You are on page 1of 48

Contents

Câu 1: Tính tất yếu và Thực chất của cuộc CM trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện..............2
Câu 2: Cơ sở lý luận, yêu cầu của quan điểm khách quan. Ý nghĩa của nó đối với việc khắc phục bệnh
chủ quan duy ý trí......................................................................................................................................6
Câu 3: Cơ sở lý luận, yêu cầu, ý nghĩa của quan điểm toàn diện, phát triển..........................................12
Câu 3: Cơ sở lý luận, nội dung, yêu cầu, ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm phát triển.............15
Câu 4: Phủ định biện chứng, phủ định của phủ định; ý nghĩa đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa
dân tộc và quốc tế, truyền thống và hiện đại ở nước ta...........................................................................18
Câu 5: Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập và ý nghĩa của vấn để đối với việc giải quyết mối
quan hệ xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế ở Việt Nam...................................23
Câu 7: Quy luật QHSX phù hợp với LLSX và vận dụng quy luật này ở nước ta...................................26
Câu 8: sự phát triển của các hình thái KT-XH là quá trình ls tự nhiên? Ý nghĩa đối với việc bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN lên CNXH ở nước ta?.........................................................................................29
Câu 9. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Ý Nghĩa của nó trong đổi mới kinh
tế và chính trị ở nước ta hiện nay............................................................................................................32
Câu 10: Quan điểm mác xít về quan hệ giữa giai cấp và dân tộc. Phân tích những biểu hiện đặc thù
của vấn đề này ở Việt Nam.....................................................................................................................34
Câu 11: Bản chất của nhà nước vô sản; những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam.......................................................................................................................38
Câu 12: Quan điểm mác xít về bản chất của con người và ý nghĩa của vấn đề này trong việc phát huy
nhân tố con người ở Việt Nam................................................................................................................41
Câu 13: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong việc phát triển lý luận ở việt nam.....43

1
Câu 1: Tính tất yếu và Thực chất của cuộc CM trong triết học do Mác
và Ăngghen thực hiện.
1. Tính tất yếu
Triết học Mac không phải ra đời trên mảnh đất không hoang dã, mà ra đời và phát triển
dựa trên tiền đề lý luận, khoa học tự nhiên, kinh tế - chính trị, xã hội và đặc biệt là yếu
tố chủ quan của Măc và Ă.
a) Điều kiện kinh tế - Chính trị, xã hội
- Sự phát triển của công cụ sản xuất (máy hơi nước) dẫn đến biến công trường sản xuất
thủ công thành đại công trường, từ đó số lượng công nhân ngày càng tăng;
- Giai cấp công nhân phát triển dẫn đến mâu thuẫn trong xã hội tăng lên, yêu cầu cần có
lý luận dẫn đường; có nhiều cuộc đấu tranh xảy ra:
+ Công nhân ngành dệt ở Scotland;
+ Khởi rnghĩa của công nhân dệt ở TP Lyon Pháp;
+ Phong trào Hiến chương nhân dân ở Anh;
+ Khởi nghĩa công nhân dệt thành phố siledi ở Đức
- Sự phát triển của giai cấp công nhân đã tạo ra người sử dụng vũ khí để đấu tranh với
giao cấp tư bản (sự phát triển của llsx mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư bản tư nhân về
TLSX) .
Như vậy: Sự ra đời của TH M nói riêng và CN M nói chung là khách quan, đáp ứng
yêu cầu của lịch sử “cũng giống nha TH thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của
mình, giai cấp vô sản thấy TH là vũ khí tinh thần của mình”
b) Tiền đề khoa học tự nhiên
- M va A coi trọng KHTN và đã từng viết “khoa học là động lực thực sự của lịch sử”;
- Vào những năm 40 của TH 20, KHTN phát triển, thành tựu về KHTN đã đem lại cơ sở
KHTN cho việc xây dựng quan điểm duy vật hiện đại và phép biện chứng duy vật khoa
học:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng: chứng minh hình thức khác nhau của
vận động vật chất không tách rời nhau mà liên hệ với nhau; trong điều kiện nào đó
chúng có thể chuyển hoá cho nhau mà không có lực nào mất đi cả, như vậy vật chất
luôn vận động.
+ Học thuyết về tế bào: Chứng minh động và thực vật có mối liên hệ mật thiết với nhau,
điều này bác bỏ thế giới quan duy tâm và khẳng định tính thống nhất về vật chất của
thế giới.
+ Học thuyết tiến hoá của DDacuyn: Chứng minh các loài đang tồn tại ra đời từ các loài
trước đó như thế nào; sự biến đổi của các loài là nhờ khoa học tự nhiên và nhân tạo.
Mác đánh giá cao tác phẩm “nguồn gốsc của các cloài” của Đacuyn, ông viết “cuốn
sách này đem lại cơ sở lịch sử - tự nhiên cho các quan điểm của chúng ta”.
Đánh giá ý nghĩa TH của 3 phát minh trên, Ă viết “Nhờ 3 phát hiện vĩ đại đó và nhờ
những thành tựu lớn lao khác của KHTN mà ngày nay chúng ta có thể chứng minh
những nét lớn của mối liên hệ giữa các quá trình...”
c) Tiền đề lý luận
- M và Ă kế thừa trực tiếp có phê phán chọn lọc toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại để
xây dựng lên học thuyết của mình, đặc biệt là TH cổ điển Đức, CNXH Pháp, Kinh tế -
chính trị học cổ điển Anh, mà trực tiếp là TH cổ điển Đức:

2
+ Mac kế thừa trực tiếp có chọn lọc, phê phán những gì có giá trình trong TH cổ điển
Đức từ Canto, Heeghen, Phoiobac
HG: Kế thừa có phê phán phương pháp biện chứng của ông (phương pháp biện chứng
duy tâm, không dùng được, lộn đầu xuống đất; vì vậy Mac đã cải tạo phương pháp biện
chứng của HG đưa nó vào quan điểm duy vật). Trong phương pháp biện chứng của HG,
thì nguyên lý về sự phát triển được M gọi là “hạt nhân hợp lý”, đây là một đóng
góp quan trọng của HG.
Phoiobac: ông được mệnh danh là “nhà duy vật kiệt xuất trước M’, ông đã có những
đóng góp hết sức quan trọng trong lịch sử tư tưởng TH, nhất là quan điểm duy vật của
ông; nhưng ông lại là nhà duy vật nửa vời, nửa dưới thì duy vật, nửa trên thì duy tâm.
Khi ông nghiên cứu, bàn luận về giới tự nhiên là nhà DV, nhưng khi bàn về con người,
đặc biệt về bản chất con người, đạo đức, tôn giáo thì ông rơi vào quan điểm DT, Ă viết
“CNDT thực sự của Phoiobac lộ rõ ra khi chúng ta nghiên cứu TH tôn giáo và đạo đức
học của ông”. Phoiobac hoàn toàn không muốn xoá bỏ tôn giáo, ông muốn hoàn thiện
tôn giáo, ngay cả TH cũng phải hoà vào TG. Tuy có hạn chế, nhưng CNDV của
Phoiobac vẫn là tiền đề lý luận trực tiếp của TH Mac.
+ Việc cải tạo có phê phán những gì có giá trị trong kinh tế - chính trị cổ điển anh có vai
trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và phát triển TH Mac: Nếu không có sự cải
tạo này thì không thể phát hiện ra cơ sở vật chất của quá trình lịch sử xã hội, không
thể sáng lập ra quản điểm duy vật lịch sử, đã không thể khắc phục được tính chất không
triệt để của CNDV trước đó (CNDV của Phoiobac).
+ CNXH Pháp: M và Ă nghiên cứu có phê phán tư tưởng XHCN và CNCS của các nhà
XH không tưởng pháp (Phurie; Xanhximong). Việc nghiên cứu này giúp M và Ă phê
phán một cách khoa học XHTBCN và dự báo một cách khoa học con đường phát triển
và đặc điểm quan trọng của XH tương lai- XHCSCN.
d) Nhân tố chủ quan (vai trò của M và A)
- Điểm xuất phát của 02 ông đều là THDT, sau quá trình nghiên cứu TH Heeghen,
nghiên cứu TH Hy Lạp cổ đại, 2 ông từng bước có sự chuyển biến về mặt tư tưởng và
sự chuyển biến này diễn ra tương đối sớm. Trong thư gửi về cho Cha (10/11/1837) M
viết “Từ CNDT...con đã chuyển sang tìm kiếm ý tưởng trong bản thân thực tại. Nếu
như trước kia các vị thần sống bên trên trái đất, thì giờ đây các vị thần ấy trở thành
trung tâm của trái đất”. Quá trình chuyển biến tư tưởng của Mac đi từ CNDT (khách
quan) sang lập trưởng của nhà dân chủ cách mạng để sau đó chuyển sang lập trường của
nhà DVBC
- C. Mac (5/5/1818; 14/3/1883): Ông là người sớm có tinh thần dân chủ cách mạng và
vô thần; có nhiềm say mê nghiên cứu khoa học và ước mơ giải phóng con người khỏi
mọi hình thức áp bức, bất công, nô dịch. Ngay từ tháng 8/1935 trong bài luận văn thi tốt
nghiệp trường TH với tựa đề: Những suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề, C.
Mac đã viết: Nếu con người làm việc chỉ vì bản thân mình thì may ra có thể trở thành
một nhà bác học nổi tiếng, một nhà thông thái vĩ đại, một nhà thơ ưu tú, nhưng không
bao giờ có thể trở thành con người thực sự hoàn thiện và vĩ đại. Nếu ta chọn một nghề
trong đó ta có thể làm việc được nhiều hơn cho nhân loại, thì ta sẽ không còng lưng
dưới gánh nặng của nó, bởi vì đó là sự hi sinh vì mọi người.
- Ă (28/11/1820; 5/8/1895) sinh ra và lớn lên trong gia đình tư sản thuộc ngông tham
ngành dệt nhuộm, chưa học hết THPT, thì Ă buộc phải nghỉ học để tham gia kinh
doanh; sau đó ông tham gia nghĩa vụ quân sự thuộc đơn vị pháp binh. Đây là thời gian

3
trải nghiệm quý giá để ông có kiến thức về quân sự. Tuy chưa học hết THPT nhưng với
khả năng vốn có, hàng tối ông thường đến trường ĐH để nghe giảng, sau đó ông tự bỏ
ra gần 10 năm nghiên cứu KHTN, đặc biệt là hoá - toán - lý. Kết quả nghiên cứu này
được Ă thể hiện trong tác phẩm “biện chứng của tự nhiên” .
- Giữa M và Ă có nhiều điểm tương đồng: Lúc đầu họ trao đổi thư, sau đó qua 3 lần gặp
thì quan điểm của 2 ông hoàn toàn nhất trí và cùng nhau xây dựng học thuyết của mình.
Kết luận: Tất cả điều kiện khác quan và nhân tố chủ quan nêu trên thống nhất với
nhau, liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, cùng nhau làm cho sự ra đời của CN
Mac nói chung, TH Mac nói riêng là một tất yếu khách quan, mang tính lịch sử
2. Thực chất cuộc cách mạng
- Sự ra đời của TH Mac thực sự tạo lên bước ngoặt CM trong lịch sử phát triển tư tưởng
TH của nhân loại. Tính cách mạng đó thể hiện trong quan điểm TH và phương pháp
TH, đó là: quan điểm DV triệt để; phương phháp biện chứng khoa học; sự thống
nhất giữa quan điểm TH và phương pháp TH (quan điểm DT -DV, quan điểm nhị
nguyên luận: hạn chế lớn nhất trong các học thuyết nhị nguyên của các nhà triết học là
sự không thể khẳng định vật chất có trước hay ý thức có trước, là người đã đứng giữa
ranh giới của chủ nghĩa duy vật và duy tâm. Họ muốn dung hoà hai trường phái trên để
dẫn đến một trường phái duy nhất đó là cùng tồn tại. Quan điểm của họ đa phần là hoài
nghi vì thế mà khi giả quyết tiếp mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học họ đã rơi vào
thuyết bất khả tri và dần dần triết học của họ chuyển sang duy tâm)
- Trong TH Mac sự thống nhất giữa quan điểm TH và phương pháp TH đã tạo lên một
CNDV triệt để, nghĩa là duy vật trong tự nhiên, xã hội, tư duy và một phương
pháp biện chứng khoa học (khác với phương pháp biện chứng trong TH Hy Lap cổ
đại, trong TH cổ điển đức thế kỷ XIX).
- Sáng tạo ra CNDV lịch sử - thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học, là một trong
những biểu hiện đặc sắc nhất - thực chất cách mạng và khoa học của TH Mac. Bởi vì
trước đây các nhà TH phần lớn chỉ duy vật trong tự nhiên, còn trong xã hội họ thường
rơi vào quan điểm của CNDT, tiêu biểu nhất là Phoiobac, mặc dù ông được coi là nhà
Dv kiệt xuất trước Mac, nhưng ông chỉ DV khi nghiên cứu về giới tự nhiên, còn khi bàn
về vấn đề xã hội (bản chất của con người là gì, nguồn gốc tôn giáo xuất hiện từ đâu) thì
ông rơi vào quan điểm duy tâm. Ă coi CNDV lịch sử là một trong 02 phát hiện vĩ đại
của Mac và nhờ các phát hiện vĩ đại này mà CNXH từ không tưởng mới trở thành khoa
học được.
- Sự xuất hiện của TH Mac làm thay đổi vai trò xã hội đối với TH, vị tri của TH trong
hệ thống tri thức khoa học, nó không còn là khoa học của các khoa học nữa, mà nó
chỉ là một khoa học có tính thế giới quan, phương pháp luận. Trước đây người ta
quan niệm rằng TH là khoa học của mọi khoa học, với sự xuất hiện của TH Mac quan
điểm đó đã bị phá vỡ. Ă viết “CNDV hiện đại không cần phải được chứng thực và biểu
hiện thành một khoa học đặc biệt nào đó của các khoa học, mà được chứng thực và biểu
hiện trong các khoa học hiện thực”.
- TH Mac là thế giới quan khoa học của giai cấp CN và chính đảng cách mạng của nó.
TH Mac không chỉ dừng lại ở chỗ giải thích thế giới, quan trọng hơn là cải tạo thế
giới, Mac viết rằng “giống như TH tìm thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình,
giai cấp vô sản cũng thấy TH là vũ khí tinh thần của mình”.
- Đã làm cho CNXH không tưởng có căn cứ khoa học để trở thành CNXHKH, điều
đó trước hết được quy định bởi quan điểm duy vật lịch sử, cùng với đó là học thuyết giá

