You are on page 1of 6

Andrea Palladio: Kiến trúc sư người Ý

Một buổi triển lãm kỉ niệm 500 năm công trình kiến trúc của Palladio
A. Vicenza là một thành phố dễ chịu và hưng thịnh ở Veneto, cách Venice 60km về phía Tây.
Các gia đình lớn ở nơi đây đã định cư và canh tác khu vực này từ thế kỷ thứ 16. Nhưng lí do
chính để nơi đây được biết tới đó chính là Andrea Palladio, một kiến trúc sư có tầm ảnh
hưởng tới mức phong cách Tân cổ điển được biết tới với tên Palladian. Thành phố là nơi triển
lãm cố định với của vài kiến trúc đẹp nhất của ông ấy, và khi ông được sinh ra - ở Padua, ước
tính – khoảng 500 năm về trước, Trung tâm Quốc tế Nghiên Cứu Công trình kiến trúc của
Palladio có lí do rất tuyệt vời để tổ chức buổi triển lãm lớn hay chương trình lớn.
B. Cuộc triển lãm có lợi ích đặc biệt từ việc tổ chức ở một trong những toà nhà của Palladio,
Palazzo Barbaran da Porto. Mặt trước đậm nét của nó là sự kết hợp giữa vẻ mộc mạc cũng
như sự trang trí được đặt giữa hai hàng cột tao nhã. Ở tầng thứ hai trán tường vòng cung được
làm cong hoặc nhọn xen kẽ nhau, đặc trưng riêng của phong cách Palladian. Tỉ lệ hài hòa của
sân trước ở lối vào dẫn đến khu bên trong đầy ấn tượng với lò sưởi lớn và trần nhà được sơn
màu. Thiết kế của Palladio đơn giản, rõ ràng mà không hề quá nhiều chi tiết. Chương trình đã
được tổ chức theo cùng những nguyên tắc, theo Howard Bums, nhà lịch sử học kiến trúc,
người đồng quản lí nó.
C. Cha của Palladio là một chủ cối xay, người định cư ở Vicenza, nơi mà chàng trai trẻ
Andrea đã được học việc cho một thợ đá lành nghề. Bằng cách nào đứa con trai của một
người chủ cối xay nhút nhát trở thành một kiến trúc sư lừng lẫy thế giới? Câu trả lời ở trong
buổi triển lãm đó là, khi còn là chàng trai trẻ, Palladio rất giỏi trong việc đẽo gọt những tác
phẩm đá được trang trí trên những chiếc cột, lối đi ở cửa hay lò sưởi. Ông ấy rõ ràng thông
minh, và đủ may mắn để tình cờ gặp một nhà bảo trợ giàu có, Gian Giorgio Trissino, một địa
chủ và một học giả, người đã tổ chức việc học tập của ông, đưa ông tới Rome vào những năm
1540, nơi ông nghiên cứu về những kiệt tác của kiến trúc La Mã và Hy Lạp cổ điển cũng như
tác phẩm của các kiến trúc sư có tầm ảnh hưởng lớn cùng thời đó, chẳng hạn như Donato
Bramante và Raphael.
D. Ngài Burns chỉ ra rằng sự chuyển dịch xã hội cũng rất quan trọng. Những doanh nhân,
thịnh vượng từ nông nghiệp ở Veneto, đã ủy quyền cho những kiến trúc sư địa phương đầy
triển vọng để thiết kế nhưng biệt thự ở nông thôn cũng như những dinh thự ở đô thị của họ. Ở
Venice giới quý tộc nóng lòng muốn hợp tác với các nghệ sĩ tài năng, và Palladio đã được
trao cơ hội để thiết kế những tòa nhà đã làm cho ông trở nên nổi tiếng - nhà thờ San Giorgio
Maggiore và Redentore, cả hai đều dễ dàng chiêm ngưỡng bởi vì chúng có thể được nhìn thấy
từ trung tâm lịch sử của thành phố băng qua một dải nước.
