You are on page 1of 22

Chương 12: Mode S

12.1. Lý do cho phát triển

Sự phát triển mode S được bắt đầu độc lập ở UK và USA cho một vài lý do khác nhau.Sự nghiên cứu
ở UK của hệ thống SSR hiện tại chỉ ra rằng [12.1, 12.2], với sự tăng trưởng liên tục về số lượng nhiều
máy bay, những vấn đề của fruit và sự sai lệch sẽ trở thành yếu tố hạn chế trong quá trình sử dụng SSR
của một hệ thống tự động ATC. Giải pháp đề xuất là hỏi máy bay riêng để những trả lời của chúng có thể
được giữ tách biệt với nhau. Chỉ một trả lời của máy bay trên 1 vòng quét sẽ được yêu cầu, và sự trả lời
đó sẽ bao gồm dữ liệu nhận dạng và độ cao để tránh sự cần thiết phải tương quan những trả lời giữa Mode
A và Mode C, và quan trọng hơn để làm giảm tỷ lệ trả lời và do đó tạo ra fruit từ người sử dụng khác.
Một sự trả lời đơn trên 1 máy bay đòi hỏi phải sử dụng đơn xung để bảo toàn khả năng đo lường.

Một mối quan tâm tương tự về những hạn chế hiệu suất của SSR đã phát sinh tại Mỹ. Ngoài ra, một
số sân bay đã gặp bão hòa vào những thời điểm bận rộn và điều này đã được dự kiến sẽ trở nên tồi tệ hơn.
Để đối phó với sự mở rộng này, số lượng KSVKL yêu cầu sẽ tăng mạnh. Nâng cao năng suất của KSVKL
hiện có một số biện pháp đã được đề xuất trong đó bao gồm tự động hóa với kiểm soát tích cực liên tục
của máy bay từ mặt đất bằng cách sử dụng một liên kết dữ liệu được kết hợp trong một SSR cải thiện

Mỗi địa chỉ riêng lẻ của máy bay và quá trình truyền của nhiều dữ liệu hơn thông tin nhận dạng và độ
cao điều đó có nghĩa là định dạng tín hiệu hỏi và trả lời khác nhau là cần thiết. Tại cùng 1 thời điểm sự
tiến hóa từ SSR Mode A, C hiện tại sang hệ thống mới SSR Mode S đòi hỏi một thiết bị mới tương thích
với hệ thống cũ. Nó không nghĩ có thể chấp nhận để yêu cầu máy bay mang 2 bộ thiết bị, một sử dụng
trong vùng nơi hệ thống mới đang hoạt động và một cho vùng nó không hoạt động. Chìa khóa để yêu cầu
tương thích là quyết định sử dụng cùng 1 tần số cho Mode S như là cho Mode cũ của SSR, i.e 1030MHz
cho quá trình hỏi và 1090MHz cho trả lời. Tín hiệu hỏi và trả lời Mode S không phải can thiệp với thiết bị
đã tồn tại hoặc yêu cầu biến đổi của nó.

Cho quá trình hỏi, sự ngăn chặn nhiễu của thiết bị trước đó đã đạt được bằng cách truyền chế áp xung
P1 và P2 như ban đầu để hỏi. Những xung này chế áp một máy hỏi đáp Mode A và C vì vậy nó sẽ không
nỗ lực giải mã phần còn lại của tín hiệu và có thể tạo ra những trả lời không mong muốn. Phần dữ liệu
của máy hỏi Mode S được hoàn thành trong vòng thời gian chế áp máy phát đáp.

Sự ngăn chặn nhiễu trên phần trả lời dựa trên thực tế rằng sự lấy mẫu giản đồ Mode A và C yêu cầu
những trả lời đa đồng bộ để nhận ra sự hiện diện của 1 máy bay. Những trả lời Mode S đơn lẻ của hệ
thống mới sẽ không sản xuất những trả lời đa đồng bộ này.

Hệ thống Mode S giải quyết được những vấn đề gặp phải trong hệ thống SSR Mode A và C. Tất cả
những dữ liệu cần thiết được có trong 1 trả lời và tính chính xác của dữ liệu trả lời được xác nhận bởi
parity (chẵn lẻ). Ngược lại, Mode A và C sẽ được gửi riêng biệt và phải được liên kết chính xác bởi thiết
bị dưới đất. không có sự bảo đảm của dữ liệu chính xác và sự xác nhận chỉ có thể đạt được bằng sự lặp đi
lặp lại và sự so sánh dữ liệu nhận được trên vòng quét trước đó của anten

Fig 12.1 biểu diễn một bộ phát đáp Mode S và khối điều khiển phù hợp trong ARINC đặc trưng 718
[12.5]
12.2. Những dạng của quá trình hỏi

Hình 12.2 biểu diễn dạng quá trình hỏi của Mode S được sử dụng cho phần lớn của sự giao dịch. Hai
xung đầu tiên P1, P2 độ rộng là 0,8 µs và cách nhau 2µs để mô phỏng xung chế áp búp sóng phụ của quá
trình hỏi Mode A và C. Một bộ phát đáp không Mode S sẽ nhận những xung này và không cần cố gắng để
giải mã phần còn lại của quá trinh hỏi. Theo sau P2 là 1 xung dài P6 có độ rộng hoặc 16,25 µs hoặc
30,25µs. Trong P6 có một số sự đảo pha, cái mà mang dữ liệu được truyền đi. Sự đảo pha đầu tiên, sau
cạnh đầu 1,25µs của xung, luôn đưa ra và được sử dụng bởi bộ phát đáp để đồng bộ định thời của chính
nó để giải mã dữ liệu tiếp theo. Quá trình đồng bộ sự đảo pha cũng sử dụng như là một thời gian tham
chiếu cho quá trình truyền của trả lời trong cùng 1 hướng, cái mà xung P3 được sử dụng trong Mode A và
C. Máy hỏi đo cự ly mục tiêu bởi độ trễ định thời giữa truyền của quá trình đồng bộ đảo pha và nhận của
xung trả lời đầu tiên.

Dữ liệu được truyền bởi khóa dịch pha khác nhau (DPSK), theo đó bít 1 được chỉ định bằng cách
xoay pha 180 và bit 0 thì giữ nguyên. Khoảng cách giữa vị trí đảo pha là 0,25µs để đưa ra tốc độ dữ liệu
bit của 4MHZ. Tổng cộng số bit dữ liệu được truyền là hoặc 56 hoặc 112 phụ thuộc vào thiết bị.

Chế áp búp song phụ (SLS) được thực hiện trong 1 cách khác nhau từ Mode A và C. Trong mode S,
một xung SLS P5 được truyền từ anten điều khiển tia (xem chương 4, Fig 4.2) để chồng lên cùng thời
điểm quá trình đồng bộ đảo pha của xung P6. Nếu quá trình truyền được nhận từ anten búp song phụ,
xung P5
mạnh hơn xung P6 và bộ phát đáp sẽ không thể phát hiện ra quá trình đồng bộ đảo pha và sẽ không giải
mã hoặc trả lời máy hỏi. Xung P5 sẽ yếu trong búp sóng chính của anten và quá trình đồng bộ đảo pha sẽ
bị phát hiện.

