You are on page 1of 64

Chương 1

TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC

1. Triết học là gì?


1.1.Triết học và đối tượng của triết học
Triết học xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở phương Đông và
phương Tây. Do điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội có những đặc điểm khác nhau làm cho triết
học phương Đông và phương tây có những điểm khác biệt nhau. Sự khác nhau đó là triết học
phương Đông mang tính hướng nội, triết học phương Tây mang tính hướng ngoại.
Triết học ra đời có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Về nhận thức con người phải
đạt đến trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa một cách có hệ thống. Về xã hội, xã hội có sự
phân công lao động xã hội và có sự phân hóa giai cấp.
Triết học theo Ân Độ là darshana, nghĩa là chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt
con người theo lẽ phải; theo từ chữ Hán cổ là chữ tri và trí nghĩa là biết, hiểu biết. Đó là biết thiên
đạo và nhân đạo. Triết học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ là chữ Philosophia = philos + sophia =
yêu mến + sự thông thái = yêu mến sự thông thái. Tóm lại, triết học là hệ thống tri thức lý luận
chung nhất của con người về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học thời cổ đại được xem là hình thái cao nhất của tri thức; nhà triết học là nhà thông thái
có khả năng tiếp cận chân lý, là người có khả năng làm sáng tỏ bản chất của mọi sự vật. Với quan
niệm đó, triết học thời cổ đại không có đối tượng riêng mà được coi là “khoa học của các khoa
học”. Triết học thể hiện trong mình tư duy khám phá, tìm kiếm chân lý.
Triết học thời Trung cổ không còn là khoa học của các khoa học mà nó trở thành công cụ đắc
lực trong việc lý giải thần học – triết học kinh viện.
Từ thế kỷ XV – XVI, sự phát triển mạnh mẽ của tri thức khoa học chuyên ngành tạo cơ sở
vững chắc cho sự phục hưng triết học. Triết học từng bước khẳng định lại vị trí của mình với tư cách
là khoa học của các khoa học.
Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành từng bước làm phá sản tham
vọng của triết học muốn làm “khoa học của các khoa học”. Triết học của Heghel là triết học cuối
cùng có tham vọng đó. Heghel xem triết học của mình là một hệ thống phổ biến của sự nhận thức.
Từ điều kiện kinh tế xã hội; từ những thành tựu của khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX và
những giá trị tư tưởng trước đó, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật Feaurbach và phép biện chứng duy
tâm của Heghel dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác ra đời đoạn tuyệt với quan
niệm triết học là “khoa học của các khoa học”. Triết học lúc này là thế giới quan và phương pháp
luận nhận thức thế giới.
Đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận động, phát
triển của giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp riêng của mình, nó khác với các khoa học cụ
thể. Trước hết, triết học xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm phương cách đưa các quan
niệm về chỉnh thể đó dưới dạng một hệ thống lý luận.
Triết học diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Chính tính đặc thù đó mà vấn đề tư cách khoa học
của triết học và đối tượng của nó đã gây ra những cuộc tranh luận kéo dài cho đến ngày nay.
1.2. Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con
người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan bao hàm nhân sinh
quan và phương pháp luận.
Trong thế giới quan có sự hòa quyện giữa tri thức, niềm tin, tình cảm, lý trí, cái có thật, cái
tưởng tượng, biết và chưa biết. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan. Song tri
thức chỉ ra nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin của con người. Dựa vào tri thức, thế giới
quan có ba hình thức cơ bản:
Thế giới quan huyền thoại là phương thức cảm nhận thế giới thông qua các hiện tượng tự
nhiên và xã hội được “thần thánh hóa”. Trong thế giới quan huyền thoại thì yếu tố biểu tượng cảm
tính đóng vai trò chủ đạo.
Thế giới quan tôn giáo là phương thức cảm nhận thế giới với tư cách là một thế giới khác
(hoang đường, tưởng tượng ra), là sự phản ánh hư ảo trong đầu óc con người những lực lượng bên
2

ngoài thống trị họ trong cuộc sống hàng ngày, sự phản ánh trong đó các lực lượng trần thế mang
hình thức các lực lượng siêu phàm. Trong đó thế giới quan tôn giáo, niềm tin đóng vai trò chủ đạo
hình thành thế giới quan tôn giáo.
Thế giới quan triết học là phương thức diễn tả thế giới thông qua một hệ thống các phạm trù,
khái niệm, nguyên lý, quy luật và dựa vào những luận cứ của khoa học. Trong thế giới quan triết
học, tư duy lý luận, lý trí đóng vai trò chủ đạo trong việc xác lập thế giới quan.
Như vậy, triết học là tri thức cao nhất của hệ thống quan điểm chung nhất về thế giới và vị trí
con người trong thế giới đó. Triết học hạt nhân lý luận của thế giới quan, là học thuyết về thế giới
quan.
2. Vấn đề cơ bản của Triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
2.1. Vấn đề cơ bản của triết học
Mỗi một ngành, một môn khoa học có nhiều vấn đề cần giải quyết tạo thành một hệ thống vấn
đề, gọi là “hệ vấn đề”. Vị trí của các vấn đề là khác nhau; nhưng trong đó có một hoặc một số vấn đề
quan trọng làm nền tảng định hướng để giải quyết các vấn đề còn lại thì gọi là vấn đề cơ bản.
Vấn đề của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, gữa vật chất và ý thức. Đây là vấn
đề cơ bản của triết học vì:
Một, mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại; giữa vật chất và ý thức được gọi là vấn đề lớn, hay là
vấn đề “tối cao” của triết học.
Hai, nếu giải quyết được vấn đề này là cơ sở và là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác
của triết học.
Ba, việc giải quyết vấn đề này là tiêu chuẩn để xác định lập trường thế giới quan của các triết
gia và học thuyết của họ.
Bốn, một vấn đề mang nội dung của triết khi nó được nghiên cứu và giải đáp từ phương diện
mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại; giữa vật chất và ý thức.
Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau; cái nào quyết định cái
nào?
2. Trả lời câu hỏi là con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
2.2. Chủ Nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất quyết định ý thức là chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa
duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở chỗ coi vật chất là
cái có trước và quyết định ý thức; đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới.
Trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật có ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác; chủ
nghĩa duy vật máy móc siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật xuất hiện gắn liền với thực tiễn xã hội và gắn liền với sự phát triển của khoa
học.
Ý thức có trước, vật chất có sau; ý thức quyết định vật chất là chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa
duy tâm có những hình thức khác nhau nhưng học đều cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý
thức quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ
quan.
Chủ nghĩa duy tâm xuất hiện với tính cách là một sự kế tục của những quan niệm thần thoại,
tôn giáo và “hoang đường”. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ sự tách rời giữa
lao động trí óc đối với lao động chân tay trong xã hội cũ đã tạo ra một quan niệm về vai trò quyết
định của nhân tố tư tưởng, tinh thần. Giai cấp thống trị ủng hộ quan điểm này làm nền tảng lý luận
để duy trì địa vị, quyền lực và lợi ích của giai cấp mình.
Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm. Cuộc đấu tranh đó tạo ra động lực bên trong cho sự phát triển của tư duy triết học đến nay sự
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm vẫn còn.
2.3. Vấn đề nhận thức của con người về thế giới
Thuyết khả tri là học thuyết khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới
Thuyết bất khả tri là học thuyết khẳng định con người không có khả năng nhận thức được thế
giới
Thuyết hoài nghi là hoài nghi tất cả
3

3. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG


3.1. Sự đối lập giữa phương pháp luận biện chứng và phương pháp luận siêu hình
Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức sự vật ở trạng thái cô lập, tách biệt, không có
mối liên hệ, không có sự tác động qua lại; không xem xét sự vật trong sự vận động và phát triển.
Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức đối tượng trong mối liên hệ, tác động qua
lại, ràng buộc và quy định chuyển hóa lẫn nhau; xem xét sự vật trong sự vận động và phát triển của
sự vật.
Chú ý: thời cổ đại biện chứng là tranh luận tìm ra chân lý; siêu hình là chỉ lực lượng siêu tự
nhiên.
3.2. Các giai đoạn của phép biện chứng
Phương pháp luận biện chứng và siêu hình ra đời ngay từ thời cổ đại. Từ đó đến nay, sự phát
triển của hai phương pháp luận đó gắn liền với lịch sử khoa học và thực tiễn.
Gia đoạn đầu tiên của tư duy biện chứng là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Quan điểm
này tuy tự phát, ngây thơ nhưng căn bản là đúng và là kết quả trực kiến thiên tài, song chưa phải là
kết quả của những sự nghiên cứu và thực nghiệm khoa học
Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên xuất hiện đã đi sâu vào phân tích, chia nhỏ giới tự
nhiên ra thành những mảnh riêng biệt để nghiên cứu. Phương pháp đó đưa đến những thành tựu mới
trong nhận thức và nó trở thành thói quen trong việc xem xét sự vật. Phương pháp siêu hình trở trở
thành phương pháp thống trị trong tư duy triết học ở thế kỷ XVIII.
Sự phát triển tiếp theo của khoa học tự nhiên, việc nghiên cứu chuyển từ giai đoạn sưu tập tài
liệu sang chỉnh lý tài liệu đến giai đoạn nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của sự vật thì
phương pháp siêu hình gặp phải những hạn chế của nhận thức khoa học. Chính vì thế, kết quả nghiên
cứu mới đòi hỏi phải có cách nhìn biện chứng về tự nhiên.
Phép biện chứng được bắt đầu từ Kant và hoàn thiện ở Heghel; song đó là phép biện chứng duy
tâm. Tính chất duy tâm ở chỗ coi biên chứng là sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”. Trong quá trình
phát triển đó, ý niệm tuyết đối “tự tha hóa”, chuyển hóa thành giới tự nhiên và sau đó trở về với bản
thân mình trong tinh thần.
Thực tế, phép biện chứng duy tâm không thấy được những ý niệm trong đầu óc con người chỉ
là sự phản ánh hiện thực khách quan. Vì thế tính duy tâm của nó cần lọc bỏ. Từ đó, C.Mác và
Ph.Angghen dã cải tạo phép biện chứng ấy để sáng lập ra phép biện chứng duy vật – giai đoạn cao
nhất của phép biện chứng.
4. Vai trò của triết học
4.1. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận nhận thức
Vai trò quan trọng nhất của triết học là trang bị cho con người thế giới quan. Thế giới quan
được nảy sinh từ đời sống của con người và ý nghĩa cuộc sống. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề
hình thành nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự
trưởng thành của cá nhân, cộng đồng xã hội.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở, nền tảng của hai thế giới quan đối lập nhau.
Nó trở thành nền tảng thế giới quan của hệ tư tưởng đối lập nhau, biểu hiện bằng cách này hay cách
khác trong xã hội là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, tầng lớp, các lực lượng xã hội.
Vai trò của triết học còn thể hiện ở chức năng phương pháp luận. Mỗi quan điểm lý luận của
triết học là một nguyên tắc trong việc xác định lý luận về phương pháp. Sự phát triển của thực tiễn
và của khoa học dẫn đến sự cần thiết của phương pháp luận.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là một hệ thống những quan điểm, những nguyên
tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn trên
cơ sở bản thân của một học thuyết.
4.2. Vai trò của triết học Mác lênin
Trong triết học Mác – Lênin, thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng gắn kết
với nhau. Chủ nghĩa duy vật là duy vật biện chứng và phép biện chứng là là phép biện chứng duy
vật. Do đó, nó có khả năng nhận thức đúng đắn về tự nhiên, xã hội và tư duy.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà
còn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức mới. Trong tình hình đó lý luận triết học sẽ trở
nên khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên sự khái quát của khoa học chuyên
4

ngành. Ngược lại, nếu khoa học không đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng thì trước
những phát hiện mới mẻ, người ta sẽ có thể bị mất phương hướng đi vào chỗ dị đoan.
Thực hiện nhiệm vụ to lớn là xây dựng một quốc gia dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh đòi hỏi phải có những con người với thế giới quan khoa học vững chắc và phát
huy những năng lực sáng tạo. Việc nắm vững triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá
trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực sáng tạo của mình.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống chủ nghĩa
chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là mục đích trực tiếp của việc
nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác – Lênin nói riêng.

Chương 2
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC

A. TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG


I. Triết học Ấn Độ
1. Điều kiện xã hội xuất hiện triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học Ấn Độ xuất hiện trên cơ sở điều kiện tự nhiên hết sức khắc nghiệt và trên cơ sở kế
thừa những thành tựu kiến thức về thiên văn, giải thích các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, tìm ra
số pi, lượng giác, khai căn bậc hai, ba và chữa bệnh bằng châm cứu, thảo mộc… Điều kiện xã hội
xuất hiện triết học Ấn Độ cổ đại được chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1 từ thế kỷ XXV - XV tr.CN gọi là nền văn minh sông Ấn (Indus), khởi đầu của nền
văn minh Ấn Độ. Thời kỳ này có những quan niệm về vũ trụ và xã hội nhưng chưa có hệ thống. Họ
cho rằng vạn vật trong vũ trụ vận hành theo trạng thái luân hồi (4.320 triệu năm), nghiệp báo, linh
hồn, kiếp, tín ngưỡng tôn giáo mang tính đa thần…
Giai đoạn 2 từ thế kỷ XV - VII tr. CN, gọi là nền văn minh Veda. Thời kỳ này đạo Rig Veda với
tính cách đa thần chuyển thành tôn giáo nhất thần ở đạo Balamon dựa trên triết lý của Upanishad.
Giai đoạn này còn gọi là thời kỳ Veda và Sử thi. Trong giai đoạn này Ấn độ có sự xâm nhập của
Arya gốc du mục vào bản địa của người Dravidia. Quá trình xâm nhập ấy diễn ra giao thoa trong đời
sống xã hội. Người Arya thống trị người Dravidia bằng vũ lực, người Dravidia chinh phục người
Arya bằng tinh thần tạo nên một nền văn hóa hết sức rực rỡ. Trên cơ sở đó, xã hội bắt đầu có sự
phân chi đẳng cấp. Chế độ đẳng cấp được xã hội thừa nhận qua bộ luận Manu và chế độ Varna. Xã
hội có bốn đẳng cấp là: tăng lữ (Brahmana); vương công (Kshatriya) người lao động và thương gia
(Vaishya); người nô lệ (Shudra).
Giai đoạn 3 từ thế kỷ VI - I tr. CN là thời kỳ hình thành các trường phái triết học hết sức rực
rỡ. Đây là giai đoạn có những biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng. Từ đó danh
giới giữa các đẳng cấp được đẩy lên một cấp độ mới hết sức khắt khe và ác nghiệt. Sự khắt khe của
việc phân biệt chủng tính, đẳng cấp, màu da, dân tộc, tôn giáo đã thúc duc họ một khát vọng giải
thoát hiện thực. Từ đó triết học xuất hiện với hai trường phái lớn là chính thống và không chính
thống.
Đặc điểm triết học Ấn Độ cổ đại
Một là triết học và tôn giáo khó phân biệt. Triết học mang tính hướng nội, hướng tới sự giải
thoát khỏi hiện thực.
Hai là triết học có sự kế thừa ít có sự bác bỏ mà có sự đan xen với nhau.
Ba là bàn đến có và không
2. Những trường phái triết học cơ bản
2.1. Trường phái Samkhya
Samkhya là số, đếm. Trường phái này lúc đầu theo chủ nghĩa duy vật, phủ nhận sự tồn tại của
Brahman và thần. Họ cho rằng thế giới là vật chất thì nguyên nhân của nó cũng phải là vật chất. Vật
chất đầu tiên ở dạng tinh tế, tiềm ẩn, không thể cảm giác trực tiếp. Về sau có khuynh hướng nhị
nguyên, thừa nhận sự tồn tại của vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Tinh thần mang tính phổ
quát vĩnh hằng, bất biến và chi phối vật chất.
2.2. Trường phái Mimansa
5

Thời kỳ đầu không thừa nhận sự tồ tại của thần. Về nguyên tắc sự tồn tại của thần là không có
chứng cứ. Cảm giác không nhận ra thần nhưng sự hiểu biết dựa trên cảm giác. Về sau lại thừa nhận
sự ồn tại của thần.
2.3. Trường phái Vedanta
Quan điểm này cho rằng tồn tại tuyệt đối (Brahman) đồng với cái tôi cá thể (Atman). Brahman
là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng, còn Atman là linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao. Muốn
giải thoát, Atman phải trở về với Brahman.
2.4. Trường phái Yoga
Tư tưởng này thừa nhận nguyên lý hợp nhất vũ trụ nơi mỗi cá thể, thừa nhận sự tồn tại của
thần. Con người có phương pháp tu luyện có thể làm chủ và tự điều khiển bản thân mình, tiến đến
làm chủ và điều khiển môi trường, cao hơn nữa là đạt đến sự giải thoát, tự do tuyệt đối.
2.5. Trường phái Nyaya
Trong triết học, vấn đề logic học, nhận thức luận và nguyên tử luận là vấn đề cơ bản của
Nyaya. Muốn giải thoát con người phải diệt được mọi dục vọng, làm cho tinh hần của con người trở
nên thanh thoát và tự tại. Muốn vậy phải có tư duy mạch lạc, sự nhận thức phải đúng đắn. Còn
nguyên nhân về nỗi khổ là do tinh thần bất tử bị trói buộc bởi những ý muốn, dục vọng, thúc đẩy con
người chiếm đoạt để thỏa mãn những dục vọng gây ra nghiệp báo, làm cho linh hồn luân hồi trong
thân xác con người. Muốn giải thoát, con người phải giữ giới luật và tọa thiền, xóa bỏ vô tri, mê
muội, tạo ra nghiệp thiện, diệt dục vọng bằng phương pháp nhận thức đúng đắn đạt tới chân lý.
2.6. Trường phái Vaisesika
Vaisesika đứng trên lập trường triết học tự nhiên để giải thích vạn vật và vũ trụ. Tư tưởng giải
thoát dựa trên cơ sở phân định tiềm năng tri thức của con người, thấu hiểu các nguyên lý hình thành
vũ trụ và bản chất linh hồn của con người để đạt tới sự giải thoát. Theo Vaisesika có hai loại linh
hồn, linh hồn tối cao là thượng đế, là nguyên nhân sáng tạo ra vũ trụ. Linh hồn cá biệt là sự thể hiện
linh hồn tối cao trong mỗi chúng sinh. Muốn giải thoát phải nhận thức được bản chất của linh hồn và
chế dục bằng phương pháp Yoga.
2.7. Trường phái Jaina
Theo Jaina vũ trụ là vĩnh hằng bất diệt. Họ không thừa nhận có thượng đế, thiên thần cũng chỉ
là những sinh vật cao cấp, cũng chịu nghiệp báo luân hồi. Để giải thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp
báo con người phải tu luyện đạo đức bằng phương pháp tu khổ hạnh.
2.8. Trường phái Lokayata
Trường phái này chủ trương sống với tất cả hiện thực xã hội, không thừa nhận thượng đế, tinh
thần tối cao. Tư tưởng này phải đối nghiệp báo, luân hồi và sự giải thoát. Vì thế họ được xem là tà
đạo. Thiên đường là lạc thú trần gia và địa ngục là đau khổ ở trần gian.
2.9. Trường phái Phật giáo
Người sáng lập là Thích Ca Mô Ni (563 - 483), tên thật là Siddharta người sau gọi là Buddha.
Năm 16 tuổi lập gia đình, 29 tuổi ngài đi tu, năm 36 ngộ đạo và tìm ra con đường giải thoát. Tư
tưởng của Phật được tryền miệng về sau được viết thành văn, gọi là tam tạng: tạng kinh, tạng luận và
tạng luật.
Vũ trụ là vô thủy vô chung, thế giới là dòng biến hóa vô thường, vô định trong quá trình sinh,
trụ, diệt. Tất cả đều do nhân duyên mà thành không do ai sáng tạo ra. Mọi sự biến đổi “chư hành vô
thường, vạn pháp vô ngã” nên chợt còn, chợt mất, thoáng hiện, thoáng mất. Tư tưởng đó được làm
rõ qua phạm trù “vô thường, vô ngã, niết bàn, giả tướng”. Để giải thoát chúng sinh, đức phận đưa ra
bốn chân lý huyền diệu gọi là tứ diệu đế: khổ đế, tập đế (nhân đế), điệt đế và đạo đế.
Khổ đế: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, sở cầu bất đắc khổ và ngũ uẩn khổ
(sắc = vật chất, thụ = tiếp thu, thu nhận, tưởng = ấn tượng, hành = việc làm tạo nghiệp, và thức = ý
thức).
Tập đế: vô minh, hành (việc làm tạo nghiệp), thức (ý thức), danh sắc (tên và hình), lục nhập
(lục căn = tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và tâm), xúc (giao hợp của lục căn, trần và thức), thụ (tiếp thu, thu
nhận)), ái (yêu), thủ (giữ lấy, bám lấy những ham muốn), hữu (có tồn tại, hiện hữu), sinh, lão tử. Do
vô minh sinh ra tham (tham lam), sân (giận dữ), si (si mê) và thất tình (hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, cụ).
Diệt đế: giải thoát, đạt đến niết bàn, xóa bỏ vô minh.
6

Đạo đế: con đường diệt nỗi khổ, thực hiện bát chính đạo như: chính kiến, chính tư duy, chính
ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tịnh tiến, chính niệm, chính định. Và giữ ngũ giới: bất tà đạo,
bất tà dâm, bất ẩm tửu, bất vọng ngữ, bất sát.
II. Triết học Trung Quốc
1. Điều kiện xã hội với sự hình thành triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Hoa cổ đại kéo dài từ thiên niên kỷ thứ III tr. CN đến thế kỷ thứ III tr. CN. Trong thời
gian ấy, lịch sử Trung Hoa được chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn 1: từ thiên niên kỷ thứ III tr. CN đến thế kỷ IX tr. CN. Thời kỳ này có các triều đại
lớn là Hạ, Thương - Ân và Tây Chu. Trước đó là thời Tam hoàng, Ngũ đế. Theo Tư Mã Thiên, Tam
hoàng gồm Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng. Theo sách Thượng Thư, Tam Hoàng gồm
Toại Nhân dạy cho biết cách dùng lửa, Phục Hy dạy chăn nuôi, Thần Nông dạy cày cấy. Còn ngũ đế
gồm Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn. Hoàng đế, Chuyên Húc, Đế Cốc
ít được bàn đến trong truyền thuyết Trung Quốc cổ đại. Nghiêu, Thuấn là bậc đế vương tài đức của
Trung Quốc cổ đại. Nghiêu nhường ngôi cho Vũ con của Cổn. Thời Thuấn, Nghiêu, Vũ là thời kỳ
suy tàn chế độ thị tộc ở Trung Quốc.
Vũ truyền ngôi cho con là Khải. Khải truyền ngôi cho con là Thái Khương. Khải là người lập
ra nhà Hạ. Từ đó chức thủ lĩnh liên minh bộ lạc không còn do dân cử mà mang tính chất cha truyền
con nối. Nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI tr.CN và đến thế kỷ XVII tr. CN, Thành Thang lật đổ
vua Kiệt nhà Hạ lập ra nhà Thương. Thế kỷ XIV tr. CN vua Bàn Canh nhà Thương dời đô về đất Ân
gọi là nhà Ân. Đến thế kỷ thứ XI tr. CN, Chu Vũ Vương con của Chu Văn Vương giết vua Trụ lập ra
nhà Chu. Cuối thời Tây Chu do mâu thuẫn nội bộ và thường xuyên tiến hành chiến tranh đàn áp sự
nổi dậy của chư hầu làm cho nhà Chu bước tới đà suy vong. Mâu thuẫn đó được bắt đầu bởi sự kiện
Chu U Vương ham mê tửu sắc, phong ao Tự làm hoàng hậu, phế hoàng hậu họ Thân và thái từ Nghi
Câu. Cha thân hậu liên kết với giặc Tây Nhung giết Chu U Vương lập thái tử Nghi Câu làm vua, lấy
hiệu là Chu Bình Vương. Chu Bình Vương dời đô về phía Đông, Trung quốc bước sang thời kỳ
Đông Chu. Trong giai đoạn này đã xuất hiện những mầm mống triết học. Thời nhà Hạ do lực lượng
sản xuất còn thấp và hạn chề về nhận thức, họ đã quy sức mạnh của tự nhiên bằng những quan niệm,
biểu tượng có tính chất hoang đường và thần bí. Từ nhà Hạ xã hội Trung Quốc xuất hiện giai cấp và
nhà nước. Thần bí và tôn giáo lúc này mang đậm tính chất chính trị xã hội và luân lý đạo đức. Giai
cấp quý tộc biện hộ cho việc là của mình là sự thể hiện mệnh lệnh và ý chí của trời. Tuy nhiên, họ
thấy được vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân. Họ nhận thức được rằng giai cấp cầm quyền
dù có mạnh đến đâu nhưng không không có nhân đức và không được dân ủng họ thì sẽ bị lật đổ.
Hệ thống chính trị xã hội thời ân Thương đến thời Tây Chu được hoàn thiện hơn. Thời Tây
Chu, vua tự xưng là Thiên tử, là lãnh chúa tối cao chiếm toàn bộ đất đai và thống trị thần dân trong
nước. Vua nhà Chu đặt ra các chức quan như: tư đồ, tư khôn, tư khấu, tư mã chuyên phụ tách tài
chín, quân đội, hình pháp, xây dựng. Nhà Chu thực hiện chế độ tông pháp, thế tập theo kiều “phon
hầu kiến địa” để thắt chặt mối quan hệ về kinh tế chính tị, huyết thống. Tiến hành cải cách quan hệ
sản xuất bằng chế độ “tỉnh điền”. Thế giới quan thần thoại, tôn giáo, duy tâm chủ nghĩa trở thành hệ
tư tưởng thống trị xã hội. Tất cả các sự vật, hiện tượng đều do thượng đế, thiên mệnh và ý chí của
quỷ thần chi phối. Quyền lực, địa vị, tài sản do thượng đế ban, mọi người phải tuyệt đối phải phụ
ctùng giai cấp giai cấp quý tộc là tuân theo mệnh trời. Tuy nhiên cuối thời Tây Chu, tri thức về khoa
học có bước phát triển mới, thế giới quan thần bí và tôn giáo cũng bắt đầu lung lay. Từ chỗ lên án sự
xấu xa tàn bạo, vạch trần thủ đoạ lừa mị đối với nhân dân của bọn quý tộc. Phê phá, hoài nghi Thiên
tử thay trời hành đạo họ đã chuyển qua nghi ngờ và phê phán thượng đế. Đây là bước cuyển vượt
bậc cho tư tương duy vật, vô thần ra đời. Quan điểm duy vật, vô thần, cho rằng quần chúng nhân dân
còn quan rọng hơn cả quỷ thần. Giai cấp quý tộc dù có quyền lực và sùng bái quỷ thần nhưng khôn
được nhân dân ủng hộ tất sẽ bị lật đổ.
Giai đoạn 2: thời kỳ Đông Chu từ thế kỷ VIII đến thế kỷ III tr. CN là thời kỳ có sự chuyển
biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Từ khi dời đô về phía Đông, quan hệ giữa
thiên tử và chư hầu ngày càng lỏng, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa của nhà vua không
còn uy quyền. Nhiều nước mượn tiếng khôi phục địa vị tông chủ của nhà Chu với khẩu hiệu “tôn
vương bài di” đua nhau để động binh, thôn tính nước nhỏ, xưng bá thiên hạ. Thời Xuân Thu có 242
năm có 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Thời Xuân thu có khoảng 100 nước, trong đó có “ngũ bá” là
Tề, Tấn, Tần, Tống, Sở. Cuối Xuân thu có Việt Vương Câu Tiễn và Ngô Vương Phù Sai. Thời Xuân
7

thu, các lãnh chúa tăng cường bóc lột nhân dân, bắt họ phải nộp sưu thuế, lao dịch. Việc gây chiến
tranh không chỉ dẫn tới sự diệt von một số nước mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu. Sự rối loạn xã
hội ngày càng tăng. Tình trạng lễ nghĩa, cương thường đạo lý đạo lộn, bề tôi chiếm quyền thiên tử.
Trong xã hội cảnh tôi giết vua, con giết cha, anh em, vợ chồng chia lìa thường xuyên xảy ra.
Vào năm 403 tr. CN, nước Tấn có ba dòng họ lớn là Hàn, Triệu, Ngụy phế bỏ vua Tấn lập ra
ba nước là Hàn, Triệu, Ngụy. Trung Quốc bước vào thời kỳ Chiến Quốc (475) gồm bảy nước lớn:
Tề, Sở, Yên, Tần, Hàn, Triệu, Ngụy tạo thành cục diện “thất hùng” gây chiến tranh làm bá chủ thiên
hạ. Cục diện thời Chiến quốc làm thay đổi thủ đoạn ngoại giao và đối phó với nhau theo thuật “liên
hoành” và “hợp tung”. Tô Tần đề xuất thuật “hợp tung” liên kết nhiều nước yếu đánh nước mạnh.
Trương Nghi đề xuất thuật “liên hoành” tôn trọng nước mạnh đánh nước yếu. Nước tần ở phía Tây
Hàm Cốc Quan, sáu nước còn lại ở phía Đông gọi là Sơn Đông lục quốc. Trong tất cả các nước, có
Tần là mạnh nhất. Tần Hiếu Công thực hiện cuộc cải cách do Thương Ưởng khởi xướng (359 - 350
tr. CN) làm cho nước Tần trở thành nước mạnh nhất trong “thất hùng”. Nước Tần lần lượt thôn tính
sáu nước ở phương Đông, thống nhất Trung Quốc vào năm 221 tr. CN. Nhà Tần thống nhất Trung
Quốc gắn liền với tư tưởng triết học có ảnh hưởng lớn thời bấy giờ là Pháp gia.
Thời Xuân thu - Chiến quốc lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đã đặt ra những vấn đề triết
học, chính trị, xã hội, luân lý, đạo đức, khiến các bậc hiền tài đương thời qua tâm lý giải, để tìm các
phương pháp giải quyết “cứu người, cứu đời”, làm nảy sinh một loạt các nhà tư tưởng nổi tiếng và
các trường phái triết học lớn. Các nhà tư tưởng là những người đại diện cho lợi ích của các ầtng lớp,
giai cấp xã hội khác nhau, vừa kế thừa, vừa ông kích lẫn nhau tạo nên không khí sôi động trong đời
sống tinh thần xã hội trung hoa cổ đại. Khiến người ta phải gọi là thời kỳ “Bách gia chư tử” như
“trăm hoa đua nở, muôn chim cùng hót”. Theo Tư Mã Đàm và Tư Mã Thiên, có sáu trường phái lớn:
Am dương gia, Nho gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia và Đạo đức gia. Theo Lưu Hướng và Lưu
Hâm, có 189 hiền triết và xếp làm 10 phái: Nho gia, Mặc gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp gia,
Tung hoành gia, Nông gia, Tạp gia và Tiểu thuyết gia.
2. Các trường phái triết học Trung Quốc cổ đại
2.1. Thuyết âm dương, ngũ hành
Thuyết Âm-Dương
Triết lý Âm-Dương là triết lý suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật.
Nguyên lý đầu tiên và phổ biến của vạn vật ấy là sự tương tác của hai thế lực đối lập giữa Âm và
Dương. Phạm trù Âm là sự phản ánh khái quát những thuộc tính phổ biến của vạn vật như: nhu,
thuận, tối, ẫm, phái dưới, phải, chẵn… Phạm trù Dương là sự phản ánh khái quát những thuộc tính
phổ biến của vạn vật như: cương, nghịch, sáng, khô, phải, trên, trái, lẻ…
Âm và Dương tác động biện chứng thông qua 3 nguyên lý căn bản sau:
1. Âm - Dương thống nhất trong thái cực. Nguyên lý náy nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân
bằng của cái đa và duy nhất; bao hàm sự thống nhất giữa các bất biến và các biến đổi.
2. Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm
- Dương đã bao hàm trong mỗi mặt của Thái cực.
3. Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại. Nguyên lý này khẳng định: “Dương cực
thì âm sinh” và “Âm thịnh thì Dương khởi”
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú của vạn vật,triết
lý Âm - Dương đưa ra logic sau: Thái cực sinh lưỡng nghi (âm dương); lưỡng nghi sinh Tứ tượng
(Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm) và sự tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh sau vạn
vật (vô cùng, vô tận). Tất cả đều theo mệnh và làm tròn đạo biến hóa, phân hóa thì muôn phần khác
nhau, thống nhất thì đó đây là một.
(1)Thái cực; (2)Lưỡng nghi: Âm (1 đứt); Dương (1 liền); (3)Tứ tượng: Thái Dương (2 liền);
Thiếu Dương (1 liền, 1 đứt); Thiếu Âm (1 đứt, 1 liền); Thái Âm ( 2 đứt); (4)Bát quái (tám quẻ): Kiến
(trời, 3 liền); Khôn (đất, 3 đứt); Chấn (sấm, 2 đứt 1 liền); Tốn (gió, 2 liền 1 đứt); Khảm (nước đứt
liền đứt); Ly (lửa, liền đứt liền); Cấn (núi, 1 liền 2 đứt); Đoài (đầm, 1 đứt 2 liền).
Thuyết ngũ hành:
Ngũ hành là năm yếu tố: Hành là làm, hoạt động; Ngũ hành là năm hoạt động, năm tác nhân
gây biến đổi vạn vật. Ngũ hành có người gọi là ngũ đức; năm thế lực là Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ,
Kim…
8

Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống theo nguyên tắc sau:
Tương sinh và tương khắc. Và nguyên tắc này “hòa hợp thì sinh ra vạn vật, đồng nhất thì không tiếp
nối”.
2.2. Nho giáo
Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử, Mạnh Tử có công bảo vệ, Động Trọng Thu đưa Nho
giáo vào đời sống. Nho giáo là giáo huấn, khuôn phép của Nho. Nho gia một tầng lớp quý tộc thời
nhà Chu.
Kinh điển xưa của Nho gia thường kể tới bộ Tứ thư và Ngũ Kinh. Tứ thư: Trung Dung, Đại
học, Luận Ngữ, Mạnh Tử. Ngũ Kinh: Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu
Quan điểm về thế giới, Nho giáo cho rằng vạn vật trong vũ trụ luôn sinh thành,biến hóa không
ngừng theo Đạo của nó. Đạo là quy luật chuyển biến, tiến hóa của trời đất, muôn vật. Đạo thì huyền
vi, sâu kén, mầu nhiệm,mạnh mẽ, định ra khuôn phép cho vạn vật, con người không cưỡng lại được
nên gọi là thiên lý, thiên mệnh, tin có mệnh trời, sợ mệnh trời và thuận theo mệnh trời mà hành
động.
Quan điểm về nhân sinh, Nho giáo chủ trương xây dựng con người quân tử sống có đạo đức.
Nội dung cơ bản để xây dựng mẫu người lý tưởng ,thực hiện đạo đức trong đời sống xã hội là luân
thường và đối với nữ phải thực hiện đạo tam tòng tứ đức.
Luân là quan hệ xã hội. Luân có năm điều chính là ngũ luân. Ngũ luân là 5 mối quan hệ xã
hội. Đó là vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn. Trong 5 mối quan hệ ấy có 3 mối quan hệ cơ
bản là tam cương: vua tôi; cha con; chồng vợ. Thường có 5 yếu tố là ngũ thường.Thường đó là đạo
thường, đức thường ngày của con người phải thực thi để trở nên tốt hơn. Đó là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí,
Tín.
Quan điểm về chính trị xã hội, Nho giáo thừa nhận xã hội có 2 hạng người là quân tử và tiểu
nhân. Việc đưa thiên hạ từ loạn về trị phải thực hiện chính danh. Chính là ngay thẳng là đúng đắn.
Danh là tên gọi với chức danh địa vị xã hội. Chính danh là thực hiện đúng chức năng, vị trí của mình
trong xã hội.
2.3. Đạo gia
Người sáng lập là Lão Tử; người kế thừa Dương Chu; người phát triển là Trang Tử. Kinh điển
có 2 cuốn: Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh.
Trong quan niệm về thế giới, Đạo gia cho rằng vạn vật có nguồn gốc từ Đạo. Đạo là nền tảng
chi phối xuyên suốt các vấn đề trong triết học về vũ trụ, nhân sinh. Đạo thể hiện đặc trưng sau:
Thứ nhất, Đạo là bản nguyên của vũ trụ, có trước trời dất, không biết nó là gì, tạm đặt tên cho
nó là đạo. Công dụng của đạo là vô cùng, đạo sáng tạo ra vạn vật. Đạo sinh ra vạn vật nhưng không
là gì cả; nó thản nhiên, lạnh lùng, vô cảm. Đạo thể hiện ở cả 2 phương diện “vô” và “hữu”. Vô là
nguyên lý vô hình, là gốc đất trời. Hữu là nguyên lý hữu hình, là mẹ của muôn vật.
Thứ hai, Đạo là quy luật biến hóa tự thân của vạn vật; đạo ấy biểu hiện ở sự vật gọi là đức.
Toàn bộ vũ trụ bi chi phối bởi hai quy luật quân bình và luật phản phục.
Quan điểm về nhân sinh, Đạo gia chủ trương vô vi. Vô vi là không làm mất cái đức tự nhiên,
thuần phục vốn có của vạn vật, không ý chí,dục vọng, không làm trái bản tình tự nhiên. Sống theo
Đạo phải thực hiện vô vi. Giải pháp tốt nhất trong đời sống xã hội là “lấy vô vi mà xử sự,lấy bất
ngôn mà dạy đời”. Việc lập quân bình,trật tự xã hội phải trừ khử “thái quá”, nâng đỡ “bất cập”; lấy
“nhu nhượng thắng cương thường”, “lấy yếu thắng mạnh”, trí tuệ……
Sống theo vô vi phải thực hiện quý sinh, tồn ngã, trọng kỷ. Theo vô vi, sống đúng bản tính tự
nhiên là an phận, phục tùng theo số mạng, mệnh trời, quy luật khắc nghiệt bất di bất dịch của tạo
hóa. Người đạt tới hạnh phúc tối cao là thành nhân. Thành nhân là người tâm linh hòa đồng vạn vật,
xóa bỏ mọi giới hạn chủ quan, ta và vật, phải và trái, tốt và xấu, sống và chết,…
Trong đời sống xã hội đả phá luân lý, đạo đức, pháp luật, thể chế chính trị xã hội. Mọi hình
thức nhân tạo như pháp luật, chính trị, đạo đức là san bằng mọi dị biệt, cá tính, xâm phạm vào bản
tính tự nhiên của mỗi người, mỗi vật; gò ép vào khuôn khổ chung qua sự cắt xén, gọt dũa trái với tự
nhiên.
Quan điểm về nhận thức, Đạo gia rơi vào một mâu thuẫn: một mặt thừa nhận con người nhận
thức được giá trị tự nhiên và sống phù hợp với nó; mặt khác lại phủ nhận sự nhận thức của con
người và cho rằng: “đời có bờ bến mà sự hiểu biết là vô bờ bến, lấy cái có bờ bến theo đuổi cái vô
bờ bến là không được”.
9

B. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY


I.TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện xã hội cho sự hình thành và phát triển triết học Hy Lạp cổ đại
Về lãnh thổ Hy Lạp cổ xưa rộng lớn hơn nhiều so với hiện nay. Nó bao gồm vùng đất liền và
các đảo trên biển Egie, vùng duyên hải Balcan và Tiểu Á. Từ VIII - VI TCN, Người Hy Lạp chiếm
thêm miền Nam nước Ý, đảo Sicile và vùng ven biển Đen lập ra Hy Lạp. Vào IV TCN, với cuộc
viễn trinh toàn thắng của Alexander xứ Macedoine đã đưa đến sự ra đời của các quốc gia Hy Lạp
hóa trải rộng từ Sicile ở phương Tây sang Ấn Độ ở phía Đông; từ biển Đen ở phía Bắc đến khu vực
tiếp giáp sông Nil ở phía Nam. Trung tâm của Hy Lạp cổ đại vẫn là vùng biển Egie.
Về lịch sử, vào thời đại Homere (XI - IX TCN) diễn ra quá trình tan rã của công xã thị tộc,
phân công lao động, trồng trọt từng bước tách ra khỏi chăn nuôi. Thời đại được phản ánh qua trường
ca sử thi Iliade và Odyssei. Những nhân vật trong trường ca sử thi Iliade và Odyssei không phải là
những lực sĩ trên đồng ruộng, làm cỏ… mà thiên về sự phô trương thiện chiến của mình. Chiến tranh
và xung đột là những từ ngữ thường thấy trong sáng tác thần thoại, nghệ thuật thời kỳ này. Xã hội
bắt đầu có sự phân hóa là sự xuất hiện hai loại người có địa vị và quyền lực đối lập nhau.
Thế kỷ VIII TCN về sau, kinh tế Hy Lạp cổ đại phát triển (thủ công tách ra khỏi nông nghiệp,
nhà nước ra đời). Sự phát triển kinh tế đã kích thích quá trình vượt biển trên vùng đất mới, xâm
chiếm lãnh thổ các xứ láng giềng, bắt người làm nô lệ. Điều đó thúc đẩy khả năng giao lưu văn hóa,
khoa học giữa Hy Lạp và các dân tộc khác. Từ đây, những xung đột xã hội mang dấu ấn của những
trận chiến giai cấp, dân tộc lúc âm ỉ, lúc quyết liệt diễn ra liên tục. Vấn đề này đã đặt ra những vấn
đề phức tạp như nhân cách, năng lực, tinh thần ái quốc, đạo đức, chính trị, dân chủ… cần được giải
quyết cả về lý luận và thực tiễn.
Triết học đã phát sinh và phát triển với tính cách là tinh hoa tinh thần của thời đại, nó đã cố
gắng lý giải một cách hợp lý, nghiêm túc, sâu sắc có hệ thống và thế giới xung quanh, vị trí, vai trò
của con người trong thế giới và chính thế giới của con người.
Triết học được hình thành qua 3 thời kỳ:
1. Triết học thời sơ khai (triết học trước Socrate) là thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ.
Triết học thay thế thần thoại, mong muốn tìm kiếm là giải đáp nghiêm túc, hợp lý cho những vấn đề
của tồn tại và nhận thức. Triết học thời kỳ này có trường phái Milet (Thales), Pythagone, Heraclete,
Elee (Xenophane và Parmenide). Các triết gia thời kỳ này, đồng thời là nhà khoa học hoặc có những
am hiểu nhất định về khoa học. Họ tìm hiểu bản nguyên và bản tính thực của thế giới. Sự quan tâm
về tự nhiên đã đưa đến sự ra đời của triết học tự nhiên.
2. Triết học thời cực thịnh (triết học thời Socrate ) là thời kỳ đi tìm những nghiên cứu mới. Đó
là tuyên bố “con người - thước đo của vạn vật”. Người đầu tiên đưa triết học tự nhiên sang triết học
đạo đức, từ nguyên lý về vũ trụ sang nguyên lý về hoạt động của con người là Socrate. Socrate đề
cao con người, xem xét con người với tư cách là chủ thể của muôn loài, có tri thức, trí tuệ. Bước
ngoặt của Socrate đem lại thế đứng vững chắc cho chủ nghĩa duy tâm thay thế triết học tự nhiên. Từ
đấy diễn ra cuộc tranh luận thế giới quan của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. Đó là sự đấu
tranh giữa “đường lối Đemocrite” và “đường lối Platon” trở nên hiện tượng phổ biến trong lịch sử
phát triển của triết học.
Triết học thời kỳ này về sau vẫn tiếp tục lý giải những đề tài truyền thống, đồng thời dành
nhiều thời gian, tâm huyết liên quan đến những vấn đề vị trí, số phận của con người, ý nghĩa của
cuộc sống, năng lực và phương pháp nhận thức, tiến trình lịch sử, mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên và xã hội. Nó được thúc đẩy và khởi sắc trong lĩnh vực chính trị - xã hội, tiêu biểu là sự xác
lập nền dân chủ.
3. Triết học thời kỳ Hy Lạp lạp hóa là thời kỳ đưa đất nước Hy Lạp đến suy vong (do chiến
tranh giữa Sparte và Athemes 430 - 404 TCN). Philippe xứ Macedoine lợi dụng thời cơ đánh chiếm
Hy Lạp, con trai là Alexandre đã cai trị Hy Lạp một cách tàn bạo và đem quân chinh phục BaTri,
Aicập, Babylon, Ấn Độ và các nước vùng Trung Á. Alexandre xây dựng một đế chế rộng lớn nhưng
ông lại chết sớm (33 tuổi). Trong 20 năm sau các tướng lĩnh tranh giành quyền lực khiến cho xã hội
kiệt quệ. Cuối cùng cả Hy Lạp và Macedoine bị La Mã chinh phục và thôn tính. La Mã thống trị Hy
Lạp về quân sự, chính trị; Hy Lạp đã thống trị La Mã về tinh thần, văn hóa. Thời kỳ này các triết gia
không bàn đến vấn đề phổ quát, siêu hình, lớn lao mà loay hoay với thế giới nội tâm, cuộc sống tình
10

cảm, ham muốn, dục vọng, né tránh tranh luận, tự bằng lòng với sự hiểu biết, chìm đắm trong suy tư
về định mệnh.
Đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại như sau:
Gắn bó hữu cơ giữa triết học và khoa học; nhà triết học duy vật là nhà khoa học; Chủ nghĩa
duy vật mộc mạc,thô sơ và phép biện chứng tự phát; Cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT thể hiện
rõ ở 2 đường lối Platon và đường lối Đemocrite.
2. Một số triết gia tiêu biểu Hy Lạp cổ đại
2.1. Heraclite (520-460 TCN)
Heraclite cho rằng bản nguyên của thế giới là lửa. Lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi vật.
“Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa
thành vàng”. “Cái chết của lửa là sự ra đời của không khí, và cái chết của không khí là sự ra đời của
nước, từ cái chết của nước sinh ra không khí, từ cái chết của không khí sinh ra lửa, và ngược lại”.
Bản thân vũ trụ không do ai sáng tạo ra, nó mãi là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bùng cháy
và tàn lụi”.
Mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều thay đổi,vận động, phát triển không ngừng: “chúng
ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Các sự vật, hiện tượng vận động và biến đổi là
do chúng tồn tại các mặt đối lập. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mới làm cho sự vật, hiện tượng
này chết đi, sự vật hiện tượng khác ra đời. Đấu tranh của các mặt đối lập là vương quốc của mọi cái,
là quy luật phát triển của vũ trụ. Sự đấu tranh ấy diễn ra trong sự hài hòa nhất định.
2.2.Democrite(460-370 TCN)
Nổi bật triết học duy vật của Democrite là thuyết nguyên tử. Nguyên tử là hạt vật chất không
phân chia, nhỏ bé và không thể cảm nhận bằng trực quan. Nó vĩnh cửu không thay đổi, đa dạng.
Tính đa dạng của nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các sự vật. Nguyên tủ tự thân,không
vận động, khi kết hợp với nhau thành vật thể thì vận động không ngừng.
Linh hồn là một dạng vật chất được cấu tạo từ các nguyên tử có hình cầu, linh động như ngọn
lửa, luôn vận động và sinh ra nhiệt làm cho cơ thể hưng phấn và vận động. Linh hồn không bất tử,
nó chết cùng với thể xác.
Về nhận thức có hai dạng: nhận thức do cơ quan cảm giác và nhận thức nhờ lý tính. Nhận
thức do cơ quan cảm giác là loại nhận thức mờ tối, chưa đem lại chân lý. Nhận thức lý tính thông
qua phán đoán, suy luận cho phép đạt tới chân lý.
Về mặt nhân sinh, Demoncrite cho rằng phẩm chất, đạo đức không phải ở lời nói mà ở việc
làm và sống phải có đạo đức. Hạnh phúc là khả năng trí tuệ, khả năng tinh thần nói chung. Đỉnh cao
của hạnh phúc là trở thành nhà thông thái, trở thành công dân của thế giới.
2.3. Platon(427-347 TCN)
Điểm nổi bật trong triết học của Platon là học thuyết về ý niệm. Platon đã quan niệm về 2 thế
giới: thế giới các sự vật cảm biến và thế giới ý niệm.Thế giới sự vật cảm biến là không chân thực,
không đúng đắn vì các sự vật được sinh ra, mất đi, thay đổi, vận động, không ổn định, thiếu bền
vững. Thế giới ý niệm là thế giới đúng đắn,chân thực;các sự vật cảm biến là cái bóng của ý niệm.
Nhận thức là quá trình nhớ lại,hồi tưởng lại linh hồn những cái đã lãng quên trong quá khứ.
Từ đó, có 2 loại tri thức: Tri thức đúng đắn, đáng tin cậy là tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn
trước khi nhập vào thể xác và có được nhờ hồi tưởng; tri thức mờ nhạt là tri thức nhận được nhờ
nhận thức cảm tính.
Platon chủ trương xây dựng một nhà nước lý tưởng. Đó là nhà nước dựa trên sự phát triển
của sản xuất vật chất, sự phân công hài hòa các ngành nghề và giải quyết mâu thuẫn giữa các nhu
cầu xã hội định hướng và khuyến khích tinh thần sáng tạo khoa học. Đó là nhà nước do các triết gia
cai quản. Từ đó, Platon phê phán ba hình thức nhà nước trong lịch sử, đó là:
1. Nhà nước của bọn vua chúa xây dựng trên sự khát vọng giàu có,ham danh vọng đưa tới sự
tước đoạt.
2. Nhà nước của số ít kẻ giàu có áp bức số đông,nhà nước đối lập giữa giàu nghèo và đưa tới
tội ác.
3. Nhà nước dân chủ quyền lực thuộc về số đông,trên thực tế là số đông ngu đần,thất học,đó
là điều nguy hại lớn đến sự tồn vong của chính nhà nước.
2.4. Aristote (384-322 TCN)
11

Aristote nghiên cứu nhiều ngành khoa học: Triết học, logic học, tâm lý học, khoa học tự
nhiên, sử học, chính trị học, đạo đức học, mỹ học.
Về thế giới quan, Aristote quan niệm tự nhiên là toàn bộ những sự vật có một bản thể vật
chất mãi mãi vận động và biến đổi. Vận động của tự nhiên có nhiều hình thức: sự tăng và giảm; sự ra
đời và tiêu diệt, sự thay đổi vị trí trong không gian, sự thay đổi về chất… Aristote phê phán quan
điểm ý niệm của Platon là không có lợi cho nhận thức của con người.
Về nhận thức,Aristote thừa nhận thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức,là nguồn
gốc kinh nghiệm và cảm giác.Tự nhiên là tính thứ nhất;tri thức là tính thứ hai.Nhờ có cảm giác về
đối tượng mà có tri thức,kinh nghiệm và lý trí về đối tượng.Nhận thức diễn qua 2 giai đoạn là nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Vế logic học, Aristote đã trình bày quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn trong tư duy
và quy luật bài trừ cái thứ ba; ông đưa ra phương pháp chứng minh bằng tam đoạn luận. Quy luật
đồng nhất đòi hỏi sự suy nghĩ về sự vật nào đó, khi lập lại trong một quá trình suy luận đều phải
đồng nhất. Quy luật mâu thuẫn đòi hỏi sự vật đang là chính nó và đang được xem xét trong cùng thời
gian, quan hệ thì không thể vừa là nó, vừa không phải nó. Quy luật bài trừ cái thứ ba đòi hỏi khi xem
xét trong cùng một thời gian, quan hệ mà có hai phán đoán trái ngược nhau thì một trong hai cái phải
đúng, chứ không cùng đúng, cùng sai.
Về đạo đức, Aristote quan điểm đến phẩm hạnh. Phẩm hạnh là cái tốt đẹp nhất, là lợi ích tối
cao mà mọi công dân cần phải có. Phẩm hạnh là cơ sở của hạnh phúc. Hạnh phúc gắn liền và hoạt
động nhận thức với ham muốn về điều thiện.
II.Triết học Tây Âu Trung Cổ
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm triết học Tây Âu thời Trung Cổ
Vào những năm đầu công nguyên, ở các nước Tây Âu có sự chuyển biến căn bản trong xã
hội. Đó là sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và sự ra đời của chế độ phong kiến. Thời kỳ này có
những cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt và các cuộc tấn công của những man tộc. Chế độ phong
kiến bắt đầu từ sự sụp đổ của đế chế La Mã (V) cho đến khi xuất hiện các hình thức ban đầu của chủ
nghĩa tư bản (XV-XVI).
Các nhà nước phong kiến Anh, Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha… vốn là các tỉnh thành của đế
chế La Mã. Giai đoạn đầu của sự chuyển biến từ nô lệ sang chế độ phong kiến đã làm cho nền kinh
tế - văn hóa- xã hội bị suy sụp. Trong đời sống xã hội, kinh tế nông nghiệp chiếm địa vị thống trị.
Đến thời kỳ Trung cổ, thủ công nghiệp đã có một bước phát triển. Các thành thị,các xưởng sản xuất
thủ công và tầng lớp, giai cấp mới trong xã hội như chủ xưởng, thương nhân, thợ thủ công xuất hiện
dần dần trở thành đối thủ của tầng lớp quý tộc ruộng đất.
Trong xã hội Tây Âu thời Trung Cổ, cùng với sự thống trị của quý tộc phong kiến, giữa tăng
Lữ, giáo hội và nhà thờ cũng đã trở thành một lực lượng đầy quyền uy, nắm trong tay cả thần quyền
và quyền lực chính trị. Giáo hội bóc lột các nông nô và bầy tôi của mình. Nông dân là đông đảo quần
chúng nhân dân bị bóc lột. Cuộc sống khổ cực đã đẩy người lao động tới mức họ phải đấu tranh
chống lại trật tự của xã hội phong kiến.
Hệ tư tưởng thống trị suốt hàng thế kỷ trong đời sống tinh thần xã hội là Cơ đốc giáo với hai
biến thể của nó là đạo Chính Thống và đạo Thiên Chúa La Mã. Giáo hội là kẻ độc quyền trong tay
lĩnh vực văn hóa. Triết học và khoa học đã trở thành “nô lệ của Thần học”. Chính đời sống thực tiễn
và lý luận của xã hội đồng thời làm cho các phong trào đứng dậy chủ trương phục hồi lại giáo hội Cơ
đốc nguyên thủy và những luật lệ, nghi lễ có tính chất bình đẳng, đơn giản. Chủ nghĩa duy danh,
những tư tưởng cách tân, sự tiến bộ khoa học đã đấu tranh chống lại sự thống trị của triết học kinh
viện.
2. Phái duy danh và phái duy thực.
Phái duy danh cho rằng các sự vật riêng lẻ,cá biệt là những cái có thực ;còn những cái phổ
biến chỉ là những tên gọi do con người đặt ra gắn cho chúng.
Phái duy thực cho rằng cái chung mới là cái có thực vì nó tồn tại độc lập,không phụ thuộc
vào cái riêng và sinh ra cái riêng.Cái chung là cái có trước và tồn tại khách quan trong các sự vật
riêng lẻ.
III.Triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại
1. Triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng thế kỷ XV - XVI
12

Thế kỷ XV-XVI ở Tây Âu được gọi là thời kỳ Phục hưng. Phục hưng là thời kỳ có sự khôi
phục lại nền văn hóa cổ đại . Về mặt hình thái kinh tế - xã hội đó là thời kỳ quá độ từ xã hội phong
kiến sang xã hội tư bản.
Thời kỳ này, sự phát triển của khoa học đã dần dần đoạn tuyệt với thần học và tôn giáo thời
kỳ trung cổ, bước lên con đường phát triển độc lập. Giai cấp tư sản mới hình thành và là giai cấp tiến
bộ, có nhu cầu phát triển khoa học tự nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển kỹ thuật và sản xuất. Sự
phát triển của khoa học, về khách quan đã trở thành vũ khí mạnh mẽ chống thế giới quan duy tâm
tôn giáo.
Sự phát triển khoa học tự nhiên đã đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra những kết luận có
tính chất duy vật từ các tri thức khoa học cụ thể. Thời kỳ này đã có những nhà khoa học và triết học
tiêu biểu như: Nicôlai Côpécních, Brunô, Galilê, Nicôlai KuZan, Tômát Morơ, v.v…
Trong các nhà tư tưởng đó thì Côpécních (1475-1543), người Ba Lan, có ảnh hưởng lớn lao
đến sự phát triển của triết học và khoa học thời kỳ phục hưng sau này. Côpécních đã chứng minh
rằng, mặt trời ở trung tâm vũ trụ, các hành tinh (kể cả trái đất) di chuyển xung quanh mặt trời.
Thuyết nhật tâm đã đả kích vào chính nền tảng của thế giới quan tôn giáo và đánh dấu sự giải phóng
khoa học tự nhiên khỏi thần học và tôn giáo. Phát minh của Côpécních là “một cuộc cách mạng trên
trời”, báo trước một cuộc cách mạng trong các quan hệ xã hội.
Brunô (1548-1600) nhà triết học Italia, người kế tục và phát triển học thuyết của Côpécních.
Brunô đã bổ sung thêm rằng, có vô số thế giới, xung quanh trái đất có một bầu không khí cùng xoay
với trái đất và mặt trời cũng đổi chỗ với các vì sao. Ông đã chứng minh về tính thống nhất vật chất
của thế giới (vũ trụ). Theo ông có vô vàn thế giới giống thái dương hệ của chúng ta.
Triết học của Brunô cũng như các nhà triết học tiến bộ khác thời kỳ phục hưng đã bị nhà thờ
lên án; bản thân Brunô đã bị tòa án tôn giáo kết án tử hình và thiêu sống tại La Mã. Điều đó phản
ánh lịch sử vào thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo diễn ra gay gắt.
2.Triết học Tây Âu cận đại thế kỷ XVII - XVIII
Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kỳ của những cuộc cách mạng tư sản bắt đầu ở
Hà Lan, sau đến Anh, Pháp, Ý, Áo, v.v. và đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Tây Âu.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất mới làm cho quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời và
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt là nguyên nhân kinh tế của
những cuộc cách mạng thời kỳ này. Nhưng đòn giáng mạnh nhất vào chế độ phong kiến Tây Âu là
cuộc cách mạng tư sản Anh (giữa thế kỷ XVII) và cách mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVII). Thời
kỳ này cũng là thời kỳ phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật do nhu cầu của sự phát triển sản xuất;
thế kỷ XVII – XVIII cơ học phát triển, thế kỷ XVIII – XIX, vật lý học, hóa học, sinh học, kinh tế
học ra đời. Tất cả cái đó làm tiền đề cho sự phát triển triết học mới với nhiều đại biểu nổi tiếng .
Phranxi Bêcơn (1561-1626) là nhà triết học Anh, sống vào thời kỳ tích lũy tiền tư bản. Về
lập trường chính trị, ông là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc mới, là tầng lớp quan
tâm đến sự phát triển của công nghiệp và thương nghiệp. Ông nói: Tri thức là sức mạnh mà thiếu nó,
con người không thể chiếm lĩnh được của cải của giới tự nhiên. Ông phê phán phương pháp triết học
là phương pháp “con nhện”. Bêcơn cũng phê phán phương pháp nghiên cứu của các nhá kinh
nghiệm chủ nghĩa. Ông ví họ như những con kiến tha mồi, không biết chế biến , không hiểu gì cả.
Phương pháp triết học ưu việt nhất phải là phương pháp con ong.
Tômát Hốpxơ (1588 – 1679) là nhà triết học duy vật Anh nổi tiếng, người kế tục và hệ thống
hóa triết học của Bêcơn. Nhìn chung quan niệm của Hốpxơ về con người như một cơ thể sống cũng
mang tính siêu hình rõ rệt. Dưới con mắt của ông, trái tim con người chỉ như lò xo, dây thần kinh là
những sợi chỉ, còn khớp xương là các bánh xe làm cho cơ thể chuyển động .
Rơmê Đêcáctơ (1596 – 1654) là nhà triết học và khoa học nổi tiếng người Pháp. Khi giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học, Đêcáctơ đứng trên lập trường nhị nguyên luận ( thuyết về hai
nguồn gốc). Ông thừa nhận có hai thực thể vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau, ông thừa
nhận rằng hai thực thể vật chất và tinh thần tuy độc lập nhưng đều phụ thuộc vào thực thể thứ ba, do
thực thể thứ ba quyết định, đó là Thượng đế. Theo ông, nghi ngờ là điểm xuất phát của phương pháp
khoa học. Đêcáctơ nhấn mạnh rằng, dù anh nghi ngờ mọi cái nhưng không thể nghi ngờ rằng anh
đang nghi ngờ. Và ông đã đi đến một kết luận nổi tiếng: “ Tôi suy nghĩ vậy tôi tồn tại”.
13

Xpinôda (1632- 1677) nhà triết học Hà Lan nổi tiếng, nhà duy vật và vô thần, nhà tư tưởng
của tầng lớp dân chủ tư sản. Thế giới, theo Xipinôda, có vô vàn cách thức vận động và đứng im. Có
những cách thức thì gắn với thế giới các sự vật riêng lẻ có quảng tính (khoảng cách); có những cách
thức thì gắn với các sự vật riêng lẻ có thuộc tính tư duy ( thế giới con người ).
Về tôn giáo, Xipinôda quan niệm rằng, sự sợ hãi là nguyên nhân của mê tín tôn giáo. Tư
tưởng chống giáo quyền của ông thể hiện ở chỗ coi vai trò chính trị của nhà thờ là ở sự liên minh của
nó với chính quyền chuyên chế .
Giôn Lốccơ (1632- 1704 ) nhà triết học duy vật Anh. Theo ông, toàn bộ các tri thức, chân lý
đều là kết quả nhận thức của con người chứ không phải bẩm sinh, Lốccơ đưa ra nguyên lý tabula
rasa (tấm bảng sạch); “Linh hồn chúng ta khi mới sinh ra, có thể nói như một tờ giấy trắng, không
có một ký hiệu hay ý niệm nào cả”.
Gioocgiơ Béccli ( 1684 – 1753) nhà triết học duy tâm, vị linh mục người Anh. Ông đưa ra
một mệnh đề triết học nổi tiếng “vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức hợp của cảm giác”, mọi
vật chỉ tồn tại trong chừng mực mà người ta cảm biết được chúng. Ông tuyên bố: tồn tại có nghĩa là
được cảm biết.
Đavít Hium (1791 – 1766) nhà triết học, nhà lịch sử, nhà kinh tế học người Anh. Ông là
người sáng lập ra những nguyên tắc cơ bản của thuyết không thể biết ở châu Âu thời cận đại. Trung
tâm trong lý luận nhận thức của Hium là học thuyết về tính nhân quả. Ông cho rằng sự tồn tại của
các mối liên hệ này là không thể chứng minh được, bởi vì, cái mà người ta cho là kết quả thì lại
không thể chứa đựng trong cái nguyên nhân, về mặt logic không thể rút kết quả từ nguyên nhân, kết
quả không giống nguyên nhân. Nói cách khác, theo Hium tính nhân quả không phải là một quy luật
của tự nhiên mà chỉ là thói quen tâm lý .
3 Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII
Xã hội Pháp nửa cuối thế kỷ XVIII chứa đựng những mâu thuẫn sâu sắc. Giai cấp phong kiến
Pháp đứng đầu là vua Lu-i XVI đã thâu tóm vào tay mình những quyền lực vô hạn. Chỗ dựa xã hội
của nhà vua là các đẳng cấp đặc quyền và chiếm số ít trong dân cư: quý tộc và tăng lữ. Đời sống của
đại đa số nhân dân lao động, trước hết là nông dân hết sức khốn khổ, nạn đói do mất mùa hoành
hành, những cuộc nổi dậy của nông dân chống chế độ phong kiến xảy ra thường xuyên. Tất cả cái đó
là nguyên nhân kinh tế - xã hội của cuộc Cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794). Và các nhà duy vật
Pháp thế kỷ XVIII là những người chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng về chính trị sôi
động đó.
Triết học thời kỳ này được gọi là triết học Ánh sáng với các đại biểu xuất sắc là La Metơri
(1709- 1751), Điđrô (1713 – 1784), Hônbách ( 1729- 1789), Henvêtiuyt (1751 – 1771), Vônte (1694
– 1778)….
Về mặt triết học, các nhà duy vật Pháp, nổi bật là Điđrô, Henvêtiuyt và Hônbách, đã góp
phần quan trọng vào việc phát triển triết học duy vật và vô thần ở thế kỷ XVIII. Trong việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học, các nhà duy vật Pháp thừa nhận vật chất, giới tự nhiên là cái có
trước, ý thức là cái có sau. Vật chất, theo các nhà duy vật Pháp, tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng
tạo ra và cũng không thể tiêu diệt được, không thể biến đổi vật chất thành hư vô, cũng không thể tạo
nên vật chất từ hư vô. Bác bỏ nhị nguyên luận của Đềcáctơ, các nhà duy vật Pháp cho rằng sự phong
phú, đa dạng của sự vật, hiện tượng chỉ là những hình thức khác nhau của tồn tại vật chất do các
phân tử cấu thành. Vật chất là một thực thể duy nhất, nguyên nhân tồn tại của vật chấ nằm ngay
trong bản thân nó. Không gian, thời gian là những thuộc tính cơ bản của vật chất . Theo họ, vận động
biểu hiện hoạt tính của vật chất và gắn liền với vật chất. Nhờ vận động mà giới tự nhiên luôn luôn
chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác .
4. Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ chuyên chế Nhà
nước Phổ. Đặc trưng những học thuyết duy tâm của triết học cổ điển Đức là: khôi phục lại truyền
thống phép biện chứng; bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan, tiên nghiệm cũa Cantơ đến chủ
nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen; phê phán phép siêu hình truyền thống “lý tính”; chú ý đến
vấn đề triết học lịch sử.
4.1. Imanuen Cantơ (1724-1804)
Nét nổi bật trong triết học của Cantơ là trình bày những quan điểm biện chứng về tự nhiên.
Trong tác phẩm Lịch sử tự nhiên phổ thông và lý thuyết bầu trời ông đã nêu giả thuyết có giá trị về
14