E. Ông ấy đã thử sức với những cây cầu - phiên bản chưa xây dựng của Cầu Rialto được trang
trí bằng trán tường và cột của một ngôi đền - và, sau một trận hỏa hoạn ở Cung điện Ducal,
ông đã đề nghị một thiết kế thay thế mang một nét tương đồng kỳ lạ với Nhà tiệc ở Whitehall
ở London. Vì nó được thiết kế bởi Inigo Jones, học trò nước ngoài đầu tiên của Palladio, nên
điều này không có gì đáng ngạc nhiên.
F. Jones, người đến thăm Ý vào năm 1614, đã mua đã mua một hòm chứa đầy các bản vẽ kiến
trúc của bậc thầy; chúng đi qua bàn tay của Công tước Burlington và Devonshire trước khi đặt
cố định tại Viện Kiến trúc Hoàng gia Anh vào năm 1894. Nhiều trong số chúng hiện nay đang
được trưng bày tại Palazzo Barbaran. Những gì họ thể hiện chính là cách mà Palladio đã vẽ
các tòa nhà của La Mã cổ đại như mô hình. Chủ đề chính của cả công trình xây dựng ở nông
thôn và thành thị của ông là kiến trúc đền thờ, với phần trán tường nhọn vững chắc được
chống đỡ bởi những chiếc cột và được tiến gần bằng các bậc thang rộng.
G. Công trình của Palladio dành cho những địa chủ giàu không dành cho những nhà phê bình
chủ trương truyền thống thuộc cánh tả chính phủ Ý nhưng trong số các bài báo trong chương
trình là những thiết kế cho những ngồi nhà giá rẻ ở Venice. Trong thế giới rộng lớn hơn, danh
tiếng của Palladio đã được nâng tầm bởi một văn bản do ông viết và minh họa, “Quattro Libri
dell’ Architettura”. Ảnh hưởng của ông lan rộng đến St Petersburg và đến Charlottesville ở
Virginia, nơi Thomas Jefferson cho thuê một biệt thự mang phong cách Palladian mà ông gọi
là Monticello.
H. Chương trình ở Vicenza chứa những mô hình chi tiết của các tòa nhà lớn và được tô điểm
bởi các bức chân dung của các giáo viên và khách hàng của Palladio của Titian, Veronese và
Tintoretto; những bức tranh về các tòa nhà ở Venice của anh ấy đều là của Canaletto, không
kém hơn. Đây là một cuộc triển lãm kiên quyết; nhiều bức vẽ nhỏ và mờ nhạt, không có hoạt
động phụ dành cho trẻ em, nhưng tác động của các đường nét hài hòa và tỷ lệ vừa ý là truyền
đạt cho người xem một cảm giác êm đềm nhân từ. Palladio là kiến trúc sư trị liệu nhất trong
lịch sử.
I. “Palladio, 500 Anni: La Grande Mostra” ở Palazzo Barbaran da Porto, Vicenza, cho đến
ngày 6 tháng 1 năm 2009. Triển lãm tiếp tục tại Học viện Nghệ thuật Hoàng gia, London, từ
ngày 31 tháng 1 đến ngày 13 tháng 4, và sau đó sẽ di chuyển đến Barcelona và Madrid.
Săn hạt giống
A. Với một phần tư số thực vật trên thế giới sẽ biến mất trong vòng 50 năm tới, báo cáo của
Dough Alexander về việc các nhà khoa học đang chạy đua với thời gian để bảo tồn di sản
thực vật của Trái đất. Họ đi khắp bốn phương trời trên thế giới, lùng sục khắp các khu rừng
rậm, rừng rậm và savan. Nhưng họ không tìm kiếm đồ tạo tác cổ đại, kho báu bị mất hoặc
những ngôi mộ chưa được khám phá. Chỉ là những chiếc vỏ. Nó có thể thiếu sức hấp dẫn lãng
mạn của khảo cổ học hoặc một cảm giác nguy hiểm đi kèm theo sau trận đấu lớn, nhưng săn
hạt giống là một ngành kinh doanh ngày càng nghiêm túc. Một số tìm kiếm hạt giống vì lợi
nhuẩn - những thợ săn làm việc cho các công ty công nghệ sinh học, công ty dược phẩm và
các tập đoàn tư nhân để quan sát các loài sẽ sản xuất thuốc hoặc cây trồng của tương lai.