4
trị thặng dư; điều như Ă nói “nhờ hai phát hiện vĩ đại này mà CNXH không tưởng trờ
thành CNXH KH.
- TH Mac thống nhất giữa tính CM và tính KH. Tính cách mạng của TH Mac do
phép biện chứng quy định, bởi vì nó xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình vận
động, biến đổi, phát triển không ngừng, Mac viết “trong quan niệm tích cực về cái hiện
tồn tại, phép biện chứng cũng đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự giả định cái hiện
tồn đó về sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện
chứng xét trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó. Vì phép biện
chứng không khuất phục trước một cái gì cả và về thực chất thì nó có tính chất phê phán
và cách mạng”. Tính khoa học của TH Mác được quy định bởi sự khái quát thành tựu
khoa học, đặt biệt là KHTN để xây dựng quan điểm và phương pháp TH. Nói cách
khác, những thành tựu KHTN là một trong những tiền để hết sức quan trọng để TH Mac
hình thành và phát triển.
- Tính thực tiễn và sáng tạo của TH Mac: Điều này muốn nói TH Mac xuất phát từ
thực tiễn và trở về với thực tiễn, dùng để chỉ đạo thực tiễn. Đó không phải là sản phẩm
của tư duy thuần tuý kiểu Heeghen; TH Mac coi thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực
của nhận thức. Đồng thời TH Mac cũng phải quay về chỉ đạo hoạt đọng thực tiễn. Tính
sáng tạo của TH Mac đòi hỏi chúng ta phải vận dụng nó một cách sáng tạo trong thực
tiễn. Mọi sự giáo điều, sơ cứng...đều trái với bản chất sáng tạo của TH Mac.
Kết luận:
- Với sự sáng tạo ra CNDVBC và CNDV lịch sử M và Ă đã tạo ra một cuộc cách mạng
trong TH;
- Các quy luật vận động, phát triển được lý giải, phân tích trên cơ sở khoa học và thực
chất; chính điều này giúp cho chúng ta nhận thức được quy luật vận động, phát triển của
XH loài người, trên cơ sở đó xây dựng niềm tin, ý chí cả trong nhận thức, hành động.
- Đã làm cho CNXH không tưởng có căn cứ khoa học để trở thành CNXHKH, điều đó
trước hết được quy định bởi quan điểm duy vật lịch sử, cùng với đó là học thuyết giá trị
thặng dư; điều như Ă nói “nhờ hai phát hiện vĩ đại này mà CNXH không tưởng trờ
thành CNXH KH.
- Với sự sáng tạo ra CNDVBC và CNDVLS đã khắc phục được sự đối lập giữa TH với
hoạt động thực tiễn của con người hay nói cách khác TH Mac mang tính thực tiễn.
- Khắc phục được sự đối lập giữa TH với các khoa học cụ thể, điều mà trước đây các
nhà TH chưa giải quyết được.

5
Câu 2: Cơ sở lý luận, yêu cầu của quan điểm khách quan. Ý nghĩa của
nó đối với việc khắc phục bệnh chủ quan duy ý trí

a) Cơ sở lý luận
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc khách quan
- Vật chất theo quan điểm triết học Mác Lênin “là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Thực tại
khách quan (tồn tại khách quan) là sự tồn tại có thật, không phải do ý muốn của thần
linh, thượng đế hoặc do ý thức chức quan của con người sản sinh ra, mà đó là sự tồn tại,
vận động, chuyển hóa và phát triển theo những quy luật vốn có của bản thân các sự vật,
hiện tượng, dù con người có muốn, có biết hay chưa biết về sự tồn tại đó thì chúng vẫn
tồn tại.
- Ý thức của con người theo triết học duy vật biện chứng không phải là một hiện
tượng thần bí, tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc
biệt là bộ óc của con người:
Y thứ là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào bộ óc của con
người trên nền tảng của hoạt động lao động sáng tạo và được hiện thực hóa bằng ngôn
ngữ. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
* Nguồn gốc của ý thức: (tự nhiên: Bộ óc; sự tác động hoàn cảnh xung quanh,
thế giới bên ngoài lên bộ óc; xã hội: Lao động và Ngôn ngữ). Trong đó lao động là
nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất.
* Bản chất của ý thức: là sự phản ánh (bao gồm các dạng: Vật lý, sinh học, hoá
học, phản xạ, tâm lý) hiện thực khách quan vào trọng bộ óc của con người (là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan); phản ánh một cách chủ động, năng động, sáng tạo,
tích cực; sự phản ánh mang tính xã hội (vì nó bắt nguồn tự thực tiễn xã hội)
- Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức
đối với vật chất.
+ VC và YT có mối quan hệ mật thiết với nhau, có vật chất không có ý thức,
nhưng không có ý thức tách rời vật chất. Nhưng xét đến cùng, thì VC quyết định YT,
thể hiện:
* Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội nguồn
sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội dung
và xu hướng phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý thức bởi vì
nguồn gốc của ý thức chính là vật chất trong đó bộ óc người là cơ quan vật chất của ý
thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới khách quan vào bộ
não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Lao động trong hoạt động thực
tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với
nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngoài ra, ý
thức chỉ có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt
động thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật chất
cần thiết cho hành động.
* Vật chất quy định nội dung của ý thức:
6
* Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn ý thức cũng thay đổi theo;
* Vai trò của VC đối với YT trong đời sống xã hội được biểu hiện ở vai trò của
kinh tế đối với chính tri, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối
với ý thức xã hội.
+ Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
* Có thể thay đổi nhanh, chậm so với hiện thức, nhưng nhìn chung nó thay đổi
chậm hơn so với thế giới vật chất;
* Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hoàn cảnh vật chất;
* Vai trò của ý thức được thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động hành động của con
người bằng cách hình thành nên những mục tiêu, biện pháp;
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập tương đối, sự
phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động, là quá trình con
người không ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu
sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và phát triển sự vật . Vì vậy, sau khi đã
hình thành, ý thức có vai trò định hướng cho con người trong việc xác định mục
tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp lựa chọn các phương án, hành động tối ưu
nhất và sử dụng các điều kiện vật chất cần thiết để làm biến đổi chúng đạt đến
mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai
khuynh hướng : Một là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật
nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật
khách quan, có ý chí động cơ hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức hoạt động
phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức kìm hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển
bình thường của sự vật nếu ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ý thức
lạc hậu, phản khoa học, phản động, nếu con người không có ý chí, không nhiệt tình,
động cơ sai …Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ
nhất định, nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
Như vậy, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau và mối liên hệ
đó tuân theo các quy luật khách quan vốn có của nó. Nếu trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn, chúng ta tuyệt đối hóa, cường điệu hóa vai trò của một trong hai mặt thì sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của xã hội và rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí
hoặc bệnh bảo thủ trì trệ.
b) Yêu cầu
- Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối
với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát
từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, “phải lấy
thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”, phải xuất phát từ điều
kiện, tiền đề vật chất hiện có.
- Phải tìm ra được quy luật khách quan, vận dụng quy luật khách quan trong thực
tiễn.
- Phải tôn trọng, hành động theo quy luật khác quan.
- Nhận thức sự vật, hiện tượng đúng đắn, chân thực; không bôi đen, tô hồng; gán
cho đối tượng cái nó không có.
- Nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng nhìn chung phải xuất phát từ chính bản
thân SV, HT cùng với các mối liên hệ giữa các thuộc tính bên trong của nó.

7
- Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm
khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát
huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới
tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra
những biện pháp, những con đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự
vật, trên cơ sở đó con người thực hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (tức thực tại khách
quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều
kiện, sức mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật … để phục vụ cho các mục
tiêu, mục đích khác nhau của con người.
c) Ý nghĩa khắc phục bệnh chủ quan duy ý trí
Bệnh chủ quan duy ý chí (nguyện vọng chủ quan, mong muốn chủ quan) khá phổ
biến ở nước ta trong thời kỳ trước đổi mới và nhiều nước XHCN trước đây, nó gây tác
hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc tìm hiểu nguyên
nhân, những biểu hiện của 2 căn bệnh này trên cơ sở lý luận triết học về mối quan hệ
vật chất và ý thức để tìm ra những giải pháp khắc phục và tránh những sai lầm
của nó trong thực tiễn là vấn đề hết sức cần thiết đối với Đảng , nhất là trong giai
đoạn hiện nay, giai đoạn mà đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của thời
đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng đổi mới và không
cho phép mắc phải những sai lầm như đã có trước đây .
- Bệnh chủ quan duy ý chí cũng là 1 khuynh hướng sai lầm, nó thổi phồng, tuyệt
đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan quá đề cao, cường điệu tính sáng tạo của ý thức,
của ý chí, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, điều kiện khách
quan, lấy nhiệt tình cách mạng thay thế cho sự yếu kém về trí thức khoa học. Sai lầm
của bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan. Sai lầm đó thể hiện rõ trong khi định ra chủ trương chính sách
và lựa chọn phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn theo hướng áp đặt ý chí vào thực
tế, lấy ảo tưởng chủ quan thay cho hiện thực.
Bệnh chủ quan duy ý chí là một thực tế tồn tại trong thời kỳ khá dài trước đổi
mới (trước Đại hội lần VI tháng 12-1986). Trong giai đoạn này, tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài mà trong đó sai lầm do chủ quan duy ý chí và
bảo thủ có tác hại rất lớn.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút kinh
nghiệm từ những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng
đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là muốn đảm bảo
thành công thì phải vận dụng đúng nguyên tắc khách quan “Đảng phải luôn xuất phát
từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của
Đảng” (Văn kiện Đại hội Đảng lần VI trang 30). Đây là sự thừa nhận vai trò quyết định
của vật chất và các quy luật khách quan vốn có của nó trong việc đề ra các chế định, chủ
trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây dựng đất nước ta.
Đánh giá về những sai lầm do chủ quan duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này,
Văn kiện Đại hội VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và
do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết”. Văn
kiện Đại hội lần thứ VI cũng đã chỉ rõ Đảng đã “nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ
quan”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước

8
ta mới có chặng đường đầu tiên”. Do chủ quan duy ý chí, trong nhận thức và hành động
của Đảng trong giai đoạn này vi phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một số
lĩnh vực cụ thể được Văn kiện ĐH Đảng lần VI đánh giá như sau : “chưa thật sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối
dài” nên “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi
xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ SX với tính chất và trình độ SX” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ” hoặc “đẩy mạnh công nghiệp
hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết”. Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí
* Nguyên nhân của bệnh chủ quan, duy ý trí:
- Bệnh chủ quan duy ý chí có nguyên nhân:
+ Từ sự yếu kém lạc hậu về tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn. Sự giản đơn yếu kém về lý luận thể hiện ở chổ: hiểu và vận dụng
chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm trù, chưa chú ý tiếp thu kế thừa những thành tựu,
kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại, thậm chí còn có định kiến
phủ nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết những cái mới từ
sự vận động, phát triển của thực tiễn; theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân của
bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận là lý luận suông.
+ Bệnh chủ quan duy ý chí còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của
con người chi phối. Những nguyên nhân khách quan ấy có thể kế như : do xuất phát
điểm của nước ta quá thấp, nền SX nhỏ với trình độ SX lạc hậu, do hậu quả của chiến
tranh kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mà
còn làm cho đội ngũ cán bộ - đảng viên không có điều kiện để học tập nên trình độ KH
công nghệ, tri thức không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, cơ
chế quan liêu bao cấp, bệnh quan liêu ảo tưởng, “kiêu ngạo cộng sản… cũng tạo điều
kiện cho sự ra đời của căn bệnh chủ quan duy ý chí.
+ Bị chi phối về lợi ích chủ quan:
* Ý Nghĩa:
- Chống CN chủ quan duy ý chí (nguyện vọng, mong muốn chủ quan; chống
cả quan điểm kphông thấy vai trò chủ quan), từ đó đưa ra các biện pháp khắc
phục
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút kinh
nghiệm từ những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng
đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm và đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí, đó là :
Một là phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những hình thức,
bước đi, cách làm phù hợp, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm mà trước hết là
đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng quy luật, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của từng Đảng viên. Đây là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và
đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội…), từ đổi mới quan niệm, tư duy lý luận đến đổi mới cơ chế chính sách, tổ chức
cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Để đảm bảo sự lãnh đạo thành công trong công
cuộc đổi mới này thì Văn kiện Đại hội Đảng lần đã xác định : “Đảng phải luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu
của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng” . Trên cơ sở hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và tìhn hình

9
chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tập trung
trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng
KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây
dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời
sống XH. Bên cạnh đó, với quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,
trong các chủ trương, chính sách kinh tế từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Cụ thể như : Đại hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới
xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn,
không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: "Nay phải sửa lại cho
đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích
hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện
một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực
lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả
khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu
đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ SX phải phù hợp với lực lượng SX, Đại hội VI đã
xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này theo hướng "không bố trí xây dựng công
nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào
việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng
tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình chẳng những đáp ứng
được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu
thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa
Hai là đồng thời với việc đổi mới toàn diện về kinh tế và tư duy lý luận, việc tăng
cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước “nâng cao hàm lượng tri
thức trong các nhân tố phát triển KTXH, từng bước phát triển kinh tế tri thức”.. Văn
kiện ĐH Đảng lần VIII đã nhấn mạnh : “phải lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”
Ba là tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ
sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và kiện toàn
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị trong điều kiện mới, căn cứ
vào sự vận động của thực tiễn, của cuộc sống để kịp thời loại bỏ những hiểu biết lỗi
thời, lạc hậu.
Bốn là phải đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới ,
trong đó, VK ĐH Đảng lần VII đã chỉ rõ : “ Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách
không ngừng nâng cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận
điểm cơ bản của CN Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh… không ngừng tổng kế kinh
nghiệm thực tiễn …phát triển công tác lý luận của Đảng …tiếp thu những thành quả trí
tuệ của con người.
Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục tổng kết từ sự vận động của thực tiễn trong nước
và trên thế giới đã khẳng định một trong những bài học chủ yếu đưa công cuộc đổi mới
ở nước ta đi đến thắng lợi là: “ đường lối đúng đắn của đảng là nhân tố quyết định thành
công của đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn

10
và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới; thường xuyên xây dựng chỉnh
đống Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng;
lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch vững
mạnh”
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định
và nâng cao, chế độ XHCN ngày càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế xã hội và đang có những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là
dựa trên một nền tảng tư tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh mà trong đó sự quán triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là
điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của Đảng.