Nội dung của dữ liệu truyền được mô tả trong Sections 12.5-12.7, nhưng 24 bit cuối được dung để chỉ
thị địa chỉ của máy bay cho mục đích hỏi. Bộ phát đáp chỉ trả lời nếu nó tìm thấy địa chỉ của chính nó
trong một quá trình hỏi.

Một địa chỉ đưa vào máy bay trong quá trình hỏi giả định trước là một địa chỉ máy bay được biết
trước để máy hỏi. Những địa chỉ máy bay có được bởi chính tất cả cuộc hỏi. Một dạng của sử dụng này là
quá trình hỏi Mode S với 56 bit dữ liệu và 1 địa chỉ đặc biệt, và điều này được mô tả trong phần 12.5.4 .
Một dạng khác sử dụng định dạng tín hiêu khác nhau được chỉ ra ở hình 12.3. Quá trình hỏi ở hình 12.3 là
có ý định tương tự như chuẩn tín hiệu hỏi Mode A và C. Chỉ khác là thêm xung P4 sau P3. Bộ phát đáp
mode A và C sẽ bắt đầu trả lời tuần tự sau khi nhận xung P3 cùng với xung trả lời đầu tiên F1 đang được
truyền 3µs sau đó. Sự xuất hiện xung P4 sẽ không hiệu quả trong quá trình xử lý này. Một bộ phát đáp
Mode S cũng có thể trả lời quá trình hỏi Mode A và C nhưng nó sẽ dừng hành động này khi phát hiên ra
xung P4.

Tất cả cuộc gọi xung P4 có thể có 2 độ rộng, 0,8 hoặc 1,6µs. Một bộ phát đáp Mode S sẽ truyền một
thông báo trả lời địa chỉ của chính nó nếu độ rộng xung P4 la 1,6µs. Một xung có độ rộng 0,8 µs sẽ xử lý
nhưng không trả lời, hoặc mode S hoặc mode A và C. một quá trình hỏi với độ ngắn hơn xung P4 là chủ
yếu sử dụng bởi máy hỏi Airborne TCAS (xem chương 13) như là một phương tiện có được câu trả lời từ
chỉ bộ phát đáp mode A và C

Quá trình hỏi xung được qui định ở bảng 12.1. Hinh 12.4 chỉ ra quá trình biến đổi tạo biên của quá
trình hỏi tín hiệu Mode S và hình 12.5 chỉ ra biên (sidebands) sau khi thông qua yêu cầu thứ 2. Bộ lọc
butterworth của độ rộng băng tần 25MHz để yêu cầu giới hạn nhiễu trong băng tần Rada sơ cấp. (xem
chương 5, hình 5.9 và 5.10)
12.3 Định dạng trả lời

Hình 12.6 chỉ ra dạng tín hiệu trả lời Mode S. Trả lời này được nhận ra bởi thiết bị giải mã bằng cách
tách mẫu của 4 xung đầu tiên. Những xung ban đầu này sẽ được cách nhau để chúng không thể được nhân
rộng bởi cơ hội chồng lấn của trả lời Mode A hoặc C. Cạnh đàu của 4 xung bất kỳ có thể được sử dụng
cho thiết bị đo khảng cách mục tiêu nếu chồng chéo lên nhau bằng các mặt nạ trả lời khác một số xung.
Dữ liệu trả lời sẽ được chứa trong block dữ liệu theo 4 xung đầu và được mã hóa bởi sự biến đổi vị trí
xung. Độ rộng từ đầu đến cuối bit là 1µs, theo chu kỳ có xung và không có xung cách nhau 0,5µs, với bít
nhị phân 1 đại diện cho có xung và theo đó là bít nhị phân 0 đại diện cho không có xung và cứ như thế.
Dữ liệu trả lời được truyền hiệu quả 2 lần với mỗi 0,5µs đầu chỉ ra bit 1 là có xung và bit 0 là không có
xung và chúng cũng đảo ngược dạng trong mỗi 0,5µs thứ hai. Dạng mã hóa này có khả năng chống nhiễu
vì nó gần như là không thể để nhiễu ngăn chặn một xung trong một vị trí và chèn 1 xung vào vị trí liền kề.
Với 1 quá trình hỏi, dữ liệu trả lời có thể ở dạng ngắn 56 bít hoặc dạng dài 112bit với 24 dạng bít cuối
cùng là bít được kết hợp và vùng địa chỉ.

Mỗi bít thông tin trong thông điệp trả lời được giải mã và được đánh giá cao hoặc sự tự tin thấp. Thủ
tục giải mã đơn giản nhất là xác định cho dù chu kỳ 0,5µs đầu của bit trả lời là cường độ tín hiệu mạnh
hơn chu kỳ 0,5µs thứ hai (bit nhị phân giá trị 1) hoặc ngược lại (bit nhị phân giá trị 0). Độ tin cậy đưa ra
quyết định giải mã có thể được quyết định bằng cách đo mức tín hiệu trong chu kỳ 0,5µs yếu hơn: nếu tín
hiệu chu kỳ thấp, thì hiện tại không có nhiễu và quyết định giải mã là có độ tin cậy cao.

Thủ tục giải mã thay phiên nhau lựa chọn những xung trong trả lời ban đầu được sử dụng tham khảo
tương tự cách lựa chọn 1 xung F1 hoặc F2 để hỗ trợ SSR giải mã trả lời (chương 7, mục 7.2.11). Mỗi dữ
liệu xung trả lời được so sánh với các tài liệu tham khảo cho mối tương quan trong thời hạn biên độ tín
hiệu và/hoặc giá trị đơn xung. Mối tương quan chỉ ra quyết định độ tin cậy cao – hoặc giá trị bit 1 hoăc bit
0 phụ thuộc vị trí của xung trong 1µs chu kỳ của bit. Sự tiếp cận xen nhau này làm giảm khả năng điều
mà 1 xung nhiễu mạnh làm thay đổi dữ liệu mã hóa hoặc giảm tín hiệu đa đường quyết định độ tin cậy
thấp.

Như là 1 kiểm tra bổ sung chất lượng của dữ liệu được mã hóa, tính chính xác của chúng cũng được
xác nhận bởi tính chẵn lẻ. Trong trường hợp của trả lời Mode S hệ thống chẵn lẻ được thông qua cho
phép để sửa lỗi được thực hiện nếu trả lời này bị hỏng bởi trả lời của 1 SSR đơn lẻ của thời gian 21µs. Hệ
thống chẵn lẻ được mô tả trong mục 12.4.

