Professional Documents
Culture Documents
Dai Nam Liet Truyen Tap04
Dai Nam Liet Truyen Tap04
QUYỂ N 26
TRUYỆ N CÁ C QUAN - MỤ C XVI
Đà o Trí
Cao Hữ u Bằ ng
Nguyễn Đứ c Hoạ t
Vũ Phan
Tô Trâ n
Ngụ y Khắ c Đả n
Hoà ng Tế Mỹ
Tướ ng Hiệp
Đặ ng Khả i
Vũ Đứ c Mẫ n
Chu
Ngô Bỉnh Đứ c
Lê Danh Đề
QUYỂ N 27
Lâ m Duy Thiếp
Hoà ng Thụ
Nguyễn Bá i
Nguyễn Hoà ng
Lê Đình Lý
Nguyễn Bá Nghi
Nguyễn Trọ ng
Hồ Viêm
Nguyễn Thế Trị
Nguyễn Đứ c Hoan
QUYỂ N 28
Thâ n Vă n Quyền
Vă n Duy
Vă n Nhiếp
Nhã Bá Sĩ
Nguyễn Thu
Giả n
Nhâ n
Vĩ
Phan Tĩ
Nguyễn Hiên
QUYỂ N 29
Hồ Uy
Nguyễn Chí
Vũ Lã
Lê Chỉ Tín
Nguyễn Hữ u Thá i
Đà o Đình Bả o
Lê Sâ m
Đà o Danh Vă n
Trầ n Tú Dĩnh
Nguyễn Cô
Ngô Vă n Địch
Bù i Quỹ
Phạ m Khô i
Trương Quố c Dụ ng
Nguyễn Đă ng Huâ n
Tạ Hữ u Khuê
Doã n Uẩ n
Hà Ngọ c Hả i
QUYỂ N 30
Nguyễn Cư
Nguyễn Trọ ng Hợ p
QUYỂ N 31
Phạ m Sĩ Á i
Đỗ Quang
Nguyễn Vă n Lý
Nguyễn Thườ ng
Vũ Phạ m Khả i
Đặ ng Quố c Lang
Nguyễn Đứ c Chính
Bù i Duy Kỳ
Nguyễn H
Hồ Mậ u Đứ c
Nguyễn Hà m Ninh
Phạ m Phi
Vũ Trọ ng Bình
QUYỂ N 32
Bù i Á i
Lưu Quỹ
Vũ Vă n Bả n
Nguyễn Đứ c Huy
Lê Lượ ng Bạ t
Trầ n
Lưu Lượ ng
Nguyễn Hữ u Hò a
QUYỂ N 33
Nguyễn Cử u Trườ ng
Lê Duy Trung
Phạ m Vă n Nghị
Doã n Khuê
Nguyễn Vă n Siêu
Nguyễn Dụ c
Lê Duy Di
Hoà ng Chính
Nguyễn Đă ng Tuyển
Lê Dụ
Lê Đình Đứ c
Phan Vă n Thuậ t
Lê Hữ u Thườ ng
Bù i Tuấ n
Đỗ Huy Uyển
Vũ Nguyên Doanh
Lê Quang Bỉnh
QUYỂ N 34
Nguyễn Danh Vọ ng
Đỗ Đă ng Đ
Nguyễn Bỉnh
Bù i Huy Phan
Ngô Phù ng
Nguyễn Oai
Vũ Vă n Tuấ n
Đỗ Phá t
Phạ m Hữ u Thướ c
QUYỂ N 35
Lê Sỹ
Trầ n Đình Tú c
Nguyễn Tấ n
Nguyễn Vă n Phong
Nguyễn Vă n Vỹ
Nguyễn Tư Giả n
Vă n Đứ c Khuê
Phạ m Ý
Phan Trung
QUYỂ N 36
Dương Doã n Hà i
Hồ Sỹ Tuầ n
Phạ m Tiến Chẩ n
Trịnh Lý Hanh
Nguyễn Vă n Hiển
Trầ n Nhượ ng
Phan Hữ u Tự
Nguyễn Tạ o
Ô ng Ích Khiêm
Nguyễn Tă ng Doã n
Phạ m Huy
Hồ Trọ ng
Nguyễn Vă n Lợ i
QUYỂ N 37
TRUYỆ N CÁ C QUAN - MỤ C XXVII
Đặ ng Trầ n Chuyên
Nguyễn Mạ i
Đỗ Thú c Tĩnh
Phan Sỹ Thụ c
Đặ ng Toá n
Lê Đình Diên
Đặ ng Đứ c Địch
Lê Bá Thậ n
Nguyễn Huyên
Bù i Sỹ Tuyển
Nguyễn Thô ng
Trương Gia Hộ i
Trầ n Vă n Tuy
Vũ Duy Thanh
Vũ Huy Dự c
Nguyễn Thá i
Trầ n Hữ u Dỵ
Phạ m Huy
Trầ n Vă n Hệ
Hoà ng Vă n Tuyển
Lê Đình Dao
QUYỂ N
Hoà ng Diệu
Nguyễn Vă n Quá n
Phạ m Trinh
Phan Sỹ
Nguyễn Vă n Hù ng
Nguyễn Đứ c Đạ t
Lê Tuấ n
Nguyễn Vă n Giao
Vũ Khắ c Bô n
Nguyễn Hanh
Lê
Ngô Vă n Độ
Phạ m Hữ u Chiểu
Lê Khắ c Nghị
Trầ n Vă n Chuẩ n
Đặ ng Vă n Kiều
Hoà ng Hữ u Tà i
Phạ m Hy Lượ ng
Trương Định
Đồ ng Vă n Quỳ
QUYỂ N 39
Lê L
Vũ Tú c
Phan Vă n Dư
Nguyễn Vă n Liêm
Trầ n Hy Tă ng
Hà Vă n Quan
Thà nh Ngọ c Uẩ n
Nguyễn Cơ
Vũ Như
Lâ m Hoà nh
Nguyễn Vă n Á i
Nguyễn Hữ u Độ
Ngô Quý Đồ ng
Nguyễn Đình Tự u
Nguyễn Tiếp Phương
Lê Vă n Điếm
Trịnh Vă n Lâ m
Nguyễn Đă ng Ngoạ n
Nguyễn Xuâ n Ô n
Hoà ng Hữ u Thườ ng
Hồ Bá Ô n
Nguyễn Tà i Tuyển
Hoà ng Vă n Hoè
QUYỂ N 40
Phạ m Trọ ng Tụ y
Nguyễn Thế Cá
Ngô Vă n Thà nh
Nguyễn Vă n Thậ n
Lê Vă n Nghĩa
Lê Vă n Thườ ng
Trương Vă n Phượ ng
Tă ng Thá p
Nguyễn Đứ c Chung
Lê Vă n Cư
Tố ng Thú c Minh
Lê Huệ
Bù i Đình Dự
Vũ Viết Tuấ n
Nguyễn Đình Lộ c
Phạ m Vă n Phạ t
Bù i Tă ng Huy
Nguyễn Doã n
Nguyễn Duy Tâ m
Trầ n Vă n Quả n
Lê Quang Tiến
Nguyễn Điền
Nguyễn Đạ c
Ngô Đứ c Tu
Phan Bâ n
Hồ Thiện
Lê Nhữ Cườ ng
Nguyễn Hữ u Trì
Nguyễn Dĩnh
Trầ n Tuy
Phạ m Đứ c Hinh
Nguyễn Đă ng Sỹ
Trầ n Đứ c Trá ng
Nguyễn Khoa Dự c
Dương Vă n Phong
Nguyễn Vă n Điểm
QUYỂ N 41
Bù i Quang Chu
Trầ n Quang Hà
Phạ m Châ n
Vũ Tả o
Lê Tuấ n
Nguyễn Vă n Thuậ n
Hoà ng Tạ o
Trầ n Vă n Mỹ
Lê Huy Trạ c
Trầ n Hò a
Bù i Thắ ng
Vũ Hổ
Đặ ng Hữ u Khuê
Trầ n Vă n Uy
Đặ ng Đình Khả i
Nguyễn Huy Tâ n
Hoà ng Vă n Giả ng
Ngô Xuâ n M
Nguyễn Di
Lê Đình Thứ c
Phạ m Vă n Đạ t
Mai Thạ c
Đặ ng Vă n Tạ i
Nguyễn Hữ u Huâ n
Nguyễn Hữ u Điển
Nguyễn Trung
Hoà ng Vă n Trữ
Nguyễn Tích
Nguyễn Cao
HẠ NH NGHĨA
Nguyễn Du
Phạ m Hộ i
Trầ n Doã n Đứ c
Lê Huy Bích
Lê Quý Kiểm
Nguyễn Đạ o
Đỗ Xuâ n Cá t
Dương Quang
Vũ Quang
Nguyễn Huy Đứ c
Nguyễn Mậ u Kiến
Trịnh Vă n Diệm
Lê Mậ u Chu
Phạ m Vă n Thu
Tô Thế Mỹ
Hoà ng Việt Tể
Phạ m Hữ u Chí
Nguyễn Vă n Khoa
QUYỂ N 43
Ẩ N DẬ T
Đỗ Trọ ng Ngoạ n
Bù i Trú
Lê Bậ c Triệu
Lê Khắ c Ph
Lê Mẫ n Đứ c
Tô n Đứ c Tiến
CAO TĂ NG
Vũ Đứ c Nghiêm
QUYỂ N 44
LIỆ T NỮ
Bù i Thị Tâ m
Vũ Thị Lự u
Vi Thị
Nguyễn Thị Tư
Lê Thị Nhuậ n
Trương Thị Cậ n
Lê Thị Tể
Đoà n Thị Lự u
Đoà n Thị Ch
Đỗ tiết phụ
Thị Hiển
Lê Thị Nhâ m
QUYỂ N 45
TRUYỆ N CÁ C NGHỊCH THẦ N - MỤ C I
Lê Vă n Khô i
QUYỂ N 46
Nô ng Vă n Vâ n
Cao Bá Quá t
height="4">
QUYỂ N 26
</p>
Nguyễn Quố c Ho
n>Ngườ i huyện Bình Chính, Quả ng Bình.
Nă m thứ 9, thă ng Tri phủ phủ Nghĩa Hưng, phẩ m đầ y niên hạ n, thă ng Họ c
chính Quố c tử giá m; rồ i vì có tang mẹ nghị chứ c.
Nă m thứ 15, có chiếu bổ dụ ng, nhắ c lên Giá m sá t Ngự sử đạ o Định An.
Thiệu Trị nă m thứ 2, quyền giữ ấ n quan phò ng, Tổ ng đố c Định An. Nă m ấ y,
ngự giá đi tuầ n ra Bắ c, Quố c Hoan vì việc sung biện việc đó n tiếp ở đình bã i sô ng,
khô ng hợ p phép, bị giá ng hà m thấ t phẩ m, trích đi là m việc cô ng ở Tâ n Gia Ba.
Nă m thứ 3, đượ c khở i phụ c Viên ngoạ i lang, khô ng bao lâ u bổ thụ á n sá t
Vĩnh Long, trả i là m Bố chính Định Tườ ng.
Nă m thứ 6, Hoan về kinh, chú c tuổ i vua, thă ng Hữ u thị lang bộ Hình, rồ i đổ i
sang Bộ Binh.
Nă m thứ 9, Hoan bị bệnh chết. Quan tỉnh ấ y cho là Quố c Hoan tạ i chứ c nghèo
tú ng, về cô ng việc sau khi chết khô ng lấ y gì mà chi biện đượ c. Xin phá t tiền kho ra
sắ m mua lụ a mà u, á o quan để dù ng, chi cá c khoả n sau khi chết đi cho Hoan. Vua y
cho lạ i bả o rằ ng : Bắ c Ninh là nơi địa phương lớ n, cô ng việc bậ n rộ n, Quố c Hoan vỗ
tự có phương phá p, dâ n trong hạ t tin yêu, chuẩ n cho truy thụ hà m Tổ ng đố c Ninh
Thá i, chiếu hà m mớ i, cấp tiền tuấ t, và sai quan có trá ch nhiệm đến tế ở nhà .
Quố c Hoan là ngườ i nghiêm nghị, khi trị mộ t địa phương, ră n cấ m cẩ n thậ n
ngườ i nhà khô ng cho phép chú ng đưa đó n lễ lạ t, có tiếng liêm khiết. Khoả ng nă m
Tự Đứ c, đượ c thưở ng 1 chiếc kim khá nh có chữ thanh liêm cầ n cá n; lạ i nhậ n chứ c
vụ ở bên ngoà i lâ u ngà y, ơn huệ để lạ i dâ n cả , ca tụ ng ví như câ y cam đườ ng củ a
ô ng Thiệu Bá (1) ơn mưa dầ m củ a ô ng Tuầ n bá (2) đờ i xưa. Tính Hoan rấ t thích
vă n chương, sá ch vở , mỗ i khi ở quan thườ ng lấ y thế là m vui. Sau khi chết đi Hoan
chỉ để lạ i có sá ch vở đầ y nhà mà thô i.
Con là Quố c Quyển, Quố c Thà nh, đỗ cử nhâ n đồ ng khoa về â n khoa Bính ngọ ,
nă m Thiệu Trị thứ 6. Quố c Thà nh sau đỗ tiến sĩ, quan đến Tri phủ Ứ ng Hò a. Quố c
Uyển theo chí củ a cha ở nhà phụ ng dưỡ ng ô ng nộ i, mã i khô ng ra là m quan; về sau
đượ c bổ Giá o chứ c huyện Nam Châ n, chết ở nơi tạ i chứ c.
Đà o Trí
Nă m thứ 9, thá ng 8, binh thuyền Đạ i Phá p sinh sự ở Đà Nẵ ng, vua sai Trí kịp
đi hiệp cù ng vớ i Tổ ng đố c Quả ng Nam là Trầ n Tri để tù y cơ đá nh dẹp. Bấy giờ phá i
viên củ a Đạ i Phá p đến biển tự xưng là chứ c quan nhấ t phẩ m, cầ n đến kinh cù ng đạ i
viên nhấ t phẩ m hộ i định hò a ướ c. Trí dâ ng sớ x chọ n ngườ i là m phá i viên, vua dụ
rằ ng : Ngươi phả i hết lò ng trù liệu, bấ t tấ t phả i cử ngườ i khá c. Đến lú c về đổ i cai
quả n cá c vệ ở Viện Thượ ng tứ vệ tuyển phong. Phà m có việc lớ n đều đượ c dự đình
nghị. Khô ng bao lâ u, quâ n củ a Đạ i Phá p lạ i chở đến Đà Nẵ ng, bắ n phá đà i, bả o. Vua
cho Trí quyền lĩnh Tổ ng đố c Nam Ngã i trù liệu cô ng việc đá nh giặ c. Trậ n đá nh ở
sô ng Hà n, Trí cù ng tá n tương Nguyễn Duy đặ t quâ n phụ c, đá nh lui đượ c giặ c.
Nă m thứ 13 , Trí trình bà y việc binh. Vua cho Trí là quan võ mà hưở ng ứ ng
lờ i chiếu và bà n nó i hết lờ i, thưở ng cho Kim tiền "Long vâ n khế hộ i" hạ ng lớ n và
hạ ng bé đều 1 đồ ng.
Nă m thứ 15, sung chứ c Kinh lý đạ i thầ n, đố c biện việc lương quâ n, khí giớ i
phò ng bị từ Quả ng Nam đến Bình Thuậ n; rồ i bổ thụ Thố ng chế tham tá n quâ n thứ
Hả i Yên, đá nh lấy lạ i đượ c thà nh phủ Bình Giang. Lạ i tiến quâ n giả i vây ở Hả i
Dương, đượ c nhắ c lên hà m Đô thố ng lĩnh Tổ ng đố c Định Yên. Trí dâ ng sớ nó i rằ ng :
Lệ thi hương thườ ng dù ng các viên phủ , huyện sung là m sơ Phướ c khả o, khi phá i
ngườ i đi sung chứ c ấ y, và phá i ngườ i đến quyền nhiếp, dâ n trong hạ t khô ng phả i
phiền vì việc đó n tiễn. Xin đem viên giá o thụ sung và o Phướ c khả o; viên huấ n đạ o
và cử nhâ n sung và o sơ khả o. Vua khen là phả i. Gặ p khi Nam Định giá gạ o đắ t
lương ă n củ a dâ n khó khă n. Trí cù ng bố chính là Nguyễn Huy Kỷ, á n sá t là Lê Tuấ n
quyên tiền giú p việc chẩ n cấ p đượ c 1.400 lạ ng bạ c, 90.500 quan tiền, và 2.200 hộ c
thó c; dự ng đặ t kho xã thương đượ c 94.100 hộ c thó c, và 1800 quan tiền. Lạ i sứ c
dâ n đắ p đê, khẩ n ruộ ng đượ c hơn 17.000 mẫ u, dâ n có lợ i lắ m.
Nă m thứ 19, kỳ đạ i kế, vua cho Trí nhiều lầ n lậ p đượ c chiến cô ng, trị an mộ t
địa phương lớ n, cho thă ng thụ Tả quâ n Đô thố ng phủ chưở ng phủ sự . Vẫ n lĩnh
chứ c như cũ . Vua lạ i cho Hà Nộ i là mộ t địa phương quan trọ ng mà Trí là trọ ng thầ n,
oai vọ ng lừ ng lẫ y, nên đổ i cho Trí đi Hà Ninh, kiêm sung Thố ng đố c việc hả i phò ng
củ a 3 tỉnh Nam Định, Hả i Dương, Quả ng Yên; giao cho Trí giữ việc huấ n luyện biền
binh, sử a sang đồ n lũ y. Sau Trí tâ u xin : Ở Nam Định, Hả i Dương, Ninh Bình, đều
đặ t đồ n lũ y họ p dâ n phu, mộ chiến sĩ, để phò ng khi bấ t ngờ .
Nă m ấ y, tuổ i Trí đến lệ 70, dâ ng sớ cá o lui. Vui cho là tuy già nhưng là m đượ c
việc, nên lưu lạ i. Lạ i thấ y Trí khi ở Nam Định, vì dâ n chấ n hưng việc lợ i vẫ n có tiếng
tố t, khen thưở ng cho Trí 1 cá i kim bà i có chữ "vị đứ c, vị dâ n" có dâ y thao đeo rũ
xuố ng và gia 1 cấ p trá c dị nữ a. Vua sai sử quá n soạ n bà i vă n bia giao tỉnh Nam Định
khắ c và o bia dự ng lên. Trí dâ ng sớ xin từ chố i, rồ i việc ấ y cũ ng ngừ ng lạ i. Bấ y giờ ,
quâ n thứ miền bắ c có loạ n Ngô Cô n, mà việc phò ng thủ đá nh dẹp bọ n giặ c ở đồ n
tâ y lạ i là việc cầ n yếu củ a Bắ c kỳ; nên đổ i bổ Sơn bắ c quâ n thứ Thố ng đố c tiễn bộ
quâ n vụ đạ i thầ n.
Trí tính nhanh nhẹn, thẳ ng thắ n, thích vă n chương. Tuy xuấ t thâ n về hà ng
ngũ ; nhưng thườ ng đó n thấ y dạ y họ c. Trí thích đọ c Vũ kinh, họ c qua kinh sử .
Phương đình Nguyễn Vă n Siêu thườ ng khen là Trí tuy bề ngoà i thì võ , mà bề trong
thì vă n. Trí ở ngoà i Bắ c gầ n 18 nă m, khi đố c suấ t việc tỉnh, thì chính sự đượ c chỉnh
đố n, khi thố ng quả n việc quâ n thì thao lượ c thô ng thạ o. Võ thầ n như thế, thự c là ít
có . Trí nă m 80 tuổ i thì chết.
Cao Hữ u Bằ ng
eight="0">
Nă m thứ 7, Thượ ng bả o thiếu khanh, quả n lý phò ng vă n thư là Phan Đình Sĩ
dâ ng sớ xin chọ n ngườ i sung là m Hà nh tẩ u phò ng ấ y. Bấy giờ hộ i cử đượ c 10
ngườ i, Bằ ng đượ c dự tuyển; do là m Hà n lâ m viện điển bạ , nhiều lầ n thă ng đến
Lang trung Bộ Hộ .
Nă m thứ 15, thă ng thự Bố chính, Hộ lý ấ n quan phò ng tuầ n phủ . Bấy giờ , có
tướ ng giặ c là Phan, lẩ n trố n ở miền rừ ng nú i Hồ ng Sơn, Hữ u Bằ ng thâ n đố c quâ n
dâ n chặ n đá nh bắ t số ng đượ c hơn 20 tên vừ a đầ u mụ c giặ c và bọ n lũ giặ c; lạ i có
hơn 30 tên đến thú nữ a. Vua xuố ng dụ khen thưở ng cho thự c thụ Bố chính, vẫ n giữ
chứ c Hộ lý.
Nă m thứ 18, sung là m khâ m mạ ng tuyển trườ ng ở Nam Định. Trướ c đây,
quan lạ i ở Trấ n Tâ y đã có đặ t chứ c hiệp, nhưng chưa chọ n cử đượ c ngườ i sung
chứ c ấ y. Đến bây giờ , vua bả o là Hữ u Bằ ng có thể đương nổ i chứ c ấy. Bèn đổ i Bằ ng
là m Thị lang Bộ Binh, hiệp tá n cô ng việc thà nh Trấ n Tâ y, và chế cấ p cho ấ n quan
phò ng, phà m có việc khẩ n cấ p, cho phép đượ c là m tậ p tâ u riêng. Khi ấ y là nă m
Minh Mạ ng thứ 19. Hữ u Bằ ng khi mớ i đến trấ n ấ y, dâ ng sớ dá n kín nó i : Trấ n Tâ y
chưa thể nghỉ đượ c, việc binh, cá c phiên thuộ c nay đã hà nh bộ hiện tên trong sổ ,
nên bắ t phong biên sứ phả i tự về thú . Lạ i xin tha cá c tù phạ m giam cầ m ở thà nh ra,
ghép và o là m binh đồ n điền. Sớ dâ ng lên, vua chuẩ n cho trích đem tù đồ tha ra
ghép sung và o đồ n điền. Cò n như ngườ i Man, Thổ , thì bắ t giữ việc ngoà i biên,
khô ng chuẩ n cho đi là m đồ n điền.
Dâ n phiêu lưu ở 6 tỉnh, phầ n nhiều ẩ n ngầ m ở trong thà nh, tù y ở chỗ nà o,
là m ă n ở đấ y, xin dở tạ i chiêu dụ lậ p thà nh là ng, ấ p. Lạ i ngườ i nướ c Thanh đến ngụ
phầ n nhiều bị ngườ i Phiên nhũ ng nhiễu; cũ ng xin nhâ n thế mà phủ dụ dồ n thà nh
họ trong hà ng bang. Đợ i khi việc là m ă n và cư trú yên ổ n, tớ i họ p đô ng đú c, sẽ bà n
việc đá nh thuế.
Nă m thứ 21, Hữ u Bằ ng lạ i về khi trướ c ở Hà Tĩnh thu riêng tiền thuế lá trầ u
ở các quan ả i bến đò , bèn dâ ng sớ tự trình bày tộ i mình. Vua khoan tha cho, lạ i bắ t
phả i nộ p nguyên số sung và o nhà nướ c.
Nă m ấ y, Bằ ng nghe tin thâ n phụ bị ố m, dâ ng sớ xin về quê thă m nom; sau vì
việc bậ n, vua khô ng chuẩ n y. Vua đặ c â n phá i ngự y và ban cho sâ m quế, thuố c
thang về tậ n quê chữ a trị cho. Đó là đặ c cá ch vậ y. Thá ng 8, Bằ ng có tang cha. Vua
cho là Hữ u Bằ ng ở Trấ n Tâ y lâ u nă m, tình hình vố n đã thuộ c hết, hã y tạ m lưu lạ i
là m hiệp trấ n ở đấ y, đợ i việc bắ t giặ c xong xuô i, sẽ chiếu lệ cho về quê, cũ ng chưa
muộ n gì. Thá ng ấ y, thổ biền phủ Hả i Tâ y là Sa Mộ c xua bọ n dâ n mớ i lậ p là m phả n,
bỏ đi phụ giữ tậ n Xà Nă ng. Bồ n Suấ t cũ ng đố c suấ t lính thổ trố n đi. Bọ n giặ c nổ i lên
tứ phía. Đình thầ n cho là Hữ u Bằ ng khô ng biết phò ng giữ , nghĩ xử tộ i đồ . Vua đặ c
â n xuố ng dụ giá ng là m viên ngoạ i lang Bộ Binh, vẫ n sung chứ c Hiệp tá n. Đến thá ng
10, vua thấ y Bằ ng đố c suấ t biền binh đá nh dẹp có thự c trạ ng và phủ dụ giặ c ấ y,
thưở ng cho kỷ lụ c (giố ng như quâ n cô ng) 1 thứ . Lạ i cù ng vớ i ban biện là Doã n Uẩ n
tâ u nó i : Tướ ng giặ c ở Quế Lâ m là Nguyên Na Tiên họ p bọ n đến quấ y hạ t phủ Sơn
Tĩnh. Quan quâ n tiến đá nh thì giặ c lui ẩ n ở trong rừ ng, đuổ i theo thì khô ng thấ y
dấ u vết. Lạ i xứ La Kết giá p gầ n thà nh lị; giặ c thườ ng nhâ n cớ ban đêm lẻn đến đuổ i
dâ n cướ p củ a. Cá c thổ mụ c, thổ dâ n nguyên ở nơi ấ y thầ n đã sai phá hết nhà cử a, di
cư di chỗ khá c, chớ để cho bọ n giặ c ra và o tụ tậ p ở đấ y. Vua y theo, cho phép phả i
xem cơ hộ i mà là m cho thỏ a hợ p. Đến khi Trấ n Tâ y khô ng giữ đượ c, nă m Thiệu Trị
thứ nhấ t, cho là Bằ ng xử trí trá i phép, chuẩ n cho lấ y hà m bị giá ng, quyền lĩnh Bố
chính An Giang. Rồ i sau Bộ Hình đem việc Trấ n Tâ y phâ n biệt xử tộ i. Vâ ng lờ i dụ
rằ ng : Hữ u Bằ ng là quan to ở địa phương chỉ mộ t mự c dự a dẫ m, khô ng thi thố
đượ c chú t nà o. Trướ c đâ y đã giá ng là m hà m Viên ngoạ i, quyền lĩnh Phiên ti An
Giang. Nay chuẩ n giá ng là m Tư vụ ; lạ i cá ch chứ c cho lưu lạ i, vẫ n quyền lĩnh Á n sá t
An Giang.
Bấ y giờ , thổ dâ n ở Lạ p, Miên đến 5.000 ngườ i, đem nhiều xe trâ u đến buô n
bá n ở Tâ y Ninh. Hữ u Bằ ng đem việc ấ y tâ u lên. Vua bả o rằ ng : Việc phủ dụ đã tiện
có cớ đấy. Lạ i xin gọ i lậ p ấ p cấ p cho ngưu canh, điền khí, ra sứ c khai khẩ n, để giữ
vữ ng biên cương, Vua theo lị.
Nă m thứ 5, đượ c thă ng bổ Thị Lang Bộ Binh, thự tuầ n phủ An Giang.
Nă m thứ 9, vì là m thanh thỏ a đượ c việc bắ t binh lính, xét hình ngụ c, thu
lương thuế, nên thưở ng gia 2 cấ p và kỷ lụ c 2 t
Ngườ i huyện Hả i Lă ng, khi trướ c thuộ c phủ Thừ a Thiên, nay đổ i là
Nă m Thiệu Trị thứ nhấ t, đổ i là m Hữ u thị lang Bộ Lễ, lạ i sung là m Giá p phó sứ
sang nướ c Thanh, sung biện cô ng việc Nộ i cá c.
