Professional Documents
Culture Documents
NGỮ LỤC VẤN ĐÁP
NGỮ LỤC VẤN ĐÁP
Tăng hỏi:
Người người vốn tự người người đủ,
Mỗi mỗi xưa nay mỗi mỗi tròn.
Vì sao Thế Tôn vào núi tu hành?
Vua đáp:
Kiếm vì bất bình mở hộp báu,
Thuốc do trị bệnh ra khỏi bình.
Tăng hỏi:
Trong mắt thôi để bụi,
Trên thịt chớ khoét thương.
Trên phần người học có tu chứng không?
Vua đáp:
Nước chảy xuống non đâu có ý,
Mây bay qua núi vốn không tâm.
Tăng im lặng.
Vua nói:
Chớ bảo không tâm đây là đạo,
Không tâm còn cách một lớp rào.
Tăng thưa:
Nơi tâm đã không, nói gì là một lớp rào?
Vua đáp:
Nước chảy xuống non đâu có ý,
Mây bay qua núi vốn không tâm.
Tăng không đáp được.
Tăng hỏi:
Người người vốn tự người người đủ,
Mỗi mỗi xưa nay mỗi mỗi tròn.
Vì sao Thế Tôn vào núi tu hành?
Trong các vị Thiền sư hay trong kinh Đại thừa luôn luôn nói: Ai ai cũng vốn tự đủ, ai ai cũng vốn tròn
đầy. Tự đủ cái gì, tròn đầy cái gì? Là tánh giác, ai cũng đủ ai cũng đầy, vì sao Thế Tôn đầy đủ rồi cứ
hưởng đi, vào núi tu hành chi nữa. Đó là ý của câu hỏi.
Vua đáp:
Kiếm vì bất bình mở hộp báu,
Thuốc do trị bệnh ra khỏi bình.
Kiếm quí để trong hộp ngọc, vì bất bình thiên hạ có những cái gian giảo hung ác, nên mới mở hộp lấy
kiếm ra để trị những kẻ gian ác. Cũng như thuốc nằm sẵn trong bình vàng nhưng vì bệnh chúng
sanh nên mới trút ra để trị bệnh. Như vậy không phải do có giặc mới có kiếm, mà kiếm đã nằm sẵn trong
hộp ngọc, cũng như không phải do có bệnh mới có thuốc, mà thuốc đã nằm sẵn trong bình vàng. Vì
muốn lợi ích cho người buộc lòng mở hộp lấy kiếm ra, mở bình trút thuốc ra. Như vậy ai ai cũng sẵn đủ,
nhưng vì muốn lợi ích cho chúng sanh Thế Tôn phải đi tu. Đó là chỗ đặc biệt cần phải hiểu cho thật rõ.
Cũng như chúng ta thấy trong kinh nói ai ai cũng có tánh Phật, cũng có khả năng thành Phật, vậy quí
thầy đã có tánh Phật, đã thành Phật, tại sao đi tu làm gì, thì phải hiểu ý đó. Cho nên dùng câu “kiếm vì
bất bình mở hộp báu, thuốc do trị bệnh ra khỏi bình”. Như vậy kiếm ra khỏi hộp báu, thuốc ra khỏi bình
là vì trị bệnh, vì cứu dân, vì muốn lợi ích cụ thể nên phải hiện ra ngoài. Cũng như đức Thế Tôn có đủ
tánh giác, tròn đầy thể bất sanh bất diệt, nhưng vì muốn cho mọi người được lợi ích, được trở về tánh
giác mà phải vào núi tu hành.
Tăng hỏi:
Trong mắt thôi để bụi,
Trên thịt chớ khoét thương.
Trên phần người học có tu chứng không?
Con mắt đang mạnh để bụi vào thì xốn. Trên thịt lành khoét một vết thương thì đau. Con mắt không
bệnh đang khỏe để bụi vô làm chi. Thịt lành để cho khỏe khoét thêm làm chi. Như vậy là nó đã sẵn, đâu
cần làm thêm cái gì nữa. Vậy trên phần người học có tu chứng không? Nghĩa là đã sẵn tánh giác, đã
sẵn chân tâm cần tu chi nữa cho thêm chuyện, cũng như con mắt lành bỏ thêm bụi, thịt lành khoét thành
vết thương. Như vậy thì cần tu hay không?
Vua đáp:
Nước chảy xuống non đâu có ý,
Mây bay qua núi vốn không tâm.
Nước từ trên núi chảy xuống ầm ầm, mà có ý chảy không? Nước chảy chớ không có ý. Còn mây bay
qua núi từng đợt từng đợt có nghĩ rằng che núi không? Như vậy nước chảy mây bay là để nói phần tu
chứng, “Tu chứng chẳng phải không mà nhiễm ô không thể được.” Câu trả lời thật hay vì không
tâm không ý làm sao nhiễm ô. Câu đáp vừa trung thành với Phật Tổ, vừa là câu văn rất nên thơ. Hai hình
ảnh nước trên núi chảy, mây bay qua núi, cả hai đều có động tác mà không tâm không ý. Như vậy tu
chứng chẳng phải không mà không có ý để dính mắc sự tu chứng. Vì vậy ngài Hoài Nhượng khi đến
với Lục Tổ, Lục Tổ hỏi: Ông từ Tung Sơn đến đây có mang theo vật gì? Ngài không trả lời được, nên
xin vào chúng ở tám năm mới phát minh, bèn ra thưa: Bạch Hòa thượng “nói một vật tức chẳng trúng”.