12.4. Bit chẵn lẻ và địa chỉ

Một thông điệp chẵn lẻ của 24 bít được tính toán sử dụng một vòng biến đổi mã dư thừa dựa trên đa
thức sau:
Tính chẵn lẻ được tính toán tại điểm gửi cuối, kêt hợp với 24 bit địa chỉ máy bay và được gán vào tin
nhắn. Tính chẵn lẻ được tính toán lại tại điểm nhận cuối và được so sánh với tính chẵn lẻ được kết hợp và
địa chỉ đính kèm tới tin nhắn để xác nhận, hoặc ngược lại tin nhắn đó sẽ được truyền không có lỗi và
được dự định cho máy bay đó.

Đa thức G(x) là thuộc tính có ích của việc hỗ trợ cho cả việc phát hiện lỗi và sửa lỗi (12.6, 12.7). Tuy
nhiên, việc phát hiện lỗi chỉ sử dụng cho đường lên theo yêu cầu để giữ máy phát đáp thiết kế đơn giản.
Công suất xử lý lớn có giá trị trong thiết bị mặt đất cho phép sửa lỗi để làm việc cho đường xuống nếu
mong muốn.

Chu kỳ những mã dư thừa có thuộc tính điều mà nếu chúng được chuyển theo chu kỳ, i.e. Nếu dữ liệu
được di chuyển nghiêng và bit tràn tại 1 điểm cuối được thêm vào tại điểm cuối khác, kết quả là chúng
vẫn là mã có giá trị. Đa thức G(x) sử dụng cho Mode S, chiều dài của mã vòng đầy đủ là trên 2 tỷ bít, cái
mà xóa bỏ cả 2 điều không thực tế và không cần thiết cho ứng dụng. Tuy nhiên, mã có thể bị ngắn hơn
mà không mất đi vài thuộc tính quan trọng của nó.

Một nguyên tác khác là phép cộng và phép trừ được làm mô đun 2,i.e. mà không cần mang tới số liền
kề. Kết quả phép cộng và phép trừ là xử lý giống hệt nhau. Phép nhân được nhận ra bởi nhiều phép cộng
và dịch chuyển, trong khi phép chia đạt được bởi nhiều phép trừ và dịch chuyển. Tương tự nhưng không
giống nhau, mạch được sử dụng cho phép nhân và phép chia.

Mạch ở hình 12.7 được sử dụng để tạo ra thông báo cảm ứng với điều chỉnh trên dịch chuyển thanh
ghi thực hiện đa thức G(x). 32 bit đầu tiên (hoặc 88 bit đối với thông báo dài) được truyền không biến đổi
nhưng trong khi đang truyền chúng cũng được mở rộng G(x) trong thông tin phản hồi dịch chuyển thanh
ghi. Để 24 bit cuối của cảm ứng thông báo vòng lặp thông tin phản hồi là bị gãy và 24 bit địa chỉ máy bay
là được thay thế. Kết quả là 24 bit cuối cùng của thông báo là chứa vùng địa chỉ chẵn lẻ 24bit (modulo 2)
tới địa chỉ máy bay được mở rộng bởi G(x)

Mạch ở hình 12.8 được sử dụng để giải mã thông báo. Nó tương tự được sử dụng để mã hóa thông
báo trừ khi không có chuyển đổi tại đầu vào tới thanh ghi dịch chuyển. Chức năng của dịch chuyển thanh
ghi là phân chia thông báo bởi G(x). 32bit đầu tiên (88 bit cho thông báo dài) được mang đi mà không cần
biến đổi. Quá trình xử lý phân chia lại dạng địa chỉ máy bay là 24 bit cuối cái mà được so sánh với chính
địa chỉ máy bay của nó để tương đương.

Nếu máy bay sai được gải mã thành công các thông báo, nó sẽ khám phá ra địa chỉ sai. Nó sẽ không
biết cho dù sự khác biệt là do quá trình truyền lỗi hay là thông báo đang có ý định cho máy bay khác.
Điều đó không là vấn đề gì từ khi không có hành động nào được yêu cầu từ máy bay nếu quá trình giải
mã bị lỗi. Nếu quá trình truyền có ý định cho máy bay, sự thiếu của phản hồi từ máy bay sẽ là kết quả
trong máy hỏi lặp đi lặp lại quá trình truyền.
Để cho máy hỏi đáp, máy phát của 24 bit cuối cùng của thông báo cũng được thực hiện trong 1 cách đó là
thực hiện đơn giản trong máy phat đáp là sử dụng đáng kể cùng mạch như là cho giải mã cảm ứng (hình
12.9). Sự khác nhau giữa bộ mã hóa cảm ứng và bộ mã hóa máy phát đáp đó là để cho 24bit cuối cùng
sau này của thông tin phản hồi vào trong tới thanh ghi dịch chuyển là liên tiếp số 0 thay vì địa chỉ. 24 bit
địa chỉ vẫn đưa tới mạch mô dun 2 vì vậy nó được thêm vào để tính toán thông báo chẵn lẻ, nhưng thời
điểm này địa chỉ không mở rộng bởi G(x).

Bộ giải mã cảm ứng là 1 dạng thay thế của mạch phân chia cái mà để số còn lại trong dạng song song
trong thanh ghi dịch. Những mạch được sử dụng là giống nhau với cái làm việc trong máy phát đáp biểu
diễn ở hình 12.9. địa chỉ máy bay dự kiến là được trừ (modulo 2) từ phần còn lại, và nếu quá trình truyển
không có lỗi xảy rat hì kết quả sẽ là zero.

Trong việc thự c hiện đơn giản nhất, nếu lỗi xảy ra thì 1 quá trình hỏi nhắc lại được tạo ra để cố gắng
có được 1 trả lời không lỗi. Tại nhiều phía xác xuất lỗi là nhỏ cho số lượng lặp lại thêm trên cao rất ít để
liên kết. Tuy nhiên, các thuộc tính của hệ thống mã hóa cho phép các cụm lỗi được sửa trong đa số các
trường hợp có chiều dài bằng chiều dài của các cụm mà không vượt quá chiều dài của G(x), cái mà 24 bit
tương ứng với 24µs trên đường xuống. Phần lớn khả năng gây ra lỗi là sự sai lệch do trả lời fruit của SSR
đơn lẻ, cái mà có độ rộng xấp xỉ 21µs. Nếu phần còn lại của dịch chuyển thanh ghi là khác 0 (Hình 12.9),
những bit mẫu của nó là chỉ thị của mẫu của cụm lỗi. Phần còn lại là một bản đồ chính xác của lỗi nếu nó
xảy ra trong 24 bit cuối. Thông thường đây không phải trường hợp, và nơi của các cụm lỗi không được
biết ban đầu. Dĩ nhiên, nó chỉ hợp lý để sủa lỗi nơi mà 1 lỗi bị nghi ngờ,i.e. nơi mà quá trình xử lý mã hóa
chỉ ra rằng nhiễu là hiện tại và bit thông điệp là ở độ tin tưởng thấp.