Nă m thứ 2, Hoạ t chết. Hoạ t trả i là m quan khắ p trong ngoà i, giữ cẩ n qui chế
là m quan, khô ng ầ m lỗ i, nhiều lầ n chuyên giữ mộ t địa phương vẫ n tỏ ra có đứ c
chính lương thiện. Đến lú c chết, vua thương Hoạ t là ngườ i hiền nă ng, cô ng lao,
chuẩ n cho thự c thụ . (Nguyên thự hà m Tả tham tri); cho chiếu theo hà m mớ i mà
cấ p tiền tuấ t, và cho thêm 3 câ y gấ m Trung Quố c và vả i lụ a, tiền nữ a.
Vũ Phan
Tên tự là Hoá n Phủ , tiên tổ ngườ i ở huyện Đườ ng An, Hả i Dương; sau dờ i
đến ở huyện Thọ Sương, Bắ c Thà nh. Tằ ng tổ là Diễm, đỗ tiến sĩ đờ i Lê, quan đến
hiến sá t; cha là Cử u, ẩ n cư dạ y họ c.
Phan thuở nhỏ đượ c họ c cha ở nhà . Nă m Minh Mạ ng thứ 7, đỗ tiến sĩ, trả i
thă ng bổ Tham hiệp Thá i Nguyên. Là m quan chỉ cầ n lấ y nhâ n từ , ơn huệ. Rồ i sau bị
giá ng xuố ng Đố c họ c Bắ c Ninh, cá o bệnh về nghỉ, là m nhà ở hồ Hoà n Kiếm, đọ c
sá ch hầ u vui cha già . Nhiều ngườ i họ c trò theo họ c. Phan tu dưỡ ng, hò a nhã , họ c
trò suố t ngà y ở bên cạ nh chưa từ ng thấ y Phan có sắ c giậ n và lờ i xẵ ng. Khi trướ c có
khi Phan tự kinh đô vượ t biển về, gặ p gió to, ngườ i trong thuyền đều sợ hã i, độ c
mộ t mình Phan ngâ m vịnh như thườ ng. Lạ i thườ ng ở là ng xó m, bọ n cướ p chợ t
đến; Phan thong thả bướ c ra, bọ n cướ p biết mặ t ră n bả o nhau, khô ng dá m xâ m
phạ m. Ngườ i ta đều phụ c Phan là có lương. Đến khi Phan chết, xa gầ n mấ y nghìn
ngườ i trở lên đến hộ i tá ng. Bọ n sĩ lâ m thương mến lắ m. Trướ c đây, ngườ i huyện
Đườ ng An đến nhậ p tịch huyện Thọ Xương, như Phạ m Hộ i, ạ m Hy Lượ ng, Vũ Nhự
(đều có truyện chép về sau) lạ i có Hoà ng Xuâ n Hợ p, nă m Tự Đứ c thứ 4 đỗ Thá m
hoa, quan đến Thị giả ng họ c sĩ viện Tậ p hiền. Ngô Phá t cù ng em ruộ t là Dạ ng đều
đỗ hương tiến.
Tô Trâ n
Nă m thứ 14, thă ng bổ Tuầ n phủ Định Tườ ng. Giặ c Khô i đến hã m thà nh, Trâ n
bị tộ i, tướ c mấ t chứ c và phá i đi gắ ng sứ c bá o hiệu chuộ c tộ i.
Nă m Tự Đứ c thứ nhấ t, thă ng Tả tham tri Bộ Lễ, lĩnh chứ c ở Sử quá n như cũ ;
lạ i sung là m nhậ t giả ng quan ở Kinh diên. Vừ a gặ p tuổ i 70, xin nghỉ việc. Vua ban
cho và ng lụ a và cho về. Rồ i sau chết.
Trâ n, thanh liêm, tiết nghĩa, nghiêm chỉnh. Khi trướ c là m Tuầ n phủ Định
Tườ ng, thâ n hà o sợ mà mến yên. Đến khi thà nh bị hã m, Trâ n lẩ n ngầ m ở dâ n gian,
là m bà i thơ để lạ i rồ i đi.
Thơ rằ ng:
Phiên â m:
Dụ c bả o bấ t nă ng chử vũ dương,
Dịch nghĩa:
Chữ Bả o bỏ chữ nă ng, Chữ chử vấ t chữ vũ tứ c là chữ thự . Chia chữ điền, chữ thổ
khô ng chia chữ vương tứ c là chữ lý. Chữ gia chỉ dù ng chữ thấ t, cầ n gì chữ thỉ tứ c
là chữ định. Chữ lễ chẳ ng cầ n chữ phong, chỉ dù ng chữ dương tứ c là chữ tườ ng.
Chữ đạ t đượ c 3 chữ nhâ n, bỏ chữ hạ nh tứ c chữ tuầ n. Chữ thao giữ lạ i nhấ t chữ thủ ,
đem chữ vô và o tứ c chữ phủ . Chữ ngã i ở dướ i chữ thả o bên cạ nh chữ hò a, bên tố t
tứ c chữ tô . Chữ ngọ c, chữ chẩ n bỏ chữ xa rồ i hợ p lạ i là m mộ t tứ c chữ Trâ n. Tứ c là
nó i kín 8 chữ "
lý Định Tườ ng tuầ n phủ Tô Trâ n" vậ y. Khi Trâ n ở Thá i Nguyên, ty thuộ c, có ngườ i
tham ô , Trâ n lú c mớ i đến lỵ , nghe biết đã ghét rồ i. Ngườ i ấ y cầ u xin yết kiến nhưng
khô ng đượ c, nên sợ lắ m, thá c xưng có bệnh mà đi. Lạ i thấ y nơi biên giớ i ấ y ít vă n
họ c, Trâ n thườ ng tụ họ p cá c họ c trò , là m thờ i khó a giả ng dạ y, để chấ n hưng việc
họ c. Trâ n tuổ i già , ở sử cụ c lâ u ngà y, soạ n thuậ t đượ c nhiều, nên bấy giờ , ngườ i đờ i
trọ ng vọ ng, suy tô n.
Con là Châ u, là ấ m sinh, phụ thí ở kinh sư đượ c đỗ , là m quan đến Thị độ c họ c
sĩ, sung chứ c Toả n tu ở Sử quá n.
Thiệu Trị nă m thứ nhấ t, Khắ c Tuầ n dâ ng sớ xin đặ t phủ Điện Biên. Trướ c
đâ y, nướ c Nam Chưở ng đến cướ p cõ i ven. Vua sai Khắ c Tuầ n xét kỹ tình hình ngoà i
biên, trù nghĩ cô ng việc giữ cho sau nà y đượ c tố t. Khắ c Tuầ n bèn dâ ng sớ nó i :
Châ u Ninh Biên thuộ c và o đổ bả n nướ c ta đã lâ u rồ i, khô ng phả i mớ i mộ t ngà y thô i.
Duy nướ c Nam Chưở ng nhậ n là m đấ t cũ , rồ i gâ y mố i hiềm khích. Khi trướ c, thổ
quan mưu cầ u cho vô sự , nên đem và ng đú t lễ họ ; đến khi đặ t lưu quan, thì họ
khô ng đượ c gì, mớ i viện dẫ n ngườ i Xiêm kéo đến lấ n cướ p. Vả lạ i, đồ n ở châ u ấ y,
khô ng có thà nh trì vữ ng chắ c, sứ c binh thì yếu và ít, khô ng đủ dù ng; dâ n cư thì
khô ng thà nh thô n trạ i gì, vừ a mớ i nghe tin giặ c đến đã chạ y trố n liền ngay. Nếu
khô ng qua mộ t phen xếp đặ t thì mố i lo ở cõ i ven, cò n chưa trừ hết đượ c. Huố ng chi
là châ u ấ y đấ t rộ ng, ngườ i ít, lạ i ở thượ ng du, là m phên che cho 10 châ u ở phía bắ c
sô ng Đà , thì khô ng gì bằ ng mộ dâ n đến ở nơi ấ y cho đô ng để tự phò ng thủ lấ y, mớ i
là kế sá ch dà i lâ u. Nay xin đem nơi đồ n củ a châ u ấ y đặ t là m phủ Điện Biên, kiêm lý
châ u Ninh Viễn; và lấ y nơi Lai Châ u gầ n đấ y, lạ i thêm và o châ u Tuầ n Giá o nữ a, đặ t
chứ c tri phủ , quả n phủ , mộ 300 binh, dũ ng đó ng giữ . Rồ i lạ i chiêu tậ p dâ n lưu tá n,
dâ n trú ngụ , cà y và khẩ n ruộ ng đổ i chá c buô n bá n, để dầ n dầ n là m thà nh cơ chỉ,
ngõ hầ u việc phò ng bị ở cõ i biên ngà y có thể hoà n toà n đượ c. Vua y theo. Sau
xuố ng dụ rằ ng : Khắ c Tuầ n vỗ họ p dâ n cõ i biên, mở thà nh 1 phủ , có cô ng kiến nghị
ra trướ c, việc sắ p đượ c thà nh, giao Bộ bà n xét cô ng ấ y. Rồ i Khắ c Tuầ n về kinh theo
triều ban.
Nă m thứ 3, mù a xuâ n đổ i thự Tuầ n phủ Nam Ngã i, liền sung là m Tý quâ n vụ
Quả ng Ngã i chiêu dụ bọ n sơn man đầ u hà ng đến 14 sá ch. Mù a đô ng nă m ấ y, Man
Chu Thủ y đến quâ n mô n hà ng. Vua xuố ng chiếu thư khen, ban cho 1 cá i nhẫ n và ng
và 1 đồ ng kim tiền. Lạ i trở vố nguyên lị coi việc. Đượ c ít lâ u đổ i đi Tuầ n phủ Bắ c
Ninh; lạ i đổ i đi thự Tổ ng đố c Bình Phú .
Phiên â m:
Họ c đạ o dã nă ng suy tự đạ o,
Dâ n tâ m như thử , tứ c dư tâ m,
Dịch nghĩa:
Nú i Tả n, sô ng Lô , bao cả nh hứ ng thú ,
Ý vua rấ t thiết tha lấ y việc giú p đỡ che giữ ba nơi biên giớ i ấ y ký thá c cho
Tuầ n.
Ngụ y Khắ c Đả n
Nă m thứ 25, Đả n đượ c triệu về Kinh quyền lĩnh Thượ ng thư Bộ Binh; lạ i đổ i
là m quyền lĩnh Bộ Cô ng, sung Tham biện viện Cơ mậ t. Sau vì bệnh cá o về rồ i chết.
Vua chuẩ n cho thự c thụ hà m tham Tri, sai quan đến tế. Con là Khắ c Khoan, đượ ấ m
thụ bổ quan đến Tri huyện.
Hoà ng Tế Mỹ
Tên hiệu là Phụ c Đình, lú c trướ c tên là Thạ nh, tiên tổ là ngườ i ở huyện Gia
Bình, Bắc Ninh. Cha là Thự , đỗ tiến sĩ cuố i đờ i Lê, là m quan đến hiệp trấ n Lạ ng Sơn.
Nă m Tự Đứ c thứ nhấ t, sung là m Nhậ t giả ng quan ở Kinh diên, kiêm ấ n triện
Viện Hà n lâ m. Sau Tế Mỹ chết, đượ c tặ ng hà m Thượ ng thư Bộ Lễ. Khi đưa ma về
quê, sắ c sai quan đến tế
Tế Mỹ tính cương trự c, lú c tuổ i già sung và o Kinh diên, vì là giỏ i vă n họ c, nên
đượ c vua biết. Con là Tướ ng Hiệp.
Tướ ng Hiệp
Tên tự là Thú c Chấ t. Nă m Tự Đứ c thứ 18, đỗ tiến sĩ, bổ Tri phủ Bình Giang,
thă ng Á n sá t sứ Lạ ng Sơn. Gặ p khi biên giớ i mạ n Bắc độ ng binh, Tướ ng Hiệp từ ng
giú p việc quâ n.
Nă m thứ 35, đượ c bổ Tuầ n phủ Tuyên Quang. Khoả ng nă m Hà m Nghi, quâ n
củ a triều đình rú t về, bèn theo cù ng đi, đến Vâ n Nam, chết ở đấ t Trung Quố c. Đầ u
nă m Đồ ng Khá nh đượ c truy tặ ng hà m Thượ ng thư.
Cha, con, ô ng, chá u Tế Mỹ đỗ đạ i khoa liên tiếp nhau, nướ c ta ít thấ y mấ y nhà
đượ c như thế.
Đặ ng K
Ngườ i huyện Vă n Giang, Bắc Ninh, tổ là Thiều, là m Tả thứ sử đờ i Tiền Lê, bổ
thụ Điện tiền đô hiệu điển ti.
> Nă m thứ 9, bổ thụ Thá i thườ ng tự thiếu khanh, sung là m phó sứ đi sang
Yên Kinh; rồ i vì có lỗ i lạ i mấ t chứ c, phá i đi theo thuyền cô ng đi Lã Tố ng, đến Tâ n
Gia Ba bị bệnh chết. Đượ c truy thụ Lễ bộ viên ngoạ i lang.
Vũ Đứ c Mẫ n
Ngườ i huyện Nghi Xuâ n, Hà Tĩnh. Nă m Minh Mạ ng thứ 7, đỗ tiến sĩ, bắ t đầ u
bổ Hà n lâ m viện biên tu; rồ i do tri phủ , và o là m Lang trung Bộ Hình.
Chu Vă n Nghị
Tên chữ là Lê Phủ , ngườ i huyện An Phong, Bắ c Ninh. Thuở nhỏ có cao tiết.
Nă m Minh Mạ ng thứ 7, đỗ tiến sĩ, nhiều lầ n từ chố i khô ng ra là m quan, chỉ lấ y sơn
thủ y, vă n chương sá ch vở là m vui, khô ng mộ đến vinh lợ i. Họ c trò đến theo họ c
nhiều. Nă m Nghị chết, mớ i 56 tuổ i.
Nă m thứ 10, Đề đượ c cử đi Tuầ n phủ Ninh Bình. Gặ p bọ n thổ phỉ nổ i loạ n.
Danh Đề đá nh lấ y lạ i đượ c thà nh phủ Nho Quan, rồ i lầ n lượ t trù tính đá nh dẹp, bắ t
giặ c có mưu kế.
Thanh Giả n thuở nhỏ có tiếng là vă n chương. Nă m Minh Mạ ng thứ 7, Giả n đ̕iến sĩ,
là đ;ỗ khở i đầ u cho Nam Kỳ. Do Hà n lâ m viện biên tu, trả i thă ng đến Lang trung Bộ
Hình. Ra là m tham hiệp Quả ng Bình.
Nă m thứ 9, quyền nhiếp việc trấ n Nghệ An. Chưa bao lâ u lạ i trở về Quả ng Bình.
Nă m thứ 10, thự Phủ doã n phủ Thừ a Thiên, và o chầ u. Vua cho là Thanh Giả n trướ c
ở Nghệ An, nhâ n hỏ i đến việc Trấ n Ninh. Thanh Giả n thưa rằ ng : Trấ n Ninh cũ ng là
mộ t sự lo ở bên ngoà i. Nay khô ng nhâ n lú c việc chưa phá t hiện ra, mà trị ngay đi,
thì về sau thế đã thà nh, lạ i khó là m việc. Vua bả o rằ ng : Trị việc ở lú c chưa hiện ra,
thì dù ng sứ c ít mà thà nh cô ng dễ; lo việc ở lú c đã phá t ra, thì dù ng sứ c bộ i lên, mà
thà nh cô ng khó . Lờ i tâ u củ a ngươi, chính hợ p ý trẫ m. Sau Thanh Giả n thă ng Thị
lang bộ Lễ, sung việc Nộ i cá c, lạ i thă ng Hiệp trấ n Ninh Bình.
Nă m thứ 13, đượ c khở i phụ c Kiểm thả o, sung Hà nh tẩ u Nộ i cá c, rồ i thă ng Viên
ngoạ i lang Bộ Hộ , thự phủ thừ a Thừ a Thiên; lạ i thă ng lên Hồ ng lô tự khanh, sung
là m phó sứ sang nướ c Thanh. Đến lú c về, đượ c nhắ c lên Đạ i lí tự khanh, kiêm biện
cô ng việc Bộ Hình, sung Cơ mậ t viện đạ i thầ n.
Nă m thứ 16, khâ m phá i đi Trấ n Tâ y là m việc cô ng. Lú c trở về qua Bình Thuậ n lưu
lạ i đá nh giặ c Man, bình đượ c hết cả . Đổ i bổ là m Bố chính Quả ng Nam, Hộ lí ấ n quan
phò ng tuầ n phủ .
Nă m thứ 17, mù a xuâ n, vua cho là Nam Bắ c bình yên, triều đình nhà n hạ , xuố ng
chiếu đến thá ng 5, đi Quả ng Nam. Thanh Giả n tâ u bày rằ ng : Nhà vua tuầ n du, dâ n
hạ t nghe tin, ai chẳ ng vui sướ ng. Nhưng nă m nay, lú a chiêm mấ t mù a; mà khoả ng
thá ng 4, 5, lạ i đương mù a cày cấ y; mộ t phen cung ứ ng, nhìn chỗ nà y thì hỏ ng chỗ
kia. Xin hã y tạ m đình, để cho dâ n đượ c chuyên việc đồ ng ruộ ng. Vua xem lờ i tâ u,
khô ng bằ ng lò ng, bả o Cơ mậ t rằ ng : Thanh Giả n ngầ m đem việc Mạ nh Kha thưa vớ i
Tề vương, mà chê bai (5) bèn chuẩ n cho đình cuộ c tuầ n du. Rồ i phá i cho ngự sử là
Vũ Duy Tâ n đến đấy xét hỏ i. Khi Duy Tâ n về tâ u rằ ng : Dâ n đều mong nhà vua đi
tuầ n di. Lạ i trích ra nhữ ng tình trạ ng việc tỉnh lườ i bỏ , quan lạ i nhũ ng tệ; nên Giả n
bị giá ng là m thuộ c viên lụ c phẩ m, theo tỉnh Quả ng Nam gắ ng sứ c là m việc bá o hiệu.
Mớ i đượ c 2 thá ng, đượ c nhắ c lên là m thừ a chỉ Nộ i các, đổ i sang Lang trung Bộ Hộ ,
biện lý việc bộ ; rồ i thự Thị lang, sung Cơ mậ t viện.
Nă m thứ 19, vua sai đi duyệt binh ở Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hó a. Khi duyệt xong
trở về, chuyên biện việc Bộ . Chợ t có chương sớ củ a địa phương, thuộ c về Bộ Hộ , đã
đượ c vua phê, mà quên khô ng đó ng ấ n. Thanh Giả n vì là bộ thầ n, lạ i gặ p phiên
đương trự c, khô ng biết kiểm xét ra, bị giá ng là m Lang trung, biện lí việc bộ . Rồ i sau
vâ ng phá i đến miền nú i ở nguyên Chiên Đà n. thuộ c Quả ng Nam, để thuê hộ lấ y
và ng khai nhặ t và ng cá m. Thanh Giả n nó i là việc khó , đượ c đổ i đi Thá i Nguyên khai
lấ y mỏ bạ c. Giả n tâ u rằ ng : Hai mỏ bạ c Tố ng Ngâ n (6), Nhâ n Sơn chấ t bạ c chưa
đượ c phong vượ ng lắ m, nhặ t lấy khô ng đượ c mấ y.
Nă m thứ 20, mù a đô ng, vua nghĩ : Thanh Giả n đi đã lâ u ngà y cho triệu về, đổ i bổ
là m Thô ng chính sứ ty phó sứ , rồ i chuyển sang Thị lang Bộ Hộ . Bấ y giờ , Vương Hữ u
Quang vì việc tâ u bà y cà n bậ y, bị can nghĩ xử , đình thầ n muố n khép Hữ u Quang và o
tộ i nặ ng vì Thanh Giả n và Hữ u Quang là ngườ i cù ng là ng, nên nghị riêng biệt theo
tộ i nhẹ. Vua ghét Giả n là che chở bênh vự c cho nhau, lạ i giá ng là m Thô ng chính phó
sứ , hộ lí cô ng việc ở kho tà ng.
Nă m thứ 21, sung là m Phó chủ khả o trườ ng thi Thừ a Thiên. Có cử nhâ n là Mai Trú c
Tù ng, bà i phú bị trù ng vầ n. Bộ Lễ duyệt lạ i, Thanh Giả n vì điểm duyệt khô ng tinh,
bị giá ng 1 cấ p. Chưa bao lâ u, đượ c thă ng Thị lang Bộ Binh.
Thiệu Trị nă m thứ nhấ t, thă ng Tham tri, lạ i kiêm việc viện.
Nă m thứ 7, kỳ đạ i kế, vua dụ rằ ng : Thanh Giả n là m việc ở nơi cơ yếu, trù nghĩ việc
biên cương, bả o vệ nơi cung sả nh, là m xong cô ng việc, thă ng cho Thượ ng thư Bộ
Hình, sung Cơ mậ t viện đạ i thầ n.
Nă m thứ 4, mù a xuâ n, đổ i sung là m Kinh lượ c phó sứ Nam kỳ; nhưng lĩnh Tuầ n
phủ Gia Định, kiêm coi tỉnh Biên Hò a và cá c đạ o Long Tườ ng, An Hà .
Nă m thứ 6, thá ng 8, vua thấ y Thanh Giả n khó nhọ c mã i ở ngoà i, bèn gọ i về cho
thă ng thự Hiệp biện đạ i họ c sĩ, lĩnh Thượ ng thư bộ Binh, vẫ n sung chứ c ở Cơ mậ t
kinh diên như cũ . Thanh Giả n bèn tâ u bà y về cô ng việc là m cho Nam kỳ sau nà y
đượ c tố t, như : Vỗ yên nướ c Cao Miên, chữ a hồ i bệnh đau khổ củ a dâ n, rộ ng ban â n
điển, chỉnh đố n thó i quen củ a sĩ phu, chế tạ o xe trâ u, sử a đắ p phầ n mộ củ a cô ng
thầ n, cấ p cho phu coi mộ , gồ m có 6 điều, đều đượ c đem ra thi hà nh cả . Sau sai
trô ng coi là m Tổ ng mụ c bộ Việt sử thô ng
Nă m thứ 9, kỳ đạ i kế, vua khen Thanh Giả n là thanh liêm, cẩ n thậ n, thưở ng cho bà i
theo bằ ng thứ ngọ c tố t.
Nă m thứ 15, tướ ng Phá p ở Gia Định mang thư đến nghị hò a. Đình thầ n xin cho sứ
đi lạ i là phả i. Thanh Giả n cù ng Lâ m Duy Thiếp xin đi. Vua chuẩ n cho 2 viên ấ y sung
là m Chá nh, phó sứ toà n quyền đạ i thầ n. Vua ró t rượ u ngự ban cho, và bả o nên biện
bá c cho khéo. Khi cá c viên đến Gia Định, tướ ng Phá p bứ c bách ta phả i nhườ ng giao
đấ t đai ba tỉnh Gia Định, Định Tườ ng, Biên Hò a và phả i chịu tiền bồ i là 4.000.000
đồ ng. Việc đến tai vua, xuố ng dụ khiển trá ch nghiêm nghị, đổ i là m lĩnh Tổ ng đố c
Vĩnh Long, cù ng tướ ng Phá p bà n là m, để chuộ c tộ i. Sau vì thương thuyết khô ng
cô ng trạ ng, bị cá ch chứ c, lưu l
Nă m thứ 16, đượ c triệu về, sung là m Chá nh sứ đi Tây. Vua hỏ i Giả n về việc 3 tỉnh,
quả là câ n nhắ c nhẹ nặ ng mà là m, hay là có ý riêng gì? Giả n thưa rằ ng : Thầ n xem
kỹ thờ i thế, khô ng thể khô ng đượ c. Thầ n nay phụ ng mệnh đi sứ , thà nh sự hay
khô ng thà nh, là ở 2 nướ c ấy. Thầ n chỉ biết hết tâ m lự c thô i.
Phiên â m:
Dịch:
Cố nhâ n nhậ n ký thá c gá nh
Quỉ thầ n tự ứ ng cầ u,
Lò ng phả i sắ t đá khô ng đổ i đờ i
Nă m thứ 18, thá ng 2, tế Giao, vua sai Thanh Giả n đi tế thay. Nă m ấ y, Thanh Giả n, 64
tuổ i, dâ ng sớ xin nghỉ, đạ i lnó i rằ ng : Thầ n sinh hình vố n khô ng tà i nă ng gì, tự nghĩ
mình chưa bá o bổ đượ c chú t đỉnh nà o, đương nghĩ cố hă ng, mong để bá o đền.
Nhưng vì tuổ i già như bó ng chiều gầ n xế. Tự nghĩ tinh lự c khô ng đượ c bằ ng trướ c
nhiều, mà thầ n trô ng coi ở địa phương phiền kịch, việc quên só t nhiều. Tự nghĩ lạ i
rằ ng : Ngườ i ta số ng đến 70 tuổ i, như câ y bồ liễu đã trả i qua mù a thu. Tuy có tình
sâ u luyến á i vua, nhưng sứ c ngự a đã kiệt rấ t sợ là m khô ng xong việc để lầ m lỡ . Vua
yên ủ i rằ ng : Ngươi nên cố gắ ng, để khuyến khích bọ n hậ u tiến, và Kinh Thi có câ u
rằ ng: "Vă n, vũ xưa thụ mệnh, có ngườ i như ô ng Thiệu cô ng, ngà y mở mang trong
nướ c đượ c tră m dặ m. Nay thì trong nướ c, ngà y hụ t đi tră m dặ m vì ngườ i đờ i nay,
khô ng cò n có ai đượ c như xưa". Mỗ i khi đọ c đến đấ y, đau lò ng khô n xiết. Gặ p đố c
thầ n Vĩnh Long là Trương Vă n Uyển xét tâ u tình hình 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên. Vua nó i rằ ng : Nơi biên viễn chơ vơ xa cá ch, thự c khó coi giữ . Nếu đượ c
ngườ i nà o, hệ tín phụ c sẵ n, hoặ c có thể yên đượ c chă ng? Đoan Thọ , Trầ n Tiễn
Thà nh đem Thanh Giả n ứ ng cử . Vua sai Thanh Giả n sung là m Kinh lượ c đạ i thầ n,
tha cho tộ i cách lưu, để mong bá o hiệu về sau. Thanh Giả n đã đượ c khai phụ c, lạ i
dâ ng sớ tự trình bà y rằ ng : Thầ n cù ng viên Lâ m Duy Thiếp đã chết rồ i là tình đồ ng
sự vớ i nhau; mà thầ n khô ng có cô ng trạ ng may đượ c khai phụ c, cò n viên đã chết
kia ở dướ i đấ t, mộ t mình tự quay mặ t và o xó nhà mà khó c. Trong khoả ng u minh,
lò ng khô ng tự yên đượ c. Vậ y thầ n xin lấ y lạ i â n mệnh củ a thầ n cho đượ c như
trướ c, gắ ng sứ c tự chuộ c tộ i lấ y.
Vua bả o rằ ng: Lò ng trẫ m đố i vớ i bề tô i có lò ng thể tấ t trá ch cho thà nh hiệu, lò ng
thà nh củ a khanh tự trá ch mình, nghĩ đến bạ n cũ , thự c là hai đằ ng đều hết lẽ. Duy có
Thiếp việc chưa thà nh mà đã chết trướ c. Trẫ m ngà y mong khanh lậ p cô ng, để tiện
cho ơn kịp đến viên đã chết. Nếu khanh có lò ng ấ y, thì sự mong hẹn khô ng phả i là
ít. Khanh nên cố gắ ng mưu tính đi.
Nă m thứ 19, Thanh Giả n lạ i lấ y cớ già yếu xin nghỉ. Vua quở rằ ng đương bắ t phả i
là m cho có thà nh hiệu, mà chưa là m xong, ý kiến củ a lã o thầ n sao lạ i phá t ra câ u ấy.
