You are on page 1of 7

Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 1

Theo mọi thứ theo thời gian sẽ bị bào mòn và băng hoại. Chỉ có duy nhất nghệ thuật,
mình nó không thừa nhận cái chết. Có những tác phẩm dù trải qua bao nhiêu thế kỉ,
qua sự thách thức của dòng đời, nó vẫn còn nguyên sức sống của mình. “Chuyện
người con gái Nam Xương” là một câu chuyện như thế.

“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số 20 truyện trích trong “Truyền kì
mạn lục”, áng văn được người đời đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kì diệu truyền
tới ngàn đời. Truyện được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nhưng với ngòi
bút tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên “Chuyện người con gái Nam
Xương” rất riêng, giàu giá trị và ý nghĩa. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết
thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm đã thể hiện giá trị hiện thực và cảm hứng nhân
đạo sâu sắc.

Trước hết. “Chuyện người con gái Nam Xương” là bản án đanh thép tố cáo xã hội
phong kiến nam quyền, bất công bấy giờ qua số phận bi kịch của Vũ Nương cũng như
sự độc đoán của nhân vật Trương Sinh. Ngay khi bắt đầu, Vũ Nương đã phải chịu một
tình duyên ngang trái. Nàng- người con gái thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp lại phải lấy
Trương Sinh- một kẻ thất học, rất đa nghi, với vợ thường phòng ngừa quá sức. Cuộc
tình duyên ấy đã chứa đựng mầm mống của của mâu thuẫn.

Lấy chồng chưa được bao lâu, Vũ Nương lại phải sống trong cảnh chờ đợi vất vả. Vợ
chồng phải chia phôi vì “động việc lửa binh”. Cảnh nàng tiễn chồng đi lính thật ái ngại,
xót xa: nàng rót chén rượu đầy mà ứa hai hàng lệ. Rồi khi chồng đi lính, nàng phải
sống vò võ một mình ngóng trông tin chồng. Nàng thay chồng lo toan gánh vác công
việc gia đình: nuôi dạy con nhỏ, chăm sóc, phụng dưỡng mẹ già lúc ốm đau, ma chay
tế lễ chu đáo khi mẹ chồng mất. Ái ngại thay cho nàng, sau khi mẹ chồng mất, trong
căn nhà trống vắng cô đơn, chỉ có người vợ trẻ và đứa con thơ dại.

Hơn nữa, người phụ nữ ấy còn phải chịu nỗi oan và cái chết thương tâm. Chỉ vì một lời
nói của đứa con nhỏ mà Trương Sinh đã đinh ninh vợ mình hư hỏng, một mực mắng
nhiếc, đánh đuổi nàng đi. Hỏi nguyên cớ thì Trương Sinh giấu, nàng hết lời minh oan
nhưng chồng không nghe, bà con làng xóm biện minh cho nàng cũng chẳng ích gì.
Nàng bị chồng đẩy vào bi kịch: “người vợ mất nết hư thân”, dồn đẩy nàng phải tìm đến
cái chết để minh oan. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn sau, Trương Sinh nhận ra nỗi
oan của vợ thì “việc đã trót qua rồi”. Người đọc chỉ biết ngậm ngùi thở dài xót thương
cho người phụ nữ bạc mệnh.

Vũ Nương còn phải chịu nỗi oan cách trở. Sống dưới thủy cung, cuộc sống đầy đủ,
xứng đáng với nàng nhưng đó không phải cuộc sống nàng mong ước. Nàng vẫn khao
khát cuộc sống gia đình, quê hương. Việc nàng trở về nhưng không thể trở về trần gian
được nữa, âm dương cách biệt, nàng không còn được làm vợ, làm mẹ nữa.

Còn nhân vật Trương Sinh được xây dựng là con nhà hào phú nhưng thất học và rất đa
nghi. Chính lòng ghen tuông mù quáng, cách cư xử hồ đồ, Trương Sinh đã đẩy vợ
mình đến cái chết oan nghiệt. Bi kịch của Vũ Nương tiêu biểu cho bi kịch của người
phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến: số phận nhỏ bé, không có tiếng nói và cũng
không được quyền quyết định số phận cuộc đời mình.

Trương Sinh chính là sản phẩm của xã hội phong kiến bất công với thói gia trưởng độc
đoán, với tư tưởng trọng nam khinh nữ đã đẩy người phụ nữ đến với bi kịch. Qua đó
chính là lời tố cáo xã hội phong kiến bất công, cổ hủ với những định kiến xã hội, với
cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm tan nát bao gia đình, cuộc đời.