sự hình thành của vũ trụ bằng các cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân. Cantơ cũng đưa ra một
luận đề sau này được khoa học chứng minh về ảnh hưởng lên xuống của thủy triều do lực hấp dẫn
giữa trái đất và mặt trăng gây ra đã ảnh hưởng tới trái đất, làm cho vòng xoay của trái đất quanh trục
của nó mỗi ngày một chậm lại.
Triết học Cantơ là triết học nhị nguyên. Một mặt ông thừa nhận sự tồn tại của “thế giới vật tự
nó” ở bên ngoài con người. Nhưng mặt khác thế giới các vật thể quanh ta ma ta thấy được lại không
liên quan gì đến cái gọi là “thế giới vật tự nó”, các cảm giác và tri thức không cung cấp cho ta hiểu
biết thêm gì “thế giới vật tự nó”. Cantơ là một tiêu biểu của thuyết “không thể biết”. Ông nói rằng,
trong nhận thức cần hạn chế phạm vi của lý tính để dành cho đức tin.
4.2. Gioócgiơ Vinhem Phriđrích Hêghen (1770- 1831)
Hêghen nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Nếu phương pháp
biện chứng của là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết
học duy tâm của ông phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong, vốn có của
sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Ông cho rằng khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất
mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là
kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn.
Hêghen đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên trình bày
toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi
và phát triển không ngừng. Nhưng tất cả những cái đó chỉ là quy luật vận động và phát triển của bản
thân tu duy, của ý niệm tuyệt đối.
Trong các quan điểm xã hội, Hêghen đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa sôvanh, đề cao
dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác ,coi nước Đức là “hiện thân của tinh thần vũ trụ mới”. Chế độ
Nhà nước Phổ đương thời được Hêghen xem nó như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp
luật.
4.3. Lútvích Phoiơbắc (1804-1872)
Phoiơbắc nhà duy vật chủ nghĩa kiệt xuất thời kỳ trước Mác, đại biểu nổi tiếng của triết học
cổ điển Đức, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân chủ Đức, Phoiơbắc đã chứng minh thế giới là vật
chất, giới tự nhiên tồn tại ngoài con người không phụ thuộc vào ý thức con người, là cơ sở sinh sống
của con người. Giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại, vận động nhờ những cơ sở bên
trong nó. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo
ra con người, ông khẳng định, chính con người sáng tạo ra Thượng đế. Phoiơbắc nói đến sự tha hóa
của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con người là muốn
hướng tới cái chân, cái thiện, nghĩa là hướng tới những cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp
nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con người không đạt được nên đã gửi gắm tất
cả những ước muốn của mình vào hình tượng Thượng đế.
Con người, theo quan điểm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những
thuộc tính sinh học bẩm sinh. Ông nói rằng, bản tính con người là tình yêu; tôn giáo cũng là một tình
yêu. Do vậy, khi thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một
thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người.
C.LỊCH SỬ TRIẾT HỌC VIỆT NAM
I. Những nội dung thể hiện lập trường duy vật và duy tâm:
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam
thời kỳ phong kiến thuộc một hình thái đặc biệt. Lập trường duy vật hoặc duy tâm trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam thể hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tâm và vật, giữa linh hồn và thể xác,
giữa lý và khí… Lập trường đó còn thể hiện trong việc giải thích nguyên nhân và nguồn gốc tạo nên
những sự kiện cơ bản của đất nước, xã hội và con người, như an nguy của quốc gia dân tộc, trị loạn
của xã hội, hưng vong của các triều đại, vấn đề số mệnh và bản tính con người, vấn đề đạo trời và
đạo người , v.v…
“Thiên mệnh” (mệnh trời) là điều thường được nhắc đến trong lịch sử. Những người duy tâm
cho rằng, trời sinh ra con người và vạn vật, mỗi người có một số mệnh gọi là mệnh trời, con người
phải sợ và phải làm theo mệnh trời.
Những người theo đạo Phật cho rằng, số mệnh con người không phải là do trời gây nên, mà
là do mình làm ra, do “nghiệp” và “kiếp” đã được bản thân tạo ra từ quá khứ,mỗi kiếp là kết quả của
15

kiếp trước và là nguyên nhân của kiếp sau, cứ như thế tạo thành chuỗi nghiệp vô cùng tận cho mỗi
người.
Đối lập quan điểm “mệnh trời” có tính chất thần bí của chủ nghĩa duy tâm là một sự giải
thích khác về trời và mệnh trời. Mức thấp là cho con người có thể xuất phát từ mình để mưu tính sự
việc của mình nhưng chưa đảm bảo được hoàn toàn kết quả công việc: “mưu sự tại nhân,thành sự tại
thiên”. Và mức cao là cho con người có thể thắng được trời, sức con người có thể làm thay đổi số
mệnh của trời . “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”(Truyện Kiều Nguyễn Du).
Đối lại với quan điểm “mệnh trời” còn có quan điểm về “thời”, quan điểm cho “thời” đối lập
với “mệnh”, chủ trương theo “thời” chứ không theo “mệnh”. Nguyễn Trãi nói : “Điều đáng quý ở
người quân tử là hiểu thời thông thông biến mà thôi”, “Điều đáng quý ở người quân tử là biết thời
thông biến, lượng sức xử mình”. Ngô Thì Nhậm nói: “Gặp thời thế,thế thời phải thế”.
II. Những nội dung của tư tưởng yêu nước Việt Nam
1.Những nhận thức về dân tộc và dân tộc độc lập
Cộng đồng người Việt được hình thành sớm trong lịch sử, có tên là Việt; phân biệt với nhiều
tộc Việt ở miền Nam Trung Quốc và được gọi là Lạc Việt. Nhận thức về dân tộc và dân tộc độc lập
của người Việt là một quá trình. Vấn đề đặt ra thường xuyên cho người Việt là phải làm thế nào để
chứng minh được cộng đồng người Việt khác với cộng đồng người Hán và ngang hàng với cộng
đồng người Hán .
Nguyễn Trãi là người đã thực hiện được sứ mệnh này. Trong các bức thư gửi quân Minh và
nhất là trong tác phẩm Đại Cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi chứng minh rằng, cộng đồng tộc Việt có đủ
các yếu tố: Văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, nhân tài, nên nó đã là một cộng đồng người có bề
dày lịch sử ngang hàng với cộng đồng người của phương Bắc .
2 . Những quan niệm về nhà nước của một quốc gia độc lập và ngang hàng với phương Bắc.
Trước khi người Hán đến, tộc Việt đã có Nhà Nước Văn Lang và Âu Lạc của mình. Người
Hán đến, Nhà nước Âu Lạc bị tiêu diệt, lãnh thổ của tộc Việt biến thành một bộ phận của tộc Hán.
Người Việt đấu tranh chống lại sự thống trị của người Hán cũng có ý nghĩa là đấu tranh giành quyền
tổ chức ra nhà nước riêng của mình, chế độ riêng của mình. Quyền xây dựng nhà nước riêng, chế độ
riêng là mục tiêu hàng đầu của các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
3.Những nhận thức về nguồn gốc về sự động lực của cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước
Coi trọng sức mạnh của cộng đồng là điều đầu tiên rút ra được của các nhà tư tưởng. Họ thấy
con người ta có quyền lợi thì mới có trách nhiệm, có phần của mình trong tập thể thì mới gắn bó với
tập thể, có quan hệ tốt thì mới đồng lòng. Họ nhấn mạnh yếu tố đó để phát huy sức mạnh của cộng
đồng. Trần Quốc Tuấn yêu cầu “Trên dưới một lòng ,lòng dân không chia”, vì “Vua tôi đồng lòng,
anh em hòa mục, nước nhà góp sức giặc tự bị bắt”, “có thu phục được quân lính một lòng như cha
con thì mới dùng được”.
Coi trọng vai trò của nhân dân là một tư tưởng lớn trong ý thức dân tộc ở các nhà tư tưởng.
Nhưng trong lịch sử tư tưởng của dân tộc phải tính tới các quan điểm tích cực đối với dân. Lý Công
Uẩn nói: “Trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân,thấy thuận tiện thì thay đổi”. Nguyễn Trãi nói: “Chở
thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Lý Thường Kiệt nói: “Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”.
Nguyễn Trãi nói: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.
III. Những quan niệm về đạo làm người:
Một trong những vấn đề được các nhà tư tưởng Việt Nam trong lịch sử đặc biệt quan tâm là
“đạo” (có khi gọi là “đạo trời”, “ đạo người”). Họ phải quan tâm đến “đạo” bởi nó là cơ sở tư tưởng
để hành động chính trị, để đối nhân xử thế. Trong ba đạo truyền thống: Nho, Phật, Lão - Trang, thì
sau thời kỳ Lý –Trần, người ta hướng về đạo Nho trước hết.
Khi vào đời, các nhà tư tưởng Nho học đều khẳng định lấy đạo Nho làm lý tưởng sống của
mình. Khi bước ra khỏi lĩnh vực chình trị, khi phải giải quyết các vấn đề sống chết, may rủi , phúc
họa, thường-biến, những vấn đề gắn bó với cuộc sống đời thường của mỗi người thì Phật giáo lại có
sức hấp dẫn. Khi thất thế trên đường danh lợi, họ lại tìm đến đạo Lão - Trang để có niềm an ủi và để
được tư do, tự tại. Thế giới quan Nho – Phật - Lão thường là thế giới quan chung trong quan niệm về
đạo,ngoài đạo.
16

Chương III
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

1. Những điều kiện xã hội và tiền đề lý luận cho sự ra đời triết học Mác
1. 1. Điều kiện kinh tế xã hội
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó là thời kỳ chủ nghĩa tư
bản đã bước sang một giai đoạn mới nhờ có sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp. Chính vì
vậy, tính hơn hẳn của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ phong kiến trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Giai cấp tư sản thống trị chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.
Sư phát triển của chủ nghĩa tư bản là cho những mâu thuẫn trong xã hội tư bản ngày càng bộc
lộ gay gắt. Giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Trong hoàn cảnh đó,
giai cấp tư sản không còn vai trò là giai cấp cách mạng nữa. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ
đài lịch sử không chỉ là “kẻ phá hoại” chủ nghĩa tư bản mà còn là lực lượng tiên phong trong cuộc
đấu tranh cho nền dân chủ.
Thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách
quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt
lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.
1.2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tư nhiên của triết học Mác
1.2.1. nguồn gốc lý luận
Học thuyết của Mác “ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết những học thuyết
của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội”.
Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là những
thành tựu tư tưởng của nhân loại trở thành nguồn gốc lý luận chủ nghĩa Mác.
Trên cơ sở triết học cổ điển Đức, cụ thể là phép biện chứng của Heghel và chủ nghĩa duy vật
của Feaurbach, Mác và Angghen đã xây dựng lên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là A. Xmít và
Đ.Ricácđô là một nhân tố góp phần hình thành quan điểm về duy vật lịch sử.
Quan điểm triết học Mác còn được kế thừa có vó phê phán chủ nghĩa không tưởng Pháp với
đại biểu là Xanh Ximong và S.Phuriê. Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội
bằng cách mạng.
1.2.2. Tiền đề vầ koa học tự nhiên
Những thành tựu của khoa học tư nhiên như: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng,
thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đácuyn.
Như vậy, chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử, nó phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là thực
tiễn cách mạng của giai cấp công nhân.
2. NHỮNG GIA ĐOẠN CHỦ YẾU TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT
HỌC MÁC
2.1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Angghen từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản (1818 – 1843)
C.Các (1818 – 1883) sinh tại Trier, tỉnh Rain, nước Đức con của một luật sư. Những ảnh
hưởng tốt của giai đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã hình thành và phát triển ở Mác
tinh thần nhân đạo chủ nghĩa và xu hướng tự do. Phẩm chất đạo đức – tinh thần cao đẹp không
ngừng được bồi dưỡng đã trở thành định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa Mác tới chủ nghĩa dân
chủ cách mạng và quan điểm vô thần. Từ 1835 – 1841, Mác học luật, sử, triết ở Bon và Berlin; theo
phái Heghel trẻ. Tháng 1841, Mác bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài “Sự khác nhau giữa triết học tự
nhiên của Democrite và triết học tự nhiên của Epicure”. Từ 1842 – 1843, Mác làm biên tập viên,
cộng tác viên và làm chủ bút cho tờ “Báo miền sông Rain” và từ bỏ phái Heghel trẻ, chuyển từ duy
tâm sang duy vật, từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Hoạt động thực tiễn và nghiên cứu
lý luận, Mác đã đặt cho mình một nhiệm vụ duyệt lại một cách phê phán quan điểm duy tâm của
Heghel về xã hội và nhà nước, đồng thời phát hiện những động lực thực sự để biến đổi thế giới bằng
cách mạng. Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Heghel, Mác đã nồng nhiệt tiếp nhận quan
17

điểm duy vật của Feaurbach. Trong tác phẩm Góp phần phê phán nhà nước pháp quyền của Heghel
ở lới nói đầu, Mác đã phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa lịch sử to lớn và cả
hạn chế của cuộc cách mạng tư sản; Mác đã phác thảo những nét đầu tiên về cuộc cách mạng triệt để
và chỉ ra cái khả năng tích cực của giải phóng đó chính là giai cấp vô sản.
Ph. Ăngghen (1820 – 1893) tại Becmen, tỉnh Rain, nước Đức.Việc nghiên cứu triết học trong
thời gian ở Beclin và khi làm nghĩa vụ quân sự đã dẫn ông đi xa hơ trên con đường khoa học. Song
chỉ thời gian gần hai năm sống ở Mansextơ (Anh) từ mùa thu 1842, việc nghiên cứu đời sống kinh tế
và sự phát triển chính trị ở Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong trào công nhân mới dẫn
đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1844, Mác và Ăngghen gặp nhau ở Paris. Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến tình bạn vĩ
đại của Mác và Ăngghen.
2.2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Thời giai từ 1844 đến 1849 là quá trình Mác và Angghen từng bước xây dựng những nguyên
lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Mác đã trình bày những quan điểm kinh
tế và triết học của mình thông qua việc phê phán kinh tế chính trị học cổ điển Anh và tiếp tục phê
phán triết học duy tâm của Heghel, đồng thời ông đã vạch ra mặt tích cực của nó là phép biện chứng.
Những quan điểm của C.Mác được thể hiện trong việc phân tích sự tha hóa của lao động với phạm
trù “lao động bị tha hóa”, từ đó, Mác cắt nghĩa sự tha hóa của bản thân con người và vạch ra con
đường khắc phục sự tha hóa đó.
Tác phẩm Hệ tư tưởng đức được Mác và Angghen viết chung vào cuối năm 1845 – đầu năm
1846, đánh dấu một bước quan trọng trong sự hình thành triết học Mác. Lần đầu tiên Mác và
Ăngghen trình bày quan niệm về chủ nghĩa duy vật một cách hệ thống và nhiều nguyên lý về chủ
nghĩa cộng sản. Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại xã hội. Do đó để hiểu được con người, Mác đã đi
sâu tìm hiểu sự sản xuất vật chất của con người trong xã hội.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ
nghĩa Mác. Trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thiên tài, thống nhất
hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị xã hội. Nó phản ánh một học thuyết
toàn diện và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng của giai
cấp vô sản là giai cấp sáng tạo ra xã hội mới, xã hội cộng sản.
2.3. Giai đoạn Mác và Angghen bổ sung và phát triển lý luận triết học Mác
Từ sau tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, học thuyết Mác tiếp tục bổ sung và phát triển gắn bó
mật thiết hơn nữa với thực tiễn cách mạng mà Mác và Angghen vừa là những đại biểu tư tưởng vừa
là lãnh tụ thiên tài của phong trào công nhân. Bộ Tư bản không chỉ là công trình đồ sộ của Mác về
kinh tế học mà còn là sự bổ sung, phát triển triết học Mác.
Trong khi đó, Angghen phát triển triết học Mác thông qua việc khái quát các thành tựu khoa
học và phê phán các lý thuyết triết học duy tâm, siêu hình và cả những quan điểm duy vật tầm
thường. Những tác phẩm chủ yếu như Chống Đuyrinh, Biện chứng của tự nhiên, Nguồn gốc của giai
đình của chế độ tư hữu và của nhà nước,... Angghen đã trình bày triết học Mác một cách hệ thống.
3. THỰC CHẤT VÀ Ý NGHĨA BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG TRIẾT HỌC DO
MÁC VÀ ĂNGGHEN THỰC HIỆN
Mác và Angghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân loại, sáng
tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt để, không điều hòa với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình.
Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài
người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Đó là một
cuộc cách mạng thật sự trong triết học về xã hội, yếu tố chủ yếu của bước ngoạt cách mạng do Mác
và Angghen thực hiện.
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách mạng
nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và sự phát triển xã
hội. Sức mạnh cải tạo thế giới của triết học Mác chính là ở sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh
cách mạng của giai cấp vô sản cách mạng và quần chúng nhân dân lao động đông đảo, nhờ đó lý
luận triết học Mác trở thành lực lượng vật chất hùng mạnh.
18

Triết học Mác đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học coi triết học là “khoa học của các
khoa học”. Triết học Mác ra đời đã trở thành thế giới quan và phương pháp chung cần thiết cho sự
phát triển của các khoa họãnh.
4. LÊNIN PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC
V.I.Lênin (1870 – 1924) đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải quyết những vấn đề
của cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm 90 của thế kỷ XIX, Lênin không những đã bảo vệ chủ nghĩa Mác khỏi sự
xuyên tạc của những người dân túy mà còn phát triển, làm phong phú thêm quan điểm về duy vật
lịch sử, nhất là lý luận về hình thái kinh tế xã hội của Mác.
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong lĩnh vực khoa học tự nhiên có những phát
minh lớn “mang tính vạch thời đại”, nhất là phát hiện về điện tử và kết cấu của nguyên tử đã làm đảo
lộn căn bản quan niệm về thế giới của vật lý cổ điển, dẫn đến cuộc khủng hoảng trong vật lý. Lợi
dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm tấn công vào chủ nghĩa duy vật. Từ đó, Lênin đã viết tác phẩm
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Tinh thần sáng tạo của tư duy biện chứng đã
giúp Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác về triết học xã
hội như vấn đề về nhà nước, cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản,... Luận điểm của Lênin về khả
năng thằng lợi của chủ nghĩa xã hội bắt đầu ở một số nước, thậm chí ở một số nước riêng lẻ, rút ra từ
sự phân tích quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản.

Chương IV
CHỦ NGHĨA DUY VẬT

1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Tồn tại của thế giới và sự thống nhất của thế giới
Nhiệm vụ cơ bản của triết học là phải xác định và làm rõ bản chất của thế giới. Nghĩa là phải
trả lời cho được thế giới là gì, là cái gì, là một cái gì? Nếu là một cái gì thì thế giới phải thống nhất.
Một học thuyết triết học là nhất nguyên khi thừa nhận tính thống nhất của thế giới. Đương nhiên, sự
thống nhất của thế giới lấy việc thừa nhận sự tồn tại của nó làm điền đề. Không thừa nhận sự tồn tại
của thế giới thì không thể nói tới việc thống nhất thế giới.
Như vậy, khái niệm tồn tại chỉ là tiền đề xuất phát của nhận thức triết học. Song vấn đề mà
nhận thức triết học phải tìm hiểu là quan niệm về sự tồn tại của thế giới. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng cho rằng sự tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của nó. Song sự thống nhất của
thế giới không phải ở sự tồn tại của nó. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng thế giới thống nhất ở ý thức.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng sự thống nhất của thế giới là vật chất.
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của triết học, chủ nghĩa duy
vật biện chứng cho rằng “bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất.
Điều đó thể hiện ở ba điểm cơ bản sau đây:
Một, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách
quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Hai, mọi bộ phận của thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất. Tất cả các bộ phận đó
đều chịu sự chi phối của quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận, không được sinh ra không tự mất đi.
Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn
nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả lẫn nhau.
Ngày nay, khoa học cho thấy vật chất dạng vô cơ thống nhất ở hạt (chất) và sóng (trường); vật
chất ở dạng hữu sinh thống nhất ở AND.
1.2. Định nghĩa phạm trù vật chất
Phạm trù vật chất là một phạm trù cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa duy vật, nó chứa đựng thế
giới quan và phương pháp luận sâu sắc. Phạm trù vật chất được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau,
nó phụ thuộc vào thực tiễn và nhận thức khoa học.
Quan điểm về vật chất của các nhà duy vật cổ đại mang tính trực quan cảm tính; họ đồng nhất
vật chất với các dạng cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại. Thales: nước; Anacimence:
không khí; Empedoce: đất, nước, lửa, không khí; Lecippe – Democrite: nguyên tử.
19

Vào thế kỷ XVII - XVIII, thuyết nguyên tử được Gelile, Decarter, Newton, Becon, Hoppe...
khẳng định. Trên cơ sở đó, vào thế kỷ XIX các nhà triết học và khoa học đồng nhất vật chất với
nguyên tử hoặc đồng nhất vật chất với khối lượng. Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã quy vật chất
về các dạng cụ thể.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong vật lý học có những phát minh quan trọng làm cho con
người hiểu sâu hơn về thế giới vật chất. Đó là những phát hiện ra tia X, hiện tượng phóng xạ, điện
tử, khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Tất cả những phát minh đó đã chỉ ra
những khuyết điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác trong quan niệm về vật chất. Nó còn là
cơ sở để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng chống chủ nghĩa duy vật và cho rằng “vật chất biến mất”.
Để bảo vệ quan điểm của chủ nghĩa duy vật, Lênin bác bỏ quan điểm trên của chủ nghĩa duy
tâm và cho rằng “không phải vật chất tieu tan mất” mà giới hạn hiểu biết của con người về vật chất
là tiêu tan. Từ đó, Lênin đưa ra định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1.
Phương pháp định nghĩa vật chất là mang tính đặc trưng, khác với các định nghĩa thông
thường. Bởi triết học nghiên cứu thuộc tính chung nhất của thế giới vật chất. Phạm trù vật chất là
một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng nhất, và cho đến nay, nhận thức luận vẫn chưa vượt quá
được”. Nếu dùng phương pháp định nghĩa phạm trù vật chất theo cách thông thường sẽ trở thành bất
lực. Người ta không thể quy vật chất về phạm trù rộng hơn nó. Vật chất không có gì khác hơn là
“thực tại khách quan… tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” tồn tại độc lập đối với ý thức của
con người, và được ý thức con người phản ánh”.
Thực tại khach quan là tồn tại thực, có thật, duy nhất, không do ai sinh ra không mất đi
tồn tại vĩnh viễn. Định nghĩa khẳng định thuộc tính chung nhất của vật chất là thực tại khách quan
ở bên ngoài ý thức. Tất cả những gì tồn tại bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức đều là vật
chất. Khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận vật chất là cái thứ nhất, ý thức là cái thứ hai;
vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Lênin đã giải quyết mặt thứ nhất của vấn
đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật triệt để. Qua đó có vai trò chống chủ nghĩa
duy tâm trong quan niệm về thế giới; khắc phục chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất.
Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh điều đó
Lênin muốn khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới, giải quyết được mặt thứ
hai của vấn đề cơ bản của triết học. Qua đó khắc phục được thuyết hoài nghi và thuyết không thể
biết. Với ý nghĩa đó, định nghĩa có vai trò định hướng, kích thích cho khoa học phát triển.
Trong việc nhận thức các hiện tượng xã hội, định nghĩa đã cho ta những cơ sở xác định được
cái gì trong đời sống xã hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa đạt được.
1.3. Vật chất và vận động
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là
phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” 2. Vận động
không chỉ thay đổi vị trí trong không gian mà nó bao gồm mọi sự biến đổi biến hóa nói chung.
Vận động “là phương thức tồn tại của vật chất” . Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng
cách vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất thể hiện sự tồn tại của
mình. Chúng ta không thể hình dung nổi nếu vật chất không có vận động. Và ngược lại không thể
tưởng tưởng nổi có thứ vận động nào ngoài vận động của vật chất, không thuộc về vật chất. Sự vận
động của ý thức, tư duy trên thực tế cũng là sản phẩm của vận động vật chất.
Vận động là “thuộc tính cố hữu của vật chất”. Vật chất và vận động gắn liền với nhau,
không tách rời nhau. Vật chất không do ai sinh ra thì vận động cũng không do ai sinh ra. Vận động
là tự thân vận động (F = G.m1. m2/r2); (F = H. q1.q2/ r2).
Khi nghiên cứu các hình thức vận động của vật chất, người ta chia vận động của vật chất thành
các hình thức vận động khác nhau.
1. Vận động cơ học (sự di chuyển của các vật thể trong không gian).

1 Leânin, toaøn taäp, Nhaø xuaát baûn Tieán boä, Matxcôva, 1980, t.18, tr. 151.
2 C. Mác – Ph. Ăngghen, toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, t. 20, tr. 89.
20

2. Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện, từ,...)
3. Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất)
4. Vận động sinh học (trao đổi các chất giữa cơ thể sống và môi trường)
5. Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội)
Vận động tuyệt đối, dứng im là tương đối. Sự đứng im đó chỉ được xác định trong một mối
quan hệ xác định, thời gian và một hình thức vận động xác định.
2.3. Không gian và thới gian
Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể
vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian.
Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, ở một khung cảnh nhất
định trong tương quan về mặt kích thước so với các khách thể khác. Các hình thức đó của vật thể
được gọi là không gian.
Sự tồn tại của khách thể vật chất được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu, mau, chóng của hiện
tượng, ở sự kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động, được gọi là thời gian. Thời gian là độ lâu
của sự biến đổi. Sự vật tồn tại và biến đổi trong bao lâu.
Đầu thế kỷ XX, thuyết tương đối của Anhxtanh ra đời. Thuyết tương đối đã bác bỏ tính bất
biến của không gian, thời gian; chứng minh tính biến đổi của không gian, thời gian gắn liền với sự
vận động của thế giới vật chất .
Lo = L1/[(1 – V2/C2)1/2]; To = T1/[(1 – V2/C2)1/2]
Qua đó không gian và thới gian là thuộc tính của vật chất không tách rời với nhau mà gắn kết
với nhau, nên không gian và thời gian mang tính khách quan. Vật chất là vĩnh cửu vô cùng vô tận,
nên không gian và thời gian cũng vĩnh cửu, vô tận.
Không gian ba chiều: chiều rộng, chiều dài, chiều cao; thời gian một chiều từ quá khứ, hiện tại,
tương lai.
3. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu ý thức
3.1. Nguồn gốc của ý thức
3.1.1. Nguồn gốc tự nhiên
Trên cơ sở của khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định “ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất
mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao, đó là bộ óc ngưới”.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Thuộc tính này được biểu
hiện ra thông qua sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Phản ánh là sự
tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình
tác động qua lại giữa chúng. Kết quả phụ thuộc vào cả hai vật: vật tác động và vật nhận tác động.
Vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp tới cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Trong giới tự nhiên vô sinh chỉ có phản ánh vật lý, hoá học. Những phản ánh này có tính
thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn. Trong giới tự nhiên hữu sinh, sự phản ánh đã phát
triển lên một trình độ cao hơn là phản ánh sinh học. Phản ánh sinh học trong cơ thể sống đã có sự
định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó các sinh vật mới có thể thích nghi với môi trường để duy trì sự tồn
tại của mình.
Phản ánh sinh học được thông qua các hình thức như: kích thích, cảm ứng, phản xạ, tâm lý và
ý thức. Kích thích là sự phản ánh ở thực vật. Cảm ứng là sự phản ánh ở động vật chưa có hệ thần
kinh. Phản xạ là sự phản ánh ở động vật có hệ thần kinh. Tâm lý là sự phản ánh ở động vật có bộ óc
phát triển cao. Ý thức chỉ tồn tại khi con người xuất hiện. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài
vào trong bộ óc người. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến
bộ óc thì ý thức không xảy ra.
3.1.2. Nguồn gốc xã hội
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động. Nhờ có lao
động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính,
những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện
tượng này tác động vào bộ óc người. Ý thức được hình thành không chỉ ở thế giới khách quan tác
động vào bộ óc người mà chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới và biến đổi nó của con người. Quá
trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ cải tạo thế giới, con người
21

đã phát hiện ra những bí mật của thế giới và làm phong phú, sâu sắc thêm ý thức của mình về thế
giới.
Trong quá trình lao động, con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tư tưởng
cho nhau. Chính nhu cầu đó đã xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội
dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này thì ý thức không tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ
vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể
khái quát hóa, trừu tượng hóa, tách khỏi sự vật cảm tính mới có thể suy nghĩ được. Nhờ có ngôn
ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của người này được truyền cho người kia, thế hệ này cho thế hệ khác.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ
và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là hiện tượng xã hội.
3.2. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh còn vật chất là cái được phản ánh. Cái được phản ánh
tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với ý thức con người. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách
quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất; là hình
ảnh tinh thần của sự vật khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức không phải là bản sao giản đơn
thụ động, thụ động máy móc của sự vật. Ý thức là sự phản ánh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu
thực tiễn xã hội.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có
thể tạo ra những tri thức mới về sự vật, để tưởng tượng ra những cái không có trong thực tế. Ý thức
có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả
thuyết, lý thuyết khoa học hết sức sức trừu tượng và khái quát cao, thậm chí ở một số người có khả
năng đặc biệt như tiên tri, thôi miên, ngoại cảm, thấu thị,... những khả năng đó đòi hỏi khoa học phải
tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng kỳ lạ đó.
Quá trình ý thức được thống nhất ở ba mặt sau:
Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này có định hướng và
có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá
trình sáng tạo lại hiện thực thành các ý tưởng tinh thần.
Ba là chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình thực hiện hóa tư tưởng,
thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại.
3.3. Kết cấu của ý thức
3.3.1. Theo chiều ngang
Ý thức theo chiều ngang bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý
chí. Trong đó, tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi.
Tri thức là kết quả con người nhận thức về thế giới, là kết quả của một quá trình phản ánh thế
giới. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức về khoa học tự nhiên, tri thức về xã hội, về
con người. Tri thức còn được phân chia dưới nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính, tri thức
lý tính, tri thức kinh nghiệm, tri thức lý luận, tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học. Mọi hiện
tượng ý thức đều có nội dung tri thức ở mức độ nhất định.
Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình đối với thực tại xung quanh
và đối với bản thân mình. Tình cảm được phân thành những thể đặc thù sau: tâm trạng, cảm xúc, xúc
động, dục vọng. Cảm xúc là cảm động ngắn. Tâm trạng là trạng thái cảm xúc kéo dài. Xúc động là
cảm xúc mạnh mẽ, sôi sục và tương đối ngắn. Dục vọng là một tình cảm mạnh mẽ trong thời gian
kéo dài. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở thành một động lực quan trọng
trong hoạt động của con người. Nhờ có tình cảm, tri thức mới biến thành hành động thực tế, mới
phát huy được sức mạnh của mình.
Lý trí là một phương thức suy lý, trình bày những tư tưởng của mình một cách nhất quán. Suy
lý là sự lập luận trong đó xuất phát từ một hay nhiều phán đoán tiền đề để rút ra phán đoán mới một
cách logic từ các phán đoán tiền đề.
Y chí là chí hướng của con người nhằm thực hiện những hành vi nào đó. Chí hướng đó có hai
cấp độ là tự phát và tự giác. Tính chất ý chí của hành động hay của hành vi được thể hiện rõ trong
22

những trường hợp con người phải khắc phục những trở ngại bên ngoài hay bên trong để đạt tời mục
đích. Khâu đầu tiên của hành động ý chí là việc đặt ra và nhận rõ mục đích, sau đó là việc quyết định
hành động, việc lựa chọn phương thức hợp lý thự chiện hành động. Việc thực hiện quyết định là một
việc cơ bản, tiêu chí đánh giá hành động có ý chí. Việc biết lựa chọn mục đích, đề ra quyết định
đúng đắn, thực hiện quyết định đó, biết tiến hành công việc đến cùng là kết quả của tri thức, sự giáo
dục và tự rèn luyện.
Niềm tin là sự tin tưởng. Sự tin tưởng có thể chia thành đức tin, lòng tin, cuồng tín, mê tín.
3.3.2. Theo chiều dọc
Đó là lát cắt theo chiều sâu của thế giới nội tâm của con người bao gồm các yếu tố như tự ý
thức, tiềm thức, vô thức.
Tự ý thức là ý thức của con người về hành vi, những tình cảm, tư tưởng, động cơ, lợi ích của
mình trong xã hội. Thông qua phản ánh thế giới xung quanh, con người ý thức về mình như một cá
nhân đang tồn tại, đang hoạt động, có tư duy, có cảm giác, có hành vi đạo đức và có vị trí trong xã
hội. Vai trò của tự ý thức là làm chủ hành vi con người.
Tiềm thức là những tri thức mà những tri thức đã có từ trước nhưng đã gần như trở thành bản
năng, nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể và trở thành ý thức dưới dạng tiềm năng. Tiềm thức là ý
thức ở dạng tiềm tàng. Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát
của cơ thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát
của chủ thể ấy. Tiềm thức có thể gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần
kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò trong khoa học là góp phần tránh sự quá tải
của đầu óc nhưng vẫn bảo tính chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử
của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự kiểm tra tính toán của lý trí. Vô
thức thường biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị
thôi miên, mặc cảm, lỡ lời. Mỗi hoạt động của vô thức có vai trò và chức năng riêng, song tất cả đều
là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng những ham muốn không được phép
bộc lộ ra mà phải thực hiện trong những khuôn phép của cộng đồng. Vô thức có vai trò xác lập thế
cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như:
ấm ức, “libido”, sự dày vò mặc cảm.
Nhờ vô thức con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết do thần kinh làm việc
quá tải. Vô thức có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động giáo dục thế hệ trẻ, trong hoạt động khoa
học và nghệ thuật. Vì vậy không thể phủ nhận vai trò của vô thức trong cuộc sống, nếu phủ nhận vô
thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người. Nhưng trong con người thì ý thức đóng vai
trò chủ đạo chứ không phải là ý thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được vô thức hướng tới chân
thiện mỹ.
4. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định
nguồn gốc, bản chất của ý thức. Vấn đề này được xét từ góc độ vấn đề cơ bản của triết học. Trong
đời sống xã hội, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ tác động qua lại, sự tác động của
ý thức đối với vật chất phải thông qua hành động của con người. Quan hệ vật chất và ý thức trong
đời sống xã hội là quan hệ tác động qua lại.
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức vì vậy trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, những quy luật của tự nhiên
và xã hội. Cho nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực
khách quan, dựa vào điều kiện vật chất, tuân thủ đầy đủ quy luật khách quan, lấy thực tế khách quan
làm căn căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Vì thế, không được lấy ý muốn chủ quan và tình cảm
làm điểm xuất phát cho quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay nhằm mục đích
xây dựng một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh để vững bước
đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là: “mọi đường lối,
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Vì thế trong giai
đoạn phát triển kinh tế xã hội hiện nay, chúng ta lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát và lấy con
người Việt Nam làm mục tiêu của sự phát triển nhanh bền vững.
23

Y thức có vai trò tác động trở lại vật chất thông qua hành động của con người, vì vậy trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết phát huy vai trò nhân tốc chủ quan, tính năng động của
con người. Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, bởi ý thức là ý thức
của con người. Bản thân ý thức không làm thay đổi hiện thực gì cả. Vai trò của ý thức được thể hiện
ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, hình thành mục tiêu, kế hoạch, ý chí, biện pháp cho hoạt
động của con người. Ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hai sai, thành công
hay thất bại trên cơ sở của những điều kiện khách quan nhất định.
Vai trò của ý thức, tư tưởng trước hết là nhận thức thế giới khách quan, từ đó làm cho con
người hình thành mục đích, phương hướng biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình. Sức
mạnh của ý thức được thể hiện khi biết dựa vào điều kiện vật chất, điều kiện khách quan, phản ánh
đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới. Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác về thế
giới khách quan thì việc cải tạo thế giới càng có hiệu quả. Vì thế cần phải phát huy tính năng động
sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người để cải tạo thế giới.
Với vai trò quan trọng của ý thức, thì việc “phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh bền vững”. Từ đó phải biết nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào
tạo nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Đó là con đường
duy nhất để thoát ra khỏi lạc hậu, đói nghèo một cách hợp pháp của cá nhân cũng như gia đình và xã
hội. Vì thế, trong giai đoạn hiện nay phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường,
phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu”.