Nă m thứ 20, thá ng 5, phá i viên củ a Phá p đem binh, thuyền đến bến sô ng Vĩnh
Long, sai ngườ i đệ thư lạ i nó i về việc nhượ ng giao 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà
Tiên. Thanh Giả n đến, cù ng ngườ i Phá p biện luậ n việc ấy, sau cũ ng khô ng thể ă n
thua gì. Bèn khuyên họ chớ là m kinh độ ng quấ y nhiễu nhâ n dâ n, cù ng tiền, lương
hiện chứ a ở kho tà ng, vẫ n do ta chiếu quả n. Tướ ng Phá p thuậ n nghe. Khô ng bao
lâ u, Giả n trở về thì quâ n Phá p đã kéo 4 mặ t và o thà nh. Bỗ ng lạ i có tin bá o 2 tỉnh An,
Hà , quâ n Phá p cũ ng là m như thế. Khô ng đầ y 5 ngà y, 13 tỉnh kế tiếp nhau khô ng giữ
đượ c. Thanh Giả n tự cho mình là khô ng cô ng trạ ng gì, mớ i đem hiện số tiền, lương
3 tỉnh ấ y, chiếu tính khấ u trừ và o số bạ c bồ i thườ ng nă m ấ y 1.000.000 đồ ng. Lạ i
đem cả á o chầ u, ấ n triện và từ sớ để đưa về nộ p. Sớ rằ ng : Hiện nay gặ p cơn gian bĩ,
giặ c dữ khở i ở giao, điện; khó i lử a củ a giặ c khắ p cả biên cương. Đấ t đai ở Nam kỳ
mộ t khi đến như thế, mau chó ng quá , tình thế khô ng thể ngă n nổ i. Thầ n nghĩa đá ng
chết, khô ng dá m cầ u số ng, để cá i hổ cho vua, cha Hoà ng thượ ng ta rộ ng xem kim,
cổ , xét kỹ trị loạ n; thâ n, hiền trong ngoà i, mộ t lò ng giú p đỡ ; kính cẩ n việc ră n củ a
trờ i, vỗ thương nhâ n dâ n cù ng khổ ; lo trướ c nghĩ sau, thay dậ y, đổ i lố i; thế lự c cò n
có thể là m đượ c. Thầ n đến lú c tuyệt mệnh, nghẹn lờ i khô ng biết nó i sao nữ a; chỉ rỏ
nướ c mắ t trô ng nhớ , khô n xiết nguyện vọ ng mà thô i. Rồ i Thanh Giả n khô ng ă n,
uố ng thuố c độ c chết. Bấy giờ Giả n 71 tuổ i.
Nă m thứ 21, Giả n bị truy tướ c chứ c hà m, đụ c bia tên ở bia tiến sĩ.
Đồ ng Khá nh nă m thứ nhấ t, chuẩ n cho khai phụ c nguyên hà m, lậ p bia như cũ .
Thanh Giả n là ngườ i ngay thự c, giữ lò ng liêm khiết là m quan thậ n cầ n, gặ p việc
dá m nó i. Trả i thờ ba triều, vẫ n đượ c yêu quý. Đến khi mang cờ tiết đi Nam, thế
khô ng là m sao đượ ết tộ i, tự uố ng thuộ c độ c chết. Thự c là ở và o chỗ ngườ i ta khó
xử . Xem tờ sớ để lạ i thì lò ng trung á i, chứ a chan ở ngoà i lờ i nó i. Vả lạ i Thanh Giả n
họ c nhiều, lờ i rộ ng. Khi Dự c Tô ng Anh hoà ng đế lú c rỗ i việc, bà n đến việc cá c quan
là m vă n, từ ng khen vă n củ a Giả n là cổ nhã . Các danh thầ n ở Nam và Trung sau nà y,
ít ngườ i hơn đượ c. Giả n bình sinh trướ c thuậ t, có tậ p "Thi vă n Lương khê" lưu
hà nh ở đờ i.
Con có 2 ngườ i : Thanh Liêm là m quan đến Thượ ng thư; Thanh Tô n là m quan đến
Hồ ng lô tự thiếu khanh. Con củ a Thanh Liêm là Thanh Khai đượ c ấ m thụ , trả i thă ng
đến Viên ngoạ i lang viện Cơ mậ t.
Ngườ i huyện Quả ng Điền, Thừ a Thiên. Lú c đầ u Thă ng lệ thuộ c và o sổ lính doanh
Long Vũ .
Minh Mạ ng nă m thứ 7, theo Tham tá n đạ i thầ n là Nguyễn (khuyết tên) đi Gia Định
là m việc bắ t giặ c ở Trấ n Tâ y thắ ng trậ n, chém đượ c thủ cấ p củ a giặ c cắ t lấ y tai,
đượ c thă ng bổ độ i trưở ng; trả i thă ng đến cai độ i, phó quả n cơ, phó vệ ú y.
Nă m thứ 4, nhắ c lên Chưở ng vệ trung doanh Thủ y sư; rồ i thă ng Thố ng chế Hữ u
dự c, doanh Vũ lâ
Nă m thứ 10, cù ng vớ i Binh Bộ tham tri là Trầ n (khuyết tên) đem quâ n đó ng giữ
cử a biển Thuậ n An, đá nh nhau vớ i thuyền Tâ y Dương, Thă ng bắ n sú ng lớ n đá nh
trú ng và o thuyền ấ y thuyền ấ y bỏ chạ y ra phía đô ng. Đượ c thưở ng 1 cấ p quâ n
cô ng, gia hà m Đô thố ng và thưở ng 1 đồ ng tiền, 30 lạ ng bạ c.
Nă m thứ 16, đượ c bổ thụ Đô thố ng phủ Đô thố ng ở Tiền quâ n. Sau ố m chết.
QUYỂ N 27
Lâ m Duy Thiếp
Khi trướ c gọ i là Duy Nghĩa, tên tự là Chính Lộ , hiệu là Thấ t Trai, tiên tổ từ Trung
Quố c sang là m nhà ở huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Thuở nhỏ có tiếng là thô ng
minh nhanh nhẹ;n, nă m Minh Mạ ng thứ 9, đỗ hương tiến, từ ng là m tri huyện, tri
phủ , có tiếng là chính trị giỏ i.
Nă m thứ 18, thă ng bổ Thị độ c họ c sĩ, tham biện việc Nộ i cá c, rồ i cấ t lên là m Thị
lang vẫ n sung biện việc
"48">Thiệu Trị nă m thứ nhấ t, tớ i kỳ xét cô ng, vua cho Thiếp vâ ng chỉ tính
đườ ng,là m việc siêng nă ng nhanh chó ng, gia hà m Tham tri, chuẩ n cho ă n lương
tò ng nhị phẩ m.
Nă m thứ 6, thự Thượ ng thư Bộ Cô ng, chưa bao lâ u đổ i sang Bộ Lễ, kiêm quả n cả thị
vệ.
Nă m thứ 12, lạ i sung đạ i thầ n ở Cơ mậ t viện, có trình bày xin khuyên ră n viên
thố ng chưở ng, ră n bả o cá c quan coi việc kinh hai việc. Vua khen là thà nh thự c khẩ n
thiết, nhắ c bổ là m Thượ ng thư.
Nă m thứ 15, ở Nam Kỳ có việc, sai sung là m nghị hò a Phó toà n quyền đạ i thầ n,
cù ng vớ i Thanh Giả n đi thương thuyết, khi và o từ hà nh trướ c mặ t vua, vua thâ n ró t
rượ u ngự ban cho. Rồ i sau khô ng có cô ng trạ ng gì (đã chép ở truyện Thanh Giả n),
vua quở trá ch, đổ i là m Tuầ n phủ ở Thuậ n Khá nh, nhưng phả i cá ch lưu, cù ng bà n
bạ c vớ i tướ ng Phá p để chuộ c tộ i. Chưa đượ c bao lâ u rồ i chết. Vua nghĩ là bậ c cự u
thầ n, cấ p thêm cho vó c lụ a tiền nong để chô n cấ t.
Nă m thứ 21, phả i truy đoạ t lạ i chứ c hà m. Nă m Đồ ng Khá nh thứ 1 viên thầ n là
Nguyễn Hữ u Độ vì Duy Thiếp, xin cho khai phụ c hà m Thị lang Bộ Binh. Con là Duy
Chạ m lấ y cô ng chú a, chá u là Duy Điện, đượ c ấ m hà m Cẩ m y hiệu ú y.
Hoà ng Thụ
Ngườ i huyện Quả ng Điền, phủ Thừ a thiên. Nă m Minh Mạ ng thứ 16, đỗ tiến sĩ do
hà m Hà n lâ m viện biện tu, sung chứ c biên tậ p bộ "Tiễu bình phương lượ c" rồ i bổ
là m Tri phủ Thườ ng Tín, có tiếng về chính trị giỏ i, đượ c và o là m Giá m sá t ngự sử ở
Kinh, rồ i thự Lễ khoa chưở ng ấ n cấp sự trung, lạ i sung thanh tra Nộ i vụ phó đổ ng
lý.
Nă m thứ 20, nhắ c lên Á n sá t sứ Hưng Hó a. Đầ u nă m Thiệu Trị, đổ i v873; Nghệ An,
chuyển là m Thị lang ở 2 bộ Binh, Hình, phả i là m Bố chính sứ Định tườ ng, Vĩnh
Long, An Giang, lạ i thă ng thự Tuầ n phủ Định Tườ ng.
Tự Đứ c nă m thứ nhấ t, bổ Tham tri Bộ Hình kiêm quả n viện Đô sá t, chưa bao lâ u,
đổ i sang Bộ Lạ i, sung Cơ mậ t viện đạ i thầ n. Tâ u xin : Phà m cá c quan viên có tang 3
nă m, cho nghỉ chứ c đến hết kỳ, để là m hậ u phong tụ c, cổ lệ hạ nh kiểm. Vua cho là
phả i, rồ i vì có tang mẹ đượ c nghỉ chứ c.
Nă m thứ 9, á n bổ Tham tri Bộ Hộ , sung chứ c Kinh duyên nhậ t giả ng quan. Mù a
đô ng nă m ấ y, nhấ c bổ Tổ ng đố c An Tĩnh, rồ i đổ i đi Hà Ninh.
Thụ có tà i là m ệc, là m quan trả i khắ p trong ngoà i, chă m chỉ cẩ n thậ n, cầ n kíp cô ng
việc. Khi là m Tổ ng đố c ở An Tĩnh, vua có là m bà i thơ ban cho, thơ rằ ng :
Phiên â m:
Đượ c vua yêu quá quyến luyến là như thế đấ y. Hô m Thụ chết, Vua rấ t tiếc, chi gấ m
Trung Quố c sa lụ a bạ c tiền, sai phủ thầ n vâ ng mệnh đến tế. Con là Vă n Đễ cũ ng đỗ
hương tiến, sau can á n về khô ng có luâ n thườ ng, bị giam chết ở ngụ c.
Ngô Kim Liên
Tên cũ là Lâ n, ngườ i huyện Hương Trà , phủ Thừ a Thiên. Thuở nhỏ thô ng minh, đọ c
sá ch qua mắ t mộ t lượ t là nhớ . Ở nhà hiếu thuậ n, cù ng vớ i anh là Kim Thanh dố c chí
đọ c sá ch.
Nă m thứ 15, phá i và o Nam Kỳ tra xét việc á n củ a ngụ y Khô i, Kim Liên cho là tố cá o
ra có dâ y đưa đến nhiều ngườ i khá c, xin cho đình việc tra bắ t, vì trá i chỉ củ a nên bị
biếm.
Tự Đứ c nă m thứ nhấ t, dâ ng bộ "Đạ i họ c diễn nghĩa" đượ c thưở ng kim tiền, rồ i chết
ở nơi là m quan.
Con là Kim Viện đượ c ấ m thụ bá t phẩ m, và Kim Dư đượ c ấ m sinh. Con Viện là Hoá n
đỗ Cử nhâ n, nay là m Ngự sử đạ o Tả trự c, con Dư là Điển là m Thô ng phá n tỉnh
Khá nh Hò a, anh Liên là Kim Thanh đỗ sinh đồ , là m quan đến Á n sá t, con là Mỹ Tri
đỗ tú tà i là m quan tớ i Tham tri Bộ Binh.
Nă m Thiệu Trị thứ nhấ t, quyền nhiếp cô ng việc phủ Tâ y Ninh. Bấy giờ có tên đầ
giặc là Đinh Tuâ n, tự xưng Thiên thương tướ ng, tụ họ p đem hơn 700 ngườ i
Man, Chà m tiến sá t tớ i đồ n phủ Tâ y Ninh. Thậ n hết sứ c cố gắ ng thủ bá n giết đượ c
tên Tuâ n, giặ c bèn vỡ chạ y. Việc đến tai vua, xuố ng chiếu thư khen ngợ i, và thưở ng
cho mộ t cấ p quâ n cô ng, 1 đồ ng kim tiền, chưa bao lâ u, bổ là m Giá m sá t ngự sử đạ o
Kinh kỳ, và thự cô ng khoa Chưở ng ấ n cấ p sự trung.
Nă m thứ 6, tớ i kỳ xét cô ng, vua cho là Thậ n thâ n chịu chứ c trá ch ngoà i biên, vỗ về
chố ng chọ i phả i lẽ, khả gọ i là bề tô i biết giữ bờ cõ i, thưở ng gia 1 cấ p, đổ i là m Tả
tham tri Bộ Hộ .
Nă m thứ 11, ngườ i Phá p gâ y hấ n ở cử a biển Đà Nẵ ng, sai Khắ c Thậ n đem quâ n ra
chố ng cự lạ i đá nh nhau ở sô ng Cẩ m Lệ bị thua, phả i giá ng 3 cấ p đượ c lưu chứ c.
Nă m thứ 12, vua cho là Khắ c Thậ n trướ c đã nhậ n chứ c ở Nam Kỳ, địa thế nhâ n tình
vố n đã am hiểu, đổ i Khắ c Thậ n là m Tuầ n phủ An Giang, đem quâ n tớ i Ba Xuyên dẹp
giặ c Man đượ c thắ ng trậ n, thưở ng cho quâ n cô ng kỷ lụ c 2 thứ , bổ là m Tổ ng đố c An
Giang. Bấy giờ quâ n Phá p đã chiếm cứ thà nh Gia Định, bọ n giặ c thổ Man ở Vĩnh
Định, Kiên Giang trà n sang cướ p Ba Xuyên. Thậ n thâ n đem cá c tướ ng hầ u chia đi
dẹp tan hết.
Nă m thứ 19, Nam Kỳ kinh lượ c sứ là Phan Thanh Giả n tâ u nó i : Tên Man mụ c là A
Xoa gâ y việc, do tự phủ Tĩnh Biên là Hoà ng Khoá n là m cho chú ng kéo đến, mà đố c
than là Khắ c Thậ n cũ ng hù a theo và o đấ y. Nay tên Ă Xoa đã trố n và o Thấ t Sơn, tỉnh
thầ n ấ y nó i là ngă n chặ n, là hù ng bắ t, toà n là nó i hã o cả, để cho tướ ng Phá p chưa
khỏ i hết ngờ . Thậ n bèn bị cá ch chứ c rồ i trá ch phả i bắ t đượ c tên Ă Xoa (tứ c Ô ng
Bướ m) ở Thấ t Sơn giả i giao cho tướ ng Phá p; lạ i đượ c khô i phụ c Binh bộ Thượ ng
thư, lĩnh Tuầ n phủ Nam Ngã i, vua bả o Thậ n là thu cù ng về lú c bó ng chiều đã ngã
nên phả i cố gắ ng.
Nă m thứ 21, bọ n thổ phỉ nướ c Thanh là Ngô Cô n lấ n nhiễu cá c tỉnh Thá i, Lạ ng,
quan quâ n bị thua, vua sai Thậ n sung là m Thả o nghịch hữ u tướ ng quâ n, Khắ c Thậ n
mớ i đến quâ n thứ , mắ c bệnh rồ i chết. Vua rấ t thương, xuố ng dụ rằ ng : Khắ c Thậ n
ngà y thườ ng cô ng lao khá nhiều, nay chẳ ng may vộ i chết, nên cho ưu hậ u. Tặ ng
hà m Hiệp biện đạ i họ c sĩ, sai quan địa phương bắ t dâ n phu đưa quan cữ u về quê,
chiếu theo hà m đượ c tặ ng mà cấ p cho tiền tuấ t gấ p hai.
Nguyễn Bá i
Tên tự là Phong Đình, ngườ i huyện Phú Vang phủ Thừ a Thiên, có sứ c mạ nh, lú c
nhỏ tậ p võ nghệ. Đầ u nă m Minh Mạ ng ra đầ u quâ n, trả i là m độ i trưở ng suấ t độ i.
Khoả ng nă m Tự Đứ c nhiều lầ n thă ng đến Phó Lã nh binh ở Nam Định, đổ i đi quâ n
thứ ở Hưng Hó a. Vì có chiến cô ng cấ t là m Cấ m binh vệ ú y lĩnh Chưở ng vệ thủ y sư
Hữ u doanh. Gặ p bọ n giặ c ở mặ t nướ c đến cướ p Hả i Yên, vua sai sung là m khâ m
phá i quâ n vụ quả n đố c binh chuyền đạ o thủ y kịp thờ i ộ i lạ i đá nh dẹp. Bá i cù ng giặ c
đá nh nhau ở ngoà i khơi Ngọ c Mai, cả phá đượ c quâ n giặ c, đượ c cấ t là m Đề đố c ở
Nam Định.
Nă m thứ 36, bổ thụ Đô thố ng, bấ y giờ Bá i đã 70 tuổ i viện lệ xin về hưu. Vua cho Bá i
là ngườ i đượ c việc quen thạ o, khô ng cho nghỉ. Rồ i sau lạ i về bị ố m, chuẩ n cho hưu
trí, nă m Đồ ng Khá nh thứ 3, thọ 77 tuổ i thờ i chết. Phủ thầ n tâ u lên, vua cấp thêm
cho tiền tuấ t 200 quan. Con là Vă n Mỹ theo họ c, đượ c ấ m thụ Hà n lâ m viện biên tu.
Nguyễn Hoà ng
Ngườ i huyện Đă ng Xương, phủ Thừ a Thiên, khi trướ c tên là Vă n Hoà ng. Minh
Mạ ng nă m thứ 7, đă ng và o sá ch Anh danh, ra Bắc Kỳ bắ t giặ c, bổ thụ độ i trưở ng,
nhiều lầ n thă ng là m Quả n cơ cơ Trung chấ n.
Nă m thứ 7, nướ c Cao Miên sang triều, việc Trấ n Tâ y đã đượ c yên. Vua dụ thưở ng
cá c tướ ng đi đá nh dẹp Trấ n Tâ y. Vua cho là Hoà ng trả i cho đá nh dẹp tự thâ n đi
trướ c quâ n lính, xô ng pha tên đạ n, giết giặ c lậ p cô ng, ban cho mộ t cá i bà i đeo bằ ng
và ng có chữ : "An tâ y tuấ n kiện tướ ng" và mộ t cá i bà i đeo bằ ng ngọ c quý hình con
chim ưng bay có dâ y rũ xuố ng xâ u hạ t trâ n châ u. Thá ng 5, vâ ng chiếu đem quâ n về.
Khi và o chầ u, vua cho cá i á o lụ a sắ c đỏ mặ t má t và cá i quạ t củ a vua dù ng. Đến hô m
sau, cho triệu và o điện Cầ n Chá nh tuyên dương ú y lạ o, sai hoà ng tử là Gia Hương
Cô ng ró t rượ u đem cho. Lạ i cho mộ t chiếc nhẫ n đeo tay bằ ng và ng dá t mặ t ng, mộ t
cá i hình con gấ u mạ nh bằ ng và ng, để tỏ ra như con gấ u khỏ e mạ nh đá ng khen. Sắ c
cho là m  n Tâ y tuấ n kiện tướ ng, rồ i bổ là m Thố ng chế doanh Tiền phong. Mù a thu
nă m ấ y, xét cô ng nhữ ng ngườ i có cô ng đá nh Trấ n Tâ y, đượ c tấ n phong Vũ xá tử .
Đến khi võ cô ng cá o thà nh, vua sai đú c khẩ u sú ng lớ n để ghi cô ng sắ c cho khắ c tên
và o sú ng bá u "Thầ n uy phụ c viễn" thứ hai, dự ng bia ở Vũ miếu để nêu quâ n cô ng.
Khi trướ c, Hoà ng cò n là tướ ng hiệu nhỏ , bấy giờ chưở ng phủ là Tạ Quang Cự biết
tà i củ a Hoà ng có thể đạ i dụ ng đượ c, bèn tiến cử lên triều đình. Tớ i khi theo đi đá nh
dẹp, thườ ng lậ p chiến cô ng, Hiến Tổ Chương Hoà ng đế khen ngợ i, cho Quang Cự là
biết ngườ i, mà Hoà ng thự c khô ng phụ ngườ i đề cử ra vậ y.
Lê Đình Lý
Ngườ i huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, thuở nhỏ nhà nghèo lên nú i kiếm củ i dọ c
đườ ng có câ y đà m hoa xanh tố t, Đình Lý ngồ i dướ i gố c hó ng má t mộ t chú t, chợ t có
cá i hoa to rụ ng xuố ng trướ c mặ t, nhặ t lấ y ă n, đượ c và i thá ng khổ mặ t khá c hẳ n,
ngườ i là ng lấ y là m lạ .
Minh Mạ ng nă m thứ 10, ra đầ u quâ n, phá i tớ i hai trấ n Định Biên, An Giang đá nh
dẹp giặ c Man, có cô ng thă ng cai độ i.
>Thiệu Trị nă m thứ nhấ t, trả i thà nh Vệ ú y thườ ng theo Phạ m Vă n Điển và Doã n
Uẩ n liền mấ y trậ n, phá đượ c thổ phỉ ngườ i Lạ p, Man, có chiến cô ng to; lạ i tiến phá
đồ n Thiệt Thằ ng, thẳ ng tớ i thà nh Nam Vang, đượ c thắ ng trậ n luô n. Vua chuẩ n cho
gia hà m Lã nh binh, thưở ng cho quâ n cô ng mộ t cấ p và kim tiền, thể bà i bằ ng và ng
tía, để nêu cô ng trạ ng.
Nguyễn Bá Nghi
Đầ u nă m Thiệu Trị, thự Giả ng họ ;c sĩ, tham biện việc Nộ i cá c, chưa bao lâ u thă ng
thự Thị lang bộ Lạ i, vì có việc lạ i giá ng xuố ng Hà n lâ m viện thị giả ng, phả i đi theo
thuyền Thanh loan sang Quả ng Đô ng là m việc. Khi thuyền bị chá y, theo đườ ng bộ
về trướ c, lạ i bị thổ phỉ nướ c Thanh cướ p bó c. Vua nghĩ thương, cấ t là m Thị độ c họ c
sĩ tham biện việc Nộ i cá c.
Nă m thứ 7, kỳ xét cô ng, danh sá ch dâ ng lên, vua dụ rằ ng : Bá Nghi khi trị nhậ m ở
An Giang, có dự bà n việc quâ n và vậ n chở tiếp tế, tớ i khi các vâ ng giữ chiếu sắ c
cũ ng đượ c cẩ n thậ n rõ rà ng, chuẩ n cấ p cho lương tò ng nhị phẩ m.
Nă m thứ 6, có kỳ địa kế xét cô ng quả . Vua cho Nghi chă m siêng, cẩ n thậ n, cầ n kíp
việc cô ng. nhắ c lên là m Tổ ng đố c Sơn Hưng Tuyên. Cá c hạ t ấ y nướ c lụ t luô n mấ y
nă m, tình hình quẫ n bá ch. Bá Nghi xin cho chẩ n cấ p cứ u tế, và đem số ruộ ng đấ t bị
cá t bồ i, nướ c vỡ , cộ ng 1296 mẫ u, cho xó a gạ ch miễn thuế, Vua đều cho cả .
Nă m thứ 13, vua cho tai dị thườ ng phá t ra, và đó i khá t luô n luô n; lạ i nhâ n Đà Trấ n
cù ng Định Biên đang có việc, chuẩ n cho viện thầ n đem đem ý kiến mưu lượ c liệt ra
chương sớ tâ u bà y lên.
Mù a đô ng nă m ấ y, Bá Nghi lạ i cho là lui binh ở phâ n tá n, khô ng thể giữ đượ c. Xin
nhậ n tộ i. Vua xuố ng chiếu cho đem quâ n về đó ng ở Bình Thuậ n.
Nă m thứ 1, tỉnh Biên Hò a khô ng giữ đượ c giá ng là m Tham tri, nhưng vẫ n phả i cá ch
chứ c lưu nhiệm, sung là m Phụ tá quâ n vụ , hiệp cù ng vớ i Tổ ng thố ng đạ i thầ n
Nguyễn Tri Phương bà n là m cô ng việc ở quâ n thứ Bình Thuậ n. Đến khi hò a cụ c đã
định, đổ i sung là m tham tá n ở quâ n thứ ngoà i Bắ c; rồ i Hộ lý tổ ng đố c Sơn Hưng
Tuyên kiêm tiêu biện việc quâ n, miễn cho cá ch lưu.
Nă m thứ 17, Man Mèo nổ i lên quấ y nhiễu tỉnh Tuyên Quang, cá c bộ biền đều bị
thua, Bá Nghi đem binh và voi tớ i dẹp. Nghe có dâ n Man là Bà n Vă n Nhị ra thú ,
nhưng con nó cò n trố n, tỉnh thầ n đem giam lạ i. Bá Nghi tứ c thì cấ p cho quầ n á o và
tha về, lạ i nghiêm xích khó a phá i viên củ a tỉnh đã quấ y nhiễu nhà ngườ i Man ấ y, rồ i
đem việc tâ u lên. Vua cho việc là m phả i lẽ, chuẩ n cho tù y cơ mà là m cho thỏ a đá ng,
để ngườ i Man cả m chiêu dụ nhữ ng Man khá c ra thú . Mù a hạ nă m ấ y, Bá Nghi ố m
xin về hưu. Vua nó i : Bá Nghi có trá ch nhiệm đá nh dẹp, đã lâ u nay khô ng là m đượ c
mộ t việc gì, lạ i bá o ố m xin về hưu, rấ t quá i lạ . Giá ng 3 cấ p, vẫ n phả i lưu lạ i đá nh
dẹp.
Nă m thứ 18, tự cho mình cầ m quâ n đã 3 nă m, dẹp giặ c khô ng có cô ng trạ ng gì xin
chịu tộ i. Vua nó i : đã tự biết lỗ i tấ t có lò ng hă ng gắ ng để bù và o cá i lỗ i. Gia ơn chuẩ n
cho cá ch lưu, nhưng phả i hô đố c là m việc, bắ t phả i trù tính đá nh dẹp bọ n giặ c cò n
lạ i ở Tam Tuyên. Rồ i thì Bá Nghi tâ u bày cô ng việc nên khu xử . Vua cho là cô ng dẹp
giặ c củ a Bá Nghi phầ n nhiều đá ng ghi chép, duy đá m giặ c nhỏ mọ n ấ y chưa trừ
đượ c là đá ng tiếc thô i. Gia hạ n cho 6 thá ng phả i mưu tính cố t đượ c yên ổ n, rồ i cù ng
cá c đạ o bà n cô ng ban thưở ng. Bá Nghi lạ i dâ ng sớ nó i : Nghĩa trong kinh Xuâ n thu,
trá ch về chủ suý là nặ ng hơn, trướ c đâ y đồ n lớ n ở Gia Định khô ng giữ đượ c, thầ n
xin chịu tộ i; cò n cá c viên biền xin đều miễn cho họ . Vua nó i : Mưu tính thì trá ch
nhiệm ở thố ng suý, mà đá nh hay giữ cũ ng do cá c tướ ng nhỏ ; thưở ng tớ i, phạ t lạ i
khô ng tớ i, thì có quâ n binh khô ng? Rồ i sau vì thu phụ c đượ c thà nh Tuyên, vỗ yên
hạ t Sơn Tâ y, miễn cho cá ch lưu, thă ng bổ là m Thố ng đố c.
Bấ y giờ , cá c tỉnh ở Bắ c Kỳ xin đặ t thà nh trì cho cá c phủ huyện, chuẩ n giao cho Bá
Nghi và Kinh lượ c Vũ Trọ ng Bình thương lượ ng bà n định, đều nó i là lao phí (lờ i nó i
ấ y chép ở truyện Trọ ng Bình). Vua nghe lờ i bà n.