Tổ liền hỏi: Có tu chứng chăng? Ngài thưa: “Tu chứng chẳng phải không, nhiễm ô không thể được.”
Câu này thật thiết yếu. Cũng như ở đây mây bay nước chảy, mà không ý nên nhiễm ô không thể được.
Như vậy bay, chảy là hai động tác hiện tiền nhưng ý không dính không mắc. Cũng như tất cả chúng
ta đều có tánh giác sẵn không cần phải tìm kiếm ở đâu, nếu khởi tìm kiếm thì giống như để bụi vào mắt,
như khoét thịt để thành vết thương. Tuy nhiên như thế trên phần tu chứng chẳng phải chẳng có. Tại sao?
Bởi vì tu chứng là phương tiện để hiển bày cái sẵn có của chính mình, chớ không có ý dính mắc ở
chỗ chứng đắc. Thế nên mới dùng hình ảnh nước chảy xuống non đâu có ý, mây bay qua núi vốn không
tâm. Đến đây vị Tăng Đức Thành im lặng, nên Vua nói:
Chớ bảo không tâm đây là đạo,
Không tâm còn cách một lớp rào.
Bởi vì ở trên Ngài dùng câu “mây bay qua núi vốn không tâm”, sợ e ông chấp chỗ không tâm nên Ngài
nhắc lại “chớ bảo không tâm đây là đạo, không tâm còn cách một lớp rào”. Câu này là dẫn lời của
ngài Trường Sa Cảnh Sầm. Ông tăng nghe như vậy thì bẻ lại: Đã nói không tâm, tức nơi tâm đã không
thì nói gì là một lớp rào? Ngài liền đáp:
Nước chảy xuống non đâu có ý,
Mây bay qua núi vốn không tâm.
Nói một lớp rào là chỉ cái chấp của người, còn chấp là còn mắc kẹt. Nếu không tâm không ý đâu còn gì
chấp, không chấp thì có gì mắc kẹt mà nói một lớp rào. Ngài lập lại câu trên, ông tăng nghe lập lại,
không thể đối đáp được. Còn Ngài vừa đáp được ý rất sâu, đồng thời văn thơ cũng thật hay. Cho
nên chúng ta thấy Thiền sư Việt Nam vừa thật thà, vừa thi vị, nói rõ được ý nghĩa mà vẫn có thi vị.
Giảng :
Vị tăng hỏi : “ Phật và Thánh khác nhau thế nào ?” Vị tăng này thắc mắc, muốn biết chỗ khác nhau giữa
Phật và Thánh. Kinh A Hàm gọi Phật là Thánh, chữ Thánh còn chỉ cho các thầy tỳ kheo tu chứng quả A
la hán. Trong bốn quả Thanh văn từ sơ quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm đến A na hàm gọi là hiền, quả A la
hán gọi là Thánh. Quả vị Bồ tát thì Thập tín, Thập trụ... thuộc về hiền, từ Sơ điạ đến Thập điạthuộc về
Thánh. Đó là nói trong đạo Phật. Ở đây có thể vị tăng này dùng chữ Thánh để chỉ cho Khổng Tử, Mạnh
Tử cuả đạo Nho. Hỏi Phật và các vị Thánh này khác nhau như thế nào ? Ngài đáp : “Trùng dương cúc ở
dưới rào, trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng”. Nghiã là ở trong rào cuả miếng vườn trồng hoa cúc,
đến tiết mống chín tháng chín (trùng dương) thì hoa cúc nở, trên đầu cành cây vào mùa xuân ấm chim
oanh hót. Qua câu trả lời cuả Ngài, quý vị có hiểu không ? Câu trả lời thật là lùng, nhưng nên thơ. Mùa
xuân chim oanh hót, mùa thu (9 tháng 9) hoa cúc nở là ý gì ? Chim oanh, hoa cúc là hai loại tùy thuộc
vào thời tiết.Thời tiết đến thì chim oanh hót hoa cúc nở. Chim oanh và hoa cúc là hai, nhưng thời tiết thì
không hai, hết xuân tới hạ, hết hạ tới thu, hết thu tới đông. thời tiết đổi thay có bốn mùa, bốn mùa tuy
khác, nhưng thời tiết vẫn là thời tiết. Ý nói Phật và Thánh là hai tên khác, nhưng thể cứu cánh thì không
hai. Qua hai câu thơ Ngài đáp, vị tăng chưa hội nên nói : “Cảm tạ thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin
lại nêu bày ra”. Ngài dạy tiếp : “Ngày thì vầngnhật chiếu, đêm đến ánh trăng soi”. Hai câu thơ này tả
cảnh ngày đêm khác nhau rất linh động, nhưng ý không khác hai câu thơ trước. Ngày thì có mặt trời
chiếu, đêm thì có ánh trăng soi. Dù ngày hay đêm, dù mặt trời hay mặt trăng, ánh sáng lúc nào cũng
chiếu soi khắp vạn vật. Nghiã là mặt trăng, mặt trời tuy hai, nhưng ánh sáng chiếu soi không khác. Vì
ánh sáng không hai cho nên nói “Ngày thì vầng nhật chiếu, đêm đến ánh trăng soi”. Hai câu này lập lài ý
trên qua một hình ảnh khác. Tăng lại hỏi : “Đã được chân chỉ cuả thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào ?”.