Như giải thích ở trên, vòng mã đầy đủ còn lại hợp lệ nếu dịch chuyển theo chu kỳ, trong trường hợp
dịch chuyển này sẽ đưa ra kết quả ở lỗi có trong 24 bit cuối. cho mỗi lần dịch chuyển phần còn lại có thể
được tính toán lại để chỉ “thông điệp” và phần mới còn lại có thể được so sánh với mẫu của những bit tin
cậy mức thấp trong 24 bit cuối. Phần xử lý này sẽ được lập lại cho đến khi hoàn thành xảy ra sự tương
quan khi lỗi được tìm thấy và chỉnh sửa dữ liệu được thiết lập.

May mắn 1 quá trình xử lý tương tự có sẵn với phiên bản rút gọn của vòng tròn mã được sử dụng cho
Mode S và xa hơn nữa quá trình tính toán lại tại mỗi lần dịch có thể được đơn giản hóa. Bản tin là đối
tượng tới 1 chuyển dịch trái đơn lẻ và mẫu lỗi được tính toán lại bởi hoặc 1 dịch trái nếu nó chiếm phần
lớn là bit 0 hoặc là 1 dịch trái với sự gắn vào của G(x) nếu nó chiếm phần lớn là bit 1. Quá trình xử lý này
được tiếp tục cho đến khi 1 mẫu của bit có độ tin cậy thấp, cái mà có liên kết với mẫu lỗi còn lại được tìm
thấy trong 24 bit thấp nhất của bản tin. Muc 12.6 mô tả đầy đủ quá trình xử lý này.

12.5. Những kiểu hỏi.

Dạng kiểu hỏi Mode S được chỉ ra ở hình 12.2 hỗ trợ một số dạng khác nhau của kiểu hỏi . Bản tin
quá trình hỏi chứa số của vùng dữ liệu khác nhau, với 24 bit cuối luôn luôn được kết hợp vùng địa chỉ
chẵn lẻ. Bản tin quá trình hỏi của 24 kiểu khác nhau là có thể, trong đó 8 đã được phân bổ cho mục đích
cụ thể với phần còn lại hiện tại chưa được đăng ký [12.8, 12.9] . Tổng của 24 loại thông điệp được đưa ra
ở hinh 12.10

Một vài bit đầu tiên của bản tin nhận diện loại bản tin. Nếu 2 bit đầu tiên là 11 thì một quá trình hỏi
Comm-C được cho biết và loại bản tin này được thảo luận phía dưới. Trong tất cả trường hợp khác, 5 bit
đầu tiên chỉ định vùng UF, để xác định loại. Hai loại quá trình hỏi, với vùng UF của UF=00 và UF=16
được sử dụng cho giám sát không đối không trong quá trình kết nối với hệ thống TCAS và được thảo luận
nhiều hơn ở chương 13.
12.5.1 Giám sát quá trình hỏi.

Một vai trò chính cho các đài Mode S là 1 radar giám sát được nâng cấp phạm vi, ổ trục, chiều cao và
nhận diện dữ liệu thường xuyên trên mỗi máy bay quan tâm. Loại hỏi chính cho mục đích này là những
vung UF của UF=04 hoặc UF=05. Loại trước đây, UF=04 là bình thường được sử dụng như là có được
trả lời từ máy bay, cái mà chứa độ cao của nó sẽ được thông báo trong SSR trả lời Mode C. Trên mục tiêu
thu nhận và tại thời điểm khác là cần thiết, loại bản tin UF=05 có thể được sử dụng để có được một trả lời
chứa mã nhận dạng mode A của máy bay như là thông tin có khả năng của giá trị tiếp tục cho mục đích
ATC. Vùng FS của 1 trả lời (hình 12.11) sẽ cho biết lần thay đổi mode A gân đây của phi công để cảm
biến bắt đầu đọc ra 1 mã mới.

Vùng PC trong giám sát quá trình hỏi là liên quan chính với xác nhận kết luận của giao dịch liên kết dữ
liệu khác nhau và chi tiết được thảo luận ở nơi khác. Nội dung đầy đủ của vùng PC được đưa ra ở bảng
12.2.
Vùng RR (bang 12.3) cho biết loại của yêu cầu trả lời từ máy bay với bit đầu tiên của vùng qui định
cụ thể cho dù trả lời là ngắn (56bit) hay dài (112bit)

Vùng DI và SD được giải thích cùng nhau với chỉ giá trị DI=0, DI=1 và DI=7 hiện tại được chỉ định.
Ý nghĩa của vùng SD có 2 trường hợp DI=1 và DI=7 được đưa ra ở bảng 12.4. Khi DI=0 chỉ vùng nhỏ IIS
của vùng SD có ý nghĩa, điều này được thảo luận phía dưới
12.5.2. Comm-A interrogation (chưa dịch được)

Comm-A interrogation (UF=20 và UF=21) có chức năng tương tự để giám sát quá trình hỏi và bổ
sung thêm 56bit, cái mà có thể được sử dụng để truyền dữ liệu tới máy bay. Trên bốn Comm-A
interrogation có thể được liên kết để giãn dung lượng dữ liệu tới 224bit. Vùng con TMS của vùng SD
được sử dụng để cho thành phần ban đầu, cái mà phải sử dụng đầu tiên, thành phần thứ 2 và 3 (nếu sử
dụng), và thành phần cuối, cái mà phải được sử dụng cuối cùng. Mỗi Comm-A interrogation phải chứa
một trả lời từ máy bay, mặt khác cảm ứng sẽ lặp lại quá trình hỏi.

Để cho phép liên kết bản tin Comm-A phải được truyền từ một số cảm ứng, tất cả chúng đều trong
phạm vi của máy bay, địa chỉ vùng mặt đất bao gồm trong vùng con IIS của vùng SD. Vùng con IIS có
cùng nội dung như vùng II của quá trình hỏi mode S và được thảo luận ở mục 12.5.4. Sử dụng được kết
nối bản tin comm.-A cho quá trình truyền dữ liệu là hiệu quả từ khi vai trò giám sát được bao gồm tính tự
động hóa và quá trình bắt đầu và kết thúc cũng được thực hiện với mức tối thiểu trên không. Bản tin dữ
liệu dài hơn yêu cầu sử dụng Comm-C interrogation.

12.5.3. Comm-C interrogation

Comm-A interrogation cũng được biết như là một đường lên của bản tin dài được mở rộng (ELM), có
2 bít đầu tiên của bản tin cài đặt là 11 . vùng MC chứa 80bit của dữ liệu và ở giữa 2 và 16 Comm-C
interrogation được kết nối để cung cấp tổng số chiều dài bản tin của trên 1280 bit. Vùng NC cho biết số
của phân đoạn (0,…,n-1) đang được truyền. Quá trình hỏi ban đầu bao gồm, nghịch lý, phần cuối cùng
của bản tin với vùng NC cho biết số của phân đoạn (n-1). Bằng cách này, quá trình hỏi ban đầu thông tin
cho transponder tổng số của phân đoạn, cái mà được truyền.