Nă m thứ 19, độ ng Suố i Bố c ở Tuyên Quang giặ c Mèo cậ y hiểm, nên lâ u chưa chịu
hà ng. Bá Nghi cho là phí tổ n rộ ng khó nhọ c nhiều, đá nh dẹp khô ng bằ ng vỗ yên, xin
nghiêm hịch, phá i ngườ i đến chiêu dụ . Vua cho là phả i.
Nă m thứ 21, gặ p tiết tứ tuầ n đạ i khá nh, đượ c thă ng thự Hiệp biện đạ i họ c sĩ, lĩnh
Tổ ng đố c như cũ . Bá Nghi ở tỉnh Sơn lâ u ngà y, nhâ n thế có tậ u ruộ ng nhà , tự cho là
mình can và o phá p luậ t, xin chịu tộ i. Vua cho là đã biết tự trình bà y ra, miễn cho.
Nhâ n dụ rằ ng : Khép tộ i nhẹ, là lò ng nhâ n từ củ a vua thể tấ t cho thầ n cô ng, mà giữ
phá p là chính đạ o củ a ngườ i là m tô i giữ trọ n phậ n thầ n tự . Ngươi nay đã lã o thà nh,
có lỗ i tấ t phả i đổ i, hết lò ng là m việc cộ ng cho sớ m yên việc ngoà i biên, về chầ u sẽ
có ngà y; lạ i thêm tiếng chính trị lương thiện, mến tiếc cò n mã i, thờ i dâ n Đồ ng
Hương thờ phụ ng (13) cò n hơn gấ p vạ n ruộ ng nhà , chớ lạ i là m sự lỗ i.
Nă m thứ 23, chủ suý nướ c Thanh là Phù ng Tử Tà i khẩ n tư cho thà nh Tuyên giú p
việc dẹp giặ c. Bá Nghi cù ng vớ i Đà o Trí, hiệp trù việc lương thự c khô ng đượ c kế
tiếp, Phù ng sú y có phà n nà n, Trọ ng Bình đem việc tâ u lên. Vua bèn lấ y lạ i chứ c
tướ c, gắ ng sứ c bá o hiệu chuộ c tộ i. Trọ ng Bình lạ i tâ u nó i : Bá Nghi đã bị cách sai
bả o khô ng tiếng, khó mà dồ n đượ c lỗ i; và tự đó tớ i nay, giả i biện lương và thuố c
đều đã khá đủ , cũ ng là có tâ m cố gắ ng; Vua chuẩ n cho khai phụ c Bố chính ở Sơn
Tâ y, Bá Nghi cho việc khai phụ c là do lờ i xin củ a Trọ ng Bình, tự bày tỏ chưa có thự c
trạ ng, xin từ . Vua nó i : Thưở ng phạ t ở tự triều đình, há có phả i ngườ i xin đượ c ư?
Khô ng cho. Thá ng 4 nă m ấ y, chết ở chỗ là m quan, vua rấ t thương, cho khai phụ c lạ i
hà m Tổ ng đố c, cấ p tiền tuấ t, cho quan địa phương bắ t dâ n hộ tố ng quan tà i về quê.
Bá Nghi trả i là m quan khắ p trong ngoà i, hầ u 40 nă m, ở triều giữ việc cá o sắ c nhà
vua, ra ngoà i coi mộ t phương diện. vă n họ c đủ dù ng, chính thuậ t khả quan, hai lầ n
Tổ ng đố c hạ t Sơn Tâ y, cô ng lao tỏ rõ , tớ i nay ngườ i dâ n địa phương ấ y vẫ n cò n
truyền tụ ng.
>
Ngườ i huyện Phong Phú , tỉnh Quả ng Bình. Viêm sứ c khỏ e hơn ngườ i, mỗ i bữ a ă n
bằ ng bả y tá m ngườ i ă n, thuở nhỏ tậ p võ nghệ.
Nă m thứ 14, phá i đi khá m xét cá c nơi phò ng thủ ở ngoà i biển, từ Quả ng Bình trở
ra, gặ p có bọ n quâ n giặ c ở mặ t nướ c thuộ c Quả ng Yên tụ họ p cướ p bó c cá c phầ n
ngoà i khơi. Vua cho Viêm là ngườ i mạ nh giỏ i tườ ng am luyện đườ ng thủ y, sai kíp
tớ i quả n lĩnh binh thuyền củ a Nghệ An, Thanh Hó a, chở tớ i Quả ng Yên trù liệu cơ
mưu đá nh dẹp. Đến khi giặ c mặ t nướ c tạ m yên, cho rú t về đượ c thă ng Thủ y sư đề
đố c.
Nă m thứ 21, cấ t là m Thố ng chế doanh Hổ uy quyền Chưở ng tả quâ n, kiêm quả n
Hậ u quâ n. Chưa bao lâ u, vì ố m xin nghỉ việc rồ i chết, thọ 71 tuổ i. Con là Huâ n nay
là m suấ t độ i ở kinh binh; chá u là Toạ i đỗ tú tà i.
Nguyễn Thế Trị
Ngườ i huyện Thuậ n Xương, tỉnh Quả ng Trị, là con Thế Châ n là m Đề lĩnh Quả ng Trị.
Nă m thứ 18, quyền nhiếp việc phủ An Nhâ n, rồ i lĩnh Tri phủ , khi đủ hạ n, thă ng là m
Chủ sự , đổ i về là m Ngự sử ở đạ o Nam Nghĩa.
>
Nguyễn Đứ c Hoan
nt>
QUYỂ N 28
Thâ n Vă n Quyền
Tên tự là Dụ ng Trung, ngườ i ở huyện Phong Điền, phủ Thừ a Thiên. Tiên tổ trướ c
là m nhà ở xã Nguyệt Biều, huyện Hương Thủ y. Quyền lú c nhỏ thô ng minh ba đờ i có
tiếng là vă n hay. Gặ p loạ n Tâ y Sơn, khô ng chịu ra là m quan, ẩ n cư dạ y họ c, chuyên
tâ m về lý họ c, họ c trò nhiều ngườ i theo họ c. Đầ u nă m Minh Mạ ng, Đạ i họ c sĩ là
Trịnh Hoà i Đứ c cho đem tên Quyền tâ u lên, 73;ượ c bổ thụ là m Giá o thụ phủ Thă ng
Hoa, là đặ c cá ch chọ n bổ vậ y. Vă n Quyền là m Giá o thụ , chuộ ng chính họ c tậ p tụ c
củ a kẻ phu cả biến đổ i, nên trong bà i khả i mừ ng, có câ u rằ ng: "Nguyệt Biều nhấ t
đá i thủ y, bắ c lai chi cuồ ng lã ng nan dao; hoa ố c kỷ gian sương, tâ y hạ chi mê trầ n
bấ t nhiễm", nghĩa là : mộ t dả i nướ c Nguyệt Biều, só ng dữ từ Bắ c lạ i khó mà lay
chuyển, mâ y là m nhà che sương, bụ i mê ở Tâ y xuố ng khô ng nhuố m bẩ n, cứ như
câ u ấy đủ biết đượ c đạ i khá i. Bấy giờ Quố c tử giá m Tư nghiệp là Nguyễn Đồ ng Sở vì
khó a mù a xuâ n câ n nhắ c mấ t cô ng bằ ng phả i biếm chứ c, Tham tri bộ Lễ là Hoà ng
Kim Hoá n đến Quyền sung cử đổ i thự Tư nghiệp, tớ i kỳ khả o hạ ch, khô ng có ai
đượ c hạ ng ưu. Vua cho Vă n Quyền rèn luyện khô ng đô n đố c, giá ng là m Lạ i bộ chủ
sự ; rồ i thă ng là m Thừ a chỉ sung chứ c Giả ng tậ p ở Dưỡ ng chính đườ ng. Chưa đượ c
qua mộ t nă m, cấ t là m Thị độ c quả n lý phò ng vă n thư.
Nă m thứ 11, ra là m Tham hiệp ở Quả ng Bình, rồ i Thự hiệp trấ n, sung Phó chủ khả o
trườ ng Gia Định, lạ i đổ i sang Thị lang
Trướ c đâ y, cụ c Bả o tuyên ở Bắ c thà nh đú c tiền phầ n nhiều thiếu hụ t, Bộ Hộ đều
ghép và o tộ i. Quyền cho Viên ngoạ i là Lưu Cô ng Nghị và Tư vụ là Nguyễn Doã n
Thô ng mớ i tiếp là m việc đú c tiền. Chưa đượ c bao lâ u, tâ u xin liệu giả m cho Vua bả o
Quyền là lậ p bè lũ để mua chuộ c tiếng thơm, phả i cá ch chứ c để gắ ng sứ c chuộ c tộ i.
Rồ i lạ i khai thụ hà m biên tu, sung chứ c giá o tậ p ở nhà Quả ng Phướ c, 2 vị vương là
Thương Sơn, Vỹ Dã lú c nhỏ cũ ng đều tớ i họ c. Trả i thă ng Thị độ c họ c sĩ, ra là m Á n
sá t sứ ở Tuyên Quang; đượ c hơn mộ t thá ng cấ t lên bổ Thị lang Bộ Hộ , sung biện
việc Nộ i cá c.
Phiên â m :
Lạ i có câ u rằ ng:
Phiên â m :
Dịch nghĩa :
Dẫ u khô ng do châ n khoa cử mà vă n thâ n quyền quý đều biết tiếng cả . Sau khi chết,
Thương Sơn vương có lờ i viếng rằ ng: "Đạ o vị tiên sinh thủ , danh tò ng hậ u bố i
khoa" dịch nghĩa : Đạ o đứ c thì tiên sinh giữ , danh tiếng thì bọ n hậ u bố i suy tô n lên.
Vĩ Dã vương cũ ng khen là hiểu rõ ý nghĩa sâ u sắ c củ a cá c kinh, ấ y đượ c ngườ i ta
tô n mến là thế. Con là Vă n Duy, Vă n Nhiếp đều có truyện riêng. Tớ i nay con chá u
vẫ n kế tiếp đỗ đạ t là m quan là mộ t họ có danh tiếng ở Xuâ n Kinh.
Vă n
Vă n Duy lú c nhỏ thô ng minh khá c thườ ng, nă m 12 tuổ i, thườ ng là m bà i thơ "Tả o
mai" (mai nở sớ m) có câ u rằ ng :
Phiên â m: "Song điệp vị tri hương lĩnh tín, bá ch hoa phương hậ n chiếm xuâ n trì".
Dịch nghĩa: Đô i bướ m chử a hay tin hoa đỉnh nú i hương đã ngá t. Tră m hoa đương
giậ n là chiếm xuâ n chậ m hơn. Ngườ i ta đều chắ c là ít có .
Gia Long nă m thứ 18, đỗ hương tiến (cử nhâ n) mớ i 24 tuổ i do Hà nh tẩ u Bộ Hộ , trả i
thă ng đến Thiêm sự .
Bấ y giờ ở Bộ Hình phầ n nhiều hình phạ t khô ng đú ng mắ c tộ i cả . Vua cho Vă n Duy
đổ i bổ sang Thiêm sự bộ Hình, nhâ n bả o Duy rằ ng : “Ngườ i ta nó i: "kẻ sĩ thi khô ng
may phả i là m hình quan" nếu đú ng như lờ i nó i ấ y, thì Bộ Hình chả nên đặ t nữ a, mà
ngườ i là m tô i có chọ n việc để là m trung ư. Đó là lờ i nó i khô ng có bằ ng cứ đấy thô i.
Tự trẫ m xem ra, nơi lao tù là nhà Phướ c đườ ng, ngườ i là m hình quan biết giữ lò ng
cô ng bằ ng khoan thứ , có ngườ i nà o oan uổ ng phả i xét cho rõ lý, thờ i cá c Phướ c cứ u
số ng ngườ i cò n hơn dự ng ngô i thá p 7 từ ng nhiều lắ m. Ngườ i ở Bộ Hộ , có tiếng là
mẫ n cá n, trẫ m biết đã lâ u. Nay ở phá p tư nên vì trẫ m chia lo, chớ thấ y ngườ i trướ c
bị tộ i mà sờ n lò ng”. Chưa bao lâ u, thă ng thự Thị lang.
Nă m thứ 8, thổ phỉ ở Nam Định là Phan Bá Và nh ngô ng cuồ ng khở i loạ n, quan quâ n
đá nh dẹp lâ u chưa yên đượ c. Vă n Duy mạ nh bạ o dâ ng sớ xin đạ i lượ c rằ ng : "Nay
thổ phỉ ở Bắc thà nh tụ họ p quấ y nhiễu cướ p bó c, xếp đặ t cô ng việc, lạ i phiền nhà
vua lo nghĩ; sở dĩ sai tướ ng đem quâ n thự c muố n dẹp giặ c yên dâ n, thế mà bọ n giặ c
vừ a tan lạ i tụ ngay, thầ n chưa thể hiểu đượ c c đó . Vả lạ i, 2 hạ t Đô ng Nam, đó i thờ i
vừ a bá n thó c ra, vừ a cho vay, kém thờ i thuế khó a tha giả m. Là ngườ i vố n có lương
tâ m trờ i phú cho, há lạ i khô ng có bụ ng tô n thâ n ư? Huố ng hồ bọ n giặ c như giố ng
quạ , giố ng hươu chó ng hợ p, chó ng tan, khô ng so sá nh như địch quố c đượ c. Mà
tướ ng lã o luyện, quâ n tinh nhuệ củ a triều đình, khô ng phả i là khô ng có khí khá i
kình địch vớ i giặ c, thế mà việc thà nh cô ng cò n chậ m đến hà ng nă m hà ng thá ng. Đó
lạ i là chỗ thầ n chưa hiểu ra sao? Thầ n dẫ u việc quâ n lữ chưa họ c, nhưng tình trạ ng
củ a hạ dâ n hoặ c có thể hỏ i han đượ c, oai đứ c củ a triều đình hoặ c có thể tuyên
dương đượ c, xin đượ c theo đi là m việc ở nơi hà ng trậ n, để mong bá o hiệu chú t
đỉnh mộ t phầ n trong muô n phầ n chă ng?”.
Vua khen là giỏ i và cho đi đổ i sang thự Bộ Binh quyền biện binh tà o ở Bắ c thà nh
kiêm tham biện việc trậ n mạ c. Đến khi bình hết giặ c, triều đình nghĩ đến việc là m
cho sau nà y đượ c tố t, cho Thố ng chế lĩnh trấ n thủ Nghệ An là Nguyễn Vă n Hiếu và
Hình Bộ Thượ ng thư là Hoà ng Kim Sá n sung là m Kinh lượ c chá nh phó sứ , cho Duy
là m Tham biện để vỗ yên nhữ ng nơi điêu tà n, sử a sang lạ i quan lạ i, việc điều đâ u ra
đó (đã chép ở truyện Kim Sá n). Khi xong việc triệu về ú y lạ o và thưở ng thêm 1 cấ p
đổ i là m Thị lang ở 2 bộ Hình và Lạ i.
Vă n Duy lấy tà i họ c, đượ c vua biết đến, cấ t nhắ c khô ng theo thứ tự , cù ng ngang
tiếng vớ i Hà Tô n Quyền, Lý Vă n Phứ c ở Bắ c thà nh. Ngườ i bấy giờ có câ u ca rằ ng :
"Họ Thâ n, họ Lý, họ Hà trong nướ c khô ng có nhiều, họ Thâ n, họ Hà , họ Lý trong
nướ c khô ng có mấ y, họ Hà , họ Lý, họ Thâ n trong nướ c khô ng ai bằ ng", đượ c mọ i
ngườ i bà n khen như thế, nếu trờ i để cho số ng thêm ít nă m nữ a thì tá c dụ ng há có
thể lườ ng đượ c ư? C là Trọ ng Tiết, nă m Tự Đứ c thứ 4, đỗ tam giá p Tiến sĩ, là m
quan đến Tậ p hiền thị giả ng; con Trọ ng Tiết là Trọ ng Điềm, Trọ ng Khoá i, Trọ ng
Lẫ m đều đỗ Hương tiến; Điềm là m đến Quang lộ c tự thiếu khanh, Hộ lý phủ Nộ i vụ ,
Khoá i là m Giá m sá t ngự sử đạ o Hữ u trự c (đã chua ở trên) và Lẫ m là m Tri phủ phủ
Tuy Hò a.
Vă n Nhiếp
Tên tự là Ngưng Chi, hiệu là Lỗ Đình. Lú c nhỏ chă m họ c, phó ng khoá ng, có chí lớ n.
Thiệu Trị nă m thứ nhấ t, đỗ hương tiến, do hậ u bố tỉnh Khá nh Hò a, rồ i lĩnh Tri
huyện huyện Tâ n Định, ở tỉnh cho là ngườ i thanh liêm tà i giỏ i, đề cử lên, bổ Hà n
lâ m viện trướ c tá c, sung Nộ i cá c hà nh tẩ u. Hô m và o Cá c, vua ra ngự ở Đô ng Cá c cho
tuyên triệu và o dụ rằ ng : Ngươi là con thứ mấ y củ a Thâ n Vă n Quyền? Tuổ i bao
nhiêu? Có biết là m thơ khô ng? Lạ i ngoả nh lạ i bả o viên cá c trưở ng là Nguyễn Cử u
Trườ ng rằ ng : Nhiếp là m con nhà thế gia có họ c, mớ i và o cá c hoặ c có sự tớ i lui
chưa quen, nên bả o cho biết. Nă m Tự Đứ c thứ nhấ t, thă ng Thừ a chỉ.
Nă m thứ 2, mớ ;i đặ t Tam kinh duyên, đổ i là m Thị giả ng ở viện Tậ p hiền sung chứ c
Khở i cư trú . Vua thườ ng đi du hạ nh quan ở kinh duyên, dâ ng sớ can có câ u rằ ng :
Thô i diệt vị ly ư Dụ c thấ t, du quan dĩ khở i ư hậ u hồ , nghĩa là sô gai chử a rờ i nơi
Dụ c thấ t, chơi xem đã chớ m ở nơi hậ u hồ . Vua sắ c bả o : Lạ i là thủ bú t (tay viết) củ a
Vă n Nhiếp. Rồ i thă ng Thị độ c đổ i là m Đố c họ c Gia
Nă m thứ 6, đổ i thự Hồ ng lô tự khanh, tham biện việc Cá c. Chưa bao lâ u, đình thầ n
đề cử là m Quố c tử tế tử u. Vua bả o : Nhiếp mớ i và o Cá c, là m việc cũ ng chă m khá ,
khô ng nên vộ chứ c khá c. Chưa đượ c đầ y nă m, đổ i là m Biện lý Bộ Lễ, đứ ng đố c xâ y
dự ng bả o thà nh ở Hiếu Lă ng; lạ i kiêm giữ ấ n triện tự Đạ i lý. Bấ y giờ Tham tri Bộ
Lạ i là Hoà ng Thu có đạ i tang, chuẩ n cho nghỉ 4 thá ng. Nhiếp cho trá i lệ, có hạ i đến
lễ giá o, xin cho theo lệ (12 thá ng) để tang, khiến cho kẻ dướ i nghe thấ y đều rõ chí ý
về giá o điều tá c trung củ a triều đình. Vua cho là phả i. Vừ a gặ p có cá i á n dâ n ở hai
tỉnh Thanh Hó a, Ninh Bình tranh nhau trưng ruộ ng đấ t. Hai tỉnh ấ y khá m xét phâ n
xử hơn 10 nă m chưa xong. Vua sai Nhiếp tớ i tra xét chỉ hơn 20 hô m là xong. Khi về
bổ là m Hồ ng lô tự khanh, lĩnh Bố chính sứ ở Vĩnh Long. Chưa bao lâ u, thă ng Thá i
bộ c tự khanh, rồ i đổ i về biện lý Bộ Binh, đổ i đi thự Bố chính Quả ng Nam.
Nă m thứ 11, mù a thu, tà u Phá p chở tớ i cử a biển Đà Nẵ ng, quan quâ n đạ i độ i ngă n
dẹp đang lú c khẩ n cấ p, Nhiếp ngà y đêm mưu tính ổ n thỏ a. Nhiếp ở Quả ng Nam ba
nă m có nhữ ng bà i sớ như tâ u xin đem tiền thó c dâ n đã vay ấ y, cấ p cho dâ n là m vố n
để là m kho củ a xã , và phá t chẩ n cứ u tế cho dâ n đó i, lạ i cố chấ p lờ i tâ u trướ c về việc
phá i nhâ n viên kiểm tra cá c thuyền ở sô ng và xin đình phá i viên đi mua các vậ t
hạ ng, cho buô n bá n có nơi. Vua phầ n nhiều tiếp nhậ n cho thi hà nh.
Nă m thứ 14, Nam Kỳ có biến độ ng, viên Phủ thừ a phủ Thừ a Thiên là Nguyễn Tú c
Trưng trình bà y xin cho mộ lính nghĩa dũ ng tò ng quâ n, lạ i cho Nhiếp là ngườ i tà i
nă ng, sứ c khỏ e, trí thứ c đủ cả , trướ c đâ y ở Định Long sĩ phu vẫ n tín phụ c, xin cho
cù ng đi. Vua bèn đổ i bổ Nhiếp là m Binh bộ Thị lang sung là m Hiệp tá n ở quâ n thứ
Biên Hò a. Nhiếp tớ i quâ n thứ , đem tình hình và sự thể chố ng giữ tâ u lên. Vua cho là
lờ i tâ u bày có kiến thứ c thao lượ c, lạ i hay cả m kích hă ng há i. nên cho đượ c hết lò ng
mà là m cho ổ n thỏ a. Rồ i sau tỉnh Biên Hò a khô ng giữ đượ c phả i cá ch lưu. Kịp lú c
hò a nghị đã thà nh, đổ i là m bố chính sứ ở Bình Định. Nhiếp về tớ i Bình Thuậ n, bị
bệnh xin về quê.
Nă m thứ 16, Vua cho Nhiếp là ngườ i cứ ng ngạ nh có họ c thứ c, đổ i là m Thị lang Bộ
Lạ i, tham biện cô ng việc ở viện Cơ mậ t.
Nă m thứ 17, cù ng vớ i Biện lý bộ Binh là Nguyễn Vă n Tườ ng đi khắ p 9 châ u trong
hạ t Quả ng Trị đò xét dâ n tình địa thế. Khi xong việc trở về, thự Tham tri Bộ Binh,
Hộ lý tổ ng đố c Bình Phú . Bấy giờ dâ n ở Quả ng Ngã i, Bình Định bị đó i phả i lưu tá n
kiếm ă n, lạ i nhâ n mưa lụ t phầ n nhiều mắ c bệnh. Nhiếp thô ng sứ c cho sở tạ i đưa
đặ t ngườ i ố m về nghỉ ở quá n chợ , chi tiền cô ng mua thuố c để chữ a và nấ u cơm
chá o nuô i nấ ng; rồ i đem tình hình tâ u lên.
Nă m thứ 18, đình thầ n bà n bỏ cấ m thuố c phiện mà đá nh thuế nặ ng. Nhiếp ba, bố n
lầ n trình bà y cho là khô ng nên. Nhưng cá c tờ sớ ấ y bỏ đó , khô ng thi hà nh. Nhiếp lạ i
dâ ng sớ nó i về cô ng việc sử a sang đồ n bả o ở Thị Nạ i, hiện đã khá m xét trù tính rồ i,
đến như việc thuê thuố c phiện khô ng nên nghe theo thỉnh cầ u chú t nà o, để ngườ i
lĩnh trưng trả lạ i khô ng thu nộ p nữ a. Đó là nhâ n giữ chứ c để cho thuế khó a củ a nhà
nướ c thiếu hụ t và vì tình hình ố m đau xin cá o. Tờ sớ dâ ng lên, Vua phê bả o : Tỉnh
Bình Định là mộ t địa phương lớ n ở Tả Kỳ (14) ngươi là dò ng dõ i thế thầ n, cũ ng có
thể là m nổ i cô ng việc trên thờ i trẫ m chuyên ủ y thá c cho, dướ i thờ i thuộ c đều tín
trọ ng, cố t nên hết sứ c mưu để bá o đá p, mớ i phả i. Thế mà sau khi ngươi từ trong
Nam trở về, thườ ng cá o ố m trá nh việc, tự a hồ có ý bấ t mã n, sao lạ i trá i ngượ c mà
lạ i kiêu ngạ o trá ch mó c. Cứ mộ t việc ấ y, đã khô ng phả i nghĩa củ a ngườ i là m tô i, lạ i
khô ng phả i là ngườ i có đạ o họ c. Hơn nữ a, lờ i lẽ trong tờ sớ phầ n nhiều lú c câ u kín
hở , như việc sử a sang phò ng bị ở cử a biển, là chứ c phậ n nên là m; khô ng cho ngườ i
khá ch ngườ i nướ c Thanh tự tiện tớ i nhà , dâ n thu thuế thuố c phiện cũ ng là phả i.
Nhưng cá i ý chia bai xương dượ ng ngầ m, chỉ thấ y là ngườ i hẹp hò i bạ c bẽo, trẫ m
rấ t khô ng bằ ng lò ng. Bậ c tiên nho thườ ng nó i: Dẫ u có đứ c nghiệp cô ng lao như Chu
Cô ng, cũ ng chẳ ng qua phậ n sự là ngườ i là m tô i. Lạ i như Hà n Kỳ đờ i Tố ng, từ ng cố
sứ c can ngă n về việc là m phá khô ng hợ p, có câ u nó i rằ ng: "Kỳ là cự u thầ n vì nghĩa
khô ng thể im lặ ng đượ c". Tớ i khi khô ng thấ y nghe thì lậ p tứ c hiếu dụ thuộ c viên
tuâ n hà nh. Lạ i nó i: "Kỳ là mộ t chứ c Quậ n thú , dá m đâ u khô ng theo lệnh," sao mà
thuầ n thế. So vớ i Chu Cô ng cố nhiên khô ng thể bì tỵ , nhưng ngườ i ví vớ i Hà n Cô ng
thì như thế nà o? Đã nhiều lầ n phê bả o, há khô ng biết ư? Sao chỉ biết trá ch ngườ i,
mà khô ng biết tự xét mình. Nên nghĩ lạ i cho kỹ. Nếu ố m khô ng thể là m việc đượ c,
cho tạ m nghỉ tĩnh dưỡ ng, cô ng việc tạ m giao cho bố , á n hộ i là m. Khi ngươi khỏ i ố m
lạ i cung chứ c như cũ , quyết khô ng nên lấ y việc tư là m trở ngạ i việc cô ng, bà n xằ ng
can tộ i.
Nă m thứ 19, thă ng bổ Tuầ n phủ , nhưng vẫ n hộ đố c. Tớ i khi nghe trong Kinh có
biến loạ n về tên Trưng, tên Trự c, dâ ng sớ trình bày về kế tự cườ ng tự trị, đạ i lượ c
rằ ng : Thầ n nghe nhữ ng việc ngang ngượ c, là giú p cho ngườ i quâ n tử đượ c tiến
đứ c. Nhà nướ c ta tá m chín nă m nay gặ p biến cố luô n, ở trong nướ c thì thủ y hạ n tậ t
dịch, dâ n trô ng nhìn và o đâ u mà số ng đượ c, ở ngoà i thì Nam, Bắ c xâ m lấ n tơi bờ i,
bồ i tiền cắ t đấ t. Đâ y chính là lú c kẻ thầ n tử phả i hiến thâ n hết sứ c, mà là ngà y nhà
vua nên nằ m gai nếm mậ t vậ y. Thế mà gặ p việc lạ i cho là ngẫ u nhiên, chưa thấ y
thự c sự tu tỉnh bổ cứ u. Mà phá p lệnh thay đổ i, chỉ suy bì về lợ i, khô ng lo tính xa.
Gầ n đâ y, ngay ở Kinh sư phá t ra nhữ ng nghịch á n khô ng phả i là việc nhỏ . Kể ra,
biến cố sinh ra khô ng cứ việc gì mà khở i ra, khô ng cứ mộ t việc gì mà thô i đi đượ c.