Vị tăng nói chân chỉ Ngài dạy vị ấy đã nhận được rồi, nhưng huyền cơ thì chưa nhận được mới hỏi Ngài
là thế nào ? Huyền cơ là cơ nhiệm mầu, chúng ta có thể hiểu chân chỉ là thể, huyền cơ là dụng. Và có thể
hiểu theo lối quen thuộc là khi được bậc thầy chỉ dạy, nhận ra Phật Tánh rồi làm sao gìn giữ ? Tức là
làm sao giữ được cơ mầu nhiệm ? Ngài trả lời :“Bưng thau nước đầy không chú y, một lúc sẩy chân hối
ích gì ?” Nghe câu này chúng ta thấy như nói trên trời trên mây, không dính dáng gì tới câu hỏi hết.
Nhưng nếu thông thì thấy Ngài dạy quá hay. Các vị làm bếp bưng nước rửa rau thì hiểu. Nếu bưng thau
nước đầy là phải chú ý giữ thau nước, nếu không cẩn thận trợt chân sẩy tay đổ hết. Ý câu này rất phù
hợp với lời Phật dạy trong kinh A hàm qua ví dụ : Có anh tử tội được vua tha, nhưng vua bắt phải bưng
dĩa dầu đầy đi từ đầu đường đến cuối đường, không để rơi một giọt dầu thì mới khỏi tội chết. Nếu bất
cẩn để dầu đổ thì tên đao phủ đi sau chém đầu. Được lịnh này anh tử tội chăm chú bưng dĩa dầu đi,
ngang qua nhiều chổ ăn chơi hấp dẫn như gái đẹp, quán rượu, quán nhạc...Anh chăm chăm bưng dĩa đi
không dám nhìn qua ngó lại, đi đến cuối đường, dầu không đổ, anh thoát chết. Cũng vậy, sau khi nhận
được chân chỉ thầy dạy rồi là phải khéo bảo nhậm, đừng tưởng mình ngộ rồi là song, mà vẫn phải cẩn
trọng gìn giữ. Thiền sư Trần Tôn Túc cũng đã dạy : “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã
sáng như đưa ma mẹ” là nhằm ý này. Đức Phật dùng hình ảnh bưng dĩa dầu, thiền sư Trần Tôn Túc
dùng hình ảnh đưa ma mẹ, Ngài thì dùng hình ảnh bưng thau nước. Ở đây nhiều thiền khách hỏi, Ngài
trả lời bằng những câu thơ rất thú vị. Ngày nay nếu có người nêu câu hỏi, chúng ta hiểu ý để trả lời cho
đúng đã khó rồi, đâu được như Ngài mở miệng là thành thơ lại ý nghiã rất chính xác. Ngài trả lời quá kỳ
đặc, vừa hợp với lý Kinh, vừa đúng với tinh thần thiền, vừa thi vị, không sai sót chút nào. “Tăng thưa :
Đa tạ !” Vị tăng thấy Ngày trả lời như vậy là đủ rồi, nên nói đa tạ, cám ơn thầy. Ngài bảo : “ Chớ rửa
sông to sóng, chính mình đến chết chìm”. Nếu sông có sóng to chớ lội xuống tắm rửa hay giặt giũ, sẽ bị
sóng cuốn là chết chìm. Ý Ngài dạy tuy đã thấy được chân chỉ, biết cách gìn giữ, song chớ xông pha,
nếu xông pha e có ngày không cứu được. Đa số các thầy trẻ bây giờ có chút hiểu biết, thường có bệnh
muốn thử xem mình đã là Thánh chưa, nên mới thõng tay vào chợ, nhưng đạo lực chưa vững, tập khí
chưa sạch. Thử như thế e có ngày bị dòng đời cuốn trôi hỏng cả đời tu. Vì vậy Ngài căn dặn phải dè dặt,
nếu dưới sông có sóng to, đừng xuống rửa chân hay giặt giũ, sẽ bị nước cuốn trôi, cứu không được. Ngài
khéo vô cùng, dạy hết sức cặn kẽ, chỉ cái Thể, dạy cho cách bảo trì, nhắc phải thận trọng, chớ có tự cao
tự đại, e nguy hiểm tới tuệ mạng.