Những người khác thu thập để bảo tồn, làm việc để ngăn chặn sự trượt đáng buồn vào sự
tuyệt chủng, đang đối mặt với rất nhiều loài thực vật.
B. Trong số những người tiên phong trong cuộc săn tìm kho báu thực vật này là John
Tradescant, một người làm vườn hoàng gia người Anh, người đã mang về những cây và hạt
giống từ những chuyến du ngoạn ra nước ngoài vào đầu những năm 1600. Sau đó, nhà thực
vật học người Anh, Ngài Joseph Banks - người là giám đốc đầu tiên của Vườn Bách thảo
Hoàng gia tại Kew và đã đi cùng Thuyền trưởng James Cook trong các chuyến đi biển vào
gần cuối thế kỷ 18 - đã bị thúc đẩy để mở rộng bộ sưu tập của mình đến mức ông đã gửi các
nhà thực vật học khắp nơi trên thế giới bằng chi phí của riêng mình.
C. Những ngày thám hiểm và khám phá tràn đầy tự tin đó có thể đã kết thúc, nhưng chúng đã
được thay thế bằng nhu cầu cấp thiết để bảo tồn lịch sử tự nhiên của chúng ta cho tương lai.
Nhiệm vụ hiện đại này thúc đẩy những thợ săn như Tiến sĩ Michiel van Slageren, một người
Hà Lan tốt bụng thường đội chiếc mũ rộng vành trên cánh đồng - anh ta có thể dễ dàng bị
nhầm với anh hùng điện ảnh Indiana Jones. Anh và ba thợ săn hạt giống khác làm việc tại
Ngân hàng Hạt giống Thiên niên kỷ, một dự án bảo tồn quốc tế trị giá 80 triệu [bảng Anh]
nhằm mục đích bảo vệ các loài thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất trên thế
giới.
D. Trụ sở chính của tập đoàn nằm trong một cấu trúc bằng kính và bê tông hiện đại trên một
khu bất động sản rộng 200 ha tại Wakehurst Place ở vùng nông thôn Tây Sussex. Bên trong
các hầm ngầm của nó là 260 triệu hạt khô từ 122 quốc gia, tất cả đều được bảo quản ở nhiệt
độ 20 độ C để sống sót trong nhiều thế kỷ. Trong số 5.100 loài đại diện hầu như là tất cả
1.400 loài thực vật có hạt bản địa của Anh, bộ sưu tập hoàn chỉnh nhất về hệ thực vật của bất
kỳ quốc gia nào.
E. Được trông nom bởi các Vườn thực vật Hoàng gia, Ngân hàng Hạt giống Thiên niên kỷ là
kho lưu ký thực vật hoang dã lớn nhất thế giới. Nó đặt mục tiêu thu thập 24.000 loài vào năm
2010. Lý do rất đơn giản: nhờ nỗ lực của con người, ước tính khoảng 25% thực vật trên thế
giới đang đứng trước bờ vực tuyệt chủng và có thể biến mất trong vòng 50 năm. Chúng ta
ngày nay đang chịu trách nhiệm về việc phá hủy môi trường sống trên quy mô chưa từng có
tiền lệ, và trong suốt 400 năm qua, tỷ lệ tuyệt chủng của các loài thực vật cao hơn khoảng 70
lần so với tỷ lệ được ghi nhận trong hồ sơ địa chất là 'bình thường'. Các chuyên gia dự đoán
rằng trong vòng 50 năm tới, một tỷ ha đất hoang sẽ được chuyển đổi thành đất nông nghiệp
chỉ riêng ở các nước đang phát triển.