Chương V
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN

1. Khái niệm nguyên lý


Trên cơ sở kế thừa phép biện chứng của Heghel và thế quan duy vật Feaurbach, dựa trên những
kết quả của khoa học tự nhiên và lịch sử của nhân loại, C.Mác và Ph.Angghen sáng lập ra triết học
duy vật biện chứng duy vật và phép biện chứng duy vật được V.I.Lênin phát triển. Phép biện chứng
duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và phát triển chung nhất của thế
giới làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học. Cho nên, “phép biện chứng là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”.
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ những nguyên lý được khái quát, đúc kết từ hiện
thực và phù hợp với hiện thực. Cho nên nó có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của của con người. Phép biện chứng duy vật được xuất phát
từ hai nguyên lý cơ bản: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
Nguyên lý là cơ sở đầu tiên, tư tưởng chỉ đạo quy tắc chủ yếu để hành động. Nguyên lý là sự
biểu hiện tất yếu hay quy luật của các hiện tượng. Nguyên lý là khái niệm trọng tâm, là cơ sở của hệ
thống, khái quát và vận dụng một luận điểm nào đó vào tất cả những hiện tượng của lĩnh vực mà từ
đó nguyên lý ấy được trừu tượng hóa.
2. Nguyên lý mối liên hệ phổ biến
2. 1. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hay giữa các mặt, các yếu tố của sự vật, hiện tượng trong thế
giới.
Thứ nhất, chủ nghĩa duy vật biện chứng coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Các hiện
tượng, sự vật và quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại nhau,
liên hệ, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau.
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện
tượng là do tính thống nhất vật chất của thế giới. Cho dù thế giới có đa dạng, phức tạp như thế nào
thì cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của thế giới vật chất.
2.2. Các tính chất của mối liên hệ
24

Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có của sự vật, hiện tượng. Không
ai có thể phá bỏ và chi phối mối các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng. Thông qua các mối liên
hệ con người có thể phát hiện quy luật, nguyên lý của thế giới khách quan.
Mối liên hệ của sự vật hiện tượng là phổ biến. Tính phổ biến được thể hiện ở chỗ là tất cả mọi
sự vật đều có mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác, không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối
liên hệ; mối liên hệ được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy theo trình độ kết cấu vật chất
nhất định. Những hình thức liên hệ riêng rẽ cụ thể, cụ thể được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu.
Phép biện chứng nghiên cứu mối liên hệ chung nhất, khái quát nhất.
Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là đa dạng, phong phú. Trong một sự vật có rất nhiều
mối liên hệ chứ không chỉ có một mối liên hệ. Nhưng tùy theo những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
các mối liên hệ tương ứng của chúng giữ vai trò quyết định. Còn sự phân chia từng loại mối liên hệ
chỉ có tính tương đối nhưng sự phân chia đó là rất cần thiết vì mỗi loại có vị trí, vai trò xác định
trong sự vận động và phát triển. Tính phức tạp của mối liên hệ phổ biến được thể hiện ở mối liên hệ
bên trong, mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ trực tiếp hay
mối liên hệ gián tiếp... Các mối liên hệ trên của sự vật, hiện tượng phụ thuộc vào từng giai đoạn khác
nhau của quá trình phát triển của sự vật.
Tóm lại, mối liên hệ là phổ biến, khách quan, đa dạng và phức tạp thể hiện ở tất cả mọi sự vật
và hiện tượng. Mối liên hệ này diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho ta quan điểm toàn diện trong nhận thức và trong hoạt
động thực tiễn, tránh quan điểm phiến diện, một chiều.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi nhận thức sự vật, chúng ta phài xem xét nó: (1) trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật nó; (2) trong mối
quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác.
Quan điểm toàn diện trong nhận thức đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật
đó. Như vậy quan điểm toàn diện không đồng nhất với quan điểm dàn trải mà nó đòi hỏi phải làm
nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện còn yêu cầu chúng ta phải biết sử dụng đồng
bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay đổi những liên hệ tương
ứng. Vì thế, trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải kết hợp chính sách “dàn đều” và “chính sách có
trọng điểm”.
Cần chú ý rằng một sự vật bao giờ cũng tồn tại trong một không gian, thời gian cụ thể. Do vậy,
quan điểm toàn diện còn đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Vận dụng quan điểm lịch
sử – cụ thể vào việc xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú ý
đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử – cụ thể đã làm phát sinh về vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển của
nó. Khi xem xét một quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó trong mối quan hệ như vậy.
3. Nguyên lý về sự phát triển
3.1. Khái niệm phát triển
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: “phát triển là một hình thức của vận động, nó khái
quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn”.
3.2. Tính chất của sự phát triển
Sự phát triển là khách quan. Phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan, nguyện vọng, ý chí, ý thức của con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật
vẫn luôn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất. Nguyên nhân của phát triển là
quá trình thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc; do
mâu thuẫn nằm ngay trong bản thân sự vật quy định và do quá trình phủ định của phủ định.
Sự phát triển là phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiều là nó diễn ra ở mọi lĩnh
vực: tự niên, xã hội và tư duy của con người. Trong giới vố cơ, sự phát triển thể hiện quá trình từ
đơn giản đến phức tạp. Trong giới hữu sinh, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng cường khả năng thích
nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Trong xã
hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội để tiến tới mức độ ngày
25

càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người. Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng
nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực tự nhiên và xã hội.
Sự phát triển là đa dạng, phong phú. Vì mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong không gian, thời
gian khác nhau, phát triển khác nhau. Đồng thời phát triển còn chịu sự tác động bỏi điều kiện, yếu tố
khác nhau. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng
phát triển, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi. Sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy của con người. nếu xét trong từng trường hợp cụ thể, có sự vật đi lên, thậm
chí có sự vật đi xuống. Song nếu xét cả một quá trình với không gian rộng và thời gian dài thì
khuynh hướng chung của mọi sự vật là đi lên.
3.3. Ý nghĩa của nguyên lý
Tự nhiên, xã hội và tư duy nằm trong quá trình vận động và phát triển không ngừng vì thế,
chúng ta cần phải có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng bào thủ, trì trệ. Điều đó có nghĩa là
khi xem xem xét sự vật và hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động và phát triển, phải phát hiện ra
xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng. Quan điểm phát triển không chỉ thấy sự vật là cái đang có
mà phải nắm khuynh hướng phát triển tương lai của nó.
Sự phát triển được diễn ra trong cả một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Quan điểm phát
triển được vận dụng vào quá trình nhận thức cũng đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức
tạp của quá trình phát triển là một hiện tượng phổ biến. Thiếu quan điểm như vậy, người ta dễ rơi
vào những bi quan, giao động khi gặp những khó khăn trắc trở trong đời sống xã hội.

Chương VI
NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1.Khái niệm phạm trù


1.1. Định nghĩa
Phạm trù là những khái niệm chung nhất, phản nánh những mặt, những thuộc tính, những mối
liên hệ cơ bản, phổ biến của các sự vật, hiện tượng thuộc lĩnh vực hiện thực.
Mỗi một ngành khoa học có những khái niệm riêng, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu
nghiên cứu những phạm trù chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
cơ bản và phổ biến của toàn bộ thế giới hiện thực.
1.2. Đặc điểm và tính chất của phạm trù
Phạm trù được hình thành trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, phạm trù là những
nấc thang của quá trình nhận thức.
Hình thức tồn tại của phạm trù là chủ quan nhưng nội dung của nó mang tính khách quan, bị
thế giới khách quan quy định. Phạm trù được hình thành bằng co đường khái quát hóa, trừu tượng
hóa, những mối liên hệ vốn có bên trong bản thân sự vật.
2. Phạm trù cái chung và cái riêng
2.1. Khái niệm
Cái riêng là một phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất
định.
Cái chung là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở
một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lập lại ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
Như vậy, bất kỳ sự vật nào cũng có cái chung và cái riêng, hai mặt này đều tồn tại khách quan.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mới biểu hiện sự tồn tại của mình.
Điều này có nghĩa là cái chung không tồn tại thuần túy bên ngoài cái riêng.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều này có nghĩa là không có cái riêng
nào tồn tại tuyệt đối độc lập, mà cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung, bởi vì
ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ
riêng nó có.
26

Cái chung là cái bộ phận nhưng chúng sâu sắc và bản chất hơn cái riêng. Cái chung là cái sâu
sắc hơn cái riêng, bởi vì nó phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất
nhiên ổn định phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại. Vì vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản
chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của sự vật.
Trong những trường hợp nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược
lại. Sự chuyển hóa của cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của sự phát triển đi lên, cái mới ra
đời thay thế cái cũ. Sự chuyển hóa của cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ,
cái lỗi thời.
Thế giới luôn vận động, phát triển nhưng nhận thức của con người tùy thuộc vào mỗi giai đoạn
lịch sử nhất định, vì thế phạm trù cũng thay đổi tuỳ theo sự nhận thức của mỗi con người.
Chú ý: Cái đơn nhất là để chỉ những nét, những mặt, những đặc điểm... chỉ có một sự vật và
hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở sự vật hiện tượng khác.

3. Ý nghĩa phương pháp luận


Nếu cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối mọi cái riêng thì trong nhận thức và hoạt
động nhận thức, chúng ta phải biết phát hiện ra cái chung, vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng.
Trong hoạt động thực tiễn nếu không biết những nguyên lý chung, phổ biến sẽ rơi vào tình trạng mò
mẫm, mù quáng. Muốn phát hiện ra cái chung cần phát xuất từ cái riêng.
Cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng, nên bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng
trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hóa. Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa đó, đem áp dụng
nguyên xi cái chung thì sẽ rơi vào bệnh dập khuôn, giáo điều. Ngược lại nếu xem thường cái chung
tuyệt đối hóa cái riêng sẽ rơi vào bệnh cục bộ địa phương chủ nghĩa.
III. Nguyên nhân và kết quả
1. Khái niệm
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra biến đổi nhất định.
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc
tính bên trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Mối liên hệ nhân quả mang tính khách quan, tất yếu và phổ biến: mối liên hệ nhân quả tồn tại
một cách khách quan, không tùy thuộc vào việc ta có thể nhận thức được hay là không, không tùy
thuộc vào việc tiên đoán về hiện tượng này hay hiện tượng khác; tính tất yếu thể hiện ở một nguyên
nhân nhất định trong những hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra kết quả nhất định, đó là tính tất
yếu. Tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả được biểu hiện như sau: nếu các nguyên nhân càng ít
khác nhau thì những kết quả do chúng gây nên càng ít khác nhau bấy nhiêu; Tính phổ biến ở tất cả
mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều được gây nên những nguyên nhân nhất
định. Không có hiện tượng nào mà không có nguyên nhân. Chỉ có điều là nguyên nhân ấy được phát
hiện hay chưa được phát hiện.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả bao
giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện.
Một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
Ngược lại một kết quả có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau mang lại.
Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì chúng sẽ gây nên
thì chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên
nhân khác nhau tác động lên sự vật theo hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn
toàn triệt tiêu tác dụng lẫn nhau.
Trong sự vận động của vật chất, không một nguyên nhân nào được coi là nguyên nhân đầu tiên
và không một kết quả nào gọi là kết quả cuối cùng. Trong mối liên hệ này sự vật, hiện tượng nào đó
được coi là nguyên nhân song trong mối quan hệ khác là kết quả.
Có thể phân các nguyên nhân ra thành: nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu, nguyên
nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Mối liên hệ nhân quả là tất yếu, khách quan, phổ biến nên không có sự vật nào là không có
nguyên nhân, chỉ có những nguyên nhân chưa được khám phá. Vì thế nhiệm vụ của nhận thức nói
27

chung, nhận thức khoa học nói riêng, chính là đi tìm những nguyên nhân chưa được phát hiện để có
thể hiểu đúng hiện tượng.
Một sự vật, hiện tượng có thể có nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân có vị trí khác
nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần
phân loại các nguyên nhân, đồng thời nắm được các nguyên nhân cùng chiều để tạo ra sức mạnh
tổng hợp và hạn chế nguyên nhân nghịch chiều.
Muốn tìm hiểu nguyên nhân phải xuất phát từ thế giới khách quan. Khi nhận thức được nguyên
nhân, quan hệ nhân quả là tất yếu, ta phải dựa vào mối quan hệ nhân quả mà hành động. Đẩy nhanh
biến đổi của hiện tượng xã hội cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều với chiều
vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phân loại các nguyên nhân: nguyên nhân bên trong,
nguyên nhân bên ngoài... để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân ngược chiều.
Muốn cho sự vật xuất hiện cần tạo ra nguyên nhân và điều kiện cho nó phát huy tác dụng. Trong
hoạt động thực tiễn phải dựa vào nguyên nhân bên trong và nguyên nhân chủ yếu.
IV. Tất nhiên và ngẫu nhiên
1. Khái niệm
Tất nhiên là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của sự vật, hiện tượng quyết định và
trong những điều kiện nhất định phải xảy ra như thế chứ không thể khác.
Ngẫu nhiên là cái không do mối liên bản chất, bên trong quyết định mà do những hoàn cảnh
ngẫu hợp của những hoàn cảnh bên ngoài quyết quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện hoặc không
xuất hiện, nó có thể xuất hiện thế này hoặc xuất hiện thế khác.
2. Mối liên hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Cái ngẫu nhiên và tất nhiên đều tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người. Trong sự
tồn tại và phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên và tất nhiên đều có vai trò nhất định. Nếu tất nhiên
có vai trò chi phối sự phát triển của sự vật, thì cái ngẫu nhiên có có ảnh hưởng đến sự phát triển của
sự vật ấy, có thể làm cho sự vật ấy có thể diễn ra nhanh hay chậm.
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ. Sự thống nhất hữu cơ đó thể
hiện ở chỗ cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình qua xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên,
còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, bổ sung cho cái tất nhiên. Điều đó có
nghĩa là cái tất nhiên bao giờ cũng là khuynh hướng của sự phát triển, nhưng khuynh hướng đó bao
giờ cũng bộc lộ mình thông qua cái ngẫu nhiên nào đó so với với chiều hướng chung. Bản thân cái
tất nhiên ấy chỉ có thể được biểu hiện thông qua những cái ngẫu nhiên. Còn những gì ta thấy là ngẫu
nhiên đã bao hàm cái tất nhiên.
Mối quan hệ giữa cái tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là cái tương đối. Tất nhiên và ngẫu nhiên
thường xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau,
tất nhiên biến thành cái ngẫu nhiên và ngẫu nhiên trở thành cái tất nhiên.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Tất nhiên là cái phải xảy ra như thế chứ không thể khác, còn ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra thế
này hoặc thế khác. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn ta phải biết dựa vào cái tất nhiên chứ không thể
dựa vào cái ngẫu nhiên.
Cái ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến quá trình phát triển của sự vật, đôi khi làm cho quá trình phát
triển bình thường của sự vật đột ngột biến đổi. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn cần có phương án
hành động dự phòng cho các trường hợp ngẫu nhiên bất ngờ xuất hiện, mới tránh được những yếu tố
bị động trong hoạt động thực tiễn.
Cái tất nhiên bao giờ cũng biểu lộ ra thông qua cái ngẫu nhiên và vạch đường đi của mình qua
vô số cái ngẫu nhiên. Vì vậy ta chỉ có thể nhận thức được cái tất nhiên qua vô số cái ngẫu nhiên.
V. Nội dung hình thức
1. Khái niệm
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật ấy, là hệ thống các mối liên hệ tương
đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
2. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
28

Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là khách quan, phổ biến. Không có một hình thức nào
lại không chứa một nội dung nhất định và không có một nội dung nào lại không tồn tại trong một
hình thức nhất định. Vì hình thức và nội dung gắn kết với nhau một cách chặt chẽ.
Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức là đa dạng, phức tạp. Tính phức tạp của mỗi quan hệ
giữa nội dung và hình thức thể hiện ở chỗ: cùng một nội dung trong tình hình pháp triển khác nhau
có thể có nhiều hình thức khác nhau và ngược lại; cùng một hình thức có thể thể hiện những nội
dung khác khác nhau.
Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, nội dung có khuynh hướng chủ đạo là biến
đổi còn hình thức có khuynh hướng chủ đạo là ổn định. Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ
cũng là sự biến đổi, phát triển của nội dung. Còn hình thức cũng biến đổi nhưng biến đổi chậm hơn
so với sự biến đổi của nội dung. Khi nội dung biến đổi thì hình thức phải biến đổi theo cho phù hợp
với nội dung mới.
Nội dung giữ vai trò quyết định hình thức nhưng hình thức cũng có tính độc lập nhất định và
tác động trở lại nội dung.
3.Ý nghĩa phương pháp luận
Nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau thì trong cuộc sống cần phải tránh cả hai thái cực:
tuyệt đối hóa hình thức, xem thường nội dung; tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức.
Một nội dung có nhiều hình thức và một hình thức chứa nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy,
trong hoạt động thực tiễn cần sử dụng một cách sáng tạo mọi hình thức có thể để phục vụ có hiệu
quả nhất định theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
Nội dung quyết định hình thức, khi nhận thức phải căn cứ vào nội dung và hoạt động thực tiễn
thì cần tác động làm thay đổi nội dung. Hình thức tác động ngược trở lại nội dung cho nên trong hoạt
động thực tiễn cần quan tâm theo dõi mối quan hệ giữa nội dung và hình thức để kịp thời can thiệp
làm cho hình thức phù hợp với nội dung.
VI. Bản chất và hiện tượng
1. Khái niệm
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên
trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ ấy ra bên ngoài.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau. Sự thống nhất đó trước hết được thể hiện ở chỗ
bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản
chất. Bản chất và hiện tượng về cơ bản là phù hợp nhau.
Trong sự vận động, phát triển của sự vật thì khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện biểu
hiện của nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện của nó cũng mất đi.
Bản chất và hiện tượng thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất giữa bản chất với hiện
tượng là một sự thống nhất giữa mâu thuẫn. Tính mâu thuẫn đó được thể hiện ở chỗ: sự đối lập giữa
cái bên trong và cái bên ngoài; cái tương đối ổn định và cái thường xuyên biến đổi. Bản chất phản
ánh cái chung, cái sâu xa, cái bên trong của sự vật. Hiện tượng phản ánh cái riêng, cái biểu hiện ra
bên ngoài. Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không ổn định, nó luôn biến
đổi nhanh hơn so với bản chất.
Sự thống nhất biện chứng giữa bản chất và hiện tượng là rất phong phú. Bản chất bộc lộ qua
hiện tượng, hiện tượng là bộc lộ của bản chất nhưng nhiều khi biểu hiện dưới dạng hình thức đã cải
biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định, quy định sự vận động, phát triển của sự vật, còn
hiện tượng là biểu hiện của bản chất ra bên ngoài là cái không ổn định, cái biến đổi nhanh chóng hơn
so với bản chất, nên trong nhận thức không được dừng ở hiện tượng mà phải đi sâu vào bản chất.
Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào bản chất chứ không dựa vào hiện tượng.
Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải nắm bắt được bản chất và dựa vào bản chất,
nhận thức khoa học phải vạch ra được cái bản chất đó. Tìm hiểu bản chất phải thông qua hiện tượng.
Hiện tượng biểu hiện dưới dạng đã bị cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất nên khi nhận thức
phải xem xét nhiều hiện tượng khác nhau, nhiều góc độ khác nhau. Nhưng cùng một lúc không thể
xem xét hết tất cả các hiện tượng, mà phải ưu tiên cho việc xem xét hiện tượng điển hình.
29

VI. Khả năng và hiện thực


1. Khái niệm
Khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới nhưng sẽ tới, sẽ có khi có các điều kiện thích hợp. Hiện
thực là những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
Tất cả mọi khả năng đều tồn tại thực sự, do hiện thực sản sinh ra, đều hình thành và lớn lên ở
ngay trong bản thân hiện thực. Những khả năng năng này có sẵn trong bản thân sự vật, do sự vật
sinh ra. Khả năng bao giờ cũng là khả năng thực tế. Có khả năng hình thành từ cái tất nhiên có khả
năng hình thành từ cái ngẫu nhiên. Khả năng tất nhiên lại được phân thành khả năng gần hay khả
năng xa.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
Khả năng và hiện thực có mối quan hệ với nhau, hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn
khả năng hướng tới biến thành hiện thực.
Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực diễn ra như sau: khả năng biến thành hiện thực và
hiện thực nảy sinh ra những khả năng mới. Khả năng mới lại có điều kiện thích hợp để trở thành
hiện thực.
Một sự vật có thể có tồn tại một số khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng. Ngoài một
số khả năng vốn có của sự vật trong những điều kiện đã có, khi có thêm điều kiện mới bổ sung thì sự
vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới.
Khả năng nào đó biến thành hiện thực cần rất nhiều điều kiện. Tập hợp đó gọi là điều kiện cần
và đủ nếu có nó thì khả năng nhất định sẽ biến thành hiện thực. Trong tự nhiên không phải mọi khả
năng đều biến thành hiện thực bằng “con đường tự nhiên”, “con đường tự nhiên và có sự tác động
của con người” và “không có sự tham gia của con người thì không thành hiện thực”.
Trong xã hội khả năng thành hiện thực đòi hỏi có sự hoạt động thực tiễn của con người. Khả
năng này không khi nào tự nó biến thành hiện thực nếu không có sự tham gia của con người.
Hoạt động có ý thức của con người trong đời sống xã hội có vai trò hết sức to lớn trong việc
biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến đổi khả năng thành
hiện thực, có thể điều khiển cho khả năng phát triển theo hướng này hay hướng khác bằng cách tạo
ra những điều kiện thích ứng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Khả năng và hiện thực có mối quan hệ với nhau, vì vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
phải nắm vững quan điểm này. Hiện thực là cái tồn tại thực, còn khả năng cái hiện chưa có nên trong
hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không dựa vào khả năng. Khả năng biểu hiện khuynh
hướng phát triển của sự vật trong tương lai, vì vậy ta phải tính đến các khả năng có thể để đưa ra
những chủ trương, kế hoạch hành động cho đúng.
Sự vật chứa đựng nhiều khả năng khác nhau, cho nên trong hoạt động thực tiễn cần tính đến
mọi khả năng, từ đó dự kiến các phương án hành động thích ứng cho từng trường hợp có thể xảy ra
thì mới có thể chủ động trong mọi trường hợp.
Khả năng thành hiện thực khi có đủ điều kiện cần thiết nên chỉ cần tạo cho nó các điều kiện.
Trong xã hội, khả năng biến thành hiện thực cần có sự tham gia của con người, vì vậy cần tạo mọi
điều kiện cần thiết để nhân tố con người có thể tham gia tích cực vào quá trình biến đổi hoặc ngăn
cản sự biến đổi khả năng thành hiện thực.

Chương VII

NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN


CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

I. Quy luật là gì?


1. Định nghĩa
Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và được lập đi lập lại giữa các mặt, các
yếu tố, các thuộc tính trong một sự vật hay giữa các sự vật với nhau.
Quy luật là quy luật khách quan vốn có ở thế giới vật chất. Nó không do ai sinh ra và không ai
có thể xóa bỏ nó được. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng nó vào đời sống.
30

2. Phân loại quy luật


Việc phân loại quy luật dựa vào tính phổ biến và lĩnh vực tác động. Căn cứ vào tính phổ biến,
các quy luật được chia: quy luật riêng, quy luật chung và quy luật phổ biến (quy luật chung nhất).
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được phân thành ba nhóm: quy luật của tự nhiên,
quy luật xã hội và quy luật của tư duy.
Phép biện chứng nghiên cứu những quy luật phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật có ba quy luật cơ bản: quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật này cho biết cách thức
của sự phát triển; quy luật thống nhất và đầu tranh của các mặt đối lập làm sáng tỏ nguồn gốc của sự
vận động và phát triển; quy luật phủ định của phủ định cho biết khuynh hướng của quá trình phát
triển.
II. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
1. Nội dung quy luật được là rõ thông qua một số phạm trù sau: “mặt đối lập” và “sự mâu
thuẫn”.
Khi nghiên cứu bất cứ một sự vật, hiện tượng chúng ta thấy chúng được tạo thành từ nhiều bộ
phận, nhiều mặt nhiều yếu tố, nhiều thuộc tính khác nhau. Trong các yếu tố cấu thành sự vật không
chỉ có các yếu tố khác nhau mà nó còn đối lập với nhau. Khái niệm “mặt đối lập” trong quy luật
mâu thuẫn là sự khái quát những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng trái ngược nhau nằm trong
một chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng. Sự tồn tại các mặt đối lập là hiện tượng khách quan và phổ
biến. Hai mặt đối lập này nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít lẫn nhau nhưng lại tác động
qua lại lẫn nhau tạo thành mẫu thuẫn.
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh
với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của hai mặt đối
lập, hai mặt đối lập liên hệ nhau ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền
đề tồn tại cho mình.
Đấu tranh của hai mặt đối lập là các mặt đối lập bài trừ nhau, phủ định nhau. Sự bài trừ, phủ
định lẫn nhau của hai mặt đối lập chỉ là một trong những hình thức đấu tranh của hai mặt đối lập.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến. Mâu thuẫn trong mọi sự vật và hiện tượng của
giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy. Mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở tất phổ biến ở tất cả sự vật,
hiện tượng và trong suốt quá trình phát triển của chúng. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác
hình thành.
Tính chất đấu tranh của hai mặt đối lập rất đa dạng, nó tuỳ thuộc vào tính chất, mối quan hệ,
phụ thuộc vào điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự thống nhất hai mặt đối lập là
tương đối, sự đấu tranh của hai mặt đối lập là tuyệt đối.
Sự đấu tranh của hai mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia từng giai
đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng. Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường biểu hiện ở sự khác
nhau của hai mặt. Song không phải bất cứ hia mặt khác nhau nào cũng là mâu thuẫn, chỉ có hai mặt
khác nhau nào liên hệ hữu cơ với nhau nằm trong một chỉnh thể có khuynh hướng phát triển trái
ngược nhau thì mới hình thành mâu thuẫn. Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau
đó biến thành sự đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột nhau gay gắt, nếu có điều kiện
chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Kết quả là sự
thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá hủy, sự thống nhất của hai mặt đối lập mới được hình thành
cùng với mâu thuẫn mới. mâu thuẫn này lại triển khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự
vật mới luôn phát triển thay thế sự vật cũ.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trình tồn tại và
phát triển của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu
tranh gắn liền với sự vận động và phát triển. Sự thống nhất là tương đối, sự đấu tranh là tuyệt đối. Vì
thế đấu tranh của hai mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
3. Một số loại mâu thuẫn
a. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nằm ngay trong bản thân sự vật; là mâu thuẫn có sự tác
động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập bên trong của một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài
31

là mâu thuẫn giữa các sự vật và hiện tượng với nhau; là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự
vật này với sự vật khác.
Việc phân chia loại mâu thuẫn này chũng chỉ có ý nghĩa tương đối, vì tùy theo mối quan hệ cụ
thể mà trong trường hợp này là mâu thuẫn bên trong nhưng trong trường hợp khác đó lại là mâu
thuẫn bên ngoài. Sự phân biệt này là cần thiết, vì mỗi loại mâu thuẫn có vị trí, vai trò riêng trong sự
vận động và phát triển của sự vật. Mâu thuẫn bên trong là nhân tố quyết định và mâu thuẫn bên
ngoài chỉ ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của sự vật.
b. Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quyết định bản chất chất và sự phát triển trong suốt giai đoạn
tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của
sự vật, nó ảnh hưởng đến một mặt nào đó của sự vật.
Việc phân tích mâu thuẫn có ý nghĩa rất quan trọng vì xác định được mâu thuẫn co bản mới
xác định được chiến lược đúng đắn.
c. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự
vật. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định ở giai đoạn đó.
Việc phân loại mâu thuẫn này chỉ có ý nghĩa tương đối, vì trong điều kiện này là chủ yếu, trong
điều kiện khác là thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là hình thức biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản ở từng
giai đoạn.
Việc tìm hiểu mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu trong từng thời kỳ là rất quan trọng để xác định
công việc trướng mắt, đề ra nhiệm vụ trung tâm cần giải quyết và đưa ra sách lượng kịp thời.
d. Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu
hướng xã hội có lợi ích đối lập nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực
lượng, khuynh hướng xã hội mà lợi ích cơ bản không đối lập nhau. Hai loại mâu thuẫn này chỉ tồn
tại trong xã hội có đối kháng giai câp.
Mâu thuẫn đối kháng đòi hỏi phải được giải quyết bằng bạo lực cách mạng, còn mâu thuẫn
không đối kháng được giải quyết bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục, phê bình và tự phê bình.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, cũng là nguồn gốc động lực của sự vận
động của sự phát triển vì vậy, đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải thừa nhận
tất cả các sự vật hiện tượng đều có mâu thuẫn và tìm ra mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là quá trình khách quan, phổ biến, đa dạng phức tạp. Vì vậy trong nhận thức và hoạt
động ta phải biết phân tích cụ thể và tìm cách giải quyết từng loại mâu thuẫn. Sự vật khác nhau, điều
kiện, quá trình, giai đoạn, đặc điểm khác nhau thì phải giải quyết từng loại mâu thuẫn khác nhau.
Phải thực hiện giải quyết mâu thuẫn bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập, không
được đều hòa mâu thuẫn. Mâu thuẫn phải được giải quyết trong điều kiện đã chín muồi và quyết tâm
thực hiện giải quyết mâu thuẫn.
III. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và
ngược lại
1. Định nghĩa về khái niệm chất và lượng
Chất là tính quy định vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc
tính làm cho nó là nó, nó không phải là cái khác.
Để nhận thức được chất với tư cách là tổng hợp các thuộc tính của nó vì vậy cần phải đặt nó
trong các quan hệ khác. Một sự vật có nhiều thuộc tính, thuộc tính nào là cơ bản nhất của sự vật thì
đó là chất của sự vật. Trong quá trình phát triển, biến đổi của sự vật chỉ khi nào thuộc tính cơ bản
thay đổi thì chất của sự vật thay đổi.
Lượng là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng biểu hiện về số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
Trong thực tế lượng có thể xác định được bởi những đơn vị như: cao, dài, thấp, nặng nhẹ,…
song có những tính quy định về lượng chỉ có thể biểu hiện dưới dạng trừu tượng và khái quát. Sự
phân chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối, tùy theo mối quan hệ mà nó là chất hay là lượng.
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại
32