Nhưng đằng sau sự xót xa, phẫn uất trước chế độ phong kiến lại là thái độ trân trọng, là
tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ dành cho con người. Tác giả thể hiện sự trân trọng,
ngợi ca cho vẻ đẹp của người phụ nữ: Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái đẹp
người đẹp nết. Ngay phần đầu giới thiệu, tác giả đã dùng những từ ngợi ca để dành
riêng cho nàng. Vì vậy mà Trương Sinh mới xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về.

Nàng còn là người vợ thủy chung. Trong cuộc sống gia đình, nàng luôn giữ gìn khuôn
phép. Dù chồng có tính đa nghi nhưng gia đình chưa từng đến thất hòa. Trong buổi tiễn
chồng đi lính, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về. Với nàng, mọi vinh hoa phú quý
không có nghĩa lí bằng hạnh phúc gia đình. Nàng còn cảm thông với những gian khổ
hiểm nguy mà chồng phải trải qua nơi chiến trận, đồng thời bày tỏ nỗi nhớ nhung của
mình.
Khi chồng đi lính, nàng luôn hướng về chồng, nỗi buồn nhớ dài theo năm tháng. Khi bị
chồng nghi oan, nàng đã hết lời phân trần: dùng thân phận, tấm lòng. Nỗi đau đớn tuyệt
vọng khi hạnh phúc gia đình đang nguy cơ tan vỡ. Nàng đã tìm đủ mọi cách để cứu vãn
hạnh phúc gia đình, để minh oan cho mình. Hành động nhảy xuống sông tự vẫn để tỏ
rõ với đời người phụ nữ đoan trang, giữ tiết, trinh bạch, gìn lòng.

Sống dưới thủy cung, nàng vẫn luôn hướng về gia đình, quê hương. Việc nàng trở về
để được minh oan nhưng nàng không trở về được nữa để giữ mãi lòng thủy chung với
Linh Phi- người đã cưu mang nàng. Hơn nữa, Vũ Nương còn là một người mẹ hiền,
người con dâu hiếu thảo.

Nàng đảm đang, lo toan mọi công việc gia đình khi chồng đi vắng. Lời trăng trối của
người mẹ chồng là sự ghi nhận cao nhất cho phẩm hạnh làm dâu, làm con của nàng:
bà cảm ơn công lao của nàng với gia đình nhà chồng, bà cầu mong đứa con của mình
sẽ được hạnh phúc: “xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

Có thể nói, Vũ Nương là người phụ nữ lí tưởng, ở nàng xuất hiện cả ba con người:
người vợ thủy chung, người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo. Tất cả đều hoàn hảo,
sáng tỏ đến mức tuyệt vời. Trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ, vốn không
được coi trọng trong xã hội chính là giá trị nhân văn của tác phẩm. Đặc biệt, tác giả còn
sáng tạo so với cổ tích khi để Vũ Nương có thể trở về để minh oan.

Nó như khúc vĩ thanh trong bản nhạc để ngân lên những ước mơ ngàn đời của người
nông dân, rằng cuộc đời này vẫn còn công lí, người tốt dù chịu oan khuất rồi cũng sẽ
được trả lại sự trong sạch, cái thiện rồi cũng sẽ chiến thắng. Cũng chính vì vậy mà tác
phẩm vơi đi phần nào sự bi thương, đau đớn để đánh thức trong người đọc niềm tin,
lạc quan hướng về tương lai.

Ngoài những giá trị nội dung sâu sắc, tác phẩm còn có những thành tựu nghệ thuật đặc
sắc. Tất cả mọi diễn biến tính cách, số phận nhân vật đều xoay quanh chi tiết chiếc
bóng. Nó không xuất hiện ngay từ đầu nhưng là yếu tố để câu chuyện lên đến cao trào
và cũng nó để cởi nút cho câu chuyện.

Nhờ cách sắp xếp tình huống mà câu chuyện trở nên bất ngờ, hồi hộp, căng thẳng.
Cùng với đó là nghệ thuật khắc họa nhân vật điển hình, đại diện cho những đặc điểm
tầng lớp và số phận con người trong xã hội. Giọng văn cùng những hình ảnh so sánh,
ẩn dụ, tuy có ước lệ nhưng vẫn sinh động, chân thực và hài hòa.

