnh là đối tác
với các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ và các nhà cung cấp
điều trị cho người bệnh không chỉ từ góc độ lâm sàng, mà còn từ góc độ cảm
xúc, tinh thần, xã hội và tài chính.
Các yếu tố chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
Chăm sóc người bệnh và tập trung vào gia đình khuyến khích sự hợp tác
tích cực và chia sẻ quyết định giữa người bệnh, gia đình và nhà cung cấp để thiết
kế và quản lý một kế hoạch chăm sóc tùy chỉnh và toàn diện.

332
Hầu hết các định nghĩa về chăm sóc người bệnh làm trung tâm đều có một
số yếu tố phổ biến ảnh hưởng đến cách thức thiết kế và quản lý các hệ thống y tế
và cách thức chăm sóc:
- Sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị, khả năng lãnh đạo và các phương pháp cải
thiện chất lượng của hệ thống chăm sóc sức khỏe được liên kết với các mục tiêu
lấy người bệnh làm trung tâm.
- Chăm sóc là hợp tác, phối hợp và có thể tiếp cận. Chăm sóc đúng cách
được cung cấp đúng lúc và đúng nơi.
- Chăm sóc tập trung vào sự thoải mái về thể chất cũng như tình thần.
- Sở thích của người bệnh và gia đình, các giá trị, truyền thống văn hóa và
điều kiện kinh tế xã hội được tôn trọng.
- Người bệnh và gia đình của họ là một phần dự kiến của nhóm chăm sóc
và đóng vai trò trong các quyết định ở cấp độ người bệnh và hệ thống.
- Sự hiện diện của các thành viên gia đình trong môi trường chăm sóc
được khuyến khích và tạo điều kiện.
- Thông tin được chia sẻ đầy đủ và kịp thời để người bệnh và người nhà
của họ có thể đưa ra quyết định sáng suốt.
- Lợi ích của chăm sóc người bệnh
- Mục tiêu chính và lợi ích của chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm là
cải thiện kết quả sức khỏe cá nhân, không chỉ kết quả sức khỏe dân số, mặc dù
kết quả dân số cũng có thể cải thiện. Không chỉ người bệnh được hưởng lợi, mà
các nhà cung cấp và hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng được hưởng lợi, thông
qua:
Cải thiện điểm hài lòng giữa người bệnh và gia đình của họ.
Nâng cao uy tín của các nhà cung cấp trong số người tiêu dùng chăm sóc
sức khỏe.
Tinh thần và năng suất tốt hơn giữa các bác sĩ lâm sàng và nhân viên phụ trợ.
Cải thiện phân bổ nguồn lực.

333
Giảm chi phí và tăng biên lợi nhuận tài chính trong suốt quá trình chăm
sóc liên tục.//
2. Vai trò của điều dưỡng trong thực hiện chăm sóc lấy người bệnh làm
trung tâm
Các điều dưỡng thực hành tiên tiến đóng một vai trò quan trọng trong việc
thực hiện chăm sóc sức khỏe tập trung vào nhu cầu và sở thích cá nhân của
người bệnh: chăm sóc tập trung vào người bệnh.
Kinh nghiệm của họ với dịch vụ chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
có thể giúp cố vấn một thế hệ điều dưỡng trẻ, những người được kỳ vọng sẽ đảm
nhận phần lớn các vị trí chăm sóc sức khỏe trong thập kỷ tới.
Là một điều dưỡng thực hành tiên tiến, bạn có thể tác động đến tương lai
của dịch vụ chăm sóc người bệnh bằng cách thực hành và truyền cảm hứng cho
thế hệ tiếp theo làm điều tương tự trong tương lai.
Không có định nghĩa duy nhất nào cho việc chăm sóc người bệnh làm
trung tâm mà tất cả các chuyên gia y tế chấp nhận, nhưng thuật ngữ này đã được
sử dụng rộng rãi trong gần như mọi cơ sở chăm sóc sức khỏe.
Loại chăm sóc này thường được đặc trưng bởi các chuyên gia y tế cung
cấp trải nghiệm nâng cao nơi người bệnh cảm thấy được tôn trọng, tham gia và
trao quyền. Dưới đây là một vài cách để cung cấp dịch vụ chăm sóc người bệnh
làm trung tâm.
2.1. Chăm sóc xứng đáng
Chăm sóc người bệnh cá nhân củng cố tầm quan trọng của nhân phẩm và
sự tôn trọng trong quá trình chữa bệnh. Loại cá nhân hóa này có thể bao gồm
các sở thích liên quan đến niềm tin tâm linh, giá trị cá nhân hoặc truyền thống
văn hóa, cũng như các yêu cầu đơn giản để thoải mái và hiểu biết hơn.
Bằng cách tôn vinh các sở thích tinh thần và văn hóa của người bệnh, bạn
có thể nhận được sự tin tưởng và tôn trọng của họ. Lắng nghe sở thích của họ và
hiểu cách họ sẽ phản ứng với lời khuyên y tế là rất quan trọng. Ví dụ, nếu một
người bệnh ăn chay vì mục đích tôn giáo nhưng là người bệnh tiểu đường, thì
điều quan trọng là phải tôn trọng mong muốn này và tìm các lựa chọn thay thế
cho sự chăm sóc của họ, nếu có thể.

334
2.2. Kiến thức và giáo dục người bệnh
Một nguyên lý cốt lõi của chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm là điều
trị người bệnh và người thân của họ như là đối tác trong việc cung cấp dịch vụ
chăm sóc.
Bạn có thể sử dụng vai trò của mình như một điều dưỡng để cung cấp
dịch vụ chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm và giúp người bệnh nhập viện
tìm hiểu thêm về tình trạng của họ. Sự tham gia của gia đình đặc biệt quan trọng
khi một người bệnh đau đớn hoặc sợ hãi về tình trạng của họ, cũng như khi họ
được xuất viện hoặc chuyển đến một cơ sở khác.
An toàn cho người bệnh là thành phần quan trọng nhất của chăm sóc chất
lượng và phải được ưu tiên trong tất cả các quyết định liên quan đến lập kế
hoạch điều trị và cung cấp các dịch vụ. Kiến thức lâm sàng và kinh nghiệm
chăm sóc người bệnh của bạn như một điều dưỡng sẽ rất quan trọng để đảm bảo
sự hiểu biết và hành động chính xác.
2.3. Hợp tác và làm việc nhóm
Các bệnh viện thực sự chấp nhận chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
khuyến khích tất cả nhân viên của họ đặt người bệnh lên hàng đầu, ngay cả khi
nhân viên không ở trong vai trò chăm sóc trực tiếp.
Tiền đề là nếu nhân viên hiểu được tầm quan trọng của vai trò của họ
trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc chất lượng tổng thể - có thể là làm việc
trong công việc vệ sinh, an ninh, thanh toán hoặc dịch vụ thực phẩm - họ sẽ thực
hiện ở cấp cao hơn.
Các bệnh viện thành công trong việc tạo ra môi trường làm việc theo
nhóm, những đơn vị này có xu hướng đạt được xếp hạng chất lượng và sự hài
lòng cao hơn trong các cuộc khảo sát quốc gia và các biện pháp đo lường khác.
3. Các lĩnh vực trong chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
Chúng ta cần làm thế nào để đảm bảo chất lượng trải nghiệm dịch vụ
chăm sóc sức khỏe cho người bệnh nếu họ kể cho chúng ta biết các hành vi, thói
quen của họ? Hành vi của người bệnh là cái sẽ giúp họ nhanh hồi phục hơn,
giảm thiểu khả năng tái nhập viện.

335
Các nhà nghiên cứu của đại học Harvard đã thực hiện hàng nghìn cuộc
phỏng vấn để tìm hiểu các vấn đề nào có ảnh hưởng đến trải nghiệm người bệnh
nhiều nhất. Kết quả cho thấy tập trung ở 8 lĩnh vực trong chăm sóc lấy người
bệnh làm trung tâm.
Mỗi người bệnh là cá thể riêng biệt, không ai giống ai. Hơn nữa, mỗi người
bệnh có cách nhìn khác nhau về bữa ăn hay môi trường sống của họ. Nhưng có 1
cách đảm bảo mỗi người bệnh đạt được nhu cầu chăm sóc cần thiết cho mình
bằng cách cung cấp chăm sóc “phù hợp theo quan điểm của người bệnh”
Khái niệm “8 lĩnh vực trong chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm” đã
phát triển trong vài năm gần đây bởi Picker Institute and Harvard Medical
School, thông qua hàng nghìn cuộc phỏng vấn và chia sẽ trải nghiệm của người
bệnh và nhân viên y tế. Kết quả phân tích từ nghiên cứu này cho thấy các hành
vi của người bệnh là phương tiện đảm bảo nhất cho sự hồi phục, cho cảm nhận
trải nghiệm tích cực cho các điều trị y khoa.
Có hàng trăm câu hỏi mà chúng ta có thể hỏi người bệnh về trải nghiệm
dịch vụ y tế của họ. Nhưng với sự giới hạn về thời gian, nguồn lực, không tính
đến các vấn đề xung quanh người bệnh, liệu các nhân viên y tế chỉ nên chú trọng
vào các vấn đề quan trọng nhất?
Tổng quan về các lĩnh vực trong chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm
3.1. Tôn trọng các giá trị người bệnh, các mong muốn và các nhu cầu cần
thiết của họ
Các người bệnh có những nhu cầu cá nhân cần được nhận biết và đối xử
riêng biệt bởi các nhân viên y tế. Họ lo lắng về bệnh trạng của mình và muốn
được thông tin về điều đó.
• Một môi trường đề cao sự tôn trọng cá nhân nên được chú trọng vào chất
lượng cuộc sống.
• Cho người bệnh tham gia vào các quyết định các vấn đề điều trị
• Tôn trọng phẩm giá và cơ thể người bệnh.
3.2. Điều phối và thống nhất trong chăm sóc y tế

336
Người bệnh thường cảm thấy mình yếu đuối, dễ bị tổn thương khi đối mặt
với bệnh tật. Một sự điều phối chăm sóc thích hợp sẽ làm giảm cảm giác đó. Có
3 lĩnh vực cần chú ý trong điều phối nhằm giảm cảm giác dễ tổn thương ở
người bệnh:
• Chăm sóc lâm sàng
• Các dịch vụ hỗ trợ, phụ thuộc
• Chăm sóc ở các lĩnh vực tiếp nhận
3.3. Tư vấn & giáo dục
Người bệnh thường cảm thấy lo sợ khi tiếp nhận thông tin về tình trạng
của họ hay tiên lượng bệnh lý từ các nhân viên y tế thiếu sự chân thành. Dựa
trên các cuộc phỏng vấn, các cơ sở y tế có thể chú trọng vào 3 vấn đề giao tiếp
nhằm giảm bớt lo âu cho người bệnh:
• Thông tin về tình trạng lâm sàng, tiến trình điều trị và tiên lượng
• Thông tin về tiến trình chăm sóc
• Thông tin về tự điều trị, tự chăm sóc và tăng cường sức khỏe
3.4. Chăm sóc tiện nghi
Sự tiện nghi của điều trị và chăm sóc phụ thuộc vào trải nghiệm của người
bệnh. Có 3 lĩnh vực quan trọng cần quan tâm đối với người bệnh:
• Giảm đau
• Trợ giúp các hoạt động, nhu cầu sinh hoạt thường ngày
• Môi trường bệnh viện và cảnh quan xung quanh
3.5. Lắng nghe cảm xúc, giảm bớt lo âu
Sợ hãi và lo lắng liên quan đến tình trạng bệnh có thể làm người bệnh suy
nhược. Nhân viên y tế nên chú ý:
• Lo lắng quá mức tình trạng sức khỏe, điều trị và tiên lượng
• Lo lắng quá mức về ảnh hưởng của bệnh lên bản thân và gia đình
• Lo lắng quá mức về vấn đề tài chính
3.6. Hỗ trợ của gia đình bạn bè

337
Các người bệnh thường diễn tả vai trò quan trọng của gia đình và bạn bè
trong trải nghiệm dịch vụ y tế của họ, và thường tâm sự các mối quan tâm lo
lắng của mình về ảnh hưởng của bệnh tật với người thân, bạn bè. Sự ảnh hưởng
của gia đình ở bệnh viện được xác định như sau:
• Cần cung cấp chỗ nghỉ, trọ cho thân nhân người bệnh.
• Cần có sự tham gia của gia đình hoặc bạn bè thân thiết vào các quyết
định y khoa
• Người thân sẽ hỗ trợ như các nhân viên y tế
• Cần nhận rõ sự cần thiết của người thân người bệnh.
3.7. Chăm sóc liên tục và thích ứng
Người bệnh thường có những lo lắng không mong muốn về khả năng tự
chăm sóc bản thân sau khi xuất viện. Để hiểu hơn sự lo lắng này, đòi hỏi nhân
viên y tế:
• Cung cấp các thông tin chi tiết dễ hiểu về thuốc, hạn chế của bản thân
người bệnh, nhu cầu dinh dưỡng…
• Thiết lập một kế hoạch và dịch vụ điều trị tiếp tục sau khi xuất viện
• Cung cấp các thông tin liên quan đến đánh giá y tế, xã hội, cùng với các
hỗ trợ về thể chất, tài chính duy trì.
3.8. Tiếp cận đa hướng
Người bệnh cần biết họ được chăm sóc khi cần. Để chú trọng vào chăm
sóc ngoại trú, các lĩnh vực sau rất quan trọng với người bệnh:
• Tiếp cận được các bệnh viện địa phương, phòng khám gia đình
• Giao thông tiện lợi
• Dễ đặt lịch hẹn khám
• Dễ gặp được bác sĩ khi cần thiết
• Có các chuyên gia hay chuyên khoa đặc biệt khi được tư vấn hoặc
chuyển tuyến

338
• Cung cấp hướng dẫn rõ ràng khi nào và giới thiệu khám chuyên khoa
như thế nào
4. Kỹ năng lập kế hoạch tổ chức công tác chăm sóc người bệnh
Kế hoạch là một văn bản mà trong đó bao gồm những mục tiêu, kết quả
mong đợi, những biện pháp tốt nhất trong một thời gian dự kiến và phân bổ
nguồn lực để thực hiện.
4.1. Vai trò của việc lập kế hoạch
Lập kế hoạch có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý, bởi khi lập kế
hoạch, người quản lý, lãnh đạo của đơn vị phải:
Tư duy một cách hệ thống để dự đoán các tình huống quản lý;
Phối hợp các nguồn lực của tổ chức hữu hiệu hơn;
Xây dựng kế hoạch các hoạt động của đơn vị tập trung vào mục tiêu và
chính sách của tổ chức;
Tạo nên sự hiểu biết rõ ràng nhiệm vụ co bản của tổ chức để phối hợp
trong công tác;
Chuẩn bị kế hoạch sẵn sàng ứng phó với những thay đổi của môi trường
bên ngoài;
Xây dựng các tiêu chuẩn kiểm tra, giám sát một cách hữu hiệu và thực tế.
4.2. Quy trình lập kế hoạch
Một kế hoạch tốt cần bao gồm nội dung của các chữ viết tắt: 5W 1H 2C
5M tức là 5W, 1H, 2C và được giải thích như sau
- Xác định mục tiêu, yêu cầu công việc (trả lời câu hỏi vì sao = why)
- Xác định nội dung công việc (trả lời câu hỏi làm gì = what)
- Xác định công việc, hoạt động làm ở đâu, khi nào, ai làm, ai kiểm tra, ai
chịu trách nhiệm chính, ai phối hợp (where, when, who);
- Xác định cách thức thực hiện công việc đó như thế nào (How)
- Xác định phương pháp kiểm soát (Control)
- Xác định phương pháp kiểm tra (Check)

339
- Xác định nguồn lực để thực hiện công việc đó bao gồm tiền, phương tiện,
máy móc, nhân lực và phương thức quản lý (Money, Material, Machine,
Manpower, Management).
Ðể có một kế hoạch, người lập kế hoạch phải thực hiện tuần tự các bước
sau:
4.2.1. Nhận định thực trạng, phát hiện vấn đề để đưa vào kế hoạch giải quyết
Các phương pháp để nhận định thực trạng, phát hiện vấn đề bao gồm:
- Quan sát môi truờng công tác của đơn vị, môi truờng thực hiện vấn đề
định giải quyết, quan sát sự thực hành của nhân viên để xác định.
- Tìm hiểu thực trạng của vấn đề, cơ quan qua các báo cáo của đơn vị.
- Phỏng vấn, trao dổi những người liên quan.
- Tìm hiểu thông tin qua đọc tài liệu liên quan: Luật, Nghị định, Thông tư,
quy định, hướng dẫn, quy trình…
- Khảo sát, điều tra, nghiên cứu.
4.2.2. Xác định và chọn vấn đề ưu tiên giải quyết
Trong một đơn vị có nhiều khó khăn, tồn tại nhưng không phải tất cả
những khó khăn, tồn tại đó đều là vấn đề.
Vấn đề là sự khác biệt không tốt giữa mong muốn và hiện tại. Nếu hiệu số
của mong muốn và hiện tại nhiều hơn không, vấn đề là thừa và ngược lại hiệu
số của mong muốn và hiện tại nhỏ hơn không thì vấn đề là thiếu. Hiệu số giữa
mong muốn và hiện tại là thừa và thiếu đều được coi là vấn đề. Ví dụ:
Số điều dưỡng của khoa bạn cần cho chăm sóc trực tiếp người bệnh có là
12 người, số nhân lực hiện tại của bạn là 13 người. Tuy nhiên, số người trực
tiếp chăm sóc là 10 người, 1 người làm hành chính hoàn toàn, 1 điều dưỡng
trưởng và 1 người nghỉ đi học. Như vậy, nhìn tổng số nhân lực là thừa, nhưng
thực tế là thiếu người chăm sóc trực tiếp.
Trong một đơn vị, có rất nhiều vấn đề, chúng ta không thể giải quyết
nhiều vấn đề một lúc vì chúng ta không có đủ nguồn lực, thời gian để giải

340
quyết. Do vậy, chúng ta phải ưu tiên hóa, lựa chọn một số vấn đề được giải
quyết trong một thời gian cho phép.
Ðể lựa chọn vấn đề để ưu tiên giải quyết, có thể áp dụng phương pháp sau:
a) Phân tích vấn đề theo mô hình xương cá: để tìm hiểu nguyên nhân, hậu
quả của vấn đề, sau đó giải quyết các nguyên nhân dẫn đến vấn đề đó sẽ cho
chúng ta kết quả.
b) Phân tích vấn đề theo so dồ hình bóng: để tìm ra mối liên quan của vấn
đề với các môi truờng xung quanh, từ đó cắt đi những liên quan có liên quan
dẫn đến vấn đề đó
c) Xác định vấn đề ưu tiên bằng phân tích theo mức độ, tần xuất và sự
quan tâm
- Tần xuất của vấn đề.
- Hậu quả của vấn đề (tác hại).
- Tác động của vấn đề (ảnh huởng xấu).
- Phương pháp, phương tiện giải quyết vấn đề (có đủ không).
- Nguồn lực giải quyết vấn đề (kinh phí, nhân lực).
- Sự quan tâm của tập thể (số phiếu).
Khi xác định vấn đề để xét ưu tiên, nên thực hiện theo bảng sau đây (tính điểm cho mỗi vấn đề):

Ðặc điểm của vấn đề Lượng hóa bằng điểm


0 1 2 3
Tần xuất Rất thấp Thấp T. bình Cao
Hậu quả Không Thấp T. bình Cao
Tác động Không Ít Tương đối Nhiều
Phương pháp, phương tiện Có nhiều Có Ít Không có
Nguồn lực Ðầy dủ T. bình Thiếu Không có
Sự quan tâm của tập thể Rất quan Q.tâm B.thường Không
tâm

341
Bảng tổng hợp điểm các vấn đề (sau khi có điểm của mỗi vấn đề) chọn vấn
đề có điểm cao từ trên xuống
4.2.3. Xây dựng mục tiêu kế hoạch
a) Thiết lập mục tiêu: Mục tiêu là những mong đợi của nhà quản lý khi đầu
tư nguồn lực, thời gian để thực hiện kế hoạch nào đó.
b) Phân loại mục tiêu:
- Mục tiêu chung: là một tuyên bố mà một tổ chức muốn đạt được. Ví dụ:
Mục tiêu chung: Ðến 31/12 năm 2020, bệnh viện A sẽ tổ chức thực hiện thành
công CSNBTD trong toàn bệnh viện theo quy định của Thông tư 07/2011/TT-
BYT của Bộ Y tế
- Mục tiêu cụ thể: là những tuyên bố giải thích sẽ làm những gì để đạt
được mục đích. Ví dụ: Ðể hoàn thành CSNB toàn diện, năm 2020 bệnh viện A
sẽ: Tổ chức thực hiện tốt 12 nhiệm vụ CSNB theo thông tư 07/2011/TTBYT,
đảm bảo người bệnh được nhân viên y tế:
- Tư vấn, hướng dẫn giáo dục sức khỏe
- Chăm sóc về tinh thần
- Chăm sóc vệ sinh cá nhân
- Chăm sóc về dinh dưỡng
- Chăm sóc phục hồi chức năng trong những ngày điều trị
- Thực hiện đúng quy trình chăm sóc, điều trị khi phẫu thuật, thủ thuật
- Dùng thuốc và theo dõi dùng thuốc
- Chăm sóc khi hấp hối, tử vong
- Thực hiện kỹ thuật chăm sóc, điều trị
- Theo dõi, đánh giá tình trạng sức khỏe liên tục
- Ðảm bảo an toàn không có sai sót và sự cố trong chăm sóc điều trị
- Ghi chép diễn biến sức khỏe vào hồ sơ chăm sóc
c) Yêu cầu của một mục tiêu:
- Cụ thể (Specific)

342
- Ðo lường được (Measurable)
- Có khả năng đạt được (Achiveable)
- Hợp lý (Reasonable)
- Hợp thời gian (Timeline)
Mục tiêu cụ thể phải bắt đầu bằng một động từ chỉ hành động.
Ví dụ: Mục tiêu của chăm sóc toàn diện tại bệnh viện là:
Tổ chức thực hiện chăm sóc người bệnh bởi nhân viên y tế chăm sóc và
đáp ứng 14 nhu cầu cơ bản của người bệnh (Học thuyết Virgina Henderson)
bao gồm:
Hỗ trợ NB trong hô hấp
Hỗ trợ người bệnh trong ăn uống
Hỗ trợ người bệnh trong bài tiết
Hỗ trợ người bệnh trong tư thế, vận động: nằm, ngồi, đi đứng
Hỗ trợ người bệnh trong ngủ và nghỉ ngơi
Hỗ trợ người bệnh trong thay và mặc quần áo
Hỗ trợ người bệnh trong duy trì thân nhiệt bình thường
Hỗ trợ người bệnh vệ sinh cá nhân
Hỗ trợ người bệnh tránh những nguy hiểm
Hỗ trợ tinh thần người bệnh
Hỗ trợ người bệnh lao động, giải trí, rèn luyện thể lực
Hỗ trợ người bệnh trong giao tiếp
Tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo
Giúp NB có kiến thức y học thông tuờng liên quan dến bệnh tật của họ
4.2.4. Ðề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề
Ðể đạt được mục tiêu của kế hoạch, các khoa, phòng cần họp lại xác định
xem khoa mình đã thực hiện được mục tiêu nào (mức độ nào), chưa thực hiện
được mục tiêu nào và nguyên nhân vì sao (phân tích xương cá). Từ đó liệt kê ra
kê ra 3 đến 5 giải pháp để từ đó lựa chọn giải pháp tốt nhất, phù hợp nhất và
hiệu quả nhất.

343
4.2.5. Xác định các hoạt động, thời gian và nguồn lực để đạt được mục tiêu
Trước mỗi một giải pháp sau khi được lựa chọn sẽ có nhiều hoạt động,
mỗi một hoạt động cần có thời gian và nhân lực, phương tiện, kinh phí để thực
hiện. Người lập kế hoạch phải chỉ ra được những nội dung này.
4.2.6. Xây dựng chỉ số đánh giá
Xác một kế hoạch có hoàn thành không cần phải có các chỉ số đánh giá
sự hoàn thành mỗi mục tiêu. Chỉ số đánh giá phải chỉ ra được mỗi hoạt động sẽ
đạt được gì? Vào thời điểm nào.
4.2.7. Viết kế hoạch
4.2.8. Xin ý kiến góp ý và hoàn chỉnh
4.2.9. Trình cấp trên phê duyệt
4.3. Viết kế hoạch
Nội dung của một Kế hoạch bao gồm:
4.3.1. Tên kế hoạch
Nêu rõ Kế hoạch về cái gì (What) trong thời gian nào (When) và ở đâu
(Where), của đơn vi nào (What is organization).
Ví dụ: KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHĂM SÓC TOÀN DIỆN
CỦA BỆNH VIỆN A NĂM 2020.
4.3.2. Ðặt vấn đề
Nêu rõ khái niệm CSNBTD, lý do, tầm quan trọng, can cứ pháp lý (nếu
có) và phạm vị của kế hoạch.
4.3.3. Mục tiêu
Có thể có mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể, hoặc chỉ có mục tiêu cụ
thể
4.3.4. Các giải pháp
Mô tả ngắn, gọn các giải pháp (How) để hoàn thành mục tiêu
4.3.5. Các hoạt động
Nên dặt duới mỗi mục tiêu

344
4.3.6. Các chỉ số đánh giá hoặc dự kiê´n kê´ hoạch đầu ra
Nên có dầy dủ các thông số: cái gì? Khi nào? Bao nhiêu?
4.3.7. Bảng tổng hợp kế hoạch
Bảng tổng hợp kế hoạch nên trình bày theo mẫu sau:
TT Mục Hoạt Thời Trách nhiệm Kinh Địa Chỉ số
tiêu động gian phí điểm đánh giá

Chính P.hợp

Ngày tháng năm


Giám đốc (LĐ) phê duyệt Kế toán Người đề xuất kế hoạch
4.4. Xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện chăm sóc người bệnh toàn diện
4.4.1. Ðối với bệnh viện
a) Bệnh viện có văn bản yêu cầu và hướng dẫn các khoa lập kế hoạch tổ
chức thực hiện CSNBTD.
b) Hội đồng Ðiều dưỡng phân công các cá nhân chịu trách nhiệm với từng
khoa và hướng dẫn khoa mình phụ trách để lập kế hoạch tổ chức thực hiện
CSNBTD.
c) Các khoa xây dựng kế hoạch và trình bệnh viện
d) Phòng Ðiều dưỡng bệnh viện tập hợp kế hoạch của các khoa để hoàn
chỉnh kế hoạch tổ chức thực hiện CSNBTD của toàn bệnh viện.
d) Họp Hội đồng Ðiều dưỡng để thống nhất kế hoạch toàn bệnh viện
e) Trình Giám đốc bệnh viện phê duyệt kế hoạch
g) Phổ biến kế hoạch tới lãnh đạo chủ chốt các khoa.
4.4.2. Ðối với các khoa, phòng
a) Tổ chức hội thảo toàn khoa để bàn kế hoạch theo các bước sau:

345
- Phân tích thực trạng CSNBTD tại khoa: đối chiếu với Thông tư
07/2011/TT-BYT để kiểm điểm xem những gì làm được, những gì chưa làm
được.
- Xác định các tồn tại, khó khăn, thuận lợi và thách thức trong thực hiện
CSNBTD.
- Xác định các vấn đề, sắp xếp ưu tiên các vấn để để lập kế hoạch giải
quyết vấn đề bao gồm: dự kiến kết quả đầu ra hay mục tiêu, các hoạt động,
người thực hiện, thời gian thực hiện, địa điểm, kinh phí và phương tiện thực
hiện.
- Giao trách nhiệm người làm đầu mối, chắp bút xây dựng kế hoạch.
b) Lãnh đạo khoa và Ðiều dưỡng trưởng họp lại để duyệt kế hoạch trước
khi trình bệnh viện.
c) Trình Ban giám dốc bệnh viện dúng kỳ hạn (nhớ lưu lại một bản)
d) Phổ biến kế hoạch dã được phê duyệt tới từng cá nhân trong khoa để
mọi người đều biết, thực hiện, kiểm tra và giám sát lẫn nhau.
Tóm lại: Kế hoạch là một nội dung hoạt động rất quan trọng góp phần
thành công cho công tác của đơn vị. Tuy nhiên một bản kế hoạch công tác phải
được xây dựng trên cơ sở phân tích tình hình thực tế của đơn vị, nhiều người
tham gia quá trình xây dựng kế hoạch và khi kế hoạch được phê duyệt chính
thức thì phải phổ biến để mọi người biết, thực hiện theo và giám sát lẫn nhau
nhằm hoàn thành kế hoạch đề ra.
5. Đánh giá công tác chăm sóc người bệnh trong bệnh viện
5.1 Nguyên tắc đánh giá
5.1.1. Lấy người bệnh làm trung tâm
Trong tài liệu này, các tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá được xây dựng dựa
trên nguyên tắc lấy người bệnh làm trung tâm và dựa vào kết quả đầu ra. Sự an
toàn của người bệnh là thành phần thiết yếu nhất của chất lượng, vì vậy, các chỉ
số chuyên môn như tỷ lệ NKBV, tỷ lệ sai sót và sự cố y khoa, tỷ lệ hài lòng của
người bệnh và gia đình người bệnh v,v... Không ai chấp nhận dịch vụ y tế được
cung cấp trong môi trường y tế không an toàn và nhiều rủi ro. Vì vậy, tập trung

346
đánh giá người bệnh được thụ hưởng những lợi ích gì trong công tác chăm sóc
điều dưỡng là một trong những nguyên tắc quan trọng của quá trình đánh giá.
Ngoài ra, các tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá cung đặt ra yêu cầu về các cấu
trúc và việc tuân thủ các quy trình kỹ thuật đối với cá nhân, bộ phận và toàn bệnh
viện trong việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc điều dưỡng nhằm bảo đảm an
toàn và phòng tránh các nguy cơ rủi ro cho người bệnh trong quá trình nằm viện.
5.1.2. Tập trung vào vai trò lãnh đạo và quản lý
Vai trò của người lãnh đạo bệnh viện, lãnh đạo các khoa, các phòng là chìa
khóa và là thành phần thiết yếu của sự thành công, là cơ sở để thúc đẩy các cá
nhân, bộ phận trong bệnh viện thực hiện các chính sách chất lượng của bệnh viện.
Chất lượng chăm sóc người bệnh chỉ có được khi những người lãnh đạo
bệnh viện và các khoa phòng đưa thành một trong những mục tiêu ưu tiên và từ
đó đầu tư nguồn lực cũng như cam kết lãnh đạo tổ chức nâng cao chất lượng
chăm sóc.
Người lãnh đạo là người thiết lập văn hóa chất lượng và văn hóa bệnh
viện. Vì vậy, nhiều tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá đều bắt đầu bằng việc tìm
hiểu xem lãnh đạo bệnh viện có sự quan tâm đầy đủ, có ban hành các quy định
cụ và có thiết lập các cấu trúc cần thiết để các cá nhân và các đơn vị thực hiện
hay không.
5.1.3. Tập trung vào tính hệ thống và tính liên tục
Hoạt động bệnh viện là một dây truyền liên hoàn, từ khoa khám bệnh tới
các khoa điều trị, xét nghiệm và đơn vị hậu cần… Vì vậy, phải bảo đảm rằng
toàn bộ hệ thống hoạt động có hiệu quả, không có các lỗ hổng trong toàn bộ hệ
thống. Mặt khác, việc chăm sóc người bệnh luôn diễn ra sự luân chuyển giữa
các ca kíp, giữa các nhóm ban đêm và ban ngày, do đó các cán bộ y tế phải bảo
đảm rằng người bệnh được bàn giao và theo dõi chăm sóc liên tục.
5.1.4. Tập trung vào sự phối hợp của mọi NVYT
Ðiều trị thành công cho một người bệnh trong bệnh viện là sản phẩm của
một dây chuyền, một hệ thống gồm nhiều bộ phận, bộ phận nào cũng quan
trọng. Có thể nói không thể có một sự chăm sóc có chất lượng và toàn diện nếu
không có sự hợp tác và làm việc theo nhóm. Sự hợp tác giữa bác si, điều dưỡng

347
viên, các cán bộ y tế là một thành phần không thể thiếu để bảo đảm cho người
bệnh được chăm sóc có chất lượng.
5.1.5. Tập trung vào văn hóa chất lượng
Quá trình đánh giá chất lượng CSNB trong các bệnh viện do Hội ÐDVN
phối hợp với các bệnh viện thực hiện là quá trình học tập - không phải quá trình
thanh tra. Ðây là một vấn đề đòi hỏi thời gian để đạt được nhận thức về văn hóa
chất lượng đối với tất cả các cá nhân và toàn bộ hệ thống. Những vấn đề văn
hóa chất lượng dưới đây cần được khuyến khích:
- Mong muốn nâng cao chất lượng thực sự. Bệnh viện tự nguyện phấn đấu
theo một Bộ tiêu chuẩn chất lượng từ đó chủ động áp dụng, tự nội kiểm để hoàn
thiện, khi nào thấy bệnh viện dã dáp ứng được các tiêu chuẩn thì chủ động mời
cơ quan đánh giá độc lập giúp đánh giá công nhận để đảm bảo tính khách quan.
- Không chạy theo thành tích nhất thời. Khắc phục những suy nghĩ đấu
diếm khuyết điểm và từ đó dẫn đến hành vi đối phó với các Ðoàn đánh giá ở tất
cả các cấp độ nội kiểm và ngoại kiểm.
5.1.6. Dựa vào bằng chứng thực hiện
Việc đánh giá và phân loại thành tích thực hiện của bệnh viện đối với từng
tiêu chuẩn, tiêu chí trong Bộ tiêu chuẩn này được căn cứ vào các bằng chứng
thực hiện do bệnh viện cung cấp và các đánh giá viên thu thập được trong quá
trình đánh giá tại chỗ. Bệnh viện cần thiết lập các hệ thống thu thập, phân tích
và luu trữ dữ liệu liên quan dến việc theo dõi và đánh giá chất lượng. Nếu
không có các dữ liệu, các bằng chứng thì khó có thể đánh giá kết quả thực hiện.
Các bằng chứng bao gồm các linh vực về: chính sách, nguồn lực, các hệ
thống được thiết lập, các kết quả đầu ra, sự hài lòng của người bệnh, sự hài lòng
của điều dưỡng, hộ sinh và hệ thống báo cáo tài liệu liên quan tới công tác quản
lý, giám sát và đánh giá của các khoa và toàn bệnh viện.
5.2 Các phương pháp thu thập thông tin
Người đánh giá có thể áp dụng một hoặc phối hợp các phương pháp thu
thập thông tin khác nhau để đánh giá đối với từng tiêu chí. Một phương pháp
thu thập thông tin đánh giá có thể hiệu quả ở bệnh viện này nhưng có thể không
hiệu quả đối với bệnh viện khác.

348
Tuy nhiên, để có sự thống nhất giữa các bệnh viện tham gia đánh giá thì
người đánh giá cần áp dụng các phương pháp cơ bản giống nhau để có thể so
sánh kết quả trên cùng một phương pháp đánh giá.
Duới dây là Bảng tóm tắt các phương pháp thu thập thông tin và quy uớc mã hóa các phương pháp thu
thập thông tin đánh giá chất lượng CSNB.

Phương pháp Mã hóa

Phỏng vấn (I)


a. Phỏng vấn người quản lý MI = Manager Interview
b. Phỏng vấn nhân viên SI = Staff Interview
c. Phỏng vấn người bệnh PI = Patient Interview

Bộ câu hỏi (Q)


d. Hỏi người quản lý MQ = Manager
e. Hỏi nhân viên Questionnaire

f. Hỏi người bệnh, người nhà SQ = Staff Questionnaire


PQ = Patient Questionnaire

Quan sát tại chỗ (O) FO = Field Observation

Nghiên cứu tài liệu (S) DS = Desk Study

5.3 Cách đánh giá từng tiêu chí


Nội dung đánh giá của từng tiêu chí bao gồm:
- Ðánh giá về trách nhiệm của người quản lý lãnh đạo trong việc ban hành các
quy định, quy trình chuyên môn và theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện.
- Ðánh giá nguồn lực, các hệ thống hiện có để dáp ứng yêu cầu của tiêu chí
- Ðánh giá sự tuân thủ của người hành nghề
- Ðánh giá các chỉ số thực hiện và các kết quả đầu ra từ phương diện người
bệnh và từ người hành nghề.
5.4. Phân loại kết quả thực hiện từng tiêu chí

349
Sau khi đánh giá, đánh giá viên cần phân loại kết quả hay thành
tích đạt được đối với từng tiêu chí, trong tài liệu hướng dẫn này, thành tích đạt
được đối với từng tiêu chí được phân loại thành 4 mức độ cụ thể như trình bày
ở bảng dưới đây:

Xếp loại kết quả Diễn giải
hiệu
- Đạt được đầy đủ các nội dung và các
Mức hoàn thiện và tiếp tục chỉ số. Người bệnh được bảo đảm an
M4 nâng cao (Improvement toàn và hài lòng
level) - BV tiến hành đánh giá những tiến bộ
thường kỳ để cải tiến liên tục.
- BV có các quy định
- Có triển khai thực hiện các quá trình,
Mức đạt đầy đủ (Fully các hệ thống, các cấu trúc
M3
attained level) - Có bằng chứng đầy đủ về kết quả thực
hiện, hồ sơ báo cáo, kết hợp quan sát
tại chỗ của người đánh giá.
- Có bằng chứng về chính sách, quy
định, hướng dẫn
Mức đạt một phần (Partially
M2 - Có triển khai thực hiện
attained)
- Không có các tài liệu, báo cáo kết quả
thực hiện
- Bệnh viện chưa tổ chức thực hiện
Mức không đạt (chưa thực - Hoặc có tổ chức thực hiện một phần
M1 hiện hoặc thực hiện không nhưng không đưa ra được các bằng
đáng kể -unattained) chứng thuyết phục.

5.5. Cách đánh giá nguy cơ của các tiêu chí thực hiện không đầy đủ.

350
Việc xác định nguy cơ đối với người bệnh chỉ áp dụng đối với các tiêu chí
không đạt đầy đủ. Nguy cơ được ước tính thông qua việc xem xét mối quan hệ
giữa sự tính nguy hại và khả năng xảy rađối với người bệnh nếu một tiêu chí
không được thực hiện đầy đủ.

KHẢ NĂNG XẢY RA


NGUY CƠ Thường Thỉnh Rất ít Không
xuyên thoảng gặp

Rất nguy rất cao cao trung thấp


hại bình

Nguy hại rất cao cao trung thấp


bình
NGUY HẠI

Ít nguy hại trung thấp thấp bỏ qua


bình

Không nguy thấp bỏ qua bỏ qua bỏ qua


hại đáng kể

Chú ý: Chỉ sử dụng sơ đồ ma trận để đánh giá mức độ nguy cơ đối với các
tiêu chí chỉ đạt một phần hoặc hoàn toàn không đạt. Khi sử dụng sơ đồ ma trận
cần lưu ý các nội dung sau đây:
- Xem xét mức độ nguy hại đối với người bệnh do tiêu chí không đạt hoặc
đạt một phần. Mức độ nguy hại được phân loại thành các mức độ từ rất nguy
hại (extremely harm), nguy hại (harm), ít nguy hại (no significant harm) và
không có nguy hại đáng kể (no harm).
- Xem xét khả năng xảy ra sự cố không mong muốn do tiêu chí chỉ được
thực hiện một phần hoặc không được thực hiện. Khả năng xảy ra sự cố được
phân loại theo các mức độ: thường xuyên (certain), thingr thoảng xảy ra, hiếm
khi xảy ra và không xảy ra.

351
- Biểu diễn trên sơ đồ ma trận để đánh giá nguy cơ đối với người bệnh.
Nguy cơ đối với người bệnh được phân loại thành các mức độ: rất cao, cao,
trung bình, thấp và không có nguy cơ (có thể bỏ qua).

CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG


Câu 1: Trình bày khái niệm chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm, cho ví dụ?
Câu 2: Trình bày vai trò của điều dưỡng trong chăm sóc lấy người bệnh làm
trung tâm?
Câu 3: Trình bày các lĩnh vực trong chăm sóc lấy người bệnh làm trung tâm,
cho ví dụ?
Câu 4: Liệt kê các bước của quy trình tổ chức lập kế hoạch chăm sóc người
bệnh? Trình bày bước xác định và chọn vấn đề ưu tiên cần giải quyết?
Câu 5: Trình bày nguyên tắc đánh giá chất lượng chăm sóc người bệnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


1. Bộ Y tế (2014). Tài liệu hướng dẫn đào tạo liên tục chăm sóc người bệnh toàn
diện.
2. Cục QLKCB-JICA, (2012). Tài liệu đào tạo Quản lý điều dưỡng
3. Thông tư 07/2011/TT-BYT của Bộ Y tế về việc hướng dẫn điều dưỡng về
chăm sóc người bệnh trong bệnh viện.
4. Tài liệu Quản lý điều dưỡng, Nhà xuất bản Y học 2004
5. Bộ Y Tế và Dự án Norred (2017). Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chăm
sóc người bệnh trong các bệnh viện.

352
CHUYÊN ĐỀ 7
KIỂM SOÁT NHIỄM KHUẨN TRONG THỰC HÀNH
CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH
THỜI LƯỢNG HỌC TẬP
Tổng số tiết: 16 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 8 tiết
Thảo luận, thực hành: 8 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chuyên đề này, học viên có khả năng:
1. Trình bày được định nghĩa nhiễm khuẩn bệnh viện và dịch tễ học nhiễm
khuẩn bệnh viện.
2. Phân tích được thực trạng nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế
3. Trình bày được gánh nặng của nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế
4. Nêu được sự phối hợp giữa các khoa, phòng trong cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh về kiểm soát nhiễm khuẩn.
NỘI DUNG
1.Tổng quan
1.1. Định nghĩa Nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhiễm khuẩn bệnh viện hay còn gọi là nhiễm khuẩn liên quan tới chăm
sóc y tế (Healthcare Associated Infection - HAI) là các nhiễm khuẩn xảy ra
trong quá trình người bệnh (NB) được chăm sóc, điều trị tại cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh (KBCB) mà không hiện diện hoặc ủ bệnh khi nhập viện. Nhìn
chung, các nhiễm khuẩn xảy ra sau nhập viện 48 giờ (2 ngày) thường được coi
là NKBV. NKBV là một trong những thách thức và mối quan tâm hàng đầu tại
Việt nam cũng như trên toàn thế giới. NKBV có thể được xem như là bệnh gây
ra bởi bệnh viện. Những nghiên cứu cho thấy rằng NKBV làm tăng tỉ lệ tử
vong, kéo dài thời gian nằm viện, tăng việc sử dụng kháng sinh, tăng đề kháng
kháng sinh và chi phí điều trị. Cùng với sự xuất hiện một số bệnh gây ra bởi
những vi sinh vật kháng thuốc, hoặc bởi những tác nhân gây bệnh mới, NKBV

353
vẫn còn là vấn đề nan giải ngay cả ở các nước đã phát triển. Thống kê cho thấy
tỉ lệ NKBV vào khoảng 5-10% số bệnh nhân nằm viện ở các nước đã phát triển
và lên đến 15-20% ở các nước đang phát triển.
//
Để chẩn đoán NKBV người ta dựa vào định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán
cho từng vị trí NKBV như: Nhiễm khuẩn vết mổ, Viêm phổi bệnh viện, Nhiễm
khuẩn huyết liên quan đến dụng cụ đặt trong lòng mạch, Nhiễm khuẩn đường
tiết niệu v,v,. Hiện nay theo hướng dẫn từ Trung tâm Giám sát và Phòng bệnh
Hoa Kỳ (CDC) và các hội nghị quốc tế đã mở rộng định nghĩa ca bệnh cho các
vị trí nhiễm khuẩn khác nhau và hiện đang được áp dụng để giám sát nhiễm
khuẩn bệnh viện trên toàn cầu. Nhiễm khuẩn liên quan đến cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh (KBCB) không chỉ là chỉ số chất lượng chuyên môn, mà còn là chỉ
số an toàn của người bệnh, chỉ số đánh giá sự tuân thủ về thực hành của nhân
viên y tế (NVYT), chỉ số đánh giá hiệu lực của công tác quản lý và là một chỉ
số rất nhạy cảm đối với người bệnh và xã hội.
1.2. Dịch tễ học nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhiễm khuẩn liên quan đến các hoạt động chăm sóc và khám chữa bệnh
trong các cơ sở y tế (CSYT) là một trong những yếu tố hàng đầu đe doạ sự an
toàn của người bệnh trong các cơ sở y tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với
sự gia tăng số người nhiễm HIV/AIDS, viêm gan B, viêm gan C và các bệnh
dịch nguy hiểm có nguy cơ gây dịch, người bệnh đứng trước nguy cơ có thể bị
mắc thêm bệnh khi nằm viện hoặc khi nhận các dịch vụ y tế từ NVYT và những
người trực tiếp chăm sóc cũng có nguy cơ cao mắc bệnh như chính người bệnh
mà họ chăm sóc.
1.2.1. Tác nhân chính gây nhiễm khuẩn bệnh viện:
Trong cuộc sống hàng ngày con người và vi sinh vật luôn luôn tiếp xúc với nhau.
Trong một hoàn cảnh nhất định, vi sinh vật có thể xâm nhập vào cơ thể con người tạo nên
một phản ứng phức tạp ta gọi chung là nhiễm khuẩn.
Nhiễm khuẩn: là sự tăng sinh của các vi khuẩn, virus hoặc ký sinh trùng dẫn tới
phản ứng tế bào, tổ chức hoặc toàn thân, thông thường biểu hiện trên lâm sàng là một hội
chứng viêm.