Bất kỳ một sự vật, hiện tuợng nào cũng đều có sự thống nhất giữa chất và lượng. Trong quá
trình vận động và phát triển, chất và lượng luôn có sự biến đổi. Lượng thường có xu hướng là biến
đổi, chất có tính tương đối ổn định hơn. Sự thay đổi của lượng và chất có quan hệ thống nhất với
nhau. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở một độ nhất định.
Độ là sự thống nhất giữa chất và lượng, nó là khoảng giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về
lượng chưa làm thay đổi về chất.
Sự vận động và biến đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng so với chất.
Quá trình biến đổi lượng có thể diễn ra theo hướng tăng dần hoặc giảm dân. Khi lượng thay đổi vượt
điểm nút thì dẫn đến sự thay đổi về chất.
Điểm nút là thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Bất
kỳ chất và lượng thống nhất với nhau bởi một độ nhất định và bị giới hạn bởi hai điểm nút.
Sư thay đổi về chất được gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự chuyển hóa về chất do sự thay đổi
về lượng. Bước nhảy có các hình thức:
Xét dưới góc độ quy mô ta có: bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ.
Xét về nhịp độ ta có: bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
Quá trình thực hiện bước nhảy là hết sức đa dạng, phức tạp vì nó tùy thuộc vào từng giai đoạn
phát triển của sự vật. Một sự vật nào đó trong điều kiện cụ thể nào đó là đủ về lượng nhưng trong
điều kiện khác là chưa đủ về lượng.
Thực hiện bước nhảy chất mới ra đời. Chất mới ra đời lại hình thành lượng mới, lượng mới lại
biến đổi đến điểm nút mới, lại xảy ra bước nhảy mới và cứ như thế làm cho sự vật mới luôn xuất
hiện.
Chất mới ra đời tác động ngược trở lại lượng làm cho nó biến đổi. Chất mới có thể làm thay
đổi có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật.
Quy luật lượng chất là quy luật quy luật tác động biện chứng giữa chất và lượng, những thay
đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại. Sự biến đổi đó làm cho chất mới xuất hiện, chất
mới lại tiếp tục tích lũy về lượng làm cho sự vật phát triển không ngừng. Quy luật này diễn ra trong
tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu quy luật lượng chất cho ta trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn tránh tư
tưởng nóng vội “tả khuynh” mà phải biết tích lũy đủ về lượng là yêu cầu khách quan của sự phát
triển về chất. Vì vậy, nó có vai trò khác phục bệnh chủ quan, óng vội, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn.
Nghiên cứu quy luật lượng chất còn khắc phục tư tưởng bảo thủ “hữu khuynh” thường biểu
hiện ở chỗ không giám thực hiện bước nhảy, ỷ lại, đợi lệnh khi lượng đã đến điểm nút.
Khi tích lũy đủ về lượng, ta phải có thái độ khách quan khoa học và quyết tâm thực hiện bước
nhảy. Thực hiện bước nhảy trong đời sống xã hội phụ thuộc vào điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan. Yếu tố khách quan đòi hỏi phải biết tích lũy về lượng để làm thay đổi về chất. Yếu tố chủ
quan đòi hỏi phải xác định được quy mô và nhịp điệu, bước nhảy một cách khoa học, có quyết tâm
thực hiện bước nhảy, khi điều kiện chín muồi phải chủ động nắm bắt thời cơ, thực hiện kịp thời bước
nhảy khi điều kiện cho phép.
IV. Quy luật phủ định của phủ định
1. Khái niệm về phủ định và phủ định biện chứng
Một dạng nào đó của vật chất được sinh ra và bị thay thế bởi một dạng khác, triết học gọi sự
thay thế đó là sự phủ định. Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình
vận động và phát triển. Sự phủ định có hai quan điểm khác nhau: phủ định siêu hình và phủ định
biện chứng.
Phủ định siêu hình là phủ định sạch trơn, do nguyên nhân bên ngoài gây ra, có không có tính
kế thừa, không tạo tiền đề của sự phát triển.
Phủ định biện chứng là phủ định cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm ngay trong bản thân sự vật.
Như vậy, sự phủ định biện chứng có những đặc điểm sau: tính khách quan và tính kế thừa. Phép biện
chứng duy vật nghiên cứu sự phủ định biện chứng.
2. Quá trình phủ định biện chứng
Trong sự vận động và phát triển của sự vật thì sự phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ
định cái cũ nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và bị cái mới sau phủ định. Sư phủ định của sự vật qua
33

những lần phủ định như vậy, tạo ra khuynh hướng phát triển tất yếu là đi từ thất tới cao một cách vô
tận.
Hạt lúa Cây lúa Hạt lúa
Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau của các mặt đối lập trong
bản thân sự vật, đó là đấu tranh giữa cái khẳng địnhg và cái phủ định. Phủ định với tư cách là tổng
hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước trong cái khẳng định ban đầu và cả trong
cái phủ định tiếp theo. Vì thế nội dung của cái mới toàn diện hơn, phong phú hơn cái khẳng định ban
đầu và cái phủ định lần thứ nhất.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ của sự phát triển, đồng thới lại
là điểm xuất phát của một chu kỳ tiếp theo. Phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu đi lên của
sự vận động, phát triển của sự vật. Sự phát triển đi lên đó không diễn ra theo đường thẳng mà theo
đường “xoáy ốc”. Hình ảnh đường xoáy ốc diễn tả sự rõ ràng tính chất biện chứng của sự phát triển,
nói lên tính kế thừa tính lập lại, tính tiến lên của sự vận động và phát triển. Mỗi vòng xoáy ốc thể
hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp tới cao.
Cái mới ra đời là sự phủ định có tính kế thừa, có sự chọn lọc, giữ lại những yếu tố thích hợp để
chuyển sang cái mới, nó gạt bỏ những mặt tiêu cực, lạc hậu gây cản trở cho sự phát triển. Phủ định
biện chứng là quá trình tự đào thải, tự sàng lọc.
Sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan hết sức đa dạng và phong phú, do đó cần phân
tích cụ thể các bước phủ định của từng sự vật hiện tượng. Có sự vật, hiện tượng trải qua hia lần phủ
định thì hoàn thành chu kỳ của sự phát triển nhưng có cũng có những sự vật, hiện tượng phải qua ba,
bốn… mới hoàn thành chu kỳ phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết đúng đắn về xu hướng của sự phát triển. Quá
trình phát triển của sự vật và hiện tượng không diễn ra theo đường thẳng mà nó diễn ra theo con
đường quanh co phức tạp.
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta biết tương đối về đầy đủ cái mới. cái mới ra đời
là phù hợp với quy luật phát triển của sự vật, nó luôn biểu hiện qua các giai đoạn cao hơn về chất.
Trong tự nhiên cái mới phát triển một cách tự phát. Trong xã hội, cái mới xuất hiện gắn một cách tự
phát. Trong xã hội, cái mới gắn liền với sự nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Cái mới là cái phù hợp với quy luật, là cái tất thắng. Vì vậy, cần phải có thái độ đấu tranh cho
cái mới, ủng hộ cái mới, chống lại cái cũ, cái lỗ thời kìm hãm sự phát triển. Trong đời sống xã hội
cần ủng hộc cái mới, tạo điều kiện cho sự phát triển của cái mới, biết kế thừa, chọn lọc những yếu tố
tích cực và hợp lý ở cái cũ.
Qua việc nghiên cứu quy luật, ta thấy được vai trò quyết định của nguyên nhân bên trong, năng
lực bên trong, vì thế, đối với cá nhân và xã hội phải phát huy bằng chính năng lực của bản thân,
không chờ đợi bởi những yếu tố bên ngoài. Ta phải thừa nhận tính tất yếu của quá trình tự đào thải,
tự sàng lọc trong tự nhiên cũng như xã hội.

Chương VIII
LÝ LUẬN NHẬN THỨC

I. Bản chất của nhận thức


1. Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác
Nhận thức là gì? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Đã có nhiều quan
điểm khác nhau như: chủ nghĩa duy tâm khách quan, chủ nghĩa duy tâm chủ quan, thuyết bất khả tri,
thuyết hoài nghi, thuyết khả tri.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới và coi
nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Nhưng họ lại chưa thấy vai trò
của thực tiễn đối với nhận thức.
2. Quan niệm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức được thực hiện với sự ra đời của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Vấn đề nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng có bốn nguyên tắc sau:
34

Thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc lập với cảm
giác, tư duy và ý thức của con người.
Thứ hai, thừa nhận khả năng nhận thức của con người. Về nguyên tắc không có gì là không
thể biết. Chỉ có những cái chưa biết nhưng sự phát triển của khoa học, của kỹ thuật và thực thiễn con
người sẽ biết. Coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người, là hoạt động
tìm hiểu khách thể của chủ thể.
Thức ba, nhận thức không phải là quá trình thụ động giản đơn mà là một quá trình biện chứng
tích cực, sáng tạo. Nhận thức được diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn. Chính vì thế, kết quả nhận thức đi từ chưa biết đến
biết ít, từ biết ít đến biết nhiều, từ chưa sâu sắc đến sâu sắc hơn.
Thứ tư, cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn là mục đích của nhận
thức, là tiêu chuẩn đểm kiểm tra chân lý.
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc của con người. Nhờ có nhận
thức mà con người mới có ý thức về thế giới. Con người là chủ thể tích cực sáng tạo của nhận thức.
Khi nhận thức các yếu tố của chủ thể như lợi ích, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức đều tham gia
vào quá trình nhận thức. Khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó được coi người quan tâm
hướng tới nắm bắt, phản ánh nó. Vì thế, chủ thể nhận thức và khác thể nhận thức đều mang tính lịch
sử xã hội.
II. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
1. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Trước hết, thực tiễn là lao động sản xuất làm ra của cải vật chất nuôi sống con người và làm
đẹp xã hội. Vì thế, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức
đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thứ hai, thực tiễn là hoạt động chính trị – xã hội nhằm biến đổi các quan hệ xã hội và chế độ
xã hội.
Thứ ba, thực tiễn là còn là hoạt động thực nghiệm khoa học.
2. Vai trò của thực tiễn
Thực tiễn với tư cách là hoạt động có mục đích của con người. Nên thực tiễn có vai trò là cơ
sở, động lực, mục đích của nhận thức. Nó làm bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ, những
quy luật khác nhau của thế giới vật chất, đem lại những tư liệu, thông tin cho quá trình nhận thức.
Quá trình ấy đã
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Vì thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức. Thực tiễn đề ra
nhau cầu nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu
của con người là giải thích, cải tạo thế giới. Điều đó buộc con người phải tác động trực tiếp vào các
sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính hoạt động thực tiễn của con người làm
cho thế giới bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người nhận thức, cung những tư liệu,
thông tin của thế giới cho quá trình nhận thức. Từ đó, thực tiễn giúp cho con người nhận thức, nắm
bắt được bản chất, nguyên lý, quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Thực tiễn là động lực của nhận thức. Qua hoạt động thức tiễn con người không chỉ biến đổi tự
nhiên, biến đổi xã hội mà biến đổi bản thân mình về năng lực, phẩm chất. Nhờ năng lực đó, con
người lại có điều kiện đi sâu hơn vào thế giới, khám phá những bí mật của thế giới.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Chính thực tiễn đề ra nhu cầu và phương hướng phát
triển của nhận thức. Nhận thức nhằm mục đích là quay lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Nhận thức
phải quay về phục vụ thực tiễn. Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Lý
luận, khoa học chỉ có ý nghĩa khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân lý. Muốn biết chân lý được nhận thức đó có đúng hay
không? Một yêu cầu đặt ra là có giải quyết được vấn đề của thực tiễn hay không. Quan điểm này yêu
cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn. Nghiên
cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm
của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu.
III. Các cấp độ của quá trình nhận thức.
1.Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
35

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau của cùng một quá trình
nhận thức. Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức.
Nó được thể hiện dưới ba hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài, riêng lẻ sự vật, hiện tượng khi
chúng tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Cảm giác là kết quả của sự tác động của sự
vật vào các giác quan con người. cảm giác là nguồn gốc của sự hiểu biết.
Tri giác là hình ảnh tương đối toàn diện về sự vật khi. Nó đang trực tiếp tác động vào các giác
quan. Có thể nói, tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự
vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở cảm giác, là sự kết hợp các cảm giác làm cho tri thức về sự vật
tương đối đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Biều tượng là hình thức phản ánh
cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh động. Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần sẽ để lại
cho chúng ta hình ảnh ấn tượng về sự vật khi sự vật không còn trước mắt chúng ta. Hình ảnh đó
chính là biểu tượng. Biểu tưởng hiện ra khi có những tác nhân kích thích đến trí nhớ của chúng ta.
Hình thức cao nhất của biểu tượng là tưởng tượng, sự tưởng tượng mang tính năng động sáng tạo.
Giai đoạn nhận thức cảm tính, con người chưa phân biệt được cái gì là bản chất, tất nhiên…
Yêu cầu của nhận thức là phải đi sâu vào nhận thức cái bản chất, tất yếu, bên trong vì chúng có vai
trò quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Biểu tượng là hình thức trung gian quá độ cần
thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên trình độ nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai đoạn thứ hai của quá trình nhận thức. Nếu nhận
thức chỉ dừng lại ở giai đoạn nhận thức cảm tính thì chúng ta không thể đi sâu vào nghiên cứu
nguyên lý, những quy luật, bản chất của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính là sự phản ánh khái
quát, gián tiếp hiện thực khác quan, nó có thể đi sâu vào bản chất, nguyên lý, quy luật của sự vật
hiện tượng. Nhận thức lý tính được thể hiện qua các hình thức như: khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm là sự phản ánh những mối liên hệ, thuộc tính bản chất, phổ biến của sự vật hiện
tượng. Nó được hình thành từ sự khái quát hóa, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự
vật. Khái niệm là phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi kiến thức cho
nhau.
Phán đoán là sự liên kết các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối
liên hệ nào đó của hiện thực khác quan. Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người.
Suy luận là sự liên kết nhiều phán đoán tiền đề để rút ra một phán đoán mới mang tính kết
luận. Nhờ đó, con người đi từ những cái đã biết đến những cái chưa biết một cách gián tiếp và nhận
thức sâu hơn, đầy đủ hơn về hiện thực khách quan.
Giữa nhận thức cảm tính và lý tính có sự thống nhất biện chứng. Theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau nhưng
có vai trò khác nhau trong việc nhận thức thế giới. Nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp, cụ
thể, sinh động sự vật, còn nhận hức lý tính phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng khái quát. Nhận
thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lý tính; không có nhận thức lý tính thì không thể nắm bắt được
bản chất và quy luật của sự vật.
2. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
Dựa trên cấp độ xâm nhập vào bản chất của đối tượng nhận thức, ta có thể phân chia thành
nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.
Nhận thức kinh nghiệm là quá trình nhận thức thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nhận thức kinh nghiệm thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm. Tri thức kinh nghiệm nảy sinh một
cách trực tiếp từ thực tiễn: từ lao động sản xuất, đấu tranh cải tạo xã hội và thực nghiệm khoa học.
Tri thức kinh nghiệm có hai loại:
Thứ nhất tri thức kinh nghiệm thông thường thu được từ những quan sát hàng ngày trong cuộc
sống và lao động sản xuất.
Thứ hai tri thức kinh nghiệm thu nhận được từ thí nghiệm khoa học.
Hai loại tri thức này ngày càng thâm nhập lẫn nhau. Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở các lĩnh
vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện qua quan sát và thí nghiệm. Tri thức kinh nghiệm là
36

cơ sở để chúng ta kiểm tra lý luận, sửa đổi, bổ sung lý luận đã có, tổng kết khái quát thành lý luận
mới.
Nhận thức lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức
về tự nhiên và xã hội mà con người đã đạt được trong lịch sử. Lý luận mang tính trừu tượng và khái
quát quát cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng khách quan. Do đó phạm vi ứng dụng của tri thức lý luận phổ biến và rộng hơn nhiều so với
tri thức kinh nghiệm. Nhờ đó lý luận có vai trò là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn của con
người.
Lý luận mà thâm nhập vào quần chúng thì nó trở thành sức mạnh vật chất. Lý luận có thể dự
kiến được tương lai làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng
mò mẫm, tự phát. Tuy nhiên, lý luận mà xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Vì vậy, phải coi
trọng lý luận nhưng không được cường điệu lý luận, coi thường thực tiễn, tách rời khỏi thực tiễn.
Điều đó có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức
khoa học và hoạt động cách mạng.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận có vai trò
quan trọng trong việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Trong
cuộc sống nếu chỉ dừng lại ở kinh nghiệm, chỉ dựa vào kinh nghiệm, thỏa mãn vốn liếng kinh
nghiệm của bản thân coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hoá kinh nghiệm mà coi nhẹ lý luận, ngại
học tập lý luận, ít am hiểu lý luận thì mắc vào bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Mặt khác, nếu coi trọng
lý luận, tuyệt đối hoá lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch thì rơi
vào bệnh giáo điều.

3. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học


Căn cứ vào tính tự phát hay tính tự giác của bản chất nhân thức, ta có thể chia thành nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học.
Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) được hình thành một cách tự phát, trực tiếp
từ cuộc sống hàng ngày và trong lao động sản xuất. Nhận thức thông thường do yêu cầu của cuộc
sống trực tiếp hàng ngày. Nhận thức thức thông thường phản ánh môi trường tự nhiên, xã hội gần
gũi với đời sống của con người. Nhận thức thông thường có vai trò thường xuyên và phổ biến, chi
phối mọi hoạt động của con người. Trên cơ sở nhận thức thông thường con người hình thành thế giới
quan, nhân sinh quan và chuẩn mực của cuộc sống. Chính nhận thức thông thường là kho tàng để các
khoa học cụ thể, triết học, nghệ thuật tìm kiếm nội dung của mình.
Nhận thức khoa học được hình thành một cách tự giác và mang tính trừu tượng, khái quát
ngày càng cao. Nhận thức khoa học hướng tới nắm bắt cái quy luật, cái bản chất của hiện thực và
đến lượt mình, các phạm trù, quy luật lại trở thành chỗ dựa cho nhận thức khoa học tiếp theo. Nhận
thức khoa học phải dựa vào sự thật và lý trí. Tri thức khoa học phải có tính hệ thống và tính có căn
cứ. Đây là đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt nhận thức thông thường. Khoa học là một hệ thống
chỉnh thể các khái niệm, phạm trù, quy luật có liên hệ nội tại và có tính chân thực. Để mô tả, nghiên
cứu khách thể nhận thức khoa học không thể sử dụng ngôn ngữ thông thường mà còn sử dụng ngôn
ngữ “nhân tạo”, chuyên môn hoá.
Nhận thức khoa học còn sử dụng một hệ thống các phương tiện và phương pháp nghiên cứu
chuyên môn. Ngày nay, nhận thức khoa học không thể tiến hành được nếu thiếu máy móc, các
phương tiện kỹ thuật hiện đại như kính thiên văn, kính hiển vi điện tử,... Phương pháp chuyên môn
như phân tích và tổng hợp; lịch sử và logic; hệ thống cấu trúc...
Như vậy, nhận thức thông thường là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học.
Nhận thức thông thường muốn phát triển thành nhận thức khoa học phải có các nhà khoa học,
chuyên gia có khả năng tổng kết nhận thức thông thường. Nhận thức khoa học cũng ngày càng thâm
nhập sâu hơn vào nhận thức thông thường làm cho nhận thức thông thường của con người và xã hội
ngày càng cao.
IV. Chân lý
1. Khái niệm chân lý
Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được thực tiễn kiểm nghiệm.
2. Các tính chất của chân lý
37

Chân lý mang tính khách quan, chân lý là do con con người nhận thức nhưng nội dung của nó
không phụ thuộc vào ý thức con người.
Chân lý mang tính cụ thể, nghĩa là không có chân lý trừu tượng, chung chung mà bao giờ cũng
gắn với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Tính tuyệt đối và tương đối của chân lý: Chân lý tương đối là tri thức phản ánh đúng đắn hiện
thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần được bổ sung, điều chỉnh trong quá trình
phát triển tiếp theo của nhận thức. Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế
giới khách quan.
Nếu cường điệu hóa chân lý truyệt đối, hạ thấp chân lý tương đối sẽ rơi vào quan điểm siêu
hình, chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ trì trệ. Ngược lại nếu cường điệu chân lý tương đối, từ đó đi đến
chủ nghĩa chủ quan, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và thuyết không thể biết.
V. Các phương pháp nhận thức khoa học
1. Khái niệm “phương pháp”
Theo nghĩa thông thường, phương pháp là những cách thức, con đường, thủ đoạn được chủ thể
sử dụng để đạt được mục đích nào đó.
Theo nghĩa khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc mà chủ thể phải thực hiện
nhất quán trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Nội dung của phương pháp là do đối tượng nghiên cứu quy định. Nó là công cụ có hiệu quả và
có tính quyết định đến phương hướng nghiên cứu sự vật được xác định đúng đắn. Đối tượng nghiên
cứu rất đa dạng nên phải có những phương pháp phù hợp. Tùy theo tiêu chí khác nhau mà phương
pháp được chia thành các loại khác nhau.
Nếu dựa vào mức độ phổ biến và phạm vi ứng dụng thì phương pháp được chia thành phương
pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp phổ biến.
Nếu dựa vào mục đích và chức năng thì phương pháp có thể được chia thành phương pháp hoạt
động thực tiễn và phương pháp nhận thức.
Việc phân loại các phương pháp trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi phương pháp có chức năng,
vai trò, nhiệm vụ khác nhau và không thể thay thế cho nhau.
2. Một số phương pháp nhận thức khoa học
Quan sát là phương pháp nghiên cứu để xác định các thuộc tính và quan hệ của sự vật, hiện
tượng riêng lẻ của thế giới xung quanh xét trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó. Quan sát trong
khoa học chủ thể có chủ định trước, có chương trình nghiêm ngặt để thu thập các sự kiện khoa học
chính xác và đồng thời phải sử dụng các công cụ, phương tiện quỹ thuật như máy chụp, kính hiển vi,
kính thiên văn…
Thí nghiệm là phương pháp nghiệm cứu các sự vật, hiện tượng bằng cách sử dụng các phương
tiện vật chất để can thiệp vào trạng thái tự nhiên của chúng nhằm tạo ra cho chúng ta những điều
kiện nhân tạo, tách chúng thành các bộ phận và kết hợp chúng lại, sản sinh chúng ra dưới dạng thuần
khiết.
Nếu quan sát không can thiệp vào đối tượng, thì thí nghiệm tác động vào khách thể, thay đổi
điều kiện tồn tại của sự vật làm cho chúng bộc lộ những thuộc tính. Thí nghiệm bao giờ cũng được
tổ chức thực hiện dưới sự chỉ đạo của một ý tưởng khoa học và trên cơ sở của một lý thuyết khoa
học. Nhờ có thí nghiệm người ta chính xác hóa, chỉnh lý các giả thuyết và các lý thuyết khoa học.
Phân tích và tổng hợp: Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận
để đi sâu nhận thức các bộ phận đó. Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận đã
được phân tích nhằm nhận thức cái toàn bộ. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức
khác nhau song lại thống nhất biện chứng với nhau.
Quy nạp và diễn dịch: quy nạp là phương pháp đi từ tri thức về cái riêng đến tri thức về cái
chung, từ tri thức chung đến tri thức chung hơn. Diễn dịch là phương pháp đi từ tri thức về cái chung
đến tri thức về cái riêng, từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn. Quy nạp và diễn dịch đều dẫn
tới tri thức mới, từ cái biết rồi để tìm cái chưa biết, tức là khám phá ra tri thức mới.
Lịch sử và logíc: lịch sử là phạm trù chỉ quá trình phát triển và diệt vong của sự vật hiện tượng.
Ý thức tư tưởng cũng có lịch sử của mình với tính cách là lịch sử của quá trình phản ánh. Logic có
hai nghĩa: một, nó chỉ tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật, đó là logic khách quan của sự vật; hai,
nó chỉ mối liên hệ tất yếu nhất định giữa các tư tưởng phản ánh thế giới khách quan vào ý thức con
38

người. Đó là logic của tư duy, của lý luận. Phương pháp lịch sử và logic là hai phương pháp nghiên
cứu khác nhau, nhưng lại thống nhất biện chứng lẫn nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau.
Từ trừu tượng đến cụ thể: các sự vật hiện tượng khách quan bao giờ cũng tồn tại dưới dạng cụ
thể. Cái cụ thể được phản ánh trong nhận thức có hai hình thức: cái cụ thể cảm tính và cụ thể trong
tư duy. Cái cụ thể cảm tính là điểm bắt đầu của nhận thức. Còn cái cụ thể trong tư duy là kết quả của
tư duy lý luận, của sự nghiên cứu khoa học phản ánh cụ thể khách quan bằng hệ thống những khái
niệm, phạm trù, quy luật. Cái trừu tượng là một trong những yếu tố vòng khâu của quá trình nhận
thức. Cái trừu tượng là kết quả sự trừu tượng hóa một mặt, một mối liên hệ nào đó trong tổng thể
phong phú của sự vật. Vì vậy cái trừu tượng là một bộ phận của cái cụ thể, biểu hiện một mặt nào đó
của cái cụ thể, là bậc thang của sự xem xét cái cụ thể. Từ nhiều cái trừu tượng, tổng hợp lại lại thành
cái cụ thể trong tư duy. Nhận thức đi từ cái cụ thể cảm tính đến cái trừu tượng và từ cái trừu tượng
đến cái cụ thể trong tư duy.

Chương X
HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI

I. Tự nhiên và xã hội
1. Xã hội – một bộ phận của tự nhiên
Tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất vô cùng vô tận. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản
sinh ra sự sống theo quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người xuất hiện từ động
vật. Con người và xã hội loài người là một bộ phận của tự nhiên. Con người là hạt nhân của sự thống
nhất biện chứng giữa xã hội và tự nhiên. Vì thế về mặt tự nhiên con người cũng tuân thủ nghiêm
ngặt những quy luật sinh học như đồng hóa, dị hóa, biến bị, di truyền, thích nghi, lão, sinh, tử,...
Chính sự phát triển, tiến hóa của tự nhiên đã diễn ra quá trình biến đổi từ động vật thành người;
quá trình chuyển biến từ hành động mang tính quy luật của sự sinh tồn thành quá trình hành động
theo đuổi những mục đích trong cộng đồng, ta gọi là xã hội. Đó là quá trình vận động sinh học
chuyển sang vận động xã hội.
Xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này lấy mối
quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Các mối liên hệ,
quan hệ của con người được hình thành trong quá trình lao động sản xuất, nó trở thành cơ sở của tất
cả những quan hệ xã hội khác, kể cả những quan hệ tư tưởng. Xã hội là một bộ phận của tự nhiên, là
một hình thức vận động cao nhất của thế giới vật chất. Xã hội vận động theo những quy luật khách
quan vốn có của thế giới vật chất.
2. Đặc điểm của quy luật xã hội
Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, vừa là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
người và người. Các quan hệ xã hội là sản phẩm hoạt động của con người. Quy luật xã hội là hoạt
động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình. Xã hội loài người vừa phải tuân thủ theo
những quy luật của tự nhiên, vừa phải tuân thủ theo những quy luật của xã hội. Quy luật xã hội phải
mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của một quy luật nói chung. Quy luật phát triển xã hội là
những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu, lặp đi, lặp lại giữa các hiện tượng của đời sống xã
hội.
Sự tác động của quy luật xã hội xã hội diễn ra thông qua hoạt động của con người. Động lực cơ
bản thúc đẩy con người hoạt động trong mọi thời đại, mọi xã hội là lợi ích của chủ thể hoạt động. Do
vậy lợi ích trở thành một yếu tố quan trọng trong hoạt động của quy luật xã hội và trong sự nhận
thức về nó. Lợi ích đó hướng đến tính ưu trội của xu hướng xã hội. Vì thế nó trở thành nguồn gốc
động lực của sự vận động và phát triển xã hội.
Quy luật xã hội thường biểu hiện ra như một xu hướng, không trực tiếp ở từng người, từng
việc. Xu hướng đó được thể hiện trong xã hội của mỗi cá nhân có ý muốn, mục đích, khác nhau,
chồng chéo nhau, thậm chí đối lập, mâu thuẫn nhau nhưng quy luật xã hội phản ánh những ý muốn,
mục đích của khối đông người, phù hợp với xu hướng vận động và phát triển của lịch sử. Xu hướng
này là khách quan, không có một thế lực nào có thể điều khiển được. Quy luật xã hội không thể thực
nghiệm, kiểm tra như những quy luật của tự nhiên.
39