Chỉ có việc nà o cũ ng kính cẩ n, lú c nà o cũ ng kính cẩ n. Kinh Thư có câ u nó i : Oan tự
sinh ra há ở nơi sá ng tỏ , nên sự khô ng thấ y phả i tính đến. Nay đã sá ng tỏ rồ i há
chẳ ng gấ p mưu toan ư? Chỉ cố t ở trong tâ m thô i. Mà chính sự củ a ta hay hay dở ,
nướ c lá ng giềng chử a từ ng chẳ ng rình chỗ hở củ a ta, để xen và o cá i lo củ a ta, rấ t
đá ng sợ . Cú i mong nhà vua dố c ý cố gắ ng để tâ m lo nghĩ ở nơi cung khuyết 9 lầ n
tô n nghiêm, thì nghĩ đến xứ Nam kỳ cử a nhà bị thiêu hủ y, ngắ m nghía lầ u gá c ở
lă ng tẩ m rự c rỡ thì nên nghĩ đến mồ mả củ a dâ n Nam kỳ bị phá hủ y; ă n đồ ngọ c
thự c củ a Thượ ng phương dâ ng tiến, thì nghĩ đế thổ sả n ở Nam kỳ có cò n gì khô ng?
Vỗ về dâ n đâ u há ở nơi kỳ phụ , thì nghĩ đến dâ n ở Nam Kỳ có ai chẩ n tuấ t khô ng?
Nghĩ đi rồ i lạ i nghĩ lạ i, tự nhiên có thể cả m độ ng đượ c lò ng thá nh thượ ng, hă ng há i
lo xa, phà m việc gì khô ng cầ n cấ p, chính sá ch khô ng tiện lợ i, cho đến việc dù ng
ngườ i nuô i quâ n, bỏ xa xỉ, chuộ ng kiệm ướ c lầ n lượ t thay dâ y đổ i vết bá nh, để
đượ c hay cả . Nhưng trướ c hết phả i bã i việc đi Đô ng đi Tâ y, triệu cá c nhâ n viên đi
mua nhữ ng phẩ m vậ t trở về, tà u má y rú t về cử a biển Thuậ n An để phò ng bị tuầ n
tiễu. Nhữ ng lính sai đi là m việc, khoan cho sứ c là m, chớ đố c trá ch quá , cố t mong
thự c bụ ng thi hà nh. Tiếng tă m đồ n đến đâ u đều thỏ a thuậ n lò ng ngườ i. Lò ng ngườ i
đã cả m theo, thì lò ng trờ i cũ ng thuậ n giú p, mà gố c nướ c đượ c vữ ng bền yên ổ n mã i
vô cù ng. Xưa có câ u nó i rằ ng : Nhiều nạ n mớ i dự ng đượ c nướ c, lo nghĩ nhiều mớ i
sinh ra thá nh đứ c, là thế đó . Nếu coi là tầ m thườ ng, thì cá i lo sau nà y sợ chưa thô i
đâ u. Thầ n tuổ i già lạ i ố m, há dá m nghĩ đến việc rú t lui, vì tấ m lò ng khuyển mã
khô ng thể thô i đượ c. Cú i mong rủ lò ng soi xét, nếu có đượ c câ u gì thì xin kíp cho thi
hà nh. Nếu cho là cuồ ng rỡ nó i cà n, thì cách chứ c, là m tô i cũ ng khô ng dá m trá ch.
Vua phê bả o : Nó i đơn giả n mà thiết thự c, có thể gọ i là kỳ vọ ng cho vua biết khó
là m đượ c. Tâ m lự c củ a ta thế nà o? Đã có mặ t trờ i soi xét và mọ i ngườ i đều biết,
khô ng dá m nó i gì.
Nă m thứ 21, thă ng thự Tổ ng đố c. Bấ y giờ , vua thườ ng đi chơi ngự cô ng việc xâ y
dự ng kế tiếp. Nhiếp lạ i tâ u nó i : "Từ xưa ngườ i trị quố c gia, mà biết lo lắ ng siêng
chă m thì thườ ng thấ y nguy biến, nếu nhà n rỗ i vui chơi thì thườ ng thấ y yên ổ n.
Thườ ng thấ y nguy biến là gố c tri trị, thườ ng thấ y yên vui là mầ m họ a loạ n. Mã Chu
đờ i Đườ ng dâ ng sớ có nó i rằ ng : "Khi xưa đờ i Tù y lú c chưa loạ n, tự cho là khô ng
bao giờ có loạ n; chưa mấ t nướ c, tự cho là khô ng bao giờ mấ t nướ c". Thế mà loạ n
vọ ng theo ngay, việc chia ra an nguy, tồ n vong, là chỉ do ở bậ c nhâ n chủ mộ t lò ng
kính sợ hay cà n giở đó thô i. Thầ n cú i thấ y sự th ngà y nay, là thờ i đạ i nà o ư? Bờ cõ i
cũ chìm mấ t, giặ c Bắ c lan trà n, nắ ng lụ t gió bã o, chỗ nà o cũ ng bá o có tai biến sứ c
kiệt, củ a hết, dâ n khô ng lấ y gì mà số ng đượ c. Lạ i nó i Kỳ phụ lay độ ng, loạ n lạ c nổ i
lên, cá i thế an nguy, thự c khô ng nhữ ng tră m điều lo mà thô i đâ u. Thế mà gầ n đâ y
cô ng việc xây dự ng kế tiếp tha hổ xa xỉ khô ng thô i, là m ngô i lă ng "Vạ n niên cơ" so
vớ i lă ng Thiên Thụ khô ng nhữ ng tố n gấ p 10 lầ n; lạ i ngó i đen gở i mua ở Hạ Châ u,
giấ y mỏ ng là m trò gở i mua ở nướ c Thanh, gấ m bó ng, đồ uố ng, nhiều nă m phá i đi
mua sắ m, đờ n Tâ y Dương, vả i Tâ y Dương, nă m nà o cũ ng có thanh đơn trả tiền. Lạ i
khi tuầ n hà nh, cung nữ chèo thuyền, đó đều là từ trướ c tớ i giờ chưa từ ng có , mà
thấ y luô n trong khoả ng 4, 5 nă m nay. Lạ i, nay lầ u ở trong cung mớ i xong, lầ n để
thuyền sô ng mớ i là m. Đương lú c hạ n há n tai ương, gạ o thó c cao giá , mà chẳ ng chú t
giả m bớ t. Xưa kia, Há n Vă n đế tiếc tră m lạ ng và ng khô ng xâ y lộ đài, và nó i: "Ta
phụ ng thờ tiên đế quả là thườ ng vẫ n sợ thẹn, xâ y đà i là m gì?" Hoà ng thượ ng ngà y
thườ ng vẫ n mong bắ t chướ c như Vă n đế, thế mà hiện nay hà nh độ ng lạ i trá i ngượ c
quá . Cho dâ n lao khổ để là m vui, vung tiền củ a để cho thích. Cố t muố n vượ t khuô n
phép trướ c, để khoa mẽ sau nà y. Sẽ muố n kéo dà i việc chơi bờ i để hưở ng hết tuổ i
trờ i, chẳ ng cũ ng bả o rằ ng có thương hạ i gì đâ u ư? Mà khô ng biết bụ ng nghĩ ấ y đã
lưu ở việc là m phồ n hoa du đã ng, lò ng ngườ i ta oá n, đườ ng sá vang rầ m, sẽ khô ng
thể cứ u chữ a đượ c. Thầ n, sợ lò ng ngườ i ly tá n, đến lú c ấ y dẫ u có lầ u rộ ng gá c cao,
khô ng nhà n hạ đâ u mà du thưở ng nữ a. Nhà vua có nướ c mà khô ng biết thương xó t,
thì thầ n dâ n đâ u chịu tiếc cá i chết. Đã nhiều lầ n dâ ng sớ , chưa thấ y đổ i thay. Nay lạ i
xú c phạ m nhữ ng điều kiêng kỵ , xin giao cho quan tư khâ m kết thầ n tộ i chết, để
chính cá i tộ i củ a thầ n, mong thấ y độ ng đến nhà vua!
Vua nó i : Lờ i ngươi thố ng trá ch, đều là lỗ i củ a trẫ m vậ y, sai Viện thầ n mậ t chép để
biết. Rồ i chuẩ n cho đượ c thự c thụ .
Nă m thứ 24, Hả i phò ng s ở Bình Định chỉ tên tham hặ c việc Nhiếp là m khô ng đú ng,
phả i giá ng 2 cấ p đổ i đi, nhâ n đương ố m xin ở lạ i chữ a rồ i chết, thọ 69 tuổ i.
Vua cho Nhiếp là ngườ i cương trự c đượ c việc quen thạ o, vố n có cô ng lao tà i nă ng,
mắ c tộ i cũ ng khô ng phả i là tham tang hố i lộ , gia ơn cho truy phụ c hà m cũ , cấ p cho
tiền tuấ t, và bắ t trạ m phu ở dọ c đườ ng phả i hộ đưa về an tá ng; lạ i cho Phủ doã n
Thừ a Thiên vâ ng mệnh đến tế mộ t tuầ n.
Con có 3 ngườ i : Trọ ng Trữ là m quan đến Tri phủ phủ Tuy An; Trọ ng Huề là m Bố
chính sứ ở Quả ng Nam; Trọ ng Thuậ n lấ y ấ m sinh sung Ký lụ c, rồ i đỗ hương tiến.
Con Trữ là Trọ ng Cả nh, Trọ ng Hố t. Trọ ng Cả nh cũ ng đỗ hương tiến là m Đố c họ c ở
đạ o Ninh Thuậ n; Trọ ng Hố t lú c đầ u đỗ hương tiến tớ i trú ng liền Phó bả ng.
Nhã Bá Sĩ
Nă m thứ 11, thự Lang trung, ra trô ng coi thuế đườ ng ở Quả ng Ngã i, bị việc phả i cấ t
chứ c, phá i đi theo sang Quả ng Đô ng ra sứ c bá o hiệu chuộ c tộ i. Rồ i sau khai phụ c
kiểm thả o, lĩnh huấ n đạ o ở huyện An Lạ c, thă ng Giá o thụ phủ Hoà i Đứ c, gia là m
Hà n lâ m viện tu soạ n, vì ố m nghỉ việc. Đầ u nă m Tự Đứ c, đượ c cá c quan đề cử , nên
thườ ng xuố ng chiếu cho khở i phụ c, đều cá o ố m xin từ .
N59;m thứ 17, lạ i mậ t trầ n 3 chướ c "tiên nghi". Vua nó i rằ ng : Ngườ i ấ y mà tuổ i già
đá ng tiếc. Chuẩ n cho cù ng vớ i 2 tỉnh thầ n Thanh, Nghệ thương nghị việc cô ng.
Nă m thứ 20, bị ố m chết, thọ go tuổ i. Bá Sỹ ở nhà hơn 10 nă m, dạ y bả o họ c trò ,
trong châ u trong là ng đều mến thanh giá o củ a ô ng. Sau khi mấ t, Vua thườ ng dụ bả o
cá c quan sai tiến cử ngườ i nà o họ c hà nh thuầ n chính như Nhã Bá Sỹ, đượ c vua
chọ n biết yêu quí. Bá Sỹ có trướ c tá c : Đạ i họ c đồ thuyết, 1 quyển; Thanh Hó a tỉnh
chí, 2 tậ p; Việt hà nh tạ p thả o, 2 tậ p; Nghị â m hã n hương 2 tậ p. Và nhữ ng quyển :
Vịnh Việt sử thi tậ p, Đạ m trai thi vă n, cù ng nhữ ng tậ p : Đạ m trai quan nghị, Nghị
â m biệt lụ c v.v... em là ố , con là Dĩ Huyễn, Tri Thuậ t chá u là Duy Cơ đều đỗ hương
tiến.
Nguyễn Thu
Khi xưa tên là Bả o, tự là Định Phủ , ngườ i huyện Nô ng Cố ng, tỉnh Thanh Hó a. Cụ là
Hiệu, ô ng là Hoả n, khoả ng nă m Chính Hò a (đờ i Lê Hy Tô ng) kế tiếp đỗ Tiến sĩ, đều
là m đến Tham tụ ng. Minh Mạ ng nă m thứ 2, đỗ hương tiến, lú c đầ u bổ Tri huyện
Thanh Hà , rồ i thă ng Tri phủ Kinh Mô n, bị việc phả i giá ng là m Tư vụ Bộ Lễ, nhiều
lầ n thă ng tớ i Lang trung.
Nă m thứ 4, pho "Thự c lụ c tiền biên" là m xong, cấ t lên Thị giả ng họ c sĩ, rồ i gia Hồ ng
lô tự khanh, sung và o Toả n tu.
Tự Đứ c nă m thứ nhấ t, thă ng Quang bộ c tự khanh, sung Phó sứ sang Yên Kinh. Khi
xong việc trở về sung là m cô ng việc Nộ i cá c; rồ i bổ Hữ u thị lang Bộ Lạ i, trả i là m Bố
chính 2 tỉnh Bình Định và Phú Yên, đổ i về Tả thị lang Bộ Hộ .
Nă m thứ 7, bổ Bố chính tỉnh Khá nh Hò a, khi và o từ biệt trướ c mặ t vua để đi, vua dụ
bả o : Mưu tính cô ng việc giữ đã . Nă m sau bị ố m chết ở chỗ là m quan, thọ 57 tuổ i.
Vua bả o : Thu là m quan điềm tĩnh đá ng khen, sai cấ p thêm tiền tuấ t để là m ma.
Thu là ngườ i yên tĩnh chắ c chắ n, chă m về soạ n thuậ t, mỗ i khi ở cô ng đườ ng lui về,
thờ i ngồ i yên lặ ng trọ n ngà y, bên tả đồ họ a, bên hữ u sá ch vở , tay khô ng rờ i quyển
sá ch. Trướ c tá c có nhữ ng bộ : Sử yếu, Hoà n vũ kỷ vă n, Sử cụ c loạ i biên, Quố c sử ký
biên, Điển lễ lượ c khả o, Kinh mô n phủ chí, Thanh Hà huyện chí, Phương Sơn từ chí
lượ c, Thạ ch đề mộ ng thuyết, Tinh thiền tù y bú t, Sứ trình tậ p ký, Anh vũ họ c ngô n,
Biền lệ tạ p vă n, Tạ p cú thi khả o, cộ ng 14 tậ p. Con là Giả n, em là Nhâ n; chá u họ là Vỹ
đều đượ c nổ i tiếng.
Giả n
Tên tự là Tuâ n Phủ , Tự Đứ c nă m thứ nhấ t, đỗ hương tiến, bổ là m Tri huyện ở Thủ y
Đườ ng. Gặ p tỉnh Hả i Dương có giặ c cướ p, Giả n mộ quâ n nghĩa dũ ng theo quâ n thứ
đi bắ t dẹp.
Nă m 19, lĩnh Tri phủ ở Kinh Mô n và trướ c kia theo quâ n có cô ng, bổ Hà n lâ m viện
thị độ c nhưng vã n lĩnh Tri phủ . Rồ i đình thầ n xét ra có cá n lượ c, sung là m Bang
biện Hả i Dương tỉnh vụ và tham tá n việc tuầ n phò ng ngoà i biên.
Nă m thứ 24, sung là m Thương biện sơn hả i phò ng ở Thanh Hó a, kiêm khuyên bả o
khai khẩ n đấ t bỏ hoang ở miền thượ ng du. Nă m sau đượ c gia Thị giả ng họ c sĩ, rồ i
sung là m Sơn phò ng sứ ở Thanh Hó a, bị việc phả i mấ t chứ c, gắ ng sứ c bá o hiệu
chuộ c tộ i. Rồ i sau tiến quâ n tớ i 2 châ u Quan, đượ c thắ ng trậ n, lạ i khai phụ c Hà n
lâ m viện trướ c tá c, đổ i là m chủ sự Bộ Lễ thă ng đến Lang trung.
Nhâ n
Gia Long nă m thứ 12, đỗ hương cố ng, trả i bổ Tri huyện Nga Sơn. Nhâ n tính vố n
hiền là nh, là m việc chuộ ng khoan hò a giả n dị, khô ng nhậ n đồ đưa lễ; rồ i bổ Tri phủ
Hà Trung, vẫ n trong sạ ch kiệm ướ c như trướ c. Dâ n có việc đến kiện, đem nghĩa lý
hiểu bả o, ngườ i cũ ng tin lờ i, khô ng nỡ dố i trá . Về hình ngụ c cà ng cẩ n thậ n, khi
khá m xét nhữ ng á n nặ ng rấ t phả i chă ng sạ ch mậ t đả o, Sau là m đến Lang trung Bộ
Hộ .
Vĩ
es New Roman">
Khi trướ c tên là Quố c Cẩ m, ngườ i huyện Tiên Du, tỉnh Bắ c Ninh. Minh Mạ ng nă m
thứ 2 đỗ hương tiến, do tư vụ Bộ Lễ, bổ ra Tri huyện Nam Xương, trả i thă ng Viên
ngoạ i lang Bộ Lạ i.
Nă m thứ 17, cấ t lên là m Á n sá t sứ Bình Thuậ n và Hộ lý tuầ n phủ quan phò ng tỉnh
ấ y.
Đầ u nă m Thiệu Trị, chuyển là m Tả thị lang, nhiều lầ n thă ng đến Tuầ n phủ 2 tỉnh
Hưng Yên và Hà Tĩnh.
Phan Tĩnh
Khi trướ c tên là Vĩnh Đinh, ngườ i huyện Tâ n Long, thà nh Gia Định. Minh Mạ ng nă m
thứ 12, đỗ hương tiến, đầ u nă m Tự Đứ c nhiều lầ n thă ng đến Thị lang Bộ Lễ, sung
là m Chá nh sứ sang nướ c Thanh. Khi đi sứ về, đổ i là m Bố chính sứ Quả ng Nam.
Chưa bao lâ u cấ t là m Tuầ n phủ Hưng Hó a.
Nă m thứ 12, quâ n Phá p đá nh hã m thà nh Gia Định, đổ i sung là m tham tá n. Trậ n
đá nh ở đồ n tả Phú Thọ , Tĩnh trú ng đạ n bị thương. Việc đến tai vua, cấ p cho sâ m
quế, xạ hương, bă ng phiến và 30 lạ ng bạ c; chuẩ n cho cá ch lưu vẫ n sung tham tá n
ngồ i trong trướ ng bà y mưu lậ p kế, rồ i đổ i là m tá n </font>
Tĩnh vố n có danh vọ ng vua rấ t thương, truy tặ ng hà m Tham tri, sai quan đến tế và
cấ p thêm cho 1 cây gấ m Trung Quố c, 5 tấ m lụ a, 10 tấ m vả i và 80 lạ ng bạ c, cù ng bổ
dụ ng cho các con.
Nguyễn Hiên
Ngườ i huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, lú c nhỏ đọ c sá ch có trí lượ c. Khoả ng nă m
Minh Mạ ng ra đầ u quâ n, bắ t đầ u bổ là m độ i trưở ng, theo đi quâ n thứ ở thà nh Phiên
An, có cô ng cấ t là m suấ t độ i, lạ i đi Trấ n Tâ y, đá nh phá đồ n Thiết Thă ng cấ t là m
quả n cơ.
Nă m thứ 17, thă ng bổ Thố ng chế doanh Long Vũ , kiêm quả n Hậ u quâ n, trả i coi Tả
hữ u quâ n. Gặ p lú c Nam kỳ có việc sung là m Hả i phò ng sứ ở Tả trự c kỳ, ủ y cho huấ n
luyện cá c biền binh và việc sử a sang cá c đồ n bả o.
"48">Nă m thứ 21, mù a thu, giặ c Ngô bên nhà Thanh đá nh hã m tỉnh Cao Bằ ng, quan
quâ n bị thương, Vua cho sung là m Khâ m sai Thá i Nguyên đạ o Thả o nghịch Tả
tướ ng quâ n và cho 80 lạ ng bạ c, cù ng thanh gươm Vua dù ng để long trọ ng quyền
hà nh. Hiên tớ i quâ n thứ , cù ng vớ i Bình khấ u tướ ng quâ n và Đoà n Thọ tâ u bà y kế
sá ch đẹp vỗ tình hình ở ngoà i biên (lờ i nó i chép ở truyện Đoà n Thọ ). Vua khen và
nhậ n lờ i, đổ i sung là m Hiệp thố ng quâ n thứ Lạ ng Sơn; rồ i lĩnh Tổ ng đố c ở Định
Yên.
Nă m thứ 2, phá i viên củ a Phá p là quan ba An Nghiệp đã lấ y Hà Thà nh, đem binh
thuyền rờ i xuố ng Nam Định. Bấ y giờ hò a ướ c chưa định, Hiên ủ y cho Lã nh binh là
Nguyễn Vă n Lợ i và Thương biện là Phạ m Vă n Nghị đó n đá nh ở đồ n Độ c Bộ , khô ng
địch nổ i, tà u Phá p chạ y thẳ ng lên sô ng Vỵ Hoà ng bắ n phá rồ i chiếm giữ lấ y thà nh.
Hiên bị cá ch chứ c gắ ng sứ c bá o hiệu chuộ c tộ i. Rồ i sai cá c quan ở quâ n thứ cho
Hiên là vố n có cô ng lao, tâ u xin cho khai phụ c hà m Phó quả n cơ, về quê rồ i ố m chết,
thọ 82 tuổ i, con là Oanh đượ c tậ p viên tử .
QUYỂ N 29
Hồ Uy
Ngườ i huyện Phong Điền, phủ Thừ a Thiên. Khoả ng nă m Minh Mạ ng, ra đầ u quâ n,
trích sung và o viện Thượ ng Trà , Thiệu Trị nă m thứ 6, bổ là m Thị bậ c thứ 5, vì sá t
hạ ch và o hạ ng bình, trả i thă ng lên bậ c thứ 2.
Tự Đứ c nă m thứ 12, phá i đến quâ n thứ Quả ng Nam. Trậ n đá nh ở Hả i Châ u có cô ng,
bổ là m Cẩ m binh phó vệ ú y; rồ i đổ i sang vệ Khinh kỵ viện Thượ ng tứ sung là m
Hiệp lĩnh Thị vệ ở ban trự c. Hồ i lâ u, thă ng Chưở ng vệ, quyền giữ ấ n triện doanh
Long vũ .
Nă m thứ 19, gian dâ n là Đoà n Trưng, Đoà n Trự c họ p bọ n lũ gâ y biến, bứ c hiếp thợ
là m ở xưở ng Dương Xuâ n k̓5; có nghìn ngườ i, sấ n và o cử a Ngọ mô n, chuyển tớ i cử a
Tả dịch. Viên thị vệ là Nguyễn Thịnh, Chỉ huy sứ là Phạ m Viết Trang đó ng cử a
chố ng cự , đều bị thương. Giặ c phá cá nh cử a và o đến nhà Duyệt Thị, Uy ngă n chố ng,
Trự c chém phả i Uy bị thương tai bên phả i. Uy hô to bả o Nộ i giá m kíp đó ng cử a chá i
bên tả ; tứ c thì ra hiệu lệnh gọ i nhữ ng ngườ i tú c trự c ở xứ Thị vệ, ty Cẩ n tín tớ i bắ t
giặ c. Bấ y giờ giặ c Trưng đem bè lũ ướ c nă m, sá u tră m ngườ i tớ i trướ c điện Thá i
Hò a sắ p nghi vệ gọ i vệ loan giá đem kiệu ra đó n Đinh Đạ o. Kiệu nử a đườ ng, Uy gặ p
hét lên bắ t lui; lạ i trỏ biền binh ở sở cô ng tá c mắ ng rằ ng : "Bọ n ngươi cam chịu
theo giặ c ư?" Chú ng đều rú t lui tan đi, Uy sấ n đến đâ m, tên giặ c Trự c ngã xuố ng, rồ i
bộ biền kế tiếp đến, Trưng cũ ng bị bắ t, bắ t hết đượ c cả bọ n lũ . Đến khi đình thầ n
xét tâ u cô ng trạ ng, cấ t bổ Uy là m Đô thố ng doanh Long Vũ , tấ n phong là Dũ ng
nghĩa tử , nhưng vẫ n sung là m quả n lĩnh Thị vệ đạ i thầ n; gia thưở ng cho 1 cá i bà i
và ng có 5 chữ "Sắ c tứ Trung dũ ng tướ ng", 1 cá i bà i đeo bằ ng ngọ c quý 1 cá i nhẫ n
đeo bằ ng và ng dá t mặ t ngọ c kim cương liền nhau và 10 lạ ng và ng, lạ i gia cho 1 cấ p
trá c dị; và o triều đứ ng hà ng dướ i ban vă n thự hiệp biện. Rồ i sau đổ i là m Tiền quâ n
đô thố ng, kiêm Chưở ng Tả quâ n.
Nă m thứ 23, quâ n thứ ở Bắ c kỳ thườ ng bị thua, Uy xin theo đi đá nh dẹp. Vua cho là
bên ban vũ đương cầ n ngườ i,
Nă m thứ 26, Hà thà nh có việc sai sung là m Tổ ng thố ng quâ n vụ , đem đạ i binh tớ i
đầ u địa giớ i cõ i Thanh Hó a, Ninh Bình nghiêm mậ t đó ng đồ n xem cơ hộ i mà là m.
Gặ p tỉnh Nghệ An có tên Trầ n Tố n khở i loạ n, đổ i là m An Tĩnh Tổ ng thố ng đạ i thầ n.
Thá ng 4 nă m ấ y, bị ố m, vua sai thị vệ đi ngự a trạ m cấ p cho sâ m quế củ a vua dù ng.
Rồ i sau vì phá i đi khô ng có cô ng trạ ng gì, cho triệu về giá ng là m chưở ng vệ, nhưng
quyền chưở ng Tiền quâ n. Nă m thứ 28 thờ i chết.
Uy vố n có dũ ng lượ c, vua suy nghĩ cho phụ c lạ i nguyên hà m Đô thố ng. Con có 3
ngườ i, Trự c tậ p tướ c là m đến Cẩ m binh suấ t độ i; Tiến và o danh sá ch anh danh, trả i
thă ng Phó quả n cơ; Chấ t và o lệ tù y, trả i thă ng Chá nh thấ t phẩ m sung Sử quan đằ ng
lụ c.
Nguyễn Chí
Ngườ i huyện Duy Xuyên, tỉnh Quả ng Nam, ô ng là Tiến Trự c đượ c â n tứ thọ dâ n. Chí
có dũ ng lự c, Minh Mạ ng nă m thứ 9, ra đầ u quâ n, thườ ng theo tà u thủ y tớ i Tâ n Ba
và tiểu Tâ y Dương là m việc cô ng. Vì am hiểu đườ ng đi biển, bổ chá nh độ i trưở ng,
trả i thă ng Quả n cơ vệ ú y.
Nă m thứ 24, thă ng thự Đô thố ng, vì coi giữ thuyền rồ ng khô ng cẩ n thậ n bị bã i, mộ t
hồ i lâ u lạ i bổ Đô thố ng.
Nă m thứ 30, cá o bệnh xin về hưu. Vua cho là Chí giú p việc lâ u ngà y có phầ n khó
nhọ c, ơn ban cho sa lụ a mỗ i thứ đều 3 tấ m, và 50 lạ ng bạ c. Chưa bao lâ u thờ i chết,
thọ 73 tuổ i.
eight="0">
Vũ Lã
Tên tự là Trọ ng Đỉnh, ngườ i huyện Lễ Dương, tỉnh Quả ng Nam. Lã là ngườ i cương
trự c, có kiến thứ c mưu lượ c. Nă m Minh Mạ ng ra đầ u quâ n. Đầ u nă m Tự Đứ c trả i
là m cai độ i, chuyển là m hiệp quả n. Đượ c khá lâ u, rồ i lĩnh Phó lã nh binh ở Quả ng
Ngã i.