Như vậy, “Chuyện người con gái Nam Xương” là tiếng nói lên án, tố cáo xã hội phong
kiến bất công, vô lí. Đồng thời lên tiếng nói thương cảm, ngợi ca với vẻ đẹp con người,
niềm tin vào công bằng và công lí xã hội. Tấm lòng đau đáu của Nguyễn Dữ nhìn vào
thực tại và dành cho con người đã khởi nguồn cho tiếng nói nhân đạo của Hồ Xuân
Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, ... sau này.

Từ một chiếc bóng oan nghiệt, tác phẩm thấm đẫm cảm hứng nhân văn, mở ra cho
chúng ta biết bao nhiêu bài học về tình người, về cuộc sống. Đây là một áng “thiên cổ
kì bút” đáng tìm hiểu và suy ngẫm.

Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 2


Mỗi một câu chuyện viết ra đều mang một ý nghĩa tự thân của nó, có tác dụng cảm hoá
cuộc đời và con người. Nếu một tác phẩm văn học không mang được những ý nghĩa
sâu xa như vậy, nó sẽ vẫn nằm trong sự băng hoại của thời gian. Và “Chuyện người
con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã vượt qua được quy luật của thời gian và
không gian để đến với chúng ta ngày hôm nay.

“Chuyện người con gái Nam Xương” nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”, một trong
những câu chuyện lạ lưu truyền trong dân gian được ghi chép lại. Lạ nhưng câu
chuyện ấy không viển vông đến xa rời thực tế, mà nó như một tấm gương soi chiếu xã
hội bấy giờ, là khúc ca cho tấm lòng nhân đạo của tác giả Nguyễn Dữ. Bởi những giá trị
ấy mà đã hàng ngàn năm trôi qua, vẫn còn một tác phẩm đồng hành với chúng ta ngày
hôm nay.

Truyện kể về người con gái vùng Nam Xương, tính đã dịu hiền nết na, lại thêm tư dung
tốt đẹp. Nàng được gả cho Trương Sinh, một chàng trai giàu có nhưng ít học, tính tình
lại cục cằn hay ghen. Và chiến tranh nổ ra, Trương Sinh bị bắt đi lính, để mẹ già vợ trẻ
ở nhà ngày đêm mong nhớ. Trương Sinh đi để lại cho Vũ Nương một người con trai, vì
thương nhớ chồng nên nàng chỉ chiếc bóng trên tường và nói với con đó là cha.
Ba năm sau, Trương Sinh trở về, nghi ngờ vợ mình thất tiết và đuổi đánh vợ, khiến
nàng nhảy xuống sông mà tự vẫn. Một thời gian sau, Trương Sinh phát hiện ra sự thật,
muốn vợ quay trở về nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Cả câu chuyện như một vở kịch
đau thương về số phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, tủi nhục, đau khổ
đến nhường nào!

“Chuyện người con gái Nam Xương” còn tồn tại đến ngày hôm nay có lẽ là nhờ vào giá
trị hiện thực sâu sắc của nó. Đó là bức tranh về hiện thực xã hội phong kiến chứa đầy
những uất ức bất công, đặc biệt là với người phụ nữ. Vũ Nương dù mang trong mình
những phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng không được lựa chọn hạnh phúc cho cuộc đời
mình.

Nàng vì trăm lạng bạc của mẹ Trương Sinh mà về làm dâu làm vợ của người, không ai
biết nàng có hạnh phúc hay không. Rồi khi bị chồng nghi oan, nàng cũng không có
quyền nói lên nỗi lòng của mình. Dù bị đánh đập, bị đuổi đi mà không được nói một lời
giải thích. Chính chế độ nam quyền khi ấy là nguyên nhân dẫn đến cuộc đời bi kịch của
Vũ Nương.

Trong tác phẩm, ta còn nhận ra một hiện thực tàn khốc hơn nữa, chính là chiến tranh
phong kiến phi nghĩa. Cuộc chiến ấy khiến mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Dù
cho một người giàu có như Trương Sinh, cũng không tránh khỏi vòng vây đao kiếm.
Tất cả đều là để phục vụ cho nhu cầu của những thế lực phong kiến tranh giành quyền
lực mà đổ lên đầu con đỏ dân đen.

Nếu như không có chiến tranh phong kiến, cũng không có ba năm xa cách đằng đẵng
giữa Vũ Nương và chồng, cũng không có sự hiểu lầm đáng tiếc ấy. Vũ Nương phải
chết, cũng một phần vì chiến tranh mà ra. Có thể nói, tác phẩm đã phản ánh chân thực
được những hiện thực còn nhức nhối trong xã hội bấy giờ, để sau này người đời còn
nhìn vào và hiểu rằng, đã có một thời lầm than như thế.