354
Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nhiễm khuẩn: Vi sinh vật gây bệnh; Tính chất
phản ứng của cơ thể (đối tượng cảm thụ); Yếu tố ngoại cảnh (môi trường).
Vi sinh vật gây bệnh: Đây là yếu tố trực tiếp quan trọng, khả năng gây bệnh của
từng loại vi sinh vật phụ thuộc vào yếu tố độc lực, số lượng và đường xâm nhập của
chúng. Căn nguyên vi sinh vật gây NKBV phần lớn nguyên nhân là do vi khuẩn, sau đó là
do virus, nấm và ký sinh trùng.
Tác nhân gây NKBV đã có nhiều thay đổi trong vài thập kỷ qua. Các vi
khuẩn gây bệnh có thể là các vi khuẩn gram dương và các trực khuẩn Gram (-),
nấm, và ký sinh trùng. Tuy nhiên, NKBV do trực khuẩn Gram (-) đa kháng
thuốc kháng sinh đã và đang trở thành một tai hoạ thực sự cho các bệnh viện.
Tốc độ kháng kháng sinh của các vi khuẩn này với các nhóm kháng sinh
carbapenems và aminoglycoside cũng tăng nhanh và lan rộng khắp các châu
lục, trong đó có Việt Nam.
1.2.2. Đường lây truyền nhiễm khuẩn bệnh viện
Có 3 đường lây truyền chính trong cơ sở y tế là lây qua đường tiếp xúc,
đường giọt bắn, và không khí.
- Lây qua đường tiếp xúc là đường lây nhiễm quan trọng và phổ biến nhất
trong nhiễm khuẩn bệnh viện và được chia làm hai loại khác nhau là lây nhiễm
qua đường tiếp xúc trực tiếp (tiếp xúc trực tiếp với các tác nhân gây bệnh) và lây
nhiễm qua tiếp xúc gián tiếp (tiếp xúc với vật trung gian chứa tác nhân gây bệnh).
- Lây nhiễm qua đường giọt bắn: khi các tác nhân gây bệnh chứa trong
các giọt nhỏ bắn ra khi người bệnh ho, hắt hơi, nói chuyện bắn vào kết mạc
mắt, niêm mạc mũi, miệng của người tiếp xúc; các tác nhân gây bệnh truyền
nhiễm có trong các giọt bắn có thể truyền bệnh từ người sang người trong một
khoảng cách ngắn (<1 mét). Các giọt bắn có kích thước rất khác nhau, thường >5
m, có khi lên tới 30 m hoặc lớn hơn. Một số tác nhân gây bệnh qua đường giọt bắn
cũng có thể truyền qua đường tiếp xúc trực tiếp hoặc tiếp xúc gián tiếp.
- Lây qua đường không khí xảy ra do các giọt bắn li ti chứa tác nhân gây
bệnh, có kích thước < 5m. Các giọt bắn li ti phát sinh ra khi người bệnh ho hay hắt hơi,
sau đó phát tán vào trong không khí và lưu chuyển đến một khoảng cách xa,
trong một thời gian dài tùy thuộc vào các yếu tố môi trường. Những bệnh có

355
khả năng lây truyền bằng đường không khí như lao phổi, sởi, thủy đậu, đậu
mùa, cúm, quai bị hoặc cúm, SARS khi có làm thủ thuật tạo khí dung ...
1.2.3. Nguồn lây nhiễm khuẩn bệnh viện
Có nhiều nguồn lây nhiễm ở trong các cơ sở y tế ví dụ như: nguồn lây từ
môi trường (không khí, nước, xây dựng), bệnh nhân, từ các hoạt động khám và
chữa bệnh (thủ thuật xâm nhập và phẫu thuật, dụng cụ và thiết bị, hóa trị liệu,...).
* Từ môi trường
Các tác nhân gây bệnh có thể gặp trong môi trường (không khí, nước, bề
mặt vật dụng xung quanh người bệnh) như nấm vi khuẩn hoặc các loại vi rút và
các ký sinh trùng.
* Từ người bệnh
Con người (người bệnh, nhân viên y tế, người nhà người bệnh, khách thăm)
đều có thể đóng vai trò như ổ chứa hoặc nguồn chứa tác nhân gây nhiễm khuẩn
bệnh viện.
Các yếu tố từ người bệnh làm thuận lợi cho nhiễm khuẩn bệnh viện gồm
tuổi, tình trạng sức khỏe và phương pháp điều trị được áp dụng. Nguy cơ có thể
được phân loại theo 3 mức độ khác nhau: nguy cơ mức độ thấp, mức trung bình
và mức độ cao. Các người bệnh có nguy cơ thấp khi không có dấu hiệu bệnh
quan trọng, hệ miễn dịch không bị ảnh hưởng và không phải điều trị can thiệp.
Tình trạng sức khỏe kém, đặc biệt là tuổi cao các đáp ứng miễn dịch tế bào và
miễn dịch dịch thể bị suy giảm; trẻ em có hệ thống đáp ứng miễn dịch chưa
hoàn chỉnh, sức chịu đựng stress kém vì thế sức đề kháng với vi khuẩn yếu nên
xuất hiện một nguy cơ toàn thân. Ngoài ra người bệnh cao tuổi dễ mắc bệnh còn
liên quan đến tình trạng dinh dưỡng kém.
Hơn nữa, người bệnh nặng dẫn đến tình trạng tăng trao đổi chất, khả năng
miễn dịch suy yếu, khả năng chống lại các vi sinh vật ngoại sinh giảm và vi sinh
vật nội sinh phát triển mạnh hơn. Một số yếu tố khác cũng góp phần nhiễm
khuẩn bệnh viện như tình trạng người bệnh khi nhập viện (cấp tính hay không
cấp tính), thời gian nằm viện, giới tính, khả năng khử nhiễm chọn lọc của ống
tiêu hóa và các nguy cơ này mang tính độc lập với mỗi loại nhiễm khuẩn. Nguy
cơ cao nhiễm khuẩn bệnh viện cũng xảy ra trên những người bệnh thay tạng,

356
ung thư hoặc nhiễm trùng do suy giảm miễn dịch ở người nhiễm HIV, người
bệnh tổn thương hệ miễn dịch, người bệnh đa chấn thương hoặc bỏng nặng và
người bệnh thường xuyên phải điều trị can thiệp.
* Từ việc sử dụng kháng sinh không thích hợp
Ngày nay, mối quan tâm đặc biệt là khoảng 70% của nhiễm khuẩn bệnh
viện là do các chủng vi khuẩn kháng thuốc. Quá trình kháng thuốc là do hoặc
phát triển tính kháng tự nhiên hoặc do các nhà lâm sàng đã lạm dụng kháng
sinh trong quá trình điều trị các bệnh nhiễm khuẩn. Do vậy, vấn đề kháng thuốc
của các tác nhân gây nhiễm khuẩn đang là một vấn đề toàn cầu, đặc biệt là các căn
nguyên vi khuẩn đa kháng kháng sinh.
Tình trạng kháng thuốc của trực khuẩn Gram (-) gây nhiễm khuẩn bệnh viện
ngày càng gia tăng và phổ biến ở tất cả các khoa điều trị trong bệnh viện và tình
trạng đa kháng thường xảy ra với các kháng sinh thuộc nhóm quinolon,
cephalosporin thế hệ 3 và aminoglycosid. Sự bùng nổ ngày càng nhiều chủng
trực khuẩn mủ xanh và A.baumannii đa kháng kháng sinh ở trong và ngoài
khoa điều trị tích cực đang là vấn đề thường xuyên được đề cập tới ngày càng
nhiều ở hầu hết các nghiên cứu gần đây.
Khi sử dụng kháng sinh không hợp lý sẽ làm tăng chủng kháng thuốc do
có sự phối hợp chọn lọc tự nhiên và thay đổi các thành phần gen kháng thuốc
của vi khuẩn. Kháng kháng sinh xuất phát điểm từ các cơ sở y tế, sau đó lan rộng
ra cộng đồng và vi khuẩn kháng thuốc trở thành căn nguyên của khoảng 70% các
nhiễm khuẩn bệnh viện. Tỷ lệ mắc và tử vong do nhiễm khuẩn bệnh viện có liên
quan đến vi khuẩn kháng thuốc đã làm tăng đáng kể các loại chi phí.
Ngăn ngừa sự bùng phát và lây lan của các vi khuẩn kháng thuốc sẽ hạn
chế được ảnh hưởng bất lợi và tốn kém. Việc quản lý và sử dụng kháng sinh thích
hợp như lựa chọn thuốc, liều dùng trong quá trình điều trị và giám sát thường
xuyên tính kháng kháng sinh sẽ hạn chế được tốc độ kháng thuốc của vi khuẩn.
1.3. Thực trạng nhiễm khuẩn bệnh viện
1.3.1. Trên thế giới

357
Các nghiên cứu quy mô vùng, quốc gia và liên quốc gia của các nước và
Tổ chức Y tế Thế giới ghi nhận tỷ lệ NKBV từ 3,5% đến 10% người bệnh nhập
viện.
Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV, làm
90.000 người tử vong, làm tốn thêm 4,5 tỉ dollar viện phí. Nghiên cứu về hiệu
quả của Chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện SENIC (Study on the
Efficacy of Nosocomial Infection Control) năm 1970 -1976 đã khẳng định
Chương trình kiểm soát NKBV bao gồm giám sát và áp dụng kỹ thuật có thể
làm giảm 33% NKBV. Từ đó, nhiều bệnh viện đã cải tiến các biện pháp kiểm
soát NKBV và đã đạt được nhiều thành công. Từ năm 2007, Hiệp hội KSNK và
dịch tễ học Hoa Kỳ APIC (Association for Professionals in Infection Control
and Epidemiology) đã đưa ra mục tiêu “ hướng đến không có NKBV”.
Một nghiên cứu của Rosenthal và cộng sự (2006), tiến hành tại 8 quốc gia
đang phát triển từ 2002-2005, cho thấy tỉ lệ NKBV chung là 14,7% và 22,5 ca
NKBV/1000 ngày Điều trị, tỉ lệ tử vong khá cao ở khoa Hồi sức tích cực lên tới
35,2%-44,9% [5]. Một nghiên cứu khác của Tao L, Rosenthal và cộng sự
(2011), tại 398 khoa Hồi sức tích cực của 70 bệnh viện (BV) tại Thượng Hải,
Trung quốc, cho thấy tỉ lệ NKBV chung là 5,3% và 6,4 ca NKBV/1000 ngày
nằm viện tại khoa Hồi sức tích cực, trong đó viêm phổi mắc phải trong BV
chiếm tỉ lệ cao nhất là 20,8 ca/1000 ngày thở máy, kế đến nhiễm khuẩn Tiết
niệu 6,4 ca/1000 ngày mang thông tiểu và 3,1 ca nhiễm khuẩn huyết/1000 ngày
mang catheter mạch máu, vi khuẩn thường gây NKBV hàng đầu là
Acinetobacter baumannii (19,1%), kế đến là Pseudomonas aeruginosa (17,2%),
Klebsi Một nghiên cứu ngang thực hiện tại các nước châu Âu gần đây cho thấy NKBV
chiếm tỷ lệ 4,6 – 9,3% người bệnh nhập viện. Ước tính hàng năm khoảng 5 triệu trường
hợp NKBV, trong đó chết 130.000 người, gây tổn phí khoảng 25 triệu ngày điều trị và
khoảng 13-24 tỷ EU. Tại Anh, ước tính mỗi năm khoảng 100.000 người bệnh mắc
NKBV, trên 5.000 người bệnh tử vong, chi phí phát sinh cho điều trị khoảng 1 tỷ bảng.
Theo khảo sát cắt ngang 1 ngày tại bệnh viện của Albania, Morocco, Tunisia và
Tanzania, tỷ lệ NKBV theo trình tự 19.1%, 17,8%, 17,9%, 14,8%. Ở các nước đang phát
triển, chương trình KSNK đã được triển khai từ đầu những năm 1980. Tuy nhiên, công
tác giám sát phát hiện NKBV ở hầu hết quốc gia chưa tốt do gặp phải những thách thức

358
như: thiếu nhân viên chuyên trách được đào tạo về KSNK, thiếu thống nhất về tiêu
chuẩn chẩn đoán NKBV (labo vi sinh, chẩn đoán hình ảnh...). Hầu hết những công bố
về giám sát NKBV thường chỉ đề cập đến từng bệnh viện đơn lẻ. Những khó khăn trên
kết hợp với những thách thức trong công tác phòng ngừa và kiểm soát (nhận thức của
NVYT, cộng đồng chưa tốt, tình trạng quá tải và kinh phí điều trị hạn hẹp) lý giải tại sao
NKBV tại các nước đang phát triển cao hơn nhiều so với các nước phát triển.
1.3.2. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại Việt Nam và thực trạng công tác KSNK
Tình hình NKBV tại Việt nam chưa được xác định đầy đủ. Có ít tài liệu và
thống kê giám sát NKBV được công bố. Những tốn kém về nhân lực và tài lực
do NKBV trong toàn quốc cũng chưa được xác định. Có ba điều tra cắt ngang
quốc gia về nhiễm khuẩn bệnh viện đã được thực hiện. Điều tra năm 1998 trên
901 bệnh nhân trong 12 bệnh viện toàn quốc cho thấy tỉ lệ NKBV là 11.5%;
nhiễm khuẩn vết mổ chiếm 51% trong tổng số các NKBV. Năm 2001 tỉ lệ
NKBV trong số các bệnh nhân đang điều trị tại 11 bệnh viện là 6.8% và viêm
phổi bệnh viện là nguyên nhân thường gặp nhất (41.8%). Một điều tra năm
2005 tại19 bệnh viện trong toàn quốc cho thấy 5.7% số bệnh nhân đang nằm
viện mắc NKBV và viêm phổi bệnh viện chiếm 55.4% các NKBV. Theo kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng thực hiện ở 62 bệnh viện thuộc 3 tuyến:
tuyến trung ương (11 bệnh viện); tuyến tỉnh/thành phố (34 bệnh viện) và tuyến
quận/huyện (17 bệnh viện) được lựa chọn ngẫu nhiên, kết quả tỷ lệ nhiễm khuẩn
chung các tuyến bệnh viện: 7,8%; tỷ lệ người mắc NKBV tại bệnh viện tuyến
tỉnh/thành là 8,3%, cao hơn bệnh viện tuyến trung ương 5,4% và tuyến
quận/huyện là 6,4% và các NKBV thường gặp là: nhiễm khuẩn phổi (44,7%),
nhiễm khuẩn vết mổ (29,3%) và nhiễm khuẩn tiết niệu (13,9%) và theo kết quả
nghiên cứu này nhóm nghiên cứu cũng tìm ra yếu tố nguy cơ gây nên NKBV là:
mở khí quản, phẫu thuật, đặt nội khí quản, đặt ống thông tiểu, đặt ống thông tĩnh
mạch trung tâm.
Bệnh nguyên NKBV đa số là là vi khuẩn Gram âm (78%), 19% là Gram
dương và 3% là Candida các loại. Các bệnh viện Việt Nam đang đối diện với
nhiều thách thức trong công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, bao gồm tình trạng quá
tải bệnh nhân, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng đúng yêu cầu của kiểm soát nhiễm
khuẩn, phương tiện còn chưa đầy đủ. Theo báo cáo của Bộ Y Tế (2007), chỉ có

359
67% các bệnh viện ở Việt Nam có Đơn vị tiệt khuẩn trung tâm trong bệnh viện,
việc làm sạch bằng tay chiếm 85%; 60% các bệnh viện có lò hấp hơi nước,
2,2% có lò hấp nhiệt độ thấp; 20-40% số bệnh viện có kiểm tra chất lượng dụng
cụ khử khuẩn, tiệt khuẩn chủ động.
1.4. Tầm quan trọng của kiểm soát nhiễm khuẩn trong chăm sóc và điều trị.
Nhiễm khuẩn bệnh viện xảy ra liên quan đến nhiều yếu tố, bao gồm con
người, môi trường bệnh viện và bản thân người bệnh. Do đó, chương trình kiểm
soát NKBV cũng phải bao gồm các hoạt động đa chuyên ngành, với sự tham
gia của tất cả mọi người trong bệnh viện. Các yếu tố chính của các hoạt động
này bao gồm: (1). Củng cố hệ thống tổ chức KSNK trong bệnh viện (2). Triển
khai các hoạt động, quy trình kỹ thuật để phòng ngừa và kiểm soát NKBV (3).
Huy động sự tuân thủ các thực hành của nhân viên y tế.
NKBV có thể ngăn ngừa được thông qua những chương trình kiểm soát
NKBV. Mỗi bệnh viện cần xây dựng chương trình phòng ngừa và kiểm soát
nhiễm khuẩn, đưa những chuẩn mực về chất lượng chăm sóc vào các thực hành
lâm sàng. Nghiên cứu về hiệu quả của chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn
bệnh viện SENIC (Study on the Efficacy of Nosocomial Infection Control) năm
1970 -1976 đã chứng minh rằng một chương trình kiểm soát NKBV bao gồm
giám sát và áp dụng kỹ thuật dự phòng có thể làm giảm 33% NKBV. Từ đó,
nhiều bệnh viện đã cải tiến các biện pháp kiểm soát NKBV nhằm làm giảm đến
mức tối đa tỉ lệ NKBV, và đã đạt được nhiều thành công. Từ năm 2007, hiệp
hội về KSNK và dịch tễ học Hoa Kỳ APIC (Association for Professionals in
Infection Control and Epidemiology) đã đưa ra mục tiêu “không có trường hợp
NKBV nào hoặc tiến gần đến không có trường hợp nào nữa”.
Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là một trong những thách thức và mối
quan tâm hàng đầu tại Việt nam cũng như trên toàn thế giới. NKBV có thể được
xem như là bệnh gây ra bởi bệnh viện, vì đây là những nhiễm khuẩn mắc phải
chỉ trong thời gian bệnh nhân nằm viện. Những nghiên cứu cho thấy rằng
NKBV làm tăng tỉ lệ tử vong, kéo dài thời gian nằm viện, tăng việc sử dụng
kháng sinh, tăng đề kháng kháng sinh và chi phí điều trị. Cùng với sự xuất hiện
một số bệnh gây ra bởi những vi sinh vật kháng thuốc, hoặc bởi những tác nhân
gây bệnh mới, NKBV vẫn còn là vấn đề nan giải ngay cả ở các nước đã phát

360
triển. Thống kê cho thấy tỉ lệ NKBV vào khoảng 5-10% ở các nước đã phát
triển và lên đến 15-20% ở các nước đang phát triển.
Có thể ngăn ngừa NKBVqua những chương trình kiểm soát NKBV.
Chương trình kiểm soát NKBV tốt đưa những chuẩn mực về chất lượng chăm
sóc vào trong những thực hành lâm sàng. Nghiên cứu về hiệu quả của chương
trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện SENIC (Study on the Efficacy of
Nosocomial Infection Control) năm 1970 -1976 đã chứng minh rằng một
chương trình kiểm sóat NKBV bao gồm giám sát và áp dụng kỹ thuật có thể
làm giảm 33% NKBV. Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện như thế có ý nghĩa
thiết thực trong góp phần nâng cao chất lượng điều trị và nâng cao hiệu quả
kinh tế. Việc kiểm soát và dự phòng NKBV hiệu quả được xem như là một tiêu
chuẩn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện.
Kiểm soát nhiễm khuẩn là một phương pháp khoa học và giải pháp thiết
thực nhằm ngăn ngừa các tác hại do nhiễm trùng đối với người bệnh và nhân
viên y tế, nó có cơ sở dựa trên việc tăng cường hệ thống y tế, các bệnh truyền
nhiễm, dịch tễ học và khoa học xã hội. Kiểm soát nhiễm khuẩn có vị trí quan
trọng nhất trong lĩnh vực an toàn người bệnh và chất lượng dịch vụ y tế vì nó có
liên quan đến nhân viên y tế và người bệnh tại thời điểm cung cấp dịch vụ chăm
sóc sức khỏe.
Năm 2018, Bộ Y Tế đã ban hành Thông tư 16/2018 Quy định Kiểm soát
nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Thông tư mới này đã nâng
cao vai trò của kiểm soát nhiễm khuẩn lên một vị trí cao hơn những quy chế
trước đây, đòi hỏi các cơ sở khám chữa bệnh đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác
kiểm soát nhiễm khuẩn. Các hướng dẫn về kiểm soát nhiễm khuẩn của Bộ Y Tế
cũng đã được ban hành từ năm 2012 và gần đây nhất là vào năm 2017, bao gồm
12 hướng dẫn với đầy đủ các biện pháp phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn được
áp dụng trong các cơ sở KBCB.
1.5. Thực trạng công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại Việt Nam
Năm 2009, Bộ Y Tế đã ban hành Thông tư 18/2019 hướng dẫn công tác
KSNK trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và đến năm 2018, Bộ đã ban
hành Thông tư 16/2018 thay thế cho Thông tư 18/2009 cho phù hợp với những
đặc điểm tình hình và yêu cầu mới về công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Thông

361
tư mới này đã nâng cao vai trò của kiểm soát nhiễm khuẩn lên một vị trí cao
hơn những quy chế trước đây, đòi hỏi các cơ sở khám chữa bệnh đầu tư nhiều
hơn nữa cho công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Các hướng dẫn về kiểm soát
nhiễm khuẩn của Bộ Y Tế cũng đã được ban hành từ năm 2012 và gần đây nhất
là vào năm 2017, bao gồm 13 hướng dẫn với đầy đủ các biện pháp phòng và
kiểm soát nhiễm khuẩn được áp dụng trong các cơ sở KBCB.
Năm 2017, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh có tiến hành một đánh giá
nhanh để tìm hiểu một số thông tin chính về công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại
các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Kết quả chính của khảo sát này như sau:
1.5.1. Về thực trạng tổ chức, nhân lực của hệ thống KSNK và Giám sát
nhiễm khuẩn bệnh viện:
1.5.1.1. Về nhân lực hệ thống KSNK
- Hệ thống tổ chức KSNK được thiết lập ở hầu hết các BV trong toàn
quốc: 92,23% có Hội đồng KSNK, 88,66% có mạng lưới KSNK và 72,27%
bệnh viện có khoa KSNK.
- Nhân lực công tác trong khoa/tổ kiểm soát nhiễm khuẩn chiếm số lượng
lớn nhất là lao động phổ thông (34,65%), tiếp theo là trình độ trung học
(30,80%), đại học, sau đại học (20,81%), cao đẳng (5,57%) và sơ học (8,17%).
1.5.1.2. Về nhân lực bộ phận giám sát nhiễm khuẩn
- Chỉ có 35,29% BV có bộ phận giám sát chuyên trách.
- Phân bố nghề nghiệp nhân lực chủ yếu của bộ phận giám sát nhiễm
khuẩn: 70,68% điều dưỡng/hộ sinh; 10,49% là bác sỹ và dược sỹ.
- Trình độ nhân lực của cán bộ tham gia bộ phận giám sát nhiễm khuẩn:
40,53% có trình độ đại học và sau đại học; 17,58% có trình độ cao đẳng;
38,11% trình độ trung cấp.
1.5.2. Thực trạng thực hiện giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện:
- 72,06% bệnh viện đã xây dựng kế hoạch giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện
hằng năm nhưng việc thực hiện giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện rất thấp.

362
+ Chỉ có 37,39% bệnh viện thực hiện giám sát NKBV hiện mắc trong toàn
bệnh viện và chỉ có 23,84% thực hiện giám sát NKBV mắc mới tại các khoa
trọng điểm.
+ Tỉ lệ BV thực hiện giám sát các nhiễm khuẩn với các bệnh trọng điểm
như giám sát viêm phổi thở máy; giám sát nhiễm khuẩn huyết; giám sát nhiễm
khuẩn tiết niệu có tăng so với năm 2015, song vẫn chiếm tỷ lệ thấp: 25,42%
bệnh viện thực hiện giám sát vết mổ; 16,46% thực hiện giám sát nhiễm khuẩn
thở máy; 12,61% bệnh viện giám sát nhiễm khuẩn huyết và 14,29% bệnh viện
thực hiện giám sát nhiễm khuẩn tiết niệu. Đa số các bệnh viện thực hiện giám
sát cắt ngang, một số ít thực hiện giám sát dọc.
- 40,97% bệnh viện thực hiện việc giám sát vi sinh trong môi trường tại
những khu vực có nhiều nguy cơ lây nhiễm; 13,45% số bệnh viện thực hiện
giám sát vi sinh vật kháng thuốc.
1.5.3. Hoạt động đào tạo, phát triển kiểm soát nhiễm khuẩn:
Hoạt động đào tạo, phát triển chuyên ngành KSNK đang ngày được quan
tâm và đẩy mạnh. Các chương trình và tài liệu đào tạo liên tục về KSNK đã
được ban hành. Các cơ sở khám chữa bệnh phối hợp với các Hội KSNK khu
vực thực hiện đào tạo mới, đào tạo liên tục nhằm phát triển chuyên ngành
KSNK. Hợp tác quốc tế về KSNK được đẩy mạnh: Hợp tác đào tạo, trao đổi
chuyên gia lĩnh vực KSNK với các tổ chức quốc tế WHO, JICA… Các cơ sở
khám chữa bệnh đã chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công
tác KSNK: 58,6% cơ sở có đơn vị tiệt khuẩn tập trung, nhiều cơ sở đã đầu tư
trang bị đủ phương tiện vệ sinh tay và hóa chất, phương tiện cho công tác
phòng chống dịch, vệ sinh môi trường, khử khuẩn dụng cụ tái sử dụng.
Hoạt động KSNK được triển khai thường xuyên với chất lượng ngày càng
tăng tại hầu hết các cơ sở khám chữa bệnh: giám sát ca bệnh NKBV, giám sát
tuân thủ vệ sinh tay, giám sát tuân thủ các quy trình KSNK, giám sát vi sinh vật
gây NKBV và kháng kháng sinh, từng bước chuẩn hóa công tác khử khuẩn, tiệt
khuẩn, tăng cường vệ sinh bệnh viện, chủ động phòng chống bệnh dịch. Đến
nay, 75,8% cơ sở khám chữa bệnh đã thực hiện giao nhận dụng cụ sạch và bẩn
tại các khoa lâm sàng; 87,5% cơ sở phát động chiến dịch vệ sinh tay và 75,2%
cơ sở đã thực hiện giám sát tuân thủ vệ sinh tay; 611 cơ sở khám chữa bệnh

363
trong toàn quốc ký cam kết tham gia chiến dịch “Bảo vệ sự sống hãy vệ sinh
tay”; 668 cơ sở ký cam kết thực hiện “Bệnh viện vệ sinh”. 
2. Gánh nặng của nhiễm khuẩn bệnh viện
2.1. Gánh nặng bệnh tật, sức khỏe của người bệnh
- Kéo dài thời gian nằm viện, gây tàn tật lâu dài, tử vong:
+ Châu Âu: NKBV gây 37.000 ca tử vong/năm, tăng 16 triệu ngày nằm
viện.
+ Mỹ: NKBV gây ra 99.000 ca tử vong/năm.
- Tăng khả năng kháng với thuốc kháng sinh, nguy cơ không có thuốc
kháng sinh để điều trị nhiễm khuẩn là hiện hữu.
- Cùng với thế giới, Việt Nam đang phải đối mặt với gánh nặng do nhiễm
khuẩn liên quan đến chăm sóc sức khỏe và kháng kháng sinh tại cơ sở y tế.
Tính trung bình, cứ 10 bệnh nhân ở Việt Nam thì có một người bị nhiễm khuẩn
trong quá trình điều trị. Tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn ở các khoa chăm sóc
đặc biệt tại các bệnh viện Trung ương. Dịch bệnh xảy ra gần đây cùng với số ca
nhiễm khuẩn tăng là cảnh báo đối với các bệnh viện và cơ sở y tế ở Việt Nam,
đồng thời nó cũng cho thấy tầm quan trọng của hoạt động kiểm soát nhiễm
khuẩn trong việc đối phó với nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc sức khỏe và
kháng kháng sinh. Một số vụ việc đáng lưu ý đã xảy ra như: dịch SARS năm
2003; dịch sởi năm 2014; nhiễm trùng vết mổ tại Bệnh viện Đa khoa Hà Giang
năm 2013; các trường hợp nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc sức khỏe ở trẻ
sơ sinh ở Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh vào năm 2017; tỷ lệ kháng kháng sinh
gia tăng, đặc biệt là Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) và
Enterobacteriaceae kháng Carbapenem (CRE).
2.2. Gánh nặng kinh tế
Nhiễm khuẩn bệnh viện dẫn đến nhiều hệ luỵ cho người bệnh và cho hệ
thống y tế như: tăng biến chứng và tử vong cho người bệnh; kéo dài thời gian
nằm viện trung bình từ 7 đến 15 ngày; tăng sử dụng kháng sinh dẫn đến tăng sự
kháng thuốc của vi sinh vật và tăng chi phí điều trị cho một NKBV thường gấp
2 đến 4 lần so với những trường hợp không NKBV.

364
Theo báo cáo của một số nghiên cứu: Chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn
huyết bệnh viện là $34,508 đến $56,000 và do viêm phổi bệnh viện là $5,800
đến $40,000. Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV,
làm tốn thêm 4,5 tỉ dollar viện phí. Ở Việt Nam, chưa có những nghiên cứu
quốc gia đánh giá chi phí của NKBV, một nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy
cho thấy NKBV làm kéo dài thời gian nằm viện 15 ngày với chi phí trung bình
mỗi ngày là 1.192,000 VND và ước tính chi phí phát sinh do NKBV vào
khoảng 8 -12,880,000 VND/ người bệnh.
2.3. Gánh nặng đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và hệ thống y tế
Nhiễm khuẩn bệnh viện dẫn đến nhiều hệ luỵ cho người bệnh và cho hệ
thống y tế như: tăng biến chứng và tử vong cho người bệnh; kéo dài thời gian
nằm viện trung bình từ 7 đến 15 ngày; tăng sử dụng kháng sinh dẫn đến tăng sự
kháng thuốc của vi sinh vật và tăng chi phí điều trị cho một NKBV thường gấp
2 đến 4 lần so với những trường hợp không NKBV.
Theo báo cáo của một số nghiên cứu: Chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn
huyết bệnh viện là $34,508 đến $56,000 và do viêm phổi bệnh viện là $5,800
đến $40,000. Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV,
làm tốn thêm 4,5 tỉ dollar viện phí. Ở Việt Nam, chưa có những nghiên cứu
quốc gia đánh giá chi phí của NKBV, một nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy
cho thấy NKBV làm kéo dài thời gian nằm viện 15 ngày với chi phí trung bình
mỗi ngày là 1.192,000 VND và ước tính chi phí phát sinh do NKBV vào
khoảng 8 -12,880,000 VND/ người bệnh.
3. Vai trò của kiểm soát nhiễm khuẩn với an toàn người bệnh
Trong an toàn người bệnh, cấu phần về kiểm soát nhiễm khuẩn đóng vai
trò quan trọng
3.1. Các cấu phần của an toàn người bệnh
An toàn của người bệnh thường được đánh giá dựa trên năm hậu quả: lỗi,
tác dụng phụ, nhiễm trùng, thương tích và tử vong. Những hậu quả này là các
biện pháp cuối cùng được sử dụng trong an toàn của bệnh nhân để làm rõ
những tác hại mà bệnh nhân phải đối mặt. Tuy nhiên, những kết quả này là
phương tiện thụ động để đạt được sự an toàn của người bệnh. Vì vậy, điều quan

365
trọng là kết hợp những kết quả này trong các nguyên nhân gần và xa ảnh hưởng
đến sự an toàn của bệnh nhân. Sự hợp nhất của các kết quả và nguyên nhân dẫn
đến sự phát triển của các cấu phần an toàn của người bệnh, bao gồm chính sách
của nhà nước, chẩn đoán, thuốc men, phẫu thuật, nhiễm trùng và chấn thương.
Sự phân loại này đã được quyết định vì các thành phần được đề cập đòi hỏi một
loạt chuyên môn, kiến thức và kỹ năng để đạt được sự an toàn cho bệnh nhân.
Các cấu phần của sự an toàn của người bệnh được mô tả trong hình dưới
và được sắp xếp theo kiểu phân cấp dựa trên khả năng xuất hiện của chúng.
Theo đó, các thương tích ảnh hưởng đến sự an toàn của bệnh nhân được nhìn
thấy rõ hơn so với các cấu phần như chính sách của nhà nước.
3.2. Ảnh hưởng của nhiễm khuẩn bệnh viện đến sức khỏe người bệnh
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm có 30 triệu người lớn, 3
triệu trẻ sơ sinh và 1,2 triệu trẻ nhỏ nhiễm khuẩn huyết trên toàn cầu, trong đó 6
triệu người lớn và 500.000 trẻ sơ sinh tử vong. Tất cả trường hợp nhiễm khuẩn
huyết liên quan đến chăm sóc y tế đều có thể phòng ngừa được nếu nhân viên y
tế thực hiện tốt các quy trình vô khuẩn bệnh viện.
Những con số đó cho thấy nhiễm lây nhiễm chéo là một trong những
mối đe dọa hàng đầu, tác động trực tiếp đến sự an toàn của người bệnh. Nhiều
người trị ung thư, phẫu thuật thành công nhưng sau đó lại bị nhiễm khuẩn tại
chính cơ sở y tế, khiến bệnh trở nên nghiêm trọng, kéo dài thời gian nằm viện
và phát sinh chi phí điều trị, thậm chí có thể tử vong.
WHO cho biết, cứ 100 người nằm viện thì có 7 người mắc thêm bệnh
nhiễm trùng mới. Các thống kê cũng chỉ ra có khoảng 50 loại nhiễm khuẩn
khác nhau có thể xảy ra tại bệnh viện.
4. Vai trò của điều dưỡng trong kiểm soát nhiễm khuẩn
4.1. Nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện trong thực hành chăm sóc
Trong hoạt động chăm sóc và điều trị người bệnh tại các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh người điều dưỡng/hộ sinh là người tiếp xúc nhiều nhất với người
bệnh. Thủ thuật, kỹ thuật chăm sóc áp dụng cho người bệnh có thời gian và tần
xuất cao nhất so với điều trị. Do đó, nguy cơ gây nhiễm khuẩn bệnh viện từ các
hoạt động chăm sóc người bệnh cao hơn cả.

366
Khi sử dụng thiết bị xâm nhập như đặt nội khí quản, máy trợ hô hấp, nội
soi thăm dò, dẫn lưu sau mổ, đặt catheter tĩnh mạch trung tâm, dẫn lưu tiết
niệu...tất cả các điều trị can thiệp đó đã làm mất đi cơ chế bảo vệ tự nhiên của cơ
thể là ngăn cản sự xâm nhập và tấn công của các vi sinh vật gây bệnh và luôn
được xem là có nguy cơ cao. Tỷ lệ các nhiễm khuẩn bệnh viện liên quan đến quy
trình điều trị xâm nhập hoặc dụng cụ xâm nhập chiếm xấp xỉ 80% tổng số nhiễm
khuẩn trong bệnh viện.
Nhiễm khuẩn liên quan đến thiết bị xâm nhập đã được các tác giả mô tả
nhiều trong các công trình nghiên cứu, và thời gian sử dụng các thiết bị càng
kéo dài thì nguy cơ đối với tất cả các nhiễm trùng càng tăng, đặc biệt là nhiễm
khuẩn huyết và tỷ lệ tử vong cao thường tập trung trên người bệnh bị nhiễm
khuẩn phổi và nhiễm khuẩn huyết.
Do chưa tuân thủ các quy định phòng ngừa lây nhiễm: của nhân viên y tế như tuân
thủ vệ sinh tay còn thấp, sử dụng chung găng tay, xử lý các dụng cụ y tế để dùng lại đặc
biệt là các dụng cụ nội soi chưa đúng quy định.
Với cả 3 đường lây truyền nhiễm khuẩn bệnh viện: tiếp xúc; giọt bắn,
không khí, sự hiện hữu của 3 đường lây truyền này giữa người điều dưỡng/hộ
sinh với người bệnh đều rõ nét.
4.2. Tuân thủ quy trình kỹ thuật bảo đảm kiểm soát nhiễm khuẩn
Sự tiếp xúc giữa NVYT và người bệnh cung như trong thủ thuật, kỹ thuật
chăm sóc áp dụng cho người bệnh luôn tiềm ẩn nguy cơ gây nhiễm khuẩn bệnh
viện. Do đo trong thực hành chăm sóc người bệnh, việc tuân thủ các quy trình
kỹ thuật bảo đảm phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn giữa người bệnh và điều
dưỡng/hộ sinh và giữa người bệnh với người bệnh đòi hỏi phải được tuân thủ
chặt chẽ.
Trong bối cảnh hiện nay tại nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong toàn
quốc, sự quá tải người bệnh, nhất là tại các tuyến cao làm tăng tỉ lệ không tuân
thủ các quy trình kỹ thuật chuyên môn trong chăm sóc người bệnh, dẫn đến
tăng nguy cơ nhiễm khuẩn.
Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải ban hành các quy trình kỹ thuật
chuyên môn, trong đó có kỹ thuật chăm sóc người bệnh nhằm bảo đảm an toàn

367
cho người bệnh và nhiễm khuẩn bệnh viện. Việc tuân thủ thực hành kỹ thuật
chăm sóc trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải được giám sát thường xuyên
nhằm tăng tỉ lệ tuân thủ cao.
4.3. Truyền thông, giáo dục nội dung kiểm soát nhiễm khuẩn cho người
bệnh, người nhà.
Hiện nay, một thực tế trong chăm sóc người bệnh trong các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh là người nhà vẫn tham gia chăm sóc người bệnh, phần lớn các
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chưa thực hiện được việc chăm sóc người bệnh
toàn diện, đặc biệt ở tuyến dưới và các chuyên khoa không phải chăm sóc đặc
biệt. Việc trang bị kiến thức về phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn cho người nhà
người bệnh tham gia hỗ trợ chăm sóc người bệnh là rất quan trọng trong hoạt
động của người điều dưỡng/hộ sinh
Thông tư 16/2018/TT-BYT cũng đã quy định rõ:
+ Khoa hoặc bộ phận kiểm soát nhiễm khuẩn có nhiệm vụ: tổ chức truyền
thông về kiểm soát nhiễm khuẩn cho người bệnh, người nhà người bệnh và
khách đến thăm
+ Mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra,
giám sát nhân viên y tế, học viên, người bệnh, người nhà người bệnh và khách
thăm tại khoa thực hiện các quy định về kiểm soát nhiễm khuẩn.
4.4. Phối hợp giữa điều dưỡng và bác sỹ trong điều trị
4.4.1. Bác sĩ và điều dưỡng còn làm việc riêng lẻ, không hoặc ít trao đổi nhau
về cách thức điều trị, chăm sóc người bệnh.
- Thông tin đôi khi còn khác nhau (sinh hiệu, bộ phận tổn thương trên cơ
thể - nhất là bộ phận đó có 2, nhận định vết mổ, dịch dẫn lưu,..)
- Bác sĩ khám bệnh, điều dưỡng phát thuốc, tiêm cùng thời điểm tại một
phòng làm cho phòng bệnh mất trật tự, gây khó khăn cho cả bác sĩ và điều dưỡng.
- Điều dưỡng chủ yếu quan tâm đến thực hiện y lệnh, chưa thể hiện hết vai trò
chủ động của mình, đặc biệt là cung cấp thông tin và GDSK cho người bệnh.
- Một số y lệnh chưa được thực hiện đầy đủ/chưa kịp thời/thiếu thống
nhất,.. nhất là y lệnh bổ sung.

368
4.4.2. Nguyên nhân của việc phối hợp chưa chặt chẽ này là do:
- Có tập huấn nhưng chưa đi sâu vào thực trạng phối hợp, giao tiếp giữa
bác sĩ và điều dưỡng.
- Triển khai phân công chăm sóc theo nhóm nhưng chưa giám sát, đánh
giá và cải tiến
- Thiếu quy trình phối hợp giữa bác sĩ và điều dưỡng
4.4.3. Giải pháp tăng cường phối hợp giữa bác sỹ và điều dưỡng:
 - Thực hiện quy định của Thông tư 07/2011 Điều 26, Điều 27 về trách
nhiệm và phối hợp giữa bác sỹ và điều dưỡng trong việc đánh giá, phân cấp
chăm sóc, thực hiện chăm sóc cho từng người bệnh
- Cải thiện trao đổi thông tin, làm việc nhóm, sự hợp tác giữa bác sỹ và
điều dưỡng.
- Hướng tới chăm sóc người bệnh toàn diện tại bệnh viện
- Xây dựng và ban hành quy trình kỹ thuật nêu rõ sự phối hợp giữa bác sỹ
và điều dưỡng trong chăm sóc và điều trị người bệnh.
5. Phối hợp giữa các khoa phòng của bệnh viện trong kiểm soát nhiễm
khuẩn
5.1. Vai trò trách nhiệm của các khoa, phòng của bệnh viện trong hoạt động
kiểm soát nhiễm khuẩn.
Công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong mỗi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
không phải là nhiệm vụ của riêng khoa KSNK hay người phụ trách KSNK của
cơ sở. Nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện của người bệnh đến khám, điều trị tại
bệnh viện, cho nhân viên y tế, người nhà người bệnh có thể xảy ra vào bất kỳ
thời điểm nào trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do đó cần sự tham gia tích cực
của nhân viên y tế tại các khoa phòng, người bệnh, người nhà người bệnh.
Cụ thể sự tham gia của nhân viên y tế các khoa phòng trong cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh như sau:
- Tham gia Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn của cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh: Theo quy định của Thông tư 16/2018 của Bộ Y tế, Hội đồng kiểm soát

369
nhiễm do Giám đốc quyết định thành lập và là Chủ tịch hội đồng, các thành
viên Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn là đại diện lãnh đạo các khoa lâm sàng,
cận lâm sàng và các phòng chức năng, trong đó tối thiểu phải có sự tham gia
của lãnh đạo các phòng chức năng, khoa vi sinh/xét nghiệm, khoa dược và một
số khoa lâm sàng có nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện cao. Nhiệm vụ của Hội
đồng hay của mỗi một thành viên trong Hội đồng là: a) Tư vấn cho Giám đốc
về kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và tư vấn về việc
sửa chữa, thiết kế, xây dựng mới các công trình y tế trong cơ sở phù hợp với
kiểm soát nhiễm khuẩn; b) Tham gia giám sát, đào tạo, nghiên cứu khoa học về
kiểm soát nhiễm khuẩn; c) Xem xét, đánh giá và định hướng việc thực hiện
kiểm soát nhiễm khuẩn của cơ sở.
- Nhiệm vụ Khoa hoặc bộ phận kiểm soát nhiễm khuẩn: a) Đầu mối tham
mưu cho Giám đốc về các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn của
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định tại Chương II Thông tư 16/2018 của
Bộ Y tế; b) Tổ chức hoặc phối hợp với các khoa, phòng liên quan triển khai
thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa và kiểm
soát nhiễm khuẩn trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định tại
Chương II Thông tư 16/2018 của Bộ Y tế; c) Xây dựng mô tả công việc cho
nhân viên y tế của khoa; d) Xây dựng định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật và đề xuất
mua sắm trang thiết bị, phương tiện, vật tư, hóa chất liên quan đến hoạt động
kiểm soát nhiễm khuẩn và kiểm tra, giám sát việc sử dụng; đ) Hướng dẫn, chỉ
đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các hoạt động kiểm soát nhiễm khuẩn của
thành viên mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn; e) Tổ chức đào tạo, tập huấn về
kiểm soát nhiễm khuẩn cho nhân viên y tế và học viên; g) Tổ chức truyền thông
về kiểm soát nhiễm khuẩn cho nhân viên y tế, học viên, người bệnh, người nhà
người bệnh và khách thăm; h) Thực hiện nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế
và chỉ đạo tuyến về kiểm soát nhiễm khuẩn; i) Thực hiện các nhiệm vụ khác
theo phân công của Giám đốc.
- Cử những nhân viên có liên quan tham gia mạng lưới kiểm soát nhiễm
khuẩn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Theo quy định, các khoa phòng liên
quan phải có ít nhất 1 bác sỹ và một điều dưỡng tham gia mạng lưới kiểm soát
nhiễm khuẩn và phải chủ động tham gia đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn đủ
điều kiện như quy định. Các thành viên mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn có

370
nhiệm vụ đã được quy định cụ thể, bao gồm: a) Tham gia tổ chức thực hiện
kiểm soát nhiễm khuẩn tại khoa theo phân công của giám đốc và hướng dẫn kỹ
thuật của trưởng khoa kiểm soát nhiễm khuẩn hoặc của người phụ trách kiểm
soát nhiễm khuẩn; b) Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát nhân viên y tế, học viên,
người bệnh, người nhà người bệnh và khách thăm tại khoa thực hiện các quy
định về kiểm soát nhiễm khuẩn; c) Định kỳ và đột xuất báo cáo lãnh đạo khoa
và trưởng khoa kiểm soát nhiễm khuẩn hoặc người phụ trách kiểm soát nhiễm
khuẩn về tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện, tuân thủ thực hành kiểm soát nhiễm
khuẩn của nhân viên y tế, học viên, người bệnh, người nhà người bệnh và khách
thăm tại khoa.
5.2. Xây dựng kế hoạch, quy trình triển khai các hoạt động kiểm soát nhiễm
khuẩn
- Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải xây dựng, phê duyệt và phổ biến
văn bản nội bộ về kiểm soát nhiễm khuẩn bao gồm:
+ Hướng dẫn thực hiện kiểm soát nhiễm khuẩn
+ Quy định bảo đảm kiểm soát nhiễm khuẩn đối với các nhân viên y tế,
người bệnh, người nhà và khách thăm.
+ Các quy trình triển khai các hoạt động, kỹ thuật chăm sóc và điều trị bảo
đảm phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn.
+ Quy định giám sát, đánh giá việc thực hiện các quy định về kiểm soát
nhiễm khuẩn.
- Xây dựng, phê duyệt, phổ biến kế hoạch kiểm soát nhiễm khuẩn trên cơ
sở kế hoạch hành động quốc gia, mục tiêu chất lượng về kiểm soát nhiễm khuẩn
phù hợp với nguồn lực và điều kiện thực tiễn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
theo từng giai đoạn. Các kế hoạch của đơn vị bao gồm các kế hoạch dài hạn,
trung hạn, ngắn hạn. Song song với việc xây dựng kế hoạch cần triển khai đánh
giá việc thực hiện kế hoạch.
CÂU HỎI, BÀI TẬP VÂN DỤNG
Câu 1: Trình bày định nghĩa và dịch tế học nhiễm khuẩn bệnh viện?
Câu 2: Trình bày thực trạng công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại Việt Nam?

371
Câu 3: Trình bày vai trò của điều dưỡng trong kiểm soát nhiễm khuẩn?
Câu 4: Trình bày ghánh nặng của nhiễm khuẩn bệnh viện?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Hướng dẫn thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn môi trường bệnh viện, Bộ Y tế,
Nhà xuất bản Y học, 2013.
2. Quyết định số 3916/QĐ-BYT ngày 28/8/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc
phê duyệt các Hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh.
3. Quyết định số 3671/QĐ-BYT ngày 27 tháng 09 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ
Y tế về việc ban hành các  hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn áp dụng trong các
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
4. Thông tư 16/2018/TT-BYT ngày 20 tháng 7 năm 2018, quy định về kiểm soát
nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
5. Tài liệu hướng dẫn giám sát nhiễm khuẩn huyết và nhiễm khuẩn tiết niệu áp
dụng tại các bệnh viện mẫu về kiểm soát nhiễm khuẩn, Cục Quản lý Khám,
chữa bệnh, Bộ Y tế, 2017.
6. Bộ Y tế (2019), Tài liệu tập huấn kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh.
7. Bộ Y tế (2016), Quản lý bệnh viện.

372
CHUYÊN ĐỀ 8
LẬP KẾ HOẠCH, THỰC HIỆN VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG TRUYỀN
THÔNG VÀ TƯ VẤN SỨC KHỎE

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 12 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 8 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong bài này học viên có khả năng:
1. Mô tả quá trình lập kế hoạch và chuẩn bị thực hiện hoạt động truyền thông,
giáo dục sức khỏe.
2. Mô tả các phương pháp truyền thông, giáo dục sức khỏe.
3. Giải thích mục tiêu, các chỉ số và phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động
truyền thông, giáo dục sức khỏe.
NỘI DUNG
1. Lập kế hoạch truyền thông, giáo dục sức khỏe
Lập kế hoạch chương trình truyền thông, giáo dục sức khỏe (TT-GDSK)
thường qua 5 giai đoạn chính: (1) Thu thập thông tin, xác định, phân tích vấn đề
sức khỏe, phân tích đối tượng đích; (2) Xây dựng mục tiêu TT-GDSK; (3) Lựa
chọn phương pháp TT-GDSK; (4) Lập kế hoạch hành động TT-GDSK; (5)
Chuẩn bị thực hiện kế hoạch.
1.1. Xác định và phân tích vấn đề sức khỏe, đối tượng đích
Các thông tin cần thiết được thu thập thông qua nhiều phương pháp thu
thập thông tin để từ đó phân tích, xác định các vấn đề sức khỏe, xác định những
vấn đề sức khỏe ưu tiên, phân tích để hiểu rõ các yếu tố liên quan, ảnh hưởng

373
đến vấn đề sức khỏe hay các nguyên nhân của vấn đề sức khỏe, xác định và
phân tích đối tượng đích để hiểu rõ họ là ai, có những đặc điểm nhân khẩu học
gì; kiến thức, thái độ, hành vi liên quan đến vấn đề sức khỏe, hiểu biết về pháp
luật, các qui định liên quan đến chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, phòng bệnh; tiếp
cận, sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh… để làm cơ sở
xây dựng mục tiêu và các phương pháp TT-GDSK tương ứng, phù hợp.
Tại các cơ sở y tế như các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, để có cơ sở
lập kế hoạch hoạt động TT-GDSK cho các đối tượng liên quan, hàng năm tại
các đơn vị cụ thể (các Khoa/Đơn vị chuyên môn khác) tiến hành những điều tra
với các hình thức, mức độ, phương pháp khác nhau nhằm có được những số liệu
chính xác, khoa học để có thể viết các mục tiêu TT-GDSK đáp ứng các yêu cầu
của mục tiêu.
Những số liệu, thông tin có thể thu thập từ nguồn thống kê, báo cáo của các
khoa, đơn vị; từ báo cáo tổng hợp định kì của cả bệnh viện hay các cơ sở khám
chữa bệnh khác (số lượng bệnh nhập khoa trong năm trước, tần suất xuất hiện
trong từng tháng và nhu cầu theo từng chuyên khoa…). Các hoạt động thu thập
thông tin, số liệu được tiến hành theo kế hoạch, có sự chỉ đạo của các cấp quản lí
và sự tham gia của các bên liên quan.
Tại cộng đồng, các vấn đề sức khỏe thường được xác định, phân tích để lập
kế hoạch can thiệp thường là những bệnh lây, như: Sốt xuất huyết, Tay chân
miệng, Sởi, Lao, v.v. hoặc là những bệnh không lây, như: Ung thư, Đái tháo
đường, Tăng huyết áp, các Rối loạn tâm thần, v.v. Các đối tượng đích của quá
trình TT-GDSK thường là người dân nói chung hoặc các nhóm người dân có
nguy cơ mắc cao.
Tại các cơ sở khám chữa bệnh, bệnh viện, tùy chức năng chuyên môn,
nhiều vấn đề sức khỏe nêu trên được ưu tiên đề cập và dành nhiều thời lượng để
triển khai các hoạt động TT-GDSK tương ứng. Đối tượng đích của quá trình TT-
GDSK tại các cơ sở khám chữa bệnh, bệnh viện là người bệnh, người nhà của
người bệnh, người dân khu vực lân cận hoặc người dân nói chung.
1.2. Viết mục tiêu truyền thông, giáo dục sức khỏe
Dựa vào kết quả phân tích ở giai đoạn 1, nhu cầu TT-GDSK của các nhóm
đối tượng đích được xác định cụ thể, làm cơ sở xây dựng mục tiêu TT-GDSK.

374
Nếu mục tiêu của chương trình sức khỏe là những mong muốn cải thiện tình
trạng sức khoẻ cho nhóm đối tượng đích (ví dụ: giảm số lượng/tỉ lệ mắc bệnh),
thì mục tiêu TT-GDSK tập trung cải thiện các yếu tố kiến thức, thái độ và thực
hành liên quan với vấn đề sức khỏe cụ thể của đối tượng đích (ví dụ: tăng tỉ lệ
đối tượng có kiến thức đúng, có thái độ phòng bệnh tích cực và thực hiện các
hoạt động phòng bệnh).
Mục tiêu TT-GDSK thường là những mục tiêu cụ thể của một chương trình
sức khỏe nói chung. Ví dụ: Kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi dưỡng con nhỏ
của các bà mẹ là các yếu tố chính ảnh hưởng tới tình trạng suy dinh dưỡng trẻ
em; như vậy mục tiêu TT-GDSK về phòng chống suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em
có thể là: Sau 6 tháng thực hiện chương trình TT-GDSK phòng SDD trẻ em,
90% bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại … có kiến thức đúng về chế độ dinh dưỡng
hợp lí cho trẻ; nếu một số bệnh dịch ở trẻ nhỏ xuất hiện do tiêm chủng không
đúng lịch thì mục tiêu TT-GDSK có thể là: sau khi chương trình TT-GDSK về
tiêm chủng kết thúc, tất cả bà mẹ có con dưới 1 tuổi đưa con đi tiêm chủng theo
đúng lịch tiêm chủng.
Việc xây dựng mục tiêu TT-GDSK hợp lí giúp người làm TT-GDSK
chuẩn bị nguồn lực tương ứng để đạt mục tiêu, theo dõi, giám sát các hoạt động
để đảm bảo các hoạt động tập trung đạt được mục tiêu; đồng thời tạo thuận lợi
để đánh giá kết quả. Để đạt được những mong muốn như vậy, mục tiêu TT-
GDSK phải đạt được các yêu cầu về tính cụ thể, đo lường được, có khả năng đạt
được, phù hợp và thời gian xác định rõ ràng, thường gọi là yêu cầu SMART
(theo các chữ viết tắt của tiếng Anh) đối với mục tiêu.
1.2.1. Đặc thù, cụ thể (Specific)
Yêu cầu này đòi hỏi tuyên bố về mục tiêu phải đề cập vấn đề, đối tượng
đích, địa điểm, thời gian cụ thể, rõ ràng. Ví dụ: Nâng cao kiến thức và kĩ năng tự
chăm sóc của người bệnh sau khi xuất viện.
1.2.2. Đo lường được (Measurable)
Yêu cầu này đòi hỏi tuyên bố về mục tiêu phải nêu rõ mức độ thay đổi và
sự thay đổi này phải đo lường được bằng những công cụ cụ thể. Đo lường được
sẽ giúp người làm TT-GDSK kết luận về sự thay đổi, sự khác biệt sau khi TT-
GDSK để kết luận mục tiêu có đạt được hay không.