Nă m thứ 26 bổ Thố ng chế doanh Tiền phong. Bấ y giờ có toá n thổ phỉ ở nướ c
Thanh từ Hưng Hó a lan trà n quấ y nhiễu miền thượ ng du Thanh Hoá . Vua cho tỉnh
Thanh là trọ ng địa ở Hữ u Kỳ, sai Lã sung là Đề đố c quâ n vụ , cù ng vớ i Tham tá n là
Nguyễn Chính đem lính kinh đến ngay đố c thú c đá nh dẹp, Kịp khi toá n giặ c trố n
trá nh, Lã cù ng Chính mưu tính việc là m cho tố t về sau. Xin đặ t nha Sơn phò ng, để
thờ i thườ ng thay phiên nhau đi tuầ n phò ng cho mạ nh thanh thế. Vua y theo. Khi về
và o ra mắ t. Vua dụ rằ ng : Chuyến đi nà y dẫ u khô ng có cô ng lao mấ y, nhưng mớ i
thử qua mộ t tý đã có thể mưu tính sớ m đượ c yên tĩnh, rấ t là khen ngợ i, thưở ng cho
1 đồ ng kim tiền.
Ngườ i huyện Hả i Lă ng, tỉnh Quả ng Trị. Lú c mớ i ra đầ u quâ n, khi ấ y Hiến tổ chưa
lên là m vua, chọ n và o hầ u trong. Vì là thâ n cẩ n, đượ c tin yêu, hầ u hạ hơn 10 nă m,
trả i thă ng đến cai độ i. Khi Hiến tổ lên ngô i nă m đầ u, bổ là m Thị vệ bậ c 3, lâ u nă m
là m tớ i Chưở ng vệ.
Nă m thứ 9, viện lệ xin về hưu. Vua cho Chỉ Tín sứ c lự c cò n thể theo là m việc quan
đượ c, cố lưu ở lạ i.
Nă m thứ 13, chết ở chỗ là m quan, gia â n cho tiền, lụ a rấ t hậ u, sai quan đến tế.
Nă m thứ 33, vua lạ i nghĩ Chỉ Tín là thầ n bộ c củ a triều trướ c chuẩ n cho đượ c liệt tự
ở đườ ;ng Phương gia ngoà i cử a Khiêm
Khi trướ c, vợ Chỉ Tín là Hoà ng Thị sung là m nữ quan ở Nộ i đình phong là m Thụ c
nhâ n. Con có 2 ngườ i, con lớ n là Chỉ Hiếu lấ y Nghĩa Chưở ng cô ng chú a, bổ là m Phò
mã đô ú y là m đến Phó vệ ú y; con thứ là Chỉ Trung đỗ cử võ , là m Viện khanh ở viện
Vũ bị; chá u là Phá i đượ c ấ m thụ Hà n lâ m viện kiểm thả o.
Nguyễn Khắ c Trạ ch
Minh Mạ ng nă m thứ 6, đỗ hương tiến, trả i là m Huyện thừ a huyện Yên Lạ c, bổ Tri
huyện huyện Yên Lạ c.
Nă m thứ 19, đổ i là m đồ ng Tri phủ Yên Khá nh, rồ i và o là m Viên ngoạ i lang Bộ Hình.
height="0">
Nă m thứ 8, lấy hà m Hà n lâ m trự c họ c sĩ, sung chứ c Sử quá n toả n tu. Tớ i nă m sau,
67 tuổ i, sắ p xin cá o lã o, nhiều ngườ i cho là chưa tớ i lệ, khuyên nên ở lạ i. Trạ ch nó i:
"Ngườ i xưa chuộ ng mạ nh bạ o rú t lui, Nhà theo chí hướ ng củ a mình". Bèn dâ ng sớ
trầ n tình xin về. Vua y cho, và ban cho á o triều bà o để vẻ vang khi về là ng.
Khắ c Trạ ch đã đượ c an nhà n, lấ y vườ n rừ ng tư thích. Nă m tuổ i đến 80, đượ c dự
ban cấ p bạ c lụ a; lạ i vì có con là Vỹ đượ c vinh hiển. Nă m thứ 31 gặ p kỳ khá nh tiết
ban â n, lạ i đượ c thưở ng cho đồ vậ t. Rồ i chết, thọ 91 tuổ i. Con là Phổ , Giả ng, Vỹ đều
đỗ hương tiến, Phổ , Giả ng trả i là m Thú lệnh; Vỹ hiện nay bổ Hiệp biện đạ i họ c sĩ,
sung là m Thương biện ở Phủ thô ng sứ Bắ c kỳ; cò n Nghiêm, Trình, Xứ ng cũ ng do
tậ p ấ m bổ quan, Bình thì đỗ tú tà i.
Nguyễn Hữ u Thá i
Đà o Đình Bả o
Ngườ i huyện  n Thi, tỉnh Hưng Yên. Minh Mạ ng nă m thứ 6, đỗ hương tiến, bắ t đầ u
bổ Tri huyện Thiên Lộ c, thă ng tớ i Tri phủ Thiên Trườ ng.
Nă m thứ 18, gia hà m Hà n lâ m viện Thị giả ng họ c sĩ, vă n lĩnh chứ c như cũ rồ i chết,
thọ 67 tuổ i.
Thiệu Trị nă m thứ 7, bổ Đố c họ c Hà Nộ i. Duy Thanh tính rấ t hiếu, để tang theo hết
lễ, trả i mù a rét, mù a nó ng khô ng thay đổ i. Ngườ i đều khen.an>
Lê Sâ m
Đà o Danh Vă n
Thiệu Trị nă m thứ nhấ t, đỗ tiến sĩ, do châ n Hà n lâ m bổ là m Tri phủ Lạ ng Giang, rồ i
bổ Đố c họ cTự Đứ c nă m thứ 5, lấ y hà m Thị độ c, sung là m Sử quá n biên tu, thă ng lên
Thị giả ng họ c sĩ, lĩnh Đố c họ c Nghệ An, rồ i chết ở chỗ là m quan. Con là Toạ i đỗ Cử
nhâ n, bổ Tri huyện Mỹ Lộ c rồ i về hưu.
Trầ n Tú Dĩnh
Nă m thứ 13, bổ là m Kinh triệu doã n, bị việc phả i mấ t chứ c, vâ ng phá i theo chiếc
thuyền đồ ng lớ n thay đổ i đi Việt Đô ng, Giang Lưu Ba là m việc quan, trướ c sau trả i
hơn 10 nă m đi đườ ng biển cộ ng 9 lầ n, nếm đủ mù i gian hiểm, sau khai phụ c đến
Lang trung phủ Nộ i vụ .
Thiệu Trị nă m thứ 7, vì cò n mẹ già , tuổ i gầ n 80, đượ c xin về phụ ng dưỡ ng. Tú Dĩnh
đặ t tên hiệu là Kim Sơn quan đạ o lã o nhâ n. Tướ c tá c có quyển Gia lễ và quyển
"Quan đà o thị tậ p" thọ 60 tuổ i thì chết.
t="0">
Tên tự là Bả o Quang, ngườ i huyện Gia Bình, tỉnh Bắ c Ninh.
Nă m thứ 17, gia hà m Quang lộ c tự thiếu khanh, lĩnh chứ c Sử quan như cũ rồ i bị ố m
chết.
Nguyễn Cô ng Hợ p
Khi xưa tên là Cô ng Thuyên, ngườ i huyện Vụ Bả n, tỉnh Nam Định. Minh Mạ ng nă m
thứ 6, 3;ỗ hương tiến, là m Tri huyện An Định, rồ i thă ng là m Đố c họ c ở Thanh Hó a,
Hà Tĩnh; trả i 12 nă m đượ c tiếng là xứ ng đá ng vớ i chứ c vụ , gia Hà n lâ m viện thị
giả ng họ c sĩ, rồ i triệu và o là m Chưở ng ấ n ngự sử đạ o Kinh kỳ, đổ i sang Quố c tử
giá m tư nghiệp, rồ i thă ng là m Tế tử u.Tự Đứ c nă m thứ 4, cá o bệnh về hưu rồ i chết,
thọ 63 tuổ i. Cô ng Hợ p là ngườ i có họ c vấ n, là m giá o chứ c lâ u, chă m việc dạ y dỗ , họ c
trò đượ c thà nh tự u khá nhiều, sĩ phu đều suy tô n. Ngà y thườ ng cư xử lấ y hạ nh
nghĩa, đượ c tín vớ i là ng mạ c cù ng vớ i 2 em hò a thuậ n thâ n yêu, con cá i đều theo lễ
phép, liệt và o hạ ng thanh khâ m (trà ng á o xanh tứ c là họ c trò ) có 9 ngườ i; em là
Duy Thà nh có tiếng là hạ nh nghĩa, có truyện chép riêng.
Ngô Vă n Địch
Đầ u nă m Thiệu Trị, thự Hình bộ tả Thị lang, bị giá ng là m Binh bộ viên ngoạ i lang;
kế đổ i là m Thá i bộ c tự khanh, biện lý cô ng việc Bộ Cô ng.
"0">
Bù i Quỹ
Tên tự là Hữ u Trú c, ngườ i huyện Tiên Lữ , tỉnh Hưng Yên. Ô ng là Vinh Thậ n đỗ
hương cố ng đờ i Lê. Quỹ, Minh Mạ ng nă m thứ 10, đỗ tiến sĩ, do hà m Hà n lâ m viện
biên tu, bổ là m Tri phủ Triệu Phong, đổ i là m Viên ngoạ i lang Bộ Cô ng, trả i thă ng
đến Lang trung.
Nă m thứ 14, bị ố m chết ở chỗ là m quan, thọ 66 tuổ i, đượ c truy thụ Tổ ng đố c.
Quỹ ở sứ chứ c lâ u ngà y, noi theo phép thá nh hiền hay sử a đổ i đi, cà ng để ý tìm tò i.
Tính giữ chấ t phá c mộ c mạ c khô ng thích bó ng bẩ y bề ngoà i. Thườ ng nó i: Họ c giả
trướ c hết cố t phả i mộ t lò ng thà nh thự c là m đầ u, bọ n sĩ phu đều khen. Khi đi sứ có
trướ c tá c tậ p "Yên đà i anh thoạ i". Con là Chú c, đỗ Tú tà i; Liêm là m quan đến tò ng
lụ c phẩ m.
Phạ m
Nă m thứ 10, thự Tổ ng đố c Bình Phú . Rồ i sau ở Trà Ú c có biến độ ng, Khô i giữ chứ c
cố ra sứ c mưu tính ngă n chố ng.
Nă m thứ 12, bị ố m chết ở chỗ là m quan. Vua xuố ng sắ c cho quan có chứ c trá ch ở
nơi ấ y cho đưa đá m tang về và sai quan đến tế.
Khô i tính cương trự c, trả i là m quan hơn 30 nă m chưa từ ng tậ u ruộ ng, nhà , ră n bả o
con chá u nên giữ thanh bạ ch như thườ ng. Con là Đả n đượ c ấ m thụ là m đến Tri
phủ .
Trương Quố c Dụ ng
Khi trướ c tên là Khá nh, tên tự là Dĩ Hà 1;i huyện Thạ ch Hà , tỉnh Hà Tĩnh.
Minh Mạ ng nă m thứ 10, đỗ tiến sĩ, bổ Hà n lâ m viện biên tu, dầ n dầ n thă ng đến
Hình bộ lang trung, bị việc phả i miễn quan, theo Bộ Lạ i ra sứ c bá o hiệu chuộ c tộ i.
Nă m thứ 14, đượ c khở i phụ c Tư vụ theo quâ n thứ ở Phiên An; lạ i theo Tham tá n
đạ i thầ n ngă n lui đượ c quâ n Xiêm. Khi việc yên, lạ i là m chủ sự , cấ t lên là m Viên
ngoạ i lang Bộ Hộ , rồ i đổ i là m á n sá t sứ ở hai tỉnh Quả ng Ngã i, và Hưng Yên. Dâ ng
tấ u chương cho là dâ n gian á o mặ c quá qui chế, lạ i ruộ ng nhà mua bá n đã lâ u nă m,
thườ ng thườ ng gâ y ra kiện cá o, quan có chứ c trá ch đều lấ y ý đoá n, rú t tạ i khô ng có
định chuẩ n. Tâ u xin sứ c nhắ c rõ lạ i thứ á o mặ c và niên hạ n cầ m chuộ c ruộ ng đấ t.
Việc giao xuố ng có trá ch nhiệm bà n lạ i để thi hà nh. Buổ i đầ u nă m Thiệu Trị, quyền
biện cô ng việc Bộ Lễ, thă ng bổ Tả thị lang trả i đổ i sang Lạ i, Hình, Cô ng ba bộ .
<div height="0">
Nă m thứ 15, bọ n giặ c ở Hả i Yên khở i loạ n vâ y sá t đến tỉnh thà nh Hả i Dương. Vua
theo lờ i đình thầ n đề cử , sai Quố c Dụ ng sung là m Hả i Yên thố ng đố c quâ n vụ đạ i
thầ n, đố c quâ n tiến đá nh. Khi Quố c Dụ ng tớ i nơi quâ n thứ , bà n định cù ng vớ i Đà o
Trí và Phạ m Tam Tỉnh, từ tỉnh Hưng Yên đem quâ n sang đô ng, chuyển đá nh lấ y lạ i
phủ Bình Giang; lạ i chia quâ n tớ i hạ lưu sô ng Nghĩa Trụ là m cầ u nố i đá nh phá đồ n
giặ c, Quố c Dụ ng tự đem tướ ng sĩ tiến đến cứ u viện tỉnh thà nh, bọ n giặ c thua rú t lui.
Quố c Dụ ng theo cử a tâ y và o thà nh, đó ng đồ n trạ i, giặ c lạ i họ đến vâ y. Rồ i sau, Quố c
Dụ ng từ trong thà nh bày kế cho quâ n ra đá nh, cả phá vỡ quâ n giặ c, giả i đượ c vâ y.
Nă m thứ 17, đá nh giặ c ở Quả ng Yên, quan quâ n bị thấ t thế, quâ n thủ y bộ củ a giặ c 4
mặ t ù a cả đến, Quố c Dụ ng cù ng Tá n lý là Vă n Đứ c Khuê, Tá n tương là Trầ n Duy San
đều bị hạ i (chép ở truyện Vă n Đứ c Khuê). Việc đến tai vua, vua rấ t cả m độ ng
thương xó t sắ c cho đưa đá m về, sai quan đến tế; lạ i sai đình thầ n bà n rõ cô ng quả .
Đã lâ u chưa thấ y dâ ng lên. Vua dụ rằ ng : Nă m ngoá i quâ n thứ ở Hả i Yên, trậ n đá nh
tạ i La Khê, Linh Đỗ ng, Trương Quố c Dụ ng suy tính thấ t cá ch, tộ i ấ y cố nhiên khó từ
chố i đượ c, nhưng trẫ m nghĩ Quố c Dụ ng là ngườ i giú p việc cũ , mà tụ i giặ c ở mặ t
nướ c nhỏ nhặ t ấ y, khô ng phả i là chỗ thà nh nhâ n thủ nghĩa (tử tiết để trọ n nghĩa),
mà bị dao ngă n đạ n lạ c đến nỗ i bỏ mạ ng nơi chiến trườ ng, rấ t là đá ng tiếc. Chuẩ n
cho truy tặ ng hà m Đô ng cá c đạ i họ c sĩ. Nă m thứ 33, đượ c liệt và o thờ ở đền Trung
nghĩa.
Quố c Dụ ng là ngườ i trầ m tĩnh, dẫ u là m quan chưa từ ng rờ i quyển sá ch, ngườ i đều
suy tô n là họ c rộ ng. Tương truyền là nhà là m lịch bị thấ t truyền, Quố c Dụ ng là m
quả n lĩnh Khâ m thiên giá m hà ng ngà y tuyền dạ y cho, đến nay mớ i nố i đượ c nghề
họ c ấ y. Quố c Dụ ng ngà y thườ ng có kiến vă n đượ c điều gì đều ghi chép cả , có tậ p
"Thoá i thự c ký vă n lụ c”, truyền lạ i ở đờ i.
Con là Quố c Quá n, đỗ hương tiến, vì mộ quâ n nghĩa dũ ng theo đi quâ n thứ , nên
đượ c đặ c cá ch bổ là m Chủ sự .
Ngườ i huyện Đô ng Thà nh, tỉnh Nghệ An. Minh Mạ ng nă m thứ 10, đỗ tiến sĩ, bổ là m
Tri phủ ở Ninh Thuậ n, và o là m Viên ngoạ i lang Bộ Lạ i, thă ng Lang trung.
size="3" face="Times New Roman">Nă m thứ 17, bổ Cao Bằ ng, nhậ m chứ c đượ c ba
nă m, bị việc phả i giá ng là m Viên ngoạ i lang Bộ Lễ, đượ c mộ t thờ i gian lâ u, bổ là m
Á n sá t sứ Quả ng Bình.
Nguyễn Đă ng Huâ n
Tên tự là Hy Khiêm, ngườ i huyện Thạ ch Thấ t, tỉnh Sơn Tâ y. Minh Mạ ng nă m thứ
10, đỗ tiến sĩ, do Hà n lâ m bổ là m Tri phủ Điện Bà n. Tính ngườ i thanh liêm cẩ n
thậ n, bình dị gầ n dâ n, mỗ i khi đi đều thườ ng đi bộ , xử đoá n hết tình, thườ ng có
ngườ i kiện về ruộ ng, trướ c hết mở bả o cho hai bên biết, rồ i chỉ nó i mộ t câ u là xử
đoá n xong, hai bên nguyên, bị đều phụ c; việc khá c cũ ng thế. Coi chứ c và i nă m,
ngườ i trong quậ n yêu như bố mẹ. Vì có tang bố xin về, ai đưa đổ tiễn biếu đều
khướ c từ . Sau lĩnh Lang trung Bộ Lễ, theo xa giá đi tuầ n qua hạ t cũ , nhâ n dâ n đó n
đườ ng yết kiến, nhiều ngườ i đưa biếu tiền lụ a, đều khô ng nhậ n. Rồ i chết, tú i là m
quan vẫ n rỗ ng tếch, duy có mộ t cá i á o mù a đô ng mớ i ban cho để khâ m liệm. Đạ i
thâ n (tứ c Ngự sử đà i) đem việc tâ u lên, Vua rấ t tiếc.nó i rằ ng : Đá ng giậ n là lú c Đă ng
Huâ n số ng khô ng có ai đề cử đến; truy thụ cho hà m Lang trung, sai hậ u cấ p cho gia
đình; lạ i sai quan có chứ c trá ch ở địa phương thườ ng hỏ i thă m ngườ i mẹ. Sau dâ n
ở Điện Bà n truy nhớ phụ thờ và o Vă n từ củ a quậ n. Con là Điện do quâ n cô ng đượ c
bổ Tri huyện.
Ngô Thế Vinh
height="4">
Minh Mạ ng nă m thứ 10, đỗ tiến sĩ, bổ Hà n lâ m viện biên tu, bổ Tri phủ phủ Định
Viễn, chuyển về viên ngoạ i lang Bộ Lạ i, thă ng Lang trung Bộ Lễ.
Nă m thứ 15, sung là m Giá m khả o trườ ng thi hương ở Hà Nộ i, vì duyệt quyển khô ng
kiểm xét kỹ phả i tướ c chứ c.
Ngườ i huyện Giao Thủ y, tỉnh Nam Định, lú c nhỏ thô ng minh lạ thườ ng. Minh Mạ ng
nă m thứ 10, đỗ tiến sĩ, bắ t đầ u bổ Hà n lâ m viện biên tu, lĩnh Tri phủ Tư Nghĩa; trả i
bổ Viên ngoạ i lang Bộ Lễ, chuyển sang Lang trung Bộ Lạ i, thă ng bổ Á n sá t Bình
Định, thă ng bổ Chính sứ .
Nă m thứ 17, bổ Tả thị lang Bộ Lễ, sung Chá nh sứ sang Yên Kinh khi tớ i Bắ c Kinh,
gặ p ngà y vạ n thọ khá nh tiết, dâ ng thơ chú c, đượ c gia hậ u thưở ng. Khi đi sứ về, đổ i
là m Tả thị lang Bộ Hình, chuyển là m Phủ doã n Thừ a Thiên. Hiến tổ Chương Hoà ng
đế khi cò n ở đô ng cung, đượ c chọ n và chú ý riêng, vì chướ ng ngạ i việc cô ng phả i
thiên sang tả . Thiệu Trị nă m đầ u cấ t là m Biện lý Bộ Hộ , bỗ ng đổ i là m Bố chính sứ ở
Hưng Hó a, rồ i tiến thự Hữ u tham tri Bộ Hộ , lạ i đổ i sang Bộ Lạ i. Tự Đứ c nă m đầ u,
cá c đạ i thầ n có điều tiếng bấ t hò a, bị ngô n quan (tứ c Ngự sử đà n hặ c quan) đề cử
tâ u lên, việc giao xuố ng Bộ Lạ i, thờ i Trung cứ luậ t dẫ n đoá n bà n định dâ ng lên, vua
khen cho là khô ng kiêng nể ngườ i quyền quý, Bộ Lạ i đã có ngườ i; rồ i kế sung Kinh
duyên giả ng quan, kiêm quả n Viện hà n lâ m. Nă m thứ 3, do Tuầ n phủ là m Hộ lý
Ninh Thá i tổ ng đố c, ở chứ c hai nă m vì mắ c việc bị miễn chứ c phả i về, chết nă m 84
tuổ i, vố n tên là Thế Lịch, sau vua cho tên như ngà y nay, tự hiệu là Chỉ Trai.
height="0">
Tạ Hữ u Khuê
Tên tự là Thụ y Phủ , ngườ i huyện Đô ng Thà nh, tỉnh Nghệ An, bố là Hữ u Độ , thờ mẹ
rấ t hiếu, đượ c vua xuố ng sắ c cho nêu khen, đã có truyện chép Hữ u Khê tính khô ng
chịu bó buộ c, Minh Mạ ng nă m thứ 9, đỗ hương giả i, do chứ c Hà nh tẩ u Bộ Hộ ,
chuyển là m Tri huyện Từ Liêm, bị mắ c tộ i về dâ n ở huyện mấ t trộ m và khô ng đề
phò ng để đê vỡ phả i về bộ nghe đợ i. Nă m thứ 14, lạ i đổ i Tri hện Tứ Kỳ, Thiên tri
phủ Thuậ n An, tỉnh thầ n cho là liêm cá n đề cử lên, bị triệu ra mắ t đố i đá p từ ng điều
đượ c xứ ng chỉ, thưở ng cho kỷ lụ c hai thứ vẫ n về phủ nhậ n chứ c. Thiệu Trị nă m thứ
4, và o là m Giá m sá t ngự sử đạ o Kinh kỳ, thă ng Hộ khoa chưở ng ấ n cấ p sự trung.
Nă m Tự Đứ c thứ 2, thự Á n sá t sứ ở Quả ng Bình, chưa bao lâ u có chỉ đổ i tớ i Quả ng
Trị, vì dâ n mộ và bả o lưu lạ i nên lạ i về Quả ng Bình, rồ i cấ t là m Quang lộ c tự khanh
biện lý cô ng việc Bộ Lạ i, quyền giữ kho thương trườ ng, lạ i đổ i sang Bộ Cô ng. Nă m
ấ y có thi Hộ i sung Tri cố ng cử , lạ i ra là m Bố chính sứ ở Quả ng Bình, bị mắ c việc
phả i giá ng bố n cấ p và dờ i đi nơi khá c. Nă m thứ 16, bổ Hà n lâ m viện thị giả ng sung
Sử quá n biên tu, rồ i mắ c tậ t về hưu.
Doã n Uẩ n
Ngườ i huyện Thư Trì, tỉnh Nam Định, Minh Mạ ng nă m thứ 9, đỗ hương tiến, lú c
đầ u bổ Hà n lâ m viện điển bạ , rồ i thự Bộ chủ sự , chuyển Viên ngoạ i lang. Nă m thứ
14 thự Á n sá t sứ ở Vĩnh Long; giặ c Khô i là m phả n giữ thà nh Phiên An, kế đến hã m
tỉnh Vĩnh Long, Uẩ n ra trú nơi thuộ c ấ p bí mậ t họ p quan lạ i sĩ tố t và quâ n nghĩa
dũ ng thừ a cơ đá nh ú p, thu lạ i tỉnh thà nh. Vua khen cho cô ng chuộ c tộ i lạ i giữ chứ c
cũ , rồ i chuyển biện lý Bộ Hình, lạ i đổ i Á n sá t sứ Thá i Nguyên. Bấy giờ cá c đạ o binh
hộ i họ p để đá nh giặ c ở Vâ n Trung, Uẩ n đố c coi quâ n lương ở Bắ c Cạ n, tù y liệu vậ n
chở tiếp tế, lạ i liệu đặ t đồ n ở đườ ng để truyền đệ tin tứ c và yên họ p thổ dâ n, cù ng
vớ i Bố chính là Lê Trườ ng Danh dâ ng sớ xin cho bố n huyện : Bình Xuyên, Phú
Lương, Vă n Lũ ng, Đạ i Từ ở phủ Bình Phú , đặ t là m phủ Tò ng Hó a, vua theo. Nă m
thứ 17, thiêm Lạ i bộ hữ u Thị Lang, lạ i đổ i sang Bộ Hình; gặ p thổ ty ở Thanh Hó a
khô ng đượ c yên tĩnh, Vua sai Hiệp biện đạ i họ c sĩ là Trương Đă ng Quế là m Kinh
lượ c, Uẩ n cù ng Nguyễn Đă ng Giai là m phó , Uẩ n đố c coi đạ o Nô ng Cố ng đem quâ n
đá nh lũ y giặ c ở Thọ Thă ng phá vỡ đượ c, chuẩ n gia quâ n cô ng kỷ lụ c hai thứ . Nă m
thứ 18, cho việc kinh lượ c đã ra manh mố i, lạ i về biện lý việc bộ . Nă m thứ 20, tiến
thự Hữ u tham tri Bộ Hộ , cù ng vớ i Hiệp biện đạ i họ c sĩ là Vũ Xuâ n Cẩ n tớ i Bình Định
thi hà nh cá ch quâ n điền (đã nó i ở truyện Vũ Cô ng).
Thá ng 7, mườ i hai cỗ bả o phá o hoà n thà nh, vua là m bà i minh ghi cô ng Uẩ n và o cổ
phá o Thầ n uy phụ c viễn đạ i tướ ng quâ n thứ nhấ t, lờ i vă n là : "Mong quâ n Vua tớ i,
nên phả i dấy binh, phấ n đấ u đi trướ c, ba trậ n tâ u cô ng, vă n thầ n mưu lượ c, sớ m đã
phụ cô ng, trờ i sinh uy tướ ng, dẹp yên cõ i xa, ghi cô ng vậ t bá u, để ứ c muô n đờ i". Lạ i
sai đình thầ n bà n cô ng cá c tướ ng đá nh ở Trấ n Tâ y để dự ng bia đá ở Vũ miếu, có 6
ngườ i đượ c ghi cô ng là : Vũ Vă n Giả i, Nguyễn Tri Phương, Doã n Uẩ n, Đoà n Vă n
Sá ch, Nguyễn Hoà ng và Tô n Thấ t Nghị. Nă m Tự Đứ c thứ 2, chết ở nơi là m quan, thọ
55 tuổ i, tặ ng Hiệp biện đạ i họ c sĩ, thụ y Vă n Ý và liệt tự ở đền Hiền Lương.
Uẩ n, trướ c tên là Ô n, sau vua cho tên như ngà y nay, con là Chính đượ c nố i phong
Tuy Thịnh nam, do Lạ i bộ chủ sự thự Tri phủ Phú Bình, gặ p quâ n thổ khá u vâ y bứ c
phủ thà nh cố thủ đượ c mộ t thá ng có lẻ, tuyệt đườ ng cứ u viện hết cả lương thự c,
bèn gieo mình xuố ng sô ng chết. Việc đến tai vua, Vua nó i : rấ t khó đượ c ngườ i như
thế, thậ t khô ng thẹn vớ i ngườ i xưa, cũ ng khô ng thẹn con chá u bậ c danh thầ n, tặ ng
Hà n lâ m viện thị độ c họ c sĩ, tậ p ấ m cho ngườ i con đượ c Chá nh cử u phẩ m vă n giai
sau đượ c liệt tự và o đền Trung Nghĩa.