Tranponder sẽ không trả lời cho đến khi phân đoạn cuối cùng (RC=2) là được nhận. Trả lời là 1 trả
lời Comm-D (xem mục 12.6.3) cái mà được xác nhận mỗi phân đoạn được nhận mà không có lỗi. nếu
cần thiết cảm ứng (sensor ) sẽ lặp lại phân đoạn bị lỗi cho đến khi tiếp nhận bản tin hoàn thành được chỉ
định bởi Transponder. Xử lý được kết thúc bằng cách gửi PC=5 trong vùng giám sát tiếp theo hoặc
Comm-A interrogation.

Comm-C interrogation không được sử dụng cho mục đích giám sát,i.e. tới vị trí cập nhật máy bay, tư
khi không có sẵn độ cao mới. Để thực hiên cập nhật vị trí, một giám sát hoặc Comm-A interrogation cũng
được truyền như là một hoạt động riêng biệt.

Nếu máy bay trong vùng phủ kích hoạt nhiều hơn một cảm ứng mode-s, nó có khả năng nhiều hơn
một cảm ứng có thể nỗ lực nhiều bản tin Comm-C cùng 1 lúc. Kết quả bản tin tại transponder có thể được
trộn của phân đoạn của 2 bản tin không liên quan. Để ngăn chặn điều này xảy ra một cảm ứng có thể nỗ
lực đầu tiên để dự trữ đường liên ELM hoạt động với transponder. Cách sắp đặt này được thực hiện bởi
bao gồm trong 1 giám sát sớm hơn hoặc chi tiết Comm-A interrogation của yêu cầu này và nhận dạng của
sensor tạo nên yêu cầu này. Quá trình hỏi sẽ chứa những dữ liệu sau:
Máy hỏi đáp giám sát hoặc Comm-B chứa trả lời, trong vùng UM của nó, vùng địa chỉ của sensor cho
cái mà ELM kích hoạt là hiện thời được sử dụng. Chỉ nếu vùng địa chỉ này cùng như là cái của sensor
thực hiện với giao dịch ELM cùng thời điểm.

Khi bản tin đường lên ELM được chuyển đi hoàn thành, sensor phải giải phóng kích hoạt ELM .
Chức năng này được thực hiện trong quá trình truyền của lần giám sát tiếp theo hoặc Comm-A
interrogation bởi bao gồm những dữ liệu sau:

Tất cả dữ liệu truyền giữa mặt đất và trên không được điều khiển bởi mặt đất. Tạo thuận lợi cho điều
khiển này là một phân đoạn đơn Comm-C interrogation được sử dụng để điều khiển một bản tin đường
xuống ELM cái mà sử dụng nhiều trả lời Comm-D. Điều này sẽ được thảo luận nhiều hơn ở mục 12.6.3

12.5.4. All-call interrogation.

Một dạng của All-call interrogation sử dụng một dạng biến đổi của quá trình hỏi SSR, điều này được
biểu diễn ở hình 12.3 và mục 12.2. Dạng của All-call interrogation có sự giới hạn của vài lần và một dạng
thay thế dựa trên quá tình hỏi Mode S biểu diễn ở hình 12.2.

All-call interrogation được cho biết bởi UF=11 (hình 12.10). Ngoài ra từ vùng UF và AF, chỉ 2 vùng
khác PR và II được xác nhận cho All-call interrogation. Vùng PR cho 1 xác xuất trả lời tới transponder
được điều khiển bởi 1 số thay đổi ngẫu nhiên bên trong. Điều kiện thuận lợi này được cung cấp để hỗ trợ
phục hồi sensor nếu có 1 lỗi hoàn thành và nhận dạng của tát cả máy bay bị mất. Bằng cách làm giảm xác
suất trả lời phía dưới thống nhất tự-garbling (self-garbling) của trả lời máy bay Mode S bởi máy bay
trong vùng gần là được giảm để tăng khả năng nhận những trả lời rõ ràng của nhiễu. Những máy bay này
có thể bị khóa ngoài trả lời để tiến xa hơn All-call interrogation bởi dữ liệu trong vùng PC hoặc SD của 1
giám sát hoặc Comm-A interrogation. Xác suất trả lời sau đó có thể được tăng lên để có được vài máy
bay cái mà có thể không được trả lời tới All-call interrogation đầu tiên. Quá trình xử lý này được tiếp tục
cho đến khi xác suất trả lời là thống nhất và tất cả máy bay đều được có. Nội dung của vùng PR được chỉ
ra ở bảng 12.5
Vùng II có thể chứa 4 bít vùng địa chỉ sensor như là trong vùng con IIS của vùng SD và UM. Vùng
này cho phép 1 sensor vo hiệu hóa và có được transponder từ trả lời tới xa hơn All-call interrogation từ
sensor đó mà không ngăn chặn transponder từ trả lời tới All-call interrogation từ sensor khác cái mà có
thể chưa cần để có được máy bay.

Trong trường hợp của All-call interrogation vùng địa chỉ chẵn lẻ AP không chứa địa chỉ máy bay từ
khi nó chưa biết. Vùng “địa chỉ” này được sử dụng cho All-call interrogation như là cùng địa chỉ quảng
bá (xem mục 12.5.5) và bao gồm 24 bit nhị phân 1s.

12.5.5. Quá trình hỏi quảng bá.

Thay vì một Comm-A interrogation tới 1 máy bay riêng. Bản tin của chung có thể quảng bá tới tất cả
máy bay trong chùm anten. Như là 1 quá trình hỏi quảng bá sử dụng 1 địa chỉ chứa 24 bit nhị phân 1s
thay vì địa chỉ của 1 máy bay đơn lẻ. Máy bay nhận như là 1 máy hỏi mà không yêu cầu trả lời từ đó có
thể nâng garbling của trả lời từ khoảng không gian gần máy bay.

Quá trình hỏi không được biết cho dù tất cả máy bay được nhận quảng bá quá trình hỏi và không thể
lặp lại quá trình hỏi cho những máy bay này cái mà không nhận thành công dữ liệu. Kết quả sử dụng quá
trình hỏi quảng bá là bị giới hạn dữ liệu tới không quan trọng hoặc tới trường hợp nơi mà cùng dữ liệu
được lặp lại tại khoảng thời gian thường xuyên.