11
Câu 3: Cơ sở lý luận, yêu cầu, ý nghĩa của quan điểm toàn diện, phát
triển
1. Quan điểm toàn diện
a) Cơ sở lý luận
- Quan điểm toàn diện là quan điểm khi xem xét và nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải
nghiên cứu tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả các mặt khâu trung gian, trực tiếp và gián
tiếp có liên quan đến sự vật, từ tri thức một mặt đến tri thức nhiều mặt về sv từ đó khái
quát lại, rút ra cái bản chất nhất của nó.
- Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
+ Liên hệ là khái niệm chỉ sự nương tựa, sự thâm nhập vào nhau, sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tương. Liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ
diễn ra ở nhiều sự vật, hiện tượng, cả trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy. Cơ sở
của mối liên hệ chính là tính thống nhất của thế giới vật chất.
+ Các mối liên hệ mang tính khách quan, vốn có;
+ Các mối liên hệ mang tính đa dạng, khái quan chung nhất (bên trong, ngoài; trực tiếp,
gián tiếp; )
b) Yêu cầu:
- Phải xem xét sự vật trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc
tính khác nhau của nó;
- Để nhận thức đúng đắn về sv, h/tg đòi hỏi chúng ta phải xem xét nó trong sự liên
hệ, tác động qua lại với sv, h/tg khác (kể cả khâu trung gian của nó) chứ khg đc tách nó
ra khỏi sv, h/tg khác.
- Để xem xét đúng bản chất của sự vật đòi hỏi phải xem xét nó trong mối liên hệ
với thực tiễn;
- Xem xét toàn diện các mối liên hệ nhưng phải đ/giá đúng vị trí, vai trò của từng
mối liên hệ, phải làm nổi bật các mối liên hệ cơ bản, tránh xem xét 1 cách bình quân,
dàn trải thiếu trọng tâm, trọng điểm;
c) Ý nghĩa:
- Khắc phục cách nhìn phiến diện (chỉ nhìn nhận một hoặc một vài liên hệ; đánh
giá cào bằng những đặc trưng khác nhau);
- Khắc phục tình trạng nguỵ biện (tư duy đánh tráo khái niệm; biến cái không cơ
bản thành cơ bản);
- Khắc phục tình trạng chiết trung (kết hợp các yếu tố với nhau không có nguyên
tắc, gắn kết những nhân tố không có liên hệ nội tại với nhau thành một chỉnh thể)
- Trong cải tạo thế giới: việc quán triệt quan điểm toàn diện sẽ giúp cho việc đánh
giá, nhận xét, nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách hệ thống đồng bộ, đồng thời nắm
vững bối cảnh, quá trình biến đổi của sự vật hiện tượng và xu hướng phát triển của sự
vật hiện tượng, từ đó có hệ thống các chính sách, biện pháp, phương tiện tác động phù
hợp, trong đó có những khâu đột phá, trọng tâm, trọng điểm; đồng thời có tính mềm
dẻo, linh hoạt khi tình hình thay đổi.
12
2. Nguyên tắc phát triển
a) Cơ sở lý luận
- Quan điểm phát triển là phải xem xét sv ra đời trong bối cảnh nào, đã trải qua
những giai đoạn tiến hóa cơ bản ra sao, trạng thái hiện có như thế nào từ đó dự báo
được triển vọng của nó.
- Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển là nguyên lý về sự phát triển của
phép biện chứng duy vật: Phát triển là phạm trù TH dùng để khái quát vận động từ
thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Theo đó, sự phát triển là vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn (tự nhiên, xh, tư duy).
+ Phát triển là quá trình tự thân, khách quan, phổ biến, phong phú, đa dạng.
Phát triển là trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ nảy sinh
những tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức
tồn tại và vận động của sự việc, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn
thiện hơn.
- Nguồn gốc của sự phát triển: là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
(quy luật mâu thuẫn);
- Cách thức của sự phát triển: là từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự biến đối về
chất (quy luật lượng chất).
- Khuynh hướng của sự phát triển: quy luật phù định của phủ định.
- Tính chất của sự phát triển: Khách quan, phổ biến (tự nhiên, xã hội, tư duy),
khuynh hướng phát triển là đa dạng, tổng hợp chung của sự phát triển là phát triển theo
hình xoáy ốc
b) Yêu cầu:
- Quan điểm phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó
trong trạng thái vận động, biến đổi chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện
tượng trong trạng thái hiện tại mà còn thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong
tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, hiện tượng.
- Không chỉ thấy sự vật như đang có mà phải thấy được khuynh hướng phát triển
trong tương lai của nó và đôi lúc phải thấy được tính quanh có, phức tạp;
- Sự vận động và phát triển của sv, h/tg là một quá trình chứa đựng mâu thuẫn.
Việc gq mâu thuẫn làm cho sv vận động, p/triển vì vậy chúng ta phải biết phát hiện mâu
thuẫn, tìm cách gq mâu thuẫn, xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự
phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật hiện
tượng mới để thúc đẩy sự vận động, p/triển của sv, h/tg.
- Quan điêm phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua
nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác
nhau.
- Tư duy phải mềm dẻo, luôn được bổ sung cho phù hợp với sự vận động, phát
triển của thực tiễn của cuộc sống.
13
c) Ý nghĩa:
- Quan điểm phát triển giúp chúng ta hiểu được bản chất thực sự của sv, tìm được
biện pháp cải tạo sv, h/tg theo đúng quy luật phát triển của chúng.
- Giúp ta tránh tư tưởng hoang mang, dao động bi quan trước những bước thụt lùi
tạm thời đi xuống của sv, xây dựng niềm tin vào cái mới nhất định thắng lợi, ủng hộ cái
mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải chống lại
quan điểm bảo thủ, trì trệ.
- Tránh tư tưởng ảo tưởng (vì sự p/triển của sv rất phức tạp), tránh tư tưởng bi quan
chán nản, cái mới hợp quy luật thắng lợi là tất yếu, cái cũ, cái lạc hậu tồn tại chỉ tạm
thời nó nhất định sẽ mất đi.
- Tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không chịu đổi mới.

14
Câu 3: Cơ sở lý luận, nội dung, yêu cầu, ý nghĩa phương pháp luận của
quan điểm phát triển.

Bài làm:
- Quan điểm phát triển là phải xem xét sự vật ra đời trong bối cảnh nào, đã trải qua
những giai đoạn tiến hóa cơ bản ra sao, trạng thái hiện có như thế nào, từ đó dự báo
được triển vọng của nó.
- Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển là nguyên lý về sự phát triển của
phép biện chứng duy vật:
Phát triển là phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động từ thấp đến cao,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển chính là việc giải quyết các
mâu thuẫn vốn có trong lòng các sự vật, hiện tượng (hoặc giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau). Mâu thuẫn do các mặt đối lập tạo nên.
Các mặt đối lập được hiểu là những mặt (những yếu tố, những thuộc tính, những
bộ phận) có đặc điểm, hoặc có khuynh hướng vận động ngược chiều nhau tồn tại trong
cùng một sự vật hay hệ thống sự vật, tác động qua lại với nhau tạo nên sự vận động và
biến đổi của sự vật. Ví dụ: điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử; đồng
hoá và dị hoá trong một cơ thể động vật; chân lý và sai lầm trong nhận thức…
Chính những mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo nên
mâu thuẫn biện chứng. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập biện chứng.
Nghiên cứu quy luật mâu thuẫn giúp cho chúng ta biết được nguồn gốc, động lực
của sự vận động, phát triển qua đó tìm biện pháp tác động phù hợp, tạo điều kiện cho sự
vật phát triển; khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét toàn diện các mặt đối lập, theo dõi
quá trình phát sinh, phát triển của chúng để có biện pháp giải quyết mâu thuẫn tốt nhất;
mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi, không được giải quyết
mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; mâu thuẫn được giải quyết bằng
con đường đấu tranh, chứ không phải bằng điều hòa mâu thuẫn.
Cách thức của sự vận động, phát triển là quá trình chuyển hoá từ những sự thay
đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự

15
vật, hiện tượng, là sự thống nhất các thuộc tính, làm cho nó là nó và phân biệt nó với
những cái khác.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu thị
số lượng, quy mô, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các
thuộc tính của nó.
Sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về
chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại tới sự thay đổi của
lượng. Đó chính là phương thức vận động, phát triển của thế giới khách quan.
Khuynh hướng của sự vận động, phát triển là quá trình phủ định của phủ định.
Phủ định với nghĩa chung nhất là sự không thừa nhận, sự loại bỏ hay sự thay thế
sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác. Phủ định nào tạo ra điều kiện, tiền
đề cho sự xuất hiện của cái mới, cho sự phát triển tiếp theo gọi là phủ định biện chứng,
nghĩa là “phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định thứ hai vẫn sẽ
còn hay có thể có được” 1. Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân
phát triển, là mắt khâu trên con đưòng dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với
cái bị phủ định.
Phát triển biện chứng là sự thống nhất giữa tiến lên và lặp lại, nó không quay trở
lại đúng điểm xuất phát, mà quay trở lại trên một cơ sở mới cao hơn, tạo thành đường
xoáy trôn ốc của quá trình phát triển. V.I.Lênin viết rằng: “Sự phát triển hình như diễn
lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn
(“…”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”.

*) Nội dung, yêu cầu của quan điểm phát triển:


- Quan điểm phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó
trong trạng thái vận động, biến đổi chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện
tượng trong trạng thái hiện tại mà còn thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong
tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, hiện tượng.
- Không chỉ thấy sự vật như đang có mà phải thấy được khuynh hướng phát triển
trong tương lai của nó và đôi lúc phải thấy được tính quanh có, phức tạp;
- Sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng là một quá trình chứa đựng mâu
thuẫn. Việc gỉai quyết mâu thuẫn làm cho sự vật vận động, phát triển, vì vậy chúng ta
phải biết phát hiện mâu thuẫn, tìm cách giải quyết mâu thuẫn, xác định xu hướng phát
triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề

1
C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, tập 20, tr.201.
16
cho sự ra đời của sự vật hiện tượng mới để thúc đẩy sự vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng.
- Quan điêm phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua
nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác
nhau.
- Tư duy phải mềm dẻo, luôn được bổ sung cho phù hợp với sự vận động, phát
triển của thực tiễn của cuộc sống.
*) Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quan điểm phát triển giúp chúng ta hiểu được bản chất thực sự của sự vật, tìm
được biện pháp cải tạo sự vật, hiện tượng theo đúng quy luật phát triển của chúng.
- Giúp ta tránh tư tưởng hoang mang, dao động bi quan trước những bước thụt lùi
tạm thời đi xuống của sự vật, xây dựng niềm tin vào cái mới nhất định thắng lợi, ủng hộ
cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải chống
lại quan điểm bảo thủ, trì trệ.
- Tránh tư tưởng ảo tưởng (vì sự phát triển của sự vật rất phức tạp), tránh tư tưởng
bi quan chán nản, cái mới hợp quy luật thắng lợi là tất yếu, cái cũ, cái lạc hậu tồn tại chỉ
tạm thời, nó nhất định sẽ mất đi.
- Tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không chịu đổi mới.
- Nghiên cứu cách thức sự vận động, phát triển đòi hỏi chúng ta phải nhận thức cả
mặt chất và mặt lượng của sự vật, có như vậy chúng ta mới có tri thức đúng đắn về bản
thân nó; mọi biến đổi đều bắt đầu từ sự biến đổi về lượng, do đó trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn muốn có sự thay đổi về chất cần phải tích lũy về lượng, tránh tư
tưởng chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn; nghiên cứu các bước nhảy, đòi hỏi chúng
ta phải chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, thiếu tinh thần tiến công cách mạng, ngại đổi
mới; nghiên cứu cách thức sự vận động, phát triển giúp cho chúng ta có cơ sở lý luận và
phương pháp luận khoa học để chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam, cũng như những biểu hiện xa
rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “ tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên nước ta hiện nay
- Nghiên cứu khuynh hướng của sự vận động, phát triển đòi hỏi chúng ta phải biết
phát hiện cái mới và nhân rộng cái mới lên. Lúc đầu cái mới có thể còn “non yếu”,
nhưng theo quy luật chung cái mới nhất định sẽ chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu; phủ
định biện chứng mang tính kế thừa, do đó trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cần
phải biết kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như của
nhân loại (nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay) để thúc
17
đẩy sự tiến bộ xã hội.