F. Những tác động của sự mất mát này là rất lớn. Bên cạnh việc cung cấp các loại cây lương
thực chính, thực vật còn là nguồn cung cấp nhiều máy móc và là nguồn cung cấp nhiên liệu và
vật liệu xây dựng chính ở nhiều nơi trên thế giới. Chúng cũng bảo vệ đất và giúp điều hòa khí
hậu. Tuy nhiên, trên toàn cầu, các loài thực vật đang bị dẫn đến tuyệt chủng trước khi những
lợi ích tiềm năng của chúng được phát hiện.
G. Liên minh Bảo tồn Thế giới đã liệt kê 5.714 loài bị đe dọa, chắc chắn là còn cao hơn nhiều.
Chỉ riêng ở Anh, 300 loài thực vật hoang dã được xếp vào loại có nguy cơ tuyệt chủng. Ngân
hàng Hạt giống Thiên niên kỷ hướng tới việc đảm bảo rằng ngay cả khi một loài thực vật bị
tuyệt chủng trong tự nhiên, chúng sẽ không bị mất đi vĩnh viễn.
H. Hạt giống được lưu trữ có thể được sử dụng để phục hồi môi trường bị hư hại hoặc bị phá
hủy hoặc trong nghiên cứu khoa học để tìm kiếm lợi ích mới cho xã hội - trong y học, nông
nghiệp hoặc công nghiệp địa phương - nếu không sẽ bị mất.
I. Ngân hàng hạt giống là một chính sách bảo hiểm để bảo vệ di sản thực vật của thế giới cho
tương lai, Tiến sĩ Paul Smith, một thợ săn hạt giống Kew khác giải thích. Ông nói: “Các kỹ
thuật bảo tồn hạt giống ban đầu được phát triển bởi những người nông dân. "Lưu trữ là cơ sở
những gì chúng tôi làm, bảo quản hạt giống cho đến khi bạn có thể sử dụng chúng giống như
trong trồng trọt." Smith nói rằng không có lý do gì khiến bất kỳ loài thực vật nào bị tuyệt
chủng, với công nghệ ngày nay. Nhưng ông thừa nhận rằng thách thức lớn nhất là tìm kiếm,
đặt tên và phân loại tất cả các loài thực vật trên thế giới. Và ai đó phải thu thập những hạt
giống này trước khi quá muộn. Ông nói: “Không có nhiều người làm việc này ở ngoài kia,
điều quan trọng là bạn phải biết hệ thực vật từ một khu vực cụ thể, và kiến thức đó phải mất
nhiều năm mới có được”.
J. Có khoảng 1.470 ngân hàng hạt giống rải rác trên toàn cầu, với tổng cộng 5,4 triệu mẫu,
trong đó có lẽ hai triệu mẫu là riêng biệt không trùng lặp. Hầu hết bảo tồn vật chất di truyền
cho nông nghiệp nhằm đảm bảo tính đa dạng của cây trồng; những người khác nhằm mục
đích bảo tồn các loài hoang dã, mặc dù chỉ có 15 phần trăm của tất cả các loài thực vật được
lưu trữ là hoang dã.
K. Đại học Imperial, London, đã kiểm tra các bộ sưu tập cây trồng từ 151 quốc gia và phát
hiện ra rằng mặc dù số lượng mẫu cây trồng đã tăng lên ở 2/3 số quốc gia, nhưng ngân sách
đã bị cắt giảm trong một phần tư và vẫn duy trì không thay đổi ở mức 35 phần trăm khác. Tổ
chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc và Nhóm tư vấn về Nghiên cứu Nông
nghiệp Quốc tế kể từ đó đã thành lập Quỹ Bảo tồn Toàn cầu, cái nhằm mục đích gây quỹ 260
triệu đô la để bảo vệ các ngân hàng hạt giống lâu dài.
Bãi biển Bondi
A. Bãi biển Bondi, bãi biển nổi tiếng nhất của Úc, nằm ở ngoại ô Bondi, trong Khu vực Chính
quyền Địa phương của Waverley, cách trung tâm Sydney bảy kilomet. “Bondi” hoặc
“Boondi” là một từ thổ dân có nghĩa là tiêng nước đập vào đá hoặc âm thanh của sóng
vỗ. Bảo tàng Úc ghi lại rằng Bondi có nghĩa là nơi diễn ra chuyến bay của gậy săn bắn của thổ
dân.