12.6. Những loại trả lời.

Tất cả Mode S trả lời được truyền tải bởi dạng tín hiệu ở hình 12.6. Giống như quá tình hỏi chúng có
thể là dạng ngắn hoặc dài (chiều dài 56 bit hoặc 112 bit), với 24 bit cuối là địa chỉ chẵn lẻ. Hình 12.11
biểu diễn 24 loại khác nhau của bản tin trả lời có sẵn., của cái mà tám hiện tại được giao. Nếu 2 bit đầu
tiên của bản tin là 11 thì 1 trả lời Comm-D được chỉ định cà loiaj bản tin này được sử dụng cho quá tình
truyền của số lượng lớn dữ liệu trong cách tương tự tới Comm-C interrogation. Loại bản tin khác được
xác nhận bởi 5 bit đầu tiên, được thiết kế vùng DF. Loại trả lời với DF=00 và DF=16 là những trả lời
không đối không được sử dụng
Bằng hệ thống TCAS và được thảo luận chương 13. Quá trình giám sát hoặc trả lời Comm-B kết nối
quá trình giám sát hoặc Comm-A interrogation được biểu diễn ở bảng 12.6. Dạng dài hơn của quá trình
hỏi hoặc trả lời là chỉ được sử dụng khi dữ liệu được truyền đi đồng thời với cập nhật phạm vi của máy
bay, chịu lực và độ cao hoặc nhận dạng.

12.6.1 Giám sát trả lời.

Phần lớn trả lời mode S chung là trả lời giám sát chứa dữ liệu độ cao. Dạng của trả lời này được chỉ ra
bởi vùng DF của DF=04 với vùng AC chứa mã độ cao. Vùng này được dặt 13 bit cái mà đủ cho tất cả mã
xung A,B,C và D SSR thêm mã xung X là hiện tại không sử dụng trong SSR.. Trong vùng AC có 7 xung ,
tương ứng với xung X SSR, được đặt lại tên là bit M. Nếu bit M là 0, mã độ cao là tương tự được sử dụng
trong trả lời Mode C- trong trường hợp này xung D1 là zero. Nếu bit M là 1, 12 xung còn lại trong vùng
AC đưa ra độ cao máy bay trong đơn vị mét.

Giám sát trả lời khác, với DF=05, thay thế vùng AC với vùng ID cái mà chứa mã nhận dạng SSR
Mode A 4096. Xung X trong mã SSR Mode A hiện tại không được sử dụng như là nó trong SSR.

Vùng FS chỉ thị trạng thái bay được biểu diễn ở bảng 12.7

Vùng DF là vùng 5bit chính được sử dụng để chỉ thị máy hỏi mặt đất cái mà bản tin dữ liệu đường
xuống đang đợi truyền. Tất cả liên kết dữ liệu giao dịch được điều khiển từ sensor và nó phải được kích
bởi yêu cầu dữ liệu đường xuống. Nội dung của vung DR được biểu diễn ở bảng 12.8.

Vùng UM chứa điều khiển và trạng thái dữ liệu được chỉ thị ở bảng 12.9. Sáu bit vùng UM được chia
trong 2 vùng nhỏ- 4bit vùng con IIS và 2bit vùng con IDS. Nó sử dụng để chỉ thị trạng thái liên kết dữ
liệu hiện tại của máy phát đáp, với vùng IDS chỉ thị kích hoạt với giao dịch Comm-B hoặc với giao dịch
đường lên (hoặc đường xuống) ELM. Giải thích cho vùng con IDS như sau
0- Không kích hoạt
1- Kích hoạt Comm-B
2- Kích hoạt đường lên ELM
3- Kích hoạt đường xuống ELM
Vùng con IIS chỉ thị nhận dạng của máy hỏi được giải quyết trong kích hoạt liên kết dữ liệu.
12.6.2. Trả lời Comm-B
Trả lời Comm-B, DF=20 hoặc =21, có chức năng tương tự để giám sát trả lời nhưng thêm 56bit có
thể để truyền dữ liệu từ máy bay tới máy hỏi. Tất cả dữ liệu truyền được điều khiển bởi sensor vì vậy máy
bay chỉ có thể truyền dữ liệu đường xuống khi yêu cầu đặc biệt bởi máy hỏi. Truyền dữ liệu đường xuống
có thể nhiễu loạn bởi máy hỏi nhưng nhân dịp này máy hỏi phải được nói bởi máy bay cái mà dữ liệu
đường xuống đang đợi truyền.
Trong trương hợp sensor bắt đầu truyền dữ liệu, yêu cầu này được chỉ ra bởi mã RR lớn hơn 16 (xem
muc 12.5.1) được chứa trong giám sát hoặc Comm-A interrogation. Máy bay trả lời vói dữ liệu được yêu
cầu. Nếu dữ liệu không nhận đúng bởi máy hỏi, 1 yêu cầu lặp lại được tạo ra. Không có ghi nhận khác
hành động là cần thiết.
Khi một bản tin Comm-B bắt đầu là có sẵn, sự tồn tại của nó được chỉ tới mặt đất bởi thiết lập bit ít
quan trọng nhất của vùng DR trong giám sát hoặc trả lời Comm-B khác. Sensor đáp ứng quá trình hỏi với
RR=16 vì vậy trả lời tiếp theo chứa bản tin trên không bắt đầu. Trong trường hợp đặc trưng này một ghi
nhận là cần thiết từ khi máy paths đáp sẽ không xóa bit trong vùng DR cho đến khi nó có 1 lời khuyên là
không lặp lại thông tin là cần thiết. Lần giám sát tiếp theo hoặc bản tin Comm-A bao gồm PC=4 để chỉ thị
tiếp nhận thành công bản tin đường xuống và giao dịch được hoàn thành khi sensor nhận trả lời để quá
trình hỏi xa hơn.
Một vấn đề có thể phát sinh khi một máy bay trong vùng phủ của nhiều hơn một sensor hoặc nhiều
hơn một trả lời không khí bắt bầu (air-initiate) Comm-B là đang đợi chuyển đi. Khả năng tồn tại lặp lại
của quá trình hỏi hoặc trả lời cái mà có thể cần thiết để vượt qua thiệt hại bởi nhiễu, có thể vô tình chấm
dứt giao dịch trước khi dữ liệu được truyền chính xác. Trong trường hợp của nhiều vùng phủ nhiều giao
thức được sử dụng và giám sát bắt đầu hoặc Comm-A interrogation chứa sau đây:

Máy phát đáp lưu trữ địa chỉ của vùng yêu cầu đầu tiên dữ liệu Comm-B và bao gồm địa chỉ này
trong vùng con IIS của vùng UM trong trả lời và những trả lời khác. Vùng bắt đầu và những sensor khác
có những trả lời có thể xác định liệu nó hoặc vùng khác có khả năng đáp ứng cho xử lý bản tin.
Sauk hi bản tin Comm-B được chuyển thành công và quá trình ghi nhận được tạo ra bởi bao gồm lần
giám sát tiếp theo hoặc bản tin comm.-A:

Máy phát đáp xóa bản tin (DR=0) và giao dịch hoàn thành khi sensor nhận 1 trả lời tới quá trình hỏi
xa hơn.
Trong cách tương tự cho Comm-A interrogation, lên tới 4 trả lời Comm-B có thể được liên kết để
tăng dung lượng dữ liệu
12.6.3. Trả lời Comm-D.
Một trả lời Comm-D, cái mà cũng được biết như là đường xuống ELM, có 2 bit đầu tiên của bản tin
là 11. Vùng MD chứa 80 bit của dữ liệu và giữa 2 và 16 trả lời Comm-D có thể được kết nối để cung cấp
tổng chiều dài bản tin lên tới 1028 bit.
Tất cả bản tin đường xuống được điều khiển sensor mặt đất theo 1 chỉ thị của 1 bản tin đang chờ
trong 1 giấm sát hoặc trả lời Comm-B. Trong trường hợp đường xuống ELM giám sát hoặc trả lời Comm-
B có mã DR của nó lớn hơn 15 và số của phân đoạn Comm-D đang chờ truyền đi là được xác nhận bởi
trừ đi 15 từ mã DR. Quá trình hỏi truyền một Comm-C interrogation đơn lẻ với vùng RC=3. Trong quá
trình hỏi 16 bit đầu tiên của vùng MC chỉ thị được yêu cầu phân đoạn Comm-D được truyền. Máy bay
phản ứng quá trình hỏi là truyền phân đoạn Comm-D được yêu cầu. Trả lời Comm-D được cách nhau bởi
136 µs giữa bắt đầu của những trả lời vài vậy máy hỏi biết thời gian của phản ứng dự kiến. Khi thời gian
này trôi qua, máy hỏi xác định liệu những trả lời dự kiến đã được nhận chính xác. Một Comm-C
interrogation xa hơn hoặc được yêu cầu lặp lại lựa chọn phân đoạn bị bỏ lỡ hoặc chỉ ra rằng dữ liệu hoàn
thành đã được truyền và chấm dứt giao dịch

Nếu máy bay trong vùng phủ kích hoạt của nhiều hơn một sensor Mode S, nó có thể nhiều hơn một
sensor có thể nỗ lực một bản tin nhiều Comm-D tại cùng thời điểm. Kết quả này có thể là chỉ 1 phần của
bản tin được chuyển đi tại mỗi phần của 2 sensor. Để ngăn chặn điều này xảy ra, một sensor sẽ sắp đặt
một đường xuống ELM kích hoạt với máy phát đáp. Quá trình sắp đặt này được hoàn thành bởi một giám
sát sớm hơn hoặc Comm-A interrogation chi tiết của yêu cầu này và nhận dạng sensor tạo ra yêu cầu. Quá
tình hỏi bao gồm dữ liệu sau:

Máy phát đáp giám sát hoặc chứa trả lời Comm-B, trong vùng UM của nó, vùng địa chỉ của sensor
cho kích hoạt ELM là hiện tại được sắp đặt.

Chỉ nếu vùng địa chỉ này là cùng như là cái của sensor làm sensor xử lý với giao dịch ELM tại cùng
thời điểm.

Khi chuyển bản tin đường xuống ELM được hoàn thành, sensor phải giải phóng kích hoạt ELM.
Chức năng này được thực hiện trên quá trình truyền của lần giám sát tiếp theo hoặc Comm-A
interrogation bởi dữ liệu sau:

12.6.4. Trả lời All-call


Trả lời all-call được truyền để đáp ứng một trong hai loại của All-call interrogation biểu diễn ở hình
12.2 và 12.3. Nó là xử lý chính theo đó quá trình hỏi có thể xác định sự hiện diện của máy bay được trang
bị Mode S và 24bi địa chỉ duy nhất của nó. Trả lời all-call được chỉ ra bởi vùng DF (xem hình 12.11) với
giá trị DF=11.

Trả lời All-call là 1 ngoại lệ nơi mà địa chỉ không được kết hợp với tính toán vùng 24 bit chẵn lẻ tại
điểm cuối của bản tin. Lý do cho điều này là sensor chưa biết địa chỉ của máy bay, tiếp nhận của nó là
mục đích của quá tình hỏi All-call và trả lời, do đó bất kỳ lỗi nào trong trả lời không thể truyền nếu không
được nhận ra. Địa chỉ máy bay là được báo cáo riêng trong vùng AA.

Nó cũng quan trọng cho sensor để hiểu khả năng liên kết dữ liệu của thiết bị trên không. Đây là báo
cáo trong vùng CA được biểu diễn ở bảng 12.10. Chi tiết xa hơn của khả năng máy phát đáp, như là loại
của thiết bị ngoại vi có sẵn trên bảng, được báo cáo trong trả lời Comm-B trên yêu cầu riêng từ mặt đất.

Một lần một sensor được yêu cầu máy bay và được xác định địa chỉ Mode S của nó, nó không dài hơn
để cần máy bay trả lời tới All-call interrogation. Để tiếp tục trả lời sẽ gây ra nhiễu không cần thiết và có
thể làm giảm khả năng tiếp nhận máy bay khác một cách kịp thời.Máy phát đáp có thể hạn chế trả lời tới
All-call interrogation bởi giám sát tiếp theo hoặc Comm-A interrogation trong vùng PC có giá trị 1. All-
call khóa bị giới hạn tới chu kỳ 18s trừ khi được xác nhận lại bỏi lệnh từ sensor. Bằng cách này mất liên
lạc với máy bay sẽ kết quả trong khả năng để tiếp nhận lại máy bay trong quá trình bằng cách sử dụng
All-call interrogation xa hơn.

All-call khóa có lẽ là phần yếu nhất trong hệ thống Mode S từ khi nó hoạt động là từ chối phát hiện
quá trình hỏi khác trong phạm vi của máy bay. Để vượt qua giới hạn này vùng địa chỉ quá trình hỏi được
sử dụng vì vậy All-call interrogation có thể được dán nhãn với một sensor xác định riêng. Thay thế khóa
All-call, cái mà vùng địa chỉ riêng, chỉ hạn chế những trả lời all-call tới những All-call interrogation cái
mà chứa vùng địa chỉ trong vùng II của chúng.

12.7. Ứng dụng của liên kết dữ liệu.

Điều chứng minh chính để chấp nhận Mode S là giá trị của liên kết dữ liệu trong hỗ trợ mức độ lớn
hơn của tự động hóa hệ thống quản lý lưu lượng bay. Sử dụng liên kết dữ liệu sẽ cho phép chuyến bay của
máy bay ngày càng dầy đặc với độ an toàn được cải thiện trong khi tại cùng thời điểm cho phép máy bay
bay trên những đường bay kinh tế hơn phù hợp khả năng kỹ thuật của khung máy bay.