Câu 4: Phủ định biện chứng, phủ định của phủ định; ý nghĩa đối với
việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, truyền thống và
hiện đại ở nước ta

a) Phủ định biện chứng, phủ định của phủ định

Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát
triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu
trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không thể phát
triển được. sự thay thế đó được triết học gọi là phủ định. 
- Phủ định biên chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát
triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới tiến bộ hơn sự vật
cũ.  Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản đó là:
+ Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm
ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết mâu thuẫn bân trong của sự
vật. Nhờ việc giải quyết mâu thuẫn mà sự vật luân phát triển, vì thế, phủ định biện
chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. 
+ Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không
phải là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng
của cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ
trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải
tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với
hiện thực. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ
ngày càng phát triển. 
- Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn
trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa
giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ
định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình. Sự phủ
định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái
được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy sau
hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là
đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.
 Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân
tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ
định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có
nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định bạn đầu và kết quả của sự
phủ định lần thứ nhất. 
Kết quả của sự phủ định của phủ định là diểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và
cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp thei. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện
chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. 
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu
hướng phát triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy
ốc". 
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát
18
triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường
xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự
phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau
từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc". 
Nghiên cứu quá trình phát triển của sự vật theo quy luật phủ định của phủ định chúng ta
không được hiểu một cách máy móc là mọi sự vật trong thế giới hiện thực đều phải trải
qua hai lần phủ định của phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển của chúng.
Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có thể bao gồm số lượng các
lần phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua hai lần phủ định, có sự vật trải qua ba,
bốn, lăm... lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển Ví dụ vòng đời của Tằm
đã trải qua 4 lần phủ định... 
Từ những phân tích trên chúng ta có thể khái quát Quy luật phủ định của phủ định nêu
lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện
chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn
trước và bổ sung thêm những thuộc tính mới là cho sự phát triển theo đường "xoáy ốc". 
b) Mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế
- Nhân tố chủ quan trong nước là nhân tố quyết định...
- Khách quan nước ngoài là yếu tố tác động, thúc đẩy...
- Tính kế thừa quốc tế; tính giao lưu, hội nhập quốc tế (khu vực, châu lục,
thế giới)
+ Nội dung kế thừa, giao lưu;
+ Nguyên tắc kế thừa, giao lưu.
c) Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại 
- Truyền thống là những gì được hình thành trong quá trình lịch sử và có tính ổn
định, bền vững tương đối. Truyền thống được hình thành từ lâu đời như: truyền thống
yêu nước, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, cần cù, kiên cường chống giặc
ngoại xâm... Cũng có thể là những giá trị mới được định hình nhưng đã khẳng định
được tính ổn định, bền vững qua thực tiễn như: truyền thống anh dũng trong kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ của quân và dân ta... Tuy nhiên, dù thời gian hình thành
có khác nhau, truyền thống vẫn có điểm chung nhất đó là những giá trị tinh thần có ảnh
hưởng quan trọng và chi phối mạnh mẽ trong sinh hoạt của cộng đồng dân cư.
Xuất phát từ vai trò, ảnh hưởng của chúng đối với đời sống thực tế có sự phân
biệt rõ ràng giữa hai loại truyền thống. Đó là truyền thống tốt đẹp (truyền thống quý
báu, truyền thống vẻ vang) và truyền thống lạc hậu.
- “hiện đại” là khái niệm thường gắn liền với những gì mới mẻ, tiến bộ, để đối lập
với sự lạc hậu, với cái cũ. Khi xác định mục tiêu xây dựng một xã hội mới, Người
thường nhấn mạnh tiêu chí có nền kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có trình
độ khoa học - kỹ thuật phát triển, nền văn hoá tiên tiến.
- Truyền thống và hiện đại không hoàn toàn ngăn cách, tách biệt nhau, mà chúng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Điều này được
thể hiện tập trung ở mấy điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, truyền thống là điểm xuất phát của hiện đại, hiện đại là sự tiếp nối
của truyền thống ở một trình độ cao hơn. Những giá trị hiện đại chính là kết quả phát
triển không ngừng của những giá trị truyền thống và có nguồn gốc từ những giá trị
truyền thống, chứa đựng trong bản thân nó ít nhiều những giá trị truyền thống. Không
có giá trị hiện đại nào mà hoàn toàn tách rời, thoát ly các giá trị truyền thống. Đó chính

19
là sự phủ định biện chứng, phủ định mang tính kế thừa trong quá trình phát triển của thế
giới sự vật, hiện tượng mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra. Đây cũng là điều mà Hồ
Chí Minh đã thực hiện khi tìm đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin - bước ngoặt trọng
đại trong sự phát triển tư tưởng của Người. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao học thuyết
Mác - Lênin, coi đó là “cẩm nang thần kỳ”, là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất”, là chân lý của thời đại. Nhưng Người không coi đó là học thuyết
duy nhất có giá trị, không vì đó mà quên đi các giá trị truyền thống của dân tộc và nhân
loại, mà tích hợp những điểm tinh túy nhất của các học thuyết, để vận dụng phù hợp với
điều kiện cụ thể của đất nước, dân tộc. Người khẳng định: “Học thuyết Khổng Tử có ưu
điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật
Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta”(3).
Xuất phát từ tinh thần trên, trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, Hồ
Chí Minh đã trân trọng kế thừa chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, bổ sung
và phát triển trong điều kiện lịch sử mới, nâng lên một trình độ mới cao hơn, tạo thành
chủ nghĩa yêu nước mới - chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Cũng theo tinh thần trên,
Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của dân
tộc để xây dựng thành tư tưởng chiến lược về đại đoàn kết và xây dựng mặt trận dân tộc
thống nhất, với những nguyên tắc và phương pháp khoa học. Người cũng kế thừa những
khái niệm truyền thống của đạo đức Nho giáo như trung, hiếu, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư... và đưa vào đó những nội hàm mới phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của
sự nghiệp cách mạng.
Thứ hai, loại bỏ những cái lạc hậu, không còn phù hợp, đồng thời cũng kế thừa,
thâu nhận có chọn lọc những giá trị hiện đại. Như phép biện chứng mácxít đã chỉ ra,
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng thực chất là quá trình không ngừng thay thế
cái cũ lạc hậu bằng cái mới tiến bộ. Trong truyền thống cũng vậy, có những yếu tố vẫn
có giá trị tích cực, góp phần làm ổn định và phát triển xã hội hiện tại; nhưng cũng có
những yếu tố đã lạc hậu, trở thành lực cản tiến trình phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh
đã lên án những thói quen, hủ tục lạc hậu trong việc ma chay, cưới xin, bệnh quan liêu
hách dịch, tham lam, đố kỵ, hẹp hòi, thói gia trưởng, coi thường phụ nữ, v.v.. Người coi
đây cũng là những kẻ địch, mỗi người cần phải cảnh giác phòng trừ, loại bỏ. Trong
trường hợp này, những yếu tố truyền thống lạc hậu phải được thay thế bằng những giá
trị mới, hiện đại hơn, văn minh hơn.
Sức mạnh của cái mới, của những giá trị hiện đại là tất yếu khách quan. Tuy
nhiên, với Hồ Chí Minh, không phải trong bất cứ hoàn cảnh nào, cái mới, cái hiện đại
cũng mang giá trị tích cực. Nói cách khác, cái mới, cái hiện đại phải phù hợp với điều
kiện cụ thể của mỗi khu vực, mỗi quốc gia. Bài học của nhiều nước XHCN trong việc
quá nhấn mạnh vai trò của quan hệ sản xuất mới XHCN đối với lực lượng sản xuất
trong thế kỷ XX đã cho thấy rõ điều này. Chính với tầm nhìn vượt trước như vậy, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ thực hiện đời sống mới “không phải cái gì cũng làm mới”(4) và
nhấn mạnh “Cái gì mới màhay, thì ta phải làm”(5). Điều này cũng đồng thời có nghĩa là
cái gì mới, hiện đại mà không hay thì cần phải tránh.
Với quan niệm như trên, khi lựa chọn mô hình phát triển tương lai của dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã không chọn con đường của Cách mạng Mỹ và Cách mạng
Pháp. Bởi lẽ Người nhận rõ đó là những cuộc “cách mệnh không đến nơi”, cách mạng
rồi nhưng quyền không giao cho dân chúng số nhiều, mà nằm trong tay một số ít người.

20
Từ sự phân tích sâu sắc thực tiễn, Hồ Chí Minh xác định rõ rằng chỉ có Cách mạng
Tháng Mười Nga mới xứng đáng là tấm gương cho dân tộc Việt Nam học tập noi theo.
Bởi vì, đó là cuộc cách mạng đã thành công và thành công đến nơi, đã thực sự mang lại
hạnh phúc, tự do, bình đẳng cho đại đa số người dân.
Thứ ba, truyền thống là cơ sở để tiếp thu hiện đại. Quá trình du nhập những giá
trị hiện đại không thể thiếu cơ sở, tiền đề của sự phù hợp với các yếu tố truyền thống.
Vai trò này được biểu hiện cụ thể ở hai khía cạnh: Một là các yếu tố nội tại tương thích
với các giá trị hiện đại được du nhập vào, chẳng hạn như để có thể du nhập chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam thì phải có giai cấp công nhân và phong trào công nhân; Hai
là thông qua truyền thống làm cầu nối, phương tiện để chuyển tải, du nhập các giá trị
hiện đại, chẳng hạn như trường hợp của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo khi truyền bá
vào Việt Nam đều phải thông qua lăng kính truyền thống của dân tộc là tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên và chủ nghĩa yêu nước truyền thống.
Hồ Chí Minh ý thức rất rõ điều này. Ngay từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, trong
khi nhiều nhà cách mạng của Quốc tế Cộng sản còn chưa hiểu nhiều về phong trào cách
mạng Việt Nam và các nước châu Á, vẫn coi châu Âu là trung tâm của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, là nơi chủ nghĩa cộng sản phát triển mạnh mẽ, sẽ giành thắng
lợi trước tiên trên toàn thế giới, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn đặt vấn đề “Chế độ cộng sản
có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không? Từ những
luận cứ khoa học, Người khẳng định: “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu
Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu”. Bởi lẽ, Người đã phát hiện thấy những yếu tố truyền
thống của Việt Nam và các nước phương Đông phù hợp với chủ nghĩa cộng sản. Đó là
chế độ ruộng đất công, là tư tưởng đại đồng của Khổng Tử và tư tưởng trọng dân, thân
dân của Mạnh Tử(6).
Khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thường
dùng cách diễn đạt giản dị, dễ hiểu, dễ tiếp thu, phù hợp với tâm lý và trình độ nhận
thức của người dân. Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận xét rất tinh tế: “kinh qua Hồ
Chủ tịch, tinh hoa của thế giới đã Việt Nam hoá rồi, đã mượn hình dáng, bộ điệu ngôn
ngữ Việt Nam, cho đến tinh thần Việt Nam nữa”(7).
Đặc biệt, trong lĩnh vực đạo đức, để truyền bá, đưa vào dân tộc những giá trị đạo
đức mới - đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh thường sử dụng các mệnh đề, câu chữ
trong kinh điển Nho giáo nhưng đã thay đổi nội hàm, bổ sung thêm các nội dung đạo
đức mới để diễn đạt, khiến cho các giá trị mới này trở nên gần gũi, dễ hiểu và dễ chấp
nhận đối với suy nghĩ của người dân. Chính vì vậy, Người đã thành công trong việc tổ
chức, chỉ đạo thực hiện cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức, cùng với cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc.
Thứ tư, cả truyền thống và hiện đại đều thống nhất chặt chẽ với nhau trong mục
tiêu tạo lập sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước, dân tộc. Nói đến “truyền
thống” thường là nhấn mạnh đến cái tĩnh, cái ổn định và nói đến “hiện đại” là nhấn
mạnh đến cái động, cái phát triển. Truyền thống góp phần quyết định tạo nên bản sắc
riêng của mỗi dân tộc, làm nên sức sống của dân tộc trước những thách thức. Hiện đại
giúp dân tộc không ngừng tiếp thu những tri thức mới của nhân loại, để theo kịp bước
tiến chung của nhân loại. Tuy nhiên, sự phân định về vai trò của truyền thống và hiện
đại chỉ mang ý nghĩa tương đối. Bởi lẽ, trên thực tế, ổn định là để phát triển, chứ không
phải để bảo thủ, đóng kín; phát triển đến lượt nó là để góp phần ổn định, chứ không phải
phát triển bằng mọi giá, để rồi đến một lúc nào đó phải gánh chịu hậu quả nặng nề.

21
Đối với Hồ Chí Minh, sự phát triển ổn định nhất, bền vững nhất chính là sự phát
triển dựa trên việc động viên đến mức cao nhất sự chung sức, chung lòng của toàn dân
và sâu sắc hơn là nhằm đích phục vụ lợi ích của toàn dân. “Nước lấy dân làm gốc... Xây
lầu thắng lợi trên nền nhân dân” mang ý nghĩa sâu xa là như thế. Vì vậy, có thể gọi triết
lý phát triển Hồ Chí Minh một cách rõ hơn là triết lý phát triển vì con người. Các giá trị
truyền thống và hiện đại được Hồ Chí Minh chọn lựa, vận dụng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc đều có chung một tiêu chí là phục vụ toàn dân, mang lại
ích lợi cho toàn dân.
Như vậy, nhờ giải quyết đúng đắn quan hệ giữa truyền thống và hiện đại mà Hồ
Chí Minh có thái độ ứng xử rất mực văn hoá đối với những tinh hoa của dân tộc và nhân
loại, từ truyền thống đến hiện đại. Người không đoạn tuyệt với quá khứ mà biết chắt lọc
trong đó những tinh hoa giá trị phục vụ cho sự nghiệp cách mạng hiện tại. Đồng thời,
Người cũng kiên quyết không chấp nhận những gì nhân danh cái mới, cái hiện đại, đi
ngược lại lợi ích của quần chúng nhân dân lao động, ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp
cách mạng; mà biết chọn lọc, tiếp thu những cái mới phù hợp với đặc điểm cụ thể của
đất nước, dân tộc. Qua đó, Người nêu một tấm gương mẫu mực về thái độ trân trọng
những giá trị truyền thống, đồng thời vẫn không ngừng phấn đấu cho sự phát triển, tiến
bộ của dân tộc và ở tầm cao hơn là nhân loại

22
Câu 5: Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập và ý nghĩa của vấn
để đối với việc giải quyết mối quan hệ xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ với hội nhập quốc tế ở Việt Nam
a) Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản và quan
trọng nhất, hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch ra nguồn gốc,
động lực của sự vận động, phát triển.
Nội dung quy luật:
- Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, Các
mặt đối lập của sự vật vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động
lực của sự vận động, phát triển của sự vật.:
+ Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: Đó là sự kết hợp với nhau, nương tựa vào
nhau và bổ sung cho nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau; là sự đồng nhất, phù hợp, tác
động ngang nhau, chuyển hoá lẫn nhau. Sự thống nhất là tương đối
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập: là sự tác động lẫn nhau, sự bài trừ, phủ định lẫn
nhau, sự triển khai của các mặt đối lập. Sự đấu tranh là tuyệt đối.
- Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm
cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự
đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của
sự vận động và phát triển.
- Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát triển
và giải quyết mâu thuẫn. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của
các mặt đối lập quy định sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn
phát triển. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa
lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng
thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
- Giải quyết mâu thuần thông qua các con đường: Mặt đối lập chuyển hoá trực
tiếp cho nhau; các mặt đối lập dần dần chuyển hoá cho nhau; cả 2 mặt đối lập cũ bị thủ
tiêu hình thành 2 mặt đối lập mới.
- Mâu thuẫn biện chứng có các đặt trưng: tính khách quan, tính phổ biến, tính đa
dạng; tính lịch sử - cụ thể.
b) Ý nghĩa của vấn đề
- Nền kinh tế độc lập, tự chủ là điều kiện vật chất căn bản quyết định tính chủ
động trong hội nhập kinh tế quốc tế và là nền tảng vật chất để củng cố nền độc lập, tự
chủ về chính trị. Vì vậy, cần kết hợp đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế với đấu tranh giữ
vững nền kinh tế độc lập, tự chủ. Để giữ vững nền kinh tế độc lập, tự chủ, chúng ta cần
xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả; nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế;
coi trọng quan điểm phát triển kinh tế bền vững. Trong các ngành kinh tế quan trọng,
phải giám sát chặt chẽ, đảm bảo cơ cấu đầu tư nước ngoài ở mức hợp lý; hạn chế hoặc
không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành kinh tế nhạy cảm.
- Kết hợp đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần thực hiện những nội dung sau:

23
Một là, cần quán triệt quan điểm hợp tác là tương đối, đấu tranh là tuyệt đối. Hội
nhập kinh tế quốc tế nhưng không được xa rời mục tiêu, lý tưởng và những vấn đề
mang tính nguyên tắc.
Hai là, trong quá trình đẩy mạnh hợp tác, Việt Nam cần giành thế chủ động, tiến
hành từng bước với một lộ trình hợp lý và khả thi. Lộ trình được xây dựng trên cơ sở sự
phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp. Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Việt Nam không những
“sẵn sàng là bạn” mà còn sẵn sàng là “đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế
giới”.
Ba là, tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực, các trung tâm chính trị, kinh tế lớn
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng
và cùng có lợi; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau... Coi trọng quan hệ với
các nước láng giềng, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước lớn, các nước có quan hệ bạn
bè truyền thống và các tổ chức quốc tế mà nước ta là thành viên. Thực hiện tốt những
thỏa thuận, những dự án hợp tác đã ký kết với các đối tác, làm cho quan hệ đối ngoại trở
nên thiết thực và hữu ích hơn đối với tất cả các bên liên quan, củng cố sự tin cậy lẫn
nhau.
Bốn là, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, đảm bảo an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc và môi trường sinh thái. Tăng cường sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau, giữa hợp tác
về kinh tế, an ninh - quốc phòng. Nâng cao năng lực làm chủ khoa học và công nghệ
của đội ngũ các nhà quản lý kinh tế, kinh doanh. Phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập
và cải thiện đời sống cho toàn dân, thực hiện công bằng xã hội... là nền tảng vững chắc
nhất bảo đảm cho chúng ta vừa hội nhập kinh tế quốc tế vừa giữ được quyền độc lập, tự
chủ.
Năm là, cùng với việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nguồn lực
trong nước là chính, việc tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài cũng có ý nghĩa rất quan
trọng. Thực tiễn hội nhập quốc tế chứa đựng những thời cơ và thách thức. Chúng ta có
thể tiếp cận được những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại để vươn lên. Thực tế
đó cho thấy, trong hội nhập kinh tế, phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển
bền vững, có sức đề kháng đối với những rủi ro. Nền kinh tế quốc gia phải phát triển cả
thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Các nhà kinh tế đã rút ra một nguyên tắc:
Mỗi quốc gia chỉ được tiêu những gì sản xuất ra được và không được vay những khoản
nợ không có khả năng chi trả.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định: để hội nhập kinh tế quốc tế thành
công, nhất thiết phải dựa vào sức mình, kết hợp với tranh thủ các nguồn lực từ bên
ngoài. Cần xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng về xuất
khẩu, đồng thời phải từng bước thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước
sản xuất có hiệu quả. Ở đây, chúng ta cần giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa nội
lực và ngoại lực, trong đó, nội lực là chính, là quyết định.
- Yêu cầu:
Một là, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng; có sự phối
hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể nhân
dân. Trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, không được tách

24
rời đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đường lối, chủ
trương hội nhập quốc tế.
Hai là, nhận thức rõ bản chất của việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và
đấu tranh là giải quyết những mâu thuẫn về lợi ích. Trong đó, có những mâu thuẫn lợi
ích cơ bản và không cơ bản, trước mắt và lâu dài, cục bộ và toàn bộ... Công việc này đòi
hỏi phải tiến hành tập trung, kiên trì, có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành,
các đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh nghiệp và người lao động. Đồng thời, cần phát
huy tốt nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh chỉ thực sự hiệu quả
trong môi trường chính trị - xã hội ổn định và lành mạnh. Vì vậy, phải làm tốt công tác
tuyên truyền, vận động, làm thay đổi nhận thức, thói quen, nếp nghĩ, tâm lý đến hành
động của từng người, của cả cộng đồng, để mỗi người hiểu rằng, giải quyết mối quan
hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và của toàn xã hội. Đây là vấn đề quan trọng trong việc thực hiện
nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội.
Giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế
cũng cần nắm vững phương pháp luận duy vật biện chứng; kết hợp hội nhập kinh tế
quốc tế với hội nhập trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng;
bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với
các hoạt động đối ngoại; phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao
nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và
ngoại giao văn hóa trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa nước ta đi lên
vượt qua khó khăn, thách thức.

25
Câu 7: Quy luật QHSX phù hợp với LLSX và vận dụng quy luật này ở
nước ta
a) Quy luật QHSX phù hợp với LLSX
- Quy luật là: mối liên hệ bản chất, phổ biến, tât nhiên và lặp lại giữa các mặt, các
yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật hay giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau.
- QHSX: Quan hệ giữa con người và con người trong quá trình sản xuất vật chất;
nó là hình thức của phương thức sản xuất, là cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống
tinh thần. QHSX gồm: Quan hệ sở hữu TLSX; tổ chức, quản lý SX; quan hệ phân phối
sản phẩm (QH sở hữu quyết định các quan hệ là quan trọng nhất, yếu tố đặc trưng của
QHSX, vì tính chất của QHSX được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất; quan hệ sở hữu biểu hiện chế độ sở hữu, đặc trưng của PTSX). QHSX tồn tại
khách quan. QHSX quyết định các quan hệ khác.
- Lực lượng sản xuất: Biểu thị mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, nó
thể hiện năng lực của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên. Nó bao gồm: con
người; tư liệu lao động (đối tượng, công cụ và phương tiện lao động). Ngày nay KHCN
cũng trở thành LLSX (nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất; là nhân
tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất; thâm nhập vào yếu tố cùa LLSX, đem
lại sự thay đổi về chất của các yế tố này; ngày càng được áp dụng rộng rãi trong sản
xuất, làm cho quá trình sản xuất là quá trình ứng dụng, áp dụng KHKT). Trong LLSX
yếu tố con người là quan trọng nhất, yếu tố công cụ lao động là động nhất. Trình độ
phát triển của SX thể hiện trình độ, thước đo trình độ chinh phục giới tự nhiên của con
người; sự thay đổi căn bản của công cụ SX kéo theo sự thay đổi các thời đại kinh tế.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX
- LLSX và QHSX liên hệ mật thiết, không tách rời nhau; mọi LLSX đều nằm trong
QHSX nhất định, nằm trong một tổ chức SX; QHSX đều là quan hệ nhất định của một
LLSX;
- LLSX suy cho cùng quyết định QHSX:
+ LLSX thay đổi sớm kéo theo sự thay đổi của QHSX (LLSX là nội dung, QHSX
là hình thức; nội dung thay đổi dẫn đến hình thức thay đổi): Mối quan hệ giữa con
người tự nhiên quyết định mối quan hệ giữa con người trong xã hội; trình độ chinh phục
tự nhiên quyết định mức đội mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội;
các thời đại kinh tế khác nhau thì quan hệ giữa con người với con người khác nhau.
+ TLSX, đặc biệt là công cụ lao động, nó quy định cách thức tổ chức quản lý sản
xuất.
+ Trình độ KHKT khác nhau cũng sẽ đưa lại cách thức tổ chức quản lý khác
nhau.
- QHSX có tình độ lập tương đối và tác động trở lại QHSX:
+ QHSX có đời sống riêng của nó, thay đổi nhanh, chậm, nhưng thường thay đổi
chậm hơn so với LLSX;
+ QHSX quy định trực tiếp mục đích XH, quy mô, tốc độ, hiệu quả, nhịp điệu của
SX, khuynh hướng phát triển của công nghệ;
26
+ Nếu phân phối hợp lý có thể kích thích hăng say làm việc, cải tiến kỹ thuật,
công cụ, sáng chế, phát minh dẫn đến LLSX phát triển.
- Quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX:
+ Phù hợp là trạng thái trong đó QHSX là hình thức phát triển tất yếu của LLSX,
các yếu tố của LLSX tạo địa bàn, điều kiện cho LLSX phát triển. LLSX luôn thay đổi,
đặc biệt là công cụ SX: Bởi vậy một lúc nào đó sự phù hợp bị phá vỡ, mâu thuẫn ngày
càng trở lên gay gắt, trở thành xiềng xích của LLSX, dẫn đến yêu cầu khách quan bằng
cách này, hay cách khác phtải xoá bỏ QHSX lỗi thời mà giai cấp bảo thủ, lạc hậu nuôi
dưỡng, duy trì thay vào đó là QHSX phù hợp.
+ Sự không phù hợp của QHSX với LLSX thể hiện: QHSX lạc hậu so với trình
phát triển của LLSX; QHSX phát triển không đồng bộ so với trình độ phát triển của
LLSX (các yếu tố của QHSX không theo kịp trình độ phát triển của LLSX); QHSX
không đồng bộ, có yếu tố đi quá sa trình độ của LLSX.
trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX biểu hiện thành mâu
thuẫn giai cấp (giai cấp bảo thù muốn duy trì QHSX lạc hậu, giai cấp tiên bộ đại diện
cho SX tiên tiến.
b) Vận dụng quy luật này ở nước ta
- Giai đoạn 1975 - 1986:
+ Sở hữu tư nhân bị xoá bỏ;
+ Dùng chính trị tiên tiến (KTTT) để tác động vào QHSX cho phù hợp với chính
trị tiên tiến để xây dựng QHSX tiên tiến mở đườn từ đó phát triển LLSX (như vậy đã
ngược quy luật...không quán triệt nguyên tắc QHSX phù hợp với tính chất và trình độ
của LLSX).
- Hiện nay:
+ Trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay nhìn chung là kém phát triển, đa dạng,
không đồng đều;
+ Công cụ SX đa dạng (nông nghiệp thủ công; công nghiệp thủ công 60 đến
70%); kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động cũng rất khác nhau.
+ Trình độ tổ chức và phân cồng đa dạng; trình độ khoa học đa dạng, tuy nhiên có
yếu tố đi đầu (ví dụ: Xây dựng nhà máy điện hạt nhân);
Từ các yếu tố trên dẫn đến QHSX đa dạng, vì vậy chúng ta phải xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần (5 thành phần: Nhà nước, tập thể, tư nhân, tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài); đa dạng trong hình thức sở hữu (tập thể, toàn dân,
tư nhân), trình độ tổ chức, quản lý sản xuất đa dạng và phân việc phân phối đa dạng
(phân phối theo lao động, hiệu quả, mức độ đóng góp vốn, phúc lợi xã hội, anh sinh xã
hội...)
Kết luận: Phải phát triển mạnh mẽ LLSX với trình độ khoa học công nghệ ngày
càng cao, hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường định hường XHCN; phải xây
dựng LLSX hiện đại và quan hệ SX tiến bộ, phù hợp.
Phát triển LLSX ở nước ta hiện nay là phải phát triển khoa học kỹ thuật, KHCN,
cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, đặc
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Phải xây dựng, hoàn thiện QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX, điều đó có nghĩa là phải hoàn thiện kinh tế thị
trường, định hướng XHCN. Theo đó yêu cầu:
+ Giữ vững định hướng XHCN nền kinh tế thị trường;

27
+ Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp;
+ Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trưởng và các loại thị trường;
+ Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
đối với nền kinh tế thị trường định hường XHCN.

28
Câu 8: sự phát triển của các hình thái KT-XH là quá trình ls tự nhiên?
Ý nghĩa đối với việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN lên CNXH ở
nước ta?
1. Khái niệm hình thái KT-XH:
- Hình thái KT-XH là khái niệm dùng để chỉ xã hội ở một giai đoạn lịch sử cụ thể
với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng (phù hợp) với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất đó.
- Cấu trúc của hình thác KT - XH: LLSX, QHSX, KTTT.
+ Lực lượng sản xuất: Biểu thị mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, nó
thể hiện năng lực của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên. Nó bao gồm: con
người; tư liệu lao động (đối tượng, công cụ và phương tiện lao động). Ngày nay KHCN
cũng trờ thành LLSX (nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất; là nhân
tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất; thâm nhập vào yếu tố cùa LLSX, đem
lại sự thay đổi về chất của các yế tố này; ngày càng được áp dụng rộng rãi trong sản
xuất, làm cho quá trình sản xuất là quá trình ứng dụng, áp dụng KHKT). Trong LLSX
yếu tố con người là quan trọng nhất, yếu tố công cụ lao động là động nhất.
+ QHSX: Quan hệ giữa con người và con người trong quá trình sản xuất vật chất;
nó là hình thức của phương thức sản xuất, là cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống
tinh thần. QHSX gồm: Quan hệ sở hữu TLSX; tổ chức, quản lý SX; quan hệ phân phối
sản phẩm (QH sở hữu quyết định các quan hệ khác). QHSX tồn tại khách quan;
+ Kiến trúc thượng tầng: Là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cùng với những thiết chế tương ứng như nhà nhà
nước, đảng phái, giáo hội và các đoàn thể được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định.
- Các HTKT - XH đã có trong lịch sử qua các chế độ xã hội khác nhau là những
nấc thang kế tiếp nhau trong quá trình phát triển của nhân loại như một quá trình phát
triển lịch sử tự nhiên. Không phải tất cả các quốc gia dân tộc đều tuần tự trải qua tất cả
các nấc thang của quá trình phát triển xã hội nói trên. Trong những hoàn cảnh lịch sử và
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định của thời đại, có những quốc gia dân tộc có thể bỏ
qua một hoặc hai nấc thang của quá trình phát triển xã hội để tiến thẳng lên một hình
thái cao hơn.
2. Sự phát triển của các hình thái KT-XH là quá trình ls tự nhiên?
- Thế nào là quá trình lịch sử - tự nhiên: đó chính là xu hướng phát triển theo
quy luật vốn có của nó, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
- Sự phát triển của hình thái KT-XH là quá trình lịch sử - tự nhiên vì:
+ Mang tính khách quan, không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan;
+ Mang tính quy luật: QHSX phù hợp với trình độ LLSX; CSHT quy định KTTT,
đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp.