Nhận thức được quy luật xã hội, tính tất yếu, khách quan của đời sống xã hội và vận dụng quy
luật xã hội vào đời sống thì con người được tự do. Quy luật xã hội là tất yếu, khách quan, không ai
có thể xóa bỏ, tạo ra quy luật theo ý muốn chủ quan. Nhưng con người có thể nhận thức và vận dụng
quy luật xã hội vào hoạt động có mục đích của mình. Khi chưa nhận thức được quy luật xã hội thì
con người hành động tự phát là nô lệ của tính tất yếu. Nhưng khi nhận thức được quy luật, cái tất yếu
thì con người điều khiển hoạt động của mình theo quy luật một cách tự giác và con người tự do trong
hoạt động của mình. Như vậy, tự do không có nghĩa là tùy tiện bất chấp quy luật; trái lại, tự do là
nhận thức cái tất yếu và làm thoe cái tất yếu nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội để thỏa mãn nhu cầu của
mình. Khi nhận thức được cái tất yếu thì hoạt động của con người càng tự do.
3. Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển xã hội
Sản xuất là đặc trưng riêng của con người và xã hội loài người; là quá trình hoạt động có mục
đích và quá trình không ngừng sáng tạo của con người.
Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân
con người. Ba quá trình này không tách rời nhau, nhưng trong đó, sản xuất vật chất giữ vai trò cơ
sở của sự tồn tại và phát triển xã hội, xét đến cùng quyết định đến toàn bộ sự vận động của đời sống
xã hội. Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, cũng là các cơ sở của các quy luật
xã hội.
Thực tiễn lịch sử xã hội loài người cho thấy mọi quan hệ phức tạp như: chính trị, pháp luật,
nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, khoa học... đều nảy sinh và biến đổi trên cơ sở của đời sống sản xuất
vật chất. Bởi thế đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, người ta chỉ có thể đạt tới sự giải thích
có căn cứ, nều bằng cách này hay cách khác, sự giải thích ấy được xuất phát từ nền sản xuất vật chất
xã hội.
II. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1. Khái niệm PTSX, LLSX, QHSX
a.Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người làm ra của cải vật chất ở những giai đoạn lịch sử
nhất định. Mỗi giai đoạn lịch sử được xác định bởi một phương thức sản xuất nhất định. Đó là nhân
tố quyết định tính chất, kết cấu xã hội, quyết định sự vận động, phát triển xã hội. Phương thức sản
xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân chia được sự khác nhau của các thời đại kinh tế khác
nhau. Phương thức sản xuất – cách thức tiến hành làm ra của cải vật chất chính là quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất.
b. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản là sự xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Quan hệ đó là
quan hệ con người đã khai thác, cải tạo, chinh phục tự nhiên bằng tổng hợp sức mạnh của mình. Lực
lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất xã hội. Lực lượng sản
xuất bao gồm: người lao động và tư liệu sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, con người giữ vai trò
quyết định, công cụ lao động giữ vai trò quan trọng.
Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tư liệu lao động có công cụ lao
động và tư liệu lao động khác cần thiết cho việc vận chuyển bảo quản sản phẩm. Tư liệu lao động là
phức hợp vật thể, phương tiện để con người tác động vào đồi tượng lao động. Đối tượng lao động là
một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sàn xuất. Đối tượng có sẵn trong tự nhiên và được con
người tạo ra.
Đối tượng lao động và phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động
sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển của tư liệu lao động, công cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình độ phát triển sản xuất,
là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại.
Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp
với lao động sống. Con người với trí tuệ, kinh nghiệm đã tạo ra tư liệu lao động và sử dụng nó để
thực hiện sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu nhưng nếu tách khỏi người lao
động thì cũng không thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.
Sự hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí trí thông minh, sự hiểu biết, kinh nghiệm,
phẩm chất, thói quen phụ thuộc vào tư liệu sản xuất hiện có, vào chỗ cho sử dụng tư liệu lao động.
Sự phụ thuộc này là sự phụ thuộc của nhân tố chủ quan vào nhân tố khách quan. Ngược lại, con
40

người không chỉ sử dụng công cụ lao động hiện có mà còn sáng chế ra những công cụ lao động mới.
Những tư liệu này là lực lượng vật chất của tri thức con người. Những tri thức khoa học, kinh
nghiệm, thói quan đều cần thiết để hoàn thiện kỹ thuật, phương pháp sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu loa động thích ứng với bản thân
con người, với sự phát triển của văn hóa, khoa học, kỹ thuật. Năng suất lao động xã hội là thước đo
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong những thập kỷ gần đây làm thay đổi cơ bản của
kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất. Trong các ngành sản xuất hiện nay, yếu tố thông tin và tri
thức, phương thức tiến hành đặt ở vị trí hàng đầu và các yếu tố như tài nguyên, khoáng sản, vốn...
xuống phía sau. Đầu thế kỷ XX, tỷ lệ lao động cơ bắp chiếm 90% giá trị sản phẩm và giảm xuống
còn 20%(1990), trong khi đó năng suất lao động tăng lên 50 lần so với 80 năm về trước. Cách đây 20
năm, năng lượng, tài nguyên, vật liệu, máy móc, thiết bị chiếm từ 70% đến 80% giá trị sản phẩm còn
lại là học vấn và tri thức thì nay “tỷ lệ đó đã đảo ngược”, ước tính vào năm 2010 thì tỷ lệ giá trị lao
động chân tay giảm còn 10% trong sản phẩm.
c. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất
đượ chình thành trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất tuân theo những quy luật tất yếu, khách
quan của sự vận động phát triển xã hội. Quan hệ sản xuất được thể hiện trên ba mặt: (1). Quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất; (2). Các quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất; (3). Các quan hệ trong
phân phối sản phẩm lao động.
Tính chất của quan hệ sản xuất được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Nó
biểu hiện thành chế độ sở hữu và là đặc trưng cơ bản của một phương thức sản xuất cụ thể. Quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Tuy nhiên trình
độ tổ chức, quản lý và phân phối sản phẩm có vai trò quan trọng. Vai trò này có góp phần củng cố
quan hệ sở hữu hoặc làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Lịch sử đã được chứng kiến sự tồn tại của hai hình thức sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất:
sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội (công công). Sở hữu xã hội là loại hình sở hữu mà ở đó tư liệu sản
xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng. Do tư liệu sản xuất là tài sản chung nên quan hệ xã
hội trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Chế độ tư hữu do tư liệu sản xuất chỉ nằm
trong tay một số ít người nên của cải xã hội không phụ thuộc về số đông mà thuộc về số ít. Các quan
hệ xã hội do đó trở thành quan hệ bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị.
d. Tính chất, trình độ và sự phù hợp
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của quá trính sản xuất ra sản phẩm. Tính chất này
phụ thuộc vào tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động. Tính chất của lực lượng sản xuất thể
hiện ở việc con người sử dụng công cụ lao động mang tính chất cá nhân hay tính xã hội. Trình độ lực
lượng sản xuất là trình độ phát triển công cụ lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm, kỹ thuật, trình độ phân
công lao động. Trình độ lực lượng sản xuất nâng cao thì sự phân công lao động càng tỷ mỉ.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng
thái mà ở đó quan hệ hệ sản xuất tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất. Trong trạng thái phù hợp, cả
ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới sự thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo
điều kiện tối ưu cho việc sử dụng kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất. Trong đều kiện như
vậy, lực lượng sản xuất có điều kiện phát triển hết khả năng.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai nhân tố hợp thành phương thức sản xuất. Chúng
tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau hình thành quy luật phổ biến của sự
phát triển xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Trong đó lực lượng sản xuất là cơ sở để thiết lập quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất cũng
có vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất làm cho phương thức sản xuất phát triển từ thấp tới cao,
thay đổi hình thái kinh tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển do lực lượng sản xuất quyết định. Lực
lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất phải tương ứng, phù hợp; quan hệ giữa con người
với tự nhiên quyết định hình thành quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.
Khuynh hướng chung của nền sản xuất xã hội là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó bao
giờ cũng được bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là của công cụ lao
41

động. Xét cho cùng lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định đối với sự biến đổi phương thức sản
xuất. Trình độ lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất.
Mâu thuẫn này ngày một gay gắt trở thành xiềng xích trói buộc kìm hãm sự phát triển lực lượng sản
xuất. Lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ thiết lập quan hệ sản xuất
mới phù hợp với nó, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất cũng có nghĩa là sự diệt vong của
phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới cao hơn.
Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn
trong quá trình sản xuất nhưng mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp. Mâu
thuẫn này trở thành cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề tất yếu của
các cuộc cách mạng xã hội.
Quan hệ sản xuất có tính tương đối độc lập tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động đó
sẽ quy định mục đích, quy mô, tốc độ, hiệu quả, khuynh hướng phát triển của sản xuất. Quan hệ sản
xuất còn quy định hệ thống tổ chức, quản lý, quy định phương thức phân phối sản phẩm có vai trò
tác động cho lực lượng sản xuất phát triển. Do đó, nó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Việc sử dụng quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ thống quan
hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động có khả năng
kích thích trực tiếp vào lợi ích, thái độ của người lao động.
Quan hệ sản xuất mang tính tương đối độc lập thể hiện ở các mặt quan hệ sản xuất có sự tác
động qua lại lẫn nhau. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định hai quan hệ còn lại nhưng hai
quan hệ còn lại tác động trở lại quan hệ sở hữu. Sự tác độn trở lại của tổ chức, quản lý, phân phối sản
phẩm có thể củng cố hoặc làm biến dạng chế độ sở hữu.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội, chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên một hình thái
kinh tế xã hội mới cao hơn. Đây là quy luật phổ biến tác động đến toàn bộ tiến trình lịch sử từ chế độ
công xã nguyên thủy đến chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa trong tương lai.
Thực tiễn đã chứng minh lực lượng sản xuất chỉ được phát triển khi có quan hệ sản xuất hợp lý,
đồng bộ và phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc “tiên tiến quá” sẽ kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ
gay gắt đòi hỏi phải được giải quyết. Nếu mâu thuẫn đó không được giải quyết hoặc giải quyết một
cách sai lầm, chủ quan thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất trở thành nhân tố phá hoại lực
lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Vận dụng quy luật phổ biến vào
công cuộc đổi mới thể hiện rõ ở tính tất yếu việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển của
lực lượng sản xuất ở nước ta trong điều kiện ngày nay. Điều đó cho phép khai thác mọi tiềm năng về
vốn, nguồn lực con người, thúc đẩy phân công lao động xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Thúc đẩy xã hội đòi hỏi phát triển lực lượng sản xuất vì vậy, chúng ta thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, coi giáo dục, đào tạo, khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; con người là nguồn lực cơ bản của sự phát triển nhanh bền
vững.
III. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1. Phạm trù cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Phạm trù cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội hiện thực hợp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội đó.
Trong bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào bên cạnh quan hệ sản xuất thống trị còn có quan hệ
sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Cho nên cơ sở hạ
tầng cụ thể được biểu hiện bởi đặc trưng quan hệ sản xuất thống trị. quan hệ sản xuất thống trị là cái
giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và quyết định đối với toàn bộ cơ sở hạ tầng. Tư tưởng thống trị
của xã hội bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp đại diện cho quan hệ sản xuất thống trị.
42

b. Phạm trù kiến trúc thượng tầng


Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, tôn
giáo, nghệ thuật,... cùng với những thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các tổ
chức chính trị,... được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng cụ thể.
Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là cơ quan có vai trò đặc biệt quan trọng trong kiến trúc
thượng tầng, tiêu biểu cho chế độ chính trị hiện tồn. Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện
rõ sự đối lập về quan điểm tư tưởng và cuộc đấu tranh về mặt chính trị – tư tưởng của các giai cấp
đối kháng. Mâu thuẫn trong kiến trúc thượng tầng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng. Kiến
trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng, các bộ phận đó đóng vai trò là công cụ của giai
cấp thống trị để bảo vệ cơ sở kinh tế của nó.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
Quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản quyết định mọi quan hệ chính trị,
pháp luật, tư tưởng... Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về
tinh thần. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng. Cuộc đấu
tranh trong lĩnh vực tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế.
Bộ mặt của kiến trúc thuợng tầng trong đời sống xã hội luôn biểu hiện ra một cách phong phú,
phức tạp và đôi khi các bộ phận kiết trúc thuợng tầng không trực tiếp gắn bó với cơ sở hạ tầng. Đó
chỉ là biều hiện bề ngoài, còn trong thực tế, ngay cả những hiện tượng lạ lùng nhất của kiến trúc
thượng tầng cũng đều có nguyên nhân xau xa nằm ở cơ sở hạ tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ: nếu cơ
sở hạ tầngthay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá trình đó không
chỉ diễn ra trong giai đoạn chuyển tiếp có tính chất cách mạng mà còn được thực hiện ngay trong
bản thân của mỗi hình thái kinh tế xã hội.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là một quá trình
diễn ra phức tạp. Nguyên nhân của sự biến đổi xet cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ
tầng, còn chính sự biến đổi của cơ sở hạ tầng mới làm cho kiết trúc thượng tầng biến đổi căn bản.
Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối tác động đến cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở hạ tầng mà chúng có khả
năng tác động mạnh mẽ đến cơ cấu kinh tế xã hội. bản thân các bộ phận, các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng cũng có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Trong thực tiễn, không phải nhà nước, pháp luật mới có sự tác động to lớn đến cơ sở hạ tầng
mà các bộ phận khác như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cũng gây ra những biến đổi
không nhỏ đối với cơ sở hạ tầng.
Tác động của kiến trúc thượng tầng sẽ là tích cực khi nó có sự tác động cùng chiều với sự vận
động của những quy luật kinh tế khách quan. Trái lại nếu tác động ngược chiều với quy luật đó sẽ là
trở lực, gây tác hại cho sự phát triển của sản xuất, cản đường sự phát triển xã hội.
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển
cơ sở hạ tầng sinh ra nó, chống lại những nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại sự tồn tại của chế độ
kinh tế xã hội đang tồn tại. Trong điều kiện đó, nhà nước đóng vai trò quan trọng, nó chi phối và
quyết định khả năng tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên dựa vào sự tác động đó để nhấn mạnh vai trò của kiến trúc thượng tầng phủ nhận
hoặc xem thường quy luật kinh tế khách quan sẽ khó tránh khỏi sai lầm duy tâm chủ nghĩa và do
vậy sẽ không thấy được tiến trình khách quan của lịch sử.
IV. Nội dung cơ bản của hình thái kinh tế – xã hội
1. Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật, dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình
độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2. Sự phát triển của hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
Qua định nghĩa trên cho thấy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là những yếu tố hợp thành hình thái kinh tế xã hội. Đồng thời các yếu tố của hình thái
43

kinh tế xã hội có quan hệ biện chứng trong quá trình vận động trở thành quy luật phát triển của các
hình thái kinh tế xã hội. Vì thế , hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Quy luật của xã hội có đặc điểm là vận động của nó được thông qua hành động của con người,
song không vì thế mà quy luật xã hội không mang tính khách quan. Trái lại quy luật vận động của xã
hội không những không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của con người mà ngược lại, xét đến cùng nó
còn quyết định ý thức, ý chí của con người. Lịch sử là hoạt động của con người đeo đuổi mục đích
của bản thân mình, nhưng đó không thể là hoạt động tuỳ tiện, bất chấp quy luật. Họt dộng dù ý thức
hoặc vô thức cũng do quy luật khách quan chi phối.
Như vậy, quá trình “lịch sử tự nhiên” có nghĩa là: con người làm ra lịch sử của mình; họ tạo ra
những quan hệ xã hội của mình, đó là xã hội. nhưng xã hội vận động theo quy luật khách quan
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Sự thay thế một hình thái kinh tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội khác thường
được thông qua cuộc cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng là do mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích cản trở sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Trong những thời kỳ cách mạng, khi cơ sở kinh tế thay đổi thì sớm
hay muộn toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.
Nếu xét ở phạm vi lịch sử của toàn nhân loại thì lịch sử xã hội loài người đã phát triển qua một
số hình thái kinh tế xã hội nhất định. Song do đặc điểm về mặt lịch sử, về không gian và thời gian
nên không phải quốc gia nào cũng trải qua tất cả các bước tuần tự từ thấp tới cao của các hình thái
kinh tế xã hội. có nhiều quốc gia phát triền tuần tự qua các hình thái kinh tế xã hội, đồng thời một số
quốc gia khác lại bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế xã hội.
Quy luật kế thừa của lịch sử loài người luôn cho phép cộng đồng nào đó có những thời cơ và
thách thức để có thể vượt lên phía trước hoặc tụt lại phía sau. Trong lịch sử thường xuất hiện những
trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, kỹ thuật về văn hóa, chính trị. sự giao lưu hợp tác
giữa các trung tâm đó và những nhân tố khác làm xuất hiện khả năng một số nước đi sau có thể rút
ngắn tiến trình lịch sử.
Trong thời đại ngày nay, chủ trương phát triển rút ngắn , “đi tắt, đón đầu” đi lên chủ nghĩa xã
hội ở một số quốc gia tiền tư bản chẳng những không mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang
tính lịch sử tự nhiên, mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử tự nhiên. Chỉ khi người ta
rút ngắn một cách duy ý chí, bất chấp quy luật thì lúc đó sự phát triển rút ngắn mới trở nên đối lập
với quá trình lịch sử tự nhiên.
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con
đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử nhất định, một
hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội nhất định.
3. Ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế xã hội
Ngày nay thực tiễn và kiến thức về lịch sử có nhiều bổ sung, phát triển mới hơn so với khi học
thuyết Mác xuất hiện. Tuy nhiên những cơ sở khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử vẫn còn
nguyên giá trị. Trước những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện nay, một số người thừa nhận
sự tiến hóa của xã hội là sự thay thế nhau của các nền văn minh nông nghiệp, công nghiệp và hậu
công nghiệp. Cách tiếp cận này còn thiếu tính khoa học và chưa đầy đủ. Vì nó chỉ xem sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, công nghệ và lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định duy nhất và trực tiếp
đến sự thay đổi của đời sống xã hội mà bỏ qua các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất.
Với học thuyết về hình thái kinh tế xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen vạch ra nguồn gốc, động lực
của sự phát triển xã hội, tìm ra những nguyên nhân và cơ sở của sự biến đổi, xuất hiện các hiện
tượng xã hội đặt cơ sở cho nhận thức luận về các khoa học xã hội và nhân văn, nâng các khoa học đó
trở thành khoa học thực sự, chống lại các quan điểm duy tâm về mặt lịch sử. C.Mác và Ph.Ăngghen
dùng quy luật trên vào phân tích, lý giải xã hội tư bản chủ nghĩa và dự báo một xã hội mới sẽ thay
thế nó. Hai ông làm nổi bật quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định các quan hệ khác trong xã
hội. Do đó chủ nghĩa duy vật lịch sử cung cấp tư liệu cho các khoa học xã hội một tiêu chuẩn khách
quan để tìm kiếm và phát hiện quy luật xã hội.
V. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
1. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
44

Học thuyết hình thái - kin tế xã hội đã vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó
và dự báo sự ra đời của xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội đã hình thành và phát
triển sau Cách mạng tháng Mười Nga. Mô hình đó đã phát huy được vai trò nhất định đối với tiế
trình lịch sử. Cuối những năm 80 của thế kỷ XX mô hình đó rơ vào khủng hoảng nghiêm trọng. Sự
sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, thực chất là sự sụp đổ mô hình đó chứ không phải là sự phủ định,
bác bỏ xã hội chủ nghĩa với tính cách là xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Vì vậy, Đảng ta kiên trì xây dựng chủ nghĩa xa hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa là quy
luật khách quan của cách mạng Việt Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa là một quá trình quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kin tế, xã hội
có tính chất quá độ.
2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hường xã hội chủ nghĩa
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không thể tách rời vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ
công là phổ biến. vì thế chúng ta phải tiến hàn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã ội ở nước ta.
4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị của đời sống xã hội
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới chính trị, nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của tổ
chức quần chúng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.
Đồng thời cùng với việc phát triển kinh tế, phải phát triển nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc
dân tộc nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Chương XI
GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
GIAI CẤP, DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI

I. Những hình thức cộng đồng người trong lịch sử


1. Thị tộc
Khi tách khỏi giới động vật, con người sống hợp quần trong những bầy người nguyên thủy.
Khi con người biết sử dụng công cụ lao động thì hình thức tổ chức đầu tiên được ra đời, đó là thị tộc.
Thị tộc được hình thành trên cơ sở huyết thống, có thể xem thị tộc là gia đình lớn của bầy người
nguyên thủy. Do tình trạng quần hôn nên con sinh ra chỉ biết mẹ. Vai trò và quyền uy của người đàn
bà hơn người đàn ông. Thị tộc ở giai đoạn đầu là thị tộc mẫu quyền.
Lực lượng sản xuất phát triển những công việc nặng nhọc đòi hỏi người đàn ông đảm nhiệm.
Người đàn ông vừa là người chiến sĩ, vừa là người lao động chính nên được đẩy vào vị trí thứ nhất,
chế độ phụ quyền ra đời.
Ngoài quan hệ hệ huyết thống, thị tộc còn những mối liên hệ cộng đồng sau: (1) các thành viên
trong cộng đồng có tiếng nói chung; (2) mỗi thị tộc có những tục lệ, tập quán và nghi thức tín
ngưỡng riêng của mình; (3) mỗi thị tộc có tên gọi riêng.
Về mặt xã hội, thị tộc bầu ra tù trưởng, thủ lĩnh quân sự và có thể bãi miễn họ khi thấy không
xứng đáng.
2. Bộ lạc
Bộ lạc hình thành do những thị tộc có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với
nhau. Mỗi bộ lạc bao gồm nhiều thị tộc, trong đó thị tộc nào làm gốc gọi là bào tộc.
Mỗi bộ lạc cũng có tên gọi riêng, cùng ngôn ngữ, tục lệ, tập quán, tín ngưỡng và lãnh thổ
tương đối ổn định. Lãnh thổ trở thành đặc trưng của bộ tộc. Đứng đầu bộ tộc là hội đồng của những
tù trưởng của thị tộc.
45

3. Bộ tộc
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ tư hữu ra đời sự phân chia giai cấp xuất hiện.
Bộ tộc ra đời thay thế cho thị tộc và bộ lạc.
Bộ tộc được hình thành trên cơ sở của sự liên kết nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc trên một
vùng lãnh thổ nhất định. Mỗi bộ tộc cũng có tên gọi riêng. Nếu bộ lạc có lãnh thổ tương đối ổn định
thì bộ tộc có lãnh thổ được xác định rõ.
Các thành viên trong bộ tộc có quan hệ về cộng đồng ngôn ngữ. Ngôn ngữ bộ tộc được hình
thành bởi sự giao lưu, kết hợp ngôn ngữ của các bộ lạc cũ thường trên cơ sở ngôn ngữ của bộ lạc
phát triển nhất. Trong thời đại bộ bộc đã có nhà nước và quốc gia.
4. Dân tộc
Dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể
chế chính trị xã hội.
Dân tộc là cộng đồng người thống nhất, ổn định và bền vững hơn nhiều. Dân tộc hiện đại là
quốc gia dân tộc. Dân tộc có những đạc trưng sau: (1) cộng đồng về ngôn ngữ; (2) cộng đồng về lãnh
thổ; (3) cộng đồng về kinh tế; (4) cộng đồng về văn hóa, tâm lý và tính cách.
II. Giai cấp và đấu tranh giai cấp
1. Giai cấp là gì?
Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường
thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận), đối với những tư liệu sản xuất, về vai
trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần
của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này
thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một
chế độ kinh tế xã hội nhất định.
Nói đến giai cấp là nói đến là nói đến sự khác nhau giữa tập đoàn người về địa vị trong một hệ
thống kinh tế – xã hội nhất định. Tập đoàn người này thống trị tập đoàn khác đó là giai cấp. Đây là
đặc trưng chung nhất của giai cấp. Với đặc trưng này, giai cấp có những tính chất sau: (1) khác nhau
về quan hệ đối với tư liệu sản xuất; (2) khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ
chức quản lý sản xuất; (3) khác nhau về phương thức thu nhập của cải xã hội.
2. Nguồn gốc, điều kiện tồn tại giai cấp
Trong xã hội nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém con người chỉ làm ra sản phẩm
chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống chưa có sản phẩm dư thừa tương đối chưa có khả năng xuất hiện
người bóc lột người, xã hội chưa có giai cấp.
Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự phân công lao động xã hội: lao động trí óc tách ra
khỏi lao động chân tay, thủ công tác ra khỏi lao động nông nghiệp. Lực lượng sản xuất phát triển
năng xuất lao động tăng lên, con người có thể sản xuất số lượng sản phẩm vượt hơn nhu cầu tối thiểu
để tồn tại. Các gia đình có tài sản riêng ngày càng được tích lũy là nguyên nhân xuất hiện sự chênh
lệch về tài sản. Chế độ tư hữu dần dần thay thế chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp của sự hình thành các giai cấp. Sự ra đời cũng như sự mất đi của
xã hội có giai cấp đều dựa trên tính tất yếu kinh tế.
Chế độ tư hữu và xã hội có giai cấp tồn tại một cách tất yếu trong điều kiện vật chất kinh tế của
xã hội vượt qua khỏi nhu cầu tối thiểu nhưng chưa đạt đến nhu cầu tối đa hợp lý. Sự phân chia xã hội
thành giai cấp sẽ bị lực lượng sản xuất hiện đại xóa bỏ. Sự phát triển cao về lực lượng sản xuất làm
cho sự phân chia giai cấp tất yếu sẽ mất đi. Lực lượng sản xuất phát triển cao là yêu cầu trước tiên và
cơ bản của sự xóa bỏ xã hội có giai cấp. Nhưng để thực sự xã hội không còn giai cấp đòi hỏi xã hội
phải có những điều kiện kinh tế và những năng lực của con người được phát triển toàn diện.
3. Kết cấu xã hội có giai cấp.
Mỗi xã hội có kết cấu giai cấp riêng song bao giờ một xã hội có giai cấp cũng tồn tại hai giai
cấp cơ bản đối lập nhau: giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Hai giai cấp cơ bản là sản phẩm đích
thực của chế độ kinh tế xã hội và quyết định đến sự tồn tại, phát triển của nền sản xuất xã hội. Giai
cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế – xã hội đang tồn tại.
Ngoài hai giai cấp cơ bản mỗi xã hội còn tồn tại những giai câp không cơ bản và những tầng
lớp trung gian. Đó là những giai cấp tàn dư của chế độ xã hội trước, tập đoàn người là mần mống
46

của xã hội tương lai. Tầng lớp trung gian là kết quả của quá trình phân hóa xã hội không ngừng diễn
ra. Trí thức là tầng lớp có vị trí, vai trò quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội nhất định.
4. Đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của giai cấp bị trị. Giai cấp,
tầng lớp bị trị bị tước đoạt lao động và bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Giai cấp thống trị
dùng mọi phương pháp, phương tiện để bảo vệ, duy trì quyền lợi của họ. Công cụ bảo vệ quyền lợi
đó nhà nước của giai cấp thống trị. Lợi ích cơ bản của hai giai cấp đối lập nhau là nguyên nhân của
mọi cuộc đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức. Đấu tranh giai cấp, thực chất
là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức chóng lại bọn có đặc quyền đặc lợi,
bọn áp bức và bọn ăn bám. Các cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, vào gai cấp đấu tranh, vào giai đoạn phát triển của cuộc đấu tranh.
Trong thời đại ngày nay, hình thức đấu tranh giai cấp càng phong phú, đa dạng, phức tạp.
5. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng của xã hội có giai cấp.
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Sự phù hợp giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là đều kiện cơ bản để sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất không
còn phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó gây cản trở và dẫn đến xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết
lập quan hệ sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, những quan hệ sản xuất không tự nhường chỗ cho
quan hệ sản xuất mới. giai cấp thống trị quan hệ sản xuất của mình bằng tất cả sức mạnh về kinh tế,
chính trị, tư tưởng đặc biệt là bằng bạo lực có tổ chức. Để gạt bỏ lực cản – quan hệ sản xuất lạc hậu
chỉ có thể được thực hiện thong qua cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Đấu tranh giai cấp chẳng những là để cải tạo xã hội mà còn có vai trò cải tạo bản thân các giai
cấp trong xã hội. Chỉ thông qua đấu tranh cho tự do, các giai cấp bị thống trị mới gọt rửa tinh thần
cam chịu nô lệ.
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử được phát huy như thế nào tùy thuộc vào tính chất,
trình độ phát triển của các cuộc đấu tranh. Tác dụng đặc biệt to lớn với lịch sử là những cuộc đấu
tranh mang tính chất quần chúng rộng lớn, do lực lượng tiên tiến của xã hội lãnh đạo, được tổ chức
một cách khoa học nhằm thực hiện đánh đổ giai cấp thống trị.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh chuyển từ mục tiêu giành chính quyền
sang mục tiêu chủ yếu và cơ bản là củng cố chính quyền của nhân dân lao động, trọng tâm là xây
dựng kinh tế. Giai c6áp tư sản đã bị lật đổ, tiến lại cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa xã hội nhằm
phục hồi chủ nghĩa tư bản.
Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Mục tiêu này chưa thực hiện thì khả năng phục hồi chủ
nghĩa tư bản còn rất lớn.
Trong điều kiện nắm vững chính quyền, giai cấp công nhân phải sử dụng sức mạnh tổng hợp,
linh hoạt các hình thức đấu tranh mới. Trong đó có đấu tranh bằng bạo lực và hoà bình; bằng giáo
dục, thuyết phục, phê bình, hành chính, quân sự, kinh te; bằng liên minh giai cấp công – nông, các
tầng lớp trung gian và “sử dụng” giai cấp tư sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xã hội vẫn tồn tại lâu dài giai cấp và mâu
thuẫn giai cấp. Đấu tranh giai cấp là thực tế khách quan không thể tránh khỏi. Vấn đề là nhận thức
và cho đúng tính chất, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh, xử lý đúng đắn các quan hệ giai cấp.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, điều cơ
bản là phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ sự nghiệp trên là lợi ích dân
tộc và nhân dân lao động.
Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta cho thấy đại đa số tán thành mục tiêu trên
đấu tranh với một bộ phận nhỏ chống lại sự nghiệp lớn lao mà nhân dân ta đang xây dựng do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Đấu tranh đó được thể hiện dưới một số hình thức sau:
Trước hết, một bên là quần chúng nhân dân lao động đang theo đuổi mục tiêu trên và một bên
là các thế lực thù địch đang ra sức chống phá mục tiêu trên.
Thứ hai, cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ
nghĩa.cuộc đấu tranh của hai khuynh hướng này diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, tư tưởng, trật tự xã hội.
47

Trong xã hội Việt Nam hiện nay, lợi ích hợp pháp của các nhà tư sản căn bản thống nhất với
lợi ích chung của dân tộc. Dây là mặt thống nhất giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai
cấp tư sản. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản là quan hệ vừa hợp tác vừa
cạnh tranh trong sự nghiệp xây dựng mục tiêu trên. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc tuyệt đối, cường điệu hóa đấu tranh giai cấp hoặc
mơ hồ về đấu tranh giai cấp đều gây tổn hại cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
III. Quan hệ giai cấp – dân tộc và giai cấp và nhân loại
1. Giai cấp và dân tộc
Trong cộng đồng dân tộc bao giờ cũng có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội cùng chung sống. Lợi
ích của dân tộ là lợi ích chung của tất cả giai cấp, tầng lớp trong xã hội ấy. Giai c6áp nào có lợi ích
gắn liền với phương thức sản xuất thống trị sẽ trở thành lực lượng tiêu biểu và lãnh đạo dân tộc.
Tuy nhiên trong xã hội có giai cấp thì lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích của dân tộc không
bao giờ thống nhất với nhau, thậm chí nhiều lúc trái ngược và đối lập với lợi ích của dân tộc. Ngày
nay, xã hội còn giai cấp đối kháng và đấu tranh giai cấp, vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được
giải quyết trên lập trường giai cấp nhất định.
2.Giai cấp và nhân loại
Vấn đề lợi ích nhân loại là những vấn đề có liên quan đến sự sống còn của con người. Đó là
những vấn đề toàn cầu hiện nay như: chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường, vấn đề dân số,
những vấn đề dịch bệnh đe dọa đến sự sinh tồn của con người. Lợi ích của nhân loại không có sự
phân biệt về giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại gắn liền với lợi ích của những giai cấp, lợi ích dân
tộc. Lợi ích mà thuộc về giai cấp tiến bộ thì phù hợp với lợi ích của nhân loại. Giai cấp vô sản muốn
giải phóng nhân loại khỏi áp bức và nô dịch. Vì thế, lợi ích của giai cấp vô sản về căn bản phù hợp
với nhân loại.