B. Những người dân bản địa trong khu vực đã phát huy sự giàu có về nền văn hóa và truyền
thống độc đáo. Nghệ thuật trên đá của thổ dân được cho là loại hình nghệ thuật tiêu biểu nhất,
bao gồm các bức tranh trên đá và những bức chạm trổ trên đá. Vẫn còn những bức chạm khắc
trên đá của thổ dân ở cuối phía bắc của bãi biển ở Ben Buckler và phía nam của bãi biển
Bondi gần bãi biển Mc. Kenzies trên đường đi dạo ven biển. Sau đó, người Anh đến Úc và
xây dựng khu định cư đầu tiên ở Sydney Cove vào ngày 26 tháng 1 năm 1788. Thể loại "Thổ
dân Úc" được người Anh đặt ra sau khi họ bắt đầu chiếm đóng Úc, để gọi chung cho tất cả
những người mà họ tìm thấy đã sinh sống tại lục địa, và sau này là hậu duệ của bất kỳ người
nào trong số những người đó.
C. Từ giữa những năm 1800, Bãi biển Bondi là một địa điểm yêu thích cho các chuyến đi
chơi và dã ngoại của gia đình. Sự khởi đầu của vùng ngoại ô quay trở lại năm 1809, khi người
thợ xây dựng đường đầu tiên, William Roberts, nhận được từ Thống đốc Bligh một khoản tài
trợ 81 héc-ta của khu vực mà bây giờ là hầu hết các khu kinh doanh và dân cư của Bãi biển
Bondi. Năm 1851, Edward Smith Hall và Francis O'Brien đã mua 200 mẫu đất của khu Bondi
mà vây quanh gần như toàn bộ mặt tiền của Bãi biển Bondi, và nó được đặt tên là “Khu điền
trang Bondi”. Từ năm 1855 đến năm 1877 O'Brien mua lại phần đất của Hall, đổi tên vùng
đất thành " Điền trang của O'Brien", đồng thời cung cấp bãi biển và khu đất xung quanh cho
công chúng như một khu dã ngoại và khu nghỉ mát giải trí. Khi bãi biển ngày càng trở nên nổi
tiếng, O'Brien đã đe dọa sẽ ngừng việc ra vào bãi biển công cộng. Tuy nhiên, Hội đồng Thành
phố tin rằng Chính phủ cần phải can thiệp để khiến bãi biển trở thành khu bảo tồn công cộng.
D. Trong suốt những năm 1900, bãi biển cùng với sức khỏe, giải trí và dân chủ - trở thành
một sân chơi mà mọi người đều có thể tận hưởng một cách công bằng. Bãi biển Bondi là một
vùng ngoại ô dành cho tầng lớp lao động trong suốt phần lớn thế kỷ XX với những người
nhập cư từ New Zealand chiếm phần lớn dân số địa phương. Đường xe điện đầu tiên đến bãi
biển vào năm 1884. Sau đó, xe điện trở thành phương tiện giao thông công cộng đầu tiên ở
Bondi. Thay vào đó, hành động này đã thay đổi quy tắc rằng chỉ những người giàu mới có thể
tận hưởng bãi biển. Vào những năm 1930, Bondi đã thu hút không chỉ du khách địa phương
mà còn cả những người từ những nơi khác ở Úc và nước ngoài. Quảng cáo vào thời điểm đó
gọi Bãi biển Bondi là “Sân chơi của Thái Bình Dương”.