Nhưng một tác phẩm văn học sẽ không thể sống nếu nó chỉ là sự sao chép lại hiện
thực một cách giản đơn. Trong hiện thực, ta còn phải thấy được cả tấm lòng của tác
giả gửi gắm, hay chính là tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm của mình.
Tiếng nói nhân đạo ấy trước hết thể hiện ở sự ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến.
Vũ Nương được miêu tả là một cô gái, đã có tư dung tốt đẹp lại dịu hiền nết na.
Nguyễn Dữ nhìn ra được những phẩm chất cao quý nhất trong tâm hồn người con gái
ấy. Chính vẻ ngoài xinh đẹp và tính tình của nàng đã chiếm được trái tim chàng Trương
Sinh, để chàng phải bắt mẹ hỏi cưới cho bằng được. Kể từ đó, Vũ Nương nổi bật lên là
một người con hiếu thảo. Chồng đi lính, nàng hết lòng phụng sự, chăm lo cho mẹ
chồng.

Khi bà ốm, nàng tất tả lo toan thuốc thang, khi bà mất, nàng lo toan ma chay cho thật
chu đáo. Dẫu chỉ là mẹ chồng, nàng vẫn toàn tâm chăm sóc như bố mẹ. Đó là một tấm
lòng thơm thảo, luôn dành sự biết ơn cho đấng sinh thành. Phẩm chất ấy thật đáng quý
biết nhường nào.Khi đã làm mẹ, Vũ Nương lại hết lòng yêu thương và chăm sóc con.

Thương con lớn lên trong cảnh thiếu cha, ngày ngày nàng chỉ chiếc bóng trên tường và
nói với con đó là cha nó. Ta có thể thấy một khao khát gia đình trọn vẹn để con được
đủ đầy yêu thương. Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương, có chăng cũng là từ tình yêu
thương con ấy mà ra.

Nét nổi bật nhất trong vẻ đẹp của Vũ Nương có lẽ chính là tấm lòng chung thuỷ một
lòng với chồng. Khi chồng ở nhà, nàng khôn khéo đảm đang không để chồng phật ý,
khi chồng ra trận, nàng lại một lòng chăm sóc mẹ già con nhỏ. Nàng sống trong nỗi nhớ
chồng, khao khát được gặp lại người chồng của mình. Nàng luôn giữ được hai chữ “tiết
hạnh” để không có lỗi với chồng.

Chiếc bóng xuất hiện mỗi đêm có lẽ là minh chứng rõ nhất cho sự thủy chung của Vũ
Nương. Và đặc biệt, khi chết đi, nàng quay trở lại gặp chồng lần nữa, một mặt là khẳng
định tấm lòng chung thủy, một mặt vẫn còn lưu luyến tình xưa nghĩa cũ. Tấm lòng
chung thủy của Vũ Nương, không ai có thể phủ nhận. Đó chính là vẻ đẹp tiêu biểu nhất
cho người phụ nữ Việt Nam, dù chịu bất công nhưng một lòng chung thủy.

Tiếng nói nhân đạo của Nguyễn Dữ, ta còn gặp ở sự đồng cảm với khát vọng hạnh
phúc của con người. Cuộc đời Vũ Nương luôn là những chuỗi ngày bị ép buộc, chờ
đợi. Nàng luôn khát khao về một mái ấm gia đình có đủ đầy tình yêu thương nhưng
không thành hiện thực. Nguyễn Dữ để nàng sống hạnh phúc ở một thế giới khác,
không còn khổ đau hờn ghen, chính là để hiện thực hóa ước mơ hạnh phúc của con
người.
“Chuyện người con gái Nam Xương”, với những giá trị hiện thực và nhân đạo của
mình, đã thực sự chạm được đến phần sâu kín nhất của trái tim con người. Đó là nỗi
lòng của chính Nguyễn Dữ, là cặp mắt nhìn đời tinh anh sắc sảo và tấm lòng nồng ấm
yêu thương. Tác phẩm đã cho ta thấy được cái tâm và cái tài của một nghệ sĩ lớn, đó
mới là nghệ thuật chân chính mà muôn đời con người theo đuổi.

Thời gian vẫn sẽ tuần hoàn theo quy luật của nó, nhưng ta sẽ vẫn còn nhớ về tác phẩm
để hoài niệm về quá khứ xa vắng, để đau xót, để yêu thương!

You might also like