375
1.2.3. Có thể đạt được hay tính khả thi (Achievable)
Mục tiêu nêu ra phải có thể đạt được với một chương trình hành động cụ
thể. Nếu đặt ra mục tiêu với mức độ thay đổi quá lớn, khó đạt được với chương
trình hành động cụ thể nghĩa là tính khả thi của mục tiêu thấp. Viết mục tiêu sao
cho có khả năng đạt được với điều kiện nguồn lực và hoàn cảnh thực tế.
Đối với các chương trình TT-GDSK, thay đổi hành vi sức khỏe ở đối tượng
đích phụ thuộc hành vi sức khỏe cụ thể nào? Đối tượng đích là ai? Mức độ, tần
suất thực hiện hành vi như thế nào? v.v. để xác định mức độ thay đổi và khoảng
thời gian can thiệp trong tuyên bố mục tiêu. Một thói quen có hại đối với sức
khỏe có thể mất một thời gian dài và nhiều nỗ lực để thay đổi; vì thế nếu mục
tiêu TT-GDSK mong muốn nhiều người thay đổi trong thời gian ngắn có thể
không khả thi.
1.2.4. Phù hợp (Relevant)
Yêu cầu mục tiêu phải phù hợp nghĩa là mục tiêu nhằm giải quyết vấn đề
đã được phân tích ở bước đầu tiên, đồng thời phù hợp với các định hướng, chiến
lược chăm sóc sức khỏe của tổ chức.
1.2.5. Xác định về thời gian (Time bound)
Mục tiêu TT-GDSK phải nêu mốc thời gian, khoảng thời gian để thực hiện.
Nếu không xác định đúng thời gian cần thiết để đạt mục tiêu thì sẽ không tạo
động lực để đạt được mục tiêu và có thể gây lãng phí nguồn lực, thời gian. Thời
gian từ khi bắt đầu chương trình đến khi kết thúc phải đủ dài để đạt được các
thay đổi mong đợi. Yếu tố này giúp tính khả thi cao hơn.
1.3. Lựa chọn giải pháp, chiến lược truyền thông, giáo dục sức khỏe
Sau khi đã xác định rõ mục tiêu, bước tiếp theo là cân nhắc, lựa chọn các
chiến lược hay các giải pháp thích hợp để đạt được mục mục tiêu TT-GDSK.
Chiến lược hay giải pháp là các cách thức, phương pháp TT-GDSK phù hợp để
đạt được các mục tiêu đề ra. Ví dụ: TT-GDSK trực tiếp; đào tạo kĩ năng; truyền
thông qua các phương tiện đại chúng là một số chiến lược TT-GDSK phổ biến.
Thông thường khi xác định và lựa chọn giải pháp, nhiều yêu cầu được đặt ra như
tính phù hợp, độ bao phủ rộng, hiệu quả, khả thi... của chiến lược/giải pháp. Các
yêu cầu của chiến lược, giải pháp TT-GDSK có thể mô tả chi tiết hơn như sau:

376
- Phù hợp với nhóm đối tượng đích: ví dụ giáo dục đồng đẳng là chiến
lược tiếp cận TT-GDSK phù hợp với nhóm bán dâm hay tiêm chích ma túy
trong phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
- Tác động tới nhiều đối tượng đích: ví dụ truyền thông đại chúng về
phòng bệnh sốt xuất huyết làm cho thông điệp phòng bệnh sốt xuất huyết tác
động tới đông đảo người dân trong khu vực.
- Các cách thức thực hiện phù hợp với nguồn lực, năng lực sẵn có và huy
động cộng đồng của tổ chức thực hiện TT-GDSK; nội dung, cách thức tiến hành
phù hợp với văn hoá, phong tục tập quán của cư dân địa phương nơi triển khai
các hoạt động TT-GDSK làm tăng tính khả thi.
Một số ví dụ về chiến lược TT-GDSK như: Đào tạo nâng cao kĩ năng tự
chăm sóc sức khỏe tại nhà cho người mắc bệnh mạn tính; TT-GDSK qua các
chương trình truyền hình hoặc phát thanh; GDSK trực tiếp với đối tượng đích;
Tư vấn hoặc giáo dục đồng đẳng về phòng tránh nguy cơ mắc các bệnh lây qua
đường tình dục; Củng cố, cải thiện chất lượng các cơ sở tư vấn sức khỏe, dịch
vụ hỗ trợ thay đổi hành vi sức khỏe; Xây dựng các nội quy, qui định để tăng
cường, duy trì hành vi lành mạnh; Phát triển các nguồn thông tin sức khỏe như
website, diễn đàn sức khỏe; phát triển các ứng dụng TT-GDSK cho các thiết bị
thông minh; Tăng cường sự hợp tác của các bên liên quan vì mục đích TT-
GDSK…
Người lập kế hoạch TT-GDSK cũng cần xác định rõ nguồn lực nào đã có
và cần thêm nguồn lực nào để phục vụ cho các hoạt động TT-GDSK cụ thể.
Nguồn lực không đảm bảo thì khó có thể cụ thể hóa các chiến lược/giải pháp để
đạt được mục tiêu như mong muốn. Nguồn lực bao gồm tài chính, phương tiện,
cơ sở vật chất, nhân lực, kĩ năng, kinh nghiệm và sự nhiệt tình của tất cả các đối
tượng sẽ tham gia chương trình. Thời gian là yếu tố cần xem xét kĩ lưỡng sao
cho phù hợp với các giải pháp và nguồn lực.
1.4. Xây dựng chương trình hành động
Bước tiếp theo là xây dựng chương trình hành động gồm các hoạt động cụ
thể, phát triển theo các định hướng của các chiến lược hay giải pháp TT-GDSK
đã lựa chọn. Các hoạt động được sắp xếp với sự cân nhắc về thời gian, địa điểm
tiến hành, người thực hiện, người phối hợp, các trang thiết bị, phương tiện cần

377
thiết, kinh phí và kết quả mong đợi.
Trong bảng kế hoạch hành động, có thể trình bày các nhóm hoạt động theo
từng giải pháp TT-GDSK. Khi dự kiến các hoạt động, cần chú ý tới 3 loại hoạt
động:
- Các hoạt động chủ yếu: gồm các hoạt động TT-GDSK để tác động thay
đổi kiến thức, thái độ, thực hành của đối tượng đích. Ví dụ: giáo dục về
lợi ích của tiêm chủng; vận động đối tượng đích tham gia thực hiện "vệ
sinh môi trường" …
- Các hoạt động hỗ trợ nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động chủ yếu đạt
hiệu quả tối ưu. Ví dụ: huy động sự tham gia của cộng đồng; tìm nguồn
kinh phí tài trợ; việc cung ứng, phân phối các tài liệu truyền thông...
- Các hoạt động theo dõi, điều phối bảo đảm cho hoạt động TT-GDSK
theo đúng kế hoạch. Ví dụ: theo dõi, giám sát hỗ trợ, đánh giá quá trình...
Các hoạt động cụ thể có thể được sắp xếp, trình bày trong bảng như sau:
Bảng kế hoạch hoạt động:
Hoạt Thời gian Địa Người Người Người Phương Kinh Kết
động (2) điểm chịu phối giám tiện phí quả
(1) (3) trách hợp sát (7) (8) mong
Bắt Kết
nhiệm (5) (6) đợi
đầu thúc
(4) (9)
1. Hoạt
động 1
2. Hoạt
động

Các hoạt động TT-GDSK có thể được trình bày theo thời gian (Sơ đồ
Gantt). Hoạt động theo thời gian tương ứng được minh họa bằng mũi tên, tô
màu các ô thời gian tương ứng, có thể ghi rõ người thực hiện, cách thực hiện,
phương tiện kèm theo… Cách trình bày này tạo thuận lợi cho người quản lí, điều

378
hành theo dõi tiến độ của từng hoạt động cùng với các yếu tố nguồn lực tương
ứng.
Bảng kế hoạch hoạt động theo thời gian
Hoạt Tháng Ghi
động 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 chú

1. Tên /GDSK trực tiếp và phát tờ


hoạt động rơi/sách mỏng cho đối
1 tượng sau khi kết thúc
2. Tên /Phát bản tin sức khỏe trên loa/đài, 1
hoạt động lần/ngày vào lúc 6.30, mỗi lần 3-5
… phút.

Khi lập kế hoạch hoạt động cụ thể cần xác định: Những ai sẽ phải trực tiếp
tham gia thực hiện, những ai hỗ trợ, những ai là người cộng tác; trách nhiệm của
họ cụ thể như thế nào. Trong những trường hợp cần thiết thì mời ai phối hợp
giải quyết. Lưu ý những người có tác động tích cực đến đối tượng đích để có thể
mời phối hợp khi cần như: những tình nguyện viên, thầy cô giáo, cha mẹ, hội
phụ nữ, đoàn thanh niên…
Rà soát, xem xét các phương tiện, tài liệu truyền thông sẵn có, có thể tận
dụng, tránh lãng phí hoặc có kế hoạch phát triển nguồn tài liệu mới, đáp ứng nhu
cầu của đối tượng đích. Nếu cần phát triển tài liệu TT-GDSK mới, cần chú ý
một số nguyên tắc:
- Nội dung tương ứng với mục tiêu TT-GDSK, với nhu cầu đối tượng đích.
- Lượng thông tin cần và đủ tương ứng với nội dung phải biết (thông tin cốt
lõi, liên quan trực tiếp với vấn đề, nhu cầu của đối tượng), cần biết (thông
tin bổ trợ) và nên biết (thông tin giúp mở rộng hiểu biết).
- Phù hợp với đối tượng đích để tăng cường sự chú ý, dễ hiểu, dễ nhớ.
- Nguồn thông tin có giá trị, có cơ sở khoa học.
- Nêu rõ hành động có lợi sức khỏe, cách thức thực hiện phòng bệnh, nâng
cao sức khỏe cụ thể cho đối tượng; nhấn mạnh lợi ích của hành động và
nêu rõ khó khăn, thách thức có thể đối mặt và cách vượt qua.

379
Các hình thức TT-GDSK trực tiếp mặt đối mặt hay gián tiếp qua các
phương tiện truyền thông cần được xác định rõ và kết hợp hài hòa để tăng hiệu
quả TT-GDSK.
Kế hoạch đánh giá kết quả
Một phần quan trọng khác trong nội dung bản kế hoạch là phần đánh giá
kết quả thực hiện. Phần này nêu rõ chỉ số đánh giá chương trình, bao gồm:
- Các chỉ số đánh giá quá trình thực hiện các hoạt động cụ thể
- Các chỉ số đánh giá kết quả ngắn hạn
- Các chỉ số đánh giá tác động dài hạn
Mục tiêu đánh giá thể hiện qui mô, mức độ đánh giá và các hoạt động đánh
giá cụ thể được lập kế hoạch cụ thể (các chỉ số cần đo lường, nguồn thông tin,
công cụ thu thập thông tin, phương pháp thu thập thông tin, nhân lực, kinh phí,
phương tiện…).
1.5. Chuẩn bị thực hiện
Sau khi hoàn thành kế hoạch hoạt động với bảng kế hoạch hoạt động cụ
thể, cá nhân/đơn vị lập kế hoạch tổ chức lấy ý kiến của các bên liên quan, chỉnh
sửa, hoàn thiện và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nếu nhận được góp ý của
cấp thẩm quyền, tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thiện. Sau đó chủ động chuẩn bị sẵn
sàng nguồn lực cần thiết đã được lập kế hoạch, tương ứng với các nhóm hoạt
động để triển khai thực hiện như kế hoạch đề cập.
Bản kế hoạch TT-GDSK đã được phê duyệt là cơ sở để triển khai thực
hiện. Quá trình tổ chức thực hiện, theo dõi, giám sát và đánh giá sẽ được tiến
hành theo kế hoạch. Trong quá trình thực hiện, có thể bổ sung hoặc điều chỉnh
hoạt động cho phù hợp với mục tiêu TT-GDSK đã đề ra.
2. Tổ chức thực hiện hoạt động truyền thông sức khỏe, giáo dục sức khỏe
Hoạt động TT-GDSK có thể tiến hành một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
giữa người TT-GDSK với người dân hay đối tượng GDSK. Tùy thuộc số lượng
đối tượng đích và cách thức tương tác trực tiếp mặt đối mặt hay gián tiếp qua
các phương tiện truyền thông, các hoạt động TT-GDSK có thể thực hiện dưới
các hình thức: TT-GDSK với cá nhân, với nhóm và với cộng đồng; các cấp độ
này có thể tiến hành trực tiếp mặt đối mặt hoặc gián tiếp qua các phương tiện

380
truyền thông.
2.1. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với cá nhân
2.1.1. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với cá nhân
Đây là hình thức TT-GDSK mà người GDSK nói chuyện về sức khỏe,
cung cấp thông tin sức khỏe, hướng dẫn cách phòng bệnh cho một người dân
hoặc thuyết phục một đối tượng nào đó thực hiện hành vi sức khỏe cụ thể.
GDSK với cá nhân giúp người làm GDSK hiểu được vấn đề sức khỏe, nhu cầu
GDSK của đối tượng để từ đó cung cấp thông tin, giải thích, thuyết phục đối
tượng hành động. Đối tượng tiếp thu, nêu câu hỏi, thắc mắc và nhận được phản
hồi ngay.
Người GDSK cần chuẩn bị và vận dụng nhiều kĩ năng giáo dục, giao tiếp
(tạo mối quan hệ ban đầu; lắng nghe; hỏi; nói, trình bày, diễn đạt; giải thích;
đồng cảm; động viên…) để cùng với đối tượng đạt được mục tiêu GDSK. Hình
thức GDSK này dễ thực hiện, có thể tiến hành ở nhiều nơi và do người có nhiệm
vụ hoặc có khả năng làm GDSK thực hiện.
2.1.2. Tư vấn sức khỏe
Tư vấn sức khỏe là hình thức đặc biệt của GDSK với cá nhân. Phương
pháp này chú trọng tìm hiểu các đặc điểm tâm lí, mong đợi, chuẩn mực cá nhân;
vấn đề sức khỏe, nhu cầu giáo dục của đối tượng về kiến thức, kĩ năng; nhu cầu
trợ giúp; và dựa vào cơ sở này để cung cấp thông tin, nêu các giải pháp, hướng
dẫn cách thực hiện, giúp đối tượng hiểu rõ vấn đề, lợi ích, khó khăn của việc
thực hiện; trợ giúp, động viên đối tượng tự lựa chọn phương án phù hợp với
hoàn cảnh, điều kiện của họ.
Tư vấn sức khỏe đòi hỏi người tư vấn sức khỏe phải có kiến thức; kĩ năng
giáo dục, giao tiếp, tư vấn; kinh nghiệm và nhạy cảm để tạo sự tin cậy của đối
tượng để họ có thể bày tỏ vấn đề của họ, những gì họ quan tâm. Hiểu đúng đặc
điểm tâm lí, nhu cầu của đối tượng để có đáp ứng phù hợp là điều quan trọng
quyết định hiệu quả tư vấn.
Cần chú ý thực hiện một số nguyên tắc tư vấn sức khỏe như: tạo dựng mối
quan hệ tốt với đối tượng; xác định đúng nhu cầu của đối tượng; thấu hiểu và
đồng cảm với đối tượng; tôn trọng đối tượng; cung cấp đủ thông tin và nguồn hỗ

381
trợ cho đối tượng; động viên đối tượng tự quyết định, lựa chọn giải pháp và thực
hiện.
Quá trình tư vấn sức khỏe gồm các bước chính sau:
- Bước 1: Tạo mối quan hệ tốt với đối tượng
- Bước 2: Tìm hiểu vấn đề sức khỏe, mối quan tâm, nhu cầu của đối tượng.
- Bước 3: Cung cấp, chia sẻ thông tin sức khỏe, các giải pháp liên quan.
- Bước 4: Giúp đối tượng lựa chọn cách giải quyết vấn đề phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh của họ
- Bước 5: Giải thích, làm rõ các nội dung liên quan; giải đáp các thắc mắc;
trợ giúp, động viên đối tượng lập kế hoạch thực hiện
- Bước 6: Thống nhất kế hoạch hành động và những trợ giúp khác.
GDSK với cá nhân có thể được tiến hành với hình thức mặt đối mặt, trực
tiếp nhưng cũng có thể tương tác gián tiếp qua điện thoại, mạng xã hội. Phương
pháp GDSK này có thể giúp người GDSK lượng giá nhanh những thay đổi về
kiến thức, thái độ và thực hành của đối tượng nhưng cần nhiều thời gian và
nguồn lực để có thể tác động được nhiều đối tượng. Cần kết hợp với các phương
pháp GDSK khác để làm tăng hiệu quả GDSK.
2.2. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với nhóm
2.2.1. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với nhóm
Phương pháp TT-GDSK với nhóm tương tự như TT-GDSK với cá nhân
nhưng với một nhóm đối tượng đích. Hình thức này thường được áp dụng tại
cộng đồng hoặc tại các cơ sở y tế theo cách tổ chức riêng theo chuyên đề sức
khỏe hoặc lồng ghép trong các buổi họp cộng đồng dân cư hoặc họp người bệnh.
Trước khi tiến hành, người làm GDSK thường chuẩn bị những việc sau:
- Xác định rõ đối tượng tham gia (Họ là ai? Có vấn đề gì? Nhu cầu GDSK
của họ?). Hiểu rõ đối tượng tham gia giúp người GDSK xác định rõ chủ
đề sức khỏe sẽ nói chuyện, chuẩn bị nội dung tương ứng; xác định mục
tiêu GDSK phù hợp; chuẩn bị cách nói chuyện, cung cấp thông tin sức
khỏe.
- Chuẩn bị nội dung theo trật tự cần trình bày, các tài liệu truyền thông để
sử dụng hoặc phát cho đối tượng.

382
- Xác định thời gian, thời lượng cho các nội dung tương ứng.
- Chuẩn bị phương tiện hỗ trợ thích hợp (máy tính, màn hình, micro,
loa…).
- Chuẩn bị thời điểm và địa điểm tiến hành phù hợp.
Trong quá trình GDSK với nhóm cần chú ý tạo mối quan hệ tốt với đối
tượng thông qua việc chào hỏi, giới thiệu mục đích, ý nghĩa của buổi nói
chuyện; cần diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu; chú ý lắng nghe, quan sát đối tượng để
điều chỉnh cách trình bày, để trả lời câu hỏi của đối tượng. Chú ý thúc đẩy sự
tương tác, trao đổi giữa các thành viên và dành thời gian để người nghe được hỏi
về những gì chưa rõ và giải đáp phù hợp. Kết thúc buổi nói chuyện bằng cách
tóm tắt những nội dung quan trọng, cần nhớ, cần thực hiện; lượng giá nhanh đối
tượng nếu có điều kiện; đánh giá, ghi nhận sự tham gia của đối tượng.
2.2.2. Thảo luận nhóm về chủ đề sức khỏe
Một hình thức GDSK với nhóm đặc biệt hơn là “thảo luận nhóm về chủ đề
sức khỏe”. Quá trình thực hiện tương tự như GDSK với nhóm đã trình bày ở
trên. Đối tượng tham gia có chung một số đặc điểm cá nhân, vấn đề sức khỏe
hoặc nhu cầu sức khỏe cụ thể. Phương pháp GDSK này bên cạnh việc cung cấp
kiến thức, kĩ năng về một chủ đề sức khỏe nào đó cho nhóm đối tượng, còn
nhằm mục đích tìm hiểu mức độ kiến thức, thái độ, thực hành về một chủ đề sức
khỏe cụ thể; tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn hoặc rào cản khi thực hiện;
những yếu tố liên quan đến vấn đề; tìm hiểu cách giải quyết vấn đề phù hợp với
nhóm đối tượng để có cơ sở lập kế hoạch can thiệp.
Tiến trình thực hiện cần tạo điều kiện, dành thời gian để các thành viên
tương tác, trao đổi, thảo luận theo cấu trúc nội dung đã chuẩn bị để tìm được
những điểm chung, những giải pháp phù hợp với đặc điểm, nhu cầu của nhóm.
Người điều hành thảo luận nhóm về sức khỏe cần có những năng lực của
người GDSK như đã đề cập trong phương pháp GDSK với cá nhân cần có thêm
những kĩ năng tổ chức, điều hành hoạt động nhóm, giải quyết mâu thuẫn phát
sinh trong nhóm, thương thuyết, thuyết phục thực hiện.
2.2.3. Giáo dục sức khỏe với gia đình

383
GDSK với gia đình tương tự như phương pháp GDSK với nhóm nhưng các
thành viên trong nhóm chính là các thành viên trong cùng hộ gia đình. GDSK
với gia đình có thể là buổi nói chuyện về sức khỏe với gia đình về các vấn đề
sức khỏe mà cả gia đình cần quan tâm giải quyết tại hộ gia đình, ví dụ: nhân
viên y tế nói chuyện về phòng bệnh sốt xuất huyết cho các thành viên trong gia
đình hoặc nói chuyện về sức khỏe với người bệnh, người thân và những người
chăm sóc họ tại bệnh viện.
GDSK với gia đình có thể là buổi tư vấn sức khỏe cho các thành viên trong
gia đình, ví dụ: tư vấn chăm sóc sức khỏe và phòng lây nhiễm HIV cho gia đình
có người nhiễm HIV hoặc tư vấn chăm sóc giáo dục trẻ tự kỉ cho gia đình có trẻ
tự kỉ.
GDSK với gia đình thường diễn ra tại hộ gia đình nên có nhiều ưu điểm
như: nhân viên y tế tạo được mối quan hệ tốt với cả gia đình, quan sát trực tiếp
môi trường sống và các biểu hiện liên quan đến các vấn đề sức khỏe; các thành
viên có cảm giác yên tâm, tự tin hơn trong môi trường gia đình nên nêu ý kiến,
chia sẻ quan điểm dễ dàng hơn để từ đó người làm GDSK nêu các hướng dẫn,
gợi ý thực hiện phù hợp hơn.
Để GDSK tại gia đình hiệu quả hơn, cần tìm hiểu trước các thông tin cơ
bản, thông tin sức khỏe của hộ gia đình; lập kế hoạch GDSK tại hộ gia đình kĩ
lưỡng. Tiến trình thực hiện có thể theo trình tự:
- Mở đầu với những thăm hỏi chung, nêu rõ mục đích, ý nghĩa.
- Quan sát nhanh môi trường gia đình, phát hiện thêm các vấn đề sức khỏe,
các yếu tố ảnh hưởng.
- Thực hiện nói chuyện, giáo dục, tư vấn về các chủ đề đã chuẩn bị. Có thể
nói chuyện với từng thành viên hoặc trao đổi chung tuỳ từng nội dung.
- Phát hiện những người ốm đau, bệnh tật trong gia đình để thăm hỏi, tư
vấn.
- Kết thúc thăm và GDSK với gia đình: nhấn mạnh các điểm chính, quan
trọng; nếu thuận lợi lượng giá nhanh về những thông tin vừa trao đổi; thể
hiện sự sẵn sàng trợ giúp, cung cấp thông tin sức khỏe; động viên thực
hiện; ghi nhận, cảm ơn sự hợp tác của gia đình.
2.3. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với cộng đồng

384
GDSK với cộng đồng thường thực hiện ở qui mô rộng hơn, thông điệp,
thông tin sức khỏe tác động tới đông đảo người dân, gián tiếp thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng (báo in, tài liệu in; báo hình (các chương
trình trên truyền hình, internet, mạng xã hội); báo tiếng (đài, loa phát thanh).
GDSK với cộng đồng còn được thực hiện qua các sự kiện đại chúng, mít tinh, cổ
động về chủ đề sức khỏe, các thông điệp sức khỏe qua đó được truyền tải đến
đông đảo người dân, đối tượng đích.
Các hoạt động TT-GDSK với cộng đồng thường được tổ chức, tiến hành
nhân những ngày lễ, ngày kỉ niệm những sự kiện sức khỏe cụ thể như: Ngày
tiêm chủng, Ngày vitamin A (01/6), Ngày Thế giới không thuốc lá (31/5), Ngày
quốc tế phòng chống HIV/AIDS (01/12).... Trong những chiến dịch này, các
hoạt động sân khấu hóa, giải trí giáo dục như: ca múa nhạc, kịch, đố vui có
thưởng về các chủ đề sức khỏe được tổ chức nhằm thu hút đông đảo các thành
phần xã hội tham gia. Tờ rơi, sách nhỏ, các tài liệu/sản phẩm truyền thông khác
được phân phát cho nhiều người; treo nhiều băng rôn, nhiều bảng tin quảng cáo
lớn tại những nơi đông người tạo hiệu ứng truyền thông mạnh mẽ tới đối tượng.
Các phương pháp GDSK vừa nêu thường được tổ chức, kết hợp hài hòa
trong khuôn khổ nguồn lực cho phép để phát huy các ưu điểm, kiểm soát nhược
điểm của mỗi phương pháp, góp phần nâng cao hiệu quả TT-GDSK cho các
nhóm đối tượng đích, cho người dân nói chung.
3. Đánh giá hiệu quả buổi truyền thông, giáo dục sức khỏe
Đánh giá là sự định giá, khẳng định giá trị của một sự vật nào đó. Đánh giá
chương trình, hoạt động TT-GDSK là quá trình xác định kết quả đạt được so với
các kết quả mong đợi, các mục tiêu TT-GDSK đã xác định trước khi thực hiện.
Đánh giá hiệu quả của buổi TT-GDSK được hiểu là xem xét, đo lường mức độ
thay đổi về kiến thức, thái độ, dự định thay đổi, thực hiện hành vi sức khỏe cụ thể.
Đánh giá các hoạt động thường liên quan tới các hoạt động quan sát, thu
thập số liệu để xác định các hoạt động TT-GDSK diễn ra như thế nào, kết quả
đạt được so với các chỉ số đánh giá. Mục đích của đánh giá buổi TT-GDSK
thường nhằm xác định:
- Hoạt động TT-GDSK có được thực hiện theo kế hoạch không.
- Buổi TT-GDSK có đạt được mục tiêu đề ra không.
- Yếu tố nào dẫn đến thành công hay thất bại.

385
- Bài học kinh nghiệm để cải thiện hoạt động TT-GDSK
Buổi TT-GDSK cho một nhóm đối tượng đích cụ thể có thể được xem xét
quá trình thực hiện và kết quả thực hiện.
Quá trình thực hiện buổi TT-GDSK thường được xem xét các khía cạnh:
- Đối tượng tham gia: phù hợp không? Số lượng thế nào?.
- Thời gian, địa điểm tổ chức thực hiện phù hợp không?.
- Chủ đề TT-GDSK: rõ ràng, cụ thể không?
- Mục tiêu TT-GDSK: có đáp ứng các yêu cầu (SMART) không?.
- Nội dung, tài liệu, phương tiện chuẩn bị có đầy đủ, phù hợp không?
- Người TT-GDSK: năng lực như thế nào?
- Quá trình thực hiện buổi TT-GDSK như thế nào?
- Sự tham gia, phản ứng của đối tượng tham gia như thế nào?
- Sự hài lòng của đối tượng tham gia?
- Làm gì để cho buổi TT-GDSK tốt hơn, làm cho đối tượng hài lòng hơn?
Đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK thường thông qua kết quả đo lường các
chỉ số: sự nhớ lại các nội dung chính, các thông điệp sức khỏe chính; thái độ của
đối tượng đối với chủ đề, vấn đề sức khỏe và đối với hành động giải quyết vấn
đề, hành vi cần thực hiện; dự định thực hiện của đối tượng để giải quyết, cải
thiện vấn đề sức khỏe nào đó.
Để có thông tin đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK, các câu hỏi dưới dạng
hỏi đáp trực tiếp hoặc trên giấy sẽ được chuyển đến đối tượng tham gia để trả
lời. Kết quả trả lời câu hỏi sẽ được tổng hợp, phân tích để ước tính mức độ thay
đổi về kiến thức, xác định sự thay đổi về thái độ, dự định thực hiện và dự đoán
khả năng thay đổi hành vi của những đối tượng tham gia.
Nếu các buổi TT-GDSK đạt được mục tiêu đề ra sẽ góp phần đạt được mục
tiêu của chương trình TT-GDSK nói chung. Kết quả đánh giá cũng là bằng chứng
để thuyết phục và tranh thủ sự đồng tình hỗ trợ của các bên liên quan. Giải trình
cho việc sử dụng nguồn lực, đánh giá hoạt động chỉ ra hoạt động có tương xứng
với nguồn lực đầu tư không, tính chi phí hiệu quả chấp nhận được không.
3.1. Xác định mục tiêu, phạm vi đánh giá
Mục tiêu đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK cho một nhóm đối tượng nhất
định thường nhằm xem xét quá trình thực hiện buổi TT-GDSK hoặc ước tính

386
những thay đổi về kiến thức, thái độ và dự định hành động phòng bệnh, nâng
cao sức khỏe của đối tượng tham gia.
Tùy thuộc nguồn lực và mục đích của người quản lí, người làm TT-GDSK
để quyết định xem xét cả quá trình thực hiện và kết quả thực hiện hoặc chỉ tập
trung vào kết quả của buổi TT-GDSK.
Phạm vi đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK phản ánh qua mong muốn xem
xét tất cả các chỉ số về kiến thức, thái độ, dự định, hành vi của đối tượng đích
hoặc chỉ tập trung vào đo lường mức độ thay đổi kiến thức hoặc chỉ xem xét dự
định hành động như thế nào. Phạm vi cũng thể hiện mức độ đánh giá kiến thức
toàn diện về vấn đề sức khỏe hay chỉ tập trung đo lường kiến thức về phòng
bệnh. Nếu là đánh giá quá trình thực hiện buổi TT-GDSK thì phạm vi đánh giá
thể hiện mức độ đánh giá cả tiến trình thực hiện hay chỉ tập trung vào quá trình
truyền tải nội dung và tài liệu sử dụng, v.v.
3.2. Xác định các chỉ số đánh giá
Chỉ số đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK bao gồm:
- Tỉ lệ đối tượng tham gia nói đúng các nội dung chính hoặc các thông điệp
sức khỏe chính của buổi TT-GDSK.
- Số lượng, tỉ lệ đối tượng tham gia thể hiện thái độ tích cực đối với hành
động cần thực hiện vì mục đích phòng bệnh.
- Tỉ lệ đối tượng tham gia có dự định thực hiện hành động khuyến cáo để
phòng bệnh, nâng cao sức khỏe.
- Số lượng, tỉ lệ đối tượng thực hiện đúng hành động khuyến cáo thực hiện.
3.3. Phương pháp đánh giá.
Để có thông tin nhằm phân tích, xác định kết quả thực hiện, cần xây dựng
công cụ thu thập thông tin. Nhiều câu hỏi tương ứng, liên quan với các chỉ số
đánh giá hiệu quả TT-GDSK nêu trên được viết ra và thể hiện trong bảng câu
hỏi. Bảng câu hỏi được sử dụng để hỏi người tham gia buổi TT-GDSK một cách
trực tiếp để thu thập câu trả lời hoặc phát cho đối tượng đọc và trả lời.
Những câu hỏi có thể đặt ra khi đánh giá hiệu quả TT-GDSK là:
- Nêu các dấu hiệu, triệu chứng chính của bệnh?
- Nêu các nguyên nhân của bệnh?
- Nêu các biện pháp phòng bệnh?

387
- Tin vào lợi ích của các hoạt động phòng bệnh? Mức độ?
- Mức độ sẵn sàng, tự nguyện tham gia hoạt động phòng bệnh?
- Có dự định thực hiện không? Khi nào?
Các hình thức hỏi, đáp trực tiếp; trả lời câu hỏi trên giấy hoặc trả lời câu
hỏi trực tuyến có thể áp dụng để thu thập thông tin phục vụ mục đích đánh giá.
Có thể quan sát và sử dụng bảng kiểm để đánh giá thái độ hoặc hành động/hành
vi sức khỏe của đối tượng.
Tùy nguồn lực chuẩn bị cho hoạt động đánh giá, có thể áp dụng phương
pháp nghiên cứu định lượng để điều tra thu thập thông tin trên tất cả các đối
tượng tham gia và phân tích kết quả, hoặc áp dụng phương pháp nghiên cứu
định tính để phỏng vấn hoặc thảo luận với một số đối tượng tham gia để từ đó
ước tính hiệu quả đạt được từ một buổi hoặc một số buổi TT-GDSK trong
chương trình nâng cao sức khỏe chung.
CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG
Câu 1: Trình bày quá trình lập kế hoạch và chuẩn bị thực hiện hoạt động truyền
thông, giáo dục sức khỏe?
Câu 2: Trình bày các chỉ số và phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động truyền
thông, giáo dục sức khỏe?
Câu 3: Trình bày các chỉ số và phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động truyền
thông, giáo dục sức khỏe.?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2006). Khoa học hành vi và Giáo dục sức khỏe. Tài liệu đào tạo cử
nhân Y tế công cộng.
2. Trường Đại học Y tế công cộng (2013). Đánh giá chương trình nâng cao sức
khỏe. NXB Lao động-Xã hội.
3. WHO (2012). Giáo dục sức khỏe: Lí thuyết, những chiến lược hiệu quả và
những năng lực cốt lõi (biên dịch).

388
CHUYÊN ĐỀ 9
KIỂM SOÁT YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ PHÒNG CHỐNG DỊCH TRONG
THẢM HỌA

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 8 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chuyên đề này, hoc viên có khả năng:
1. Trình bày được một số thuật ngữ cơ bản sử dụng trong quản lý nguy cơ thảm
họa.
2. Trình bày được qui trình đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe của cộng đồng bị
tác động bởi thảm họa.
3. Lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch đánh giá nhanh nguy cơ sức khỏe của
cộng đồng chịu tác động của thảm họa.
NỘI DUNG
1. Một số thuật cơ bản về thảm họa
Bảy thuật ngữ cơ bản thường được sử dụng trong quản lý thảm họa bao gồm:
- Hiểm họa
- Cộng đồng
- Tính dễ bị tổn thương
- Nguy cơ
- Năng lực (sự chuẩn bị sẵn sàng đáp ứng với tình trạng khẩn cấp/thảm họa)
- Tình huống khẩn cấp
- Thảm họa

389
Các tác giả khác nhau có thể định nghĩa những thuật ngữ này theo các cách
khác nhau (WHO, 1999). Tuy nhiên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các khía
cạnh chung trong những định nghĩa. Những điểm chung trong các định nghĩa
khác nhau về những thuật ngữ trên được tóm tắt dưới đây:
Hiểm họa (Hazard)
Hiểm họa là khả năng gây hại tiềm tàng. "Hiểm họa là bất cứ hiện tượng
nào có khả năng phá vỡ hay gây thiệt hại cho con người và môi trường" (WHO,
1999, tr.31). Nói cách khác, hiểm họa là hiện tượng/sự kiện có thể gây chết
người, chấn thương và gây thiệt hại về kinh tế hay phá hủy môi trường. Ví dụ:
bão, lũ lụt, động đất, cháy, sóng thần, núi lửa phun, rò rỉ hóa chất độc hại, rõ rỉ
chất phóng xạ, tràn dầu…
Có một số cách phân loại hiểm họa khác nhau cùng tồn tại. Về cơ bản hiểm
họa có thể chia làm 2 loại là hiểm họa tự nhiên (bão, lụt, động đất,…) và hiểm
họa do con người gây ra (cháy, nổ, sập công trình xây dựng,…). Một cách phân
loại khác là dựa vào bản chất hiểm họa, người ta có thể phân làm bốn loại sau:
Hiểm họa tự nhiên (lũ lụt, động đất, bão,…)
Hiểm họa kĩ thuật (hiểm họa hạt nhân, xây dựng, …)
Hiểm họa sinh học (bệnh dịch: bệnh than, đậu mùa, …)
Hiểm họa xã hội (chiến tranh, khủng bố, bạo động, …)
Cộng đồng (Community)
Theo nghĩa thông thường, cộng đồng được hiểu là một nhóm người sống
trong một khu vực địa lý, có tổ chức xã hội và hành chính, có chia sẻ về nguồn
lực và trách nhiệm. Trong lĩnh vực quản lý thảm họa, cộng đồng bao gồm năm
thành phần sau đây:
- Người
- Tài sản (tài sản cá nhân, cơ sở hạ tầng)
- Dịch vụ (dịch vụ hành chính, y tế, du lịch, thương mại, giao thông vận
tải v.v)
- Sinh kế (nghề nghiệp, phương thức kiếm sống)

390
- Môi trường (tự nhiên và xã hội)
Tính dễ bị tổn thương (Vulnerability)
Tính dễ bị tổn thương là tính nhạy cảm của cộng đồng với một loại hiểm
họa nhất định. Tính dễ bị tổn thương liên quan tới mức độ thiệt hại hay hậu quả
có thể xảy ra khi một hiểm họa tác động tới cộng đồng. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng tới tính dễ bị tổn thương của một cộng đồng, ví dụ: đặc điểm địa lý, nhân
khẩu, tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, khả năng hồi phục của môi trường,
trình độ phát triển khoa học kĩ thuật, sự khác biệt về xã hội, cũng như nền kinh
tế, chính trị của vùng và toàn cầu.
Yếu tố địa lý: đặc điểm địa lý là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tính dễ bị
tổn thương. Ví dụ: cộng đồng sống ở vùng đất thấp (đồng bằng sông Cửu Long)
dễ bị tổn thương bởi lũ lụt; cộng đồng sống gần sông suối, khe núi ở vùng núi
phía Bắc dễ bị tổn thương bởi lũ quét và sạt lở đất; cộng đồng sống ở vùng ven
biển miền Trung dễ bị tổn thương bởi bão, lụt.
Yếu tố đặc điểm sinh học: người già, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật là những
người có nhiều hạn chế trong việc tự di chuyển và thực hiện các biện pháp để
bảo vệ chính mình, do đó nhóm người này dễ bị tổn thương trước những hiểm
họa hơn so với những nhóm người khác.
Tuy nhiên, những cộng đồng cùng sống trong những vùng địa lý giống
nhau nhưng trình độ phát triển khoa học kĩ thuật khác nhau thì tính dễ bị tổn
thương cũng sẽ khác nhau. Ví dụ: nếu cộng đồng sống tại vùng ven biển miền
Trung sống trong những ngôi nhà được thiết kế và xây dựng đúng tiêu chuẩn có
thể chịu được bão lớn thì tính dễ bị tổn thương của cộng đồng đó sẽ được giảm
đi. Ví dụ: ở Nhật Bản, một đất nước có nền khoa học kĩ thuật phát triển nhưng
lại thường có động đất. Tại những vùng hay xảy ra động đất, các công trình xây
dựng đều phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn để có thể không sụp đổ khi có động
đất xảy ra với một cường độ nhất định. Kết quả là tính dễ bị tổn thương của các
công trình xây dựng và dân cư trong khu vực được giảm đi.
Kinh tế, trình độ khoa học và khả năng/ sự chuẩn bị sẵn sàng của cộng
đồng là yếu tố cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến tính dễ bị tổn thương của cộng
đồng. Ví dụ: mặc dù động đất ở Chi Lê (27 tháng 2 năm 2010) có cường độ cao
hơn động đất ở Haiti (13 tháng 1 năm 2010) nhiều lần nhưng thiệt hại về người

391
lại rất nhỏ (hơn 700 người chết) so với thiệt hại về người do động đất ở Haiti
(trên 200.000 người chết). Nguyên nhân chính là do Chi Lê có nền kinh tế phát
triển hơn nên có điều kiện xây dựng những công trình bảo đảm chống được
động đất, trong khi đó ở Haiti, do hạn chế về kinh tế nên phần lớn các công trình
không được xây dựng đủ tiêu chuẩn để chống được động đất. Hơn nữa, Chi Lê
nằm trong khu vực có nguy cơ động đất cao hơn nên ngoài việc các công trình
được xây dựng đủ tiêu chuẩn chống động đất, cộng đồng còn thường xuyên
được đào tạo, diễn tập phòng chống tác hại động đất nên khi có động đất xảy ra,
người dân đã đáp ứng nhanh, hiệu quả dẫn đến số người bị thiệt mạng được
giảm thiểu.
Nguy cơ (Risk)
Nguy cơ là khả năng một hậu quả không mong muốn có thể xảy ra khi
hiểm họa tác động đến cộng đồng. Những hậu quả đó là khả năng bị tử vong, bị
thương, mắc bệnh, bùng phát dịch, ảnh hưởng tâm lý, sức khỏe tâm thần, cơ sở
vật chất bị hư hỏng hay phá hủy. Nguy cơ có thể được xem như sự tương tác
giữa hiểm họa và tính dễ bị tổn thương. Sự tương tác này có thể được minh họa
bằng mô hình sau đây:
/
Từ mô hình trên ta có thể thấy: nếu có hiểm họa nhưng không có tính dễ bị
tổn thương, thì sẽ không có thảm họa và nếu có tính dễ bị tổn thương nhưng
không có hiểm họa thì cũng không có thảm họa. "Một thảm họa xảy ra khi có
một số lượng lớn người dễ bị tổn thương trải qua một hiểm họa và chịu những
thiệt hại và/hoặc sự phá vỡ nghiêm trọng nguồn sống của họ ở mức không thể
hồi phục được nếu không có sự trợ giúp từ bên ngoài" (Blaikie và cs. 1994, tr.
21). Nếu cộng đồng có khả năng ứng phó cao, đồng nghĩa với tính dễ bị tổn
thương giảm đi thì nguy cơ sẽ giảm. Như vậy, hiểm họa luôn tồn tại, không thể
loại trừ được hết hiểm họa, do đó tăng khả năng ứng phó của cộng đồng, giảm
tính dễ bị tổn thương là trung tâm của quản lý thảm họa.
Năng lực (sự chuẩn bị sẵn sàng - Capacity/Readiness)
Chuẩn bị sẵn sàng là yếu tố quyết định mức độ nghiêm trọng và khả năng
quản lý những hậu quả của thảm họa. Chuẩn bị sẵn sàng làm cho cộng đồng sẵn
sàng với một thảm họa có thể xảy ra. Năng lực ứng phó của cộng đồng đối với

392
thảm họa bao gồm tất cả những nguồn lực của cộng đồng (kiến thức, kỹ năng,
khoa học kỹ thuật, tài chính, luật pháp…) và những hoạt động nhằm giảm nguy
cơ. Năng lực cũng bao gồm sự thích ứng với các hiểm họa của cộng đồng và khả
năng phục hồi sau thảm họa. Sau đây là một số ví dụ về một số hoạt động chuẩn
bị sẵn sàng ứng phó với thảm họa:
- Đào tạo cán bộ y tế nhằm nâng cao năng lực quản lý thảm họa
- Truyền thông, giáo dục cộng đồng biết cách trú ẩn, thoát ra khỏi vùng
nguy hiểm khi có động đất, lũ lụt, cháy v.v.
- Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm (còi báo động, kẻng, hệ thống thông
tin v.v.)
- Xây dựng hệ thống thông tin trong tình trạng khẩn cấp
- Chuẩn bị sẵn sàng trang thiết bị y tế, thuốc, phương tiện,….
- Trang bị túi thuốc cấp cứu gia đình
- Chuẩn bị những vật dụng cần thiết trong trường hợp bị lụt (lương thực,
chất đốt, đèn pin, quần áo v.v.)
- Lập kế hoạch sơ tán, kế hoạch tìm kiếm cứu nạn, kế hoạch quản lý chấn
thương hàng loạt v.v.
- Lập kế hoạch quản lý sức khỏe môi trường, phòng chống dịch bệnh sau
thảm họa
- Diễn tập v.v
Tình huống khẩn cấp (Emergency)
Là một sự kiện xảy ra đòi hỏi phải có những hành động đáp ứng ngay lập
tức để phòng và giảm tác động của sự kiện đó đối với tính mạng, tài sản và môi
trường. Trong tình trạng khẩn cấp, cộng đồng vẫn đủ nguồn lực và khả năng đáp
ứng với tình trạng này, chưa cần đến sự trợ giúp từ bên ngoài. Ví dụ: một cơn
bão cấp 12 sắp đổ bộ vào các tỉnh miền Trung trong 12 giờ tới, một vụ động đất
cấp 8 xảy ra trên biển có cảnh báo sóng thần, ... Những sự kiện này đều đòi hỏi
cộng đồng có hành động ứng phó ngay lập tức (sơ tán khỏi vùng nguy hiểm…).
Thảm họa (Disaster)

393
Hiện nay có nhiều định nghĩa về thảm họa được sử dụng bởi các nhà khoa
học và các tổ chức khác nhau sử dụng. Những định nghĩa cho thấy khó có thể có
một định nghĩa về thảm họa duy nhất được toàn thế giới chấp nhận. Mặc dù
không có một định nghĩa duy nhất về thảm họa được mọi người công nhận,
nhưng một số nội dung chính mà các định nghĩa nêu trên đều đề cập tới là:
- Phá vỡ mối quan hệ giữa con người và môi trường (tự nhiên và xã hội).
- Gây ra những tổn thất lớn về người, vật chất, cơ sở hạ tầng và môi
trường.
- Vượt quá khả năng của cộng đồng bị ảnh hưởng để ứng phó với thảm
họa bằng chính các nguồn lực của cộng đồng.
- Cần có sự trợ giúp bên ngoài.
Như vậy, hiểm họa là mối nguy hại tiềm tàng trong khi thảm họa là sự kiện
đã xảy ra, tác động và gây thiệt hại cho cộng đồng nơi thảm họa xảy ra. Ví dụ:
 Cơn bão số 7 (bão Damrey) đổ bộ vào một số tỉnh miền Bắc Việt Nam
ngày 26-27 tháng 9 năm 2005 làm 69 người chết, phá hủy hàng chục
nghìn ngôi nhà.
 Sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ ngày 27 tháng 9 năm 2007 làm thiệt mạng
52 người.
 Lũ quét xảy ra tại một số tỉnh miền núi phía Bắc (Yên Bái, Lào Cai,
Lạng Sơn) vào tháng 8 năm 2008 đã làm chết trên 100 người.
 Động đất sóng thần xảy ra vào cuối tháng 12 năm 2004 tại châu Á đã
làm trên 200.000 người chết.
 Bão Ketsana (bão số 9) đổ bộ vào miền Trung, Việt Nam ngày 29
tháng 9 năm 2009 làm gần 200 người chết, hàng ngàn người bị thương.
Thiệt hại kinh tế lên tới hơn 14.000 tỷ đồng.
 Động đất mạnh 7 độ Richter tại Haiti ngày 13 tháng 1 năm 2010 làm
thiệt mạng hơn 200.000 người.

394
 Thảm họa ô nhiễm môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung xảy ra vào
tháng 04 năm 2016 gây thiệt hại nghiêm trọng mội trường biển, ảnh
hưởng sinh kế của ngư dân, ảnh hưởng đến tình hình xã hội.
 Lũ lụt tại miền Trung trong tháng 12/2016 làm tử vong hơn 100 người
và thiệt hại kinh tế hàng chục nghìn tỷ đồng.
Các định nghĩa trên đây về bảy thuật ngữ cơ bản được tóm tắt trong Bảng
1.
Bảng 1. Tóm tắt định nghĩa bảy thuật ngữ cơ bản
Khung logic các thuật ngữ cơ bản
Hiểm họa (Hazard) Nguy cơ (Risk)
Bất kì mối đe dọa tiềm tàng nào đối Những hậu quả có thể xảy ra khi
với an toàn/sức khỏe của cộng đồng hiểm họa tác động tới cộng đồng
Tình huống khẩn cấp (Emergency) Tính dễ bị tổn thương
Bất kì mối đe dọa thực sự nào đối (Vulnerability)
với an toàn/sức khỏe của cộng đồng Những yếu tố quyết định mức độ
nghiêm trọng của những hậu quả của
thảm họa
Thảm họa (Disaster) Năng lực (Capacity)
Là tình huống khẩn cấp trong đó nhu Là yếu tố quyết định mức độ nghiêm
cầu của cộng đồng vượt quá khả trọng và khả năng quản lý những hậu
năng đáp ứng của cộng đồng bị ảnh quả của thảm họa.
hưởng, do đó cần sự hỗ trợ từ bên
ngoài (quốc gia hoặc quốc tế).
Cộng đồng (Community): người, tài sản, dịch vụ, sinh kế và môi trường
(những yếu tố phơi nhiễm với hiểm họa)
2. Phương pháp đánh giá nhu cầu sức khỏe trong thảm họa
2.1.Khái niệm về đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe trong thảm họa
Trong tình huống thảm họa, việc đưa ra những quyết định can thiệp nhanh
và phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu sức khỏe của cộng đồng bị ảnh hưởng là hết

395
sức cần thiết. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đã có nhiều can thiệp kém hiệu quả,
không hướng tới đúng nhóm đối tượng có nhu cầu cao nhất, không cung cấp
đúng những hỗ trợ cần thiết hoặc đáp ứng chậm với nhu cầu cấp bách của cộng
đồng v.v. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là việc ra quyết định không
thực sự dựa trên những thông tin thực tế, đáng tin cậy hoặc do không có đầy đủ
thông tin cần thiết cho quá trình ra quyết định. Vì vậy, việc thu thập thông tin,
đánh giá nhu cầu của cộng đồng sau thảm họa là cần thiết. Đánh giá nhanh là
một phương pháp thường được áp dụng. Đánh giá nhanh “là thu thập các thông
tin khách quan và chủ quan nhằm đo lường được các tổn thất và xác định
được các nhu cầu thiết yếu của cộng đồng bị thiên tai, thảm họa tác động
đang cần được giúp đỡ” (WHO, 1999).
Mục tiêu của đánh giá nhanh: mục tiêu của đánh giá nhanh là cung cấp
cho người ra quyết định những thông tin cần thiết để họ có thể đưa ra những can
thiệp kịp thời và phù hợp nhằm mục đích:
 Giảm số người tử vong
 Giảm số người chấn thương
 Duy trì việc cung cấp các nhu cầu thiết yếu và dịch vụ y tế cho cộng
đồng bị ảnh hưởng
 Ngăn chặn sự lây lan của bệnh dịch
 Hỗ trợ công tác lập kế hoạch phục hồi sau thảm họa
Mặc dù đánh giá nhanh nhu cầu y tế trong tình huống thảm họa có vai trò
quan trọng trong việc cung cấp những thông tin cần thiết cho việc lập kế hoạch
đáp ứng nhu cầu của cộng đồng bị tác động bởi thảm họa, không nhất thiết phải
tiến hành đánh giá nhanh nếu hệ thống thông tin y tế bảo đảm cung cấp đầy đủ
những thông tin cần thiết cho việc lập kế hoạch đáp ứng nhu cầu của cộng đồng.
Hệ thống thông tin y tế hiện tại thường sẵn có nhiều thông tin quan trọng mà các
nhà quản lý y tế có thể sử dụng để ra quyết định, do đó trong quá trình tiến hành
đánh giá nhanh, nhóm đánh giá cũng cần chú ý khai thác những thông tin sẵn có
trong hệ thống thông tin y tế. Việc này cũng giúp tiết kiệm nguồn lực trong bối
cảnh khẩn cấp.
2.2.Phương pháp đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe trong thảm họa

396
Đánh giá nhanh có thể được chia thành 5 bước như sau:

1. Lập kế hoạch đánh giá nhanh


//
2. Thu thập số liệu tại thực địa

/3. Phân tích số liệu


/
4. Viết báo cáo

5. Chia sẻ và sử dụng kết quả đánh giá

Bước 1: Lập kế hoạch đánh giá nhanh


Thảm họa thường xảy ra bất ngờ, đòi hỏi đáp ứng nhanh, tuy nhiên để
những hoạt động đáp ứng có hiệu quả thì việc chuẩn bị sẵn sàng là hết sức quan
trọng. Một trong những hoạt động chuẩn bị sẵn sàng là lập kế hoạch. Cũng như
đối với bất kì hoạt động nào, lập kế hoạch đánh giá nhanh bảo đảm cho việc
thực hiện đánh giá nhanh một cách hiệu quả. Trong quá trình lập kế hoạch đánh
giá nhanh, những nội dung sau đây cần được chú ý:
- Xác định mục tiêu đánh giá: đánh giá nhanh nhằm mục tiêu xác định
thiệt hại và nhu cầu y tế của cộng đồng bị ảnh hưởng, cung cấp thông tin cần
thiết cho việc lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động đáp ứng nhu cầu của cộng
đồng bị ảnh hưởng bởi thảm họa. Các mục tiêu cần được ghi rõ trong bản kế
hoạch đánh giá nhanh cũng như trong báo cáo đánh giá nhanh sau này.
- Xác định thời gian và địa điểm đánh giá: đánh giá nhanh cần được tiến
hành sau khi thảm họa xảy ra càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, nhóm đánh giá cần
cân nhắc các điều kiện cần thiết cho phép thực hiện đánh giá tại thực địa. Những
điều kiện đó là: tình hình diễn biến của thảm họa (Nhóm đánh giá có thể tiếp cận
cộng đồng trong điều kiện hiện tại hay không? Có mối nguy hiểm nào cho đoàn
đánh giá hay không?). Địa điểm đánh giá được xác định phụ thuộc vào mục tiêu

397
cụ thể của đợt đánh giá và yêu cầu của các bên liên quan (Sở y tế, Bộ Y tế, Tổ
chức Y tế thế giới v.v.). Thông thường đánh giá nhanh chỉ được thực hiện trong
một phạm vi địa lý hạn chế vì nguồn lực và thời gian có hạn. Những nơi chịu
thiệt hại nặng nề nhất thường được ưu tiên đánh giá. Nhóm đánh giá nhanh cần
tính toán cụ thể thời gian cần sử dụng cho di chuyển và tiếp cận địa điểm đánh
giá. Trong tình huống khẩn cấp, tiếp cận cộng đồng có thể mất khá nhiều thời
gian nếu không có phương tiện phù hợp cũng như nhận được sự hỗ trợ của các
ban ngành liên quan.
- Thành lập nhóm đánh giá: thành viên nhóm đánh giá nên được lựa chọn
theo các nội dung đánh giá và đặc điểm của tình huống thiên tai, thảm họa. Với
những điểm chung về hậu quả y tế công cộng của các thảm họa thì một nhóm
đánh giá nhanh cần có các chuyên gia trong các lĩnh vực như dịch tễ học, nước
sạch và vệ sinh môi trường, dinh dưỡng, quản lý bệnh truyền nhiễm và không
truyền nhiễm, viện trợ nhân đạo và quản lý thảm họa. Các thành viên nhóm đánh
giá cần được đào tạo trước đó trong các khóa tập huấn về đánh giá nhanh nhu
cầu y tế trong thảm họa và phải được phân công nhiệm vụ rõ ràng. Các thành
viên trong nhóm đánh giá cần được lựa chọn theo những tiêu chí khác nhau
nhằm đảm bảo đa dạng, khả năng làm việc hiệu quả nhất, có thể ứng phó được
với những tình huống phức tạp trong thảm họa với những kinh nghiệm trong
lĩnh vực chuyên môn riêng của từng cá nhân. Một bảng phân công vai trò của
từng thành viên trong nhóm đánh giá cần được xây dựng và phổ biến cho mọi
thành viên trước khi xuống thực địa. Để thống nhất các nội dung đó, cả nhóm
cùng với đơn vị liên quan cần có một buổi họp để thảo luận về vai trò phù hợp
với năng lực làm việc của từng cá nhân trong nhóm đánh giá. Các tiêu chí chọn
thành viên nhóm đánh giá có thể là:
 Quen thuộc với khu vực hoặc cộng đồng bị ảnh hưởng
 Có kiến thức, kinh nghiệm về đánh giá nhanh
 Các kĩ năng phân tích thông tin
 Khả năng đưa ra các quyết định đúng
- Lựa chọn phương pháp và chuẩn bị công cụ đánh giá: thông thường,
không phải tất cả các kĩ thuật đánh giá nhanh đều được áp dụng trong mọi cuộc
đánh giá nhanh nhu cầu y tế trong tình huống thảm họa. Phương pháp và công

398
cụ thu thập thông tin phụ thuộc vào loại thông tin cần thu thập. Công cụ đánh
giá phụ thuộc vào phương pháp đánh giá được lựa chọn. Một số kĩ thuật thường
được sử dụng là: quan sát (bảng kiểm, giấy bút để ghi chép và vẽ sơ đồ, máy
ảnh, máy quay video); phỏng vấn nhanh cộng đồng, người cung cấp thông tin
chính (bản hướng dẫn nội dung phỏng vấn); thảo luận nhóm (bản hướng dẫn
thảo luận nhóm); thu thập số liệu sẵn có (mẫu thu thập số liệu sẵn có: số người
tử vong, số người bị thương, số người bị ốm v.v). Sau khi xác định những thông
tin cần được thu thập, nhóm đánh giá phải xác định nguồn thu thập thông tin (từ
sổ sách báo cáo của y tế, các bên liên quan, lãnh đạo y tế, lãnh đạo địa phương
v.v).
- Những thông tin chính cần thu thập: dưới đây là những nhóm thông tin
chính cần thu thập trong bất kì cuộc đánh giá nhanh nào, tuy vậy nhóm đánh giá
không nên chỉ giới hạn trong việc thu thập những thông tin này mà còn có thể
thu thập những thông tin liên quan khác tùy theo nhu cầu thực tế. Với mỗi nhóm
thông tin được liệt kê trong kế hoạch đánh giá, nhóm cần xác định rõ khoảng
thời gian cần thiết để hoàn thành việc thu thập thông tin. Khoảng thời gian cần
thiết để thu thập thêm các thông tin chi tiết sau đánh giá ban đầu cũng cần được
xác định rõ ràng trong khâu lập kế hoạch. Nhờ việc xác định rõ khoảng thời gian
cho mỗi nhóm hoạt động nhỏ, nhóm đánh giá nhanh có thể ước lượng tổng thời
gian có thể hoàn thành đánh giá nhanh.
 Mô tả thảm họa
- Tính chất
- Địa điểm
- Thời gian
- Phạm vi ảnh hưởng
- Chiều hướng
 Dân số, sức khỏe
- Số lượng, đặc điểm tuổi giới, dân tộc v.v
- Số mắc, số chết, chấn thương (loại chấn thương, nguyên nhân,
tuổi và giới v.v.)