>
Hà Ngọ c Hả i
Tên tự là Sơn Phủ , ngườ i huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, tính cương trự c, mớ i 20
tuổ i đã có tiếng vă n hay. Minh Mạ ng nă m thứ 9, đỗ hương tiến, ở nhà giả ng đọ c,
sau mớ i ra giá o chứ c. Thiệu Trị nă m thứ 7, đổ i Tri huyện Duy Xuyên, giữ liêm bình
đượ c lò ng dâ n. Tự Đứ c nă m đầ u, sung Sử cụ c, dâ n ở huyện tớ i cử a khuyết xin cho ở
lạ i, Vua cho triệu ra mắ t và ra bà i sá ch "lý nhâ n" (trị nhâ n) cho thi thử , vua bả o :
"đố i vớ i dâ n khô ng sá ch nhiễu, đó chưa đủ đượ c nhiều”, bổ cho thừ a chỉ, nhưng
vẫ n lĩnh huyện, ở chứ c đượ c 4 nă m, Kinh lượ c sứ là Đặ ng Vă n Thiêm lạ i đem thà nh
tích về chính trị tâ u lên, vua khen, rồ i chết ở chỗ là m quan, truy thụ Hà n lâ m viện
thị độ c.
Nă m thứ 17, sung Hả i An quâ n thứ tham tá n quâ n vụ , thu phụ c đượ c phủ thà nh Hả i
Ninh, lạ i đượ c thắ ng trậ n từ ng gia ban thưở ng, lạ i Thố ng binh chuyển tớ i Cao Bằ ng
đá nh dẹp.
Nă m thứ 19, mù a xuâ n, vì quan quâ n thu đượ c đồ n Cầ u Phong gia cho mộ t cấp
quâ n cô ng. Thá ng 7, là m Ninh Thá i tổ ng đố c kiêm tri cả việc biên phò ng ở Lạ ng
Bình. Mù a đô ng nă m ấ y võ cô ng cá o thà nh, đượ c ban thưở ng nhữ ng hạ ng: Phướ c
thọ ngọ c, kim tiền và trâ n bả o.
QUYỂ N 30
TRUYỆ N CÁ C QUAN - MỤ C XX
Nguyễn Cư
Nă m thứ 2 (1849), bấy giờ đương có việc bang giao sứ mà cô ng việc xâ y dự ng liên
tiếp nặ ng nề, Cư bèn cù ng vớ i ngườ i đồ ng niên viện Đô sá t là Vũ Nguyên Oanh
dâ ng sớ trình bày tình trạ ng tậ t khổ ; củ a dâ n ở nhữ ng hạ t: Thừ a Thiên, Quả ng
Bình, Hà Tĩnh và Nghệ An. Sớ rằ ng : "bậ c đương quố c trọ ng thầ n chỉ biết chă m việc
xu phụ giữ chứ c phậ n củ a mình mà dâ n sinh mừ ng hay lo khô ng hề đoá i tớ i; vị
quan lạ i địa phương chỉ biết thú c thuế giấ y tờ rườ m rà là hết bụ ng, mà nỗ i ẩ n tình
củ a là ng quê chẳ ng thấ y tâ u lên, ô ng lạ i nó i : nă m trướ c hiếm mưa, đình thầ n xin
lỗ i, mà trong tậ p trình bà y cá c khoả n đã biết nguyên do mắ c lỗ i cho nên khô ng
đượ c mưa hò a, nhưng nhìn lạ i chỉ là lờ i nó i suô ng, xem việc là m ngà y nà y, tưở ng
cũ ng như cá c tệ khi xưa; lạ i nó i : phủ Thừ a Thiên là că n bả n, nơi Sở tạ i xin định liệu
tha giả m nhữ ng thuế đấ t và đinh, cò n cá c hạ t xin lo nghĩ trướ c dâ n đượ c ban gia
chẩ n tế v.v...". Ô ng đượ c chỉ cho xuố ng cá c tỉnh chiểu sự trình bà y ở trong tậ p tra
hỏ i rồ i kíp gử i giấ y má và o tâ u, lạ i sứ c cho châ m chướ c xét định tha miễn thuế
khó a có hơn kém; Nguyễn Cư cò n sung và o việc đi cô ng cá n ở Gia Định, khi về nó i :
"nhâ n dâ n từ Quả ng Nam trở và o nam đến 6 tỉnh bị điêu tà n tậ t dịch, phầ n nhiều đi
Ô - đô ng Hạ -châ u (có lẽ là vù ng nam Campuchia), hiện về khô ng có mấ y mà lạ i đi
cà ng nhiều, bở i vì nhữ ng ngườ i điều hà nh khô ng khéo thể tấ t đứ c ý củ a triều đình
lạ i thuế khó a là m việc nặ ng nề phiền phứ c; ô ng nó i hết cả tình hình ở trong, gâ y
hấ n ở ngoà i, tình trạ ng đá ng lo, vì đương lú c nà y ngoà i việc tai ương tố n thiếu, mà
lo ngạ i dồ n dậ p; vậ y xin ra ơn tố t đẹp, vỗ về, bả o vệ, chẳ ng gì cầ n thiết bằ ng dâ n ấ y;
hoặ c tró c nã tró i buộ c phụ c tò ng duy trì chẳ ng gì cấ p bá ch bằ ng lú c nà y; xin sắ c
cho cá c tỉnh theo â n chiếu khá m rõ , cứ thự c xét là m; lạ i xin chia ban cho cá c tù
phạ m đều đó ng riêng từ ng sá ch";
Tờ tấ u dâ ng lên, vua xem xong bèn sai cá c tỉnh theo y lờ i chiếu dụ lậ p tứ c trù liệu
mà là m, cò n khoả n chia ban tù phạ m cho Bộ Hình xét rõ trình bày tâ u lên đợ i chỉ
sử a đổ i. Mù a đô ng nă m ấy lạ i dâ ng sớ nó i : "từ Quả ng Trị trở ra bắ c lệ khí chưa hết,
lạ i gặ p khó a kỳ thanh tra, đườ ng trạ m cung ứ ng khô ng khỏ i phiền phứ c mệt nhọ c
xin đình miễn cho lầ n nà y". Vua theo.
Cư ngà y thườ ng giữ chứ c Đà i giá n, trả i 3 nă m tù y việc bà n luậ n trình bày, phầ n
nhiều thấ y đượ c thu nhậ n, thế rồ i bị việc phả i miễn chứ c, về nghỉ chết ở nhà . Sau
đượ c con là Trọ ng Hợ p là m quan to nên đượ c tặ ng là Lễ bộ Thượ ng thư.
Nguyễn Trọ ng Hợ p
Tên là Tuyên, sau lấ y tên tự là Hà nh, hiệu là Kim Giang, biệt hiệu là Quế Bình, tính
thô ng minh, khá u khỉnh, lú c nhỏ cha mẹ chết cả , quyết chí họ c hà nh chịu khổ , nhà
nghèo, vẫ n như thườ ng. Nă m Mậ u Ngọ - Tự Đứ c thứ 11 (1858) đỗ hương tiến, bấy
giờ Nguyễn Trọ ng Hợ p 21 tuổ i, đi thi hộ i dâ n số chưa đủ , nên bổ sung và o phủ
Tù ng Thiện Cô ng (16) để tu thư (soạ n sá ch). Vì thế đượ c họ c tậ p cà ng rộ ng, ý nghĩa
cà ng sâ u, Tù ng Thiện Cô ng thườ ng khen có tà i tể tướ ng. Nă m Ấ t sử u Tự Đứ c thứ
18 (1865) đỗ tiến sĩ, bổ là m tu soạ n Viện Tậ p hiền, chuyển đi Tri phủ Xuâ n Trườ ng,
đổ i là m Thị độ c ở Nộ i cá c, đượ c hầ u hạ nơi cấ m cậ n nên vă n họ c chính sự đượ c
biết nhiều, rồ i tuyển là m phủ Thừ a Thiên, rồ i lĩnh Phủ doã n, có tiếng về chính trị.
Trọ ng Hợ p lạ i cho đoà n thuyền tỉnh Nam, khô ng tậ p quen đườ ng biển thườ ng
thườ ng bị thấ t lợ i, nên mướ n mộ thuyền Việt Đô ng (22) chở để đoà n vậ n tả i đượ c
nhanh chó . Vua phê bả o và khen ngợ i.
Khi trướ c đồ n ở cử a biển Trà Lý (23) thườ ng có quâ n buô n gian lậ n ra và o, Trọ ng
Hợ p lo lâ u ngà y sẽ kết bè đả ng, thườ ng vẫ n nó i luô n. Tớ i bấy giờ quả có đơn kêu
cướ p bó c. Trọ ng Hợ p bèn phá i quâ n đố t bỏ phố sá ở đồ n, dờ i dâ n lương thiện và o
cả bên trong đồ n, chia đặ t chỗ ở để sinh số ng và chịu thuế, lạ i xin đặ t thêm thương
biện (vă n viên ngũ lụ c phẩ m) hiệp cù ng lã nh binh lấy gò cũ lậ p đồ n coi giữ .
Vua sắ c bả o rằ ng: "Nay nhà nướ c đương cầ n nhâ n tà i, xét bệnh tình, trẫ m cũ ng á i
ngạ i, nên bả o trọ ng cá i thâ n hữ u dụ ng để mưu toan bá o bổ ". Mù a đô ng nă m ấ y
đượ c và o thay là m Tả tham tri Bộ Lạ i kiêm quả n lý Thương bạ c đạ i thầ n. Sang nă m
đình thầ n đề cử sung phá i viên sang Tâ y.
Hà m Nghi nă m đầ u (1885) thă ng hà m Thị lang nhưng vẫ n thụ lý, tớ i khi nghe tin ở
Kinh nhà vua đã chạ y, Trọ ng Hợ p cù ng vớ i Hà Nam Tổ ng đố c là Nguyễn Hữ u Độ và
Phan Đình Bình tớ i phủ Phá p suý thương giả ng, thế rồ i Hữ u Độ , Đình Bình về Kinh
thương định mưu tính việc đạ i sự , cò n Trọ ng Hợ p lạ i quay về Sơn Tâ y. Vừ a lú c
Cả nh Tô ng Thuầ n Hoà ng đế (25) lên nố i ngô i, đạ i sự đã định, rồ i Độ lạ i về kinh,
Trọ ng Hợ mớ i có lệnh quyền biện kinh lượ c, liền chuẩ n cho bổ Tổ ng đố c, tiến thự
Hiệp biện đạ i họ c sĩ, nhưng vẫ n coi việc ở Kinh lượ c sứ .
Vua dụ rằ ng: "Việc Bắc Kỳ nhấ t thiết ủ y cho khanh, gia cho cá i khá nh ngọ c có chữ :
"Hiếu hạ nh trung trinh" để khuyến khích. Bấ y giờ cả toà n Kỳ bị xâ m lă ng loạ n lạ c,
Trọ ng Hợ p chỉ lấ y thà nh tín là m tin lạ i cẩ n thậ n lự a chọ n quan lạ i, liệu phương xếp
đặ t việc, việc có manh mố i. Nă m Đồ ng Khá nh thứ hai (1887) Hợ p dâ ng sớ xin cho
ngườ i thay để vượ t biển về Kinh, đêm hô m tớ i cử a Đà , vua chiêm bao thấ y mộ t
ngườ i cườ i bả o : "Trọ ng Hợ p đã tớ i cử a Đà "; tớ i sớ m hô m sau gặ p có tờ tư củ a bộ
tướ ng là m phò ng sứ ở cử a Đà đưa và o tâ u, vua phê bả o cho viện thầ n biết, hai hô m
sau Trọ ng Hợ p quả đến và o chầ u, vua rấ t mừ ng, có là m bà i thơ và tự a để tỏ lò ng,
thâ n á i như sau :
Phiên â m:
Thù y dụ ng giang san trá ch, Hiền khanh tín phỉ cung.
Dịch nghĩa:
Tớ i sang nă m nhà vua hiện nay lên ngô i (tứ c Thà nh Thá i) có chỉ cho triệu, Trọ ng
Hợ p đi tà u binh củ a Phá p, mớ i ra khỏ i cử a biển Đổ Sơn và i dặ m, gió bã o nổ i to, tà u
má y bị rỡ nồ i hơi nó ng, lênh đênh ngoà i biển 7 đêm ngà y suýt bị chìm đắ m, rồ i trô i
và o cử a biển Đạ i Chiêm. Gió dầ n yên, cứ u thuyền cũ ng đến, vì viên Toà n quyền đạ i
thầ n biết tà u ra biển hẳ n bị gió , nên sai nhiều binh thuyền đi tìm khắ p cả mớ i gặ p.
Tớ i khi đến cử a Khuyết và o yết kiến, vua sai cù ng vớ i Tuy Lý cô ng là Miên Trinh,
Hoà i Đứ c cô ng là Miên Lâ m và Trương Quang Đả n cù ng sung và o chính phủ . Hợ p
lạ i thă ng thự Vă n Minh điện đạ i họ c sĩ, sung Cơ mậ t viện đạ i thầ n, Quố c sử quả n
tổ ng tà i, kiêm quả n Khâ m thiên giá m sự vụ và ban chó chiếc khá nh ngọ c có chữ :
"hiếu hữ u đoan lương"; Trọ ng Hợ p tâ u xin mở đặ t nhà Kinh diên, đạ i lượ c nó i :
"Nhà vua có cô ng đã chă m chính đạ o, họ c vấ n cà ng quý ngà y tâ n, xin cho ngà y
thườ ng giả ng quan và nộ i Cá c thầ n sớ m tố i thay phiên và o hầ u để hỏ i han đượ c
đầ y đủ , ngoà i ra cũ ng tù y từ ng lú c và o ra mắ t gặ p việc khuyên can noi theo đườ ng
chính, ngõ hầ u gầ n gũ i nhữ ng ngườ i hiền nhâ n quâ n tử ngà y mộ t nhiều, nố i tỏ đứ c
quang minh để thỏ a lờ i từ huấ n củ a tam cung. Lạ i xin sắ c rõ cho cá c thượ ng tư
trong ngoà i đều xét thuộ c hạ mình ai luyện đạ t tà i nă ng và liêm bình hết lò ng việc
dâ n, do Bộ Lạ i hộ i lạ i đó ng thà nh sá ch, gặ p chỗ khuyết thờ i sung bổ ; ai tầ m thườ ng
cho giữ nguyên hà m về hưu dưỡ ng. Đến như ai mệt mỏ i yếu đuố i khô ng kham nổ i,
có hình tích kém cỏ i trích ra tham hạ c tâ u lên, nếu thượ ng tư im lặ ng a dua, cù ng
chẳ ng hay chính mình bả o ban thuộ c hạ thờ i chiếu lệ nghiêm xử , để đườ ng sĩ đồ
"đượ c trong sạ ch".
Quố c gia từ nă m Quý mù i sau khi hữ u sự , tế Giao chưa cử hà nh, đến bấ y giờ Trọ ng
Họ p bà n xin 3 nă m mộ t lầ n tế Giao để theo cổ lễ, khi lễ thà nh ban cho khá nh và ng
và và ng lụ a. Nă m ấ y Bộ Hộ dâ ng bả n nghị định mớ i, về mứ c đá nh thuế, Trọ ng Hợ p
tâ u nó i: "Thuế chính cũ ng là thườ ng điển củ a nướ c, hiềm chứ a chấ t tệ hạ i đã lâ u,
nên thuế củ a nướ c khô ng đượ c sung tú c mà dâ n thêm bệnh, xin sứ c rõ cho cá c địa
phương hết thẩ y khi thi hà nh khô ng đượ c nhiễu sá ch".
Vua khô ng chuẩ n cho từ , ạ i xin cho Hiệp biện đạ i họ c sĩ là Nguyễn Chính và Đoà n
Vă n Hộ i sung là m Phụ đạ o đạ i thầ n và khở i phụ c cho nguyên Tổ ng đố c là Nguyễn
Thà nh ý cù ng nguyên Tuầ n phủ là Đoà n Khắ c Nhượ ng là m giả ng ố c để ngà y cù ng
vớ i giả ng quan thay phiên và o hầ u, và sớ m tố i hà ng ngà y xin nhà vua ra nơi tiện
điện hỏ i han sá ch sử . Lạ i nó i : "Đấ ng nhâ n quâ n tĩnh tâ m nuô i đứ c khô ng mộ t lú c
nà o nơi nà o mà khô ng phả i là họ c, trong thâ m cung sau khi chă m chỉ cố gắ ng cũ ng
nên cổ lú c ra và o thư thá i và vui vẻ thâ n cậ n nhữ ng bậ c hiền sĩ đạ i phu, để di dưỡ ng
tinh thầ n rộ ng thêm trí lự . Nay xin sau khi Kinh diên giả ng giả i cô ng việc nhà n hạ ,
gặ p lú c tạ nh hò a nên ngự đi du lã m trong mộ t hai thá ng mộ t lầ n. Nhữ ng ngà y xe giá
về, có Nộ i các xét nhữ ng sá ch vở thườ ng dâ ng đưa theo, để bọ n thầ n cù ng cá c phụ
đạ o nhậ t giả ng, thị vệ chư thầ n thay phiên theo hầ u đợ i có hỏ i han sá ch sử và xét
hỏ i mọ i việc về dâ n tình; lạ i trị thổ tụ c điền cô ng, v.v... như thế thì vui chơi có lú c,
họ c vấ n ngà y tiến đến cõ i quang minh". Gặ p lú c lễ suy tô n đã thà nh, tấ n phong cho
Vĩnh Trung tử , cố sứ c từ khô ng đượ c.
Nă m thứ 5 (1893) mù a xuâ n lên thọ 60, vua sai cá c thầ n (32) là Đồ ng Sĩ Vịnh mang
lờ i dụ củ a vua và kim tiền ngũ Phướ c, ngâ n tiền phi long đủ 5 mà u cù ng gia thêm
gấ m hoa và ng thuầ n bằ ng nhiễu và sa v.v... tớ i nơi thự sở truyền chỉ ban cấ p cho để
là m lễ thọ . Rồ i cù ng vớ i chính phủ thầ n dâ ng sớ xin trả lạ i chính, lượ c rằ ng: "Nay
nhà vua nă m đã tiến, có chí họ c hà nh và đứ c vua ngà y mộ t lớ n, bọ n thầ n giữ mã i
chính sự về then chố t đã lâ u, trong tâ m rấ t là khô ng yên, xin cho đình việc sung và o
phụ c chính để điều theo chứ c sự mà là m. Kính mong nhà vua lo xa nghĩ sâ u, chú t
nhớ về việc phó thá c là trọ ng, để tâ m và o họ c vấ n, theo nhậ n lờ i can, xa lá nh chơi
bờ i, có gắ ng kỹ cà ng mọ i chính sá ch, để thầ n cô ng đều hết chứ c ty, thờ i lẽ trị khá
mong dầ n tiến đượ c". Vua dụ rằ ng: "chớ nên từ ".
Nă m thứ 6 (1894) có việc bang giao, đượ c sai sang thà nh Pa-ri nướ c Phá p sử a việc
sính lễ, khi về lạ i sung chứ c như cũ . Nă m thứ 8 (1896) vì ố m xin ạ n về 6 thá ng để
tĩnh dưỡ ng; vua đặ c cá ch cho hạ n 3 thá ng cù ng ban cho sâ m quế và bạ c, sai trung
sứ hộ đưa ra khỏ i đô thà nh. Nă m thứ 9 (1897) mù a xuâ n lên vin lệ xin trí sự , xuố ng
chỉ ưu đã i và cho; lạ i xuố ng dụ rằ ng : "Từ xưa nhữ ng ngườ i có cô ng nghiệp, quố c
gia vẫ n ỷ trọ ng, nên thườ ng thườ ng tớ i ngà y trí sự , â n lễ vẫ n ưu đã i. Đó là khích lệ
cá i khí tiết, tiến thờ i khó , lui thờ i dễ, để khuyên nhủ kẻ sau nà y; Phụ chính đạ i thầ n,
Vă n Minh điện đạ i họ c sĩ Vĩnh Trung tử Nguyễn Trọ ng Hợ p là khoa giá p cự u thầ n,
có cô ng vớ i quố c gia, trẫ m vì tuổ i nhỏ nố i ngô i chính thố ng, khanh ở chính phủ hết
lò ng giú p rậ p, trong vỗ yên nhâ n dâ n, ngoà i cố kết lâ n hiếu. Tá m nă m qua, cô ng
khen thự c nhiều; nay ră ng tó c dẫ u chưa suy, nhưng lo nhọ c ngà y chồ ng chấ t dễ bề
mắ c bệnh. Mù a thu nă m ngoá i giả hạ n cho về, ta vẫ n ngà y mong; vì nghĩ tuổ i cao
đương ở nơi thiện địa (chỗ Kinh đô vua ở ). Mong cho â n nghĩa trọ n cả đô i đườ ng.
Nay xuâ n tớ i viện lệ xin về hưu, trẫ m đâ u nỡ trá i nhã ý lầ n nữ a. Nên theo lờ i xin mà
trong tâ m vẫ n mến khô ng ngà y nà o quên đượ c. Vậ y gia cho hà m Thá i tử thá i bả o
hà ng nă m chi bổ ng cho 3 phầ n 4, đặ c cá ch sai Lễ bộ tham tri là Trầ n Chỉ Tín mang
tờ dụ và 1 chiếc kim bà i, 10 chỉ sâ m Cao Ly, 4 thanh quế, 5 lạ ng và ng và 10 tấ m lụ a,
tớ i truyền chỉ ban cấ p cho, và tuyên bả o tinh thầ n sở tạ i mỗ i thá ng hỏ i thă m 1 lầ n,
rồ i tư bộ tâ u lên. Khanh nếu bệnh đã lui, thâ n thể khỏ e mạ nh, có muố n và o triều
yết, hễ lâ m thờ i cho trình bày lên, hoặ c có việc gì quan yếu, nên tuyên triệu, đều
chuẩ n cho và o Kinh triều yết để tỏ ý trẫ m nghĩ đến ngườ i cũ nhớ tớ i ngườ i hiền.
Khanh nên trên hết thể tấ t đến lịch triều có lò ng quyến ngộ , bụ ng nghĩ đố i vớ i nhà
vua, dẫ u có bà n bạ c phong nguyệt, nó i đến nô ng thư, nhữ ng lò ng trung hiếu dạ y
bả o chá u con, hoặ c bậ c hiến lã o có xin nó i điều gì để dù ng sá ng tỏ cho nướ c. ấ y là
trẫ m hậ u vọ ng đó !".
"Trọ ng Hợ p, con chá u cô ng hầ u, điềm là nh loan phượ ng; chính sự từ ng trả i việc
đờ i, thanh gươm lạ i giữ thà nh quá ch, gặ p hộ i minh lương triều trướ c, chim hồ ng
cấ t cá nh bay cao; lừ ng danh  u Á đườ ng trườ ng, vó ký ra tà i vượ t biển; tuổ i thơ ta
mớ i lên ngô i, giú p việc Cơ cô ng (tứ c Chu cô ng nhà Chu) thay chính. Tá m nă m cá ng
đá ng, trên vì đứ c dướ i vì dâ n; hai nướ c giả ng hò a, đó khô ng ghét đây khô ng chá n;
phong hộ i đổ i mớ i, á o mũ như xưa; khoa danh khô ng hổ như Vương Hiếu Tiên
(Vương Hổ đờ i Tố ng), tể phụ đứ ng đầ u như Phò ng Vương quố c (Đườ ng Phò ng
Huyền Linh); tá m cộ t ngấ t trờ i, đương mở tà i mưu á o cổ n (á o vua mặ c); ba hưu (3
lầ n xin về hưu) đình đắ p, đã mơ bỏ mũ chẳ ng cà i trâ m; cô ng thà nh vộ i khứ , đạ o cao
khó lưu.
Lạ i đặ c cá ch cho tế mộ t tuầ n và bà i vă n rằ ng :
Trọ ng Hợ p là ngườ i liêm cẩ n đoan trang trọ ng vọ ng, tự giữ trong sạ ch kiệm ướ c, ít
nó i cườ i, chưa từ ng chê khen nhâ n vậ t, nhưng trong bụ ng đã tỏ rõ phâ n biệt, ngườ i
đều nghiêm sợ khô ng dá m cầ u cạ nh riêng, trả i khắ p trong ngoà i 30 nă m có lẻ. Bụ ng
vố n cô ng bằ ng trung chính, tiết lạ i thanh bạ ch kiệm cầ n, ngườ i khô ng nó i và o đâ u
đượ c; khi giú p chính phủ , cù ng vớ i đồ ng liêu bà y mưu vạ ch kế, cù ng chung hò a khí,
trong sử a sang mọ i chính, ngoà i hò a mụ c lâ n bang. Phà m mọ i việc giú p nướ c lấ y
phả i, giết lớ n, nén kiêu hã nh, ngườ i đều trọ ng vọ ng về phong nhã ; đã về điền viên,
họ hà ng bè bạ n đều tớ i thă m, hoặ c hỏ i han nhữ ng việc trướ c sau gian hiểm, đều
cườ i khô ng đá p, thỉnh thoả ng hoặ c ngụ ý về sơn thủ y ngâ m vịnh vui thích. Hà ng
ngà y chă m việc trướ c thuậ t, thườ ng chơi xem cá c danh thắ ng ở Lộ c Dã Nam Vang,
mượ n hứ ng là m từ ng thiên từ ng thậ p (10 thiên là 1 thậ p), lò ng thà nh ưu á i khô ng
rõ tình đã hiện ra lờ i nó i rồ i. Khi bình thườ ng cù ng họ hà ng và phụ lã o trong là ng
đố i xử lấ y tình thuầ n nhã thâ n mậ t, ở trong là ng nà o dự ng Vă n Từ , sử a đình thờ
thầ n và đền Thủ y tổ , đền Thá i phó cô ng, đều ra sứ c chu đá o, dẫ u chi phí lớ n khô ng
tiếc. Về là ng đượ c 7 nă m gọ i chỗ ở là nhà Minh nô ng, vui chơi trong cả nh nô ng phố ,
giữ đạ m bạ c như chưa từ ng có quyền vị. Cò n nhà ở Hà Thà nh, viên Thố ng sứ cù ng
cá c quan Phá p thờ i thườ ng qua lạ i thă m hỏ i, khi có đạ i hộ i Đô ng dương cộ ng đồ ng
đượ c dự thương lượ ng bà n định. Lú c chết, các bạ n đồ ng liêu ở Kinh nghe tin khô ng
ai là khô ng mến tiếc, có là m bà i vă n truy điệu rằ ng :
"Duy cô ng, thầ n hò a như xuâ n, lò ng trong tự a nướ c. Canh đườ ng sá nh hệt Ngụ y
cô ng (Tố ng Hà n Kỳ phong Ngụ y quố c cô ng), sâ n hò e nẩ y chổ i Vương Hổ ; khoa mụ c
sẵ n nền, cá vượ t cử a sô ng ba đợ t só ng, vă n chương đắ c vị, bằ ng tung gió xoá y chín
từ ng mâ y. Khi thủ khi vỉ, lú c triều lú c quậ n; Anh miếu đượ c khen là tri ngộ , đạ i
bang cũ ng tỏ khắ p thanh danh; triều đình có ngườ i rồ i sau quố c thế mớ i tô n, sứ
thầ n khi tớ i là hỏ i thă m phu tử , gặ p hộ i y thườ ng ngọ c bạ ch (đô i nướ c thô ng hiếu
đưa lễ vậ t là m tin) cưỡ i bè ngưu đẩ u vượ t nă m châ u (Há n Trương Khiên đi sứ
nướ c Nhụ c Chi, phả i cưỡ i bè vượ t biển, qua cá c địa phậ n ngưu đẩ u mớ i tớ i); tả
hình phủ phấ t khuê chương (cổ lễ phụ c : á o châ u đều trang sứ c hình cá i phủ cá i
phấ t ngọ c khuê ngọ c chưở ng) giú p vậ n Hồ ng bà ng truyền muô n thủ a.