29
+ Mang tính lịch sử: Vận động trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định; tính kế
thừa, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện; thông qua hoạt động của con
người.
- Theo CN Mác, lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi
phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ
xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã
hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn
của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận
động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh
tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định:
“tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên”. Như vậy quá trình này diễn ra một cách khách quan, tuân theo nững quy luật
vốn có của nó (QHSX phù hợp với tinh chất, trình độ của LLSX; CSHT quy định KTTT;
đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp), không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người; đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, từ cộng sản nguyên
thuỷ lên phong kiến, TBCN và CNCS, vì vậy nó là quá trình lịch sử tự nhiên.
- Mặc dù khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội
là tiến trình bị quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn luôn cho
rằng, con người “có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa
là, trong quan niệm của Mác đã hàm chứa tư tưởng: quá trình lịch sử - tự nhiên của sự
phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự từ hình
thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng
con đường bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó, một hình thái kinh tế - xã hội nào đó
trong những điều kiện và hoàn cảnh khách quan cụ thể nhất định.
- Nguồn gốc sâu xa của sự vận động và phát triển của xã hội là do sự phát triển
của LLSX.
“ Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những QHSX và đem qui những QHSX
vào trình độ của LLSX thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự
phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”V.I.
Lênin toàn tập.
- Qui luật chung của nhân loại đi từ thấp đến cao. Song mỗi dân tộc đều có thể bị
chi phối bởi các điều kiện tự nhiên, chính trị, truyền thống, văn hóa và điều kiện Quốc
tế… do đó có những dân tộc có thể “bỏ qua” một số hình thái kinh tế-xã hội nào đó.
Song sự”bỏ qua” đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử tự nhiên chứ không theo ý
muốn chủ quan.
- Học thuyết hình thái kinh tế -xã hội ra đời là một cuộc cách mạng trong toàn bộ
quan niệm về lịch sử xã hội. Nó chỉ ra cho thấy động lực của lịch sử nằm ngay trong
hoạt động thực tiễn vật chất của con người dưới tác động của các quy luật khách quan.
- Học thuyết này đã khắc phục được quan điểm duy tâm trừu tượng, vô căn cứ về
xã hội.
- Học thuyết này là cơ sở khách quan cho đường lối cách mạng của các đảng
cộng sản trong việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng cộng sản chủ nghĩa- nó là cơ sở phương
pháp luận của các khoa học xã hội và là hòn đá tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội.

30
Ngày nay, trước thực tiễn lịch sử của nhân loại có nhiều bổ sung và phát triển
mới, song cơ sở của học thuyết vẫn còn nguyên giá trị.
3. Ý nghĩa đối với việc bỏ qua chế độ phát triển TBCN lên CNXH ở nước ta?
- Tại sao có thể bỏ quan: Sự phát triển trong tự nhiên có tuần tự và nhảy vọt, do
đó trong xã hội - một bộ phận đặc biệt, một hình thức cao nhất của tự nhiện thì cũng có
sự tuần tự và nhảy vọt (rút ngắn); quy luật kế thừa trong lịch sử cho phép trong sự giao
lưu, hợp tác; một số nước đi sau trong những điều kiện nhất định có thể rút ngắn tiến
trình lịch sử mà không phải lặp lại tuần tự quy trình nhân loại đã trải qua.
Lênin cho rằng: Tính quy luật chung của sự phát triển lịch sử thế giới không loại
trừ mà trái lại còn bao hàm một số giai đoạn phát triển đặc thù về hình thức cũng như
trật tự và chỉ có bỏ qua, rút ngắn một cách bất chấp quy luật thì mới không phải là quá
trình lịch sử tự nhiên.
- Việc bỏ qua ở đây là: “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT
TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa các thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
TBCN, đặc biệt là KHCN, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại”
- Các điều kiện bỏ qua:
+ Yếu tố thời đại;
+ Chính trị: Định hướng XHCN; Đảng lãnh đạo...
+ Tìm cách phát triển LLSX: Kế thừa...phát huy...đào tạo;
- QHSX: Đa dạng...xây dựng nền KT nhiều thành phần; đa dạng trong phân phối
(lao động, vốn, phúc lợi xã hội, an sinh xã hội)
- KTTT: Nhà nước pháp quyền XHCN.
.Việc lựa chon con đường tiến lên CNXH bỏ qua chế độ phát triển TBCN
như là một quá trình lịch sử tự nhiên:
Con đường tiến lên CNXH là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ
thể ở nước ta.Việt nam chưa qua giai đoạn phát triển TBCN song với ĐK lịch sử nhất
định có thể quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN, điều đó hoàn toàn
phù hợp với qui luật lịch sử tự nhiên.
- Trong chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt, luận cương đầu tiên của Đảng
ta khảng định “con đường của cách mạng VN nhất định phải đi tới CNXH bỏ qua thời
kỳ TBCN”
- Qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành lập, đảng ta luôn khảng định chân lý:
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là con đường tất yếu khách quan phù hợp với ý
chí, nguyện vọng của nhân dân ta”.
- Tại đại hội Đảng 9 tiếp tục khảng định “Con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN”
Để thực hiện thành công sự nghiệp XD CNXH trong điều kiện bỏ qua chế độ
TBCN, phải tạo ra sự biến đổi về chất của XH trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất
khó khăn, phức tạp, do đó phải trải qua 1 thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, XH có tính chất quá độ.

31
Câu 9. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Ý
Nghĩa của nó trong đổi mới kinh tế và chính trị ở nước ta hiện nay.
1. Khái niệm:
- “Kinh tế” tổng thể các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và các mối quan
hệ trong quá trình sản xuất.
+ Nghĩa rộng: Toàn bộ PTSX và trao đổi;
+ Nghĩa hẹp: Là lợi ích, là sở hữu, là hạt nhân của cơ sở hạ tầng.
- “Chính trị” là quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng chính trị, quan hệ giữa
các quốc gia, dân tộc xunh quanh vấn đề giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị mà tập
trung ở nhà nước. Chính trị là nội dung cơ bản của KTTT.
Chính trị thực chất là giải quyết các mối quan hệ chính trị nhằm giành lấy quyền
lực nhà nước và sử dụng quyền lực này để giải quyết các quan hệ lợi ích, mà chủ yếu là
lợi ích kinh tế cho giai cấp cầm quyền.
2. Quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị:
- Kinh tế và chính trị có mối quan hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, có
có kinh tế tách rời chính trị và ngược lại.
- Kinh tế suy cho cùng quyết định định chính trị:
+ Kinh tế thay đổi thì sớm muộn chính trị cũng thay đổi theo;
+ Trình độ kinh tế nhất định sẽ có mọt trình độ nhất định chính trị tương ứng;
+ Chính trị suy cho cùng là sản phẩm của kinh tế, là biểu hiện tập trung của kinh
tế, bởi vì chính trị phản ánh có tình khái quát cái cơ bản, bản chất nhất của kinh tế, do
đó chính trị không thể không chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế.
- Chính trị có tính độc lập tương đối, tác động trở lại kinh tế:
+ Độc lập tương đối: Chính trị có đời sống riêng (quy luật vận động riêng); Chính
trị có thể thay đổi nhanh, chậm, thậm chí vượt trước, nhưng nhìn chung là thay đổi
chậm so với kinh tế.
+ Tác động trở lại: chính trị là một trong những biểu hiện của kinh tế, nhưng là
hình thức biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất và có tác động trở lại kinh tế:
Chính trị có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thành bại trong sự vận động
các quy luật kinh tế, tạo điều kiện, môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế;
Khi nắm bắt được các quy luật kinh tế, chính trị có thể định hướng đề ra mục
tiêu, hình thức, biện pháp, bước đi cho sự phát triển kinh tế; nếu không có định hướng
chính trị nhiều khi kinh tế sẽ dễ rối loạn;
Chính trị không chỉ lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát chặt chẽ các vấn
đề then chốt cảu kinh tế, như: Ngân sách, vốn, tiền tệ, tài chính;
Chính trị không thể không giữ địa vị hàng đầu so với kinh tế, vì không có chính
trị dúng đắn thì kinh tế khó có thể phát triển;
Chính trị thông qua nhà nước tác động đến kinh tế theo 3 khả năng: Cùng chiều
sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế; ngược chiều sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế; một số
cùng chiều, một số ngược chiều thì vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm phát triển kinh tế.
- Trong lịch sử thắng lợi của cách mạng, chính trị thường là tiền đề, điều kiện tiên
quyết cho sự phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Mac cho rằng chính trị, quyền lực nhà
nước cũng là tiềm lực kinh tế.
3. Vấn đề đổi mới KT - CT ở nước ta hiện nay
32
- Đảng ta chủ trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế gắn với đổi mới chính
trị; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính chị:
* Đổi mới kinh tế:
+ Phát triển LLSX, CNH- HĐH, phát triển KHCN, phát triển nguồn nhân lực con
người; xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.
+ Xây dựng QHSX tiến bộ, phù hợp.
+ Hoàn thiện chế độ sở hữu.
* Đổi mới chính trị: không phải là thay đổi chế độ CT mà thực chất là đổi mới tư
duy CT về CNXH
+ CCHC:
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội CN;
+ Hoàn thiện đường lối, chính sách;
+ Giữ vững ổn định chính trị, chống diễn biễn hoà bình.
- Quan điểm xây dựng KTTT, định hướng XHCN (kết hợp giữa kinh tế và chính
trị):
+ KTTT: Là nền kinh tế vận động theo quy luật của TT, được dẫn dắt, chi phối
bởi các nguyên tắc của CNXH;
+ Định hướng XHCN:
Mục đích của nền kinh tế: Hướng đến XH Dân giàu....minh;
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế NN cùng KT tập thể ngày càng trở
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân;
Phát huy cao độ vai trò làm chủ của nhân dân;
Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước.