399
 Nhu cầu cơ bản
– An ninh
– Lương thực, nước sạch
– Chỗ ở & điều kiện vệ sinh (nhà vệ sinh, nhà tắm v.v.)
– Quần áo, chăn màn
– Dụng cụ nấu ăn, chất đốt
– Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ (khám, chữa bệnh, thuốc, chăm sóc
tâm lý, VSMT v.v.)
 Khả năng đáp ứng của cộng đồng và những hoạt động đáp ứng hiện có
- Chuẩn bị hậu cần cho đoàn đánh giá: phương tiện đi lại, trang thiết bị
bảo hộ, lương thực, nước uống, phương tiện thông tin liên lạc, thuốc và dụng cụ
cấp cứu thông thường. Nguồn kinh phí được chuẩn bị sẵn hoặc có cơ chế huy
động được xác định rõ ràng trước khi cần dùng cho việc chuẩn bị hậu cần để các
thành viên đoàn đánh giá có thể tiếp cận và làm việc tại thực địa. Tại Việt Nam,
hiện tại các hoạt động đánh giá nhanh tác động của thiên tai, thảm họa và nhu
cầu hỗ trợ thường được tổ chức thực hiện và cung cấp kinh phí bởi mạng lưới
các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Y tế thế giới, các tổ chức phi
chính phủ trong nước và quốc tế, cũng là các tổ chức hoạt động tích cực nhất
trong Nhóm làm việc về quản lý thảm họa tại Việt Nam (Disaster Management
Working Group-DMWG). Tại địa bàn xảy ra thảm họa, tình hình có thể phức
tạp và khó kiểm soát có thể làm nảy sinh nhiều nguy cơ cho bản thân nhóm đánh
giá. Do vậy, người phụ trách nhóm đánh giá cần liên hệ với chính quyền địa
phương để được đảm bảo về mặt an ninh: thư giới thiệu, văn bản xác nhận,
những yếu tố cá nhân. Liên hệ trước với các bên liên quan tại thực địa để thống
nhất kế hoạch và các hoạt động phối hợp.
- Các vấn đề khác cần quan tâm: bản đồ vùng bị ảnh hưởng, vùng sẽ đến
đánh giá, những thông tin sẵn có về vùng sẽ đến đánh giá: phạm vi ảnh hưởng,
tình hình tiến triển của thảm họa, mức độ thiệt hại về người, cơ sở y tế, giao
thông, thông tin liên lạc,…

400
Bước 2: Thu thập số liệu tại thực địa
Một số điều cần lưu ý trong quá trình thu thập thông tin tại cộng đồng
- Cần liên hệ với lãnh đạo địa phương và thông báo về kế hoạch đánh giá
nhanh, giới thiệu nhóm đánh giá, mục tiêu, phương pháp tiến hành đánh giá
nhanh
- Tham khảo ý kiến của cộng đồng bị ảnh hưởng
- Tìm ra những nhu cầu cụ thể, tính dễ bị tổn thương của các nhóm khác
nhau (đàn ông, phụ nữ, người già, trẻ em v.v.)
- Kiểm tra tính chính xác của thông tin: sự kiện, ý kiến, tin đồn v.v.
- Xem xét những thông tin không chính xác
- Xác định các nhóm bị cách ly để đảm bảo họ sẽ nhận được hỗ trợ
- Nắm được những thay đổi và chiều hướng tác động đến cộng đồng
- Cảnh báo/chuẩn bị cho những sự kiện không mong muốn có thể xảy ra
- Nghiên cứu tác động của thảm họa trên toàn cộng đồng
- Trong quá trình đánh giá, cần dự đoán các thông tin sẽ được sử dụng ra sao
- Cân nhắc thời gian tiến hành đánh giá tại thực địa
Lập kế hoạch theo ngày phụ thuộc vào tình hình thực tế:
- Lập danh mục các thông tin cần được thu thập: mỗi ngày trong tình huống
thảm họa có thể làm phát sinh ra những nhu cầu thu thập thông tin khác nhau
nhằm nắm bắt được tình huống thảm họa để có thể đưa ra quyết định khẩn cấp.
Do đó, vào đầu mỗi ngày làm việc tại thực địa, nhóm đánh giá cần lập ra danh
mục các thông tin cần thu thập trong ngày. Kế hoạch thu thập chuẩn bị từ trước
do đó có thể được sửa đổi sau mỗi ngày làm việc.
- Nguồn thông tin: xác định các nguồn thông tin có thể tiếp cận để tiến
hành quá trình thu thập thông tin. Cần xác định các yếu tố thuận lợi và khó khăn
khi tiếp cận với các nguồn thông tin khác nhau trong cộng đồng để đưa ra một
kế hoạch thu thập phù hợp.

401
- Xác định người được phỏng vấn: khi đã xác định được người cần phỏng
vấn, nhóm đánh giá cần thu thập thông tin về địa điểm phỏng vấn, thời gian gặp
mặt. Cần liên hệ trước để hẹn gặp, chuẩn bị người thông dịch nếu cần.
- Xác định trách nhiệm các thành viên: do đặc tính thay đổi liên tục của tình
huống thảm họa, kế hoạch làm việc mỗi ngày thay đổi kéo theo việc cần xác
định lại trách nhiệm và vai trò phù hợp của mỗi thành viên để phát huy năng lực
chuyên môn của từng cá nhân.
- Sử dụng những kĩ thuật đánh giá nhanh phù hợp để thu thập thông tin cần
thiết:
 Quan sát thực địa
 Thảo luận nhóm
 Thăm và phỏng vấn hộ gia đình
 Phỏng vấn những đầu mối thông tin quan trọng
 Thu thập thông tin theo khu vực
 Làm việc nhóm hàng ngày
 Báo cáo tóm tắt kết quả đánh giá trước khi rời thực địa
Trong quá trình thu thập thông tin tại cộng đồng, nhóm đánh giá nên tận
dụng triệt để sự phối hợp với các ban ngành khác để có thể tham khảo các kênh
thông tin sẵn có của họ hoặc chia sẻ những thông tin đã thu thập được từ các bên
liên quan. Do đó, không phải lúc nào cũng cần phải xuống thực địa để thu thập
thông tin chi tiết từ các ban ngành khác. Trong buổi họp giữa các ban ngành liên
quan, các báo cáo và kết quả đánh giá của các ban ngành khác sẽ được chia sẻ -
những tài liệu này có thể được sử dụng như phụ lục trong báo cáo của ngành y tế.
Cần liên hệ với càng nhiều bên càng tốt nhằm tránh tình trạng thu thập các
thông tin trùng lặp, làm tốn thời gian và nguồn lực trong khi cần đưa ra một bức
tranh tổng quát về tình huống thảm họa trong thời gian nhanh nhất có thể. Các
bên còn có thể chia sẻ nguồn lực quí giá trong tình huống khẩn cấp.

402
Bước 3: Phân tích thông tin
Quá trình phân tích thông tin trong đánh giá nhanh nhằm tổng hợp thông tin
từ các nguồn khác nhau để trả lời các câu hỏi:
- Đâu là vấn đề chính?
- Những ai bị ảnh hưởng bởi những vấn đề đó?
- Khả năng của cộng đồng bị ảnh hưởng ra sao? Họ có thể ứng phó với
tình huống thảm họa như thế nào?
- Có những hỗ trợ nào sẵn sàng cho cộng đồng bị ảnh hưởng?
- Có nhu cầu can thiệp hay không? Nếu có, hoạt động can thiệp nào cần
được triển khai?
- Quá trình phân tích.
Thông tin thu thập được sẽ trải qua quá trình phân tích gồm 4 bước:

Giải quyết vấn đề số liệu không nhất quán:


- Xảy ra khi những người khác nhau trả lời khác nhau với cùng một câu hỏi.
VD: khi được hỏi về nguồn nước tại xã A
- Câu trả lời 1: nguồn nước cạn kiệt khoảng 2 tháng mỗi năm
- Câu trả lời 2: nguồn nước không bao giờ cạn
Người phân tích thông tin sẽ giải quyết vấn đề này theo trình tự sau:
Thứ nhất: Tự hỏi bản thân những câu hỏi sau:
 Thông tin mới bổ sung hay mâu thuẫn với thông tin thứ cấp?
 Các thông tin thu thập từ 1 người có bổ sung hay mâu thuẫn với thông
tin từ những người khác?

403
 Những thông tin được thu thập bởi các thành viên khác nhau trong
nhóm đánh giá có thống nhất hay không?
 Các thông tin có “ý nghĩa” hay không?
 Hỏi sâu thêm, tìm nguồn thông tin khác, quan sát.
Thứ hai: Thảo luận kết quả thu được thường xuyên với các thành viên khác:
Vào cuối mỗi ngày: họp ít nhất 1 lần/ngày. So sánh thông tin, thảo luận
những điểm không nhất quán và thống nhất lại kế hoạch phỏng vấn. Sau 1 ngày
tại thực địa, thảo luận về các thông tin đã thu được và các kết luận đã được đưa ra
Thứ ba: Xem xét các nguyên nhân có thể gây ra tình trạng thông tin không
nhất quán.
 Nhận thức: không phải lúc nào cũngcó những “câu trả lời đúng”.
Cách nhìn nhận sự kiện của mỗi người phụ thuộc vào hoàn cảnh riêng
của họ.
 Tiếp cận với thông tin: một số người nhận được nhiều thông tin về
một chủ đề cụ thể hơn số còn lại.
 Không đại diện: đôi khi mọi người chủ ý cung cấp những thông tin sai
lệch nhằm một mục đích nào đó.
- Xác định mức độ ảnh hưởng của thông tin không nhất quán tới các kết
luận và khuyến nghị. Nếu sự không nhất quán là không nghiêm trọng:
 Cố gắng loại bỏ nhưng không tốn quá nhiều thời gian cho việc này.
 Nếu bạn không thể giải quyết, hãy kèm theo một phần giải thích về
vấn đề trong báo cáo cuối cùng
- Xác định mức độ ảnh hưởng của thông tin không nhất quán tới kết luận và
các khuyến nghị. Nếu sự không nhất quán là nghiêm trọng thì cố gắng xử lý theo
cách sau:
 Tìm gặp người cung cấp thông tin ban đầu hoặc tìm đầu mối thông tin
mới có thể giải thích vấn đề.
 Ước lượng độ tin cậy của mỗi nguồn thông tin.
 Xác định nguyên nhân dẫn đến sự không nhất quán.

404
* Nếu không thể xử lý:
 Đưa ra kết luận dựa trên kết quả thảo luận của cả đội và xem xét các
thông tin sẵn có
 Đưa ra kết luận dựa trên kết quả của báo cáo cuối cùng
Tổng hợp thông tin
Tổng hợp thông tin là quá trình hệ thống hóa các thông tin đã thu thập theo
những phân nhóm khác nhau tùy thuộc vào nội dung thông tin và mục đích của
việc phân tích. Việc tổng hợp thông tin tốt sẽ tạo điều kiện cho công đoạn phân
tích thông tin đạt chất lượng cao:
- Tập hợp số liệu thu thập từ các nguồn (xem Bảng 2)
- Tổng hợp các thông tin một cách ngắn gọn dưới các tiêu đề trong mẫu báo cáo.
Phân tích thông tin:
Quá trình phân tích thông tin gồm 3 bước:
1: Liệt kê những vấn đề được phát hiện trong quá trình đánh giá. Một vấn
đề mới là một vấn đề được hình thành do tình huống thảm họa. Ví dụ: mất tích,
chấn thương, sập nhà, ô nhiễm nguồn nước do lũ, bệnh dịch hoành hành v.v.
2: Xác định cộng đồng bị ảnh hưởng bởi những vấn đề đó, nhu cầu của họ,
những chiến lược ứng phó và hỗ trợ sẵn có. Khi ước lượng số người trong cộng
đồng bị ảnh hưởng, chúng ta có thể gặp phải tình huống số lượng không nhất
quán giữa các nguồn thông tin. Khi đó cần xác định xem nguồn thông tin nào là
đáng tin cậy và có giá trị nhất. Các thông tin từ nguồn tin cậy sẽ được cân nhắc
sử dụng để phân tích. Các nhu cầu của cộng đồng bị ảnh hưởng cần được xác
định đối với vấn đề tương ứng, được mô tả và lượng hóa nếu có thể. Từ những
thông tin về nhu cầu được lượng hóa, những người ra quyết định có thể đưa ra
kế hoạch hỗ trợ phù hợp nhằm thỏa mãn nhu cầu cấp thiết của cộng đồng trong
tình huống thảm họa.
Đối với các chiến lược ứng phó đã được triển khai tại cộng đồng, nhóm
đánh giá nhanh cần phân tích tính hiệu quả của từng chiến lược và chỉ ra những
điểm kém hiệu quả hoặc có tác động tiêu cực tới cộng đồng. Các chiến lược có
tác động tích cực sẽ được khuyến nghị duy trì và tăng cường hiệu quả. Ngược

405
lại, cần có can thiệp ngay đối với những chiến lược kém hiệu quả và có tác động
tiêu cực. Cần xác định xem các hỗ trợ hiện có được cung cấp từ bên trong hay
bên ngoài cộng đồng, liên quan đến các tổ chức nào. Các hỗ trợ hiện tại được bố
trí theo kinh nghiệm địa phương hay theo tiêu chuẩn dành riêng cho các tình
huống khẩn cấp.
3: Đánh giá sự thiếu hụt:
- Đối với mỗi cộng đồng, liệt kê các nhu cầu hiện tại
- Xác định xem với các chiến lược ứng phó và hỗ trợ hiện có, các nhu cầu
đó có được đáp ứng hay không
- Nếu được, ước lượng độ bao phủ nhu cầu của các chiến lược ứng phó và
hỗ trợ hiện có
Những kết luận có thể có từ đánh giá:
- Cần có can thiệp ngay lập tức
- Không cần can thiệp ngay lập tức
- Có thể có nhu cầu can thiệp trong tương lai
- Không có nhu cầu can thiệp trong bất cứ thời điểm nào
Khuyến nghị của nhóm đánh giá nhanh:
- Các vấn đề cần được thông báo cho cộng đồng
- Khu vực can thiệp trực tiếp về y tế
- Những vấn đề liên quan (trại di cư, an ninh, nước, vệ sinh, véc-tơ, thực
phẩm)
- Cộng đồng được hưởng lợi (địa điểm, số lượng)
- Đối tác tiềm năng (nếu có)
- Dự trù kinh phí cần thiết (nếu có)
Bước 4: Viết báo cáo đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe sau thảm họa
Sau khi đã thực hiện quá trình phân tích các số liệu thu được trong đánh giá
nhanh, các thông tin có được từ toàn bộ quá trình trước đó được tổng hợp, kết
nối lại nhằm đưa ra các báo cáo cuối cùng. Các báo cáo này sẽ được gửi tới các

406
nhóm đối tượng khác nhau nên sẽ có bố cục và ngôn ngữ trình bày, hàm lượng
thông tin khác nhau giữa các nhóm (Bảng 7.5).
Trong số các báo cáo cần xây dựng, báo cáo đánh giá nhanh (RHA) là báo
cáo chi tiết nhất được viết với ngôn ngữ kĩ thuật để gửi tới Bộ Y tế, các đối tác,
những người hoạt động trong mạng lưới quản lý thảm họa. Báo cáo này là kim
chỉ nam cho các hoạt động tiếp theo của hệ thống phòng chống, ứng phó và khắc
phục hậu quả của thảm họa. Chất lượng của báo cáo liên quan trực tiếp tới tính
đúng đắn của các quyết định can thiệp từ các bên liên quan. Do vậy, một lần nữa
tầm quan trọng của việc triển khai một đánh giá nhanh “nhanh và chất lượng” lại
được nhấn mạnh.
Các báo cáo chi tiết về tình hình địa phương nơi xảy ra thảm họa, các báo
cáo được đưa lên website và trên báo sẽ được xây dựng với hàm lượng thông tin
phù hợp, ngôn ngữ truyền đạt dễ hiểu nhằm mục đích chuyển tải càng nhiều
thông tin trong thời gian càng ngắn càng tốt. Do vậy, các báo cáo hướng tới
quần chúng thường được viết theo ngôn ngữ phổ thông, với những thông tin
quan trọng nhất được đưa lên ngay trên đầu báo cáo.
Tổ chức Y tế thế giới đã ban hành phương pháp, công cụ và báo cáo kết
quả đánh giá nhanh nhu cầu y tế trong thảm họa. Các nước thành viên của Tổ
chức Y tế thế giới có thể sử dụng các tài liệu này sao cho phù hợp với điều kiện
của từng nước. Những tài liệu này được đăng tải trên trang web của tổ chức Y tế
thế giới tại địa chỉ: www.who.int. Dưới đây là nội dung chính của một báo cáo
kết quả đánh giá nhanh:
1. Tên báo cáo
2. Tóm tắt: phần này nêu tóm tắt các kết quả chính và khuyến nghị.
3. Giới thiệu chung về sự kiện thảm họa: loại thảm họa, nơi, thời gian xảy
ra, phạm vi ảnh hưởng, tiến triển v.v
4. Những thiệt hại:
- Người
- Cơ sở y tế
- Cơ sở hạ tầng: giao thông, điện, thông tin liên lạc v.v

407
- Nước sạch
- Lương thực, thực phẩm
- Nơi ở
- Vệ sinh môi trường, tình trạng vệ sinh nơi ở tạm thời
- Tình trạng sức khỏe của cộng đồng: bệnh truyền nhiễm, nguy cơ
bệnh truyền nhiễm, dịch bệnh
5. Khả năng đáp ứng của cộng đồng, hoạt động và kết quả đáp ứng hiện tại?
6. Nhu cầu cấp thiết hiện nay là gì?
7. Những khuyến nghị nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết và các vấn đề liên
quan?
8. Các phụ lục:
- Sơ đồ, bản đồ
- Ảnh minh họa
- Bảng số liệu chi tiết
Bước 5. Chia sẻ và sử dụng kết quả đánh giá nhanh
Kết quả đánh giá nhanh có thể được chia sẻ với các bên liên quan theo
nhiều cách khác nhau. Kết quả đánh giá nhanh phải được gửi tới những cơ quan,
tổ chức phù hợp như Sở y tế, Bộ Y tế, cơ quan yêu cầu đánh giá, các tổ chức phi
chính phủ trong nước và quốc tế. Báo cáo kết quả đánh giá nhanh cũng có thể
được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet để các bên
liên quan có thể sử dụng. Tổ chức hội thảo chia sẻ thông tin với các bên liên
quan cũng là một trong những hình thức chia sẻ thông tin hiệu quả và thường
được lựa chọn.
Các cơ quan và tổ chức sẽ tham khảo và sử dụng những thông tin, kết luận
và khuyến nghị trong báo cáo kết quả đánh giá nhanh một cách phù hợp trong
việc lập kế hoạch và triển khai các hoạt động đáp ứng nhu cầu của cộng đồng.
Một lưu ý quan trọng cho những cơ quan tổ chức sử dụng kết quả đánh giá
nhanh là những thông tin thu thập được trong đánh giá nhanh tuy rất có giá trị
nhưng do tính chất của đánh giá nhanh và sự thay đổi tình hình của sự kiện thảm

408
họa, do đó thông tin ở các thời điểm khác nhau thường có những thay đổi, nên
việc cặp nhật thông tin trong từng giai đoạn là cần thiết và phải được thực hiện
nhằm bảo đảm thông tin là chính xác tại thời điểm cụ thể. Nói cách khác, đánh
giá nhanh nên được thực hiện nhiều lần (nếu có thể). Đánh giá nhiều lần sẽ đáp
ứng được mục đích cập nhật thông tin, vốn thay đổi theo thời gian trong mọi
tình huống khẩn cấp.
3. Kế hoạch ứng phó với thảm họa và phòng chống dịch bệnh của cơ sở y tế
3.1. Khái niệm và quy trình xây dựng kế hoạch ứng phó với thảm họa
Mọi hoạt động quản lý thảm họa trong giai đoạn trước, trong hay sau thảm
họa muốn đạt được hiệu quả đều cần dựa trên nền tảng một bản kế hoạch hoàn
chỉnh được xây dựng theo đúng qui trình. Bên cạnh những lợi ích quan trọng
như cung cấp các hướng dẫn thực hiện trong các tình huống khẩn cấp, việc xây
dựng các bản kế hoạch còn đem lại nhiều lợi ích khác. Bạn có thể phát hiện ra
các hiểm họa tiềm ẩn nguy cơ tăng cao trong các tình huống khẩn cấp để có
phương án giảm nhẹ hoặc loại bỏ chúng. Ví dụ như việc thực hiện qui trình lập
kế hoạch giúp phát hiện ra các nguyên nhân gây ra thiếu ánh sáng trong các cơ
sở y tế trong tình huống khẩn cấp như thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị, cán bộ
được tập huấn… hoặc những qui trình có thể được điều chỉnh trước khi tình
huống thực sự xảy ra. Ngoài ra, kế hoạch quản lý tình huống khẩn cấp góp phần
nâng cao nhận thức về an toàn của các cá nhân và cam kết của đơn vị nhằm đảm
bảo an toàn cho nhân viên của mình.
Việc thiếu kế hoạch quản lý tình huống khẩn cấp/thiên tai, thảm họa có thể
dẫn tới nhiều hậu quả nghiêm trọng như chấn thương, tử vong, bệnh tật cho con
người, thiệt hại cơ sở hạ tầng và khủng hoảng tài chính cho đơn vị bị ảnh hưởng
do bị động trong xử lý tình huống hoặc hoàn toàn bị tê liệt/không có đáp ứng nào
trước những hậu quả nặng nề gây ra bởi thảm họa. Một trong những nguyên nhân
quan trọng dẫn tới hạn chế trong hoạt động lập kế hoạch đáp ứng với tình huống
khẩn cấp là thái độ cho rằng “tình huống đó không thể xảy ra ở đây/với cơ quan
chúng tôi”. Do đó, lãnh đạo cũng như các cá nhân có vai trò quan trọng trong cơ
quan không ưu tiên dành thời gian thực hiện đánh giá nguy cơ, hiểm họa, khả
năng ứng phó của đơn vị để triển khai lập kế hoạch theo qui trình phù hợp.

409
Do các tình huống khẩn cấp có thể xảy ra bất cứ thời gian nào nên việc lập
kế hoạch cho các loại tình huống khẩn cấp là hết sức cần thiết. Nhờ đó, khi tình
huống thực sự xảy ra, các cá nhân, tổ chức có thể ra quyết định nhanh chóng
hoặc thực hiện triển khai kế hoạch đã được xây dựng và thử nghiệm/diễn tập từ
trước nhằm xử lý tình huống hiệu quả nhất, giảm thiểu những hậu quả sức khỏe
cũng như thiệt hại về chức năng hoạt động, cơ sở hạ tầng của tổ chức. Nếu qui
trình lập kế hoạch không được thực hiện đầy đủ, các hoạt động ứng phó với tình
huống khẩn cấp chắc chắn sẽ gặp phải nhiều khó khăn do bị động, thiếu nhân
lực được tập huấn/phân công nhiệm vụ cụ thể, thiếu phương tiện, trang thiết bị
được chuẩn bị trước/có qui trình huy động khẩn cấp từ trước, thiếu sự phối hợp
giữa các bên liên quan trong khi tình huống khẩn cấp đòi hỏi những hành động
tức thì. Những hạn chế này sẽ dẫn tới thiệt hại nặng nề hơn cho các đơn vị cả về
con người, cơ sở hạ tầng và chức năng.
Những mục tiêu chính của qui trình lập kế hoạch đáp ứng với tình huống
khẩn cấp bao gồm:
 Phòng chống chấn thương và giảm số trường hợp tử vong
 Giảm thiểu thiệt hại cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế
 Bảo vệ môi trường và cộng đồng
 Đảm bảo nhanh chóng phục hồi các hoạt động chức năng của cơ sở y tế
Việc xây dựng kế hoạch bắt đầu với một đánh giá tính dễ bị tổn thương và
khả năng chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với tình huống khẩn cấp. Kết quả đánh giá
sẽ thể hiện:
 Khả năng xảy ra các tình huống khẩn cấp (các hiểm họa)
 Tính dễ bị tổn thương của cơ sở y tế, người, trang thiết bị
 Nguồn lực nào sẵn có để phòng chống hoặc ứng phó
 Những yếu tố cần thiết để đáp ứng với tình huống khẩn cấp
Từ kết quả phân tích này, qui trình lập kế hoạch phù hợp sẽ được triển khai.
Trong giai đoạn lập kế hoạch, điều quan trọng cần được thực hiện là cần huy
động sự tham gia của một số nhóm cá nhân, đơn vị liên quan. Một số đại diện
chính quyền địa phương phù hợp cũng cần thiết được mời tham gia tư vấn lập kế

410
hoạch để có thể tận dụng được kinh nghiệm quản lý các tình huống khẩn cấp của
địa phương cũng như huy động các nguồn lực bổ sung từ địa phương hoặc phối
hợp ứng phó nếu cần. Việc huy động đầy đủ các bên liên quan tham gia vào quá
trình lập kế hoạch là vô cùng quan trọng để đảm bảo tính toàn diện của bản kế
hoạch về mặt nội dung, sự phù hợp của kế hoạch với các cá nhân, nhóm trong
đơn vị, với toàn thể đơn vị và tình hình địa phương cũng như nâng cao nhận
thức và cam kết của các cá nhân, các bên liên quan từ khâu lập kế hoạch đến
phối hợp thực hiện và đồng thời đảm bảo các nguồn lực cần thiết sẽ được huy
động nhanh nhất trong tình huống khẩn cấp.
Việc quản lý và thực hiện công tác chủ động phòng và khắc phục hậu quả
thiên tai, thảm họa có nhiều điểm giống như việc tổ chức triển khai thực hiện
các chương trình y tế khác ở những điểm sau:
- Về bản chất, đó là kế hoạch phối hợp nhiều ngành trong xã hội. Không
chỉ riêng Ngành Y tế mà phải có sự phối hợp liên ngành, sự cam kết lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp Đảng, chính quyền địa phương và sự tham gia
của cộng đồng thì mới thực hiện được.
- Các tác động của kế hoạch là một quá trình hoạt động hơn là một bản kế
hoạch trên giấy. Vì vậy kế hoạch phải thật cụ thể, có tính khả thi cao và
nhất thiết phải được tiến hành triển khai thử để rút kinh nghiệm.
- Kế hoạch và những thành phần của kế hoạch mang tính đặc trưng thực
hiện khi có tình huống khẩn cấp, ứng phó với thảm họa tự nhiên cũng
như thảm họa do con người gây ra.
Những điều kiện tiên quyết cho việc lập kế hoạch là:
- Có mối đe dọa thực sự (hiểm họa).
- Cộng đồng nhận biết được sự cần thiết của kế hoạch: làm cho nhân viên
y tế, cộng đồng hiểu được mối nguy hiểm của hiểm họa và sẵn sàng
tham gia vào việc thực hiện kế hoạch phòng chống và khắc phục hậu quả
do thảm họa gây ra.
- Những nhà chức trách và người lập chính sách được thuyết phục về sự
cần thiết của kế hoạch.

411
- Những ngành và những người có liên quan tán thành đối với qui trình lập
kế hoạch và hiểu biết về lợi ích của kế hoạch mang lại: kế hoạch phòng
chống thảm họa là kế hoạch liên ngành nên phải được sự hưởng ứng và
sẵn sàng tham gia. Ví dụ: ngành tài chính sẵn sàng cung cấp kinh phí,
ngành công an sẵn sàng tham gia bảo vệ trật tự trị an v.v.
- Việc thực hiện kế hoạch được đảm bảo bằng những công cụ pháp lý
thích hợp: có văn bản pháp qui (Chỉ thị, Nghị quyết v.v) của chính quyền
các cấp (Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, của ủy ban nhân dân các cấp,
chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Y tế v.v) làm cơ sở cho việc triển khai thực
hiện.
- Thiết lập một thể chế phối hợp giữa những điều nêu ra của kế hoạch và
việc khắc phục hậu quả thực tế trong trường hợp có thảm họa. Trong
thảm họa mọi việc đều rất khẩn trương, nếu không có phối hợp tốt thì sẽ
thất bại. Ví dụ: cần có sự phối hợp giữa lực lượng công an, quân đội
trong khi sơ tán dân đến nơi an toàn, có đủ phương tiện giao thông để
chở dân đi sơ tán. Trường hợp các cơ sở y tế cần di chuyển máy móc lớn
(máy chụp X quang) lên nơi cao, an toàn cần phối hợp trước với nơi có
cần cẩu để khi cần gọi là có ngay, không phải chờ đợi lâu.
Qui trình lập kế hoạch
Trước hết, cần hiểu rằng bản kế hoạch trên giấy chỉ là sản phẩm đầu ra của
qui trình lập kế hoạch, không có ý nghĩa tác động trừ khi nó được thực hiện phối
hợp với các lợi ích khác của qui trình. Điều này có nghĩa là việc thực hiện đúng
qui trình lập kế hoạch có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với bản kế hoạch
được viết ra. Qui trình lập kế hoạch phòng chống thảm họa đối với Ngành Y tế
là các bước nối tiếp nhau, đó là một quá trình tác động qua lại với nhau nhằm:
- Tăng sự hiểu biết về chức năng nhiệm vụ của tất cả các bên có liên quan
khi có thảm họa xảy ra.
- Tăng cường mạng lưới cấp cứu bao gồm mạng lưới tại chỗ (huyện, xã bị
thiên tai, thảm họa) và hệ thống chi viện của tuyến trên: Trung ương
hoặc tỉnh, thành phố chi viện cho tuyến huyện, xã bị thiệt hại.

412
- Tăng cường hiểu biết của cộng đồng và xúc tiến chiến lược tuyên truyền
giáo dục cho cộng đồng để cộng đồng biết cách tự bảo vệ mình (sơ tán,
tìm nơi an toàn, tự cứu mình và cứu người xung quanh khi có thảm họa).
- Thiết lập mạng lưới thông tin cộng đồng nhằm mục đích liên lạc, truyền
tin, cảnh báo cho cộng đồng và các yêu cầu triển khai khác. Sử dụng tối
đa các phương tiện truyền thông hiện có; đôi khi chỉ đơn giản là mọi
người gọi nhau đúng lúc để tìm đến nơi an toàn cũng có thể cứu sống
được rất nhiều người. Ví dụ trong thảm họa sóng thần tại Thái Lan năm
2004, một em bé 10 tuổi khi thấy có dấu hiệu sóng thần mà em được học
ở nhà trường đã chạy ra biển gọi mọi người quay trở vào tìm nơi trú ẩn.
Nhờ đó mà hàng trăm người đang tắm ngoài biển đã được cứu sống
trong khi hệ thống phát thanh, truyền hình không kịp thông báo gì cho
cộng đồng (trang tin The Telegraph, Anh).
Qui trình lập kế hoạch đáp ứng với thảm họa gồm 9 bước tóm tắt trong
hình sau.

413
Bước 1: Xác định cơ sở pháp lý của kế hoạch
Kế hoạch được xây dựng dựa trên những cơ sở pháp lý sau:
- Luật Phòng, chống thiên tai số 33/2013 được ban hành bởi Quốc hội 13
- Quyết định của Chính phủ, Ủy ban nhân dân, Bộ trưởng Bộ Y tế
- Quyết định của thủ trưởng đơn vị: Giám đốc Sở Y tế
- Kế hoạch tổng thể của Bộ Y tế
Bước 2: Thành lập Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch
Cần thiết phải có đại diện của các cơ quan có liên quan đến việc chủ động
phòng chống và khắc phục hậu quả thảm họa; ít nhất cũng phải có đại diện chính
quyền, Ban, Ngành, Đoàn thể trong đó các lực lượng vũ trang (quân đội, công
an) là rất quan trọng. Thông thường, nếu là kế hoạch của địa phương (huyện,
tỉnh) thì Chủ tịch ủy ban nhân dân là Trưởng Ban, ngành Y tế là thành viên cùng
các ban, ngành, đoàn thể khác. Nếu là kế hoạch của ngành Y tế thì lãnh đạo y tế
tuyến đó là trưởng ban, các đơn vị thành viên có liên quan là ủy viên trong đó
nhất thiết phải có đại diện của bệnh viện, y tế dự phòng, dược, tài chính v.v. để
đảm bảo nguồn lực cho việc thực hiện kế hoạch.
Bước 3: Phân tích nguy cơ - Xác định mục tiêu của kế hoạch
Việc phân tích các nguy cơ xảy ra thảm họa tại địa phương phải được làm
đầy đủ, tỉ mỉ, dựa trên các dữ liệu của địa phương trong nhiều năm để có thể
lường trước được tất cả các loại thảm họa có thể xảy ra, mức độ nghiêm trọng
nhất phải đối phó. Nếu làm được như vậy thì khi có thảm họa xảy ra sẽ không bị
bất ngờ cả về loại thảm họa cũng như nguy cơ các loại thảm họa có thể gây ra.
Mục tiêu của kế hoạch đối với ngành Y tế thường tập trung ưu tiên vào các
lĩnh vực sau:
- Làm giảm tới mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản đối với ngành Y
tế.
- Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho bệnh nhân, người nhà chăm sóc bệnh nhân
tại các cơ sở y tế.

414
- Nhanh chóng ổn định hoạt động ngay sau khi thảm họa đã qua, huy động
cao nhất lực lượng cán bộ nhân viên, trang thiết bị để khắc phục hậu quả
thảm họa gây ra.
Các mục tiêu của kế hoạch cần thật cụ thể, có tính khả thi và không nên đề
ra quá nhiều mục tiêu, tối đa cũng chỉ khoảng 3 - 4 mục tiêu là đủ. Nên sắp xếp
các mục tiêu theo thứ tự ưu tiên cho từng giai đoạn như: giảm nhẹ thiệt hại đối
với giai đoạn chuẩn bị ứng phó với thảm họa, nhanh chóng đưa cơ sở y tế trở lại
hoạt động bình thường sau khi thảm họa xảy ra.
Bước 4: Xác định cơ cấu tổ chức và xác định trách nhiệm từng thành viên
Cần xác định cơ quan tổ chức thực hiện kế hoạch là Ban chỉ huy
PCTT&TKCN của các cấp. Trong Ban chỉ huy phải có người đại diện của các
bộ phận, cơ quan có thể huy động cao nhất nguồn lực cho việc thực hiện kế
hoạch. Mối liên quan của các bộ phận, cơ chế điều phối khi có thảm họa xảy ra.
Ví dụ: khi xảy ra cháy nổ, tai nạn giao thông gây thương vong hàng loạt nạn
nhân thì người chỉ huy, quản lý phải là người có uy tín và trách nhiệm lớn, cao
nhất tại địa phương để có thể huy động nguồn lực nhiều Ngành cho công tác
khắc phục hậu quả thảm họa ngay tại hiện trường, có thể ra các quyết định và tổ
chức thực hiện ngay trong điều kiện khẩn cấp. Tuy nhiên, cần nhớ là khi có
thảm họa thì nhân dân là người tiếp cận đầu tiên trước khi cán bộ y tế và người
chỉ huy đến. Vì vậy, việc tuyên truyền cho nhân dân biết các kĩ thuật cơ bản nhất
như cầm máu, cố định gãy xương, thổi ngạt, bóp tim ngoài lồng ngực, vận
chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế là rất cần thiết.
Cần phân công trách nhiệm thật cụ thể cho các thành viên thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể trong kế hoạch. Ví dụ: khi có thảm họa xảy ra, ai sẽ huy động
nhân lực, ai đảm bảo hậu cần, phương tiện đi lại. Phải phân công cán bộ phụ
trách theo địa bàn, xuống ngay các trọng điểm để trực tiếp nắm tình hình và chỉ
huy khi giao thông bị chia cắt do thảm họa gây ra.
Một cá nhân trong tổ chức cần được phân công và tập huấn để trở thành
Người điều phối ứng phó với các tình huống khẩn cấp cũng như người thay thế
cho người điều phối trong trường hợp người điều phối chính không có mặt.
Nhân lực tại chỗ trong các tình huống khẩn cấp chính là chìa khóa đảm bảo hoạt
động ứng phó hiệu quả và kịp thời để giảm thiệu thiệt hại. Trong một số trường

415
hợp, có thể cần phải huy động khẩn cấp cả những nhân viên đã về hưu hoặc
đang nghỉ phép trên cơ sở qui trình huy động nhân sự khẩn cấp đã được xây
dựng và thông báo rộng rãi đến các cá nhân từ trước.
Nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn và các nguồn lực cụ thể cần được định
nghĩa rõ ràng. Những trách nhiệm chính cần được mô tả bao gồm:
 Báo cáo về tình huống khẩn cấp
 Triển khai kế hoạch ứng phó khẩn cấp
 Giả định những chỉ đạo toàn diện
 Thiết lập hệ thống thông tin, truyền thông
 Cảnh báo tới nhân viên
 Yêu cầu sơ tán
 Cảnh báo tới các cơ quan bên ngoài
 Xác nhận sơ tán xong
 Cảnh báo cộng đồng lân cận về các nguy cơ tiềm ẩn
 Yêu cầu hỗ trợ từ bên ngoài
 Điều phối hoạt động của các nhóm khác nhau
 Chăm sóc người thân của nạn nhân
 Cung cấp dịch vụ y tế
 Đảm bảo cơ chế ứng phó khẩn cấp kết thúc
 Thông báo kết thúc tình trạng khẩn cấp
 Cung cấp thông tin cho truyền thông
Danh mục những trách nhiệm trên cần được xây dựng dựa trên tổng hợp
các biện pháp ứng phó đã được đưa ra cho các tình huống khẩn cấp khác nhau.
Trong một số đơn vị có thời gian làm việc theo ca với nhân lực tối thiểu, một số
cá nhân có thể cần đảm nhiệm thêm các nhiệm vụ khác trong tình huống khẩn
cấp. Các trách nhiệm hoặc vai trò này đều cần được đặt tên và văn bản hóa để
đảm bảo các hoạt động ứng phó diễn ra thuận lợi và nhanh chóng nhất trên cơ sở
nhân lực được phân công thường trực trong mọi tình huống.

416
Các tổ chức bên ngoài có thể hỗ trợ (trong các khoảng thời gian khác nhau)
bao gồm:
 Chữa cháy
 Đội cấp cứu, cứu nạn lưu động
 Dịch vụ cứu thương
 Cảnh sát
 Công ty viễn thông
 Bệnh viện
 Công ty dịch vụ khác
 Khu công nghiệp lân cận
 Các cơ quan chính phủ
Các tổ chức này cần được liên hệ để tham gia vào các bước trong quá trình
lập kế hoạch quản lý tình huống khẩn cấp, xác định các giải pháp phù hợp dựa
trên kinh nghiệm ứng phó trên thực tế, xác định cơ chế phối hợp và phân công
nhiệm vụ cụ thể mỗi bên sẽ đảm nhận trong tình huống khẩn cấp có thể xảy ra.
Việc thiếu sự tham gia của các bên liên quan có thể dẫn tới chồng chéo trong
hoạt động ứng phó, không có sự phối hợp hoặc phối hợp không hiệu quả, lãng
phí thời gian và nguồn lực vốn rất hạn chế trong tình huống khẩn cấp.
Các hoạt động điều phối lập kế hoạch cần rất chú trọng đến sự trùng lặp
hoặc mâu thuẫn về trách nhiệm. Ví dụ như, các lực lượng cảnh sát, chữa cháy,
cứu thương, cứu nạn, cấp cứu ban đầu có thể xuất hiện tại hiện trường cùng lúc
dẫn tới nhiều khó khăn cho việc triển khai các hoạt động của các nhóm riêng rẽ
cũng như phối hợp. Một cơ chế hoạt động/phối hợp trong tình huống này cần
được thảo luận giữa các bên và thống nhất phương án thực hiện từ trong giai
đoạn lập kế hoạch, sau đó là phổ biến, diễn tập cho các cá nhân và tổ chức liên
quan để tránh xảy ra tình trạng khó khăn nói trên.
Một số vấn đề liên lạc có thể xảy ra trong các tình huống nhất định. Trong
tình huống khẩn cấp đó, cần có những nỗ lực tìm kiếm phương tiện liên lạc thay
thế, đặc biệt ưu tiên đảm bảo liên lạc thông suốt cho nhóm các cá nhân quan
trọng như người chỉ huy ứng phó chung, người chỉ huy ứng phó tại hiện trường,

417
các chuyên viên kiểm soát hiện trường, cứu hỏa, y tế, tìm kiếm cứu nạn, đại diện
các tổ chức tham gia ứng phó với tình huống khẩn cấp. Tùy thuộc vào phạm vi
của hiện trường xảy ra tình huống khẩn cấp và các nguồn lực, có thể lập kế
hoạch thiết lập trung tâm kiểm soát khẩn cấp tại hiện trường với các trang thiết
bị liên lạc phù hợp. Tất cả các cá nhân chịu trách nhiệm truyền thông tin cảnh
báo và báo cáo trong tình huống khẩn cấp cần được cung cấp danh mục cập nhật
các cá nhân và tổ chức họ cần phải liên lạc.
Trên cơ sở các điểm trên, cần lập ra bộ máy tổ chức thực hiện có hiệu quả
với những cán bộ có năng lực và phải thường xuyên bổ sung để có tính khả thi
khi tình huống xảy ra. Về tổ chức thực hiện cần phân công cụ thể đến từng
người, kiểm tra tận tay từng loại vật tư, phương tiện. Ví dụ: phải đảm bảo chắc
chắn có đủ thuốc, phương tiện đi lại hoạt động tốt khi có tình huống thiên tai
xảy ra. Nhiều nơi có trang bị canô, xuồng cứu nạn nhưng khi bị ngập lụt mang
ra thì máy không nổ, xuồng bị thủng, nước tràn vào không dùng được. Các đội
lưu động chi viện cho tuyến dưới khi bị thiên tai cũng phải sẵn sàng cả về con
người cũng như phương tiện đi lại để có thể lên đường ngay khi có lệnh điều
động.
Bước 5: Xác định và phân tích nguồn lực
Cần xác định và phân tích nguồn lực về các mặt sau:
Nhân lực: khi có thảm họa sẽ điều động nhân lực thế nào? Cần phân công
cụ thể đến tận mỗi cán bộ, nhân viên y tế để dễ dàng huy động được ngay trong
tình huống khẩn cấp. Ví dụ: bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí chỉ sau
30 phút đã huy động tối đa nguồn nhân lực khi xảy ra cháy nổ tại địa phương.
Ngay sáng hôm bị lũ quét, cán bộ nhân viên y tế TTYT huyện Sơn Dương đều
có mặt tại bệnh viện để khắc phục hậu quả.Các bệnh viện phải có kế hoạch điều
động thêm cán bộ chuyên môn đến hỗ trợ cho kíp trực khi có thảm họa. Cần có
cơ chế phân công gọi điện thoại truyền nhau: một người gọi cho 3 - 4 trưởng
nhóm, mỗi trưởng nhóm lại gọi cho 10 nhân viên khác. Trường hợp cần thiết đối
với các chuyên gia cao cấp phải cho xe đi mời đến ngay.
Tài lực: cần chuẩn bị về mặt kinh phí và cơ chế sử dụng kinh phí khi có
thảm họa xảy ra. Thông thường khi có thảm họa, việc huy động kinh phí dễ
được các cơ quan cấp trên giải quyết nhanh hơn. Tuy nhiên, cũng cần lường

418
trước các cơ chế phức tạp trong chuyển tiền, mua vật tư, thuốc men cần thiết để
nhanh chóng khắc phục hậu quả.Người chỉ huy cần lường trước mọi tình huống,
báo cáo với lãnh đạo chính quyền cấp trên có cơ chế cho phép sử dụng nguồn
lực hợp lý khi có thảm họa và chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Vật lực: cần có kế hoạch dự trữ thuốc men, máy móc, hóa chất, lương
thực, thực phẩm, chất đốt... để khi có thảm họa còn nguồn lực sử dụng được một
thời gian nhất định trước khi có chi viện của cấp trên. Việc tính toán các vật tư,
thuốc men, chuẩn bị kế hoạch cung cấp nước uống, lương thực, nơi ở tạm thời
và các hỗ trợ khác cho những người bị ảnh hưởng bởi thiên tai có thể dựa trên
thông tin về dân số, nhóm tuổi, tính dễ bị tổn thương của cộng đồng, khả năng
của địa phương và tham khảo tài liệu Tiêu chuẩn tối thiểu trong cứu trợ nhân
đạo – SPHERE được xuất bản năm 2011. Đặc biệt lưu ý đến tình huống bị nước
ngập lụt chia cắt dài ngày, mất điện, nước, mất liên lạc với cấp trên v.v. Ví dụ:
bệnh viện Trung Ương Huế năm 1999 bị ngập sâu 2 mét trong 3 ngày, không có
điện, không có nước, không liên lạc điện thoại được trong khi phải lo nuôi gần
1000 bệnh nhân và khoảng 1000 người nhà bị kẹt lại tại bệnh viện. Nếu không
lường trước tình huống này sẽ rất khó khăn.
Bước 6: Viết Bản dự thảo kế hoạch
Sau khi làm tốt tất cả các bước chuẩn bị nói trên thì mới nên bắt tay vào
việc viết dự thảo kế hoạch. Có đảm bảo như vậy thì kế hoạch mới sát thực tế và
có khả năng thực hiện. Việc chuẩn bị quyết định thành công và chất lượng kế
hoạch. Viết kế hoạch không khó, chỉ cần một ngày là có thể hoàn thành nhưng
việc chuẩn bị đúng quy trình nhiều khi mất cả tháng mới xong.
Bước 7: Thực hiện thí điểm kế hoạch
Để đảm bảo kế hoạch thực hiện được trên thực tế, cần tổ chức thực hiện thí
điểm kế hoạch tại một địa bàn trọng điểm trong các điều kiện giống thực tế nhất.
Thông thường nên bố trí diễn tập, thực tập để rút kinh nghiệm trong việc tổ chức
thực hiện. Việc thực hiện thí điểm kế hoạch mang tính bắt buộc để tìm ra các
thiếu sót nhằm bổ sung kế hoạch cho hoàn thiện trước khi ban hành chính thức.
Bước 8: Sơ kết, bổ sung kế hoạch chính thức ban hành

419
Sau khi tổ chức thực hiện thí điểm, kế hoạch cần được bổ sung cho hoàn
chỉnh và ban hành chính thức. Cần coi kế hoạch này là một trong các nhiệm vụ
thường xuyên của đơn vị để kiểm tra việc sẵn sàng thực hiện hàng tháng, hàng
quí nhất là trong giai đoạn cao điểm của thiên tai hàng năm tại địa phương, đơn
vị.
Bước 9: Tổng kết và bổ sung định kỳ hàng năm
Hàng năm cần tổng kết, sơ kết kế hoạch và bổ sung thêm về nhân lực, vật
lực, các yếu tố nguy cơ của thảm họa cho sát với tình hình của địa phương, đơn
vị. Không được chủ quan vì năm trước hoặc nhiều năm liên tiếp không có thiên
tai, thảm họa nên giảm bớt mức độ sẵn sàng, đầu tư nhân lực, tài lực, vật lực cho
công tác này. Điều này có thể gây ra những hậu quả không lường được do thiếu
sự đáp ứng sẵn sàng.
3.2.Xây dựng kế hoạch ứng phó với thảm họa và phòng chống dịch bệnh của
cơ sở y tế
Phần 1 - Giới thiệu
 Mô tả đặc điểm địa lý (diện tích, địa hình v.v.)
 Lịch sử thảm họa đã xảy ra
 Mô tả về dân số, kinh tế xã hội
 Mô tả về hệ thống chăm sóc sức khỏe (bệnh viện, phòng khám, Trung tâm
Y tế, Trạm Y tế)
 Những dịch vụ đáp ứng tình trạng khẩn cấp (vị trí, con người, trang thiết
bị, v.v.)
Phần 2-Đánh giá nguy cơ
 Mô tả một loại hiểm họa nghiêm trọng (các hiểm họa tự nhiên: bão, các
hậu quả từ bùng phát bệnh dịch, các hiểm họa nhân tạo: các đập, các nhà
máy hóa chất v.v.)
 Tác động của nguy cơ lên sức khỏe
 Tác động của nguy cơ lên tài sản
 Tác động của nguy cơ lên môi trường

420
 Mô tả các hậu quả có thể xảy ra khi có sự tương tác giữa hiểm họa và các
vấn đề sức khỏe tiềm tàng (các nguy cơ)
Phần 3 - Những hoạt động quản lý thảm họa hiện có tại địa phương hoặc
tỉnh
 Sự chuẩn bị sẵn sàng/sự phòng ngừa
 Đáp ứng
 Hồi phục
 Những rào cản/vấn đề trong quản lý thảm họa
Phần 4 - Mục tiêu
Giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người (người dân và cán bộ y tế v.v),
cơ sở và trang thiết bị y tế, bảo đảm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước,
trong và sau thảm họa.
Phần 5 - Phân tích nguồn lực
 Nhân lực
 Cơ sở vật chất
 Tài chính
 Trang thiết bị
 Hậu cần
 Dự phòng
Phần 6 - Tổ chức quản lý
 Tổng quan về vai trò của ngành Y tế trong quản lý thảm họa
 Quản lý về cấu trúc phòng chống thảm họa: các thành viên của ủy ban
phòng chống thảm họa (tỉnh, huyện)
 Cấu trúc chỉ huy
 Khởi động bộ máy
 Thiết bị thông tin liên lạc
 Hệ thống báo cáo

421
 Các thành viên của ủy ban nhân dân phòng chống thảm họa địa phương
 Quản lý các nguồn lực
 Phối hợp với các đơn vị khác
Phần 7 - Trách nhiệm của các tuyến
 Sở Y tế (nếu đây là một đơn vị phòng chống thảm họa y tế tuyến tỉnh)
 Trung tâm y tế huyện
 Trạm Y tế xã
 Trung tâm Y tế dự phòng
 Các phòng/đơn vị trong Sở Y tế và Trung tâm Y tế huyện
Phần 8 - Kế hoạch và phương pháp phổ biến kế hoạch
Việc phổ biến kế hoạch là vô cùng quan trọng và là một bước trong cả quá
trình lập kế hoạch. Việc phổ biến kế hoạch sẽ làm tăng sự gắn kết của tất cả các
thành viên.
Việc phổ biến kế hoạch bao gồm:
 Quyết định tổ chức nào và/ hoặc lãnh đạo cộng động nào sẽ nhận kế
hoạch
 Quyết định kế hoạch sẽ được tuyên truyền như thế nào tới cộng đồng địa
phương trước, trong và sau một thảm họa
 Quyết định khi nào kế hoạch sẽ được phổ biến tới các tổ chức và cá nhân
khác nhau
 Quyết định ai sẽ được tập huấn trong việc thực thi kế hoạch
 Quyết định về lịch tập huấn (bao giờ, ở đâu)
Phần 9 - Phương pháp cập nhật và bổ sung kế hoạch
Những phương pháp nào có thể được áp dụng để rà soát và cập nhật kế
hoạch?
Kế hoạch có thể được rà soát bằng cách tổ chức hội thảo, các cuộc họp
hoặc phỏng vấn những người liên quan.

