You are on page 1of 11

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

CHỦ ĐỀ SỐ 4
Phân tích Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám
(5/1941) thể hiện sự hoàn chỉnh chuyển hướng chiến
lược của Đảng trong giai đoạn 1939 - 1945. Chứng
minh sự chỉ đạo của Đảng trong thực tiễn giai đoạn
1941 - 1945.

HỌ TÊN: Lê Ngọc Thanh Ngân


MSSV: 3119210012
KHOA: Sư phạm Khoa học tự nhiên

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 08 NĂM 2021


MỤC LỤC
I. Mở đầu:.................................................................................................................... 2

II. Nội dung:................................................................................................................ 2

1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng:..................................... 2

2. Nội dung của Hội nghị trung ương Đảng lần thứ Tám (5/1941) thể hiện sự hoàn
chỉnh chuyển hướng chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939 - 1945:....................3

3. Sự chỉ đạo của Đảng trong thực tiễn giai đoạn 1941 - 1945:.................................. 5

a) Phong trào chống Pháp - Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa
vũ trang:........................................................................................................................ 5

b) Cao trào kháng Nhật cứu nước:............................................................................... 6

c) Tổng khởi nghĩa giành chính quyền:........................................................................7

III. Kết luận:................................................................................................................9

Tài liệu tham khảo:..................................................................................................10

1
I. Mở đầu:

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện quan trọng, tạo bước ngoặt
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã đánh đổ ách
thống trị của thực dân Pháp và chấm dứt chế độ quân chủ hàng nghìn năm trên đất
nước ta. Thành công của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân mà trước
hết thuộc về sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình chuẩn bị Cách mạng Tháng
Tám 1945, Hội nghị lần thứ Tám của Trung ương Đảng diễn ra tháng 5 năm 1941,
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc có vai trò và ý nghĩa đặc biệt to lớn.
Người giúp cho Đảng kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đưa cách mạng
Việt Nam phát triển phù hợp với quỹ đạo vận động của thời đại, nắm bắt được
những thời cơ, vận hội, kịp thời điều chỉnh, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược một
cách linh hoạt, sáng tạo khi tình hình thay đổi để tạo bước ngoặt quyết định thắng
lợi cách mạng là bài học kinh nghiệm để Đảng ta hôm nay tiếp tục quán triệt và vận
dụng trong công cuộc đổi mới. Để cụ thể hơn ta sẽ tiến hành phân tích nội dung
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941) để thể hiện sự
hoàn chỉnh chuyển hướng chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939 - 1945 và
chứng minh sự chỉ đạo của Đảng trong thực tiễn giai đoạn 1941 - 1945.

II. Nội dung:

1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng:

a. Trên thế giới: chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và nhanh chóng lan rộng ra
nhiều nước. Phát xít Đức ráo riết chuẩn bị xâm lược Liên Xô. Nhật mở rộng xâm
lược Trung Quốc và tiến công xuống phía Nam.

b. Ở Đông Dương: tháng 9/1940, Nhật nhảy vào Đông Dương. Pháp đầu hàng và
câu kết với Nhật, áp bức bóc lột nhân dân. Nhân dân các dân tộc ở Đông Dương
phải chịu hai tầng áp bức của Pháp - Nhật. Mâu thuân giữa các dân tộc ở Đông
Dương với Pháp - Nhật trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết.
- Ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách

2
mạng Cao Băng. Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ Tám của
Ban chấp hành trung ương Đảng.

- Vấn đề chính là nhận định các mạng trước mắt là một cuộc cách mạng giả phóng
dân tộc, thành lập mặt trận Việt Minh. Khẩu hiệu chính là: Đoàn kết toàn dân,
chống Nhật, chống Pháp, tranh độc lập, hoãn cách mạng ruộng đất. Trung ương bầu
đồng chí Trường Chinh là Tổng bí thư.

2. Nội dung của Hội nghị trung ương Đảng lần thứ Tám (5/1941) thể hiện sự
hoàn chỉnh chuyển hướng chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939 - 1945:

- Nhấn mạnh mâu thuân chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuân
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp - Nhật, bởi vì dưới hai tầng áp bức
Nhật - Pháp, “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy
vong không lúc nào băng”.

- Khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đổi chiến lược”, Hội nghị tạm gác
khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay băng các khẩu hiệu
tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng
đất công cho công băng, giảm tô, giảm tức. Trong Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: cách
mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, giải
quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết
một vấn đề cần kíp: dân tộc giải phóng.

- Xác định nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng là giải phóng dân tộc vì "quyền
lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật; vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào
băng. Hội nghị chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt
dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, nếu không đòi được độc lập tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.

- Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc không phải chung trên toàn Đông
Dương mà trong phạm vi từng nước, thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Đảng

3
mới quyết định thành lập ba mặt trận riêng ở ba nước. Ở Việt Nam là Việt Nam độc
lập đồng minh (Việt Minh) và đồng thời liên hệ mật thiết với Liên Xô và các lực
lượng dân chủ chống phát xít.