33
Câu 10: Quan điểm mác xít về quan hệ giữa giai cấp và dân tộc. Phân
tích những biểu hiện đặc thù của vấn đề này ở Việt Nam
a) Quan điểm macxit về quan hệ giữa giai cấp và dân tộc
- Giai cấp
Các nhà TH trước Mác đã nghiên cứu về khái niệm giai cấp, tuy nhiên có hạn chế
là: Không đưa ra tiêu chuẩn, tiêu chí, chuẩn mực để phân biệt giai cấp; không thấy tồn
tại giai cấp chỉ gắn với một giai đoạn lịch sử nhất định, xoá nhoà sự đối kháng giai cấp
của xã hội tiến bộ, chủ trương cải tạo giai cấp bằng điều hoà mâu thuẫn giai cấp; không
thấy được sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, không thấy được thực tế đi lên xoá bỏ sự
phân chia giai cấp trong xã hội loài người.
+ Định nghĩa giai cấp của Lê Nin: “ tập đoàn to lớn gồm những người khác
nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sự, khác
nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định
và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động
xã hội, và như vậy là khác nhau về cách hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà
họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm
đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa bị khác nhau trong một
chế độ kinh tế xã hội nhất định”
+ Giai cấp là tập đoàn người to lớn trong xã hội;
+ Được phân biệt với nhau về địa vị kinh tế - xã hội trong một hệ thống sản xuất
vật chất;
+ Thực chất của sự phân định giai cấp là xác định một quan hệ chiếm đoạt của
tập đoàn người này đối với một tập đoàn khác.
Sự tồn tại giai cấp là tất yếu lịch sử, do trình độ phát triển còn hạn chế của lực
lượng sản xuất, và do đó là sự tồn tại tất yếu của chế độ sở hữu tư nhân về TLSX; sự tồn
tại giai cấp là khách quan nhưng nó không phải là hiện tượng vĩnh viễn của lịch sử nhân
loại; xã hội loài người đã trải qua giai đoạn lịch sử không có giai cấp và cũng tất yếu
phát triển đến xã hội không có giai cấp - đó là xã hội CSCN; sự đối kháng trong kinh tế
là nguyên nhân dẫn đến đối kháng giai cấp trong xã hội nhất định.
Nguồn sâu xa của sự ra đời giai cấp trong xã hội là sự phát triển LLSX, còn
nguồn gốc trực tiếp là chế độ tư hữu về TLSX.
- Dân tộc: Là cộng đồng xã hội - tộc người gồm những đặc điểm chung thống
nhất rất chặt chẽ: cộng đồng lãnh thổ, cộng đồng về kinh tế, cộng đồng về ngôn ngữ,
cộng đồng về văn hoá, về tâm lý tính cách, về nhà nước và pháp luật thống nhất.
+ Cộng đồng về lãnh thổ:
+ Cộng đồng về kinh tế;
+ Cộng đồng về ngôn ngữ;
+ Cộng đồng về văn hoá, tâm lý, tính cách;
+ Cộng đồng về nhà nước và pháp luật thống nhất.
Sự hình thành dân tộc: Ở Châu Âu (Dân tộc được hình thành từ nhiều bộ tộc khác
nhau trong cùng một quốc gia; dân tộc hình thành từ một bộ tộc); Ở Châu phhi dân tộc
34
được hình thành bằng con đường bạo lực, đó là kết quả của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ.
Dân tộc Việt Nam hình thành sớm (trước CNTB) gắn liền với quá trình dựng, giữ nước,
chống thiên tai, ngoại xâm; dân tộc Việt Nam có tính bền vững cao, vì: hình thành lâu
đời; quan hệ lâu đời về mặt địa lý; có quan hệ mật thiết về tộc người; giá trị độc đáo về
văn hoá; cơ sở kinh tế là nền kinh tế quốc gia thống nhất, cơ sở chính trị là nhà nước
dân tộc.
b) Quan hệ giữa giai cấp và dân tộc
- Giai cấp (với tư cách là sản phẩm trực tiếp của PTSX trong xã hội có giai cấp )
xét đến cùng quyết định sự hình thành, tính chất, xu hướng, quan hệ giữa các dân tộc.
+ Giải quyết vấn đề giai cấp quyết định giải quyết vấn đề dân tộc. Vấn đề dân
tộc luôn được chỉ đạo bởi quan điểm giai cấp nhất định (vì gắn với PTSX);
+ Sự ra đời một dân tộc gắn liền với vai trò lịch sử của một giai cấp nhất định;
+ Ở đâu, giai đoạn nào của dân tộc, cũng có một giai cấp đại diện cho nó;
+ Trong dân tộc có nhiều giai cấp, giai cấp đại diện là giai cấp giữ vị trí thống
trị trong xã hội:
+ Áp bức giai cấp là nguyên nhân dẫn đến áp bức dân tộc.
+ Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản, hàng đầu trong phong trào giải phóng dân
tộc. Điều này thể hiện ở chỗ giai cấp nào lãnh đạo phong trào, những giai cấp nào là
nòng cốt của phong trào, liên minh với giai cấp nào.
- Vai trò của dân tộc đối với giai cấp: Dân tộc có vai trò quan trọng, tác động trở
lại, tích cực, mạnh mẽ vấn đề giai cấp:
+ Dân tộc là cơ sở, địa bàn trực tiếp kết cấu giai cấp; địa bàn trực tiếp của quá
trình kinh tế - xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp, các biến cố chính trị, các cuộc cách
mạng xã hội;
+ Dân tộc là cơ sở, là nguồn tạo lên sức mạnh giai cấp: Giai cấp tồn tại trong
một dân tộc nhất định, vì vậy sức mạnh giai cấp không chỉ nằm trong bản thân giai cấp
đó mà còn nằm trong sức mạnh của dân tộc;
+ Dân tộc là cái nôi của các nền văn hoá giai cấp;
+ Đấu tranh dân tộc không chỉ là kết quả mà là nguyên nhân dẫn đến đấu tranh
giai cấp phát triển ở bề rộng, chiều sâu. Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ trở lại đối
với áp bức giai cấp. Nó nuôi dưỡng áp bức giai cấp và làm sâu sắc áp bức giai cấp.
c) Những biểu hiện đặc thù của vấn đề này ở Việt Nam
- Vấn đề giai cấp và dân tộc không tách rời nhau, tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh
mà vấn đề nào nổi trội hơn.
- Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con
đường cách mạng vô sản:
+ Khi nói đến cách mạng vô sản là nói đến con đường cứu nước và giải phóng
dân tộc, ở đây không phải là sự lắp đặt chủ quan tuỷ ý mà là sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, giữa khách quan với chủ quan. Điều đó khẳng định một hướng đi mới,
nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải phóng hoàn toàn mới, khác hẳn về chất so
với lãnh đụ phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam (Cần Vương, Hoàng Hoa Thám,
Đông Du...). Mấu chốt là vấn đề dân tộc bao giờ cũng gắn liền với giai cấp. Trong quá
35
trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với Cách mạng Tháng Mười Nga và
đã thấy rõ hơn con đường cứu nước và giải phóng dân tộc “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ” và rằng “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác là con đường cách mạng vô sản” (đây là cuộc cách mạng triệt để nhất).
+ Cuộc cách mạng mà nhân dân tiến hành không thể là cách mạng tư sản kiểu cũ
mà là cách mạng đến nơi, cách mạng triệt để, cuộc cách mạng lấy công nông làm gốc,
một cuộc cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân. Và trong tất cả các giai đoạn
cách mạng có một bản chất chung không thay đổi, đó là: chính quyền nhà nước thuộc về
đa số dân chúng, chính quyền của công nhân, nông dân và tất cả những ai là “bầu bạn”
của công nông. Dân tộc từ đây gắn liền với giai cấp vô sản, do giai cấp vô sản đại biểu.
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là vấn đề xuyên suốt toàn bộ
đường lối cách mạng Việt Nam: Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam, là
con đường rút ngắn biện chứng mang tính lịch sử - cụ thể và hợp quy luật. Cuộc cách
mạng này kết hợp trong hiện thân của nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải
phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi áp áp bức, bóc lột.
Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trưởng của giai cấp công nhân, điều đó phù hợp
với xu thể của thời đại, lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Cách
mạng XHCN là sự kế tiếp ngay sau khi cách mạng dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa
hai cuộc cách mạng này không có bức tường nào ngăn cách.
Trong bật cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết
hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc. Nền độc lập thực sự của dân tộc,
tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân đan chỉ có thể có được một cách
bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo lý tưởng của giai cấp công nhân. Đổi mới
không phải là thay đổi mục tiêu của XHCN mà là quan điểm đúng đắn hơn về CNXH
và thực hiện mục tiêu ấy bằng hình thức, những bước đi và biện pháp phù hợp.
- Cách mạng giải phóng dân tộc kết hợp với cách mạng ở chính quốc:
+ Phải liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc
địa thì cách mạng mới thắng lợi;
+ Tuy nhiên, cách mạng thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc không phải là
nhân tố bị động phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát
triển, trái lại, vẫn có thể chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí thắng lợi trước, từ
đó góp phần hỗ trợ tích cực cho cách mạng ở các nước tư bản.
Liên hệ trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam: Sự ủng hộ của giai cấp
vô sản Pháp...
Ngày nay, Đảng ta chủ trương kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, nắm vững độc lập dân tộc và CNXH, đó là đường lối đúng đắn đưa cách mạng
Việt Nam vượt qua khó khăn, phức tạp hiện nay để tiếp tục tiến lên.
- Sau khi dân tộc được giải phóng phải quá độ lên CNXH: Vấn đề dân tộc chỉ có
được giải phóng từng bước và triệt để cùng với thắng lợi của CNXH. CNXH có sức
mạnh xoá bỏ áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, bảo đảm quyền của các dân tộc tự do phát
triển. Vì vậy, sau khi giành được độc lập, dân tộc được giải phóng khỏi ách thống trị
36
ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, phải quá độ lên CNXH phù hợp với đặc điểm, tình
hình đất nước, tránh giáo điều rập khuôn, những hình thức, bước đi của những nước
khác.
- Sự nổi trội của tính dân tộc trong quan hệ giai cấp và dân tộc:
+ Đấu tranh giai cấp hoà quyện chặt chẽ với đấu tranh dân tộc trong suốt chiều
dài lịch sử Việt Nam; được biểu hiện là lịch sử đấu tranh cho sự tồn tại của dân tộc,
bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc.
+ Tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là nhân tố cơ bản trong bệ đỡ tư tưởng
của hệ thống chinh trị Việt Nam. Khi mất nước, người Việt Nam không bao giờ chấp
nhận sự đô hộ của ngoại bang, nhất tề đứng lên chống lại để giành độc lập. Tư tưởng
yêu nước, yêu dân tọc đã trở thành giá trị hàng đầu trong giá trị tư tưởng văn hoá Việt
Nam.
+ Ngày nay, giai cấp vô sản và hệ thống chính trị do Đảng cộng sản lãnh đạo chỉ
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi hệ thống đó là biểu tượng sinh động của khối
đại đoàn kết dân tộc. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển đất
nước, đây là sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đè dân tộc
trên lập trường của giai cấp công nhân.

37
Câu 11: Bản chất của nhà nước vô sản; những nguyên tắc cơ bản trong
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
a) Bản chất của nhà nước vô sản
- Nguồn gốc của nhà nước: Nhà nước là hiện tượng lịch sử gắn liền với xã hội
phân chia giai cấp. Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hoà được.
Nhà nước quyết không phải là một quyền lực từ bên ngoài ấn vào xã hội; và càng
không phải là “hiện thực của ý niệm đạo đức”, hay “hình ảnh và hiện thực của lí tính”,
như Hegel khẳng định. Đúng ra, nó là sản phẩm của một xã hội đã ở một giai đoạn
phát triển nhất định, nó là sự thú nhận rằng xã hội đó đã rơi vào một mâu thuẫn nội tại
không thể giải quyết được; và đã bị phân chia thành các mặt đối lập không thể dung
hòa với nhau, mà xã hội ấy cũng không trừ bỏ được. Nhưng để các mặt đối lập ấy, là
các giai cấp có xung đột về lợi ích kinh tế với nhau, không tiêu diệt lẫn nhau, và tiêu
diệt cả xã hội, trong một cuộc đấu tranh vô ích; thì phải có một lực lượng, tựa như
đứng trên xã hội, làm nhiệm vụ xoa dịu xung đột, và giữ xung đột đó trong vòng “trật
tự”. Và lực lượng đó, nảy sinh từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội, và ngày càng xa
rời xã hội, chính là Nhà nước. 
- Bản chất của nhà nước: Nhà nước về bản chất là quyền lực chính trị của giai cáp
thống trị về mặt kinh tế nhằm duy trì trật tự xã hội hiện hành, nhằm bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị, trấn áp sự phản kháng của các giai cáp và tầng lớp xã hội khác.
+ Nhà nước bản chất là quyền lực của một giai cấp - giai cấp thống trị về kinh tế;
+ Nhà nước không phải là quyển lực của mọi giai cấp mà là quyền lực của giai
cấp thống trị;
+ Nhà nước mang bản chất giai cấp sâu sắc, vì:
Bắt nguồn từ yếu tố khách quan - cơ sở kinh tế: Cơ sở kinh tế quy định giai cấp
nào là giai cấp cầm quyền; quy định chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
giai cấp cầm quyền; quy định thành phần tham gia bộ máy nhà nước.
Bắt nguồn từ yếu tố chủ quan: Đó là vấn đề giành, giữ, sử dụng chính quyền của
giai cấp thống trị; không tự nguyện chia sẻ các quyền cho giai cấp khác, đặc biệt là giai
cấp đối kháng, chỉ chia sử khi tương quan lực lượng cân bằng, nhưng đó chỉ là tạm thời;
một đảng khi đang đủ sức nắm quyền thường không thực hiện đa đảng.
“Nhà nước: trong tất cả những thời kì điển hình, đó vẫn là Nhà nước của giai cấp
thống trị, không có ngoại lệ nào cả; và ở mọi trường hợp, về cơ bản, nó vẫn là một bộ máy
được dùng để đàn áp giai cấp bị trị, bị bóc lột”
- Bản chất của nhà nước vô sản:
+ Là nhà nước của thời kỳ quá độ, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân, là nhà nước dân chủ nhân dân (mang tính triệt để nhất - xét trên khía cạnh lý
thuyết), tức chính quyền của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nên nó là
nhà nước đặc biệt, nhà nước nửa nhà nước;
“giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ
quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên
chính cách mạng cùa giai cấp vô sản”.
38
+ Là nền chuyên chính của giai cấp vô sản, giai cấp công nhân với hai nhiệm vụ:
Trấn áp và tổ chức xây dựng, nhưng tổ chức chức xây dựng là chính.
Các hình thức của NN vồ sản: Công xã Pari 1871, NN Xô Viết.
+ Nhà nước duy nhất có cơ sở khách quan cho sự thống nhất giữa tính giai cấp
và tính xã hội, tính nhân dân: có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về TLSX, có cơ sở xã
hội là giai cấp cầm quyền có sự thống nhất với đại đa số nhân dân trong xã hội;
b) Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam
- Xây dựng nhà nước dưới hình thức nhà nước pháp quyền:
+ Là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân;
+ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp;
+ Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo
đảm cho Hiến pháp, các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ
thuộc tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội;
+ Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao
trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng
cường kỷ cương, kỷ luật;
+ Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của MTTQVN và các
tổ chức thành viên của Mặt trân.
- Phát huy chức năng xã hội trên cơ sở đảm bảo sự thống nhất giữa tính giai cấp
và tính xã hội của nhà nước:
+ So với các nhà nước trước đó, trong nhà nước XHCN chức năng tổ chức xây
dựng là chủ yếu. Thực và thực chất của chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực
và cũng không phải chủ yếu là bạo lực, điều chủ yếu là “đưa ra được và thực hiện được
kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với CNTB. Đấy là thực chất của vấn đề. Đấy là
nguồn sức mạnh, là điều đảm bảo cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của CNCS”.
+ Xét về mặt bản chất, sứ mệnh của nhà nước XHCN là nhà nước có khả năng
thực hiện tốt nhất chức năng xã hội của mình. Trong quá trình thực hiện chức năng xã
hội vượt qua được những trở ngại mà bất kể một nhà nước bóc lột nào cũng không thể
vượt qua được, trở ngại về sự đối kháng về lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế giữa
giai cấp thống trị với quần chúng lao động
- Xây dựng nhà nước gắn liền với cuộc đấu tranh, ngăn ngừa và khắc phục bệnh
quan liêu:
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan liêu mệnh lệnh là “Không đi sâu đi sát
phong trào, không nắm được tình hình cụ thể của ngành hoặc của địa phương mình,
không gần gũi quần chúng và học hỏi kinh nghiệm của quần chúng. Thích ngồi bàn
giấy hơn là đi xuống cơ sở để hiểu đúng thực tế, kiểm tra việc thi hành chính sách, lắng
nghe ý kiến của nhân dân. Thích dùng mệnh lệnh hành chính hơn là kiên nhẫn giáo
dục quần chúng một cách có lý, có tình. Do đó mà đường lối, chính sách đúng đắn của
Đảng và của Chính phủ có khi không thấu đến quần chúng hoặc bị thi hành lệch lạc”
39
(HCM tt, T.11, tr24). Chủ nghĩa quan liêu là căn bệnh cố hữu trong hệ thống quản lý xã
hội, V.I.Lênin đã chỉ rõ: kẻ thù bên trong tệ hại nhất của chúng ta chính là bệnh quan
liêu.
Bệnh quan liêu về thực chất là: Người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình
thực hiện chức trách, nhiệm vụ xa rời thực tế, xa rời nhân dân, chỉ thiên về mệnh lệnh,
công văn giấy tờ; là chủ nghĩa hình thức, chú trọng hình thức hơn so với nội dung hoạt
động; lối làm việc bàn giấy, thái độ coi thường thực chất công việc; lạm dụng quyền
lực, coi thường lợi ích của tập thể, của nhân dân, cá nhân chủ nghĩa.
+ Nguyên nhân (theo Chủ tịch Hồ Chí Minh): Xa nhân dân; kinh nhân dân; sợ
nhân dân; không tin nhân dân; không hiểu nhân dân; không yêu thương nhân dân.
+ Để đoạn tuyệt quan liêu: “thi hành ngay những biện pháp khiến tất cả mọi
người đều làm chức năng kiểm sát và giám thị, khiến tất cả mọi người đều tạm thời biến
thành “quan liêu” và, do đó, khiến không một ai có thể biến thành “quan liêu” được”.
Một là: Chú trọng tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức và tâm lý xã hội
chống bệnh quan liêu không chỉ trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lí mà trong toàn
xã hội.
Hai là: Xây dựng cơ sở pháp lý chống quan liêu như: Hoàn thiện thể chế lãnh
đạo quản lý trong đó quy  định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí chức danh; quy
định sự tương ứng giữa chức vụ, thẩm quyền và trách nhiệm; có kế hoạch, chương trình
hoạt động cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trực tiếp xuống cơ sở tìm hiểu, nắm
vững tình hình thực tế cơ sở…
Ba là: Chú trọng sử dụng thông tin đại chúng, dư luận xã hội để khắc phục các
biểu hiện quan liêu; phát huy dân chủ thực sự trong cơ quan, đơn vị và trên địa bàn cơ
sở để tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân; xây dựng văn hóa lãnh đạo,
tăng cường thực hiện pháp chế và trật tự pháp luật cho mỗi cán bộ, công chức.
Bốn là: Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, những giải pháp cơ bản trên phải
được tiến hành đồng bộ, gắn liền với cải cách hành chính, nhất là cải cách cơ cấu tổ
chức bộ máy và quá trình chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ, công chức.
Ngoài ra, cần chú ý thực hiện các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý, như: Tăng cường rèn luyện nâng cao lập trường tư tưởng – chính trị; rèn luyện
phẩm chất tâm lý, đạo đức; chú trọng bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực tổ
chức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo
thông qua thực tiễn sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.