422
Những ai tham gia vào rà soát và cập nhật kế hoạch?
Những người tham gia xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện kế hoạch,
đại diện của cộng đồng bị ảnh hưởng bởi thảm họa.
Đối tác, nhà tài trợ, tổ chức NGOs, tổ chức quốc tế, chuyên gia trong và
ngoài nước.
Khi nào cần phải rà soát và cập nhật bản kế hoạch?
Vì bản kế hoạch có thể đã không phù hợp ngay sau khi được in ra, vì thế kế
hoạch phải được rà soát lại hàng năm, ngay sau khi triển khai khi có thảm họa
xảy ra hoặc sau bất kì hoạt động triển khai thí điểm nào.
Nội dung chính của bản kế hoạch chỉ nên viết ngắn gọn, những nội dung
chi tiết có thể để ở phần phụ lục. Sau đây là những ví dụ về một số phụ lục:
 Định nghĩa, khái niệm dùng trong kế hoạch
 Bản đồ hành chính
 Bản đồ nguy cơ
 Bảng ghi tên và địa chỉ, điện thoại của những người chủ chốt
 Sơ đồ quản lý, điều hành
 Danh sách những đơn vị nhận bản kế hoạch
 Các kế hoạch quản lý các vấn đề cụ thể, ví dụ:
- Kế hoạch quản lý vệ sinh môi trường
- Kế hoạch quản lý chấn thương hàng loạt của bệnh viện
- Kế hoạch phòng chống bệnh truyền nhiễm
- Kế hoạch sơ tán có thể kèm theo sơ đồ đường đi và các vị trí

CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG


Câu 1: Trình bày một số thuật ngữ cơ bản sử dụng trong quản lý nguy cơ thảm
họa.
Câu 2: Trình bày các bước đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe trong thảm họa.

423
Câu 3: Xây dựng kế hoạch ứng phó với thảm họa và phòng chống dịch bệnh của
cơ sở y tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Y tế (2019). Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề ngiệp
bác sỹ chính (hạng II). Trường Đại học Y tế Công cộng, Nhà xuất bản Y
học.
2. Thông tư số 17/2019/TT-BYT ngày 17 tháng 7 năm 2019.
3. Bộ y tế (2011), Quản lý y tế công cộng trong thảm họa.
4. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị định
Số: 66/2014/NĐ-CP, ngày 04 tháng 07 năm 2014 “Qui định chi tiết hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống thiên tai”.
5. Dự án vận động chính sách phòng chống thiên tai dựa vào cộng đồng
(JANI) (2010), Phương châm bốn tại chỗ trong phòng chống thiên tai.
6. Dự án vận động chính sách phòng chống thiên tai dựa vào cộng đồng
(JANI) (2010), Quản lý rủi do thiên tai dựa vào cộng đồng.
7. “Khung hành động Sendai về GNRRTT, 2015-2030”, bản dịch tiếng Việt
trên trang web: phongchongthientai.vn).
8. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật số
33/2013/QH ngày 19 tháng 6 năm 2013 “Luật phòng, chống thiên tai”.

424
CHUYÊN ĐỀ 10
QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ, PHƯƠNG TIỆN CHĂM SÓC
TẠI CƠ SỞ Y TẾ

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 8 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chuyên đề này, học viên có thể:

1.Trình bày được khái niệm và phân loại trang thiết bị y tế

2. Phân tích được các yếu tố bên trong ảnh hưởng tới quản lý trang thiết bị y tế

3. Phân tích được các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới quản lý trang thiết bị y tế

NỘI DUNG
1. Yếu tố ảnh hưởng/tác động đến quản lý và sử dụng trang thiết bị y tế
(TTBYT) tại các cơ sở y tế
1.1.Yếu tố bên trong
1.1.1. Năng lực quản lý TTBYT & hạ tầng kỹ thuật của cơ sở y tế (mạng LAN…)
* Căn cứ chủng loại thiết bị y tế được trang bị sử dụng:
TTBYT sử dụng rất phong phú, đa dạng về chủng loại và chúng còn được
gọi là đối tượng lao động, một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình thực hiện hoạt
động dịch vụ khám chữa bệnh (Thầy thuốc – Thuốc - TTBYT). Giữa TTBYT
và tổ chức quản lý dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện có mối quan hệ hữu cơ

425
với nhau. Giá trị và giá trị sử dụng của dược phẩm y tế được tăng lên gấp bội khi
TTBYT tham gia liên tục vào quá trình hoạt động dịch vụ khám chữa bệnh tại BV.
Chủng loại TTBYT đơn giản hay phức tạp có ảnh hưởng đến tổ chức quản
lý dịch vụ KCB tại BV. Ngược lại, tổ chức dịch vụ KCB tại BV ở trình độ cao
hay thấp đều đòi hỏi việc sử dụng TTBYT phải đáp ứng được yêu cầu. Nhìn
chung, mối quan hệ giữa quản lý dịch vụ khám chữa bệnh và TTBYT thay đổi
theo những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của mỗi đơn vị và thay đổi theo sự phát
triển của xã hội. Vì vậy, để có được phương án tổ chức quản lý TTBYT hợp lý
và hiệu quả, mỗi đơn vị phải chú ý và xác định cho được mức độ ảnh hưởng của
TTBYT đối với đơn vị mình .
* Mỗi loại trang thiết bị y tế có đặc điểm riêng và được sử dụng linh
hoạt cho các đối tượng khác nhau. Đặc điểm TTBYT thể hiện:
- Trang thiết bị y tế là tài sản cố định có giá trị cao. Trang thiết bị hiện nay
cho ngành y tế thường là hiện đại nên có giá trị cao, đắt tiền. Nó được sản xuất
gắn liền với thành tựu của khoa học tiên tiến về khám chữa bệnh.
- Trang thiết bị y tế tại bệnh viện thường được hình thành từ nhiều nguồn
vốn khác nhau, trong đó có từ ngân sách nhà nước, các loại viện trợ, quỹ phát
triển khoa học và tự mỗi đơn vị mua sắm.
- Trang thiết bị y tế ở Việt Nam phần lớn được nhập khẩu từ các nước có
nền khoa học tiên tiến, hiện đại, đòi hỏi người sử dụng phải cập nhật và nâng
cao trình độ thường xuyên.
- Trang thiết bị y tế bao gồm nhiều loại khác nhau, có tính năng sử dụng
khác nhau.
TTBYT bao gồm các loại máy móc, thiết bị đặc thù. Tuy nhiên, cũng như
các loại máy móc thiết bị khác, quá trình sử dụng và vận hành các TTBYT sẽ
dần xuất hiện những vấn đề kỹ thuật, những điểm khiếm khuyết. Mỗi trang thiết
bị y tế có một đặc tính riêng, tuổi thọ và phương thức bảo quản, bảo trì, bảo
dưỡng riêng. Do đó, công tác quản lý TTBYT cũng cần quan tâm đặc biệt đến
việc quản lý sử dụng. Đây là cơ sở sở quan trọng nhằm điều chỉnh và sửa chữa
kịp thời mỗi khi thiết bị y tế hư hỏng. Công tác quản lý quá trình sử dụng
TTBYT có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đảm bảo TTBYT vận hành

426
một cách chính xác, phòng ngừa những sự cố do TTBYT gây ra. Mỗi TTBYT
có qui định về chuẩn chất lượng, quy trình sử dụng, bảo trì bảo dưỡng riêng.
1.1.2. Năng lực sử dụng của cán bộ y tế
Hiện nay, nhiều loại TTBYT hiện đại đang được sử dụng trong lĩnh vực
khám bệnh, chữa bệnh cho con người. Đó là việc ứng dụng khoa học công nghệ,
giúp cho việc chẩn đoán, điều trị bệnh một cách nhanh chóng, chính xác, an
toàn, hiệu quả cao.
Đội ngũ y bác sĩ, cán bộ ngành y tế nói chung và cán bộ ngành y tế trong
các bệnh viện nói riêng có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý TTBYT.
TTBYT là một trong 3 yếu tố quan trọng nhất (Thầy thuốc - Thuốc – TTBYT)
trong ngành y tế, đồng thời đây cũng là đối tượng đặc thù, là công cụ, dụng cụ
có liên quan trực tiếp đến chăm sóc sức khoẻ con người với hàm lượng khoa học
cao. Bởi vậy, trong quá trình vận hành sử dụng, bảo trì, bảo quản và sửa chữa
TTBYT đòi hỏi đội ngũ nhân lực phải có trình độ sử dụng và bảo quản nhất định
1.1.3. Khả năng tài chính của cơ sở y tế
Đầu tư mua sắm TTBYT là hoạt động đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm
nhu cầu sử dụng TTBYT ở các bệnh viện. Những năm gần đây, việc tăng cường
đầu tư mua sắm TTBYT đã quan tâm và tạo nhiều điều kiện về kinh phí. Quản
lý khâu lập kế hoach mua sắm là nội dung đầu tiên của quản lý đầu tư TTBYT,
theo đó phải xác định được các căn cứ lập kế hoạch mua sắm TTBYT, các thủ
tục và phương pháp lập kế hoạch mua sắm và lên kế hoạch mua sắm TTBYT
hàng năm cho bệnh viện. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện đầu tư theo kế
hoạch của các bệnh viện, các cơ sở y tế.
- Quản lý mua sắm theo nguồn vốn hình thành: Quản lý đầu tư TTBYT đòi
hỏi cần nắm rõ nguồn vốn đầu tư, số lượng TTBYT cần mua sắm tương
ứng với từng loại nguồn vốn khác nhau. Các nguồn vốn đầu tư cho việc
mua sắm TTBYT rất đa dạng: từ liên doanh, từ nguồn vốn ngân sách Nhà
nước, nguồn quỹ phát triển các hoạt động sự nghiệp của bệnh viện và đề án
xã hội hoá y tế...
- Quản lý nguồn nhập thiết bị y tế: Xác định chính xác nguồn nhập thiết bị y
tế sẽ giúp quá trình quản lý TTBYT nắm rõ hơn nguồn gốc, số lượng và
chất lượng các TTBYT được đưa vào sử dụng tại bệnh viện. Đây là khâu

427
quan trọng và không thể thiếu trong công tác quản lý TTBYT.
Quản lý trang thiết bị y tế theo mục đích sử dụng: Căn cứ vào mục đích sử
dụng TTBYT, các khoa, phòng ban chức năng trong các cơ sở y tế, bệnh viện sẽ
lên kế hoạch mua sắm TTBYT cho đơn vị mình. Từ đó, giúp công tác quản lý
TTBYT có hiệu quả hơn nhờ vào việc xác định đúng mục đích sử dụng trong
khám chữa bệnh với điều kiện nguồn tài chính hạn hẹp.
1.2.Yếu tố bên ngoài
Quản lý TTBYT tại Bệnh viện là một trong những nội dung cơ bản của
công tác quản lý. Muốn có phương án quản lý TTBYT hợp lý và có hiệu quả,
đòi hỏi mỗi Khoa, Phòng trong Bệnh viện phải nghiên cứu, phân tích sự tác
động của các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoạt động dịch vụ khám chữa
bệnh tại đơn vị mình
Với đặc thù của lĩnh vực trang thiết bị y tế rất đa dạng, nhiều chủng loại,
nhiều đặc trưng khác nhau và phân cấp cho nhiều cơ quan quản lý nên cần có sự
phối hợp chặt chẽ của tất cả các bên thì mới có thể làm tốt công tác quản lý đầu
tư, sử dụng, khai thác vận hành.
1.2.1. Nhu cầu và yêu cầu của người dân/người bệnh
Tiến bộ khoa học, kỹ thuật có ảnh hưởng lớn đến tổ chức quản lý dịch vụ
KCB trong các cơ sở y tế, tạo tiền đề vật chất, kỹ thuật cho dịch vụ KCB tại
bệnh viện được hợp lý. Nhờ có tiến bộ khoa học, kỹ thuật mà ngày càng có
nhiều công nghệ mới, thiết bị máy móc mới trong lĩnh vực y tế. Vì vậy, để có
được phương án tổ chức quản lý dịch vụ KCB hợp lý, phải xác định cho được
đơn vị mình nên mua công nghệ, thiết bị máy móc, với dược phẩm y tế nào phù
hợp.
Tổ chức quản lý dịch vụ KCB nếu được ứng dụng nhanh chóng và kịp thời
các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay thì nó cho phép sử dụng đầy đủ, hợp lý
và tiết kiệm dược phẩm y tế và sức lao động nhằm góp phần nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả của hoạt động dịch vụ KCB. Trong tổ chức quản lý dịch
vụ KCB nếu cập nhật được kịp thời công nghệ mới, thiết bị, máy móc mới với
tính chất hiện đại và đầu tư theo chiều sâu thì sẽ nâng cao được trình độ tay
nghề, kỹ năng, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ trong đơn vị, tạo ra nhiều sản
phẩm với chất lượng cao, giá thành hạ, đáp ứng kịp thời nhu cầu khám bệnh và

428
chữa bệnh cho nhân dân. Ngoài ra nếu đưa nhanh tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào
dịch vụ khám chữa bệnh còn giúp cho đơn vị sử dụng hợp lý dược phẩm y tế
thay thế và sử dụng hợp lý các loại dược phẩm, dược liệu.
1.2.2. Chính sách liên quan đến TTBYT & hạ tầng và quản lý
Mỗi đơn vị y tế đều phải thực hiện theo đúng đường lối, chủ trương, chính
sách xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.
Tổ chức quản lý dịch vụ KCB trong đơn vị y tế được duy trì, phát triển hay mở
rộng phụ thuộc rất lớn vào đường lối chủ trương, chính sách và pháp luật của
Đảng, Nhà nước và chính phủ
Các TTBYT tại bệnh viện Đa khoa hiện nay được tính khấu hao theo Quyết
định số 32/2008/QĐ-BTC, ngày 29 tháng 5 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính về việc ban hành chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong các cơ
quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng ngân sách
Nhà nước.
1.2.3. Khả năng phát triển của thị trường (Sản xuất, cung cấp, dịch vụ sửa
chữa, bảo dưỡng…)
Việc đưa ra những quy định nhập khẩu trang thiết bị y tế nhằm mục đích
đảm bảo các trang thiết bị y tế trên thị trường đạt chất lượng, an toàn cho cộng
đồng. Đồng thời tạo ra sự thuận lợi cho đơn vị kinh doanh và quản lý. Song trên
thực tế trong quá trình triển khai các quy định có nhiều vướng mắc.
Cơ cấu tổ chức và mô hình quản lý nhân lực kỹ thuật trang thiết bị y tế tại
các sở y tế cũng cho thấy, đội ngũ cán bộ kỹ thuật về trang thiết bị y tế hầu hết
là kiêm nhiệm; những đơn vị có cán bộ phụ trách kỹ thuật về trang thiết bị y tế
thì trình độ chủ yếu là cao đẳng hoặc trung cấp. Nhiều cán bộ được đào tạo từ
các chuyên ngành kỹ thuật khác như điện, tin học… thậm chí dược và y, rất ít
đơn vị có cán bộ trình độ đại học hoặc trên đại học.
Bên cạnh đó, TTBYT thay đổi liên tục theo công nghệ và nhu cầu, việc xác
định đó là thiết bị mới hay cũ vô cùng khó khăn. Việc phối hợp giữa các đơn vị
sự nghiệp hành chính trong việc nhập khẩu TTBYT còn nhiều bất cập, có nhiều
kẽ hở, thiết bị y tế nhập khẩu mới - cũ, thiết bị chất lượng không đạt chuẩn, thiết
bị lỗi thời, thiết bị chỉnh sửa…

429
Trang thiết bị y tế của Việt Nam hiện nay nhìn chung còn thiếu, chưa đồng
bộ và lạc hậu so với các nước trong khu vực. Hầu hết trang thiết bị y tế đang sử
dụng tại các cơ sở y tế chưa được định kỳ kiểm chuẩn, bảo dưỡng và sửa chữa,
không đủ nguồn. vốn để đầu tư và đổi mới, nhiều địa phương không có đủ kinh
phí để mua vật tư tiêu hao. Trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên môn y tế chưa
đủ để khai thác hết công suất trang thiết bị hiện có. Năng lực của cán bộ kỹ thuật
trang thiết bị y tế chưa đáp ứng kịp những đổi mới về kỹ thuật và công nghệ.
Chất lượng đào tạo, bố trí sử dụng nhân lực chuyên sâu về kỹ thuật thiết bị y tế
còn thấp so với yêu cầu. Nhiều bệnh viện tỉnh chưa có phòng quản lý Vật tư -
thiết bị y tế.
1.2.4. Quảng cáo/tiếp thị
Các xí nghiệp sản xuất trang thiết bị y tế còn ít, chủng loại nghèo nàn, chất
lượng sản phẩm chưa cao. Hệ thống kinh doanh, xuất nhập khẩu chưa hoàn
chỉnh, thiếu vốn, thiếu thông tin, thiếu cán bộ có nghiệp vụ thương mại và trình
độ kỹ thuật về trang thiết bị y tế.
Hậu quả là nhiều cơ sở kỹ thuật và trang thiết bị tại các cơ sở y tế từ trung
ương đến địa phương nhiều nơi bị xuống cấp đặc biệt về chất lượng, độ chính
xác, độ ổn định, độ an toàn do không được bảo dưỡng, sửa chữa và kiểm tra,
kiểm chuẩn kịp thời; các thiết bị tại các tuyến y tế cơ sở được sử dụng cho đến
khi bị hỏng hóc lớn mới được sửa chữa thay thế, gây lãng phí về hiệu quả đầu tư
và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng khám chữa bệnh. Thậm chí, tại một số
đơn vị tồn tại tình trạng thiết bị được đầu tư nhưng hoặc sử dụng không có hiệu
quả…
2. Phương thức huy động trang thiết bị cho chăm sóc sức khỏe tại cơ sở y tế
Theo các chuyên gia của Công ty Tài chính quốc tế (IFC) và WB, nhiều
nước trên thế giới đang phải đối mặt với áp lực tài chính công ngày càng tăng
với các dịch vụ công cộng, đặc biệt là y tế khi chi tiêu cho lĩnh vực này trên toàn
cầu đã vượt 4 nghìn tỷ USD. Ngân sách công thường không đủ đáp ứng nhu cầu
chăm sóc y tế của người dân. Và hình thức công – tư (PPP) có thể huy động
nguồn tài chính tư nhân, tăng khả năng tiếp cận và hiệu quả trong việc cung cấp
các dịch vụ y tế cho người dân.

430
Do mô hình dịch tễ thay đổi, nhu cầu đầu tư TTB y tế tại Việt Nam sẽ tiếp
tục tăng do chi phí y tế tăng nhanh trong lúc xu hướng bệnh lý không lây nhiễm
như ung thư, tim mạch, bệnh lý chuyển hóa, chấn thương tăng cao và tập trung
vào các thiết bị chẩn đoán hình ảnh, phòng mổ, hồi sức cấp cứu, xét nghiệm
chuyên sâu (thay thế thiết bị cũ, lạc hậu). Thiết bị của các hãng của Mỹ, Nhật
Bản, LHLB Đức sẽ tiếp tục chiếm phần lớn thị phần và thị trường TTB y tế VN
sẽ tiếp tục tăng trưởng 10-11% mỗi năm.  Sản xuất trong nước chiếm từ 1,5-2%
tổng thị phần trong nước. Các thiết bị được đầu tư nhiều nhất là chẩn đoán hình
ảnh (Xquang, siêu âm, MRI, CT scaner), thiết bị la bô xét nghiệm, thiết bị phòng
mổ, theo dõi bệnh nhân, thiết bị khử khuẩn, nội soi, xử lý chất thải y tế…
Việc đầu tư TTB y tế công nghệ cao sẽ tập trung chủ yếu ở các bệnh viện
lớn ở thành phố lớn (TP HCM, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ…), Riêng
thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến 2020 ước tính sẽ đầu tư chừng 900 triệu
USD để nâng cấp TTB y tế cho các bệnh viện. Trong khi đó, nhiều bệnh viện
tuyến tỉnh sẽ được tăng cường đầu tư.
Về đối tượng tiêu thụ, có 4 nhóm người mua TTB lớn nhất: bệnh viện công
(70%); bệnh viện có vốn nước ngoài (thường mua hàng hóa xuất xứ từ nước bản
địa), bệnh viện tư nhân và các viện nghiên cứu, trường đại học. Vốn đầu tư từ
Nhà nước sẽ tiếp tục chiếm vai trò quan trọng và bệnh viện công sẽ có xu hướng
tự chủ nhiều hơn trong việc tìm kiếm nguồn tài chính cho đầu tư  TTB y tế.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình
thức PPP có hiệu lực từ ngày 19/6/2018 thay thế cho Nghị định 15/2015/NĐ-CP
2.1.Ưu và nhược điểm của phương thức đầu tư TTBYT
Tại Việt Nam, nhu cầu chăm sóc y tế của người dân ngày càng cao dẫn tới
tình trạng quá tải của các bệnh viện công (đặc biệt ở tuyến Trung ương). Cho
nên sự phát triển mạnh các phòng khám và bệnh viện tư nhân… là những điều
kiện thuận lợi để phát triển mô hình PPP trong lĩnh vực y tế phát triển. Nhưng
việc thiếu một hệ thống cơ chế, chính sách toàn diện về PPP trong y tế, từ loại
hình đầu tư đến thủ tục triển khai phức tạp, cơ chế sử dụng vốn Nhà nước vào
các dự án chưa rõ ràng… đã khiến việc các dự án PPP trong lĩnh vực y tế chưa
thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân.

431
Hiện nay, khu vực y tế Nhà nước đang đối mặt với bất cập trong việc đáp
ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân cả về số lượng và chất lượng dẫn
đến nhu cầu KCB, chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tuyến ngoài công lập ngày
càng tăng cao. Từ đó đòi hỏi tuyến ngoài công lập cần huy động toàn xã hội
chăm lo cho sự nghiệp y tế theo hướng xã hội hóa hoạt động y tế.
Ưu điểm:
Khả năng của khu vực công trong việc cung cấp vốn đầu tư và hỗ trợ cho
dự án; và khả năng tài chính, công nghệ, thiết kế xây dựng, quản lý và khai thác
dự án với hiệu quả cao nhất của từng bên
- Tiết kiệm chi phí: Với mô hình hợp tác công – tư chính quyền địa phương
có thể nhận ra tiết kiệm chi phí cho việc đầu tư cũng như chi phí của việc vận
hành và bảo trì của những dịch vụ đó. Giảm gánh nặng ngân sách nhà nước cho
lĩnh vực y tế trong việc đầu tư nâng cấp và vận hành bảo dưỡng bệnh viện với số
tiền đầu tư ban đầu 
- Chia sẽ rủi ro: Với hình thức hợp tác công – tư, chính quyền địa phương
có thể chia sẽ những rủi ro với đối tác tư nhân. Rủi ro chính của dự án trong quá
trình tài trợ, thiết kế, xây dựng, quản lý, vận hành được chuyển cho nhà đầu tư.
Nhà đầu tư với kinh nghiệm và kỹ năng của mình thông thường được xem là có
khả năng thực hiện các công việc trên một cách tốt hơn.
Nhà đầu tư có điều kiện chủ động nâng cao chất lượng KCB thông qua đầu
tư vào cơ sở vật chất trang thiết bị và đội ngũ bác sỹ và chuyên gia giỏi
- Cải tiến cấp độ dịch vụ hoặc là bảo trì: PPP có thể giới thiệu sáng kiến
làm thế nào việc phân phối dịch vụ được thực hiện và tổ chức. PPP cũng giới
thiệu những kỹ thuật mới và kinh tế của quy mô rằng việc giảm chi phí hoặc cải
thiện chất lượng và mức độ của dịch vụ.
- Gia tăng doanh thu: PPP có thể thiết lập phí người sử dụng cái mà phản
ánh chi phí thật của việc cung câp một dịch vụ cụ thể. PPP cũng cho cơ hội để
giới thiệu những nguồn lực hiệu quả/ mới mẻ hơn mà những nguồn lực này
không thể là những phương pháp thường của cung cấp dịch vụ.
- Thực hiện hiệu quả hơn: Hiệu quả có thể được nhận ra thông qua những
hoạt động liên kết đa dạng như xây dựng và thiết kế, và thông qua những thủ tục
và hợp đồng linh động hơn và sự phê duyệt nhanh hơn cho việc cung cấp vốn

432
cho dự án và một quy trình ra quyết định hiệu quả hơn.Việc cung cấp dịch vụ
hiệu quả hơn không chỉ giúp cho việc cung cấp dịch vụ nhanh hơn mà còn giảm
được chi phí.
- Những lợi ích kinh tế: PPP mang lại nhiều lợi ích kinh tế chẳng hạn như
làm gia tăng mối liên hệ của chính quyền địa phương với khu vực tư nhân để từ
đó kích thích khu vực tư nhân tham gia cùng nhà nước cung cấp các dịch vụ
công trên địa bàn và đóng góp vào tăng trưởng lao động và kinh tế.
Nhược điểm:
Hiện quy định về (đầu tư công –tư) PPP tại Việt Nam được các nhà đầu tư
đánh giá là có tính ổn định chưa cao, trong khi hợp đồng dự án PPP thường kéo
dài từ 20- 30 năm. Bên cạnh đó, việc xây dựng khung pháp lý với hiệu lực cao
hơn (cấp Luật) góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện dự án, khắc phục được các
tồn tại, bất cập do khâu thực thi trong bối cảnh thiếu chế tài đối với hành vi vi
phạm
Khung pháp lý hiện hành còn thiếu các cơ chế tổng thể bao gồm các hình
thức hỗ trợ, ưu đãi và bảo đảm đầu tư từ phía Nhà nước cho nhà đầu tư PPP để
tăng tính hấp dẫn của dự án cũng như đảm bảo việc thực hiện dự án thành công.
- Sự thiếu kiểm soát của chính phủ: ở bản chất của mối quan hệ đối tác nhà
nước – tư nhân, là gắn liền với những rủi ro, những lợi ích và việc ra quyết định
của những đối tác.
- Tăng chi phí: một rủi ro tiếp theo cũng dành cho khu vực công là việc
quản lý chi phí và các chính sách về giá
- Những rủi ro chính trị: một mối quan hệ đối tác nhà nước – tư nhân mà
trong đó sự kết hợp của những chính quyền địa phương thiếu kinh nghiệm và
những nhà đầu tư tư nhân thiếu trình độ, không hiểu rõ có thể gây ra những rủi
ro chính trị rất cao. Chính quyền địa phương mong muốn giảm rủi ro này bằng
cách ký những hợp đồng hợp tác ít phức tạp và hiểu rõ hơn
- Dịch vụ không tin cậy: đối tác tư nhân có thể bị xảy ra đối với các vấn đề
về lao động, tài chính hoặc là các tình trạng khác mà có thể ảnh hưởng đến danh
dự của họ

433
- Khả năng không có lợi ích từ sự cạnh tranh: Sự cạnh tranh giữa các đối
tác tư nhân với nhau để đảm bảo quyền lợi để tiến tới một mối quan hệ đối tác
nhà nước – tư nhân là một lợi ích quan trọng của chính quyền địa phương
- Chất lượng giảm hoặc là hiệu quả của dịch vụ: nếu như cấu trúc không
tốt, hợp đồng đối tác nhà nước – tư nhân có thể gây ra một sự giảm sút trong
chất lượng dịch vụ, cung cấp dịch vụ không hiệu quả hoặc thiếu bảo trì những
tiện nghi
2.2.Ưu và nhược điểm của phương thức đặt TTBYT cho sử dụng tại cơ sở y tế
Thực trạng tại Bệnh viện nước ta hiện nay trong cung ứng dịch vụ chăm
sóc sức khỏe cho người dân vẫn còn nhiều bất cập. Có những dịch vụ y tế rất
cần thiết phải triển khai, nhưng bệnh viện không thể thực hiện được, bới các
nguyên nhân như sau: (1) Bệnh viện có đội ngũ nhân lực mạnh nhưng hệ thống
trang thiết bị lại thiếu (như xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức
năng,…) hoặc (2) chúng ta có hệ thống trang thiết bị, cơ sở hạ tầng tốt nhưng
lại chưa có đội ngũ có kinh nghiệm để làm hoặc (3) chúng ta thiếu cả hệ thống
trang thiết bị và nhân lực thực hiện kỹ thuật có kinh nghiệm
Ưu điểm:
Tận dụng được nguồn vốn từ các doanh nghiệp
Đáp ứng được nhu càu khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh
Tăng thu nhập cho bệnh viện, nâng cao đời sống cho cán bộ y tế
Đảm bảo chính sách y tế cho người dân
Nhược điểm:
Đối với hoạt động liên doanh, liên kết theo hình thức đặt TTBYT Doanh
nghiệp nhằm mục đíchbán hóa chất xét nghiệm chỉ để bán hóa chất, vật tư tiêu
hao để kiếm lợi
Về công tác đấu thầu, chưa ban hành các văn bản quy định cụ thể về đấu
thầu trang thiết bị y tế, đặc biệt là công tác xây dựng, phê duyệt kế hoạch đấu
thầu mua sắm hóa chất, vật tư tiêu hao còn nhiều bất cập
Giá giữa các loại hóa chất của các hang khác nhau, hoặc giá cùng một loại
hóa chất ở mỗi địa phương có sự khác nhau
Có sự móc nối giữa doanh nghiệp – Bệnh viện – nhân viên y tế nhằm chuộc lợi

434
2.3.Ưu và nhược điểm của phương thức thuê TTBYT
Ưu điểm: Không phải bỏ vốn ngay từ ban đầu
Nhược điểm:
Định giá máy cao, tính thời gian khấu hao trang thiết bị lớn
Chi phí định kỳ kiểm chuẩn, bảo dưỡng và sửa chữa cao
Thủ tục pháp lý chưa chặt chẽ gây thất thoát cho nhà nước
Chuộc lợi cá nhân cao
Các rủi ro này chủ yếu do thiên tai gây ra như lũ lụt, sóng thần, bão tố, hoả
hoạn làm gián đoạn và gây hậu quả cho bệnh viện
Hợp đồng giao thầu có thể hấp dẫn hơn với các đối tác tư nhân vì hợp đồng
này giảm bớt các rủi ro đi kèm với khả năng thu hồi vốn chậm khi cung cấp dịch
vụ. Phí giao thầu thường được tính theo một tỷ lệ thỏa thuận trong mỗi đơn vị
dịch vụ được bán ra. - Hạn chế: Vấn đề chủ chốt trong việc chuyển từ các hợp
đồng dịch vụ và hợp đồng quản lý sang một hợp đồng cho thuê là doanh thu của
nhà thầu từ các khoản thanh toán của khách hàng và vì thế vấn đề về các mức
phí dịch vụ ngày càng trở nên nhạy cảm. Điều này có thể đòi hỏi các thỏa thuận
điều chỉnh và cơ cấu phí phức tạp. Thêm vào đó, đầu tư vốn vẫn thuộc nghĩa vụ
của chính phủ và vốn đầu tư tư nhân không được huy động.
2.4.Ưu và nhược điểm của phương thức thanh toán theo hoạt động “PAY
PER ACT”
Thực tế cho thấy các hoạt động liên doanh, liên kết tại bệnh viện công đã
mang lại nhiều kết quả tích cực, đáp ứng nhu cầu về đổi mới trang bị kỹ thuật y
tế, đặc biệt những trang thiết bị kỹ thuật cao, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh
của nhân dân trong hoàn cảnh kinh phí Nhà nước chưa cung cấp đủ. Việc huy
động các nguồn đầu tư tư nhân dưới các hình thức khác nhau cho y tế đã tạo sự
chuyển biến tích cực trong việc huy động các nguồn lực xã hội, giúp nâng cao
một bước số lượng cũng như chất lượng các dịch vụ y tế phục vụ nhân dân
Ưu điểm:
Không phải đầu tư kinh phí
Dễ thanh toán

435
Hợp đồng dịch vụ thông thường thích hợp nhất khi dịch vụ có thể được xác
định rõ ràng trong hợp đồng, mức độ nhu cầu tương đối chắc chắn và việc thực
hiện có thể theo dõi một cách dễ dàng. Các hợp đồng dịch vụ là một lựa chọn có
độ rủi ro tương đối thấp trong việc mở rộng vai trò của khu vực tư nhân. Các
hợp đồng dịch vụ có thể có tác động nhanh và đáng kể đối với hoạt động và tính
hiệu quả của hệ thống và là một phương thức để chuyển giao công nghệ và phát
triển năng lực quản lý. Các hợp đồng dịch vụ thường có thời gian ngắn, tạo điều
kiện cho cạnh tranh liên tục trong lĩnh vực. Các rào cản đối với việc tham gia
cũng ở mức thấp căn cứ trên việc chỉ có một hoạt động dịch vụ riêng biệt được
đưa ra đấu thầu. Việc đấu thầu lặp đi lặp lại duy trì áp lực đối với các nhà thầu
phải duy trì chi phí thấp, trong khi các rào cản ở mức thấp khuyến khích nhiều
công ty tham gia cạnh tranh với nhau
Nhược điểm:
Dễ bị làm sai lệch trên giấy tờ, sổ sách nhằm chuộc lợi cá nhân
Tính pháp lý lỏng lẻo
Các hợp đồng dịch vụ sẽ không phù hợp nếu mục tiêu chính là thu hút vốn
đầu tư. Các hợp đồng có thể nâng cao tính hiệu quả và vì thế giúp đem lại một
lượng doanh thu nhất định để sử dụng cho các mục đích khác, nhưng nhà thầu
không có nghĩa vụ cung cấp tài chính cho dự án. Tính hiệu quả của nhà thầu có
thể sẽ không đạt được nếu nguồn tài chính cho dự án (từ chính phủ hoặc từ nhà
tài trợ) không thể huy động được. Thực tế hoạt động của nhà thầu tách biệt khỏi
các hoạt động chung của công ty có nghĩa là có thể không có tác động rộng rãi
hoặc sâu sắc tới hoạt động chung của hệ thống mà chỉ có những cải thiện riêng
biệt và giới hạn. Khu vực nhà nước vẫn chịu trách nhiệm về tài sản và qui định
biểu phí dịch vụ, cả hai vấn đề này đều có tính nhạy cảm chính trị và là yếu tố
then chốt để duy trì hệ thống.
2.5.Ưu và nhược điểm của phương thức thanh toán theo xét nghiệm (PAY
PER TEST)
Ưu điểm:
Không phải đầu tư ban đầu
Kinh phí ít
Nhược điểm:

436
Lợi nhuận không cao
Chất lượng khó kiểm soát
Người bệnh dễ bị móc túi do số chỉ định nhiều
CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG
Câu 1: Trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý và sử dụng trang thiết bị y tế
Câu 2: Trình bày ưu, nhược điểm của phương thức đầu tư trang thiết bị y tế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y Tế (2016), Quản lý bệnh viện, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội.
2. Bộ Y Tế (2012), Tài liệu đào tạo Tăng cường năng lực quản lý điều dưỡng.
3. Bộ Y tế (2011), Thông tư số 24/2011/TT – BYT ngày 21/6/2011 về việc
hướng dẫn nhập khẩu TTBYT
4. Bộ Y Tế (2004), Quyết định số 437/QĐ-BYT ngày 20/02/2002 về việc ban
hành Danh mục trang thiết bị y tế Bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, huyện,
phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế xã và túi y tế thôn bản.
5. Bộ Y Tế (2007), Tổ chức và quản lý y tế, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội trang
187 – 188.
6. Bộ Tài chính (2008), Quyết định số 32/2008/QĐ-BTC, ngày 29 tháng 5 năm
2008 về việc ban hành chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong các
cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng ngân
sách Nhà nước.
7. Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP có hiệu lực từ
ngày 19/6/2018 thay thế cho Nghị định 15/2015/NĐ-CP
8. Nghị định số 36/2016/NĐ-CP quy định việc quản lý trang thiết bị y tế bao
gồm phân loại trang thiết bị y tế; sản xuất, lưu hành, mua bán, cung cấp dịch
vụ trang thiết bị y tế; thông tin, nhãn trang thiết bị y tế và quản lý, sử dụng
trang thiết bị y tế tại các cơ sở y tế.
9. Nghị định số 169/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung các quy định Nghị định số
36/2016/NĐ-CP.
10.Thông tư liên tịch Bộ Y tế- Bộ Nội vụ số 11/2005/TTLT-BYT BNV.
11.Trường Đại học Y Hà Nội - Bộ môn Tổ chức và Quản lý y tế. Bài giảng
Quản lý và Chính sách y tế. Hà Nội, 2002.

437
CHUYÊN ĐỀ 11
TỔNG QUAN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG
THỰC HÀNH ĐIỀU DƯỠNG

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 8 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong bài này, học viên có khả năng:
1. Trình bày được khung đạo đức y tế cơ bản.
2. Trình bày được đạo đức trong thực hành điều dưỡng.
3. Trình bày được nội dung đạo đức trong nghiên cứu điều dưỡng.
NỘI DUNG
1. Lịch sử hình thành các quy định về đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học
và các quy định tại Việt Nam
Điều luật Nuremberg ban hành năm 1947 là bản hướng dẫn quốc tế về đạo
đức trong nghiên cứu y sinh học đầu tiên. Từ đó đến nay đã có nhiều Hướng dẫn
quốc tế và quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học có sự tham gia của
đối tượng là con người được ban hành nhằm bảo vệ các đối tượng tham gia
nghiên cứu.
Tuyên ngôn Helsinki do Hiệp hội Y học Thế giới ban hành lần đầu vào năm
1964, sau đó được bổ sung và hoàn chỉnh nhiều lần, bản hoàn chỉnh lần gần đây
nhất vào năm 2013. Hướng dẫn quốc tế của Hội đồng các tổ chức quốc tế về khoa
học y học (CIOMS: Council for International Organizations of Medical Sciences)
xuất bản năm 2002 đã thay thế các hướng dẫn năm 1993. Năm 2000, Chương
trình liên hợp quốc về HIV/AIDS đã xuất bản văn bản hướng dẫn của UNAIDS
về: “Cân nhắc các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu vắc-xin dự phòng HIV”.

438
Năm 1996, Hội nghị Quốc tế về hòa hợp các yêu cầu kỹ thuật trong đăng
ký dược phẩm sử dụng ở người (ICH: International Conference on
Harmonisation) đã ban hành các hướng dẫn quốc tế về các yêu cầu kỹ thuật đối
với việc đăng ký các sản phẩm dược phẩm sử dụng cho con người, trong đó có
quy định về Thực hành nghiên cứu lâm sàng tốt (GCP - Good Clinical Practice)
nhằm đảm bảo chấp nhận lẫn nhau các dữ liệu từ các nghiên cứu được các cơ
quan có thẩm quyền của Liên minh Châu Âu, Nhật, Hoa Kỳ và các quốc gia
khác chấp nhận. Hướng dẫn ICH-GCP là bản hướng dẫn quốc tế được các quốc
gia chấp nhận và áp dụng đưa vào luật pháp cũng như là căn cứ xây dựng hướng
dẫn về Thực hành nghiên cứu lâm sàng tốt, đặc biệt với các nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng, trong đó có vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học. 
Năm 2001, Hội đồng Bộ trưởng của Liên minh Châu Âu đã thông qua
“Hướng dẫn chung về thử nghiệm lâm sàng”. Từ năm 2004 hướng dẫn này đã
được lồng ghép trong các văn bản luật pháp của các quốc gia trong liên minh.
Nhiều quốc gia như Malaysia, Philippin, Ấn Độ, Australia,… đã ban hành
các hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y học và Thực hành nghiên
cứu lâm sàng tốt.
Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta đã quan tâm đến vấn đề
đạo đức trong nghiên cứu y sinh học và thử nghiệm lâm sàng từ những năm đầu
thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Bên cạnh việc biên dịch và xuất bản các tài liệu quốc
tế hướng dẫn về đạo đức trong nghiên cứu, Bộ Y tế đã có các văn bản quy định
về các thử nghiệm lâm sàng thuốc y học cổ truyền tại Quyết định 371/QĐ-BYT
ngày 12/3/1996 về việc ban hành "Quy chế đánh giá tính an toàn và hiệu lực
thuốc cổ truyền".
Năm 2002 Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định ban hành Quy chế tổ chức
và hoạt động của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học tại Quyết định
số 5129/2002/QĐ-BYT ngày 19 tháng 12 năm 2002. Ngày 07/03/2008 Bộ
trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định số 799/2008/QĐ-BYT về việc ban hành
Hướng dẫn thực hành tốt thử nghiệm lâm sàng thuốc nhằm chuẩn hóa quy trình
triển khai nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng thuốc tại Việt Nam. Năm 2008, Bộ Y
tế thành lâp Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp Bộ Y tế nhiệm
kỳ 2008 - 2012 tại Quyết định số 2626/2008/QĐ-BYT ngày 22/07/2008 kèm

439
theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y
sinh học nhiệm kỳ 2008 – 2012 .
Năm 2012, Bộ Y tế thành lập Ban đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên
cứu y sinh học cấp Bộ Y tế nhiệm kỳ 2012 - 2017 (Quyết định số 458/QĐ-BYT
ngày 16/2/2012) và Quy chế hoạt động của Ban đánh giá các vấn đề đạo đức
trong nghiên cứu y sinh học cấp Bộ Y tế (Quyết định số 460/QĐ-BYT ngày
16/2/2012).
Năm 2013, Bộ Y tế ban hành Hướng dẫn tổ chức và hoạt động của Hội
đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp cơ sở tại Quyết định số 111/QĐ-
BYT ngày 11/01/2013.
Việt Nam là một nước đang phát triển, các hướng dẫn về đạo đức trong
nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng bên cạnh việc tuân thủ các hướng dẫn quốc
tế, chúng ta cần tuân thủ luật pháp, quy định của Việt Nam, đồng thời quan tâm
đến nền văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán của từng vùng miền, dân tộc.
2. Khái niệm đạo đức điều dưỡng
Từ thời đại của Florence Nightingale, năm 1858, bà đã viết: ‘’ mục đích
thật sự của điều dưỡng là đặt người bệnh vào điều kiện tốt nhất để thiên nhiên
tác động vào họ”. Bà cho là người Điều dưỡng phải biết cách giúp người bệnh
để họ được sống, biết cách chăm sóc sức khoẻ và giữ gìn sức khoẻ của trẻ em
cũng như người trưởng thành để tất cả mọi người lúc nào cũng ở trong tình trạng
khoẻ mạnh. Bên cạnh đó, các nhà điều dưỡng cho rằng Điều dưỡng vừa là một
nghệ thuật, vừa là một khoa học. Điều dưỡng không chỉ hướng vào chăm sóc
người bệnh mà còn quan tâm đến vấn đề bảo vệ, nâng cao sức khoẻ cũng như
việc dự phòng bệnh tật. Qua nhiều năm, bằng các phương pháp khoa học để mô
tả, giải thích, nghề điều dưỡng ngày càng trở nên tinh xảo hơn.
Ngày nay, Điều dưỡng được coi là chẩn đoán và điều trị các đáp ứng của
con người đối với những vấn đề sức khoẻ đang xảy ra và sẽ xảy ra. Để làm được
các vấn đề trên đòi hỏi người Điều dưỡng không những phải không ngừng học tập
và còn phải có đạo đức trong công việc chăm sóc. Chăm sóc được coi là hoạt
động của con người, mang tính truyền cảm về nhân bản, thực tế. Chăm sóc còn là
một khoa học, nghệ thuật có tình người, đòi hỏi người Điều dưỡng phải có đạo

440
đức. Đạo đức Điều dưỡng là kim chỉ nam của người Điều dưỡng, giúp người
Điều dưỡng không bị lạc hướng trong khi thực hiện nhiệm vụ cao cả của mình.
Đạo đức Điều dưỡng quy định những chuẩn mực chi phối quyết định và
hành vi điều dưỡng. Đạo đức điều dưỡng phải phù hợp với tính đa dạng của của
công tác điều dưỡng một cách xác đáng. Phạm vi điều dưỡng bao gồm mọi khía
cạnh của công tác chăm sóc con người chứ không chỉ việc chăm sóc người
bệnh. Vì vậy vai trò người điều dưỡng trong công tác điều dưỡng ngày càng lớn,
đòi hỏi các điều dưỡng viên phải đối mặt với những vấn đề phức tạp hơn về đạo
đức.
3.1. Khung đạo đức y tế của Kass
Khung đạo đức y tế được Nancy E. Kass1 đề xuất để xem xét. Đây không
phải là một quy tắc đạo đức nghề nghiệp, có nhiều khả năng sẽ giải quyết các
quy tắc chung và mong đợi của chuyên gia hành vi; thay vào đó, đây là một công
cụ phân tích, được thiết kế và đề xuất để giúp các chuyên gia y tế xem xét các
yếu tố liên quan đến đạo đức của các can thiệp các chính sách, các sáng kiến
nghiên cứu và các chương trình.
3.1.1 Mục tiêu
Bước đầu tiên cho bất kỳ chương trình y tế nào được đề xuất là xác định
các mục tiêu của chương trình. Các mục tiêu này nói chung phải được thể hiện
trong điều khoản về cải thiện sức khoẻ cộng đồng, nghĩa là giảm bệnh tật hoặc
tử vong. Chẳng hạn, giảm nguy cơ tim mạch cần phải là mục đích cuối cùng của
chương trình giáo dục sức khoẻ (hoặc mục tiêu cuối cùng của chương trình lớn
hơn mà nó là một phần), cụ thể là các cá nhân sẽ có ít cơn đau tim hơn, chứ
không đơn thuần là các cá nhân sẽ tìm hiểu thông tin mới hoặc thậm chí họ sẽ
thay đổi hành vi của mình. Đối với một nghiên cứu, mục tiêu cuối cùng của nó
sẽ là việc các kết quả, nếu tích cực, sẽ được áp dụng vào cộng động với số lượng
dân số tối đa và cải thiện tình trạng sức khoẻ của nhóm đối tượng.
Mặc dù các mục tiêu cần đạt được (chẳng hạn như liệu các cá nhân sẽ nắm
được thông tin y tế hay liệu họ có đồng ý thử nghiệm) là những phần quan trọng
của kế hoạch và đánh giá chương trình và có thể là rất quan trọng để đạt được sự
1

441
cải thiện sức khoẻ, mục tiêu cơ bản của giảm tỷ suất mắc bệnh và tử vong là kết
quả của chương trình hoặc đánh giá được kết quả cuối cùng của chương trình.
Đây không phải để nói rằng mỗi chương trình cá nhân hoặc nghiên cứu phải đạt
được kết quả này. Các nghiên cứu dịch tễ học có thể cung cấp dữ liệu mô tả giúp
các nhà khoa học nhiều năm sau hình thành và phát triển một can thiệp để làm
giảm tình trạng bệnh tật hoặc tử vong; một chương trình giáo dục sức khoẻ có
thể là một trong những can thiệp đa dạng giúp làm giảm nguy cơ và sức khoẻ
kém. Tuy nhiên, lập luận đưa ra ở đây là các chương trình, can thiệp hoặc nghiên
cứu sức khoẻ cộng đồng phải được thiết kế với nhận thức về mối quan hệ giữa
chương trình này và giảm tỷ lệ bệnh tật hoặc tử vong.
Tất nhiên, các loại lợi ích khác, nói chung là các phúc lợi xã hội, có thể tích
luỹ từ các chương trình y tế. Các chương trình y tế có thể dẫn đến việc làm lớn
hơn, ví dụ, cũng như các lợi ích ít hữu hình hơn, chẳng hạn như xây dựng liên
minh hoặc nâng cao sức khỏe cộng đồng. Những lợi ích này rất quan trọng và
cần được xem xét kỹ lưỡng. Tuy nhiên, chúng là các kết quả ngẫu nhiên hoặc
trung gian của các chương trình y tế chứ không phải là mục tiêu cuối cùng của
chương trình y tế. Nếu một chương trình nhằm mục đích tăng việc làm như là
kết thúc (ví dụ như tăng việc làm như một phương tiện để làm giảm tình trạng
tâm lý hoặc như một phương tiện để cải thiện tình trạng kinh tế xã hội và do đó
dẫn đến cải thiện sức khoẻ) hoặc tăng cường cộng đồng (thay vì củng cố cộng
đồng như một phương tiện để giảm bạo lực giữa các cá nhân hoặc như một
phương tiện để giúp đỡ để giám sát phúc lợi của những người trẻ tuổi hoặc
người già trong cộng đồng), thì chương trình này chủ yếu là một chương trình xã
hội, chương trình y tế.
Như được mô tả dưới đây, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong không cần và
không thể là mục tiêu của mỗi chương trình hoặc chương trình can thiệp y tế; tuy
nhiên, các chương trình y tế đơn lẻ không nên được thực hiện mà không phải là
một phần của một gói lớn các chương trình có mục tiêu kết hợp là giảm bệnh tật
và tử vong.
Theo quan điểm này, can thiệp nhằm mục đích cải thiện việc tiếp cận chăm
sóc trong số những người khó tiếp cận có một mục tiêu y tế cực kỳ hợp lý, giả
định rằng chương trình này có hiệu quả trong việc cải thiện khả năng tiếp cận.