Để tăng ứng dụng của quá trình xử lý dữ liệu, trên mặt đất và trên không, là nguyên nhân kết quả của
nhiều chuyến bay dạng số. Chuyển những dữ liệu này từ mặt đất tới trên không và ngược lại có thể đạt
được hiệu quả hơn bằng cách sử dụng liên kết dữ liệu kỹ thuật số. Ứng dụng này giảm tải làm việc cho
ngườ điều hành và phi công và loại bỏ hầu hết những hiểu lầm.

Dự đoán va chạm tự động là một ví dụ riêng của sử dụng liên kết dữ liệu theo đó một sensor xác định
được sự xuất hiện của 2 máy bay trong khoảng cách gần nhau, cảnh báo cho phi công và đưa ra lời
khuyên làm thế nào để tránh va chạm. Một phiên bản trên không để tránh va chạm là TCAS cái mà được
thảo luận ở chương 13.

Liên kết dữ liệu của Mode S được thiết kế cho khả năng linh hoạt và mở rộng và được phù hợp cho
hoạt động trong môi trường ATC khác nhau trên thế giới. Ứng dụng của liên kết dữ liệu có thể dự kiến
phát triển và tiếp tục mở rộng.

Một dạng khác của liên kết dữ liệu là làm tồn tại và sẽ tồn tại trong tương lai. Liên kết dữ liệu hiện tại
bao gồm loại tương tự sử dụng thông tin HF và VHF tốt ngang với loại số sử dụng VHF ACARS và SITA
Aircom cái mà được sử dụng chính cho các công ty hàng không. Trong tương lai liên kết dữ liệu có thể
dự đoán sử dụng vệ tinh.

Ứng dụng ATC cho liên kết dữ liệu Mode S có thể được phân chia rộng rãi trong các phân loại sau:

Hướng dẫn ATC


Cho phép điểm đến trước
Cho phép chuyến bay vào
Chuyển giao sector
Đo định tuyến để tăng khả năng hệ thống
Chuyển Vector (đầu, tốc độ máy bay, độ cao)
Thiết lập máy đo độ cao
ATC và hỗ trợ quản lý chuyến bay
Tiếng vang độ cao mode C cho phép phi công kiểm tra để hoạt động đúng
Tiếng vang vị trí cho phép phi công kiểm tra độ chính xác điều hướng trên bảng
Luồng quản lý tham vấn thông tin cho phi công về độ trễ sân bay
Phi công yêu cầu thông tin về độ cao
Cảnh báo va chạm
Tư vấn tránh địa hình
Thời tiết và môi trường
Điều kiện thời tiết bề mặt sân bay
Dự báo sân bay
Dự báo định tuyến
Điều kiện thời tiết trên không được đo bởi máy bay và máy đo từ xa tới mặt đất
Thời tiết vùng biên được đo bởi rada mặt đất.
Cảnh báo thời tiết khắc nghiệt
Tham vấn NOTAM, SIGMET, AIRMET
12.8. Mô hình liên kết hệ thống mở.
SSR bắt đầu như là cốt lõi chính của tiếng vang rada thứ cấp từ máy bay vì vậy để chỉ thị rằng nó là
một “người bạn”. Ứng dụng này yêu cầu thiết bị đặc biệt được mang bởi máy bay và nó là 1 bước đơn
giản để mã hóa bộ đáp ứng để truyền dữ liệu thêm vào như là nhận dạng và mức bay. Mode S tiến hành
xử lý bước này xa hơn bằng cách tăng dung lượng dữ liệu có sẵn. Trong vài con mắt SSR Mode S bây giờ
là hệ thống truyền thông đầu tiên và là một hệ thống rada thứ hai và sẽ là vật thể để giao thức truyền
thông quốc tế xa ngang bằng truyền dữ liệu. Mô hình liên kết hệ thống mở ( OSI ) như là 1 hệ thống.
Khái niệm OSI cho phép hệ thống truyền thông dữ liệu khác nhau được liên kết vì vậy cho phép truyền
bản tin mà không cần để ý phương tiện được sử dụng để truyền. Bản chất của OSI là chia hệ thống thành
con số của lớp, mỗi lớp có khả năng đáp ứng một chức năng đồng cấp với phần còn lai của hệ thống. Lợi
ích là kỹ thuật khác đó trong tryền dữ liệu có thể chứa được trong vòng hệ thống tiêu chuẩn hóa. Khái
niệm này cho phép dữ liệu được truyền qua giữa người sử dụng cuối mà không cần yêu cầu cho những
người sử dụng để xác định phương tiện truyền. Mode S chỉ là một phương tiện, VHF và vệ tinh có thể là
cái khác.
Bảy lớp chức năng được định nghĩa với dải từ vật lý của truyền dữ liệu tới xử lý cuối cùng của bản tin
bởi người nhận:
Lớp ứng dụng: người sử dụng điều khiển truy cập lớp thấp hơn.
Lớp trình diễn: chức năng chung là hỗ trợ lớp ứng dụng như là mã hóa và nén dữ liệu.
Lớp phiên: chức năng thiết lập điều khiển giữa hai người dùng cuối
Lớp vận chuyển: khái niệm cuối – cuối của hệ thống truyền thông là toàn bộ bao gồm thay thế
mạng có sẵn
Lớp mạng: quản lý kết nối mạng bao gồm quyết định định tuyến nơi mà nhiều liên kết kết nối bên
trong có sẵn
Lớp liên kết dữ liệu: điều khiển truy cập tới phương tiện truyền bao gồm đồng bộ, tuần tự, và phát
hiện lỗi.
Lớp vật lý: phần cứng và phương tiện truyền của hệ thống truyền như là máy phát, môi trường
truyền và máy nhận
Gói dữ liệu liên quan đến quá trình chuyển động của thông tin bắt đầu tại lớp ứng dụng và chuyển
xuống và lên như là yêu cầu mạng. Tại mỗi lớp quá trình chuyển đổi điều khiển dữ liệu, đặc biệt tới lớp
đó có thể thêm hoặc bỏ, với điều khiển dữ liệu thích hợp tới lớp cao hơn đang được truyền trong cách
truyền minh bạch.
Một bản tin dữ liệu từ ATC tới phi công hoặc máy tính quản lý chuyến bay sẽ bắt đầu tại lớp ứng
dụng và truyền xuyên qua mức thấp hơn cho tới khi nó tới lớp vật lý, lớp mà đường mặt đất tới phía máy
hỏi. Tại phía này nó sẽ được nâng lên tới lớp vận chuyển, lớp mà biểu hiện như là cổng ra tới hệ thống
mode S, trước khi giảm dần tới lớp vật lý khác cho quá trình truyền của tín hiệu tại tần số radio. Giao diện
máy phát đáp là tại mức vận chuyển như là cổng ra tới bảng dữ liệu mạng tại một lớp vật lý xa hơn. Dữ
liệu sau đó có thể được truyền lên tới lớp ứng dụng cho người sử dụng cuối.

You might also like