E. Có một xu hướng ngày càng tăng là mọi người thích thư giãn gần bờ biển thay vì sống
không lành mạnh ở các thành phố. Nghiên cứu liên quan cho thấy dành thời gian bên đại
dương có nhiều tác động tích cực đến sức khỏe và hạnh phúc. Nhà nghiên cứu Mathew White,
nhà tâm lý học môi trường tại Sydney, cho biết: “Khi bạn đưa một người xuống môi trường
biển. Sẽ không có gì ngạc nhiên với bạn khi mọi người thư giãn”. Theo thí nghiệm của ông,
tiếp xúc với đại dương có thể là một hình thức trị liệu hữu ích. Do đó, ngày càng có nhiều
người chuyển đến Bondi để trải nghiệm một cuộc sống khỏe mạnh và trong lành. Khung cảnh
tuyệt đẹp và tráng lệ của bãi biển Bondi - bầu trời trong như ngọc bích và nước biển trong
suốt, cùng với những con người lang thang trên bãi cát, tất cả góp phần tạo nên một bức tranh
đẹp đến khó tin. Bên cạnh đó, bơi lội và lướt sóng cũng rất phổ biến và sẽ là quá ngu ngốc
nếu lãng phí nguồn tài nguyên có tiềm năng này.
F. Bãi biển Bondi là điểm cuối của Thành phố cho những cuộc lướt sóng vui vẻ được tổ chức
hàng năm vào tháng 8. Các lễ hội lướt sóng của Úc càng thấm nhuần hình ảnh này. Một Lễ
hội Lướt sóng Hoàng gia đã được tổ chức tại Bãi biển Bondi cho Nữ hoàng Elizabeth II trong
chuyến thăm đầu tiên của bà đến Úc vào năm 1954. Kể từ năm 1867, đã có hơn năm mươi
chuyến thăm của thành viên Hoàng gia Anh đến Úc. Hơn nữa, Chợ Bãi biển Bondi mở cửa
vào Chủ nhật hàng tuần. Nhiều người giàu có dành ngày Giáng sinh ở bãi biển. Tuy nhiên,
tình trạng thiếu nhà xảy ra khi rất nhiều người đổ xô ra bờ biển. Manly là thị trấn ven biển có
thể giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, người ta vẫn chọn Bondi là điểm đến hài lòng hơn là
Manly.
G. Bãi biển Bondi có một khu thương mại dọc theo Campbell Parade và các con phố bên
cạnh, có nhiều quán cà phê, nhà hàng và khách sạn nổi tiếng với nhiều phong cách kiến trúc
khác nhau, với quang cảnh của bãi biển đương đại. Nó "được mô tả là hoàn toàn hiện đại và
đậm nét châu Âu. Trong thập kỷ qua, vị trí độc tôn của Bãi biển Bondi đã chứng kiến sự gia
tăng mạnh mẽ của những ngôi nhà và căn hộ tinh tế để tận dụng tầm nhìn và hương thơm của
biển. Thung lũng chạy xuống bãi biển nổi tiếng trên toàn thế giới bởi tầm nhìn ra những mái
ngói đỏ đặc biệt. Cảm hứng xây dựng các kiến trúc nhà ở bắt nguồn từ những thị trấn ven biển
điển hình của Anh.
H. Bãi biển Bondi đã tổ chức sự kiện bóng chuyền bãi biển tại Thế vận hội Mùa hè 2000. Một
sân vận động tạm thời 10.000 chỗ ngồi, một sân vận động nhỏ hơn rất nhiều. 2 sân khởi động
và 3 sân tập đã được thiết lập để tổ chức giải đấu. Sân vận động Bãi biển Bondi được xây
dựng cho nó và chỉ tồn tại trong sáu tuần. Các nhà vận động phản đối cả những hậu quả xã hội
và môi trường của sự phát triển này. Sân vận động sẽ chia bãi biển làm hai và hạn chế nghiêm
trọng việc tiếp cận công cộng để bơi lội, đi bộ và các hình thức giải trí ngoài trời khác. Mọi
người phản đối quyền con người của họ khi có một bờ biển trong lành và tranh cãi về cuộc
sống lành mạnh ở Bondi.
Tôi "Họ đã chuẩn bị sẵn sàng để mạo hiểm với môi trường Bãi biển Bondi vì lợi ích của tám
ngày chơi bóng chuyền" Stephen Uniacke, một luật sư xây dựng tham gia vào chiến dịch cho
biết. Các mối quan tâm khác về môi trường bao gồm khả năng đất được nạo vét từ bên dưới
cát sẽ bị axit hóa khi đưa lên bề mặt.

You might also like