442
Các can thiệp khác sẽ được thiết kế để giảm bất bình đẳng xã hội sẽ được thảo
luận thêm trong bước 5.
Khi chúng ta xem xét các mục tiêu và lợi ích y tế để xem ai sẽ được hưởng
lợi và liên quan, chúng ta sẽ không khó để nhận thấy các can thiệp y tế thường
được nhắm tới một nhóm người để qua đó bảo vệ sức khoẻ của những người
khác. Chẳng hạn, các chương trình phòng chống bệnh Lao được thiết kế để bên
cạnh việc điều trị cho người nhiễm Lao còn là bảo vệ những người dân trong
cộng đồng khỏi các mối đe dọa về sức khoẻ do người khác gây ra. Trong một số
trường hợp, các chương trình y tế được thiết kế chủ yếu để bảo vệ các cá nhân
khỏi bị ảnh hưởng bởi đe dọa lây bệnh, cho thấy rằng hoạt động y tế là có tính
đề phòng. Các chiến dịch giáo dục sức khoẻ, kiểm tra huyết áp hay giới hạn tốc
giao thông, v.v... là nhằm thúc đẩy các mối quan tâm xã hội về chi phí, chủ yếu
là tăng cường khả năng bảo vệ sức khoẻ của người dân. Hạn chế quyền tự do của
ai đó để bảo vệ bản thân và hạn chế tự do để bảo vệ người khác tạo ra những
gánh nặng về đạo đức khác nhau.
3.1.2. Công cụ phân tích
Các can thiệp đề xuất hoặc các chương trình dựa trên một số giả định nhất
định dẫn chúng ta tin rằng các chương trình sẽ đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Bước 2 yêu cầu chúng ta kiểm tra những giả định đó là gì và những dữ liệu nào
tồn tại để chứng minh cho mỗi yếu tố đó. Một chương trình giảm nguy cơ tim
làm mục tiêu cuối cùng là giảm các yếu tố tim và gây tử vong. Các giả định của
chương trình giáo dục này (hoặc nỗ lực lớn hơn mà nó là một phần) là chương
trình sẽ tiếp cận những cá nhân có nguy cơ mắc các biến cố về tim; những cá
nhân này sẽ học được những thông điệp giảm rủi ro; từ đó cá nhân sẽ thay đổi
hành vi của họ (ví dụ như ngừng hút thuốc lá, thay đổi chế độ ăn uống, tăng
cường tập thể dục) theo cách được đề xuất bởi chương trình; những thay đổi này
sẽ không xảy ra nếu không có chương trình; và sự thay đổi hành vi tự nó sẽ dẫn
đến các tác động xấu đến hoạt động tim ít hơn.
Trong khi nhiều chương trình giáo dục sức khoẻ rất hiệu quả trong việc
truyền tải thông tin mà người nhận học và hiểu, các chương trình nói chung ít
thành công hơn khi mục tiêu hướng tới thay đổi hành vi. Như vậy, mặc dù đánh
giá khá hẹp có thể cho thấy thành công (về sự hiểu biết của người tham gia), một

443
chương trình cuối cùng không thể tuyên bố thành công nếu không thay đổi được
hành vi tỷ lệ bệnh tật và tử vong vẫn không thay đổi.
Đây không phải là để cho thấy rằng mỗi chương trình phải đạt tới giảm bệnh
tật của chính nó. Các chương trình giáo dục sức khoẻ cá nhân hoặc các chương
trình sàng lọc, ví dụ, có thể là những sáng kiến lớn hơn để giảm tỷ lệ bệnh tim và
tử vong. Dữ liệu có thể cho thấy rằng nhiều chiến dịch giáo dục ở các định dạng
khác nhau và với các thông điệp khác nhau được yêu cầu là để làm thay đổi hành
vi lan rộng. Các nỗ lực nhiều chiều được xem là thích hợp và có ích khi có dữ liệu
cho thấy sự kết hợp có thể mang lại kết quả mong muốn. Một lần nữa, nếu các
phương pháp tiếp cận nhiều chiều chỉ đơn giản là giả thuyết hoặc giả định để giảm
các yếu tố gây ra bệnh tật, thì cần phải nghiên cứu thêm.
Bước này kiểm tra dữ liệu hiện có để thách thức các giả định của chúng ta
và chỉ thực hiện các chính sách hoặc chương trình dựa vào dữ liệu thường bị bỏ
quên trong y tế. Người ta có thể cho rằng đây không phải là vì các chuyên gia
không quan tâm đến việc liệu các phương pháp của họ có liên quan đến kết quả
của họ mà là vì chúng ta chỉ đơn giản giả định rằng họ làm và chúng ta bỏ qua
việc tìm kiếm dữ liệu chứng minh chúng đúng hay sai. Vì vậy, giới thiệu một
chương trình dựa trên giả thiết rằng một số người biết thuốc lá gây hen suyễn và
ung thư phổi sẽ bỏ thuốc lá hoặc sàng lọc HIV bởi vì chúng ta cho rằng những
người biết họ bị nhiễm sẽ bắt đầu sử dụng bao cao su trong mối quan hệ tình
dục. Đó là khi các giả định của chúng ta có vẻ rõ ràng nhất về mặt trực giác rằng
chúng ta đang có nguy cơ lớn nhất là không quan tâm đến việc xác định mức độ
chúng được hỗ trợ bằng chứng thực.
Câu hỏi đặt ra cho việc phân tích chính sách và đạo đức là số lượng dữ liệu
nào đủ để biện minh cho việc thực hiện chương trình? Theo nguyên tắc chung,
gánh nặng lớn hơn của một chương trình - ví dụ như về chi phí, những ràng buộc
về tự do hoặc nhắm mục tiêu vào các phân đoạn cụ thể, dễ bị tổn thương đến
người dân - thì phải có bằng chứng rõ ràng hơn để chứng minh rằng chương
trình sẽ đạt được mục đích của nó. Nếu ít nhất một số dữ liệu không tồn tại để
chứng minh tính hợp lệ của các giả định của chương trình, phân tích có thể dừng
ngay ở đây và về mặt đạo đức y tế, chương trình không nên được thực hiện.

444
Ngược lại, sự hiện diện của dữ liệu tốt bản thân nó không biện minh cho chương
trình; nó cho phép chúng ta chuyển sang giai đoạn tiếp theo của phân tích.
3.1.3. Giá trị đạo đức
Nếu dữ liệu gợi ý rằng một chương trình có khả năng đạt được các mục tiêu
đã đề ra, thì bước thứ ba của khung này yêu cầu chúng ta xác định những gánh
nặng hoặc những nguy cơ và rủi ro có thể xảy ra trong việc thực hiện các can
thiệp hay nghiên cứu y tế.
Mặc dù có nhiều loại gánh nặng hoặc nguy cơ có thể đưa đến trong các
chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, đa số sẽ chia thành 3 loại chính:
nguy cơ đối với sự riêng tư và bảo mật, đặc biệt là trong các hoạt động thu thập
dữ liệu; nguy cơ đối với tự do và tự quyết của cá nhân khi mục tiêu sức khoẻ
cộng đồng được đặt lên hàng đầu, các quy định có thể được ban hành với các
biện pháp cần thiết để kiểm soát dịch bệnh; và nguy cơ đối với công bằng, nếu
các chuyên gia y tế đề xuất các can thiệp sức khoẻ cộng đồng chỉ nhắm vào các
nhóm cụ thể. Các loại gánh nặng khác nhau ít nhiều có thể xảy ra do các loại
hình hoạt động y tế khác nhau mang lại.
Giám sát dịch bệnh và các số liệu thống kê quan trọng nhằm theo dõi các
xu hướng về sức khoẻ và dân số, đặc biệt là kể từ khi thu thập dữ liệu là bắt buộc
và dữ liệu thường có thể nhận biết được danh tính, trong nhiều trường hợp, các
số liệu này còn công khai, điều này làm tăng mối quan ngại về quyền riêng tư
của các đối tượng. Mặc dù các loại dữ liệu thu thập được không được coi là rất
cá nhân hoặc nhạy cảm bởi hầu hết mọi người, đều có ranh giới riêng tư của
riêng mình. Hơn nữa, đối với một số cá nhân, các yếu tố đặc biệt của số liệu
thống kê quan trọng, chẳng hạn như quan hệ cha con hoặc cái chết, có thể được
coi là sự xâm phạm đời tư của họ. Cuối cùng, thống kê quan trọng và các dữ liệu
thu thập công khai khác có thể tiết lộ về các nhóm dân tộc hoặc các đối tượng
yếm thế khác từ đó có thể gây kỳ thị hoặc phân biệt đối xử.
Báo cáo về bệnh truyền nhiễm cũng làm tăng mối quan ngại về quyền riêng
tư, nhưng sự vi phạm và rủi ro có thể lớn hơn, vì tên chỉ được báo cáo cho
những người có điều kiện báo cáo (và thường có xu hướng xã hội). Do các cá
nhân thường muốn có khả năng kiểm soát xem liệu những thông tin cá nhân nào
được tiết lộ, báo cáo về bệnh tật sẽ làm tăng thêm nguy cơ vi phạm tính bảo mật

445
nếu các biện pháp an ninh không được tuân thủ hoặc không hoạt động tốt. Đối
với một số người, nguy cơ vi phạm quyền riêng tư chỉ ở mức độ bảo mật không
được duy trì và gây tổn hại như kỳ thị xã hội hoặc mất việc làm do có sự tiết lộ
không chính đáng.
Báo cáo bệnh tật là một ví dụ về một chức năng y tế, ít nhất là trong khuôn
khổ của nó, cũng là thể hiện không công bằng, trong đó gánh nặng của chương
trình là do những người mắc bệnh, làm ảnh hưởng đến lợi ích của những người
không mắc bệnh. Sự không đồng đều này của gánh nặng và lợi ích có thể được
biện minh trong những trường hợp nhất định, khi các lợi ích là quan trọng và khi
không có cách nào giảm gánh nặng để đạt được chúng. Sự không đồng đều về
lợi ích và gánh nặng luôn là vấn đề khó giải quyết, nếu giải quyết các nhóm gánh
nặng theo cách độc đoán và không có lý do sức khoẻ.
Tiếp xúc, đôi khi đi kèm với báo cáo bệnh truyền nhiễm, đặt ra thêm những
nguy cơ riêng. Không chỉ tên và tình trạng của một cá nhân được báo cáo, nhưng
các cá nhân còn được yêu cầu cung cấp các địa chỉ liên lạc khác (ví dụ như là
đối tượng quan hệ tình dục) mà họ thường tiếp xúc. Rõ ràng là một hành vi xâm
phạm quyền riêng tư, việc truy tìm cũng xâm phạm quyền riêng tư của cá nhân
có tên được tiết lộ, những người không thể tự quyết định cho dù họ phải tiết lộ
tên của mình cho các điều tra viên. Như đã nêu ở trên, có thể xảy ra các thiệt hại
nếu sự bảo mật bị tiết lộ, các cá nhân có thể cảm thấy bị đối xử phân biệt khi
quyền riêng tư của họ bị rò rỉ.
Giáo dục sức khoẻ đặt ra những câu hỏi thú vị về đạo đức. Theo một số
cách nhất định, giáo dục sức khoẻ là sự can thiệp rộng rãi và tốt nhất cho sức
khoẻ cộng đồng, vì nó hoàn toàn tự nguyện và nhằm trao quyền cho mọi người
tự quyết định sức khoẻ của mình khi họ được trang bị thông tin chính xác. Từ
quan điểm đạo đức, giáo dục rõ ràng là thích hợp hơn với các chiến lược phòng
ngừa khác, trong chừng mực có hiệu quả tương đương vì nó tạo ra rất ít gánh
nặng cho mọi người và cho xã hội (nếu có).
Tuy nhiên, giáo dục sức khoẻ, mặc dù là một thành phần thiết yếu của hầu
hết các chiến dịch y tế, sẽ không thích hợp cho tất cả các tình huống. Thứ nhất,
giáo dục có thể không hiệu quả ở tất cả các môi trường, và có thể cần phải có
những biện pháp mạnh hơn. Thứ hai, để tăng hiệu quả, các chương trình giáo

446
dục sức khỏe có thể đưa ra những tình huống đáng nghi ngờ về đạo đức, như
thao túng hoặc thậm chí cưỡng ép đối tượng. Ví dụ, một chương trình ngừng hút
thuốc lá có thể cố vận dụng thái độ bằng cách cho thấy rằng người hút thuốc
không được ưa chuộng và chỉ cung cấp thông tin sai lệch một phần hoặc thậm
chí là sai hoàn toàn để đạt được mục đích của nó. Thứ ba, tất cả các chiến dịch
giáo dục sức khoẻ đều mang tính phổ biến áp đặt. Thứ tư, các chương trình giáo
dục sức khoẻ có thể hướng tới mục tiêu truyền tải các thông điệp tới một số đối
tượng nhất định. Mặc dù các mục tiêu này thường được chứng minh trong các
lĩnh vực y tế(ví dụ dữ liệu dịch tễ cho thấy rằng các thành viên trong nhóm này
có nguy cơ cao nhất, vì vậy hình ảnh của họ sẽ đi vào bảng quảng cáo và thông
điệp sẽ được quảng bá trên các đài phát thanh mà họ lắng nghe) và thậm chí cả
việc chia sẻ sức khoẻ cộng đồng trong việc nhắm mục tiêu phải được xem xét
nghiêm túc. Sự kỳ thị xã hội có thể xảy ra nếu một số nhóm người nhất định
được cho là những người mang bệnh lây truyền qua đường tình dục và cơ hội để
can thiệp sức khoẻ cộng đồng sẽ bị bỏ sót nếu tất cả chúng ta đều tin tưởng
thông qua các chiến dịch truyền thông có thiện chí, chỉ có một số nhóm có nguy
cơ bị bạo lực gia đình hoặc HIV. Cuối cùng, các chiến dịch giáo dục sức khoẻ có
thể được kèm theo các ưu tiên. Các biện pháp khuyến khích thường được xem là
ít có vấn đề về mặt đạo đức hơn là các biện pháp cưỡng chế hoặc đe dọa, nhưng
thậm chí các động cơ khuyến khích có thể gây ra vấn đề về mặt đạo đức trong
những bối cảnh nhất định, chẳng hạn như khi các biện pháp khuyến khích tài
chính được đưa ra để sử dụng các loại biện pháp tránh thai cụ thể hoặc tránh
mang thai. Nghiên cứu về những gánh nặng trong y tế cho thấy một loạt tác hại
có thể xảy ra thông qua sự tham gia nghiên cứu. Những rủi ro này bao gồm rủi
ro y học nếu nghiên cứu là lâm sàng và rủi ro tâm lý hoặc xã hội nếu nghiên cứu
là dịch tễ học hoặc khoa học xã hội. Trong những năm gần đây, cũng có sự quan
tâm nhiều hơn đến gánh nặng cá nhân và xã hội có thể là kết quả của sự bất công
hoặc bóc lột trong nghiên cứu khi một số quần thể bị thiệt thòi hoặc được hưởng
đặc quyền thông qua việc tham gia nghiên cứu. Ngoài những rủi ro này, có thể
xảy ra nếu những phát hiện của nghiên cứu sức khoẻ cộng đồng chưa bao giờ
được thực hiện trong chính sách hoặc thực tiễn y tế. Bất kỳ nghiên cứu nào cũng
chỉ ra ít nhất là gánh nặng của sự bất tiện đối với những người tham gia và tất
nhiên có thể gây nguy hiểm lớn hơn cho các cá nhân hoặc cộng đồng tình

447
nguyện. Cuối cùng, trong trường hợp này, luật có thể áp đặt, bằng cách thiết kế
hoặc vô tình có mối đe dọa đối với công bằng nếu các quy định áp đặt gánh nặng
không đáng kể lên các phân tầng cụ thể của xã hội.
3.1.4. Giải quyết xung đột đạo đức
Phần này đòi hỏi chúng ta phải giảm thiểu gánh nặng khi đã được xác định.
Nếu bước 3 cho thấy chương trình hoặc chính sách đặt gánh nặng gián tiếp hoặc
trực tiếp, chúng ta cần có đạo đức để xác định liệu chương trình có thể được sửa
đổi theo cách giảm thiểu gánh nặng, đồng thời không làm giảm hiệu quả của
chương trình. Các chuyên gia y tế, ví dụ khi sẵn sàng báo cáo tên và bệnh của
bệnh nhân với nhà nước, cần thông báo cho bệnh nhân biết tên của họ, theo luật
pháp, phải được báo cáo với cơ quan y tế nhưng luật pháp cũng yêu cầu họ được
báo cáo một cách kín đáo. Mặc dù các chương trình báo cáo không bắt buộc,
nhưng những cán bộ y tế cần tôn trọng bệnh nhân nếu bệnh nhân được thông báo
đầy đủ.
Liên hệ với các chương trình cần chú ý, đặt ra những mối đe dọa đến sự
riêng tư và bí mật cá nhân. Tuy nhiên, các chương trình nghiên cứu điều tra cần
được nguyện, trong đó không áp dụng hình thức xử phạt đối với công dân từ
chối hợp tác. Nhân viên y tế phải có trách nhiệm về mặt đạo đức đối với các cá
nhân muốn tìm tham gia nghiên cứu theo dõi quyền từ chối tiết lộ tên của các
đối tác cũng như quyền của mình để thông báo cho các đối tác, các đối tác liên
lạc với một đại diện của nhà nước.
Nếu có 2 lựa chọn tồn tại để giải quyết vấn đề sức khoẻ cộng đồng, chúng
ta được yêu cầu phải có đạo đức để lựa chọn cách tiếp cận ít rủi ro hơn đối với
những tuyên bố đạo đức khác, chẳng hạn như tự do, sự riêng tư, cơ hội và công
bằng, giả định lợi ích không giảm đáng kể. Đánh giá dựa trên sự tồn tại của dữ
liệu âm thanh. Nếu dữ liệu cho thấy một chương trình sàng lọc tự nguyện sẽ
kiểm tra cơ bản cùng một số cá nhân như là một bắt buộc, bởi vì hầu như không
ai từ chối thử nghiệm khi được hỏi, thì sẽ không hợp lý về mặt đạo đức để thực
hiện một chương trình bắt buộc. Nếu giám sát bệnh hiệu quả như nhau với các
định danh duy nhất hoặc với tên một chương trình nhận dạng duy nhất là sự lựa
chọn thích hợp về đạo đức.
Chương trình có được thực hiện một cách công bằng không?

448
Phần này phù hợp với nguyên tắc đạo đức công bằng, yêu cầu đối sử công
bằng lợi ích và gánh nặng đối tượng trong xã hội có các lợi ích sức khoẻ cộng
đồng, chẳng hạn như nước sạch, không thể giới hạn ở một cộng đồng, hoặc
không thể có một dân số phải chịu gánh nặng không cân xứng. Chẳng hạn, các
chương trình kiểm tra HIV không thể được thực hiện ở các cộng đồng dân cư
nghèo hoặc cộng đồng dân cư thiểu số nếu không có sự can thiệp mạnh mẽ để
thảo luận về lý do tại sao các chương trình kiểm tra HIV phổ cập lại thích hợp
hơn với các chương trình mục tiêu); các chương trình giảm nguy cơ tim không
thể nhắm mục tiêu riêng cho người đàn ông da trắng khi phụ nữ và người thiểu
số cũng có nguy cơ mắc bệnh tim.
Các chương trình được thực hiện công bằng thậm chí còn quan trọng hơn
nếu các biện pháp hạn chế được quan tâm đúng mức. Sự bất công là sai trái vì
lợi ích của nó, cũng như những thiệt hại vật chất nó có thể gây ra. Hậu quả xã
hội xảy ra nếu các khuôn mẫu xã hội được tạo ra hoặc tồn tại, chẳng hạn như
khuôn mẫu mà chỉ có những phân đoạn nhất định của dân số có nguy cơ mắc các
bệnh lây truyền qua đường tình dục. Ngoài ra, sức khoẻ cộng đồng thực sự gây
tổn hại đến kết quả khi các cá nhân không tin rằng họ có nguy cơ mắc bệnh vì họ
không bao giờ được nhắm tới các chiến dịch giáo dục, hoặc do các bác sĩ của họ
không bao giờ sàng lọc họ vì mắc phải tình trạng nguy cơ phổ biến. Điều này
không có nghĩa là các chương trình hoặc nguồn lực phải được phân bổ bình đẳng
cho tất cả các cộng đồng - thay vào đó, phân bổ phải công bằng. Đó là, sự khác
biệt không thể được áp dụng một cách tùy tiện hoặc dựa trên các giả định lịch sử
về những nhóm có thể có nguy cơ. Một lần nữa, các chương trình phân phối
không công bằng phải được chứng minh bằng dữ liệu. Hơn nữa, các hậu quả xã
hội phải được xem xét nếu một cộng đồng được phân bổ các nguồn lực không
công bằng, những hậu quả này phải được công bằng với những lợi ích cho cộng
đồng đó hoặc những người khác.
Mặt khác liệu y tế có vai trò rõ ràng trong việc điều chỉnh những bất bình
đẳng hiện tại, đặc biệt là do mối liên hệ chặt chẽ giữa điều kiện sống nghèo nàn
và kết cục sức khoẻ kém. Trong phạm vi nào đó, có một trách nhiệm tích cực từ
phía các chuyên gia y tế để ủng hộ nhà ở tốt hơn, việc làm tốt hơn và tiếp cận tốt
hơn với các chương trình thực phẩm, vì vận động đó có thể là con đường tốt nhất
để cải thiện sức khoẻ cộng đồng.

449
Một số khái niệm về luật pháp cho phép và thậm chí yêu cầu phân bổ
không công bằng các quyền lợi cho các bất bình đẳng hiện tại. Luật pháp đòi hỏi
chúng ta phải phân bổ các nguồn lực một cách không bình đẳng để giúp những
người gặp điều kiện khó khăn vượt qua. Xác định nhu cầu để tất cả các thành
viên trong xã hội được đáp ứng một mức độ "hoạt động bình thường điển hình",
mà còn có thể dẫn đến việc phân phối đồng đều các nguồn lực nhất định. Phải
thừa nhận rằng, không phải tất cả các nhà triết học đều chấp nhận khái niệm
công bằng; một số phân biệt giữa các bất bình đẳng xã hội đã tồn tại trước đây là
không công bằng (vì họ là kết quả của một người hoặc một cộng đồng đã bị làm
nhục bởi một nguồn có thể nhận dạng được), nơi mà sự can thiệp bị nợ và những
bất bình đẳng chỉ là điều không may, nếu không có sự can thiệp nào được yêu
cầu về đạo đức.
Y tế có trách nhiệm tích cực tham gia vào các chương trình và can thiệp
nhằm giảm bớt bất bình đẳng xã hội, ít nhất là khi những bất bình đẳng này liên
quan đối với vấn đề sức khoẻ. Thực tế, rất khó để tìm ra một dự báo mạnh tích
cực hơn so với lý thuyết và do đó nó là một chức năng thích hợp, nếu không bắt
buộc, của y tế để giảm nghèo đói, điều kiện nhà ở kém chất lượng và mối đe dọa
đối với một nền giáo dục có ý nghĩa - không vì lý do nào khác ngoài việc làm
giảm tỷ lệ mắc bệnh.
Lợi ích và gánh nặng của một chương trình có thể được cân bằng như thế
nào?
Nếu xác định được rằng can thiệp sức khoẻ cộng đồng, chính sách hoặc
chương trình có thể sẽ đạt được các mục tiêu đã đề ra, nếu gánh nặng tiềm ẩn
được thừa nhận và giảm thiểu, và nếu chương trình dự kiến sẽ được thực hiện
theo cách không phân biệt, thì phải có quyết định đạt được về việc liệu những lợi
ích kỳ vọng có thể giải quyết được những gánh nặng đã được xác định. Nhận
thấy tất nhiên, chính sách dựa trên nhiều yếu tố ngoài đạo đức, vấn đề được đặt
câu hỏi là liệu từ góc độ đạo đức, chương trình có nên đi tiếp không. Cán bộ của
các sở y tế và các chuyên gia y tế khác có thể không có quyền thực hiện tất cả
các chương trình mà họ cho là có lợi, nhưng họ có trách nhiệm vận động các
chương trình nâng cao sức khoẻ và loại bỏ các chương trình chính sách phi đạo

450
đức, thiếu dữ liệu, thủ tục đối xử phân biệt rõ ràng, hoặc những hạn chế không
có căn cứ đối với tự do cá nhân.
Tuy nhiên, trong khi những người hợp có trách nhiệm sẽ đồng ý rằng gánh
nặng và lợi ích phải cân bằng, các chương trình nặng nề nhất nên được thực hiện
chỉ trong bối cảnh những lợi ích to lớn và quan trọng, nhưng sự bất bình đẳng
đều được bảo đảm thông qua các chi tiết. Tùy thuộc vào quan điểm của mỗi
người, sẽ có những quan điểm khác nhau về các chương trình khác nhau như thế
nào, ví dụ như bắt buộc phải tiêm chủng cho trẻ em trước khi bắt đầu đi học.
Người dân có thể có kỳ vọng khác nhau về mức độ bảo vệ nguồn cung cấp nước
cho các thế hệ tương lai, đặc biệt nếu nó có ý nghĩa là khi thuế cao hơn hoặc
cấm sử dụng nước sạch mục đích giải trí – Tuy nó rõ ràng là có lợi, không chỉ
riêng về mặt cá nhân, mà còn về sự gắn kết cộng đồng.
Những bất đồng ý kiến không thể tránh khỏi, nhưng sẽ được khắc phục
thông qua một hệ thống các chính sách công bằng. Công bằng theo chính sách
đòi hỏi một xã hội tham gia vào một quá trình xây dựng chính sách để xác định
chức năng nào của y tế mà nhà nước muốn duy trì, thừa nhận rằng một số hành
vi vi phạm tự do và các gánh nặng khác là không thể tránh khỏi. Cần phải có
cuộc thảo luận cởi mở về những gì mà xã hội thu được từ sức khoẻ cộng đồng
tốt và tại sao những lợi ích như vậy thường không thể đạt được thông qua các
phương pháp ít hơn trong cộng đồng hoặc tự do hơn. Dĩ nhiên, vấn đề đặt ra là
nên giải quyết tại sao những lợi ích khác lại có những đòi hỏi về đạo đức. Một
quá trình như vậy, ngay cả khi được thực hiện theo các tiêu chuẩn nhất định,
không được đưa ra quyết định dựa trên ý chí của đa số. Thực tế, các cuộc thảo
luận, đặc biệt là những khác biệt, phải được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo rằng
quan điểm của thiểu số được xem xét cẩn thận. Các chương trình khác biệt nên
được tiến hành trước bởi các buổi thảo luận công khai, không chỉ là phiếu bầu,
để có thể lắng nghe và xem xét các quan điểm thiểu số một cách cẩn thận.
Trong thực tế phải thừa nhận rằng sẽ có một số người không muốn nước
của họ sử dụng có Flour, không muốn con của họ được tiêm chủng, không muốn
đeo dây an toàn, không muốn giới hạn tốc độ giao thông. Sự bất đồng quan điểm
không đủ để ngăn chặn chương trình y tế; thực sự, sự bất đồng quan điểm là điều
tất yếu trong tất cả các đề xuất. Tuy nhiên, phải cân nhắc đến những vấn đề khác

451
và nó đáng được chú ý, đặc biệt nếu nó được nêu lên bởi một nhóm nhỏ được
xác định cụ thể như người dân tộc thiểu số, một nhóm tuổi đặc biệt hoặc cư dân
của một khu vực cụ thể đáng quan tâm.
Trong việc cân bằng các giá trị và lợi ích, gánh nặng của chương trình càng
lớn thì lợi ích sức khoẻ cộng đồng sẽ càng cao đồng thời những lợi ích và gánh
nặng không đồng đều hơn (nghĩa là gánh nặng được áp đặt lên một nhóm để bảo
vệ sức khoẻ của người khác), lợi ích lớn hơn phải là lợi ích kỳ vọng. Các chương
trình áp đặt phải được giữ ở mức tối thiểu; không bao giờ thực hiện khi một
chương trình cho thấy mục tiêu có thể thấy rõ hạn chế và chỉ nên thực hiện khi
có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cộng đồng rõ ràng và dự báo cho thấy hiệu quả rõ
ràng. Tuy nhiên, chúng ta là một xã hội đa nguyên, bao gồm cả những quan
niệm về đạo đức của chúng ta. Các tổ chức và cộng đồng khác nhau sẽ quyết
định khác nhau về các hoạt động y tế thích hợp. Cuối cùng, các cộng đồng khác
nhau sẽ ban hành các chính sách công khác nhau, dựa trên sự cân bằng giữa lợi
ích và gánh nặng của họ, có thể chỉ ra một quy trình công bằng, hoặc ít nhất là
một quá trình có nhiều tổ chức chỉ đạo các chính sách y tế địa phương.
3.2. Khung đạo đức y tế của Nuffield
3.2.1. Mục tiêu
Các mục tiêu cho sức khỏe cộng đồng
- Giảm thiểu rủi ro về sức khỏe do hành động của những người khác, như
lái xe và uống thuốc ở nơi công cộng.
- Giảm các nguyên nhân gây bệnh liên quan đến điều kiện môi trường, ví
dụ như cung cấp nước uống sạch và thiết lập các tiêu chuẩn nhà ở.
- Bảo vệ và tăng cường sức khỏe của trẻ em và những người dễ bị tổn
thương khác.
- Giúp mọi người vượt qua những cơn nghiện có hại cho sức khỏe hoặc
giúp họ tránh những hành vi không lành mạnh.
- Đảm bảo rằng mọi người dễ dàng có được một cuộc sống lành mạnh, ví
dụ như bằng cách cung cấp các cơ hội thuận tiện và an toàn để tập thể dục
- Đảm bảo rằng mọi người có quyền truy cập thích hợp vào các dịch vụ y tế.

452
- Giảm bất bình đẳng về sức khỏe
Đồng thời, các chương trình y tế công cộng nên:
- Không cố gắng ép buộc người lớn sống một cuộc sống khỏe mạnh
- Giảm thiểu việc thực hiện các biện pháp mà không hỏi ý kiến mọi người
(cá nhân hoặc sử dụng các thủ tục dân chủ)
- Giảm thiểu các biện pháp xâm phạm hoặc xung đột với các khía cạnh
quan trọng của cuộc sống cá nhân, chẳng hạn như quyền riêng tư
3.2.2. Công cụ phân tích
Một cách để bắt đầu suy nghĩ về việc giải quyết căng thẳng giữa việc nâng
cao sức khỏe cộng đồng và bảo vệ các quyền tự do cá nhân được cung cấp theo
“nguyên tắc gây hại” nâng cao nổi tiếng bởi John Stuart Mill trong bài tiểu luận
về Tự do (On Liberty):
Đối tượng của bài tiểu luận này là để khẳng định một nguyên tắc rất đơn
giản, như việc chính phủ quản lý xã hội thông qua việc kiểm soát và áp đặt các
cá nhân, cho dù các phương tiện được sử dụng là vũ lực dưới hình thức pháp lý,
hoặc ép buộc đạo đức của dư luận. Nguyên tắc đó là, xã hội được bảo đảm, cá
nhân hoặc tập thể được tự do hành động trong khuôn khổ cho phép, là tự bảo vệ.
Đó là mục đích duy nhất mà sức mạnh có thể là thực hiện đúng trên bất kỳ thành
viên nào của một cộng đồng văn minh, trái với ý muốn của anh ta, là để ngăn
ngừa tổn hại cho người khác. Lợi ích riêng của anh ta, cả về thể chất hay đạo
đức, không phải là một lệnh bảo đảm. Anh ta không thể bị buộc phải làm hay
cấm bởi vì anh ta sẽ làm tốt hơn vì vậy, bởi vì nó sẽ làm cho anh ta hạnh phúc
hơn, bởi vì, theo ý kiến của người khác, làm vậy sẽ như khôn ngoan, hoặc thậm
chí đúng Đây là những lý do tốt để tái hợp với anh ta, hoặc lý luận với anh ta,
hoặc thuyết phục anh ta, hoặc cầu xin anh ta, nhưng không phải để thuyết phục
anh ta, hoặc thăm Anh ta với bất kỳ xấu xa, trong trường hợp anh ta làm khác.
Để biện minh cho điều đó, hành vi mà nó là muốn răn đe anh ta phải được tính
toán để tạo ra tội ác cho người khác. Phần duy nhất của hành vi của bất kỳ ai, mà
anh ta có thể hòa nhập được với xã hội, là điều khiến người khác quan tâm. Trên
chính bản thân mình, trên cơ thể và tâm trí của chính mình, cá nhân có chủ
quyền.

453
3.2.3. Giá trị đạo đức
Bình đẳng về cái gì?
Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏi quan trọng về chính xác những gì cần
thiết để giảm bất bình đẳng về sức khỏe không công bằng, và ‘tăng cường sức
khỏe của mọi người như nhau. Hai chiến lược chính, không phải là loại trừ lẫn
nhau, là:
- Bình đẳng về kết quả sức khỏe. Có thể lập luận rằng sự bình đẳng chỉ đạt
được ở nơi dữ liệu khách quan có thể đo lường được như tuổi thọ, chỉ số khối cơ
thể BMI) hoặc huyết áp là như nhau giữa các nhóm hoặc cá nhân được so sánh.
Một trong những lợi thế thực tế của hương pháp tập trung vào kết quả là về
nguyên tắc, có thể đo lường mức độ bình đẳng một cách tương đối đơn giản.
- Bình đẳng về cơ hội và tiếp cận (với các dịch vụ y tế và môi trường thuận
lợi cho sức khỏe).
Một cách tiếp cận khác là tập trung vào sự bình đẳng của tiếp cận. Bằng
cách này, người ta có thể bao gồm quyền tiếp cận cả dịch vụ y tế và môi trường
thuận lợi cho sức khỏe, như đường đi xe đạp, công viên, cơ sở thể thao, hoặc
môi trường làm việc và sinh hoạt an toàn. Trong thực tế, nhiều cách tiếp cận
bình đẳng có thể mang lại một số trọng lượng cho các vấn đề truy cập. Một vấn
đề của phương pháp tiếp cận dựa trên truy cập là mọi người có thể có khả năng
khác nhau để sử dụng quy định tiếp cận. Do đó, mặc dù quyền tiếp cận có thể
bằng nhau, kết quả có thể không.
3.2.4. Giải quyết xung đột đạo đức
Cuối cùng, câu hỏi đặt ra là nên giảm bất bình đẳng như thế nào? Có một số
các chiến lược khác nhau có thể được theo đuổi. Về nguyên tắc, có thể đạt được
sự bình đẳng bằng cách nâng mức phúc lợi hoặc cơ hội của những người kém
nhất lên mức của những người được hưởng các tiêu chuẩn cao nhất, hoặc bằng
cách hạ thấp phúc lợi của những người đứng đầu. Về sau tùy chọn, để tránh vấn
đề ’giảm mức độ phản đối đối với các cách tiếp cận bình đẳng tìm cách loại bỏ
sự bất bình đẳng, một số nhà bình luận đã đề ra một chiến lược ưu tiên: thay vì
tình trạng sức khỏe tương đối, người ta nên tập trung vào vị trí tuyệt đối của điều

454
tồi tệ nhất và nâng cao nó. Cách tiếp cận như vậy có thể có những hậu quả khác
nhau trong thực tế và những tác động cần theo dõi chặt chẽ.
Rõ ràng, sự bình đẳng về sức khỏe của người Viking có nhiều khía cạnh và
được xem là một khái niệm đa chiều. không tìm kiếm ở đây để ưu tiên kết quả
sức khỏe cụ thể. Chúng tôi cũng không cố gắng chỉ định sự bất bình đẳng không
thể chấp nhận được ở một số nhóm hơn là những nhóm khác. Tuy nhiên, khung
nên cung cấp một công cụ tham khảo hữu ích để thiết lập sự bất bình đẳng hay
không tồn tại, và nếu vậy, theo nghĩa nào thì kết quả sức khỏe hoặc cơ hội được
phân phối không đồng đều, cho dù phân phối này là không công bằng, và nếu
vậy, làm thế nào nó nên được sửa chữa.
4. Đạo đức trong thực hành điều dưỡng
4.1. Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng Việt Nam theo Quyết định số
20/QĐ-HĐD, ngày 10/09/2012 của Hội Điều dưỡng Việt Nam
Nghề Y nói chung, nghề điều dưỡng nói riêng được phân biệt với các nghề
khác bởi nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp mang tính đặc thù, đó là: chăm sóc, điều
trị, cứu người, làm giảm nhẹ sự đau đớn của con người do bệnh tật và do các can
thiệp y tế. Để hoàn thành nghĩa vụ nghề nghiệp đối với sự ủy thác của xã hội
điều dưỡng viên phải vừa giỏi chuyên môn và vừa phải có đạo đức nghề nghiệp.
Tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp là nền tảng của nghề điều dưỡng.
Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên Việt Nam được xây dựng
dựa trên các cơ sở: (1) Pháp lý: dựa vào Điều 42 Luật Phòng chống tham nhũng;
(2) Nghĩa vụ nghề nghiệp của điều dưỡng viên được quy định bởi: các mối quan
hệ với người bệnh, đồng nghiệp, nghề nghiệp và xã hội; (3) Những thách thức
của y đức trong cơ chế thị trường: nảy sinh những mâu thuẫn trong việc thực thi
nghĩa vụ nghề nghiệp của điều dưỡng viên; (4) Trên cơ sở hội nhập quốc tế:
tham khảo Chuẩn đạo đức nghề nghiệp điều dưỡng viên của Hội đồng Điều
dưỡng quốc tế (The ICN Code of Ethics for Nurses; 2000) và Quy tắc đạo đức y
học của Hiệp hội Y học thế giới (Medical Ethics manual of the World Medical
Asociation; 2005).
Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên là những nguyên tắc,
những giá trị nghề nghiệp, những khuôn mẫu để hướng dẫn điều dưỡng viên đưa
ra các quyết định có đạo đức trong quá trình hành nghề. Chuẩn đạo đức nghề

455
nghiệp cũng là cơ sở để người bệnh, người dân và người quản lý giám sát, đánh
giá việc thực hiện của hội viên trên phạm vi cả nước. Mọi điều dưỡng viên cần
cam kết áp dụng mọi lúc, mọi nơi hành nghề và tại mọi cơ sở y tế.
Bảo đảm an toàn cho người bệnh
1. Duy trì chuẩn mực thực hành tốt nhất có thể ở nơi làm việc.
2. Chịu trách nhiệm cá nhân về mọi quyết định và hành vi chuyên môn
trong chăm sóc người bệnh.
3. Can thiệp kịp thời và báo cáo cho người phụ trách khi phát hiện các hành
vi thực hành của người hành nghề không bảo đảm an toàn cho người bệnh.
Tôn trọng người bệnh và người nhà người bệnh
1. Tôn trọng tuổi, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng của người bệnh.
2. Tôn trọng quyền tự quyết của người bệnh trong khi thực hành chăm sóc.
3. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm và bảo đảm kín đáo tốt nhất có thể cho
người bệnh khi chăm sóc và làm thủ thuật.
4. Cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến các giải pháp và hoạt động
chăm sóc cho người bệnh.
5. Giữ gìn những bí mật liên quan đến bệnh tật và cuộc sống riêng tư của
người
6. Đối xử công bằng với mọi người bệnh.
Thân thiện với người bệnh và người nhà người bệnh
1. Giới thiệu tên và chào hỏi người bệnh, người nhà người bệnh một cách
thân thiện.
2. Lắng nghe người bệnh, người nhà người bệnh và đáp lại bằng câu nói ân
cần với cử chỉ lịch sự.
3. Cung cấp dịch vụ chăm sóc kèm theo nụ cười thân thiện.
4. Giúp người bệnh giảm nhẹ đau đớn do bệnh tật và do phẫu thuật, thủ
thuật.
Trung thực trong khi hành nghề

456
1. Trung thực trong việc quản lý, sử dụng thuốc và vật tư tiêu hao cho
người bệnh.
2. Trung thực trong việc thực hiện các hoạt động chuyên môn chăm sóc
người bệnh và thực hiện các chỉ định điều trị.
3. Trung thực trong việc ghi các thông tin trong hồ sơ bệnh án của người bệnh.
Duy trì và nâng cao năng lực hành nghề
1. Thực hiện đầy đủ chức năng nghề nghiệp của điều dưỡng viên.
2. Tuân thủ các quy trình kỹ thuật, các hướng dẫn chuyên môn khi chăm
sóc người bệnh.
3. Học tập liên tục để cập nhật kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp.
4. Tham gia nghiên cứu và thực hành dựa vào bằng chứng.
Tự tôn nghề nghiệp
1. Giữ gìn và bảo vệ uy tín nghề nghiệp khi người khác làm tổn hại đến các
giá trị và danh dự của nghề.
2. Tận tụy với công việc chăm sóc người bệnh và tự giác chấp hành các quy
định ở nơi làm việc.
3. Từ chối nhận tiền hoặc lợi ích khác của người bệnh, người nhà người
bệnh vì mục đích được ưu tiên trong khám bệnh, chữa bệnh.
4. Tôn trọng Điều lệ Hội và tự nguyện tham gia các hoạt động của Hội
Điều dưỡng ở các cấp.
Thật thà đoàn kết với đồng nghiệp
1. Hợp tác và giúp đỡ đồng nghiệp hoàn thành nhiệm vụ.
2. Tôn trọng và bảo vệ danh dự, uy tín của đồng nghiệp.
3. Truyền thụ và chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp với đồng nghiệp.
Cam kết với cộng đồng và xã hội
1. Nói và làm theo các quy định của Pháp luật.
2. Gương mẫu tại cộng đồng và nơi sinh sống.

457
3. Tham gia các hoạt động từ thiện và bảo vệ môi trường.
4.2. Phẩm chất đạo đức
4.2.1. Ý thức trách nhiệm cao
Các công việc của người làm Điều Dưỡng đều liên quan tới sức khỏe, cuộc
sống của con người. Mà sức khỏe thì luôn là tài sản vô giá của con người. Vì vậy
trong công việc Điều Dưỡng viên không thể lơ là, cẩu thả mà phải làm cẩn thận,
có trách nhiệm. Mọi sự cẩu thả, sơ xuất của Điều Dưỡng viên đều có thể dẫn đến
hậu quả nghiêm trọng đối với bệnh nhân. Hơn ai hết Điều Dưỡng viên phải hiểu
rõ trách nhiệm cao cả của mình và phải rèn luyện để nâng cao ý thức trách
nhiệm của mình.
4.2.2. Sự trung thực
Điều này vô cùng quan trọng. Vì nó là cơ sở để xây dựng sự tin tưởng của
bệnh nhân đối với Điều Dưỡng viên. Không một ai có thể kiểm tra hết được các
công việc của người làm Điều Dưỡng. Vì vậy rất cần sự trung thực đáng quý từ
Điều Dưỡng viên
4.2.3. Tác phong khẩn trương và tự tin trong công việc
Do tính chất nghề nghiệp đặc thù của công việc là đấu tranh cho sự sống
của con người vì vậy nếu chậm trễ, luống cuống, thiếu tự tin thì trong nhiều
trường hợp dẫn đến hậu quả quan trọng không cứu sống được bệnh nhân. Bởi
nhiều khi ranh giới giữa sự sống và cái chết thật mong manh như sợi tơ. Vì vậy
đối với Điều Dưỡng viên đòi hỏi phải có sự khẩn trương, bình tĩnh, tư tin khi
làm việc. Tuy nhiên khẩn trương không đồng nghĩa với hấp tấp vội vàng như
vậy chỉ làm hỏng việc thêm.
4.2.4. Niềm đam mê, lòng yêu nghề
Bất kỳ một nghề gì nếu như chúng ta không yêu nó thì sẽ không thể nào
chuyên tâm làm tốt được. Điều Dưỡng cũng vậy đặc biệt lại là nghề chăm sóc
sức khỏe cho con người. Có yêu nghề, có say nghề thì mới đặt hết lòng mình, có
trách nhiệm trong làm việc. Nghề nào cũng có cái khổ, cái khó khăn riêng nhất
là nghề Điều Dưỡng – nghề làm dâu trăm học thì cái sự khổ vất vả lớn hơn rất
nhiều. Tuy nhiên nếu như yêu nghề, sẵn sàng sống chết với nghề thì bạn có thể
vượt qua được mọi khó khăn cũng như khổ ải.