40
Câu 12: Quan điểm mác xít về bản chất của con người và ý nghĩa của
vấn đề này trong việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam
a) Quan điểm macxit về bản chất của con người
TH trước Mác chưa có sự phản ánh, làm rõ bản chất của con người, nhưng là tiền
đề quan trọng trong sự hình thành tư tưởng về con người của TH Mác.
- Trong CN Mac con người: Giữ vai trò trung tâm, là điểm xuất xuất phát và là
mục đích của CN mác: Mác xuất phát từ con người hiện thực: Từ nghiên cứu hoạt động
lao động sản xuất vật chất của con người Mac là đã phát hiện ra quy luật QHSX phù
hợp với LLSX, biểu hiện về mặt xã hội vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp dẫn đến
xoá bỏ chế độ TBCN, hình thành nê XH CSCN (con người được tự do).
- Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội:
+ Mặt sinh vật: Con người là bộ phận của giới tự nhiên, là sản phẩm phát triển
lâu dài của giới tự nhiên; con người là động vật cao cấp, chịu sự tác động quy luật sinh
học, tự nhiên giống loài vật khác (quy luật biến dị, di truyền...); con người có nhu cầu tự
nhiên giống loài vật (ăn, sinh tồn, sinh sản...).
+ Mặt xã hội: Con người chỉ tồn tại với tính cách là con người khi được sống
trong môi trường xã hội và chịu sự tác động các của mối quan hệ XH; con người chịu sự
tác động của các quy luật xã hội (LLSX - QHSX, Giai cấp và đấu tranh giai cấp...); bản
chất xã hội con người được hình thành và thể hiện tập trung nhất ở hoạt động sản xuất;
+ Sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và xã hội trong bản chất con người:
Mặt sinh vật là cơ sở, tiền đề cho mặt XH của con người: Xét về thời gian yếu tố
sinh vật có trước yếu tố xã hội; bộ não con người là cơ sở sinh học quan trọng để tạo
nên mặt xã hội cho con người (năng lực xã hội); phẩm chất cá nhân của con người phụ
thuộc vào mặt sinh học; biến đổi sinh vật tác động đến sự thay đổi của thay đổi mặt xã
hội của con người; mặt sinh vật thể hiện thông qua nhu cầu tự nhiên và thoả mãn ngày
càng tốt nhu cầu này là cơ sở, mục đích cho sự phát triển và hoàn thiện về mặt XH của
con người.
Vai trò của mặt xã hội đối với mặt sinh học: Là phương thức, điều kiện cho con
người thoả mãn nhu cầu sinh vật (con người muốn thoả mãn nhu cầu sinh vật phải dựa
vào lao động sản xuất; yếu tố sản xuất góp phần làm tăng hoặc giảm yếu tố sinh vật);
Sự thống nhất giữa mặt XH với mặt sinh vật: Mặt XH là cái quyết định quy định
bản chất con người (mặt XH phân biệt con người - con vật; bản thân cái SV trong con
người không thuần tuý SV nữa mà phụ thuộc vào mặt XH - yếu tố sinh học của con
người cũng mang tính xã hội).
Ý nghĩa phương pháp luận: Chống khuynh hướng tiêu cực, cực đoan: Tuyệt đối
hoá mặt SV, coi nhẹ mặt XH và ngược lại.
- Vấn đề bản chất con người: Bản chất con người không phải là cái trừu tượng
cỗ hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà những quan hệ xã hội.
+ Bản chất con người không phải là cái vốn có, mà nó có được và hình thành
trong môi trường xã hội.
41
+ Không phải là cái trừu tượng mà là cái hiện thực: Nền tảng sinh học vốn có;
trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.
- Mọi mối quan hệ Xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất con người,
trong đó QHSX giữ vai trò quyết định, vì là nền tảng quyết định các QH khác. Đồng
thời, các mối quan hệ xã hội bao gồm cả QHXH hiện tại và truyền thông.
b) Ý nghĩa của vấn đề
- Nhân tố con người: Là hệ thống các yếu tố, đặc trưng quy định vai trò của chủ
thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt
động với tổng hoà các đặc trưng vềphẩm chất, năng lực của con người trong một quá
trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định.
- Ý nghĩa của vấn đề: Để xây dựng con người mới trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghệ hoá, hiện đại hoá cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau:
+ Xây dựng QHXH, quan hệ giữa người và người tốt đẹp, bình đẳng, công bằng,
văn minh, kế thừa những tinh hoa truyền thống và văn hoá nhân loại.
+ Xây dựng QHSX phù hợp, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định
hướng XHCN.
+ Thúc đẩy kinh tế phát triển tạo nền tảng vật chất cho sự phát triển con người;
việc tham gia thể chế kinh tế thị trường góp phần phát triển, hoàn thiện con người.
+ Nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn nhân lực.. Do đó sự phát triển
nguồn lực con người và giáo dục được coi là yếu tố quan trọng to lớn đối với tiến bộ
kinh tế và tiến bộ xã hội. Sử dụng nhiều hình thức giáo dục, giáo dục toàn diện. Phương
châm: phát triển nhanh nguồn lực nhất là nguồn lực chất lượng cao, tập trung vào việc
đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn chặt chẽ phát triển nguồn
nhân lực với phát triển ứng dụng khoa học công nghệ.
+ Ổn định chính trị và mở rộng phát huy dân chủ, tiềm năng sáng tạo của mỗi
người: Ổn định chính trị (ổn định về hệ thống chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính
trị hoàn chỉnh) là tiền để phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội; phát huy dân chủ để phát
huy tính sáng tạo của con người.
+ Mở rộng giao lưu, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế;
+ Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy đảng
và nhà nước: Kiên quyết làm nghiêm từ trong đảng, từ trên xuống và phải xử lý kịp
thời, nghiêm minh, đúng pháp luật các vụ việc, nhất là vụ việc nghiệm trọng; xoá bỏ
cách tổ chức bộ máy khiến cho cán bộ, đảng viên trở thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi,
tách rời quần chúng; đẩy mạnh giáo dục và tự giáo dục đạo đức cách mạng trong cán
bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý; phát huy sức mạnh tổng hợp của
quần chúng và cơ quan thông tin trong giám sát và đấu tranh chống tham nhũng

42
Câu 13: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong việc phát
triển lý luận ở việt nam

I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN

1. Định nghĩa: Thực tiễn là những hoạt động vật chất cảm tính, có tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
2. Đặc trưng của thực tiễn

Thứ nhất, thực tiễn là những hoạt động vật chất cảm tính,
 Đó là những hoạt động mà con người sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật
chất tác động vào các đối tượng vật chất nhằm biến đổi chúng.
 Thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người
Thứ hai, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội
 Thực tiễn chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia của con người xã hội
 Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, thực tiễn bị chế ước bởi những điều kiện kinh
tế - xã hội cụ thể.
 Có kế thừa những kinh nghiệm lịch sử của các thế hệ trước và có trải qua các giai
đoạn lịch sử phát triển cụ thể.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích
 Thực tiễn là hoạt động tự giác của con người nhằm thực hiện những mục đích
nhất định.
3. Các hình thức của hoạt động thực tiễn

Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức, ở những lĩnh vực khác nhau:
 Hoạt động sản xuất vật chất (*)
 Hoạt động cải tạo chính trị - xã hội
 Hoạt động thực nghiệm khoa học.

II. PHẠM TRÙ LÝ LUẬN


1. Lý luận - sự phát triển cao của nhận thức con người
 Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con
người (*).

43
 Tri thức có nhiều lĩnh vực, cấp độ khác nhau: tri thức tự nhiên – xã hội; tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận.
2. Định nghĩa lý luận
 Lý luận khoa học là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực
tiễn, phản ánh đúng những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của
các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù
 Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử"
III. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Lý luận khoa học được hình thành trên cơ sở thực tiễn


 Thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận
 Mọi tri thức lý luận của con người, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Thông qua thực tiễn con người tác động vào sự vật, hiện tượng làm chúng bộc lộ
thuộc tính, tính chất.
 Thực tiễn là động lực để con người tìm hiểu, khám phá, nhận thức thế giới xung
quanh
 Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận
thức, vì thế nó luôn thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học mới. VD, máy
gặt lúa, công nghệ Nano…
 Thực tiễn là cơ sở để con người phát triển năng lực, trí tuệ của mình. Chính việc
người ta biến đổi tự nhiên là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con
người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải
biến tự nhiên. VD, than đá và các thuộc tính của nó, thuộc tính của kim cương…
 Thực tiễn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người, làm cho chúng phát
triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn. Các giác quan tinh, nhanh hơn… VD, khả năng
người mùi nước hoa, ngửi hóa chất…
 Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ
trợ con người trong quá trình nhận thức.
 Kính thiên văn lớn nhất thế giới Alma
 Alma, tên của kính thiên văn lớn nhất và phức tạp nhất mà con người từng chế
tạo (Chile).
44
 Với sự hỗ trợ của Alma, cứ ba phút giới thiên văn sẽ phát hiện một thiên hà mới.
 Alma là nó có khả năng thu thập những dạng ánh sáng mà mắt người không thể
thấy.
 Alma hiện có 66 ăng-ten
 Thực tiễn là mục đích của lý luận
 Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo
thực tiễn có hiệu quả hơn.
 Nhận thức mà không nhằm mục đích phục vụ thực tiễn thì sẽ mất phương hướng,
bế tắc. Mọi tri thức khoa học, mọi lý luận chỉ có ý nghĩa khi chúng được áp dụng
vào đời sống, vào thực tiễn và cải tạo thực tiễn.
 Thực tiễn là tiêu chuẩn để đánh giá sự đúng, sai của lý luận
 Những tri thức, lý luận chỉ được coi là đúng đắn (chân lý) nếu nó phản ánh đúng
hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm.
 Có nhiều cách thức để kiểm tra tính đúng – sai của lý luận: bằng thực nghiệm,
tính hiệu quả…
 Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối vừa có tình tương đối
 Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối và tương đối
 Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để
khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm.
 Tính tương đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển.
2. Lý luận soi đường, chỉ đạo thực tiễn
 Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Ví dụ: lý luận cách
mạng vô sản; chủ trương đổi mới của Đảng ta…
 Lý luận vạch ra phương hướng và phương pháp cho hoạt động thực tiễn, nhằm
biến đổi hiện thực khách vì lợi ích con người . Ví dụ phương pháp trồng cây, chăn
nuôi…
 Lý luận có thể dự báo được xu hướng vận động, biến đổi, phát triển của sự vật,
hiện tượng cũng như của thực tiễn. Nó giúp con người chủ động, tự giác hơn
trong hoạt động thực tiễn, tránh bớt được mò mẫm, tự phát.

45
 Lý luận có vai trò to lớn trong việc giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ chức, tập
hợp quần chúng cũng như định hướng họ trong cuộc sống và trong hoạt động
cách mạng. Khi lý luận thâm nhập vào quần chúng nó trở thành sức mạnh vật
chất to lớn.
 Học lý luận cũng nhằm để củng cố lập trường, bản lĩnh chính trị, cải tạo tư
tưởng cho mỗi cán bộ, đảng viên qua đó chỉnh Đảng, củng cố Đảng để nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
 Khi trình độ lý luận chính trị yếu kém thì nhận thức chính trị không sâu sắc, bản
lĩnh chính trị không vững vàng, dẫn đến dao động về lập trường tư tưởng, dễ
đánh mất phương hướng và niềm tin vào lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa xã hội.
 Hồ Chí Minh: sự yếu kém về lý luận có thể dẫn dến “tả khuynh” hoặc “hữu
khuynh”, bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hoá,... dễ gây ra hậu quả
nghiêm trọng, làm cho cách mạng bị tổn thất nặng nề.
 Hồ Chí Minh đã nhắc lại những sai lầm trong chính sách ruộng đất, mặt trận, dân
tộc thiểu số, tôn giáo chính quyền,... trước đó, do sự yếu kém về trình độ lý luận
của cán bộ gây ra. Trong “Thư gửi Bộ phương Đông”(ngày 16/1/1935) Người
cũng đã nói về hậu quả của tình trạng thiếu kiến thức về lý luận của cán bộ làm
cho phong trào cách mạng không phát triển được.
IV. BỆNH KINH NGHIỆM, BỆNH GIÁO ĐIỀU: BIỂU HIỆN, NGUYÊN NHÂN VÀ HƯỚNG
KHẮC PHỤC

1. Bệnh kinh nghiệm


 Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hoá kinh
nghiệm cá biệt, cụ thể; biến chúng thành những kinh nghiệm phổ biến áp dụng
cho mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh; hạ thấp, coi thường lý luận.
 Biểu hiện của bệnh kinh nghiệm
Người mắc bệnh kinh nghiệm dễ rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy áng chừng,
đại khái. Trong hoạt động thực tiễn thì mò mẫm, tùy tiện, sự vụ, gặp đâu hay đó,
thiếu nhìn xa trông rộng v.v...
 Nguyên nhân bệnh kinh nghiệm
Ảnh hưởng tiêu cực của xã hội nông nghiệp cổ truyền, theo mùa, theo chu kỳ
Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản, chiến tranh kéo dài.
46
Vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, không nắm được thực
chất mối quan hệ biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận.
 Cách khắc phục bệnh kinh nghiệm
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quán triệt tốt trên thực tế sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, coi trọng cả lý
luận và thực tiễn.
Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.
Nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Từng bước khắc phục triệt để tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản.
2. Bệnh giáo điều
Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hoá lý luận, coi
thường, hạ thấp thực tiễn, hoặc áp dụng lý luận và kinh nghiệm không tính tới
điều kiện lịch sử - cụ thể.
 Các loại giáo điều ở nước ta
Giáo điều lý luận biểu hiện ở việc học tập lý luận tách rời với thực tiễn, xa rời
cuộc sống, rơi vào chính sách vở, câu chữ, tầm chương trích cú...
Giáo điều kinh nghiệm biểu hiện ở việc áp dụng dập khuôn, máy móc kinh
nghiệm của nước khác vào nước mình, của ngành khác vào ngành mình, của địa
phương khác vào địa phương mình v.v... không dính đến những điều kiện lịch sử -
cụ thể.
 Nguyên nhân của giáo điều
Sự yếu kém về trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tác động tiêu cực bởi tư tưởng sản xuất nhỏ.
Tư tưởng bao cấp
Vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn...
 Cách khắc phục bệnh giáo điều
Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Tăng cường TKTT
V. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
47
Về đặc trưng của CNXH

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hoá tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hưũa nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.(tr.70)
 Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
 Về 8 mối quan hệ lớn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
 Phát triển lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ TBCN
 Về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

48

You might also like