- Hội nghị khẳng định động lực của cách mạng là toàn bộ dân tộc trên cơ sở công
nông liên minh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cả dân tộc có chung
một kẻ thù cho nên phải huy động toàn bộ các giai cấp, tầng lớp trong xã hội tham
gia cách mạng, là động lực thúc đẩy cách mạng tiến lên đến thắng lợi cuối cùng
“không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng
yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả
ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc”. Các tổ chức quần chúng trong mặt trận
Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”.

- Chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của toàn thể dân tộc”.
Hội nghị ghi rõ “không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xô Viết mà
phải nói toàn thể nhân dân liên hiệp và thành lập chính phủ cộng hòa.”

- Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan, Hội nghị xác định chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân, đi từ khởi nghĩa
từng phần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, “phải luôn luôn
chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhăm vào cơ hội thuận tiện mà đánh vào quân
thù”. Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Trong những hoàn cảnh nhất định thì “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một
cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà
mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ
trương chiến lược, khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng
đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Đó là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy
mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật,
giành độc lập tự do.

4
3. Sự chỉ đạo của Đảng trong thực tiễn giai đoạn 1941 - 1945:

a) Phong trào chống Pháp - Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang:

- Ngày 27 - 9 - 1940, quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật tiến đánh phải rút chạy qua
Bắc Sơn - Thái Nguyên, nhân dân Bắc sơn nổi dậy khởi nghĩa, thành lập đội du kích
Bắc Sơn.

- Ở Nam kì, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng nhiều nơi. Tuy nhiên
các cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, lực lượng cách mạng bị tổn
thất nặng nề, phong trào cách mạng Nam kỳ gặp khó khăn trong nhiều năm sau.

- Ngày 13 - 1 - 1941, một cuộc binh biến nổ ra ở đồn Chợ Rạng (huyện Đô Lương,
tỉnh Nghệ An) do Đội Cung chỉ huy, nhưng cũng bị thực dân pháp đàn áp nhanh
chóng.

Chủ trương của Hội nghị Trung ương 8 được cụ thể hóa băng nhiều văn bản,
chỉ thị nhăm tiến hành cách mạng bảo đảm thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện Nghị
quyết Hội nghị, cả dân tộc bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh xây dựng lực lượng
cách mạng, tập trung mọi lực lượng cho phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị
cho khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương.

- Ngày 25 - 10 - 1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn nêu rõ: “Việt Nam độc lập
(đồng minh) ra đời”.

- Tháng 12 - 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La đề ra những
biện pháp phát triển phong trào quần chúng chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa
có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não của quân thù.

- Năm 1943, Đảng công bố bản Đề cương về văn hóa Việt Nam. Cuối năm 1944,
Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn
hóa vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do.

5
- Đảng vận động giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước thành lập Đảng Dân
chủ Việt Nam (6 - 1944). Đảng này tham gia Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt
động, góp phần mở rộng khối đoàn kết dân tộc.

- Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt và người Pháp. Từ
Trung ương đến các địa phương đều có ban binh vận.

- Dưới sự chỉ đạo trưc tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đội du kích Bắc
Sơn được duy trì và phát triển thành Cứu quốc quân.

- Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập một đội vũ trang ở Cao
Băng để thúc đẩy phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang.

- Tháng 10 năm 1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc, thông báo chủ
trương của Đảng về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân. Bức thư của Người có
đoạn: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được
sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc
năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”

- Cuối năm 1944, ở Cao - Bắc - Lạng, cấp ủy địa phương gấp rút chuẩn bị phát động
chiến trang du kích trong phạm vi 3 tỉnh. Tiếp đó, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương
thức tác động và phương châm tác chiến của lực lượng vũ trang.

- Trên cơ sở các lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, thực hiện chỉ thị của
Nguyễn Ái Quốc, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.

b) Cao trào kháng Nhật cứu nước:

- Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai đi đến giai đoạn kết thúc. Chủ nghĩa
phát xít liên tiếp thua trận, đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân đội các
nước đồng minh chuẩn bị đổ bộ vào Đông Dương. Trong tình thế khó khăn đó, phát
xít Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp (9/3/1945) để độc chiếm Đông
Dương. Sau khi đảo chính, quân Nhật cùng thế lực tay sai ra sức vơ vét, bóc lột

6
nhân dân ta ngày một thậm tệ hơn; đồng thời đưa quân tiến công vào các căn cứ địa
cách mạng, tăng cường những hành động khủng bố, bắn giết, tàn sát... khắp nơi.

- Từ Hội nghị Trung ương 8, Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng đã nhận định:
Phát xít Nhật và thực dân Pháp nhất định loại trừ nhau. Đúng thật như vậy, ngày
9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương. Từ ngày 9 đến 12/3/1945,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), ra Bản
chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định thời cơ Tổng
khởi nghĩa đã chín muồi, kẻ thù chính của dân tộc là phát xít Nhật và bọn tay sai;
thay khẩu hiệu “đánh đổi phát xít Nhật - Pháp” băng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít
Nhật”, nêu khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông
Dương”, để chống lại chính phủ Nhật.

- Tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh từ Cao Băng về Tân Trào (Tuyên Quang) trực
tiếp chỉ đạo cách mạng trong cả nước. Người chỉ thị thành lập Khu giải phóng ở
Việt Bắc, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân Giải phóng.

c) Tổng khởi nghĩa giành chính quyền:

- Lúc này, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Phát xít Đức,
Ý đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh. Quân Nhật vô cùng hoang mang,
dao động. Trong nước Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim tê liệt, phong trào cách
mạng cả nước sôi sục.

- Từ năm 1945, Đảng ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, phát động khởi nghĩa
từng phần. Phát động phong trào phá kho thóc Nhật để giải quyết nạn đói thu hút
được đông đảo quần chúng.

- Ngày 13/8/1945, Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Trung ương Đảng và
Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc ra “Quân lệnh số 1”, phát lệnh tổng khởi nghĩa toàn quốc.

- Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập
Hội nghị toàn quốc (từ 13-15/8/1945) họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), nhận định

7
thời cơ đã đến, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Nội dung khởi nghĩa toàn quốc:

+ Phát động toàn dân khởi nghĩa dành chính quyền

+ Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập!
Chính quyền nhân dân!

+ Thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và ra lệnh Tổng khởi nghĩa

- Tiếp ngay sau đó, Đại hội Quốc dân cũng họp ở Tân Trào (ngày 16/8/1945), bao
gồm đại biểu của ba xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Đại hội nhất trí tán thành
quyết định Tổng khởi nghĩa, bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ
lâm thời) do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua một số chính sách quan
trọng của Mặt trận Việt Minh.

- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta từ Bắc đến
Nam đã nhất tề đứng dậy khởi nghĩa, giành chính quyền cánh mạng trong cả nước.
Ngày 19/8/1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8/1945, Thừa Thiên
Huế giành được chính quyền. Ngày 25/8/1945, nhân dân Sài Gòn - Gia Định giành
được chính quyền. Ngày 30/8/1945, tại cuộc mít tinh gồm hàng vạn người tham gia
ở Ngọ Môn, thành phố Huế, Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện
Chính phủ lâm thời trước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Ngày 25/8/1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Ủy ban Dân tộc giải
phóng về đến Hà Nội. Sáng ngày 26/8/1945, Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của
Thường vụ Trung ương Đảng thống nhất những chủ trương đối nội và đối ngoại
trong tình hình mới; đề nghị mở rộng hơn nữa những thành phần của Chính phủ lâm
thời, chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập, và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính
phủ ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc
lập và thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa. Hồ Chí Minh nhấn mạnh những việc cần
làm trước khi quân Trung Hoa vào Đông Dương.

8
- Trong cuộc họp ngày 27/8/1945, Ủy ban Dân tộc Giải phóng cải tố thành Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Danh sách Chính phủ lâm thời được chính thức công bố ngày 28/8/1945 tại Hà Nội.

- Chỉ trong vòng 15 ngày, từ 14 - 28/8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công
trong cả nước. Từ Lạng Sơn, địa đầu phía Bắc, đến Cà Mau, tỉnh cuối phía Nam, từ
vùng nông thôn, miền núi, đồng băng đến các thành phố: Hà Nội, Huế, Sài Gòn...,
toàn bộ chính quyền đã về tay nhân dân.

- Trong tình hình hết sức khẩn trương, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng bộ
Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định sớm tổ chức lễ Tuyên bố Độc lập
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình
thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc
dân và thế giới: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời”.

III. Kết luận:

Với tư tưởng và đường lối trên, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 dưới sự
chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện sự vận dụng sự sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp vào điều
kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, là sự nhìn nhận chính xác trong việc xác định
mâu thuân, kẻ thù, nhiệm vụ và động lực cách mạng, sự sáng tạo trong phương pháp
đấu tranh cách mạng.

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941) cùng với sự ra đời của Mặt
trận Việt Minh, đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược của
Đảng. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 là sự hoàn thiện, hoàn chỉnh chính xác các
vấn đề chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam một cách tỉ mỉ, đầy đủ, có giá
trị thực tiễn đối với cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Dưới sự chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã hoàn chỉnh chuyển hướng
chiến lược cách mạng một cách đúng đắn và kịp thời, đưa đến sự thắng lợi to lớn
của cách mạng tháng Tám năm 1945.

9
Tài liệu tham khảo:

(1) Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội

(2) Hội nghị Trung ương lần thứ 8 với thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945

http://haquangtv.vn/tin-tuc/Pac-Bo-Coi-nguon-cach-mang/Hoi-nghi-Trung-uong-
lan-thu-8-voi-thang-loi-Cach-mang-Thang-Tam-nam-1945-65.html

(3) Những quyết sách quan trọng từ Hội nghị Trung ương 8

https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/nhung-quyet-sach-quan-trong-tu-hoi-nghi-
trung-uong-8-425025

(4) Chỉ đạo chiến lược của Đảng trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945

https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/chi-dao-chien-luoc-cua-dang-trong-cuoc-
cach-mang-thang-tam-1945-170384.html

10

You might also like