458
Ngoài ra, người Điều dưỡng cần có
Sự cảm thông và ân cần đối với người bệnh
Điều Dưỡng viên phải đồng cảm thấu hiểu với nỗi đau của người bệnh, đặt
mình vào địa vị của người bệnh thì mới có thể tận tâm trong chăm sóc được. Tuy
nhiên phải tránh không để tình cảm lẫn vào công việc. Đây là điều tối kỹ không
chỉ đối với nghề Điều Dưỡng mà đối với bất kỹ một ngành nghề nào
Sự mềm mỏng khi làm việc nhưng vẫn giữ nguyên tắc riêng
Điều Dưỡng viên không chỉ là người chăm sóc cho bệnh nhân mà đôi khi
còn phải đóng vai trò là nhà tư vấn, nhà tâm lý để nắm bắt được tâm lý người
bệnh, hiểu được họ thì mới khiến cho công việc thuận lợi hơn. Người Điều
Dưỡng giỏi phải là người có sự co dãn linh hoạt, lúc thì rất mềm mỏng nhưng có
lúc lại phải rất nguyên tắc.
4.3. Quy tắc đạo đức điều dưỡng của Hội điều dưỡng Việt Nam
Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên Việt Nam được xây
dựng trên các cơ sở pháp lý: dựa vào Điều 42, Luật Phòng chống tham nhũng;
Nghĩa vụ nghề nghiệp của điều dưỡng viên được quy định bởi: các mối quan hệ
với người bệnh, đồng nghiệp và xã hội; Những thách thức của y đức trong cơ
chế thị trường nảy sinh những mâu thuẫn trong việc thực thi nghĩa vụ nghề
nghiệp của điều dưỡng viên; Trên cơ sở hội nhập quốc tế: tham khảo chuẩn đạo
đức nghề nghiệp điều dưỡng viên của ICN 2000 và quy tắc đạo đức y học của
Hiệp hội Y học thế giới 2005.
Chuẩn đạo đức nghiệp điều dưỡng viên là những quy tắc, những giá trị
nghề nghiệp, những khuôn mẫu để hướng dẫn điều dưỡng viên đưa ra các quyết
định có đạo đức trong quá trình hành nghề. Chuẩn đạo đức nghề nghiệp cũng là
cơ sở để người bệnh, người dân và người quản lý giám sát, đánh giá việc thực
hiện của Hội viên là điều dưỡng viên trên phạm vi cả nước. Mọi điều dưỡng viên
cần cam kết áp dụng mọi lúc, mọi nơi hành nghề và tại cơ sở y tế.
Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên được áp dụng cho điều dưỡng
viên Việt Nam, các giáo viên hướng dẫn điều dưỡng viên và điều dưỡng trưởng
các cấp. Chuẩn này được xây dựng với các mục đích: Giáo dục điều dưỡng tự
rèn luyện theo chuẩn mực đạo đức phù hợp với nghề điều dưỡng được xã hội

459
thừa nhận; Giúp điều dưỡng viên đưa ra các quyết định trong các tình huống
hành nghề phù hợp với chuẩn đạo đức nghề nghiệp; Công khai chuẩn đạo đức
nghề nghiệp của điều dưỡng viên; là cơ sở để người dân, người bệnh và nhà
quản lý y tế giám sát, đánh giá việc thực hiện của điều dưỡng viên; Công bố
chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên Việt Nam với các nước
ASEAN và các nước khác.
5. Đạo đức trong nghiên cứu điều dưỡng
5.1. Một số vấn đề đạo đức nghiên cứu trong quá trình thực hiện nghiên cứu
5.1.1. Đảm bảo tính công bằng
Nguyên tắc này đòi hỏi sự công bằng trong phân bổ, nghĩa là phân bổ công
bằng cả lợi ích và nguy cơ rủi ro cho những đối tượng tham gia nghiên cứu, cũng
như những chăm sóc mà đối tượng tham gia nghiên cứu được hưởng. Nghĩa vụ của
người thực hiện nghiên cứu là phải đối xử với mọi đối tượng nghiên cứu một cách
đúng đắn và phù hợp về mặt đạo đức, đảm bảo mỗi cá nhân tham gia vào nghiên cứu
nhận được tất cả những gì mà họ có quyền được hưởng.
5.1.2. Đảm bảo tính riêng tư
Riêng tư trong đạo đức nghiên cứu là những thông tin, những vấn đề của mỗi
cá nhân đối tượng tham gia nghiên cứu. Những thông tin, những vấn đề của cá
nhân đối tượng tham gia nghiên cứu có thể là lịch sử của bản thân, của gia đình và
của những người thân trong gia đình, họ hàng do đối tượng cung cấp, có thể là tình
hình sức khỏe bệnh tật, những đặc điểm sinh học của cá nhân đối tượng nghiên
cứu, cũng có thể là những tâm tư, tình cảm trong mối quan hệ của cá nhân đối
tượng, nó có thể là quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội…
5.1.3. Đảm bảo tính tự nguyện trên cơ sở được thông tin đầy đủ
Công cụ cung cấp thông tin chính của nhà nghiên cứu và nhà tài trợ là Phiếu
chấp thuận tham gia nghiên cứu. Tài liệu này được sử dụng trong tất cả các
nghiên cứu không được miễn lấy chấp thuận. Vì thế, hầu hết các nghiên cứu sẽ sử
dụng Phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu do Hội đồng đạo đức thông qua.
Thỏa thuận tham gia được chấp thuận phải tuân theo những yêu cầu về
pháp lý như sau:

460
 Những yếu tố cần có (như đã xác định trong các quy định) cần phải
được nêu rõ.
 Nội dung Phiếu chấp thuận phải dễ hiểu với những người không thuộc
lĩnh vực khoa học.
 Không đề cập đến khước từ quyền lợi hoặc quyền tự bảo vệ hay những
từ giải thích khác trong bản thỏa thuận.
Khi một nghiên cứu được tiến hành trên thực tế, nhà nghiên cứu sẽ tiếp cận
và tương tác với các đối tượng nghiên cứu để mời tham gia vào nghiên cứu và
sau đó nếu được đối tượng nghiên cứu chấp thuận tham gia nghiên cứu thì hoạt
động thu thập số liệu sẽ được triển khai. Vấn đề đặt ra lúc này là cung cấp đầy
đủ thông tin cho các đối tượng được mời tham gia nghiên cứu để những đối
tượng tiềm năng này có thể ra quyết định tham gia hoặc không tham gia nghiên
cứu trên cơ sở được thông tin đầy đủ về lợi ích và nguy cơ/rủi ro khi tham gia
nghiên cứu. Những thông tin này không những được nêu rõ trong đề cương
nghiên cứu, bao gồm qui chế lưu giữ và bảo đảm bí mật thông tin, lợi ích và
nguy cơ khi tham gia nghiên cứu (nếu có), mà còn được nêu rõ trong Bản thông
tin giới thiệu nghiên cứu với các nội dung cơ bản sau:
- Mục đích, mục tiêu và bản chất của nghiên cứu; Quá trình thực hiện
nghiên cứu
- Lợi ích và rủi ro của đối tượng tham gia nghiên cứu
- Bồi dưỡng, bồi thường cho đối tượng tham gia nghiên cứu
- Vấn đề bảo đảm tính riêng tư của đối tượng tham gia nghiên cứu
- Vấn đề bảo mật thông tin của đối tượng tham gia nghiên cứu
- Đối tượng tham gia nghiên cứu có thể liên hệ với ai khi cần để biết
thêm thông tin chi tiết
Bản chấp thuận tham gia nghiên cứu cần bao gồm các nội dung sau:
- Tên dự án nghiên cứu
- Điều tra viên chính
- Tên nhà tài trợ

461
- Giới thiệu về mục đích, mục tiêu nghiên cứu
- Các bước tiến hành nghiên cứu
- Nguy cơ/rủi ro khi tham gia nghiên cứu
- Lợi ích của việc thực hiện nghiên cứu và của đối tượng tham gia
nghiên cứu
- Bảo mật thông tin
- Bồi dưỡng cho đối tượng tham gia nghiên cứu
- Người liên hệ: đại diện của Hội đồng Đạo đức và nhóm nghiên cứu
- Xác nhận sự tự nguyện tham gia của đối tượng nghiên cứu
Vấn đề hình thức cung cấp thông tin cũng rất quan trọng. Nếu như đối
tượng nghiên cứu không biết chữ hay có trình độ học vấn thấp hoặc sử dụng
ngôn ngữ khác với ngôn ngữ được sử dụng trong Bản thông tin giới thiệu nghiên
cứu thì văn bản này sẽ không có ý nghĩa về khía cạnh đạo đức vì không thể cung
cấp thông tin cần thiết cho họ. Trong trường hợp này, thông tin phải được cung
cấp kết hợp dưới dạng lời nói hoặc hình vẽ phù hợp. Ngoài ra, cần cho phép
người tham gia có thời gian suy nghĩ và cân nhắc trước khi quyết định đồng ý
hoặc không đồng ý tham gia.
5.1.4. Đảm bảo bí mật thông tin của đối tượng nghiên cứu
Vấn đề đảm bảo quyền riêng tư, giữ bí mật hay bảo mật riêng tư của đối
tượng tham gia nghiên cứu, chính là đảm bảo thực hiện nguyên tắc đạo đức “Tôn
trọng con người”. Những vấn đề riêng tư không được đảm bảo giữ kín chính là
ngưyên nhân làm cho đối tượng nghiên cứu thiếu tin tưởng vào người thầy thuốc
và không tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. Trong nghiên cứu việc điều tra
xác nhận sự riêng tư của đối tượng nghiên cứu được đảm bảo giữ kín là chưa đủ
mà đối tượng nghiên cứu cần phải tự nhận thấy rằng sự riêng tư của họ được
đảm bảo thông qua những biện pháp mà người nghiên cứu sử dụng để đảm bảo
bảo mật các thông tin.
Bí mật trong đạo đức nghiên cứu là giữ kín không để lộ các thông tin cá
nhân, những vấn đề riêng tư của cá nhân ra ngoài. Nhà nghiên cứu cần phải có
những biện pháp để giữ bí mật riêng tư như mã hóa các thông tin cá nhân, quy

462
định cụ thể những người có trách nhiệm được tiếp cận với các thông tin của
nghiên cứu và được chia sẻ các thông tin của nghiên cứu. Việc công bố các kểt
qưả nếu có liên quan đến các thông tin cá nhân phải được phép của cá nhân đối
tượng tham gia nghiên cứu.
5.2. Các nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu
5.2.1. Nghiên cứu trên nhóm đối tượng dễ bị tổn thương
Những nhóm dân dễ tổn thương là các nhóm người mà họ không thể đưa ra
quyết định nhất trí tham gia trên cơ sở tình nguyện và/hoặc trên cơ sở được
thông tin đầy đủ và có hiểu biết do tình trạng sức khoẻ hay vị thế xã hội của họ.
Những nhóm này thông thường bao gồm trẻ em, người già, nhóm dân tộc
thiểu số những người có bất thường về nhận thức, tinh thần, và đang ở giai đoạn
cuối của bệnh tật và những người đang sống trong bệnh viện, nhà tù, nhà dưỡng
lão…. Theo danh sách này chúng ta có thể chia ra thành hai nhóm: nhóm dễ tổn
thương vì tình trạng sức khoẻ và nhóm dễ tổn thương vì vị thế xã hội. Tất nhiên
một số người có thể dễ tổn thương cả vì sức khoẻ của họ và cả vì vị thế xã hội.
Trong bất kể trường hợp nào thì chúng ta cũng cần chú ý đến những vấn đề về lợi
dụng/bóc lột, sự bảo vệ và việc tham gia khi làm việc với các nhóm dễ tổn thương.
Quyền được bảo vệ:
Trước đây rất nhiều các nghiên cứu và các hoạt động y tế đã không bao
gồm các nhóm dân dễ thương tổn bởi mong muốn bảo vệ những người này khỏi
sự lợi dụng/bóc lột quá mức. Tuy nhiên, gần đây các nhà nghiên cứu nhận ra
rằng nhóm dễ tổn thương sẽ không được lợi từ nghiên cứu nếu chúng ta loại trừ
những người này khỏi các nghiên cứu. Như vậy, sự phân chia quyền lợi và các
gánh nặng là không bình đẳng. Các nhóm tổn thương thường có rất nhiều gánh
nặng về sức khoẻ nhưng vì họ không được tham gia vào nghiên cứu nên họ rất ít
được hưởng lợi từ các chương trình y tế.Tuy nhiên, khi cho phép những người
này tham gia vào nghiên cứu hoặc các hoạt động YTCC thì điều quan trọng là
đánh giá tại sao phải cần có những người này tham gia.
Chúng ta cũng không nên mặc định rằng chỉ những người thuộc nhóm dễ
thương tổn mới thực sự dễ tổn thương. Họ hoàn toàn có thể ra các quyết định
trên cơ sở có hiểu biết về sự tham gia của họ. Nếu chúng ta không thừa nhận khả

463
năng này có nghĩa là chúng ta đã không tuân theo nguyên tắc tôn trọng con
người. Tương tự, những người có tình trạng phụ thuộc và vì vậy sự tự chủ đã bị
ảnh hưởng đều cần phải được bảo vệ không để họ phải tham gia vào các nghiên
cứu thuần túy là do thuận lợi về mặt hành chính hoặc vì dễ dàng điều khiển họ
do tình trạng kinh tế xã hội hay tình trạng ốm đau của họ.
Một số điều cần xem xét khi đưa những nhóm dễ thương tổn vào các
chương trình y tế:
- Không quá sốt sắng trong việc bảo vệ các nhóm thực sự dễ thương tổn
- Đánh giá sự chia sẻ mức độ dễ tổn thương của mỗi cá nhân với nhóm
của họ.
- Đánh giá liệu chương trình có mang lại lợi ích trực tiếp đối với sức
khoẻ của những người tham gia hay các nhóm tương tự.
- Bảo đảm sự nhất trí trên cơ sở được thông tin đầy đủ và có hiểu biết,
thông qua việc phổ biến tới các cá nhân, nhóm chăm sóc sức khỏe, những
người bảo trợ hay những cuộc tư vấn giữa các bên có liên quan, là tiêu
chuẩn cho việc tham gia của những nhóm dễ tổn thương.
5.2.1.1. Nhóm trẻ em
Trẻ em được xem như là nhóm dễ thương tổn bởi năng lực ra quyết định
tham gia một cách chín chắn của họ là kém hơn người lớn.Tuy nhiên, việc đưa
các em tham gia vào các nghiên cứu và hoạt động là rất quan trọng bởi vì sự
khác biệt của trẻ em so với người lớn .Một chương trình y tế nhằm giảm tỷ lệ
chết vì sử dụng thuốc quá liều có thể có kết quả tốt đối với người lớn nhưng lại
không thích hợp với trẻ em.Tương tự, trẻ em có quá trình phát triển sinh học và
sinh lý khác với người lớn.Vì vậy điều quan trọng là huy động trẻ em tham gia
vào nghiên cứu, nếu trẻ em không được tham gia vào nghiên cứu thì chúng ta
không thể lựa chọn được các phác đồ điều trị thích hợp cho trẻ em.Thông
thường cha mẹ đại diện cho trẻ em trong quá trình đồng ý tham gia vào nghiên
cứu nhưng cũng có nghĩa là sẽ nảy sinh các vấn đề về sự tình nguyện. Nếu trẻ
đang rất ốm, cha mẹ sẽ cảm thấy bắt buộc phải tham gia vào nghiên cứu hoặc
cảm thấy họ có thể đã không làm vừa lòng những người đang chữa trị và chăm
sóc cho con họ nếu họ từ chối tham gia vào nghiên cứu. Điều quan trọng là

464
chúng ta cũng cần trao đổi và bàn luận với trẻ em về nguyện vọng của chúng
trong việc tham gia vào các nghiên cứu hoặc chương trình can thiệp sức khỏe.
Chúng ta cần luôn luôn lưu ý một điểm khi trao đổi, bàn bạc với đối tượng là trẻ
em cần tránh để các em cảm thấy là mình bị bắt buộc phải tham gia vào các các
nghiên cứu hoặc chương trình can thiệp sức khỏe.
5.2.1.2. Nhóm phụ nữ có thai
Dù rằng có thể đạt được một thỏa thuận với những phụ nữ có thai và phụ
nữ cho con bú và nghiên cứu không gây ra một vấn đề đặc biệt nào với những
phụ nữ này, thì trong bất cứ trường hợp nào họ cũng không thể là đối tượng tiến
hành nghiên cứu bởi vì có nguy cơ làm ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh hay bào thai
trừ khi để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến thai nhi và việc cho con bú.
Viêc nghiên cứu và chữa trị chỉ được chấp nhận trong trường hợp cải thiện được
sức khỏe của bà mẹ mà không tổn hại gì đến bào thai và quá trình nuôi dưỡng
trẻ, trong trường hợp tăng sức sống, sức đề kháng của thai nhi hay là trong
trường hợp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đứa trẻ và khả năng nuôi
con của người mẹ. Đối với những người tham gia vào các nghiên cứu về vấn đề
nạo thai thì tùy thuộc vào hiến pháp của từng nước cũng như đặc điểm của tôn
giáo, văn hóa do đó không thể đưa ra một quy tắc chung mang tính quốc tế.
5.2.1.3. Nhóm người cao tuổi
Người già được xem là nhóm dễ thương tổn vì sự phụ thuộc của họ vào
những người khác. Nếu một người già yếu và đang cần sự giúp đỡ của gia đình
hoặc các nhân viên y tế họ có thể cảm thấy có nghĩa vụ tham gia vào chương
trình để giảm gánh nặng cho gia đình họ. Những người già bị giảm trí nhớ hoặc
mất trí nhớ có thể ra các quyết định trên cơ sở không hiểu biết về chăm sóc sức
khoẻ hay sự tham gia của họ vào nghiên cứu. Trong trường hợp này thông tin,
trao đổi với gia đình là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, một người già không có
nghĩa là họ không có khả năng chủ động ra các quyết định cho bản thân họ.
5.2.1.4. Nhóm bệnh nhân tâm thần
Những vấn đề đạo đức cần xem xét khi áp dụng việc nghiên cứu trên những
người bệnh tâm thần và thiểu năng trí tuệ về cơ bản là giống với trẻ em. Họ
không thể là đối tượng cho những cuộc nghiên cứu thí nghiệm như những người

465
bình thường, ngoại trừ trong trường hợp để nghiên cứu về những căn nguyên
gây bệnh, cách điều trị bệnh hay là điều trị thiểu năng trí tuệ.
Nhất quyết phải tính đến sự đồng ý của gia đình, người thân - vợ chồng, bố
mẹ, con cái anh chị em tuy nhiên phải xem xét giá trị của sự đồng ý này vì nhìn
chung trong gia đình những người bị bệnh tâm thần thường bị coi như là một
gánh nặng. Trong trường hợp chủ thể người bệnh được đưa vào một cơ sở y tế
theo quyết định của toà án, cần phải có một sự cho phép của tòa án trước khi tiến
hành thí nghiệm.
5.2.1.5. Nhóm bệnh nhân HIV/AIDS
Đại dịch HIV/AIDS trên bình diện toàn cầu đã đưa ra những thách thức về
sức khoẻ đối với người dân, bao gồm các vấn đề đạo đức liên quan đến cuộc
sống và nhân phẩm con người. Căn bệnh này đã ảnh hưởng nhiều đến những
người có HIV/AIDS và những người thân của họ, từ đó thường dẫn đến sự kỳ thị
và phân biệt đối xử. Hiện nay, tiếp cận điều trị và phát triển các phương pháp
điều trị và phòng ngừa hiệu quả hơn, đồng thời quan tâm tới các giá trị đạo đức
trong chăm sóc sức khoẻ và nghiên cứu. Các vấn đề về đạo đức chủ yếu xoay
quanh tiêu chuẩn chăm sóc, sự đồng ý, sự riêng tư và bảo mật, kỳ thị và phân
biệt đối xử, bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, tư vấn cộng đồng, các cơ chế
xem xét về đạo đức, hợp tác quốc tế, nghiên cứu dịch tễ học, các thử nghiệm lâm
sàng và các nghiên cứu xã hội về HIV /AIDS [3]. Ngoài ra, các mối quan tâm
lớn về các thử nghiệm vắc-xin HIV/AIDS, các thử nghiệm diệt vi khuẩn cũng
như dự phòng các thử nghiệm truyền nhiễm từ mẹ sang con đặc biệt là ở các
quốc gia đang phát triển. Nâng cao hiểu biết của cán bộ y tế về các mối quan tâm
về đạo đức và xã hội khác nhau liên quan đến điều trị và nghiên cứu HIV/AIDS
sẽ giúp xây dựng các chính sách phòng, chống dịch bệnh phù hợp.
5.2.1.6. Nhóm dân tộc thiểu số
Nhóm thiểu số bao gồm những người ở vị trí dễ bị tổn thương do tình trạng
kinh tế, văn hoá, ngôn ngữ khác với những nhóm khác. Ví dụ, những người nói
tiếng địa phương khác với đa số những người khác đều thuộc nhóm dân tộc thiểu
số. Tại sao những người này được coi là dễ thương tổn? Điều này là bởi nhóm
đa số thường giữ các vị trí quản lý trong xã hội. Vì vậy, họ sẽ thường là những
người thực hiện các chương trình YTCC hoặc triển khai các nghiên cứu. Điều có

466
thể xảy ra là chỉ những người có đồng ngôn ngữ hoặc có văn hoá tương tự như
người lãnh đạo/quản lý dự án có thể tham gia vào chương trình y tế.
Mặt khác các nhóm thiểu số có thể là đối tượng mục tiêu để tham gia vào
chương trình mà không cần có sự giải trình cụ thể mang tính luật pháp nào.
Thêm nữa, các nhóm thiểu số thường giữ các vị trí xã hội thấp hơn so với các
nhóm khác.Vì vậy từ chối hợp tác có thể dẫn đến các hậu quả không có lợi cho
cá nhân hoặc cộng đồng.Ngược lại sự phối hợp có thể dẫn đến nhiều lợi ích cho
các nhóm thiểu số này.
5.2.1.7. Nhóm tù nhân
Những người sống trong các cơ sở như nhà tù, bệnh viện, nhà dưỡng lão
thường được xem là nhóm dễ thương tổn. Tại các cơ sở này, những người làm
việc ở đó có quyền lực rất lớn so với những người phải ở trong đó (tù nhân, bệnh
nhân, người sống trong nhà dưỡng lão…). Vì vậy, có thể có các hậu quả bất lợi
khi họ từ chối tham gia vào các hoạt động YTCC và những người trong nhóm dễ
tổn thương này có thể cảm thấy có nghĩa vụ bắt buộc tham gia. Vì vậy, sẽ không
đáp ứng được các nguyên tắc về tính tự nguyện và tính tự chủ.
5.2.2. Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học (còn được gọi là Hội đồng
đạo đức độc lập – Independent Ethics Committee –IEC) là một hội đồng có thể
được thành lập ở các cấp khác nhau (cấp cơ sở, cấp quốc gia hoặc liên quốc gia)
gồm các thành viên là các nhà khoa học, các chuyên gia về y tế và các thành
viên có thể không thuộc ngành y. Chức năng chủ yếu của Hội đồng đạo đức là
“bảo vệ chủ thể con người khỏi các nguy cơ bị tổn thương hoặc những hành vi
sai trái, và thúc đẩy các nghiên cứu có ích” (CIOMS, 1991). Hội đồng đạo đức
cần xem xét cả tính khoa học cũng như khía cạnh đạo đức của nghiên cứu, bởi vì
những vấn đề đó không thể tách rời.
Tính khoa học của một dự án cần được một hội đồng gồm các chuyên gia
hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực cần nghiên cứu xem xét. Các chuyên gia này phải
độc lập về tài chính cũng như về các khía cạnh khác của dự án thì mới được xem
xét. Trong mọi trường hợp có thể, cần tránh mâu thuẫn lợi ích chuyên môn khi
xem xét dự án: điều này có thể xảy ra nếu những người tham hội đồng là bạn
thân hoặc đồng nghiệp của người thiết kế nghiên cứu.

467
Thiết kế nghiên cứu cần được các chuyên gia xem xét kĩ chất lượng để đảm
bảo rằng thiết kế đó cho phép thu thập các thông tin có giá trị khoa học. Thực
hiện các nghiên cứu không có chất lượng cũng là trái với các nguyên tắc đạo đức
nghiên cứu vì các nghiên cứu như vậy gây lãng phí nguồn lực và thời gian. Tổ
chức Y tế Thế giới và nhiều nước trên thế giới đã có những qui định rõ ràng về
Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu. Theo Loue (2000), Hội đồng Đạo đức phải
đại diện cho quan điểm của cộng đồng và các thành viên của Hội đồng cần cân
nhắc những tác động xã hội và cá nhân của nghiên cứu bên cạnh khía cạnh đạo
đức.
Ở Việt Nam, để đáp ứng và hòa nhập với yêu cầu của cộng đồng nghiên
cứu trên thế giới, ngày 19/12/2002 Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định
số 5129/2002/QĐ-BYT về việc thành lập Hội đồng Đạo đức của Bộ Y Tế và các
Hội đồng Đạo đức của các cơ sở nghiên cứu trực thuộc Bộ Y Tế. Theo đó tất cả
các nghiên cứu y sinh học đều phải được thông qua Hội đồng Đạo đức của Bộ Y
tế hoặc Hội đồng Đạo đức của cơ sở trước khi triển khai tùy theo đặc điểm cụ
thể của các nghiên cứu.
5.2.2.1. Nhiệm vụ
- Đảm bảo quyền lợi, sự an toàn và sự tình nguyện tham gia của những đối
tượng tham gia nghiên cứu.
- Đảm bảo sự công bằng đối với tất cả các bên tham gia nghiên cứu.
- Đảm bảo tính khoa học, khả thi của nghiên cứu, sự an toàn cho nghiên
cứu viên và Hội đồng.
- Thẩm định, xét duyệt hồ sơ nghiên cứu Y sinh học (đề cương nghiên cứu,
các báo cáo và tài liệu có liên quan) đảm bảo tính pháp lý, khách quan, trung
thực.
- Theo dõi, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ nghiên cứu thử nghiệm lâm
sàng theo tiêu chuẩn thực hành lâm sàng tốt.
- Đánh giá thẩm định các kết quả nghiên cứu theo đề cương nghiên cứu đã
được phê duyệt trên cơ sở các hướng dẫn và quy định hiện hành.
- Tập huấn, hướng dẫn và phát triển đội ngũ nghiên cứu viên cho nghành Y
tế theo tiêu chuẩn Thực hành lâm sàng tốt (GCP) và đạo đức trong nghiên cứu.

468
5.2.2.2. Quyền hạn
- Chấp thuận hoặc không chấp thuận đề cương nghiên cứu làm cơ sở cho cơ
quan quản lý ra quyết định cho phép triển khai nghiên cứu Y sinh học với đối
tượng nghiên cứu là con người.
- Chấp thuận hoặc không chấp thuận những thay đổi về nội dung nghiên
cứu trong quá trình triển khai.
- Đề xuất về việc dừng nghiên cứu khi có các dấu hiệu vi phạm về khía
cạnh đạo đức trong nghiên cứu hoặc phát hiện thấy nguy cơ không đảm bảo an
toàn cho đối tượng nghiên cứu có thể xảy ra trong quá trình nghiên cứu.
- Yêu cầu chủ nhiệm đề tài, cơ quan quản lý báo cáo các số liệu, dữ liệu,
các kết quả nghiên cứu và hồ sơ có liên quan đến nghiên cứu.
5.2.2.3. Quá trình xét duyệt đạo đức
- Xây dựng đề cương và thông qua Hội đồng xét duyệt chuyên môn (hội
đồng khoa học)
- Chỉnh sửa đề cương sau xét duyệt chuyên môn, điền các mẫu đề nghị xét
duyệt đạo đức
- Các thành viên của Hội đồng Đạo đức thảo luận, chủ tịch Hội đồng Đạo
đức đọc trước và cho ý kiến về sự cần thiết của các kỳ họp thông qua.
- Phản hồi của Hội đồng Đạo đức và những góp ý, chỉnh sửa (nếu cần)
- Giám sát thực hiện và báo cáo
Hội đồng đạo đức nghiên cứu y sinh học chỉ tiến hành tiếp nhận và xem xét
các hồ sơ sau khi Hội đồng Khoa họcxét duyệt và có quyết định bằng văn bản
thông qua đề cương về học thuật, chuyên môn kỹ thuật, tính khoa học của
nghiên cứu theo đúng các quy định về quản lý KHCN đã được ban hành.
Hội đồng có thể mời chuyên gia tư vấn trong những trường hợp cần thiết, ý
kiến tư vấn của các chuyên gia chỉ có giá trị tham khảo. Chuyên gia tư vấn
không tham gia bỏ phiếu kín.
Khi xem xét và ra quyết định Hội đồng đạo đức nghiên cứu y sinh học cần
quan tâm cân nhắc các nội dung sau đây:

469
- Nguy cơ cho người tham gia nghiên cứu đã được giảm tối thiểu;
- Các nguy cơ là hợp lý so với những lợi ích dự kiến có được;
- Việc chọn người tham gia công bằng;
- Cần có được chấp thuận tham gia tình nguyện từ mỗi người tham gia;
- Sự chấp thuận tham gia tình nguyện được dẫn chứng bằng tư liệu thích
hợp.
- Thu thập số liệu được giám sát để đảm bảo rằng người tham gia được
an toàn;
- Tính riêng tư và bảo mật của người tham gia được bảo vệ;
- Các điều kiện bảo vệ thêm phải được đưa ra đối với những quần thể dễ
bị tổn thương;
- Thiết kế khoa học và tổ chức nghiên cứu.
Ngoài các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm qui định từng thành viên
trong Hội đồng có các nhiệm vụ cụ thể sau:
Chủ tịch
- Xem xét các đơn xin miễn xem xét đạo đức toàn diện;
- Có quyền xem xét và trả lời liên quan đến giấy phép đạo đức tạm thời có
điều kiện hoặc miễn trừ tạm thời (trừ khi được Hội đồng chỉ đạo)
- Xem xét (và có thể cấp phép tạm thời) và có thể đề nghị những thay đổi
nhỏ đối với dự án được xem xét.
- Thông qua dự thảo báo cáo kết quả/ biên bản do Thư ký chuẩn bị sau các
cuộc họp của Hội đồng;
- Chủ trì các Tiểu ban xem xét đạo đức theo qui trình rút gọn; và
- Chủ trì (hay bổ nhiệm người chủ trì) các nhóm kiểm tra khác nhau, và các
nhóm công tác khác do Hội đồng lập nên.
- Chủ tịch có quyền bỏ phiếu đối với tất cả các vấn đề trước Hội đồng đạo
đức
Ủy viên thường trực

470
Nhiệm kỳ của thành viên nòng cốt đề cập đến sự phân loại của thành viên
theo yêu cầu của Tuyên bố quốc gia (ví dụ phân nhóm nam và nữ không có
chuyên môn). Thành viên nòng cốt có quyền bỏ phiếu đối với tất cả các vấn đề
trước Hội đồng đạo đức (bao gồm việc xem xét các đơn). Trong một số vấn đề,
sự có mặt của các thành viên nòng cốt là bắt buộc (xem số đại biểu quy định cần
thiết dưới đây).
Thư ký
Thư ký Hội đồng đạo đức có trách nhiệm cụ thể như sau:
- Nhận và chuyển những thư từ (như Bảng kiểm dành cho nghiên cứu viên,
các đơn xin xem xét đạo đức, đơn xin có sự thay đổi nhỏ so với giấy phép
đạo đức/ dự án…);
- Nhận các báo cáo về tiến độ và quyết định các hoạt động cần thực hiện
- Xử lý các đơn xin gia hạn xem xét đạo đức trong thời hạn 3 năm;
- Dự thảo các báo cáo, các chính sách và tài liệu theo yêu cầu của Chủ tịch.
- Đưa ra các vấn đề về chính sách và chiến lược để thu hút sự chú ý của Uỷ
ban;
- Tư vấn cho các nhà nghiên cứu
- Trình bày và truyền tài các vấn đề về đạo đức trong nghiên cứu cho sinh
viên/ cán bộ.
- Thư ký không phải là một Ủy viên của Hội đồng.

CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG


Câu 1: Trình bày được khung đạo đức y tế cơ bản?
Câu 2: Trình bày được đạo đức trong thực hành điều dưỡng?
Câu 3: Trình bày được nội dung đạo đức trong nghiên cứu điều dưỡng?
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Y tế (2014). Tài liệu hướng dẫn đào tạo liên tục chăm sóc người bệnh
toàn diện.

471
2. Quyết định số 20/QĐ-HĐD, ngày 10/09/2012 của Hội Điều dưỡng Việt
Nam ban hành Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên Việt Nam
3. Bộ Y tế (2014), Dự thảo Tài liệu hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong
nghiên cứu y sinh học
4. Bộ Y tế (2019). Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
bác sĩ chính hạng II.

CHUYÊN ĐỀ 12
VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THỰC HÀNH CHĂM SÓC SỨC KHỎE VÀ
TIẾP CẬN CỘNG ĐỒNG

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP


Tổng số tiết: 8 tiết, trong đó:
Lý thuyết: 4 tiết

472
Thảo luận, thực hành: 4 tiết
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong, học viên có khả năng:
1. Nêu được tình hình thực hiện văn hóa ứng xử tại các cơ sở y tế
2. Phân tích được một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện văn hóa ứng xử
tại các cơ sở y tế
3. So sánh được 4 mô hình giao tiếp ứng xử giữa điều dưỡng viên và khách
hàng/người bệnh/cộng đồng.
4. Áp dụng một số kỹ năng giao tiếp quan trọng (thu thập thông tin, cung cấp
thông tin và tư vấn) và nguyên lý của các mô hình giao tiếp điều dưỡng viên-
khách hàng trong một số tình huống thực hành chăm sóc sức khỏe và tiếp cận
cộng đồng.
NỘI DUNG
1. Văn hóa ứng xử tại các cơ sở y tế
1.1. Tình hình thực hiện văn hóa ứng xử tại các cơ sở y tế
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, theo đó văn hóa
ứng xử là một trong những cách thức biểu hiện mối quan hệ đó. Thuật ngữ văn
hóa ứng xử nhấn mạnh giá trị nhân cách, khả năng giao tiếp xã hội của con
người. Tuy nhiên, văn hóa ứng xử của mỗi cá nhân khác nhau, được hình thành
qua quá trình học tập, rèn luyện, trưởng thành dưới sự tác động của môi trường
văn hóa gia đình, xã hội.
Văn hóa ứng xử, theo nghĩa hẹp, được hiểu là hệ thống các khuôn mẫu ứng
xử, biểu hiện qua tri thức, thái độ, trách nhiệm, hành vi ứng xử của con người
trong các mối quan hệ với cộng đồng, công việc và với bản thân theo những giá
trị, chuẩn mực văn hóa, phù hợp với yêu cầu và lợi ích xã hội nhất định. Theo
đó, văn hóa ứng xử bộc lộ ở cả ba khía cạnh cơ bản, đó là: với xã hội, công việc
và bản thân. Về thực chất, đó chính là cách thức hành động để con người chung
sống và làm việc một các có văn hóa, nhằm làm cho cá nhân và cộng đồng xã
hội giàu tính nhân văn hơn.

473
Những năm qua, phát triển và tăng cường cải thiện văn hóa ứng xử của cán
bộ y tế nói chung và của điều dưỡng viên ở các bệnh viện, cơ sở y tế nói riêng
đã được hệ thống y tế và cả xã hội quan tâm. Trong điều kiện hiện nay, các cơ
sở y tế đang từng bước chuyển đổi từ mô hình chăm sóc truyền thống một chiều
sang chăm sóc sức khỏe toàn diện. Nếu như trước đây nhân viên y tế chỉ quan
tâm chủ yếu đến việc khám, điều trị, thì nay cần phải quan tâm đến cả kỹ năng
giao tiếp, ứng xử với người bệnh và với các bên liên quan. Người bệnh có quyền
được đưa ra những yêu cầu, tăng tính chủ động trong quá trình điều trị, chăm
sóc sức khỏe tại bệnh viện, cơ sở y tế. Dưới sự hướng dẫn, tư vấn, động viên của
đội ngũ nhân viên y tế, người bệnh tự quản lý, quyết định những vấn đề liên
quan đến sức khỏe của bản thân. Như vậy, cách thức thay đổi mô hình chăm sóc
sức khỏe đã và đang đặt ra những vấn đề mới về nhận thức, thái độ, trách nhiệm,
hành vi văn hóa ứng xử của đội ngũ nhân viên y tế nói chung và của điều dưỡng
viên nói riêng.
Trong hơn 10 năm qua Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản nhằm xây dựng
và cải thiện văn hóa ứng xử tại các cơ sở y tế, như: Quyết định số 29/2008/QĐ-
BYT về việc Ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự
nghiệp y tế; Thông tư 07/2014/TT-BYT Quy định về Quy tắc ứng xử của công
chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế; Quyết định
2151/QĐ-BYT về Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế, hướng
tới sự hài lòng của người bệnh. Xác định việc thực hiện “Đổi mới phong cách,
thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh” là một
trong những đột phá để củng cố niềm tin của người bệnh, thời gian tới, ngành Y
tế sẽ tiếp tục triển khai có hiệu quả các nội dung, nhiệm vụ trọng tâm. Theo đó,
cùng với việc kiện toàn ban chỉ đạo, thực hiện tốt các nội dung đổi mới, ngành
sẽ tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để đánh giá kết quả thực hiện tại các
địa phương, đơn vị. Ngoài ra, ngành y tế sẽ tiếp tục huy động và tranh thủ các
nguồn lực để đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp
ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của người dân.
Theo đánh giá của Bộ Y tế, sau thời gian triển khai thực hiện các Quyết
định và Thông tư nêu trên, đến nay, tại các cơ sở y tế đã có sự chuyển đổi rõ rệt
trong tư duy quản lý theo phương pháp tiếp cận từ “phục vụ” sang “cung cấp
dịch vụ”. Đa số cán bộ y tế đã nhận thức được tầm quan trọng của phong cách,

474
thái độ phục vụ, kỹ năng giao tiếp với người bệnh trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ. Nhiều nội dung đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế
đã được tập trung thực hiện như tập huấn nâng cao kỹ năng giao tiếp với người
bệnh; thành lập các đơn vị chăm sóc khách hàng; quy định trang phục của cán
bộ y tế; duy trì và nâng cao chất lượng đường dây nóng, hòm thư góp ý… Qua
thống kê, đã có hàng chục nghìn cuộc gọi phản ánh đến đường dây nóng của Bộ
Y tế, trong đó có trên 30% cuộc gọi phản ánh đúng vi phạm. Các trường hợp vi
phạm, Bộ Y tế đã chỉ đạo các cơ sở y tế xử lý kịp thời.
Tại nhiều tỉnh, thành phố, cùng với việc tổ chức tập huấn nâng cao kỹ năng
giao tiếp, văn hóa ứng xử cho cán bộ y tế, các cơ sở khám chữa bệnh trên địa
bàn tỉnh đã thành lập bộ phận chăm sóc “khách hàng” đặt ở khoa Khám bệnh để
đón tiếp, hướng dẫn, cung cấp các thông tin cần thiết cho người bệnh và người
nhà người bệnh. Bên cạnh đó, tiếp tục duy trì “Đường dây nóng”, “Hòm thư góp
ý”; triển khai đề án “Tiếp sức người bệnh trong bệnh viện", qua đó, góp phần
thay đổi phong cách giao tiếp ứng xử, ý thức trách nhiệm, tinh thần thái độ phục
vụ của đội ngũ cán bộ, viên chức trong ngành.
Hiện nay, các bệnh viện cũng đang liên tục thực hiện cải tiến các quy trình
đón tiếp, chăm sóc người bệnh: thực hiện tốt quy chế giao tiếp với người bệnh,
không có sai sót lớn về chuyên môn; nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ người
bệnh; đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng triển khai công nghệ thông tin vào công
tác quản lý khám, chữa bệnh đạt hiệu quả cao; đơn giản hóa các thủ tục hành
chính; thực hiện xét nghiệm một cửa tại khoa Khám bệnh... Triển khai một số
khoa đi làm sớm hơn so với giờ hành…. Kết quả của việc đánh giá sự hài lòng
của người bệnh ở nhiều bệnh viện cho thấy đã và đang cải thiện đáng kể đối với
cả người bệnh ngoại trú và nội trú.
Nhiều bệnh viện có kết quả về đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán
bộ y tế, xây dựng cơ sở y tế xanh - sạch - đẹp, chất lượng bệnh viện hướng tới
sự hài lòng của người bệnh đạt trên 90 điểm. Nhiều Bệnh viện cũng đã rất chú
trọng công tác vệ sinh, trong đó khu vực vệ sinh dành cho người bệnh và được
đánh giá là mô hình điểm của ngành y tế để được nhân rộng như bệnh viện E.
Việc thực hiện quy tắc ứng xử được áp dụng linh hoạt, phù hợp với tình
hình thực tế, tính chất công việc chuyên môn của mỗi khoa, phòng; mỗi cán bộ,

475
viên chức, người lao động. Để thực hiện triển khai có hiệu quả quy tắc ứng xử,
nhiều bệnh viện đã tổ chức hướng dẫn tuyên truyền, tập huấn, phổ biến, giáo dục
quy tắc ứng xử thông qua các hội nghị lồng ghép; hướng dẫn tuyên truyền trực
tiếp, đưa thông tin tuyên truyền phổ biến trên trang thông tin điện tử của các
bệnh viện; giúp cho nhân viên y tế, người lao động trong toàn viện hiểu được
tầm quan trọng của các văn bản qui định, hướng dẫn trong mối quan hệ giao tiếp
giữa đồng nghiệp với lãnh đạo, giữa đồng nghiệp với đồng nghiệp, giữa nhân
viên y tế với người bệnh; niêm yết công khai những nội dung quy định trong
quy tắc ứng xử tại tất cả các khoa, phòng để người bệnh và người nhà người
bệnh thuận tiện theo dõi, giám sát việc thực hiện quy tắc ứng xử của đội ngũ y,
bác sỹ.
Ngoài ra nhiều bệnh viện còn tổ chức tập huấn cho vệ sỹ, coi giữ xe, lao
công, phục vụ trong toàn viện. Các bệnh viện đã tổ chức phát động phong trào
thi đua nâng cao đạo đức nghiệp, gắn với khen thưởng và xử lý vi phạm. Tổ
chức công tác tư vấn về dinh dưỡng, vệ sinh phòng bệnh cho người bệnh và
người nhà người bệnh; hướng dẫn, đón tiếp người bệnh;… thông qua tổ/phòng
công tác xã hội’ áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động khám, chữa bệnh
như: lắp đặt hệ thống xếp số tự động, phần mềm quản lý bệnh viện, lắp đặt hệ
thống camera giám sát nhằm đảm bảo an ninh trật tự bệnh viện và giám sát hành
vi của cán bộ y tế, người sử dụng dịch vụ y tế. Nhiều bệnh viện đã nhận được rất
nhiều thư khen và góp ý tích cực từ phía người bệnh và người nhà người bệnh cả
về thái độ ứng xử và chuyên môn.
Việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, đáp ứng sự hài lòng người
bệnh tiếp tục cần có thời gian. Nhưng đó cũng là vấn đề quan trọng và cần thiết
với chủ trương “thay đổi để phát triển” hướng tới mục tiêu xây dựng các bệnh
viện, cơ sở y tế có “môi trường thân thiện” (Hộp 1).
Hộp 1: Tháng hành động “Vì môi trường bệnh viện thân thiện” tại bệnh
viện Từ Dũ
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, bệnh viện là nơi mà công tác xã hội giữ
vị trí cầu nối hiệu quả nhất cho mối quan hệ giữa nhân viên y tế - người bệnh và
thân nhân người bệnh, với mục tiêu mang đến sự hài lòng cho “khách hàng” khi
đến khám và điều trị bệnh tại các cơ sở y tế. Đây cũng là chủ trương của Ban

476
Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, nhằm không ngừng hoàn thiện tính văn minh,
chuyên nghiệp của hoạt động xã hội trong môi trường bệnh viện.
Từ ý nghĩa nêu trên, nhân kỷ niệm Ngày Công tác xã hội Việt Nam lần thứ
III năm 2019, Bệnh viện Từ Dũ đã phát động “Tháng hành động Vì môi trường
bệnh viện thân thiện” trong toàn bệnh viện, từ ngày 1/3/029 đến ngày
25/3/2019.
Mục đích của đợt phát động nhằm tạo không khí thi đua xây dựng môi
trường làm việc sạch đẹp, phong cách giao tiếp ứng xử văn minh, lịch sự và thái
độ chăm sóc, chu đáo thân tình đối với bệnh nhân. Bên cạnh đó còn là hình ảnh
đẹp về người thầy thuốc với tấm lòng vì người bệnh, rất vững vàng trong chuyên
môn và thật gần gũi với mọi người. Nội dung “Tháng hành động Vì môi trường
bệnh viện thân thiện” được phát động gồm các chủ đề:
- Nụ cười Blouse trắng trong chăm sóc hậu phẫu – hậu sản: thường xuyên
mỉm cười và chào thân thiện công tác chăm sóc cho người bệnh và khi thực
hiện các thủ thuật,.
- Thực hiện các sản phẩm truyền thông giáo dục sức khỏe (video clip,
brochure, …) nhằm đa dạng hóa các hình thức tư vấn sức khỏe cho người bệnh
và thân nhân, đồng thời trang bị những kiến thức cần thiết liên quan đến công
tác chuyên môn ngay tại khoa/phòng cho nhân viên y tế.
- Hướng dẫn người bệnh và thân nhân rửa tay đúng cách vào đầu ngày làm
vviệc.
- Trưa “Thứ Sáu vui” cùng bệnh nhân ung thư, thông qua các chương trình
sinh hoạt vui, mang ý nghĩa chia sẻ, xoa dịu những cơn đau và hoàn cảnh khó
khăn của bệnh nhân ung thư đang được điều trị tại Bệnh viện Từ Dũ.
- Chiếc hộp Em bé Từ Dũ nhằm gợi nhớ các bông bố - bà mẹ một kỷ niệm
đặc biệt trong thời gian sinh con tại Bệnh viện Từ Dũ, qua những chiếc hộp nhỏ
lưu giữ lắc tay hoặc cuống rốn của bé khi xuất hiện.
- Chủ nhật yêu thương cho các em Làng Hòa Bình.
- Khoa phòng xanh với góc không gian thư giãn thân thiện, tươi mát ngay
tại phòng làm việc hay tại phòng bệnh, hướng đến sự thư thái tinh thần cho nhân
viên y tế và cả người bệnh.

477
- Góc lan tỏa yêu thương trưng bày những lời cảm ơn, tình cảm khách
hàng dành cho nhân viên y tế trong quá trình nằm điều trị tại bệnh viện, qua đó
tạo nên sự gần gũi giữa người bệnh và nhân viên y tế, nâng cao sự tin tưởng của
người bệnh cũng như tiếp thêm động lực cho nhân viên y tế trong sự nghiệp
chăm sóc người bệnh.
- Thiết kế và cải tiến biểu mẫu hướng dẫn khách hàng dễ hiểu và gần gũi,
Sau gần 1 tháng phát động, Phòng Công tác xã hội - Bệnh viện Từ Dũ đã
nhận được 34 công trình của 34 khoa/phòng, thể hiện sự đầu tư rất đáng trân
trọng của tập thể các khoa, phòng trong việc tạo nên không gian thoải mái cho
các y – bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh… và tình cảm dành cho người bệnh vốn luôn
đối diện áp lực của các vấn đề sức khỏe.
Hoạt động công tác xã hội tại Bệnh viện Từ Dũ đã thể hiện được sự năng
động và từng bước khẳng định được vai trò trong việc kết nối nhân viên y tế với
người bệnh bằng các hoạt động thiết thực, không chỉ trong chăm sóc sức khỏe,
mà còn thực hiện tốt công tác tư vấn, hỗ trợ khách hàng qua văn hóa ứng xử và
môi trường, cảnh quan giao tiếp thân thiện. Theo Giám đốc bệnh viện “Tháng
hành động Vì môi trường bệnh viện thân thiện không chỉ là phong trào mà phải
là một trong các chương trình hoạt động thường xuyên của bệnh viện trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ được xã hội phân công”.
Gần đây Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã đánh giá cao sự cố
gắng, nỗ lực của các đơn vị, địa phương trong việc thực hiện “Đổi mới phong
cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế" trong thời gian qua. Bộ trưởng đề nghị
các đơn vị, địa phương và các cơ sở khám chữa bệnh tiếp tục thực hiện hiệu quả
các giải pháp mà ngành Y tế đã đề ra trong thời gian tới. Trong đó, tăng cường
hơn nữa sự chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền trong triển khai kế
hoạch “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế”; tiếp tục thực hiện
đồng bộ các nội dung trong Quyết định 2151/QĐ-BYT gắn với cải cách hành
chính trong khám, chữa bệnh và đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát. Bên cạnh
đó, tăng cường truyền thông nêu gương tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, đồng
thời phê phán hành vi không tốt của cán bộ y tế; tích cực đầu tư, sửa chữa, nâng
cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị nhất là tuyến huyện, xã, vùng sâu, vùng xa góp
phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân.

478
Trong thời gian tới, ngành Y tế các tỉnh, thành phố sẽ tập trung kiện toàn và bổ sung Ban Chỉ đạo tổ chức
thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh” để triển
khai cơ sở y tế “Xanh – sạch – đẹp”. Tăng cường tập huấn kỹ năng giao tiếp, ứng xử, tạo mối quan hệ thân thiện
giữa bệnh viện với người bệnh, nhất là tôn trọng, lắng nghe phản ánh, bức xúc của người bệnh qua các kênh
thông tin; Tiếp tục thực hiện và triển khai mô hình bệnh viện “Xanh – sạch – đẹp”, an toàn vệ sinh lao động,
quản lý sát sao việc phân loại, thu gom và xử lý chất thải y tế, chất thải thông thường. Nâng cao chất lượng
khám, chữa bệnh gắn với đổi mới công tác quản lý, cải cách hành chính, cải tiến quy trình khám chữa bệnh,
giảm phiền hà, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh…

479
Hộp 1: Tháng hành động “Vì môi trường bệnh viện thân thiện” tại
bệnh viện Từ Dũ
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, bệnh viện là nơi mà công tác xã hội giữ
vị trí cầu nối hiệu quả nhất cho mối quan hệ giữa nhân viên y tế - người
bệnh và thân nhân người bệnh, với mục tiêu mang đến sự hài lòng cho
“khách hàng” khi đến khám và điều trị bệnh tại các cơ sở y tế. Đây cũng là
chủ trương của Ban Giám đốc Bệnh viện Từ  Dũ, nhằm không ngừng hoàn
thiện tính văn minh, chuyên nghiệp của hoạt động xã hội trong môi trường
bệnh viện.
Từ ý nghĩa nêu  trên, nhân kỷ
niệm Ngày Công tác xã hội
Việt Nam lần thứ III năm 2019, Bệnh viện Từ Dũ đã phát động “Tháng
hành động Vì môi trường bệnh viện thân thiện”  trong toàn bệnh viện, từ
ngày 1/3/029  đến ngày 25/3/2019.
 Mục đích của đợt phát động nhằm tạo không khí thi đua xây dựng môi
trường làm việc sạch đẹp, phong cách giao tiếp ứng xử văn minh, lịch sự và
thái độ chăm sóc, chu đáo thân tình đối với bệnh nhân. Bên cạnh đó còn là
hình ảnh đẹp về người thầy thuốc với tấm lòng vì người bệnh, rất vững vàng
trong chuyên môn và thật gần gũi với mọi người. Nội dung “Tháng hành
động Vì môi trường bệnh viện thân thiện” được phát động gồm các chủ đề:
- Nụ cười Blouse trắng trong chăm sóc hậu phẫu – hậu sản: thường
xuyên mỉm cười và chào thân thiện công tác chăm sóc cho người bệnh và
khi  thực hiện các thủ thuật,.
- Thực hiện các sản phẩm truyền thông giáo dục sức khỏe (video clip,
brochure, …) nhằm đa dạng hóa các hình thức tư vấn sức khỏe cho người
bệnh và thân nhân, đồng thời trang bị những kiến thức cần thiết liên quan
đến công tác chuyên môn ngay tại khoa/phòng cho nhân viên y tế.
- Hướng dẫn người bệnh và thân nhân rửa tay đúng cách vào đầu ngày
làm vviệc.
- Trưa “Thứ Sáu vui” cùng bệnh nhân ung thư, thông qua các chương
trình sinh hoạt vui, mang ý nghĩa chia sẻ, xoa dịu những cơn đau và hoàn

480
cảnh khó khăn của bệnh nhân ung thư đang được điều trị tại Bệnh viện Từ
Dũ.
- Chiếc hộp Em bé Từ Dũ nhằm gợi nhớ các bông bố - bà mẹ một kỷ niệm
đặc biệt trong thời gian sinh con tại Bệnh viện Từ Dũ, qua những chiếc hộp
nhỏ lưu giữ lắc tay hoặc cuống rốn của bé khi xuất hiện.
- Chủ nhật yêu thương cho các em Làng Hòa Bình.
- Khoa phòng xanh với góc không gian thư giãn thân thiện, tươi mát
ngay tại phòng làm việc hay tại phòng bệnh, hướng đến sự thư thái tinh thần
cho nhân viên y tế và cả người bệnh.
- Góc lan tỏa yêu thương  trưng bày những lời cảm ơn, tình cảm khách
hàng dành cho nhân viên y tế trong quá trình nằm điều trị tại bệnh viện, qua
đó  tạo nên sự gần gũi giữa người bệnh và nhân viên y tế, nâng cao sự tin
tưởng của người bệnh cũng như tiếp thêm động lực cho nhân viên y tế trong
sự nghiệp chăm sóc người bệnh.
- Thiết kế và cải tiến biểu mẫu hướng dẫn khách hàng dễ hiểu và gần gũi,

Sau gần 1 tháng phát động, Phòng Công tác xã hội  - Bệnh viện Từ Dũ đã
nhận được 34 công trình của 34 khoa/phòng, thể hiện sự đầu tư rất đáng trân
trọng của tập thể các khoa, phòng trong việc tạo nên không gian thoải mái
cho các y – bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh… và tình cảm dành cho người bệnh
vốn luôn đối diện áp lực của các vấn đề sức khỏe.
Hoạt động công tác xã hội tại Bệnh viện Từ Dũ đã thể hiện được sự năng
động và từng bước khẳng định được vai trò trong việc kết nối nhân viên y tế
với người bệnh bằng các hoạt động thiết thực, không chỉ trong chăm sóc sức
khỏe, mà còn thực hiện tốt
công tác tư vấn, hỗ trợ khách
hàng qua văn hóa ứng xử và môi trường, cảnh quan giao tiếp thân thiện.
Theo Giám đốc bệnh viện “Tháng hành động Vì môi trường bệnh viện thân
thiện không chỉ là phong trào mà phải là một trong các chương trình hoạt
động thường xuyên của bệnh viện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được
xã hội phân công”.