Chương XII
NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG

I. Nhà nước
1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước
Không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước, trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có nhà
nước. Nó phù hợp với thực trạng kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp. Tổ chức đầu
tiên của xã hội cộng sản nguyên thủy là thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là tộc trưởng do
nhân dân bầu ra. Quyền lực đứng đầu các cơ quan quản lý xã hội dựa vào đạo dức và uy tín. Quyền
hành và chức năng lãnh đạo chưa mang tính chất chính trị.
Trong thị tộc, bộ lạc chưa hình thành một thiết chế xã hội đặc biệt – nhà nước để cai quản
những công việc chung. Do nhu cầu tồn tại của thị tộc, bộ lạc nhân dân phải bầu ra thủ lĩnh quân sự.
Ngoài chức năng quân sự còn chức năng tế lễ và tư pháp. Các thủ lĩnh quân sự không phải là người
cai trị, họ không có đặc quyền đặc lợi cá nhân, không bắt nhân dân phục vụ lợi ích riêng mình. Họ
hoàn toàn thực hiện vai trò của mình theo ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Như vậy, thể chế xã hội trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy là thể chế tự quản của nhân dân.
Mặc dù nhà nước chưa ra đời, xã hội tồn tại trong vòng trật tự. Do sự phát triển của lực lượng sản
xuất, sự ra đời của chế độ tư hữu và xã hội phân chia thành giai cấp, chế độ cộng sản nguyên thủy bị
tan rã. Vì thế, sự xuất hiện nhà nước do:
(1). Sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là của công cụ lao động cho phép con người
tiến hành sản xuất tương đối độc lập theo nhóm nhỏ hay đơn vị giai đình. Sở hữu chung trở thành vật
cản đối với sự phát triển của sản xuất. Với công cụ sản xuất đó, người ta có thể sản xuất ra một
lượng của cải tiêu dùng vượt qua khỏi nhu cầu tối thiểu. Đó là cơ sở khách quan làm nảy sinh những
người có chức có quyền nuôi khát vọng chiếm đoạt tài sản của người khác. Chế độ sở hữu chung bị
thay thế bởi chế độ tư hữu và xuất hiện chế độ người bóc lột người.
(2). Sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng làm nảy sinh khát vọng chiếm đoạt ở giới cầm
quyền. Họ sử dụng quyền lực trong tay để thực hiện khát vọng đó. Đây là nguyên nhân xuất hiện
48

thúc đẩy sự phân hóa xã hội. Giai cấp xuất hiện, quan hệ áp bức thống trị người thay thế quan hệ
bình đẳng, hợp tác, tương trợ lẫn nhau. Sự đối kháng giai cấp ngày càng sâu sắc và quyết liệt.
(3). Chiến tranh giữa các bộ lạc, thị tộc dần dần thoát ra khỏi gốc rễ của nó trong lòng nhân
dân. Từ chỗ là công cụ của nhân dân, các tổ chức đó trở thành cơ quan đối lập, thống trị và áp bức
nhân dân.
Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử xã hội (giai cấp
chủ nô và giai cấp nô lệ) dẫn tới nguy cơ chẳng những các giai cấp đó tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt
luôn cả xã hội. để thảm học đó không xảy ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà
nước.
Trong xã hội thị tộc, bộ lạc đã xuất hiện những thiết chế có chức năng bảo vệ lợi ích chung của
cộng động; giờ đây khi xuất hiện giai cấp, các thiết chế đó biến thành công cụ bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị.
Sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng nhà nước không phải là cơ quan điều hòa mâu thuẫn giai
cấp mà nó ra đời do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc không đều hòa được. Giai cấp bóc lột
không thể duy trì địa vị bóc lột, nếu không dựa vào bộ máy bạo lực để trấn áp giai cấp bị bóc lột.
V.I.Lênin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”(t33,tr9).
Không có nhà nước thì giai cấp thống trị không thể duy trì được ách áp bức, bóc lột của mình
đối với giai cấp bị trị. Như vậy, sự ra đời của các nhà nước là tất yếu khách quan để làm “dịu” sự
xung đột giai cấp, để cho sự xung đột ấy diễn ra trong vòng trật tự. Nhằm duy trì chế độ kinh tế xã
hội, trong đó, giai cấp này thống trị giai cấp khác.
Đương nhiên, lực lượng lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước phải là giai cấp có thế lực nhất –
giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nói cách khác, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị
về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và trấn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Tóm lại, nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không có và không bao giờ có
nhà nước đứng trên các giai cấp và nhà nước của toàn xã hội. Tuy nhiên có những trường hợp nhà
nước giữ được một mức độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp đối diện, khi cuộc đấu tranh giữa
chúng đạt tới thế cân bằng; hoặc nhà nước có thể là sản phẩm của sự thỏa hiệp về quyền lợi tạm thời
giữa một số giai cấp để chống lại một giai cấp khác. Những trường hợp như trên là ngoại lệ và mang
tính chất tạm thời.
Thực tế lịch sử đã chứng minh dù được che giấu dưới hình thức nào thì nhà nước trong xã hội
có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị; cũng chỉ là
một bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với một giai cấp khác.
2. Đặc trưngcơ bản của nhà nước
a.Nhà nước quản lý dân cư theo lãnh thổ, đây là đặc trưng làm rõ sự khác biệt của nhà nước
với các hình thức tổ chức thị tộc, bộ lạc. Các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở
những quan hệ huyết thống còn nhà nước quản lý dân cư theo lãnh thổ cư trú. Quyền lực nhà nước
về nguyên tắc có hiệu lực đối với mọi thành viên sinh sống tại địa bàn đó. Từ đó, biên giới quốc gia
xuất hiện. Trong một quốc gia có thể tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, thậm chí tồn tại nhiều thị
tộc, bộ lạc khác nhau.
b. Nhà nước thiết lập một cơ quan quyền lực mang tính cưỡng chế đối với cá thành viên trong
xã hội. Trong cơ quan quyền lực như: quân đội, cảnh sát nhà tù, để buộc giai cấp khác phải phục
tùng ý chí của giai cấp cầm quyền. Ngoài binh lính, sĩ quan và nhân viên của lực lượng vũ trang
khác, nhà nước còn bao gồm một bộ máy quan liêu đông đảo các viên chức được trả lương để
chuyên làm công việc hành chính cai trị.
Nếu trước đây thị tộc, bộ lạc quản lý bằng sức mạnh của đạo đức, uy tín thì nhà nước thực hiện
quyền lực của mình trên cơ sở cưỡng bức của pháp luật. Giai cấp bóc lột dùng các thiết chế bạo lực
để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế.
c. Nhà nước thiết lập hệ thống thuế để nuôi bộ máy nhà nước. Bộ máy cái trị của giai cấp
thống trị tồn tại được là do sống bám vào những thần dân mà mình thống trị. Nhà nước không thể
tồn tại nếu không dựa vào chế độ thuế khóa, quốc trái và các lĩnh vực bóc lột khác. Nói cách khác,
về cơ bản mọi nhà nước đều sống được nhờ sự chu cấp của nhân dân.
49

3. Chức năng cơ bản của nhà nước


Khi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng là
công cụ thống trị chính trị và thực hiện chức năng xã hội mà giai cấp thống trị buộc phải làm. Khi
xem xét nhà nước trên phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức
năng đối nội và đối ngoại.
a. Chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của giai cấp thống trị
Chức năng thống trị nói lên rằng bất kỳ nhà nước nào cũng là công cụ chuyên chính của một
giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, mọi biện pháp có thể để bảo vệ sự thống trị của giai cấp
đó.
Chức năng xã hội nói lên rằng bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực hiện việc quản lý những
hoạt động chung vì sự tồn tại xã hội; phải lo tới một số công việc chung của xã hội. trong giới hạn có
thể được, nó phải thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của
nhà nước.
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp thống trị đã nhân danh xã hội mà quản lý
những công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội nằm trong
vòng trật tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nói cách khác, việc thực hiện chức
năng xã hội của giai cấp thống trị là phương thức, điều kiện để nhà nước đó thực hiện vai trò thống
trị của mình. Như vậy, chức năng thống trị giữ địa vị chi phối phương hướng và mức độ thực hiện
chức năng xã hội.
b. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của nhà nước được thể hiện trong lĩnh
vực đối nội và đối ngoại.
Nhà nước thực hiện chức năng đối nội nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những
trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền dù nó được luật hóa hay chưa.
Pháp luật chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành luật và được thực hiện
nhờ sự cưỡng bức của nhà nước. Ngoài ra để củng cố địa vị thống trị của giai cấp thống trị, nhà nước
sử dụng các phương tiện như cơ quan thông tin, tuyên truyền, văn hóa... để giáo dục, củng cố tư
tưởng, ý chí của giai cấp thống trị làm cho chúng trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội.
Nhà nước thực hiện chức năng đối ngoại nhằm bảo vệ lãnh thổ, mở mang lãnh thổ và quan hệ
với nước khác vì lợi ích giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi giữa hai lợi đó không mâu
thuẫn lẫn nhau.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại đếu xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Nếu
quyền lực của giai cấp thống trị bị trực tiếp đe dọa bởi phong trào đấu tranh của nhân dân thì giai cấp
bóc lột sẵn sàng thỏa hiệp, thậm chí đầu hàng bọn xâm lược bên ngoài để đối phó với quần chúng
nhân dân.
Chức năng đối nội là chủ yếu, bởi vì nhà nước ra đời và tồn tại do cơ cấu giai cấp bên trong
của mỗi quốc gia quy định; sự thống trị của mỗi giai cấp được thự c hiện trước hết trên địa bàn quốc
gia dân tộc. Lợi ích của giai cấp thống trị trước hết và chủ yếu là duy trì địa vị cai trị nhân dân trong
nước. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại.
4. Các kiểu và các hình thức nhà nước
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên
cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế xã hội nào.
Kiểu tổ chức quyền lực nhà nước được quy định bởi bản chất giai cấp của nó; bởi tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế...
Nhà nước bị chi phối bời những yếu tố trên, tương ứng với ba hình thái kinh tế – xã hội cơ bản
dựa trên sự đối kháng giai cấp có ba kiểu khác nhau: Nhà nước hủ nô, nhà nước phong kiến và nhà
nước tư sản. Nhà nước vô sản là nhà nước không còn nguyên nghĩa của nó nữa. Đó là nhà nước tồn
tại trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Mỗi kiểu nhà nước lại tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức nhà nước là khái niệm
dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước.
Hình thức tổ chức quyền lực nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi
tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp – xã hội, bởi đặc điểm truyền thống
chính trị của mỗi nước.
50

Nhà nước thời kỳ cổ đại là nhà nước chiếm hữu nô lê. Đó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Nhà
nước chủ nô được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: chính thể quân chủ, chính thể cộng hòa,
chính thể quý tộc và chính thể dân chủ. Trong xã hội chủ nô, tất cả quyền lực thuộc về tay giai cấp
chủ nô, pháp luật nhà nước không coi nô lê là con người.
Thời trung cổ, sự thống trị của giai cấp phong kiến thay thế cho kiểu nhà nước chiếm hữn nô
lệ. Nhà nước này xây dựng trên cơ sở chiếm hữu ruộng đất của giai cấp quý tộc. trong nhà nước
phong kiến, chỉ có chúa phong kiến mới có đủ mọi quyền, còn nông nô như không có quyền. Nhà
nước phong kiến được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: Nhà nhước phong kiến phân quyền,
nhà nước phong kiến tập quyền và nhà phong kiến chuyên chế. Dù tồn tại dưới hình thức nào, nhà
nước phong kiến cũng chỉ là chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc; đó là cơ quan bảo vệ những
đặc quyền của giai cấp phong kiến.
Nhà nước tư sản được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như chấ độ cộng hòa, chế độ
cộng hòa đại nghị, chế độ tổng thống. Các hình thức nhà nước đó còn khác nhau về chế độ bầu cử,
chế độ một hay hai viện, về nhiệm kỳ tổng thống về sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và nội
các.
Sự khác nhau về hình thức của nhà nước tư sản nhưng không làm thay đổi bản chất của nó. Đó
là nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với các giai cấp và tầng lớp khác. Cơ quan tuyên truyền
của tư sản tìm mọi cách cho người ta tin rằng chế độ cộng hòa dân chủ tư sản là hình thức nhà nước
“dân chủ” và “tự do”.
Ngày nay, mặc dù luật bầu cử của hầu hết các nước tư sản phát triển đều thừa nhận của người
lao động được ứng cử vào các cơ quan quản lý nhà nước. nhưng thực tế trong một số trường hợp,
luật đố đưa ra những điều kiện mà người lao động khó vượt qua được, hơn nữa, trong những cuộc
bầu cử, giai cấp tư sản nắm trong tay mình một bộ máy tuyên truyền đồ sộ, sẵn sàng chi những
khoản tiền khổng lồ để cổ động cho người của mình.
5. Nhà nước vô sản
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, trước
hết học phải chiếm lấy chính quyền, thực hiện chuyên chính của giai cấp công nhân.
Sự cần thiết xác lập chuyên chính vô sản để tiến tới chủ nghĩa cộng sản vì do trong thời kỳ quá
độ còn tồn tại các giai cấp bóc lột. Chúng chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến giai
cấp công nhân và nhân dân lao động phải trấn áp chúng bằng bạo lực. Hơn nữa trong thời kỳ quá độ
còn có các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác. Do địa vị kinh tế, họ dễ giao động giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản. Họ không thể tự mình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai cấp vô sản phải thu hút lực
lượng đông đảo về phía mình. Chuyên chính vô sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để bảo đảm sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân với nhân dân.
Chuyên chính vô sản là sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân do cách mạng xã hội chủ
nghĩa sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Chuyên chính vô sản là phương thức, là phương tiện, là hình thứcđể bảo vệ sự thống trị về
chính trị của giai cấp công nhân.
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền thì giai cấp vô sản phải nắm vững công cụ chuyên chính,
kiên quyết trấn áp những thế lực đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng.
Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực thì việc tổ chức, xây dựng là thuộc tính cơ bản nhất
của chuyên chính vô sản.
Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân cần có sự hỗ trợ, hợp tác, liên
minh vững chắc và ngày củng cố giữa nó với những người lao động khác. Chuyên chính vô sản là
một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân với nhân dân lao động. Nhà nước vô sản là
chuyên chính của nhân dân; là nhà nước của dân do dân và vì dân. Do đó, chế độ dân chủ vô sản là
chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất. Chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại và phát triển được nếu
thiếu dân chủ.
Giai cấp công nhân không chỉ có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn
có vai trò làm nhiệm vụ quốc tế đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong nhà nước vô sản nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì nước đó sẽ không giữ
được bản chất của giai cấp công nhân. Do vậy, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản.
51

Nhà nước vô sản là một nhà nước đặc biệt, là nhà nước “nửa nhà nước”. sự mất đi của nhà
nước vô sản không phải bằng con đường “thủ tiêu”, “xóabỏ” mà bằng con đường tư tiêu vong. Sự tự
tiêu vong của nhà nước vô sản là một quá trình rất lâu dài.
II. Cách mạng xã hội
1. Khái niệm, nguồn gốc, bản chất của cách mạng
Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngặt và căn bản trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế
xã hội cao hơn.
Cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị lỗi thời để thiết lập một chế độ chính trị
tiến bộ hơn. Qua đó, chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Nguyên nhân sâu xa là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó,
quan hệ sản xuất đã trở lên lỗi thời đối với sự phát triển lực lượng sản xuất nói riêng đối với xã hội
nói chung. Nhân tố cấu thành lực lương sản xuất là người lao động. Lực lượng xã hội đại diện cho
quan hệ sản xuất cơ bản là giai cấp thống trị. mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp. Giai cấp thống trị duy trì quan hệ sản xuất bằng tất cả
những dì có thể. Để thay thế quan hệ sản xuất lạc hậu, giai cấp cách mạng phải giành chính quyền
nhà nước. Do vậy, cách mạng xã hội là là đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp.
Tiến hoá xã hội là hình thức phát triển xã hội. Nó là quá trình phát triển diễn ra một cách tuần
tự, dần dần với những biến đổi cục bộ của một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Cải tạo xã hội là sự thay đổi về chất nhất định trong đời sống xã hội. nó chỉ tạo ra những
biến đổi riêng lẻ, bộ phận trong khuôn khổ chế độ xã hội đang tồn tại.
Đảo chính là thủ đoạn giành chính quyền nhà nước bởi một các nhân hoặc một nhóm người
nhằm xác lập một chế độ xã hội có cùng bản chất.
Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết kinh tế (llsx,
qhsx) và mâu thuẫn xã hội (g/c) tương ứng. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng quy định thành
phần cách mạng và lực lượng xã hội lãnh đạo cách mạng đó.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo. Mục tiêu cao cả của nó
là giải phòng người lao động khỏi sự áp bức bất công. Tất cả các cuộc cách mạng trước đây chỉ là sự
thay thay thế hình thức áp bức này bằng hình thức áp bức khác. Cách mạng vô sản nhằm xây dựng
xã hội không còn giai cấp, giải phóng triệt để con người.
Nếu như các cuộc cách mạng xã hội trước đây kết thúc bằng việc lấy chính quyền thì cách
mạng vô sản coi đó là bước đầu cho quá trình biến đổi toàn bộ đời sống xã hội.
2. Quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
Toàn bộ lịch sử là kết quả hoạt động thực tiễn của con người. Nhưng con người sáng tạo ra nó
không phải bằng những hoàn cảnh tuỳ ý mà trong những hoàn cảnh đang tồn tại độc lập với ý thức
con người. Toàn bộ những hoàn cảnh đó là điều kiện khách quan trong họat động của con người.
Còn hoạt động của chủ thể nhằm tác động vào hoàn cảnh khách quan để biến đổi nó là nhân tố chủ
quan.
Cách mạng xã hội chỉ có thể nổ ra khi có những điểu kiện khách quan cần thiết đã chín muồi
tạo thành tình thế cách mạng. Tình thế cách mạng là sự chín muồi của mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển đến đỉnh cao của đầu tranh giai cấp dẫn đến những đảo lộn
sâu sắc trong nền tẳng kinh tế xã hội của nhà nước đương thời, khiến cho thay thế thể chế chính trị
đó bằng thể chế chính trị khác tiến bộ hơn là một tình thế không thể đảo ngược.
Đặc trưng của tình thế cách mạng:
(1). Giai cấp thống trị không thể duy trì được sự thống trị của mình như cũ; sự khủng hoảng
của giai cấp thống trị mở đường cho sự bất bình và phấn nộ của giai cấp bị áp bức. Trong đó, tầng
lớp dưới không muốn sống như trước nữa, tầng lớp trên không thể nào sống như cũ được nữa.
(2). Nỗi cùng khổ và quẫn bách của giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình thường.
(3). Những tích cựa của quần chúng được nâng cao rõ rệt. Tầng lớp này trong thời kỳ “hoà
bình” phải nhấn nhục chịu, đến thời kỳ “khủng hoảng” chính tầng lớp ấy đẩy họ đến hành động.
Nhưng một khi điều kiện khách quan đã chín muồi thì vận mệnh của cuộc cách mạng lại hoàn
toàn tuỳ thuộc vào nhân tố chủ quan và lúc đó được coi là nhân tố chủ đạo.
52

Sự chín muồi của nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội biểu hiện ở trình độ cao của tính tổ
chức, ở mức độ quyết tâm tới đỉnh điểm của giai cấp cách mạng trong việc đứng lên giành chính
quyền cho giai cấp đó.
Sự chín muồi của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan cho cuộc cách mạng nổ ra
không phải bao giờ cũng diễn ra một cách đồng đều. Điều kiện khách quan của một cuộc cách mạng
không phải bao giờ cũng được hình thành một cách tự phát mà đại đa số là kết quả nỗ lực của nhân
tố chủ quan.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, việc nhận định đúng thời cơ cách mạng là vấn đề hết sức quan
trọng. Nếu phát động khởi nghĩa sớm, không đúng thời cơ,cách mạng sẽ gặp khó khăn, chịu nhiều
tổn thất. Trái lại, nếu bỏ lỡ thời cơ lại là lỗi lầm lịch sử gây nguy hại cho cách mạng.
3. Hình thức và phương pháp cách mạng
Mọi cuộc cách mạng đều sử dụng phương pháp phổ biến là cách mạng bạo lực. Cách mạng bạo
lực là hành động cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng vượt qua giới
hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời.
Nếu cách mạng bạo lực là là phương pháp để giai cấp cách mạng giành chính quyền thì bạo lực
cách mạng là tính chất của bạo lực trong cuộc đấu tranh để giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nước.
Bạo lực cách mạng là việc các giai cấp, các lực lượng cách mạng sử dụng những công cụ bạo
lực để chống bạo lực cách mạng nhằm giành, giữ và bảo vệ chính quyền trong tay mình.
Tính tất yếu của cách mạng bạo lực được quy định bởi chỗ giai cấp thống trị lỗi thời không bao
giờ tư nguyện rút lui khỏi vũ đài lịch sử. Trước phong trào cách mạng của quần chúng, khi lợi ích
của giai cấp bị uy hiếp, giai cấp thống trị sẵn sàng sử dụng bộ máy bạo lực có trong tay để khủng bố,
đàn áp quần chúng cách mạng. Do vậy, quần chúng cách mạng muốn giành chính quyền về tay
mình, họ không có cách nào khác hơn là phải dùng đến bạo lực cách mạng.
Bạo lực không phải là nguyên nhân làm cho cách mạng nổ ra nhưng không có bạo lực thì giai
cấp cách mạng không thể giành, giữ được chính quyền.
Trong lịch sử, chưa có giai cấp cách mạng nào giành chính quyền nhà nước bằng con đường
phi bạo lực. Ngay cả khi sự tiến hóa làm đại đa số thàh viên của giai cấp thống trị cũ chuyển thành
giai cấp thống trị mới, mâu thuẫn đối kháng giữa hai lực lượng xã hội đó đã giảm đến mức tối thiểu
thì quá trình chuyển hóa xã hội lên thể chế chính trị cao hơn vẫn lấy bạo lực làm chỗ dựa và làm hậu
thuẫn.
Con đường giành chính quyền bằng hòa bình là phương pháp đối lập với con đường giành
chính quyền bằng chiến tranh cách mạng nhưng cả hai đều nằm trong phạm trù cách mạng bạo lực.
Cách mạng được thực hiện dưới nhiều hình thức tương đối hòa bình, khi giai cấp thống trị
không còn đủ khả năng sử dụng sức mạnh để giữ nhà nước đó. Giai cấp cách mạng muốn giành
chính quyền, ngay trong trường hợp đó, phải dùng bạo lực làm hậu thuẫn để sẵn sàng đập tan sự
phản kháng bằng bạo lực của giai cấp thống trị.
Cách mạng bạo lực không chỉ là sức mạnh của lực lượng vũ trang mà còn bao gồm lực lượng
chính trị của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng để tạo thành sức mạnh tổng hợp
của cuộc đấu tranh giành chính quyền.
Nhưng không phải bất cứ hình thức đấu tranh chính trị nào cũng là cách mạng bạo lực. Nó chỉ
mang ý nghĩa cách mạng bạo lực khi lấy chủ chương lật đổ chính quyền của giai cấp lỗi thời làm
mục tiêu của mình, nó tạo lên một sức mạnh cần thiết có khả năng chiến thắng sự đàn áp bằng vũ lực
và buộc giai cấp thống trị phải tuân thủ theo ý chí của giai cấp cách mạng.
Bạo lực là phương tiện, là công cụ mà không phải là mục đích của cách mạng. Nó chỉ là điều
kiện chứ không phải là nguyên nhân sinh ra xã hội mới.
Điều quyết định sự định hướng của lực lượng cách mạng vào hình thức giành chính quyền: hoà
bình hay không hòa bình; hợp pháp hay bất hợp pháp; trong hay ngoài nghị trường; hoặc là nhằm kết
hợp các hình thức đấu tranh ấy. Đó là sự so sánh lực lượng và sự cân nhắc tình hình phát triển của
cách mạng vào thời điểm tương ứng.
4. Cách mạng xã hội ở các tư bản trong giai đoạn hiện nay
Trong điều kiện cách mạng và khoa học công nghệ, tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất
đạt trình độ cao, khiến cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể không thay đổi. Sự chuyển
53

hóa như vậy trong khuôn khổ chế độ tư bản chủ nghĩa, nếu không khắc phục được mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mang tính chất xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất., nó làm cho mâu thuẫn đó phát triển thêm dưới một “hình thức
mới”. khi lực lượng sản xuất ngày càng mang tính chất quốc tế hóa, mâu thuẫn giữa lao động với tư
bản ngày càng mở rộng trân phạm vi thế giới.
Những tiền đề vật chất – kỹ thuật và kinh tế, xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển làm cho các
tiền đề khác từng bước chín muồi, trong đó phải kề đến sự hiểu biết và năng lực sáng tạo của ngường
lao động. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, cuộc đấu tranh cho dân sinh, dân chủ với mức độ ngày
càng cao tương xứng với trình độ phát triển của xã hội hiện vẫn không ngừng diễn ra.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, việc sử dụng những thành quả của nó vào đời sống
kinh tế xã hội đã làm xuất hiện nhu cầu ngày nay phải xã hội hóa về sở hữu, xã hội hóa về quản lý.
Nâng cao đời sống nhân dân là xu hướng khách quan trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Trước
những đòi hỏi đó, chủ nghĩa tư bản đã tìm mọi cách tự điều chỉnh trên một loạt vấn đề: đẩy mạnh
quá trình cổ phần hóa một bộ phận công nhân. Trong xã hội hình thành một đội ngũ chuyên gia quản
lý ngày càng đông đảo làm thuê cho giai cấp tư sản; giai cấp tư sản buộc phải thực hiện chính sách
điều tiết thu nhập lương cao.
Tuy nhiên tình hình đó không làm mất đi mâu thuẫn cơ bản giữa gai cấp tư sản với giai cấp
công nhân và tầng lớp lao động khác trong xã hội. Sự điều chỉnh ấy không làm giảm sự phân cực
giữa gai cấp tư sản ngày càng giàu lên nhanh chóng còn giai cấp công nhân, những người lao động
nghèo khổ không thoát ra khỏi tình cảnh làm thuê cho nhà tư bản. Muốn thoát khỏi tình cảnh đó, giai
cấp công nhân và tầng lớp lao động chỉ có phương hướng duy nhất đúng đắn là phải biến toàn bộ tư
liệu sản xuất thành của xã hội, làm cho mọi người thực sự trở thành chủ thể quản lý quá trình sản
xuất, toàn bộ sản phẩm mà xã hội làm ra phải thuộc về nhân dân.
Những biến đổi của chủ nghĩa tư bản ngày nay chứng tỏ tính tất yếu khách quan của cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng đó là cần thiết để khắc phục một cách căn bản những đối kháng
giai cấp, tạo ra những tiền đề khách quan để lý tưởng xã hội chủ nghĩa được thực hiện.

Chương XIII
Ý THỨC XÃ HỘI

I. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội


1.Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn điều kiện sinh hoạt vật chất của đời sống xã hội. Mọi hoạt động sinh
hoạt, quan hệ mang tính khách quan của con người là vật chất của đời sống xã hội. Vật chất của đời
sống xã hội chính là tồn tại xã hội.
Những yếu tố khách quan của xã hội như phương thức sản xuất, điều kiện tự nhiên và dân số là
yếu tố tất yếu của tồn tại xã hội. Trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
2. Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu ý thức xã hội
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội. Y thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội
như quan điểm, tâm trạng,…
Y thức cá nhân là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi cá nhân riêng biệt, cụ thể.
Y thức cá nhân là đời sống tinh thần của mỗi cá nhân.
Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi cá nhân không tách rời với tồn tại xã hội. Y thức xã hội và
ý thức cá nhân có mối liên hệ hữu cơ với nhau, thâm nhập lẫn nhau.
a. Cấp độ ý thức xã hội
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người được hình thành
một cách trực tiếp hàng ngày qua hoạt động thực tiễn nhưng chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa thành các học thuyết, được
trình bày qua các khái niệm, phạm trù, quy luật trên cơ sở luận cứ của các khoa học.
b. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
Tâm lý xã hội bao gồm tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán dưới ảnh hưởng trực tiếp cuộc
sống hàng ngày và phản ánh đời sống đó. Đặc điểm đó của tâm lý xã hội làm cho nó không vạch ra
đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất của mối quan hệ xã hội.
54

Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống
những quan điểm, tư tưởng do kết quả của khái quát hoá kinh nghiệm.
Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, truyền bá, sự tiếp
thu của con người đối với hệ tư tưởng. Trái lại, hệ tư tưởng là cơ sở gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý
xã hội.
Hệ tư tưởng tiến bộ thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có
lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng tiêu cực gây cản trở sự tiến bộ xã hội.
3. Tính giai cấp của ý thức xã hội
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, quyền lực và
lợi ích khác nhau thì quan niệm về xã hội khác nhau, đối lập nhau. Tính giai cấp của ý thức xã hội
được biểu hiện ở hai cấp độ khác nhau ở tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Tâm lý xã hội của mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, có thiện cảm hoặc ác cảm đối với
tập đoàn này hay tập đoàn khác.
Hệ tư tưởng của mỗi giai cấp biểu hiện ở hệ thống các tư tưởng đối lập nhau: giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị. Tư tưởng thống trị xã hội của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp
thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó.
Nếu tư tưởng của giai cấp thống trị ra sức bảo vệ địa vị của mình thì hệ tư tưởng của giai cấp bị
trị thể hiện sự khát vọng về lợi ích của mình trong công cuộc chống người bóc lột người. Trong quá
trình đó, hệ tư tưởng của giai cấp bị trị và giai cấp thống trị đều có sự ảnh hưởng lẫn nhau.
Y thức xã hội không chỉ mang tính giai cấp mà còn mang tính dân tộc. Y thức xã hội phản ánh
điều kiện sinh hoạt chung của một dân tộc như điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, văn hóa,… trong quá trình phát triển lâu dài của một dân tộc. Y thức dân tộc – tâm lý
dân tộc phản ánh tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán của dân tộc và được truyền từ thế hệ này
qua thế hệ khác.
II. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
1. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quyết định
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào
tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi thì tư tưởng, lý luận, quan điểm chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, nghệ thuật sớm muộn sẽ thay đổi theo.
Tư tưởng, quan điểm, lý luận bao giờ cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế
của thời đại.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
a.Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Khi xã hội cũ mất đi, ý thức của xã hội vẫn tồn tại. Tính độc lập tương đối này biểu hiện trong
lĩnh vực tâm lý xã hội: phong tục, tập quán, truyền thống…
Nguyên nhân lạc hậu vì:
(1).Sự biến đổi của tồn tại diễn ra với tốc độ nhanh, ý thức xã hội phản ánh nó nhưng phải có
thời gian được kiểm nghiệm, đúc kết trở thành lạc hậu hơn.
(2). Do sức mạnh thói quen truyền thống, tập quán, bảo thủ (bảo vệ quan niệm của mình là
oanh liệt).
(3). Y thức xã hội luôn gắn liền với lợi ích của giai cấp nhất định trong xã hội. Những tư tưởng
lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực
lượng tiến bộ.
Hiện tượng ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng, vì vậy khi xây dựng xã hội
mới phải tăng cường công tác tư tưởng, kiên quyết xóa bỏ ý thức không còn phù hợp.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt là ý thức về khoa học có thể
vượt trước tồn tại xã hội có vai trò dự báo tương lai, tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
c. Ý thức xã hội mang tính kế thừa
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội bao giờ cũng được phát triển trên cơ sở kế thừa
của các thế hệ đi trước. Nhờ đó mà có những nước lạc hậu hơn về kinh tế nhưng vẫn có đời sống
tinh thần cao.
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
55

Các hình thái của ý thức xã hội có sự tác động qua lại lẫn nhau làm cho chúng ta nhiều khi
không thể giải thích một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội hay những điều kiện vật chất xuất hiện ý
thức xã hội.
Trong sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội, thì ý thức chính trị của giai cấp
thống trị có vai trò quan trọng quyết định chiều hướng của ý thức xã hội khác.
e. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ
thể; vào tính chất của mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai
cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn với nhu cầu phát triển xã hội; vào mức
độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng.
Vai trò của ý thức xã hội tiến bộ làm cho xã hội phát triển còn ý thức phản tiến bộ kìm hãm sự
phát triển xã hội.
III. Các hình thái ý thức xã hội
1. Ý thức chính trị
Ý thức chính trị phản ánh đời sống chính trị của mỗi giai cấp, tập đoàn người trong xã hội. Y
thức chính trị xuất hiện và tồn tại trong xã hội có giai cấp và nhà nước. Ý thức chính trị, thực chất là
những quan điểm về lợi ích, quyền lực của giai cấp nhất định trong xã hội.
Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh của các đảng, các giai cấp khác
nhau. Hệ tư tưởng chính trị gắn liền với các tổ chức chính trị. Thông qua đó, các giai cấp tiến hành
đấu tranh ý thức hệ vì lợi ích của giai cấp mình.
Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã
hội. Nó thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác.
2. Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền là toàn bộ những quan điểm về pháp luật; về quyền và nghĩa vụ công dân
đối với nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân khác; về tính hợp pháp hay không hợp pháp của
mỗi hành vi con người.
Pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị thành luật lệ. Ý thức pháp quyền của giai
cấp thống trị chi phối đời sống xã hội. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp có ý thức
pháp quyền khác nhau phản ánh lợi ích của giai cấp mình. Giai cấp thống trị củng cố quyền lực, lợi
ích kinh tế bằng luật lệ.
3. Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, bổn
phận, hạnh phúc, công bằng,… và những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân
và xã hội, giữa cá nhân với nhau. Ý thức đạo đức được điều chỉnh bởi dư luân xã hội.
Y thức về lương tâm, danh dự, lòng tự trọng phản ánh năng lực tự chủ của con người. Phát
triển về ý thức đạo đức là nhân tố hoàn hiện cá nhân và tiến bộ xã hội.
Ý thức đạo đức mang tính nhân loại, tính giai cấp, tính dân tộc và tính lịch sử cụ thể.
4. Ý thức thẩm mỹ
Ý thức thẩm mỹ phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật là nhận
thức cái chung thông qua cái riêng, nhận thức cái bản chất thông qua cái hiện tượng, nhận thức cái
phổ biến thông qua cái cá biệt.
Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện thực của nhân dân và thúc đẩy tiến bộ xã hội
qua nhu cầu thẩm mỹ của con người. Qua các tác phẩm nghệ thuật chân chính tác động đến lý trí,
tình cảm gây kích thích tính tích cực về hành vi hướng thiện của con người.
Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật mang tính giai cấp. Tính giai cấp biểu hiện ở chỗ nó phản
ánh thế giới quan, quan điểm chính trị của một giai cấp. Tính giai cấp thể hiện ở chỗ thể hiện ở mỗi
quan hệ giữa chính trị và nghệ thuật. Nghệ thuật còn mang tính khách quan và tính dân tộc.
5. Ý thức tôn giáo
Tôn giáo với tính cách là hình thái ý thức xã hội phản ánh tâm trạng “hoang đường” về thế
giới. Tâm lý tôn giáo bao gồm hai cấp độ: tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.
Tôn giáo thường được những giai cấp, tầng lớp xã hội lợi dụng nó như một công cụ để áp bức
tinh thần quần chúng nhân dân lao động và là phương tiện để củng cố địa vị thống trị của họ.
Nguồn gốc tôn giáo xuất phát từ chính cuộc sống của con người bất lực trước tự nhiên và xã
hội.
56

Sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên, con người quy sức mạnh tự nhiên đó về
siêu tự nhiên, do siêu tự nhiên, thần bí bí hoá tự nhiên về siêu tự nhiên và chi phối tự nhiên. Đó là
nguồn gốc nhận thức của tôn giáo.
Trong xã hội có giai cấp, yếu tố quan trọng nảy sinh tôn giáo là do áp bức giai cấp. Quần
chúng lao động bị áp bức, lao động cho kẻ khác, bị cô đơn, cùng khổ không tìm được lối thoát trên
thực tiễn nên đã tìm cho mình lối thoát bằng cách tự an ủi ở “bên kia” thế giới. Đó là nguồn gốc xã
hội của tôn giáo.
Tôn giáo sẽ mất đi khi xã hội không còn giai cấp và khi nhận thức của con người đạt đến trình
độ mà không còn bất lực trước sức mạnh của tự nhiên.
57

Chương XIV
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

I. Bản chất con người


1. Một số quan niệm về bản chất con người trong triết học trước Mác
Trong lịch sử, mỗi khoa học tiếp cận về con người theo phương pháp riêng. Các khoa học
nghiên cứu con người bằng cách chia hệ thống thành nhiều yếu tố, còn triết học tổng hợp các yếu tố
thành hệ thống.
Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học đã tìm cách lý giải vấn đề bản chất con người, quan hệ
giữa con người với thế giới xung quanh.
Các trường phái triết học như: An Độ (Phất giáo), Trung Quốc (Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân
Tử), phương Tây (Thiên Chúa, Aritote),... bước đầu họ đã phân biệt con người với tự nhiên.
Triết học thời Trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế tạo ra. Mọi số phận, niềm
vui, nỗi buồn đều do thượng đế` quy định. Cuộc sống của con người trên trần thế chỉ là tạm bợ, còn
hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
Thời phục hưng đề cao trí tuệ, lý trí con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là
một yếu tố quan trọng có vai trò giải thoát con người khỏi gông cùm của thần học. Tuy nhiên, con
người mới được nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem nhẹ mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, Heghel xem con người là “hiện thân thân của ý niệm tuyệt đối”.
Còn Feaurbach xem con người là kết quả của sự phát triển của thế giới tự nhiên, con người và tự
nhiên thống nhất với nhau. Nhưng Feaurbach đã thấy được vai tró trí tuệ của cá nhân con người, đó
là những con người cá biệt, đa dạng, phong phú, không ai giống ai. Tuy nhiên ông không thấy được
bản chất xã hội trong đời sống của con người, tác con người ra khỏi điều kiện lịch sử.
2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về bản chất con người
a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố
xã hội.
Con người tồn tại trước hết với tư cách là sản phẩm của tự nhiên. Con người tự nhiên là con
người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên
quy định sự tồn tại của con người. Con người trước hết là một tồn tại của dạng sinh vật, biểu trong
những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó với tự nhiên.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quyết định bản chất con người. Đặc
trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật
chất biểu hiện tính xã hội của con người. Thông qua lao động sản xuất, con người tạo ra của cải vật
chất và tinh thần; hình thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Như vậy, quá
trình hình thành bản chất con người thông qua những quy luật vốn có của thế giới tự nhiên, xã hội
loài người.
Hệ thống quy luật về sự phù hợp của cơ thể với môi trường, trao đổi chất, di truyền, biến dị,...
quy định phương diện sinh học của con người.
Hệ thống quy luật tâm lý, ý thức, tình cảm, niềm tin, ý chí hình thành trên cơ sở nền tảng sinh
học.
Hệ thống các quy luật vận động và phát triển xã hội quy định quan hệ giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Sự thống nhất trên hình thành hệ thống nhu cầu về ăn, ở, mặc, nhu cầu về tình cảm, nhu cầu về thẩm
mỹ và hưởng thụ giá trị tinh thần. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã
hội là đặc trưng để phân biệt con người với loài vật.
b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Từ quan niệm trên, con người vượt lên thế giới loài vật ở cả ba phương diện: quan hệ với tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba quan hệ trên, suy cho cùng
đều mang tính xã hội.
58

Con người luôn được xác định sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể, một thời đại nhất định.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể, con người tạo ra giá trị vật chất và tinh thần; hình thành và phát triển
cả về thể lực lẫn trí tuệ. Chỉ thông qua toàn bộ các quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản
chất xã hội của mình.
Quan điểm này muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới loài vật ở bản chất
xã hội. Cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không phải là cái bất
biết, duy nhất.
c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Với tư cách là thực thể xã hội, con người tham gia hoạt động thực tiễn biễn đổi thế giới tự
nhiên, thúc đẩy sự vận động phát triển xã hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người làm ra lịch sử của mình. Trên cơ sở nắm vững quy
luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần thúc đẩy xã hội theo mục
tiêu do con người đặt ra.
Bản chất con người luôn gắn liền với điều kiện lịch sử xã hội, bản chất con người cũng vận
động biến đổi. Vì thế, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực cần phải làm cho hoàn
cảnh, điều kiện xã hội theo hướng tốt đẹp hơn.
II. Quan hệ giữa cá nhân với xã hội
1. Khái niệm cá nhân
Cá nhân là một con người cụ thể, sống động trong một xã hội nhất định. Khái niệm cá nhân
khác khái niệm con người, khái niệm cá nhân phản ánh cái riêng còn khái niệm con người phản ánh
cái chung, cái phổ biến của bản chất người.
Cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá biệt, vừa mang tính phổ biến. Cá nhân có
đời sống, nhu cầu, nguyện vọng lợi ích riêng. Nhưng cá nhân hàm chứa khái niệm con người nên đời
sống, nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích riêng cũng bao hàm cái chung, cái phổ biến, cái bản chất người.
Cá nhân có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, cá nhân là một con người cụ thể, sống động.
Thứ hai, cá nhân là phần tư đơn nhất tạo thành cộng đồng xã hội.
Thứ ba, cá nhân là con người có nhân cách.
Thứ tư, cá nhân là hiện tượng lịch sử trong các quan hệ xã hội, cá nhân luôn phù hợp với thời
đại nhất định.
2. Khái niệm nhân cách
Nhân cách là cách thức biểu hiện tồn tại của mỗi cá nhân. Nhân cáh là sự tổng hợp của các yếu
tố sinh học, tâm lý, xã hội, về di truyền, về sinh lý thần kinh, về môi trường sống của cá nhân.
Nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất của cá nhân trong việc tự ý thức, tự đánh
giá, tự khẳng định và điều chỉnh mọi hoạt động của mình.
Nhân cách được hình thành và phát triển trên cơ sở của những yếu tố sau:
Thứ nhất, nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học.
Thứ hai, môi trường xã hội là yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách.
Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan của cá nhân. Yếu tố quyết định đế việc hình
thành thế giới quan là tính chất lợi ích, vai trò, địa vị cá nhân trong xã hội, khả năng thẩm định giá trị
đạo đức. Sự phát triển, hình thành nhân cách là sự thống nhất của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã
hội để khẳng định cái tôi.
3. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
a. Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và tập thể
Tập thể là hình thức liên kết các cá nhân thành từng nhóm xã hội xuất phát từ lợi ích, nhu cầu
về kinh tế, chính trị, đạo đức, nghề nghiệp,... Cá nhân tham gia vào tập thể với tư cách là con người
có nhân cách. Vì thế cá nhân tham gia vào tập thể nhưng không hòa tan vào tập thể.
Thực chất mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là quan hệ lợi ích. Thông qua lợi ích, hình thành
mối liên kết giữa cá nhân và tập thể, quy định phương hướng hoạt động của tập thể nhằm bảo đảm
lợi ích của mỗi cá nhân.
59

Sư liên kết giữa cá nhân và xã hội bị quy định bởi những điều kiện khách quan và chủ quan.
Tính khách quan của mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể được xuất phát từ lợi ích của mỗi cá nhân
và hình thành những chuẩn mực mà mọi thành viên phải thực hiện. Tính chủ quan là năng lực của
mỗi cá nhân trong việc điều chỉnh mọi hành vi, suy nghĩ của mình.
Lợi ích là cơ sở của quan hệ giữa cá nhân và tập thể. Lợi cích cá nhân thì mang tính phong phú,
đa dạng làm cho tập thể không thể đáp ứng được mọi yêu cầu của cá nhân. Sự kết hợp hài hòa giữa
lợi ích, nhu cầu, tôn trọng, trách nhiệm,... của cá nhân nhân và tập thể là những điều kiện cho sự phát
triển xã hội.
b. Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội
Xã hội là xã hội loài người, là xã hội của một quốc gia. Trong cuộc sống, cá nhân không tác rời
khỏi xã hội. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội luôn vận động, phát triển qua các hình thái kinh tế xã
hội khác nhau.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội được thể hiện ở chỗ: xã hội càng phát triển thì nhu cầu của
cá nhân ngàng càng được thỏa mãn về vật chất và tinh thần; lợi ích của cá nhân được bảo đảm là
mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội.
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội được quy định bởi yếu tố khách quan và chủ
quan. Khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của năng suất lao động xã
hội. Chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của
con người.
III. Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử
1. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân
a. Khái niệm
Quần chúng nhân dân là bộ phận có chung lợi ích căn bản liên kết thành tập thể dưới sự lãnh
đạo của một cá nhân nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất
định.
Quần chúng nhân dân được xác định bởi những nội dung:
Thứ nhất, những người làm ra của cải vật chất và tinh thần.
Thứ hai, những người chống lại giai cấp thống trị, áp bức bóc lột.
Thứ ba, những người thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
b. Vai trò của quần chúng nhân dân
Mọi lý tưởng giải phóng con người chỉ được thông qua sự tiếp thu, hoạt động của quần chúng
mới biến lý tưởng đó thành hiện thực. Bản thân lý tưởng đó không làm thay đổi xã hội mà chỉ có
hoạt động thực tiễn của quần chúng mới biến ước mơ thành hiện thực trong đời sống. Vai trò quyết
định của quần chúng nhân dân được thể hiện ở ba vấn đề sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tếp sản xuất ra
của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của các cuộc cách mạng xã hội. Họ là lực
lượng cơ bản của cuộc cách mạng và đóng vai trò quyết định đến sự tháng lợi của mọi cuộc cách
mang, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Thứ ba, quần chúng nhân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần. Mọi lĩnh vực
hoạt động của quần chúng nhằm nhận thức và áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.
Các giá trị văn hóa tinh thần tồn tại được khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và
truyền bá sâu rộng.
2. Khái niệm lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ
a. Khái niệm
Lãnh tụ là một vĩ nhân gắn bó mật thiết với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm và nguyện
hy sinh quên mình vì lợi ích của quần chúng nhân dân.
Lãnh tụ là người có những phẩm chất sau:
Thứ nhất, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời
đại.
Thứ hai, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí hành động của quần chúng
vì mục tiêu chung.
Thứ ba, gắn bó với quần chúng, hy sinh quên mình vì lợi ích của quần chúng.
b. Vai trò của lãnh tụ
60

Lãnh tụ có nhiệm vụ sau:


Thứ nhất, nắm bắt được xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động.
Thứ ba, tổ chức, giáo dục quần chúng, thống nhất ý chí hành động của quần chúng.
Từ nhiệm vụ đó, lãnh tụ có một số vai trò sau:
Thứ nhất, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội và là linh hồn của tổ chức đó.
Thứ ba, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của thời đại đó.
3. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
Thứ nhất, tính thất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm
của thời đại và là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình.
Thứ ba, sự khác nhau giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau
của sự tác động đến lịch sử.
61

Chương 4
TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI

I. Điều kiện xã hội cho sự hình thành triết học phương Tây hiện đại
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, triết
học phương Tây hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều trường phái, nhưng xoay quanh hai trào
lưu chủ yếu, đó là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản duy lý.
Chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo là hai vũ khí lý tưởng của giai cấp tư sản chống lại
chế độ phong kiến, thần học và chủ nghĩa kinh viện.
Dưới chế độ tư bản, tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ
nhưng vẫn khong đưa lại “tư do, bình đẳng, bác ái”. Trái lại, nó còn dẫn đến các cuộc khủng hoảng
xã hội, khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng nhân cách ngày càng sâu sắc,
đẩy con người vào tình trạng tha hóa, toàn diện và nặng nề hơn.
Trong điều kiện lịch sử đó, triết học phương Tây đã diễn ra sự tách biệt và sự đối lập giữa
chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân bản.
II. Một số trào lưu triết học cơ bản
1. Chủ nghĩa thực chứng
Các triết gia thuộc trào lưu chủ nghĩa duy khoa học chủ trương xây dựng triết học theo mô
hình “các nhà khoa học thực chứng”. Theo họ, triết học không nên nghiên cứu những vấn đề như bản
chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới, v.v… mà đi tìm phương pháp khoa học có hiệu quả
nhất, đáng tin cậy nhất mới là nội dung chủ yếu của việc nghiên cứu triết học.
Trong các trường phái theo chủ nghĩa duy khoa học, trường phái có ảnh hưởng lớn nhất và
lâu nhất là chủ nghĩa thực chứng.
Các triết gia học thực chứng cho rằng, chỉ có các hiện tượng hoặc sự kiện, mới là “cái thực
chứng”, do đó họ không thừa nhận bất cứ cái gì ngoài hiện tượng , không thừa nhận bản chất của sự
vật, triết học phải lấy các sự vật “thực chứng”, “xác thực” làm căn cứ.
Các phương pháp toán học, phương pháp logic toán trở thành phương pháp đặc biệt quan
trọng trong khoa học tự nhiên, chính việc nghiên cứu các phương pháp đó mới là nhiệm vụ, nội dung
chủ yếu của triết học. Việc toán học hóa, lôgic học hóa triết học mới là lối thoát của triết học hiện
đại.
Trường phái coi việc phân tích lôgic ngôn ngữ là nội dung trung tâm của triết học được gọi là
chũ nghĩa thực chứng mới, hoặc triết học phân tích. Triết học phân tích được hình thành vào đầu thế
kỷ XX.
Đến những năm 20 của thế kỷ XX, trong triết học phân tích đã xuất hiện một chi phái lớn: Chủ
nghĩa kinh nghiệm lôgic, hoặc còn gọi là chủ nghĩa thực chứng lôgic.
Chủ nghĩa thực chứng lôgic sử dụng những thành quả của toán học, đặc biệt là của lôgic toán
lý từ đầu thế kỷ XX đến nay, đem tất cả các tri thức quy thành các mệnh đề có thể dùng lôgic toán để
biểu thị, triết học còn có nhiệm vụ tiến hành sự phân tích kết cấu lôgic đối với tất cả mọi mệnh đề
khoa học dựa trên các tài liệu thực chứng (kinh nghiệm).
Những người theo chủ nghĩa thực chứng lôgic thường phê phán các khái niệm của ngôn ngữ
tự nhiên là mơ hồ, không rõ ràng, nên không phù hợp với tư duy chính xác.
Các trường phái triết học khoa học có ảnh hưởng lớn đến triết học phương Tây, bao gồm các
đại biểu như Pốppơ, Cun và Lacatốt, v.v… Họ cho rằng khoa học tiến bộ thông qua con đường cách
mạng trong tri thức, do đó phải tiến hành sự phân tích lịch sử khoa học theo trạng thái động, thông
qua giải quyết mâu thuẫn.
Pốppơ phủ định phép quy nạp , nhấn mạnh rằng khoa học bắt từ vấn đề chứ không phải bắt
nguồn từ việc quan sát, thực nghiệm. Ông nhận định rằng, phương pháp khoa học không phải là
chứng thực trực tiếp mà là chứng thực bằng sự giả hóa , tức là phê phán sai lầm của nó. Theo ông thì
sự phát triển của khoa học bắt đầu từ vấn đề mà đề ra giả thuyết có tính quy ước, tiếp đó dùng thực
nghiệm để kiệm nghiệm, cố chứng thực nó bằng sự giả hóa, sau đó xuất hiện vấn đề mới. Như vậy
khoa học phát triển theo phương thức “cách mạng không ngừng”.
Cun chia sự phát triển khoa học thành hai thời kỳ , thời kỳ phát triển bình thường và thời kỳ
cách mạng. Theo ông, ngay trong thời kỳ phát triển bình thường của khoa học đã xuất hiện những
62

hiện tượng trái với bình thường. Việc tích lũy các hiện tượng trái với bình thường, đến một chừng
mực nào đó sẽ dẫn đến sự khủng hoảng trong khoa học, do đó tạo ra cuộc cách mạng khoa học.
Lôcatốt nêu lên phương pháp luận “cương lĩnh nghiên cứu khoa học”, trả lời rõ câu hỏi thế nào
là một khoa học, thế nào là tình hợp lý trong sự phát triển của khoa học.
Trong xã hội tư sản hiện đại, một mặt đang tồn tại cuộc khủng hoảng xã hội trầm trọng, mặt
khác, khoa học tự nhiên lại có sự tiến bộ to lớn. Đứng trước mâu thuẫn đó, một số nhà triết học cảm
thấy bó tay không có cách gì giải quyết. Về mặt lý luận, họ chán ghét loại triết học thuần túy tư biện,
cho rằng loại triết học này căn bản không thể góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra. Trong
khi đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên lại đưa đến cho họ niềm hy vọng và chỗ dựa
tinh thần mới . Vì vậy, họ chuyển hướng nghiên cứu triết học từ phương diện thế giới quan sang
phương diện phương pháp luận khoa học.
Sự phát triển nhanh chóng của nhiều môn khoa học mới, sự phân công trong nội bộ khoa học
ngày càng tỷ mỷ hơn, sự ứng dụng rộng rãi toán học và lôgic toán, việc khoa học ngày càng đi sâu
hơn vào kết cấu vật chất, vai trò của mô hình và kết cấu lý luận tăng lên, v.v… đòi hỏi các môn khoa
học thực chứng không những phải nghiên cứu những nội dung cụ thể mà còn phải nghiên cứu những
vấn đề chung của khoa học , đặc biệt là vấn đề phương pháp luận nhận thức của khoa học.
2.Chủ nghĩa hiện sinh.
Chủ nghĩa hiện sinh đầu thế kỷ XX có cội nguồn tư tưởng sâu xa mà trực tiếp nhất là triết học
phi duy lý ở thế kỷ XIX . Đại biểu chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh là các nhà triết học Hâyđơgơ,
Xáctơrơ, Giaxpơ, Macxen.
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học rất phức tạp. Ngoài sự phân biệt về quốc gia
như chủ nghĩa hiện sinh của Đức, chủ nghĩa hiện sinh của Pháp và chủ nghĩa hiện sinh của Mỹ, còn
có thể phân biệt chủ nghĩa hiện sinh theo thái độ đối với tôn giáo như chủ nghĩa hiện sinh vô thần và
chủ nghĩa hiện sinh hữu thần. Nhưng tất cả những người theo chủ nghĩa hiện sinh đều coi sự hiện
sinh của cá nhân là nội dung cơ bản trong triết học của mình.
Các nhà hiện sinh phân biệt hai khái niệm hữu thể và hiện hữu (hiện sinh).Hữu thể là khái niệm
chỉ là một cái gì đó (một vật, một người) đang tồn tại, đang có mặt nhưng chưa là một cái gì đó cụ
thể cả, chưa có diện mạo, chưa có cá tính. Đó là một tồn tại chưa sống đích thực, vô hồn, tức là chưa
hiện hữu. Còn hiện hữu là một khái niệm chỉ một cái gì đó không những là đang có mặt (tồn tại) mà
còn đang sống đích thực với diện mạo riêng.
Do đó hiện sinh không phải là giới tự nhiên hoặc sự vật, mà là con người. Bởi vì chỉ có con
người có thể hiểu được sự tồn tại của bản thân và của sự vật khác, chỉ có con người mới hiện sinh
Về mặt nhận thức luận , do đã coi vấn đề bản thể luận trung tâm của triết học là sự cảm thụ chủ
quan và thái độ ứng xử của cá nhân nên chủ nghĩa hiện sinh không chú trọng nghiên cứu nhận thức
khoa học. Để đạt đến hiện sinh chân chính thì chỉ có thể dựa vào trực giác phi lý tính . Chỉ có trong
cuộc sống đau khổ, cô đơn , tuyệt vọng, sợ hãi … con người mới có thể trực tiếp cảm nhận được sự
tồn tại của mình. Như vậy, nhận thức luận của chủ nghĩa hiện sinh là nhận thức duy tâm chủ quan
phi duy lý.
Về luân lý, chủ nghĩa hiện sinh phản đối mọi hình thức quyết định luận trong đạo đức phủ
nhận sự tồn phổ biến của những nguyên tắc đạo đức.
Tự do là bản chất của sự hiện sinh của cá nhân con người .Giá trị hiện sinh của cá nhân con
người. Giá trị hiện sinh của cá nhân được thể hiện trong sự lựa chọn tự do của cá nhân. Tự do của cá
nhân không phục tùng Thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào và cũng không chịu sự ràng buộc của
bất cứ tính tất yếu khách quan này. Nó là tuyệt đối . Quan điểm về tự do của chủ nghĩa hiện sinh là
quan điểm của chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Về quan điểm lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá nhân tuyệt đối, cho
rằng chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là một phương thức hiện sinh cá nhân, hơn
nữa là một phương thức hiện sinh không chân thực. Bởi vì, khi giữa xã hội và cá nhân có liên hệ chặt
chẽ thì sự tồn tại của cà nhân sẽ không còn là cá nhân thực sự mà là cá nhân đã bị đối tượng hóa, bị
mất cá tính do ràng buộc với người khác và với xã hội, là cá nhân bị tập thể, xã hội và người khác
lấn át, tồn tại xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của con người. Để khôi phục sự hiện sinh của
mìn, con người cần thoát khỏi sự ràng buộc của những người khác và xã hội . Xã hội chính là sản
vật tha hóa của con người, bản thân nó không phải là cái tồn tại khách quan tự thân phát triển theo
63

quy luật, mà chỉ là một mớ ngẫu nhiên những con người bị tha hóa. Động lực phát triển lịch sử tất
nhiên là không ở sự hiện sinh mỗi con người.
Giải pháp của chủ nghĩa hiện sinh đối với các vấn đề xã hội về cơ bản là tiêu cực. Nhưng các
nhà hiện sinh đã đóng vai trò tích cực khi họ đặt ra và đề cao nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề bản
chất con người, về sự tha hóa do sự thống trị của kỹ thuật, v.v… Đặc biệt cũng như việc họ thức tỉnh
mọi người phải trăn trở về ý nghĩa của cuộc sống và về các hiện tượng bất hợp lý trong xã hội tư bản
hiện đại.
3. Chủ nghĩa Phơrớt:
Chủ nghĩa Phơrớt cũng là một trường phái có ảnh hưởng rất lớn của trào lưu chủ nghĩa nhân
bản phi duy lý do nhà bệnh học tinh thần, nhà tâm lý học người Ao, Phơrớt sáng lập.
Chủ nghĩa Phơrớt hình thành vào đầu thế kỷ XX trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản đang đi vào
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, bệnh tâm thần trong xã hội
phát triển nhanh. Sinh học, sinh lý học, tâm lý học, v.v…, cũng có bước phát triển mạnh mẽ khiến
cho những lý luận giải thích các hiện tượng sinh lý và tâm lý của con người bằng quan điểm cơ giới
dần dần được thay thế bằng lý luận mới.
Lý luận về vô thức là bộ phận quan trọng trong hệ thống phân tích tâm lý đầu tiên của Phơrớt.
Ông chia quá trình tâm lý của con người thành ba bậc: ý thức, tiềm thức và vô thức. Sự suy nghĩ của
con người thường tiến hành giữa trạng thái vô thức và ý thức. Ý thức là tâm lý nhận biết của con
người. Vô thức là hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí, do bản năng, thói quen và dục
vọng của con người gây ra. Hoạt động tâm lý này tiến hành theo nguyên tắc khoái cảm, tức là do
tình cảm và dục vọng chi phối, không bị hạn chế về thời gian, không gian và quy tắc lô gíc của lý
trí .
Tiềm thức là yếu tố trung gian, ở giữa ý thức và vô thức, hoạt động theo nguyên tắc của tính
hiện thực. Phơrớt cho rằng, trong vô thức ẩn giấu những xung đột bản năng, phải thông qua sự lựa
chọn và phê chuẩn của “tiềm thức” mới có thể trở thành ý thức. Theo ông, ý thức không phải là thực
chất của hoạt động tâm lý mà chỉ là một thuộc tính không ổn định của hoạt động tâm lý. Vô thức
mới là căn cứ hành vi con người.
Trong lý luận về nhân cách, Phơrớt đưa ra ba khái niệm “cái ấy”, “cái tôi” và “cái siêu tôi”.
Theo ông, “cái ấy” chính là sự thể hiện của libiđô (tính dục), là bản năng đầu tiên có từ lúc con
người sinh ra. Nó là nguồn năng lượng tâm lý đòi hỏi bộc lộ và đòi hỏi được thỏa mãn một cách
mãnh liệt. Nó là kết cấu phi lý tính, chỉ tuân theo nguyên tắc khoái cảm . “Cái tôi” là hệ thống ý
thức, là cái đứng giữa “cái ấy” và thế giới bên ngoài, hoạt động theo nhu cầu của thế giới bên ngoài,
điều tiết sự xung đột giữa “cái ấy” và thế giới bên ngoài . “Cái siêu tôi” là đại diện của xã hội, của lý
tưởng và của uy thế bên ngoài trong tâm lý con người. Nó được tạo thành bởi những chuẩn mực xã
hội, những quy tắc luân lý và những giới luật tôn giáo. “Cái siêu tôi” khuyến khích đấu tranh giữa
“cái tôi” và “cái ấy”. Trạng thái tâm lý người bình thường là người giữ được sự cân bằng giữa ba cái:
“cái ấy”, “cái tôi” và “cái siêu tôi”. Những người mắc bệnh tâm thần là do mối quan hệ cân bằng
giữa ba cái đó bị phá hoại.
Thuyết tính dục là nội dung quan trọng trong hệ thống phân tích tâm lý của chủ nghĩa. Phơrớt
cho rằng, trong mọi xung động bản năng của “cái ấy” thì bản năng tính dụng là hạt nhân, là cơ sở
của hành vi con người. Tính dục ông nói ở đây có nghĩa rộng, gồm mọi loại khoái cảm. Phơrớt cho
rằng, tính dụng là xung đột vĩnh hằng, ngay cả khi tự ý thúc và tiền ý thức áp chế, nó vẵn tìm cách
bộc lộ ra, có khi bằng hệ thống ngỵ trang xâm nhập vào hệ thống ý thức. Do đó, về tâm lý thường có
hiện tượng nằm mơ, nói nhịu và những bệnh tâm thần khác. Theo ông, một từ, một con số, một tên
người hoặc một sự việc hiện ra trong giấc mơ đềukhông phải là vô cớ, mà là sự thể hiện hoặc sự thỏa
mãn một nguyện vọng nào đó.
Phơrớt coi bản năng tính dục của con người là cơ sở duy nhất cho các hoạt động của con
người. Quan điểm trên của Phơrớt dù nhìn từ góc độ sinh lý học ha xã hội học đều không thể đứng
vững được.
Chủ nghĩa Phơrớt đến nay vẫn là một học thuyết có ảnh hưởng rộng trên thế giới, không những
trở thành một trường phái phổ biến nhất của tâm lý học hiện đại – trường phái tâm lý học nhân bản,
mà còn là nguồn gốc làm nảy sinh nhiều trào lưu triết học phương Tây hiện đại.
4. Chủ nghĩa Tôma mới
64

Vào cuối thế kỷ XIX một hình thái mới của triết học Thiên Chúa giáo đã xuất hiện ở phương
Tây. He thống triết học tôn giáo này lấy Chúa làm nòng cốt, lấy đức tin làm tiền đề, lấy thần học làm
căn cứ, và gọi là Chủ nghĩa Tôma mới.
Về nhận thức luận: trong sự phân tích đối với tri thức, chủ nghĩa Tôma mới một mặt thừa nhận
tính khách quan của nhật thức và tính đúng đắn của các phán đoán khoa học , mặt khác mưu toan
dùng nguyên tắc tương đồng để loại suy để từ chỗ thừa nhận bản thể của thế giới hiện thực mà xác
nhận mà xác nhận bản thể của Chúa . Kết luận là tri thức lý tính phù hợp với đức tin của con người.
Về triết học tự nhiên: Chủ nghĩa Tôma mới quả quyết rằng , các khoa học tự nhiên khi nghiên
cứu thế giới vật chất tất nhiên phải đề cập các vấn đề triết học như kết cấu và nguồn gốc của vật
chất, v.v… do đó phải lấy học thuyết về hình thức và vật chất của Arixtốt là cơ sở lý luận cho triết
học tự nhiên. Theo đó, vật chất là bản nguyên hoàn toàn thụ động, là khả năng; hình thức là chủ
động, là hiện thực; vật chất không thể tồn tại độc lập, nó cần có hình thức mới giành được tính quy
định của nó, mới thực hiện được sự tồn tại của nó. Chính nhờ hình thức nên mới xuất hiện tính đa
dạng của phương thức tồn tại của vật chất. Bởi vì Chúa là hình thức thức tối cao, là hình thức của
các hình thức cho nên việc nghiên cứu của khoa học tự nhiên là quá trình không ngừng phát hiện ra
Chúa, khẳng định Chúa và không phủ nhận Chúa. Vậy là khoa học và thần học đã hợp tác hòa thuận
để phát hiện và chứng minh sự tồn tại vĩnh hằng của Chúa.
Về lý luận chính trị xã hội: Chủ nghĩa Tôma mới phủ nhận sự tồn tại của các giai cấp, chủ
trương thuyết tính người trừu tượng, coi trần thế là tạm thời, cuộc sống tương lai mới là vĩnh hằng.
Chủ nghĩa Tôma mới chú ý đến sự kết hợp với thời đại mới, biết nắm lấy những vấn đề bức xúc của
xã hội để tôn giáo có thể phát huy vai trò của mình trong thời đại mới. Họ cho rằng, xã hội hiện nay
đang đứng trước những vấn đề nghiêm trọng. Bản thân khoa học, kỹ thuật không đủ đảm bảo sự tiến
bộ và hạnh phúc của nhân loại. Khi con người ra sức chinh phục giới tự nhiên thì họ mật đi ý thức về
cuộc sống và tình yêu đối với Chúa. Sự băng hoại về đạo đức đã trực tiếp uy hiếp cuộc sống của con
người. Để cứu lấy nhân loại người ta phải nhờ đến đức tin, đến Chúa.
5. Chủ nghĩa thực dụng.
Chủ nghĩa thực dụng, với tư cách là một trường phái triết học, đã ra đời trong các năm 1871
– 1874. Người sáng lập ra chủ nghĩa thực dụng là Piếcxơ và trong số những thành viên của nó, người
sau đó trở thành một trong những đại biểu chủ yếu la Giêmxơ.
Nguyên tắc căn bản trong phương pháp luận của chủ nghĩa thực dụng là lấy hiệu quả, công
dụnt làm tiêu chuẩn
Về nhận thức luận: Chủ nghĩa thực dụng nói đến một phương thức tư duy đặc thù. Khái niệm
và lý luận không phải là sự giải đáp về thế giới. Các cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trong triết học truyền thống là các cuộc đấu tranh có tính chất siêu hình, chẳng có ý
nghĩa gì. Lấy hiệu quả thực tế mà xét thì dù thế giới là vật chất hay là tinh thần cũng chẳng có sự
khác biệt gì. Nếu xuất phát từ hiệu quả để khẳng định giá trị của tôn giáo và khoa học thì niềm tin
khoa học và tín ngưỡng tôn giáo đều có giá trị thiết thực vì cả hai đều là công cụ để đạt đến mục đích
của đời sống con người.
Quan điểm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng: muốn xét một quan điểm nào đó có phải là
chân lý hay không, thì cần phải xem nó có phù hợp với thực tế khách quan hay không, mà phải xem
nó có đem lại hiệu quả hữu dụng hay không. Như vậy ,hữu dụng và vô dụng đã trở thành tiêu chuẩn
để phân biệt chân lý với sai lầm. “Hưu dụng là chân lý” đó là quan điểm căn bản của Giêmxơ về
chân lý.
Một là, triết học này có ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, triết học của họ là “toàn diện nhất”, “công bằng nhất”.
Hai là, phê phán và từ bỏ chủ nghĩa lý tính cực đoan, siêu hình của triết học (phương Tây,
truyền thống) để chuyển mạnh sang thế giới đời sống hiện thực với hai loại chủ đề nổi bật: con
người và khoa học.
Ba là, triết học, cùng với các trào lưu tư tưởng phương Tây sớm đi vào các vấn đề toàn cầu
và dự đoán tương lai nhân loại, đưa ra được những dự báo có giá trị.

You might also like