481
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện văn hóa ứng xử tại các cơ sở y tế
Văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế là những biểu hiện hoạt động của mỗi cá
nhân (hoặc nhóm người), được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ, sự giao
tiếp và cách ứng xử của con người đối với bản thân, với những người xung
quanh, trong công việc và môi trường hoạt động thực hành chăm sóc sức khỏe
hằng ngày tại cơ sở y tế. Một số yếu tố sau có thể ảnh hưởng đến thực hiện văn
hóa ứng xử tại các cơ sở y tế. Mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào bối cảnh thực tế
tại mỗi cơ sở.
- Sự lãnh đạo có ảnh hưởng quan trọng tới việc thực hiện văn hóa ứng
xử tại cơ sở y tế: Nếu lãnh đạo có năng lực, cam kết, ưu tiên cho việc
xây dưng văn hóa ứng xử tại cơ sở y tế thì đó là một trong những điều
kiện tiên quyết cho việc triển khai thành công tại cơ sở y tế. Nếu sự
lãnh đạo là hạn chế sẽ dẫn đến việc hộ trợ không đầy đủ và không
thường xuyên và không tạo động lực cho các nhân viên y tế trong đơn
vị cam kết với việc thực hiện văn hóa ứng xử trong đơn vị. Để duy trì
và phát triển văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế đòi hỏi người lãnh đạo
phải hàng ngày, hàng giờ hỗ trợ và thúc đẩy văn hóa ứng xử.
- Kỹ năng giao tiếp của nhân viên y tế: Kỹ năng giao tiếp của nhân viên
y tế nói chung và của điều dưỡng viên nói riêng cần phải được thường
xuyên cải thiện thông qua hoạt động đào tạo, tập huấn và chia sẻ kinh
nghiệm qua các tình huống cụ thể. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến việc tạo dựng, duy trì văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế.
- Sự hợp tác giữa các nhân viên y tế trong đơn vị: Đây là yếu tố cũng rất
quan trọng để thực hiện tốt việc xây dựng văn hóa ứng xử trong cơ sở
y tế. Các loại hình nhân viên y tế trong đơn vị cần phải hiểu và nhận
thức rõ ràng về vai trò của các loại hình nhân lực khác nhau trong cơ
sở y tế, các loại hình này có tác dụng bổ trợ cho nhau trong việc thực
hiện hiệu quả nhiệm vụ khám, điều trị và chăm sóc cho người bệnh và
cộng đồng và cùng xây dựng văn hóa ứng xử của cơ sở.
- Kiến thức của nhân viên y tế về văn hóa ứng xử cùng ảnh hưởng đáng
kể: Để xây dựng văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế cần phải triển

482
khai theo hệ thống. Theo đó điều quan trọng là các y bác sĩ, điều
dưỡng và các nhân viên y tế khác phải hiểu đúng thế nào là văn hóa
ứng xử. Khi đã hiểu đúng rồi thì văn hóa phải được xây dựng bằng nỗ
lực chung của toàn thể cán bộ nhân viên và môi trường bệnh viện, cơ
sở y tế chứ không của riêng ai. Khi đã hình thành được văn hóa của cả
đơn vị thì bất cứ cá nhân nào có hành vi “ngược dòng” sẽ tự bị đào
thải. Văn hóa ứng xử được hình thành từ những cá thể riêng lẻ. Nhưng
những cá thể này khi biết gắn kết với nhau thì tạo thành nền tảng
chung mà bây giờ trong xã hội đương đại được gọi là “thương hiệu”
của đơn vị. Mấu chốt trong văn hóa ứng xử của cơ sở y tế là “lấy
người bệnh/khách hàng” làm trung tâm, chứ không phải “lấy bệnh tật”
làm trung tâm. Lắng nghe và đáp ứng đầy đủ, kịp thời, chu đáo với
trăn trở “đa chiều” của người bệnh/khách hàng. Văn hóa ứng xử trong
cơ sở y tế là tổng hợp nỗ lực chung của toàn thể nhân viên y tế và môi
trường của đơn vị, chứ không của riêng ai. Nhân viên y tế không chỉ là
người phòng và chữa bệnh mà còn là nơi người bệnh, cộng đồng gửi
gắm niềm tin. Nét đẹp của bệnh viện, cơ sở y tế không chỉ ở cơ sở vật
chất và trang thiết bị, mà chủ yếu là ở cách hành xử hàng ngày của mỗi
nhân viên y tế đối với người bệnh và người nhà của họ.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến kỹ năng ứng xử giao tiếp với người
bệnh/khách hàng, người nhà người bệnh, và giữa các nhân viên y tế
trong đơn vị để mọi người hiểu và tự nâng cao nhận thức trong thực
hiện quy tắc ứng xử của đơn vị cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc thực
hiện văn hóa ứng xử của các cơ sở y tế.
- Cơ cấu tổ chức, các chính sách, qui trình/thủ tục của cơ sở y tế: Các
yếu tố thuộc về môi trường và hệ thống này có ảnh hưởng không nhỏ
tới việc thực hiện văn hóa ứng xử của đơn vị. Ví dụ, nếu tổ chức càng
cồng kềnh cùng với việc các chính sách/qui định về việc trao đổi thông
tin không rõ ràng sẽ làm cho việc chia sẻ thông tin không kịp thời và
thông suốt giữa các bộ phận/đơn vị cả theo chiều ngang và chiều dọc
thì càng ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện văn hóa ứng xử tại cơ sở
y tế.

483
Thảo luận:
- Các học viên thảo luận để bổ sung thêm các yếu tố có thể ảnh hưởng
đến việc thực hiện văn hóa ứng xử tại đơn vị mình mà chưa được đề
cập ở trên.
- Các học viên thảo luận để đưa ra các ví dụ cụ thể về các yếu tố nào đã
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới việc thực hiện văn hóa ứng xử tại
đơn vị của mình và các giải pháp khắc phục để cải thiện những yếu tố
có ảnh hưởng tiêu cực.
2. Quan hệ giữa điều dưỡng viên với khách hàng, người bệnh, cộng đồng
2.1. Các mô hình về mối quan hệ, giao tiếp của điều dưỡng viên với người
bệnh, khách hàng và cộng đồng
Y văn đã đưa ra bốn mô hình mô tả sự tương tác, mối quan hệ giữa thầy
thuốc trong đó có điều dưỡng viên và người bệnh/khách hàng ở đó nhấn mạnh
các khía cạnh sự hiểu biết khác nhau về mục đích của việc tương tác giữa thầy
thuốc và người bệnh, nghĩa vụ và bổn phận của người thầy thuốc, vai trò của các
giá trị của người bệnh, và khái niệm về sự tự chủ của người bệnh.

Mô hình “Gia trưởng” (The Paternalistic Model)


Mô hình này nhấn mạnh rằng thầy thuốc chăm sóc người bênh dựa trên
quá trình đào tạo về y khoa và thường dựa trên các kiến thức mang tính kỹ thuật
của chuyên gia, chuyên khoa. Có thể tóm tắt ngắn gọn về mô hình này đó là
“Thầy thuốc là người biết về những điều tốt nhất”. Trên cơ sở đó thầy thuốc là
người quyết định những can thiệp tốt nhất cho tình trạng bệnh và đặc điểm của
người bệnh. Thầy thuốc là người chọn lựa thông tin trao đổi với người bệnh để
người bệnh đồng ý với những gì mà thầy thuốc đã lựa chọn để điều trị, chăm sóc
cho người bệnh. Ở mô hình này những giá trị quan trọng đối với người bệnh
được cho là ít quan trọng hơn so với những gì thầy thuốc tin là mang lại lợi ích
tốt nhất cho người bệnh.
Mô hình này dựa chủ yếu trên nguyên lý đạo đức – đó là làm điều có lợi
cho người bệnh. Theo nguyên lý này người thầy thuốc phải đặt lợi ích của người
bệnh lên trên lợi ích của cá nhân thầy thuốc. Tuy nhiên trong những trường hợp

484
không khẩn cấp mô hình này có mâu thuẫn với nguyên lý về sự tự chủ của người
bệnh (patient autonomy).
Mô hình cung cấp thông tin/nâng cao kiến thức (Informative model)
Mô hình này đôi khi còn có tên gọi là mô hình khoa học, hay mô hình
khách hàng. Với mô hình này, mục tiêu của giao tiếp ứng xử giữa thầy thuốc và
người bệnh là để thầy thuốc cung cho người bệnh tất cả các thông tin phù hợp để
người bệnh lựa chọn giải pháp can thiệp/điều trị mà họ mong muốn và thầy
thuốc là người thực hiện can thiệp mà người bệnh lựa chọn. Theo mô hình này
thầy thuốc cung cấp thông tin cho người bệnh về kết quả chẩn đoán, tình trạng
bệnh và các can thiệp, cách thức chăm sóc, bản chất và các nguy cơ có thể cũng
như lợi ích của các can thiệp, chăm sóc và những gì không chắc chắn mà kiến
thức y học tại thời điểm hiện tại có thể chưa giải quyết được triệt để. Mô hình
này thừa nhận sự phân biệt khá rõ ràng giữa thực tế và các giá trị. Các giá trị của
người bệnh được xác định rõ ràng và điều mà người bệnh thiếu là các thông tin
thực tế về vấn đề sức khỏe của họ. Vì vậy trách nhiệm của người thầy thuốc là
cung cấp tất cả các thông tin thực tế đó. Trong mô hình này thầy thuốc đóng vai
trò là chuyên gia kỹ thuật, cung cấp cho người bệnh các phương tiện để họ tự
kiểm soát vấn đề của họ. Thầy thuốc với vai trò là chuyên gia kỹ thuật họ có bổn
phận quan trọng là cung cấp thông tin chính xác và trung thực, học tập để duy trì
và nâng cao năng lực chuyên môn và tư vấn, hỗ trợ cho người khác khi kiến
thức hoặc kỹ năng của những người này còn thiếu. Sự tự chủ của người bệnh thể
hiện ở việc họ là người kiểm soát việc đưa ra quyết định về chăm sóc sức khỏe.
Mô hình giải thích (Intepretive model)
Với mô hình này, mục đích của việc tương tác giữa thầy thuốc và người
bệnh là giải thích, làm sáng tỏ các giá trị của người bệnh và những điều mà
người bệnh thực sự mong muốn và giúp đỡ người bệnh lựa chọn các can thiệp,
cách thức chăm sóc sức khỏe phù hợp, sẵn có phản ánh được các giá trị này.
Cũng tương tự như mô hình cung cấp thông tin, mô hình giải thích cũng cung
cấp cho người bệnh các thông tin cần thiết về bản chất, tình trạng của vấn đề sức
khỏe, các nguy cơ và lợi tích tiềm tàng của các can thiệp, cách thức chăm sóc.
Thêm vào đó, ở mô hình giải thích thầy thuốc còn hỗ trợ người bệnh làm sáng tỏ
và kết nối các giá trị của người bệnh và xác định các can thiệp nào phù hợp nhất

485
với các giá trị cụ thể đó của người bệnh, do đó giúp người bệnh phiên giải, hiểu
rõ các giá trị này và khi đó họ sẽ tự chủ và tham gia có hiệu quả vào quá trình
chăm sóc sức khỏe của họ.
Theo mô hình giải thích, điều quan trọng là thầy thuốc không ra lệnh cho
người bệnh, mà cuối cùng người bệnh là người quyết định lựa chọn sẽ làm gì để
tốt nhất cho họ. Thầy thuốc không phán xét giá trị của người bệnh mà chỉ giúp
đỡ người bệnh hiểu và sử dụng các giá trị đó trong tình huống cụ thể về vấn đề
sức khỏe của họ để lựa chọn giải pháp điều trị, chăm sóc sức khỏe phù hợp.
Mô hình thảo luận (Deliberative model)
Theo mô hình này mục đích của tương tác, giao tiếp giữa thầy thuốc và
người bệnh là giúp đỡ người bệnh xác định và lựa chọn các giá trị tốt nhất liên
quan đến sức khỏe có thể được nhận thấy trong tình huống cụ thể. Mục đích
cuối cùng người thầy thuốc cần mô tả rõ các thông tin về tình trạng sức khỏe của
người bệnh và sau đó giúp giải thích, làm sáng tỏ các giá trị gắn kết với và tích
hợp trong các lựa chọn chăm sóc sức khỏe hiện có.
Mục tiêu của thầy thuốc bao gồm gợi ý tại sao một số giá trị liên quan đến
chăm sóc sức khỏe lại quan trọng và cần phải được hướng đến. Trong mô hình
này người thầy thuốc đóng vai trò như người thầy hoặc người bạn, gắn kết người
bệnh vào các cuộc trao đổi về hành động gì là tốt nhất có thể cho sức khỏe của
họ.
Bảng 1 dưới đây tổng hợp và so sánh các đặc điểm cơ bản của bốn mô hình về
mối quan hệ, giao tiếp của thầy thuốc bao gồm cả các điều dưỡng viên và người
bệnh/khách hàng, cộng đồng được mô tả ở trên.
Bảng 1: So sánh bốn mô hình về quan hệ thầy thuốc và người bệnh/khách hàng

Mô hình cung Mô hình giải Mô hình thảo Mô hình gia


cấp thông tin thích luận trưởng
Các giá trị Được xác Còn lộn xộn, Mở để phát Khách quan và
của người định, ấn định, mâu thuẫn đòi triển và điều được chia sẻ
bệnh/khách biết rõ đối với hỏi làm sáng chỉnh thông bởi thầy thuốc
hàng người bệnh tỏ qua thảo luận và người bệnh
Trách Cung cấp các Làm sáng tỏ Làm rõ và Nâng cao sức

486
nhiệm/bổn thông tin phù và giải thích thuyết phục khỏe của
phận của hợp và thực các giá trị phù người bệnh về người bệnh,
thầy thuốc hiện can thiệp, hợp của người các giá trị tốt độc lập với
cách thức bệnh đồng nhất đồng thời mong muốn
chăm sóc được thời nói rõ cho làm rõ cho của người
lựa chọn của người bệnh người bệnh bệnh
người bệnh biết và thực hiểu và thực
hiện các can hiện can thiệp,
thiệp, cách cách chăm sóc
thức chăm sóc được lựa chọn
được lựa chọn của người
của người bệnh
bệnh
Quan niệm Lựa chọn và Tự hiểu biết Tự phát triển Đồng ý, bằng
về sự tự kiểm soát việc phù hợp với về phẩm hạnh, lòng với các
chủ của chăm sóc sức chăm sóc sức đạo đức phù giá trị khách
người bệnh khỏe khỏe hợp với chăm quan.
sóc sức khỏe

Quan niệm Chuyên gia kỹ Người tư vấn, Bạn hoặc giáo Người giám
về vai trò thuật có năng cố vấn, hỗ trợ viên, người hộ
của thầy lực hướng dẫn
thuốc
Trong nhiều năm qua, thảo luận về mối quan hệ thầy thuốc-người bệnh
thường tập trung vào 2 cực: tự chủ và gia trưởng. Nhiều quan điểm chỉ trích thầy
thuốc cho rằng thầy thuốc là gia trưởng và thúc giục cần phải trao quyền cho người
bệnh để họ kiểm soát việc chăm sóc sức khỏe của bản thân họ. Quan điểm này –
mô hình cung cấp thông tin – trở nên nổi bật trong tiêu chuẩn về luật pháp và y
đức. Mô hình này tích hợp những khiếm khuyết của tự chủ ở người bệnh và nó làm
giảm vai trò của thầy thuốc, chỉ còn dừng ở mức là nhà kỹ thuật. Người thầy thuốc
với thái độ thông cảm, quan tâm là tư tưởng và tiêu chuẩn được tích hợp trong mô
hình thảo luận. Tư tưởng này cần được đưa vào trong luật và các chính sách điều
chỉnh mối quan hệ giữa thầy thuốc và người bệnh. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng

487
bốn mô hình trình bày ở trên không chỉ giới hạn trong lĩnh vực y tế mà cũng có thể
cung cấp thông tin về tương tác trong các lĩnh vực khác ví dụ giữa luật sư và khách
hàng, giữa giáo viên, giảng viên và học sinh, sinh viên…
Tại Việt Nam, nhiều năm nay trong quan hệ và ứng xử giữa thầy thuốc –
người bệnh, khách hàng thường có hai quan niệm hơi cực đoan. Quan niệm thứ
nhất nặng về duy lý cho rằng thầy thuốc làm thiên chức cứu người nên phải
phục vụ vô điều kiện mà “quên” rằng thầy thuốc cũng là người hành nghề tương
tự như nhiều nghề khác. Vì thế không hiếm những trường hợp người bệnh,
khách hàng và người nhà của họ thấy thầy thuốc “trái ý” mình là hành hung,
thậm chí gây án mạng. Quan niệm thứ hai nặng về duy tình khi bệnh nhân,
khách hàng đến cơ sở y tế là “trăm sự nhờ nhân viên y tế”. Đã “nhờ” thì phải cố
có phong bì, quà để tỏ lòng biết ơn hoặc qua đó tạo sự gần gũi, thân thiết để yên
tâm rằng mình hoặc người nhà sẽ được quan tâm chăm sóc tốt hơn. Khi đó thầy
thuốc hành nghề bỗng trở thành người “ban ơn”.
Tại Hội nghị trực tuyến “Đổi mới phong cách phục vụ của cán bộ y tế”, Bộ
trưởng Bộ Y tế đã đưa ra một quan niệm mới trong mối quan hệ này qua lời phát
biểu: Phải coi bệnh nhân là khách hàng đặc biệt. Vì vậy phải làm sao cho khách
hàng thấy hài lòng. Khi nhận thức bệnh nhân là “khách hàng đặc biệt”, thì thái
độ ứng xử của các bác sĩ, điều dưỡng viên và các nhân viên y tế khác trong cơ
sở y tế cần phải thay đổi. Bởi vì theo quy luật của cung cấp dịch vụ, các nhân
viên y tế phải làm hài lòng khách hàng như một điều kiện sống còn của cơ sở y
tế. Nói cho cùng, y tế cũng là một ngành cung cấp dịch vụ và trên nhiều nước
tiên tiến, dịch vụ y tế cũng là một thị trường cạnh tranh để người bệnh/khách
hàng chọn lựa những cơ sở y tế có chất lượng cao, chi phí phù hợp, thái độ phục
vụ tận tình, có văn hóa ứng xử tốt và nhình chung là làm hài lòng khách hàng...
2.2. Kỹ năng giao tiếp với khách hàng, cộng đồng
Văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế là những biểu hiện hoạt động của mỗi cá
nhân (hoặc nhóm người), được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ, sự giao
tiếp và cách ứng xử của con người đối với bản thân, với những người xung
quanh, trong công việc và môi trường hoạt động thực hành chăm sóc sức khỏe
hằng ngày tại cơ sở y tế. Dựa vào các phân tích tổng quan các bằng chứng từ
nghiên cứu cho thấy rõ ràng là giao tiếp giữa nhân viên y tế trong đó có điều

488
dưỡng viên và cộng đồng nói chung, người bệnh nói riêng có ảnh hưởng đáng kể
tới sự hài lòng, tuân thủ điều trị và thực hiện các hành vi có lợi đối với sức khỏe
của người bệnh và cộng đồng, và việc chia sẻ thông tin đầy đủ và chính xác của
họ giúp thầy thuốc trong chẩn đoán, chỉ định và theo dõi khi chăm sóc và nâng
cao sức khỏe cho người bệnh, cộng đồng. Nghiên cứu cũng cho thấy giao tiếp
ứng xử tốt giữa thầy thuốc và người bệnh cũng đóng góp trong cải thiện kết quả
tự báo cáo về sức khỏe của người bệnh, cộng đồng làm giảm lo âu, căng thẳng
về bệnh tật, tăng khả năng ứng phó của người bệnh, cộng đồng với các vấn đề
sức khỏe... Vì vậy văn hóa ứng xử trong thực hành chăm sóc sức khỏe mà trọng
tâm là giao tiếp hiệu quả giữa thầy thuốc và khách hàng, cộng đồng là rất quan
trọng giúp thiết lập mỗi quan hệ hiệu quả giữa thầy thuốc và khách hàng, cộng
đồng. Từ đó giúp thầy thuốc giáo dục và tư vấn về sức khỏe cho người bệnh,
khách hàng, người nhà người bệnh và cộng đồng để có thể cung cấp dịch vụ
chăm sóc và nâng cao sức khỏe có chất lượng cao.
Để giao tiếp có hiệu quả trong thực hành chăm sóc sức khỏe, trước hết cần
xác định rõ và chính xác các đặc điểm của đối tượng cần giao tiếp (họ là ai?).
Trong giao tiếp nói chung và trong thực hành chăm sóc sức khỏe nói riêng sự
hiểu biết rõ về đối tượng giao tiếp (người bệnh, người nhà người bệnh, cộng
đồng cụ thể) đóng một vai trò hết sức quan trọng vì giúp xác định được cách
thức thu thập và biểu đạt thông tin tối ưu nhất và tránh được các xung đột trong
giao tiếp. Thông thường, bên cạnh các thông tin trực tiếp liên quan đến vấn đề
sức khỏe, người thầy thuốc cần biết rõ những thông tin cơ bản về người bệnh và
gia đình họ như: Đặc điểm nhân khẩu học: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, dân tộc,
trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, tình trạng kinh tế; Mức độ hiểu biết của
người bệnh, người nhà người bệnh, cộng đồng về vấn đề sức khỏe; Thái độ đối
với vấn đề sức khỏe; Đặc điểm tính cách/tâm lý, niềm tin... Để có thể có giao
tiếp hiệu quả nhằm có được các thông tin trên một cách chính xác và kịp thời.
Ngoài những kỹ năng giao tiếp thông thường, người thầy thuốc cần có một số kỹ
năng giao tiếp quan trọng với người bệnh, người nhà người bệnh, cộng đồng như
kỹ năng thu thập thông tin, kỹ năng cung cấp thông tin và tư vấn sức khỏe... Các
kỹ năng giao tiếp có thể được phát triển thông qua thực hành thường xuyên, kiên
nhẫn và với tâm thế luôn sẵn sàng học hỏi. Dưới đây là thông tin chi tiết về một

489
số kỹ năng quan trọng của người thầy thuốc nói chung và điều dưỡng viên nói
riêng trong giao tiếp với người bệnh/khách hàng và cộng đồng.
2.2.1 Kỹ năng thu thập thông tin
Để thu thập thông tin hiệu quả trong giao tiếp của điều dưỡng viên, kỹ năng
hỏi và lắng nghe là rất quan trọng. Hỏi nhằm thu thập thông tin cần thiết cho
việc lựa chọn cách thức chăm sóc, nâng cao sức khỏe phù hợp cho người bệnh,
cộng đồng… Điều dưỡng viên thường bắt đầu đặt câu hỏi từ câu chuyện mà
người bệnh, người nhà người bệnh, các khách hàng thuật lại. Có hai loại câu hỏi:
câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Với câu hỏi đóng, người cung cấp thông tin chỉ cần
trả lời có hoặc không, với câu hỏi mở, người cung cấp tin thường phải mô tả,
diễn giải về điều điều dưỡng viên muốn hỏi nên thường bắt đầu bằng câu hỏi
“tại sao?”… “làm thế nào”…. Nội dung trả lời cho câu hỏi mở của người cung
cấp tin giúp điều dưỡng viên biết được ý kiến hay nhận thức của người bệnh,
cộng đồng về chủ đề cần trao đổi một cách đầy đủ và sâu hơn. Muốn vậy điều
dưỡng viên phải đặt ra những câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với đặc điểm
của người cung cấp tin. Nội dung hỏi để thu thập thông tin bao gồm những câu
hỏi về: Cảm giác, dấu hiệu về thể chất, tinh thần, nỗi lo lắng, hành vi liên quan
đến vấn đề sức khỏe và kỳ vọng của người bệnh, cộng đồng… Khi hỏi điều
dưỡng viên cần lưu ý thể hiện sự quan tâm, lịch sự và nhã nhặn đối với người
cung cấp tin và đồng thời cần tạo cơ hội để họ thể hiện cảm xúc, mối quan tâm
và động viên họ đặt câu hỏi…
Bên cạnh việc hỏi hiệu quả thì lắng nghe tích cực cũng là một kỹ năng
quan trọng trong thu thập thông tin. Chỉ có lắng nghe tích cực điều dưỡng viên
mới giải mã được, hiểu được những thông tin ẩn chứa phía sau các lời nói, cử
chỉ hay biểu hiện của người cung cấp tin. Lắng nghe tích cực không chỉ đòi hỏi
việc nghe chính xác thông tin mà cần phải quan tâm đến điệu bộ, cử chỉ, sự thay
đổi âm điệu trong lời nói của người cung cấp thông tin và phải hiểu những điều
mà họ không thể nói ra được.
Để lắng nghe tích cực, điều dưỡng viên cần:
- Ngồi/đứng đối diện với người bệnh/khách hàng/người cung cấp thông
tin một cách thoải mái nhất.
- Giữ thái độ cởi mở.

490
- Hơi nghiêng về phía người bệnh.
- Duy trì tiếp xúc bằng mắt vừa phải với khách hàng.
- Thư giãn để lắng nghe.
Các yếu tố cản trở đến quá trình nghe tích cực của điều dưỡng viên:
- Quan liêu, kẻ cả, hấp tấp, vội vàng, căng thẳng, lo lắng.
- Ngồi/đứng không thoải mái.
- Thiếu tập trung, chú ý lắng nghe.
Kỹ năng thấu hiểu người bệnh/khách hàng, cộng đồng: Thông cảm/thấu hiểu
ở đây muốn nói đến các hành động của điều dưỡng viên, trong việc hiểu các ý
nghĩ và sẵn sàng chia sẻ với khách hàng. Sự thông cảm có thể truyền đạt cho
người khác bằng lời hoặc không lời.
Cách thể hiện thông cảm bằng lời nói:
- Chứa đựng cảm xúc
- Đề cập đến cảm xúc
- Dùng nhiều câu hỏi mở
- Giọng nói ấm áp
- Nội dung nói không thể hiện sự thiên vị
Cách thể hiện sự cảm thông bằng ngôn ngữ không lời:
- Nhìn vào mắt người bệnh/khách hàng
- Gật đầu nhẹ nhàng
- Hơi mỉm cười
- Tác phong và điệu bộ nhẹ nhàng
- Hơi nghiêng người về phía trước khi ngồi/đứng giao tiếp với người
bệnh/khách hàng
- Phong thái thoải mái, không thể hiện sự vội vàng, khó chịu.

Một số gợi ý về cách giao tiếp giữa điều dưỡng viên và người bệnh để tham
khảo:
Mở đầu: Giao tiếp hiệu quả trong thời điểm ban đầu gặp gỡ có vai trò quan
trọng trong thiết lập mối quan hệ tốt với khách hàng. Mở đầu cuộc gặp gỡ xây
dựng nền tảng của mối quan hệ.

491
- Giới thiệu tên (khi cần) và sử dụng tên của khách hàng khi có thể
- Chào hỏi người đi cùng/người chăm sóc… (nếu có)
- Biết các đặc điểm có nhân của khách hàng
- Bắt đầu giao tiếp bằng những câu hỏi mở, ví dụ anh/chị/em... cho biết
điều gì đang xảy ra? Hoặc tôi có thể giúp gì được anh/chị/em…?
Trao đổi/hỏi người bệnh/khách hàng:
- Ngồi/đứng hơi nghiêng người về phía trước và lưu ý giao tiếp qua cả
ánh mắt. Tránh kiểu ngồi/đứng khoanh tay trước ngực
- Dành hoàn toàn sự chú ý tới khách hàng. Dừng nói chuyện với người
khác. Dành 1-2 phút để khách hàng nói.
- Phát hiện khách hàng hiểu gì về vấn đề sức khỏe của họ. Điều dưỡng
viên không nên dùng từ “hiểu” khi trao đổi với người bệnh là người
lớn vì khi đó người bệnh thường có cảm giác là họ đang bị điều dưỡng
viên kiểm trả và vì vậy họ sẽ không thoải mái và không thích điều đó.
Do đó điều dưỡng viên nên nói theo cách như “… hãy nói về những gì
mà anh/chị/em… cảm thấy hoặc nghe các thầy thuốc khác nói về vấn
đề sức khỏe của anh/chị/em…”
- Hãy hỏi người bệnh/khách hàng/cộng đồng trước khi điều dưỡng viên
nói với người bệnh/khách hàng/cộng đồng. Mỗi khách hàng sẽ có
mong muốn khác nhau về mức độ chi tiết của thông tin liên quan đến
vấn đề sức khỏe và việc điều trị, chăm sóc sức khỏe của họ. Hãy hỏi
khách hàng về mong muốn về thông tin của họ trước khi cung cấp
thông tin cho họ.
- Hãy đồng cảm. Hãy chia sẻ với cảm xúc của người bệnh/khách
hàng/cộng đồng một cách rõ ràng. Điều này là quan trọng trong mối
quan hệ trong chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Điều này có thể làm
cho cuộc gặp gỡ với khách hàng, cộng đồng ngắn hơn vì tạo được cảm
giác tin tưởng và thoái mái của khách hàng, cộng đồng.
- Hãy chậm lại. Cung cấp thông tin cho khách hàng, cộng đồng một
cách chọn lọc và chậm rãi để họ có thời gian lĩnh hội thông tin mới và
cho họ cơ hội để hỏi, điều này có thể giúp điều dưỡng viên cung cấp
thông tin một cách trọng tâm hơn.

492
- Hãy cung cấp thông tin một cách đơn giản. Sử dụng các nhận định và
lời giải thích ngắn. Lựa chọn các thông tin phù hợp với mức độ thông
tin mà người bệnh/khách hàng/cộng đồng mong muốn, tránh những
thuật ngữ chuyên môn.
- Hãy nói sự thật. Không giảm thiểu hóa tác động của thông tin
- Tránh các câu hỏi “Tại sao”. Hãy hỏi các câu hỏi “Như thế nào”.
- Hãy quan sát cử chỉ và vẻ mặt của khách hàng. Hầu hết giao tiếp giữa
điều dưỡng viên và người bệnh/khách hàng bao gồm sự trao đổi phi
ngôn ngữ hai chiều. Hãy chú ý đến và đáp ứng với sự thể hiện trên vẻ
mặt của người bệnh/khách hàng.
- Hãy chuẩn bị với phản ứng của người bệnh/khách hàng. Chuẩn bị đủ
thời gian cho người bệnh/khách hàng thể hiện cảm xúc, im lặng và
chăm chú quan sát, lắng nghe người bệnh/khách hàng.
Kết thúc: Thời điểm cuối của cuộc tương tác sẽ phản ánh toàn bộ trải nghiệm mà
người bệnh/khách hàng có với điều dưỡng viên.
- Theo dõi và nhắc lại những bình luận mang tính cá nhân của người
bệnh/khách hàng.
- Sử dụng tên của người bệnh/khách hàng khi kết thúc cuộc gặp.
- Đưa ra các lời bình luận tích cực. Hãy cho người bệnh thấy điều dưỡng
viên hy vọng đến một kết quả tốt nhất. Ví dụ: “Tôi hy vọng với cách
chăm sóc này sẽ giúp anh/chị/em… cảm thấy dễ chịu hơn”.
- Hãy đưa ra lời phát biểu thể hiện sự hợp tác giữa điều dưỡng viên và
người bệnh/khách hàng. Đây là lời phát biểu thể hiện điều dưỡng viên
và người bệnh/khách hàng phối hợp cùng nhau trong một nhóm. Ví dụ:
“Chúng ta cùng phối hợp với nhau để giải quyết vấn đề sức khỏe này”.
2.2.2 Kỹ năng cung cấp thông tin và tư vấn sức khỏe
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe là loại dịch vụ đặc biệt liên quan đến tính mạng
con người. Tạo lập mối quan hệ gần gũi giữa thầy thuốc nói chung và điều
dưỡng viên nói riêng với người bệnh/khách hàng/cộng đồng sẽ củng cố và tăng
cường niềm tin của họ vào thầy thuốc và cơ sở y tế. Vì vậy thầy thuốc cần có kỹ
năng giao tiếp, trong đó có kỹ năng cung cấp thông tin, tư vấn nhằm giải thích
có lý, có tình để người bệnh/khách hàng yên tâm điều trị, chăm sóc và nâng cao

493
sức khỏe. Theo điều tra của Hội Ðiều dưỡng Việt Nam thực hiện ở sáu bệnh
viện, người bệnh khi nằm viện mang theo một số lo lắng, băn khoăn chính: bệnh
không khỏi và biến chứng nặng hơn (95 - 99%), cán bộ, nhân viên y tế không
nhiệt tình (62%), không đủ tiền để chữa bệnh (55%), phải chờ đợi lâu (gần
40%)... Ðiều đó cho thấy sự đồng cảm và cung cấp đầy đủ thông tin của thầy
thuốc là hết sức quan trọng.
Kỹ năng cung cấp thông tin của thầy thuốc cho khách hàng là khả năng vận
dụng kiến thức, kinh nghiệm của người thầy thuốc vào việc truyền đạt cho
khách hàng/cộng đồng những thông tin ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu, đúng lúc
với thái độ tôn trọng, đồng cảm nhằm mục đích giúp khách hàng/cộng đồng yên
tâm, hiểu rõ về vấn đề sức khỏe của mình và nâng cao nhận thức của họ để họ
cùng tham gia vào giải quyết vấn đề sức khỏe của họ trong quá trình thăm khám,
điều trị, chăm sóc và nâng cao sức khỏe.
Quá trình điều trị, chăm sóc và nâng cao sức khỏe người điều dưỡng cần
dành thời gian gặp gỡ, giải thích cặn kẽ cho khách hàng. Cách giải thích và sự
đồng cảm của nhân viên y tế, điều dưỡng viên sẽ là liều thuốc "hạ áp" nỗi bức
xúc, lo âu của người bệnh, người nhà của họ và cộng đồng. Cung cấp những
thông tin thiết yếu cho khách hàng, như phương pháp điều trị, các thủ thuật can
thiệp, chăm sóc cần làm, chế độ thuốc sử dụng hằng ngày, chi phí khám, chữa
bệnh, quyền và nghĩa vụ của người nằm viện,... cũng là biện pháp "thu hẹp"
khoảng cách giữa điều dưỡng viên với khách hàng. Những lời tư vấn, hướng dẫn
cụ thể của điều dưỡng viên đối với khách hàng sẽ tạo ấn tượng tốt đẹp của người
bệnh, khách hàng, cộng đồng về người thầy thuốc và cơ sở y tế.
Cách thức cung cấp/truyền đạt thông tin:
- Nguồn thông tin cung cấp cần phải đáng tin cậy, hính xác và khách
quan giúp người bệnh, người nhà và cộng đồng nhìn nhận được toàn
diện vấn đề sức khỏe;
- Truyền đạt thông tin rõ ràng, mạch lạc (tránh việc người bệnh/khách
hàng/cộng đồng hiểu nhầm);
- Kiểm soát được cảm xúc trong quá trình cung cấp thông tin (không
nghiêm trọng hóa, hoặc đơn giản hóa vấn đề) giúp khách hàng, cộng
đồng hình dung được tổng thể vấn đề sức khỏe và có thể lựa chọn

494
được phương án giải quyết vấn đề sức khỏe dựa trên thông tin của thầy
thuốc cung cấp và nền tảng hiểu biết của khách hàng.
- Cần cung cấp thông tin cho khách hàng về bản chất, sự cần thiết và tất
cả các khía cạnh về xử trí và quản lý vấn đề sức khỏe của họ. Thảo
luận với khách hàng đề vấn đề sức khỏe, và các phương án xử lý/điều
trị/chăm sóc bao gồm cả các lợi ích và tác hại tiềm tàng/có thể xảy ra.
Đảm bảo rằng các khách hàng đều được thông báo và cung cấp đầy đủ
thông tin về các nguy cơ có thể liên quan với bất cứ một khâu nào
trong kế hoạch chăm sóc, quản lý vấn đề sức khỏe của họ. Cần phải trả
lời các câu hỏi của khách hàng, cộng đồng và cung cấp cho họ đầy đủ
và kịp thời các thông tin về tiến triển của vấn đề sức khỏe của họ.
- Khi tư vấn cho khách hàng, cộng đồng nên tóm tắt vấn đề khách hàng,
cộng đồng cần tư vấn (để đảm bảo điều dưỡng viên và khách hàng
hiểu đúng vấn đề cần tư vấn); Diễn đạt đúng, đủ, cụ thể về thông tin
cần cung cấp; Có thể hỏi lại khách hàng để kiểm chứng họ đã hiểu ý
của điều dưỡng viên vừa trao đổi.
- Thái độ khi cung cấp thông tin: Thư giãn, không căng thẳng, không
nhăn trán, nhíu mày gây khó hiểu cho khách hàng; Sẵn sàng bày tỏ sự
hạn chế của cá nhân trong việc cung cấp/trình bày thông tin; Không
can thiệp sâu và áp đặt đối với việc quyết định lựa chọn thông tin và
cách thức chăm sóc sử c khỏe của khách hàng.
Lưu ý: Cung cấp thông tin, hy vọng, an ủi và hỗ trợ không phải là tất cả đối
với việc xây dựng mối quan hệ trong chăm sóc sức khỏe giữa điều dưỡng viên
và khách hàng/cộng đồng. Thầy thuốc cần cung cấp thông tin chi tiết về tình
trạng sức khỏe của người bệnh dần dần với mức độ thông tin đảm bảo toàn diện
và phù hợp, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu tương xứng với kỹ năng và kiến thức của
người bệnh. Thầy thuốc cần đảm bảo sử dụng ngôn ngữ sao cho khách hàng
hiểu được đúng nội dung thầy thuốc muốn truyền tải. Theo các nghiên cứu đã
chứng minh rằng việc dùng ngôn ngữ trong cung cấp thông tin và tư vấn của
thầy thuốc góp phần quan trọng và việc tuân thủ điều trị, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe của khách hàng và cộng đồng. Để đảm bảo cung cấp thông tin và tư
vấn hiệu quả thầy thuốc cần rất chú ý đến cảm xúc và nỗi lo lắng, quan tâm của

495
khách hàng, cộng đồng … Đồng thời thầy thuốc cũng cần quan tâm đến giá trị,
văn hóa và yếu tố giới của khách hàng, cộng đồng.
2.2.3 Kỹ năng tạo động lực để khách hàng, cộng đồng thay đổi thái độ, hành
vi trong điều trị, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
Kỹ năng tạo động lực của người thầy thuốc nói chung và điều dưỡng viên
nói riêng để động viên khích lệ người bệnh tuân thủ điều trị, khuyến khích
khách hàng, cộng đồng thay đổi thái độ, hành vi trong điều trị, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của người thầy thuốc
vào việc bày tỏ sự thấu hiểu vấn đề của người bệnh. Từ đó điều dưỡng viên
khuyến khích và hỗ trợ khách hàng, cộng đồng tự tin vào bản thân, giúp họ nâng
cao nhận thức và năng lực tự giải quyết vấn đề sức khỏe của cá nhân và cộng
đồng mình trong quá trình chăm sóc và nâng cao sức khỏe.
Tạo động lực cho khách hàng, cộng đồng để họ lựa chọn và chấp nhận kế
hoạch chăm sóc, can thiệp có lợi cho sức khỏe của họ trong một cuộc gặp ngắn
giữa thầy thuốc và khách hàng là một thách thức không nhỏ đối với thầy thuốc
nói chung và các điều dưỡng viên nói riêng. Vì vậy các chiến lược giao tiếp hiệu
quả mà điều dưỡng viên có thể sử dụng thành công trong một lần tư vấn ngắn
(các thầy thuốc luôn phải chịu áp lực về thời gian) rất cần các thầy quốc quan
tâm. Cách tiếp cận truyền thống của thầy thuốc đối với khách hàng là dựa trên
đưa ra các lời khuyên và thuyết phục một cách trực tiếp để họ làm theo những gì
thầy thuốc hướng dẫn. Điều này có thể dễ dẫn đến sự bất đồng và có thể dẫn đến
việc không tuân thủ, đặc biệt ở những khách hàng, cộng đồng đang có suy nghĩ
lưỡng lự hoặc chưa sẵn sàng thay đổi hành vi. Trao đổi tạo động lực là phong
cách giao tiếp thay thế cho cách thức giao tiếp truyền thống và đã thành công tại
các cơ sở y tế và hiệu quả trong cải thiện nhiều hành vi sức khỏe bao gồm cả
trong bệnh viện, các đơn vị phục hồi chức năng và các chương trình can thiệp tại
cộng đồng. Cách tiếp cận này là khá phù hợp với công việc hàng ngày của các
thầy thuốc làm việc tại các cơ sở y tế đông khách hàng và việc tuần thu hướng
dẫn của nhân viên y tế cần được ưu tiên cải thiện. Với cách tiếp cận này trao đổi
và tư vấn của thầy thuốc sẽ không chỉ hiệu quả hơn mà còn giảm mệt mỏi, căng
thẳng cho thầy thuốc.
Nguyên tắc của trao đổi tạo động lực:

496
- Nhận thấy rõ rằng con người có những mức độ sẵn sàng khác nhau
trong việc thay đổi hành vi của họ (theo lý thuyết của 5 giai đoạn thay
đổi hành vi). Một số người có thể chưa bao giờ nghĩ đến sự thay đổi
hành vi sức khỏe mà thầy thuốc đang thảo luận, một số người đã nghĩ
đến nhưng chưa bao giờ thực hiện các bước để thay đổi. Một số khác
lại có thể đang chủ động cố gắng thay đổi hành vi của họ nhưng chưa
thành công trong một thời gian dài. Trao đổi tạo động lực cũng chấp
nhận một thực tế là việc đắn đo ngại thay đổi là một đặc điểm tự nhiên
của con người.
- Sử dụng cách tiếp cận không phán xét, không đối đầu, không tạo mâu
thuẫn. Trao đổi tạo động lực nhằm tăng nhận thức của cá nhân về
những hậu quả và nguy cơ tiềm tàng mà họ phải đối mặt do hành vi
của họ mang lại và giúp cho họ thấy được tương lại tốt đẹp hơn nếu
thay đổi để họ trở nên có động lực ngày càng mạnh mẽ hơn để đạt
được mục tiêu thay đổi hành vi đó. Định hướng là nhằm vào việc hỗ
trợ người bệnh, khách hàng suy nghĩ khác trước về hành vi sức khỏe
của họ.
- Động lực thay đổi là do khách hàng khám phá và tạo ra chứ không
phải bị áp đặt từ bên ngoài. Trao đổi tạo động lực dựa trên xác định và
huy động giá trị và mục tiêu thực chất, bên trong của khách hàng để hỗ
trợ cho sự thay đổi hành vi.
- Trao đổi tạo động lực cố gắng tạo ảnh hưởng tới khách hàng để họ
xem xét, cân nhắc thay đổi chứ không phải là khám phá một cách hời
hợt những đặc điểm của khách hàng và cảm xúc của họ. Tuy nhiên đây
không phải là bắt buộc hoặc thuyết phục một cách trực tiếp.
- Thể hiện sự cảm thông và thấu hiểu quan điểm của khách hàng. Nhưng
trách nhiệm thuộc về khách hàng trong việc xem xét và lựa chọn giải
pháp để giải quyết vấn đề sức khỏe của họ.
- Hỗ trợ xây dựng sự tự tin của khách hàng. Trao đổi tạo động lực
khuyến khích khách hàng chịu trách nhiệm đối với hành động của họ
và giúp họ xây dựng sự tự tin vào khả năng thay đổi của bản thân họ.
Thông thường, trao đổi tạo động lực mong muốn có được sự cam kết

497
rõ ràng của khách hàng để thể hiện rằng họ đang trở nên sẵn sàng để
thay đổi.
Quá trình trao đổi tạo động lực gồm 4 bước cơ bản, đó là: Lôi cuốn – lắng
nghe một cách cảm thông; Tập trung – thay đổi có chủ đích; Khơi gợi – Ý tưởng
của khách hàng; Lập kế hoạch – bắt đầu thay đổi.
Dưới đây là một số ví dụ về các câu hỏi mở để khuyến khích các lời phát
biểu liên quan đến thay đổi hành vi:
Các câu hỏi rơi vào 4 lĩnh vực. Lưu ý là các câu hỏi này thường đi sau
những câu hỏi mở về thông tin chung nhằm tạo mối liên hệ và sự thân thiện ban
đầu với khách hàng. Ví dụ, tôi có thể làm gì để giúp anh/chị/em…? Tình hình
của anh/chị/em… thế nào?. Lưu ý là thầy thuốc dùng từ “vấn đề”, “bệnh” có thể
không thật sự tạo được thiện cảm với một số khách hàng. Hãy dựa trên cảm
nhận của anh chị về khách hàng/người bệnh để lựa chọn từ phù hợp khi mô tả về
tình hình hiện tại của họ.
- (1) Những bất lợi của tình hình hiện nay (nhận biết vấn đề và mối
quan tâm). Điều gì làm anh/chị/em… lo lắng về tình hình hiện tại của
mình? Những khó khăn gì mà anh/chị/em … gặp phải trong điều trị
bệnh đái tháo đường? Điều gì đã làm cho anh/chị/em… suy nghĩ rằng
anh/chị/em cần phải có động thái gì đó đối với việc uống rượu hiện
này của mình? Anh/chị/em… nghĩ là điều gì sẽ xảy ra nếu anh/chị/em
không thay đổi?...
- (2) Lợi ích của thay đổi. Lợi ích của việc thay đổi là gì? Ít nhất
anh/chị/em… ở đây cùng với tôi cho thấy phần nào đó anh/chị/em
đang suy nghĩ rằng đây là thời điểm để thay đổi? Những lý do chính
mà anh/chị/em… thấy cần thay đổi là gì?...
- (3) Lạc quan về sự thay đổi. Điều gì khích lệ anh/chị/em… rằng
anh/chị/em… có thể thay đổi nếu bản thân mình muốn thay đổi? Theo
anh/chị/em… giải pháp nào là hiệu quả cho anh/chị/em… nếu
anh/chị/em quyết định thay đổi? Điểm mạnh của anh/chị/em… có thể
giúp anh/chị/em thành công nếu anh/chị/em quyết định thay đổi là
gì?...

498
- (4) Dự định thay đổi. Điều gì làm cho anh/chị/em… nghĩ là mình có
thể cần thay đổi? Nếu anh/chị/em… thành công 100% và mọi việc
diễn ra đúng như anh/chị/em… mong muốn thì điều khác biệt gì sẽ
xảy ra với sức khỏe của anh/chị/em…?
Chín chiến lược để tạo động lực cho khách hàng nói về thay đổi:
- Hỏi các câu hỏi liên tưởng: tại sao anh/chị/em… muốn thay đổi điều
này? Anh/chị/em…có thể làm gì để thay đổi này thành công? Ba lý do
quan trọng nhất khiến anh/chị/em…muốn thay đổi là gì? Việc thay đổi
này quan trọng như thế nào với anh/chị/em…? …
- Hỏi để nghe giải thích chi tiết hơn: Khi chủ để về những nội dung thay
đổi đã được đề cập hỏi để có thông tin chi tiết hơn. Theo những cách
nào? Nói cho tôi biết chi tiết hơn?...
- Hỏi để có các ví dụ: Khi chủ để về những nội dung thay đổi đã được
đề cập hỏi để có các ví dụ cụ thể. Hãy đưa ra ví dụ cụ thể? Còn gì nữa
không? hiện tượng này xảy ra lần cuối khi nào?...
- Nhìn lại: Hỏi về thời điểm trước khi có mối quan tâm này. Trước đây
tình hình tốt hơn như thế nào? Khác gì so với bây giờ?
- Nhìn về phía trước: Hỏi điều gì có thể xảy ra nếu mọi thứ không có gì
thay đổi. Cuộc sống của anh/chị/em… sẽ như thế nào sau 5 năm nữa?
- Hỏi về tình huống đặc biệt: Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì nếu
anh/chị/em… không thay đổi? Những điều tốt đẹp nhất có thể dự báo
được là gì nếu anh/chị/em… thay đổi?...
- Sử dụng thước đo sự thay đổi: Theo đang đo từ 0 đến 10 (0 là hoàn
toàn không quan trọng và 10 là rất quan trọng) anh/chị/em…đánh giá
sự quan trọng của việc thay đổi ở mức độ nào? Tại sao anh/chị/em…
chọn mức độ… mà không phải là 0?
- Khám phá mục đích và giá trị: Hỏi về các giá trị định hướng cho
khách hàng. Anh/chị/em…mong muốn gì trong cuộc sống?...
- Đi đến mục đích thay đổi: Có lẽ đây là điều rất quan trọng với
anh/chị/em… và anh/chị/em… sẽ không từ bỏ ý định thay đổi bất luận
điều kiện gì?

499
Tóm lại: Trao đổi tạo động lực là để động viên khách hàng cảm thấy vững
vàng khi lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề sức khỏe của họ và quyết tâm thực
hiện để tạo sự thay đổi. Người thày thuốc cần thể hiện sự cảm thông, tán thành
với khách hàng về vấn đề của họ, công nhận những điểm tốt mà họ đã làm được
cho sức khỏe của họ và thể hiện sự tin tưởng, sẵn sàng trợ giúp khi khách hàng
cần, tạo động lực cho họ để thực hiện sự thay đổi mà họ mong muốn.
CÂU HỎI, BÀI TẬP VẬN DỤNG
Câu 1: Hãy phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện văn hóa ứng
xử tại các cơ sở y tế
Câu 2: Hãy áp dụng một số kỹ năng giao tiếp quan trọng (thu thập thông tin,
cung cấp thông tin và tư vấn) và nguyên lý của các mô hình giao tiếp điều
dưỡng viên-khách hàng trong một số tình huống thực hành chăm sóc sức khỏe
và tiếp cận cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abul Barkat và cộng sự. (2017). Nghiên cứu Đánh giá chất lượng dịch vụ Kế
hoạch hóa gia đình tại Việt Nam. Bộ Y tế, UNFPA.
2. American Association of Critical-Care Nurses. (2016). AACN Standards for
Establishing and Sustaining Healthy Work Environments: A Journey to
Excellence. https://www.aacn.org/WD/HWE/Docs/HWEStandards.pdf.
Accessed 12/4/2019.
3. Ezekiel J. Emanuel, Linda L. Emanuel (1992). Four Models of the
Physician-Patient Relationship. JAMA. 267(16): 2221-2226.
4. http://bacninh.gov.vn/news/-/details/20182/bo-y-te-so-ket-thuc-hien-oi-moi-
phong-cach-thai-o-phuc-vu-cua-can-bo-y-te-huong-toi-su-hai-long-cua-
nguoi-benh. Ngày truy cập 10/4/2019.
5. Kieft et al.: How nurses and their work environment affect patient
experiences of the quality of care: a qualitative study. (2014). BMC Health
Services Research. 14:249.
6. O’Halloran R, Grohn B, Worrall L. Environmental factors that influence
communication for patients with a communication disability in acute hospital

500
stroke units: a qualitative metasynthesis. Arch Phys Med Rehabil 2012;93 (1
Suppl 1): S77-85.

501

You might also like