Lạ i rằ ng: "Đứ c nghiệp đầ y trong nướ c, trung hiếu khắ p triều đình, trên đố i bậ c anh
linh thă ng giá ng, dướ i phụ lò ng mong mỏ i sĩ dâ n; lờ i khen bậ c nguyên lã o bố triều,
lạ i gọ i đấ ng thầ n tiên lụ c địa; từ quố c triều trung hưng tớ i nay. Trương Thá i Sư Võ
Đô ng Cá c đượ c tiến thoá i thung dung, đến cô ng lạ i thấ y; xét hoà ng Lê thế thầ n ghi
chép, Thá i phó cô ng, Bình Chương cô ng đượ c â n vinh chung thủ y, cũ ng bậ c sá nh
so.
Cuố i thiên lạ i nó i: "Lò ng vua nhớ cũ , mệnh quý cà ng tâ n; há chẳ ng phả i cô ng lao
dẹp trướ c, bậ c vương thầ n khô ng lỗ i bở i quên mình; nên mớ i đượ c cả m độ ng trung
thà nh, ngườ i quâ n tử có chung vì biết nhú n v.v..."
QUYỂ N 31
Phạ m Sĩ Á i
>Đỗ Quang
Vua bả o : nghe tin Đỗ Quang ở Định Tườ ng bị khứ chứ c, dâ n ở hạ t khó c như mưa,
nếu khô ng phả i ngà y thườ ng đượ c lò ng dâ n, sao có như thế, cho khở i phụ c Hà n
lâ m viện trướ c tá c, rồ i lĩnh á n sá t Nghệ An, lạ i chuyển Hồ ng lô tự khanh, lĩnh Bố
chính sứ Nghệ An, cho cá i á n trướ c củ a Định Tườ ng phả i di chuyển bồ i thườ ng.
Tổ ng đố c là Tô n Thấ t Cá p dâ ng sớ nó i là ngườ i liêm chính, xin miễn cho; xuố ng chế
cho miễn, lạ i đổ i lĩnh Bố chính Nam Định. Nă m thứ 9, đổ i Quang lộ c tự khanh sang
biện lý Bộ Lạ i, sung Kinh duyên nhậ t giả ng quan; Vua khen cách giả ng luậ n lờ i đơn
giả n lẽ tỏ rõ cù ng vớ i Tô Trâ n cù ng xấp xỉ ngang nhau, tiến Lạ i bộ thị lang.
Nă m thứ 13 (1860) thự Tuầ n phủ Gia Định; trướ c đây quâ n ta đó ng đồ n ở Bình
Dương, là m nơi quâ n thứ đạ i đồ n, bên hữ u đồ n tạ m đặ t là m tỉnh, khi Quang tớ i dờ i
tạ m tỉnh ra Bình Long là m nơi chứ a lương. Mù a xuâ n nă m sau quâ n Phá p cử binh
đổ bộ lên đá nh, quâ n thứ đạ i đồ n và tỉnh lỵ tạ m bị phá vỡ cả Quang lú c đó ng Biên
Hò a, vì trá ch nhiệm ở nơi quâ n thứ đượ c giả m nhẹ cá ch chứ c lưu dù ng, Quang bí
mậ t ủ y ngườ i tớ i dụ hà o mụ c sĩ dâ n ở Gia Định đứ ng tuyển mộ để đợ i cơ sự . Mù a
đô ng quâ n Phá p tớ i hã m tỉnh Biên Hò a, ô ng bèn tớ i địa phương Tâ n Hò a cù ng vớ i
Phó lã nh binh là Trương Định đem sĩ dâ n giữ chỗ yếu để chố ng cự . Nă m thứ 15
(1862) thá ng 5, hò a nghị thà nh phả i cắ t đấ t, cho triệu về Kinh bổ Tuầ n phủ Nam
Định, Quang lờ i lẽ â n cầ n dâ ng sớ nó i : "Hô m thầ n về, sĩ dâ n đứ ng che kín cả và nó i:
nay cha bỏ con, quan bỏ dâ n, quan về lạ i là m quan, dâ n thờ i khô ng đượ c là m dâ n
củ a triều đình nữ a. Tiếng đầy đườ ng, thầ n cũ ng phả i gạ t nướ c mắ t mà đi; trộ m
nghĩ, thầ n hèn kém khô ng tà i, nhưng từ trướ c tớ i nay xung quanh cù ng vớ i dâ n,
vố n khô ng dá m tính đến ngà y nà o về; nay thầ n đượ c gọ i về, mà nghĩa dâ n từ trướ c
vì triều đình xuấ t tà i xuấ t lự c khô ng rõ bỏ thâ n nơi nà o, như thế trên phụ triều
đình, dướ i phụ tră m họ , tộ i khô ng thể chố i đượ c. Nếu lạ i lạ m dự chứ c phậ n ở địa
phương Nam Định, thờ i sĩ dâ n Gia Định ra sao? Cô ng luậ n ở trong nướ c ra sao?
Thầ n cò n có bụ ng thự c rõ hổ thẹn; huố ng thầ n kiến thứ c nô ng hẹp, nếu có gắ ng
gượ ng là m việc chỉ là tư chấ t cầ u lộ c cũ ng khô ng chú t bá o bổ . Xin thu về thà nh
mệnh, bãi chứ c cho về điền lý, để hả lò ng oá n giậ n củ a sĩ dâ n, mà phầ n nà o cò n cá i
tiết liêm sĩ củ a thầ n hạ ".
Vua xem lờ i tâ u cho triệu kiến và dụ rằ ng: "Trẫ m đã biết bụ ng nhà ngươi là Đỗ
Quang, mà ngươi là Đỗ Quang cũ ng nên biết bụ ng trẫ m khô ng nên như thế”. Tờ sớ
giao cho Bộ Cá c giữ . Gặ p lú c quê mình ở Hả i Dương có quâ n thổ khấ u là m rố i loạ n,
mẹ Quang và gia quyến phả i lá nh nơi khá c, Tổ ng đố c Nam Định là Nguyễn Đình
Tâ n dâ ng sớ kể tình trạ ng, vua sai hậ u cấ p cho, rồ i cho về thă m mẹ và cho bạ c cù ng
thuố c men. Quang đó n mẹ về là ng, rồ i liền đó cá o bệnh, đượ c chỉ hậ u cho.
Nă m thứ 19 (1866) việc ngoà i biên đã cá o xong, lạ i dâ ng sớ trầ n tình xin nghỉ,
đượ c sắ c ú y lạ o lưu lạ i và bả o : "ý trẫ m gấ p dù ng ngườ i, mà ngươi cứ lấ y tình riêng
là m rườ m tai ta mã i, lò ng ngươi có yên khô ng?" Lạ i gia cho ban thưở ng và nó i:
"biết ngươi tình cả nh thanh bầ n nên ban cho". Đượ c hơn thá ng bệnh nặ ng thêm,
cho về nghỉ, về đến nhà rồ i chết, thọ 60 tuổ i, tin cá o phó đến tai vua, vua dụ rằ ng:
"Đỗ Quang ra là m quan 30 nă m có lẻ, thanh bạ ch trung chính chă m chỉ cẩ n thậ n,
đượ c tiếng trong ngoà i, trướ c đây ở Nam kỳ dẫ u gặ p gian nan vẫ n giữ mộ t tiết, kịp
tham tá n quâ n vụ ở Hả i An tỏ có cô ng lao. Hằ ng nă m tớ i nay nhâ n ngoà i biên có
bá o độ ng, nên đặ c cá ch khở i phụ c cò n trong khi có bệnh để vỗ yên nơi trọ ng khẩ n,
khô ng ngờ bệnh thế ngà y thêm, bèn cho nghỉ việc về là ng. Ta vẫ n nghĩ tớ i ngườ i
đương lú c cầ n dù ng, khô ng may vộ i chết, thự c là đau xó t, cho truy tặ ng Lễ bộ
Thượ ng thư, cò n con đợ i chỉ sẽ lụ c dụ ng, lạ i ban lộ c cho mẹ để sinh số ng và sai hữ u
tư thườ ng tớ i hỏ i thă m. Em Quang là Vinh cũ ng đỗ hương tiến.
Nguyễn Vă n Lý
Tự là Tuầ n Phủ , ngườ i huyện Thọ Xương tỉnh Hà Nộ i (Nay thuộ c quậ n Ba Đình, Hà
Nộ i), cao tổ là Hy Quang Hiển là m quan nhà Lê đến Cô ng bộ Thượ ng thư Hiển quậ n
cô ng, về sau con chá u có nhiều ngườ i hiển đạ t, đến đờ i bố là Vọ ng đỗ sinh đồ đờ i
Lê, gặ p Tâ y Sơn khô ng là m quan; Vă n Lý lú c nhỏ có chí h885;c, Minh Mạ ng nă m
thứ 13 (1832) đỗ tiến sĩ, do Hà n lâ m biên tu bổ Tri phủ Thuậ n An, chuyển sang
Viên ngoạ i lang Bộ Lạ i, từ ng là m Lang trung. Đầ u nă m Thiệu Trị (1841) đổ i Á n sá t
sứ ở Phú Yên, vì mắ c việc phả i miễn quan, lạ i khở i phụ là m tu vă n quy mắ c bệnh về
nghỉ, sau bổ Giá o thụ phủ Thườ ng Tín, rồ i lĩnh đố c họ c Hưng Yên. Vố n tinh thô ng
về Dịch lý, nă m Tự Đứ c thứ 17 (1864) bị triệu tớ i Kinh sai bó i quẻ Thi, lạ i tự nghĩ
tuổ i già bà y tỏ thà nh thự c phụ tâ u nó i: "địa diện Hả i Dương là nơi yếu hạ i xin dặ t 3
đồ n để ngă n cử a biển, cù ng 4 cử a biển lớ n ở Nam Định thự c là nơi phì nhiêu xin
cho thờ i thườ ng khai khẩ n". Lờ i tâ u dâ ng lên đượ c xuố ng chỉ ưu đã i cho về, rồ i
theo tuổ i xin về dưỡ ng lã o, đượ c gia Hà n lâ m viện trướ c tá c trí sĩ, nă m 74 tuổ i thờ i
chết.
Ngườ i huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, nă m Minh Mạ ng thứ 11 (1830) đỗ tú
tà i sung cố ng sinh, bổ và o Giá m sinh Quố c Tử Giá m. ă m thứ 14 (1833) phá i theo
quâ n thứ ở Gia Định, khi việc yên, đổ i là m Tri huyện Thọ Xương. Thiệu Trị nă m đầ u
(1841) bổ Tri phủ Cam Lộ , nă m thứ 6 (1846) đổ i tri Tương An phủ (34). Gặ p quâ n
Thổ khấ u cướ p bó c quấ y nhiễu, Thườ ng bày cá ch vỗ dẹp, sở hạ t đượ c yên, việc đến
tai vua đượ c thưở ng nghị tự . Mấ t ở chỗ là m quan.
Thườ ng giữ chứ c đượ c thanh bạ ch liêm khiết, trả i là m thú lệnh hầ u 20 nă m, đến
đâ u cũ ng có huệ chính, dâ n phầ n nhiều nhớ tớ i. Con là Khá nh và Tườ ng đều đỗ
hương tiến, Khá nh là m đến Tri huyện Duy Xuyên, Tườ ng là m đến Tri phủ Tương
Dương.
Vũ Phạ m Khả i
Tự là Đô ng Dương, ngườ i huyện Yên Mô , tỉnh Ninh Bình. Khi xưa ô ng tổ là Diên gặ p
lú c khai khẩ n mở mang ruộ ng biển, bèn lậ p thà nh ấ p thà nh là ng và ô ng tổ là
Nghiệm là m hiệu sinh đờ i Lê. Khả i lú c sinh ra, khi nhỏ có tướ ng lạ , Minh Mạ ng nă m
thứ 12 (1831) đỗ hương tiến bổ Tri huyện Quỳnh Lưu, gặ p lú c ở Quỳ Châ u bá o
độ ng có giặ c, đượ c cử giú p việc quâ n, rồ i cấ t là m Lễ khoa cấ p sự trung, ở chứ c
thườ ng bị nha, sai, lễ thầ n đổ i lấ y thá ng quý xuâ n xem ngà y lễ Giao; Khả i nó i: "Tế
Giao bách thầ n mớ i nhậ n chứ c, là lễ rấ t lớ n, rấ t nên là m trướ c, để đến thá ng quý
xuâ n khô ng nên". Vua xuố ng chiếu lờ i trình bày, khô ng bà n nữ a, ô ng lạ i thườ ng
cù ng Giá m sá t ngự sử là Lưu Quỹ dâ ng sớ ngă n việc trù ng tu sổ tuyển lính ở Định
Tườ ng, cù ng can ngă n ra ch Tịnh Tâ m, và nó i việc Thượ ng thư Nguyễn Trung Mậ u
bị tró i. Lạ i cù ng cấ p sự Đặ ng Quố c Lang dâ ng sớ nó i việc Trấ n Tâ y (lờ i nó i thấ y ở
truyện Quỹ và Quố c Lang).
Nă m thứ 19 (1830) đượ c sai đi liêm phó ng ở Bắ c Kỳ rồ i điều trầ n tâ u lên 13 khoả n,
vua khen.
Vua thườ ng buổ i tố i ra ngự ở Đô ng cá c lấ y tậ p thơ vua là m ra, nhan đề là "tà i thà nh
phụ tướ ng, tiên thiên hậ u thiên" sai Khả i chú giả i; lạ i sai tậ p lạ i 9 thiên "Hoà ng
huấ n thi" và "Chỉ thiện đườ ng hộ i tậ p". Vua thườ ng gọ i ô ng là "Hồ tu thượ ng thư"
(Thượ ng thư râ u ria), ngà y đượ c lự a chọ n để ý đến.
Nă m thứ 18, (1865), cho triệu bổ Thị độ c họ c sĩ sung Toả n tu ở Sử quá n, thườ ng vì
thơ vă n đượ c hỏ i han luô n. Việc ở Nam thù y (35) bù ng lên, Khả i có bà n luậ n và chủ
trương đá nh; đến bấ y giờ vua hỏ i cá ch thứ c về cổ vă n, Khả i nó i: "Là m ra chương
Thườ ng vũ , Â n vũ và dự ng bia Bình hoà i, đều là ghi sự thự c củ a An Cao tô ng, Chu
Tuyên vương và Đườ ng Thá i tô ng về cá ch dù ng binh". Lạ i sai Phướ c duyệt cá c
thiên vua là m ra, Khả i cũ ng cứ thẳ ng trình bày cù ng tâ u việc kín có niêm phong
dâ ng lên, hoặ c can ngă n nhữ ng điều khó nó i, Khả i nó i: "nay nơi biên đình nhiều
biến cố , thầ n khô ng hay thi thố đượ c chú t mưu kế gì, nếu lạ i lấ y lờ i hư vă n đó n ý
kiến củ a nhà vua, thì trong tâ m khô ng yên".
Vua đặ c cá ch phê rằ ng: "Khô ng phả i xuấ t chinh, khô ng phả i nhơ nhớ p vớ i giặ c, sau
lạ i có thự c trạ ng khô ng thể so sá nh như lệ khá c. Đà i thầ n (36) nó i là có lỗ i, lấ y tình
hình mà chuẩ n xét, cho giá ng là m Hà n lâ m viện thị độ c họ c sĩ, nhưng sung Sử quá n
toả n tu, gia cho tiền tuấ t 300 quan. Sau lạ i đượ c sắ c hỏ i thă m gia đình và nhữ ng
thơ vă n trướ c thuậ t. Bấy giờ có 3 quyển thơ, 18 quyển vă n dâ ng lên.
n Danh Dương
Ngườ i huyện La Sơn tỉnh Hà Tĩnh, lú c nhỏ xinh đẹp lạ , vă n lạ i hay. Minh Mạ ng nă m
thứ 12 (1831) đỗ hương tiến, bổ Tri huyện Hưng Nguyên, lạ i chuyển sang huyện
Nga Sơn. Tự ' Đứ c nă m thứ 4 (1851) cấ t là m Tri phủ An Nhâ n, đến đâ u đều có chính
tích hay, phẩ m trậ t đã mã n 3 nă m đá ng lẽ đượ c thă ng, quâ n dâ n tớ i cử a khuyết xin
lưu lạ i. Vua cho có tà i trị dâ n, lạ i đổ i là m Tri phủ Hoà i Nhâ n, đượ c lâ u tiến lên Thị
giả ng họ c sĩ, lĩnh á n sá t sứ Gia Định, nă m thứ 8 (1855) đổ i bổ á n sá t Vĩnh Long, rồ i
mắ c bệnh về hưu.
Nguyễn Đứ c Chính
Tự là Thiện Trai, ngườ i huyện Diên Phướ c tỉnh Quả ng Nam. Có tiếng vă n họ c. Minh
Mạ ng nă m thứ 12 (1831) đỗ hương tiến, lú c đầ u và o cá c, trả i thă ng Tham biện, đổ i
là m Biện lý Bộ Binh. Thiệu Trị nă m thứ 6 (1846) là m Tham tri Bộ Binh, đổ i ra Tuầ n
phủ Hà Tĩnh. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) đổ i về Tả tham tri Bộ Lạ i. Bấ y giờ mớ i mở
nhà Kinh diên, sung là m nhậ t giả ng quan, lạ i đi khâ m sai là m Phó chủ khả o trườ ng
thi hộ i. Nă m thứ 3 (1850) bị ố m chết ở chỗ là m quan.
Đứ c Chính là ngườ i thanh bạ ch thẳ ng thắ n, trả i khắ p trong ngoà i, là m việc chu đá o
cẩ n thậ n. Hô m chết, vua thương cả nh thanh bầ n, đặ c cá ch gia cho 400 quan tiền,
vả i lụ a đều 20 tấ m. Con có 2 ngườ i, Luậ n đượ c tậ p ấ m bổ là m quan đến Tri phủ
Diễn Châ u, cò n Xưở ngổ thụ cử u phẩ m.
Bù i Duy Kỳ
Tự là Thượ ng Hà n, ngườ i huyện Vũ Tiên tỉnh Nam Định (Nay là Vũ thư, Thá i bình)
lú c đầ u đỗ tú tà i bắ t đượ c tên đầ u giặ c có cô ng bổ là m Tư vụ Bộ Binh, trả i thă ng
Lang trung Bộ Lạ i. Tự Đứ c nă m thứ 3 (1850), đổ i là m Á n sá t sứ tỉnh Ninh Bình, rồ i
đổ i ra tỉnh Tuyên Quang; nă m thứ 7 (1854) và o chiêm cậ n (và o chầ u ra mắ t), vua
sai trình bà y lờ i nó i, Duy Kỳ điều trầ n 3 việc : "1) Lệ lính thú do tỉnh Sơn Tây trích
phá i đi, khô ng quen thủ y thổ , xét 5 huyện : Tâ y Quan, Hù ng Quan, Sơn Dương, Phù
Ninh và Lậ p Thạ ch thuộ c hạ t Sơn Tâ y, cù ng địa hạ t Tuyên Quang gầ n liền, khí hậ u
khô ng cá ch xa lắ m, xin cho toà n độ i tính tuyển ở nhữ ng huyện ấ y đó ng thú canh
giữ thườ ng xuyên, để ngườ i và đấ t cù ng hợ p thủ y thổ . Lạ i bên hữ u tỉnh thà nh có
chỗ đấ t bỏ khô ng, sai lính thú khai khẩ n để nhờ lương ă n cho lính, khi lú a chín, mộ t
nử a nộ p quan, mộ t nử a cho lấ y mà ă n, để yên hà ng ngũ ; 2) Hạ t Tuyên Quang cù ng
vớ i tỉnh Vâ n Nam nướ c Thanh tiếp cõ i gầ n đâ y nghe Vâ n Quý cướ p nổ i dậ y như
ong. Nếu trong đấ t họ khí thế giặ c chưa bình, thờ i cương giớ i củ a ta chưa chắ c đã
bình yên vô sự , vả thổ man thuộ c hạ t, lấ y đồ ng loạ i tụ họ p vớ i nhau. Xét tên nà o về
kỹ nghệ cũ ng có chỗ khá , xin cho là m tướ ng, để chiêu tậ p chia ra bộ ngũ , lậ p lính
hương binh, để dự bị lú c hữ u dũ ng; 3) Cá c phủ huyện châ u ở thượ ng du trả i đặ t
lưu quan, nhưng đấ t xa chướ ng khí nặ ng, có danh khô ng thự c; vậ y nơi men biên
giớ i đều liệu đặ t thà nh phủ huyện, có thừ a thứ thổ dâ n, để dễ khiến tin theo".
Vua giao tờ ấ y cho đình nghị, rồ i cấ t cho là m Thá i bộ c tự khanh, lĩnh Bố chính sứ
Tuyên Quang. Nă m thứ 13 (1860) và o là m Hữ u thị lang Bộ Lạ i, lạ i đổ i sang Bộ
Cô ng, chuyển tớ i Bố chính sứ Quả ng Bình, rồ i đượ c nguyên hà m về hưu dưỡ ng,
đượ c nhà n hạ nơi lâ m tuyền trả i 10 nă m có lẻ. Chết nă m 80 tuổ i; em là Duy Phiên
tự Tử Mỹ, đầ u nă m Thiệu Trị (1841) đỗ tiến sĩ, bổ là m Hà n lâ m biên tu, trả i quyền
ấ n vụ ở phủ Quả ng Oai.
Nguyễn Huy
Đủ niên lệ 70 tuổ i, trấ n tình xin trí sĩ, vua xuố ng chỉ ưu đã i. Mấ t nă m 72 tuổ i, con là
Tĩnh đỗ hương tiến.
Hồ Mậ u Đứ c
Tự là Lệnh Phủ , ngườ i huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, lú c nhỏ xinh đẹp có tiếng
thầ n đồ ng, Minh Mạ ng nă m thứ 12 (1831) đỗ hương tiến, lú c đầ u thự Tri huyện
Đô ng Triều, ở chứ c vị đượ c 5 nă m, vì cha mẹ già xin về phụ ng dưỡ ng. Thiệu Trị
nă m thứ 4 (1844) đổ i là m Tri huyện Hương Sơn, quyết nén lui nhữ ng cườ ng hà o
giả o quyệt, hưng điều lợ i, trừ điều hạ i là m việc cố t yếu, khi cô ng việc hà n hạ , ô ng
giả ng tậ p lạ i là m đền Lậ p hiền, vă n phong trong huyện tiến mạ nh. Rồ i mắ c việc bị
cá ch chứ c, đầ u nă m Tự Đứ c (1848) khai phụ c cử nhâ n do bộ là m th̗5;a biện. Mắ c
bệnh xin về, đó ng cử a dạ y họ c khô ng biết mỏ i, họ c trò thà nh tự u đượ c nhiều, chết
nă m 60 tuổ i. Con là Ngô đỗ tú tà i, Đồ ng đỗ hương tiến.
Nguyễn Hà m Ninh
Tự là Thuậ n Chi, ngườ i huyện Bình Chá nh, tỉnh Quả ng Bình . Minh Mạ ng nă m thứ
12 (1831) đỗ hương giả i, thự Tri huyện Lụ c Ngạ n, vì có tang nghỉ chứ c rồ i mắ c việc
đổ i tên, lạ i đượ c khai phụ c Tự dung, thă ng đến Chủ sự ; lạ i bị miễn chứ c vệu Trị
(1841) là m các Hà nh tẩ u, trả i Viên ngoạ i lang Bộ Hình. Nă m thứ 6 (1846), chuyển
Lễ bộ lang trung, đổ i Á n sá t sứ Khá nh Hò a, vì nhầ m tớ i thuyền ngoạ i quố c phả i
nghị luậ n trích đi đó ng thú , lâ u mớ i lạ i khai phụ c Hà n lâ m viện trướ c tá c, lạ i bị
khiển trá ch, rồ i chết nă m 61 tuổ i.
">
Hà m Ninh lấy vă n họ c nổ i tiếng, mà số thì lạ , hễ thă ng quan là bị miễn khứ ; về thơ
vă n thờ i trầ m tĩnh hù ng mạ nh khi đè nén khi phô trương và sở trườ ng về lố i ngũ
ngô n. Thương Sơn cô ng vẫ n thườ ng khen, nay có thơ tậ p vă n gọ i là “Tĩnh trai".
Phạ m Phi
Trọ ng Bình xin từ , vua khô ng chuẩ n cho lạ i dụ rằ ng : "Việc thưở ng khuyến là điển
thườ ng, khen mộ t ngườ i khuyên tră m ngườ i, cũ ng là cá i ý tự họ Ngỗ i (37) trướ c.
Nă m thứ 17 (1864) mù a xuâ n, quâ n Thổ phỉ nhà Thanh và o cướ p tỉnh Lạ ng Sơn, tờ
hịch cá o cấp. Vua liền đổ i Trọ ng Bình là m Tổ ng đố c Ninh Thá i, sung Kinh lượ c
nhữ ng đạ o : Ninh, Thá i, Lạ ng, Bình, cho 30 lạ ng bạ c và phá i 1500 lính đi theo.
Trọ ng Bình mang cờ tiết ruổ i đến Bắ c Ninh, Cao Bằ ng, lạ i bị giặ c hã m con đườ ng
chở lương khô ng thô ng, liền bầy cá ch vậ n chở tiếp tế rồ i tiến quâ n ở Quang Lang
(thuộ c Lạ ng Sơn). Giặ c bỏ đồ n trố n ngay ban đêm, đườ ng trạ m lạ i thô ng đồ ng,
chuyển tớ i thà nh Lạ ng, đưa hịch cho cá c thâ n hà o tỉnh Cao Bằ ng tụ họ p quâ n nghĩa
dũ ng, hoặ c giữ đấ t đó ng ngă n để chố ng chọ i, hoặ c đặ t phụ c binh đó n đá nh để phá
hoạ i. Rồ i tự đem đạ i binh đó ng đồ n ở phố Cầ u Phong, giặ c đá nh ú p lú c khô ng ngờ ,
quâ n ta liền vỡ ọ ng Bình lạ i thu quâ n cố sứ c đá nh bèn đượ c.
Trọ ng Bình tính cương trự c lạ i ở ngoà i lâ u, từ khi về tham việc then chố t, cù ng vớ i
viện thầ n bà n bạ c, giá n hoặ c có chí chiết hoặ c mấ t hò a khí, vua nhâ n đó ban cho
chù m vả i, tỏ ý phả i tương thâ n. Trọ ng Bình lạ i nó i nă ng nó ng nả y sơ suấ t, thườ ng
đượ c bả o ban, Trọ ng Bìnhệc nơi Cơ mậ t. Vua lạ i dụ rằ ng : "ngườ i ta có phả i ai cũ ng
Nghiêu Thuấ n mà hay tậ n thiện, trẫ m cũ ng liệu việc ră n bả o, mong đổ i lỗ i theo
thiện để thà nh toà n cả . Nếu cứ lấ y mộ t việc mộ t lờ i nó i là m bấ t mã n, thờ i vẫ n cò n
có ý hiềm oá n, há mong đổ i lỗ i đượ c ư!”, Trọ ng Bình lạ y tạ .
Nă m thứ 21 (1868) cá c hạ t : Trị, Bình, An, Tĩnh về bên lương giá o khô ng cù ng nhau
yên ổ n, đang chọ n sung khâ m sai tớ i xử trí. Gặ p giặ c Ngô ở Cao Bằ ng lạ i là m phả n,
ban đêm đá nh ú p lấ y thà nh. Vua cho Trọ ng Bình tình thế vố n đã am hiểu, chuẩ n
cho bổ Hiệp biện lĩnh Tổ ng đố c Hà Ninh, nhưng sung Khâ m sai đạ i thầ n ở 3 nơi
quâ n thứ Tuyên Thá i Lạ ng, để mưu tính lương thự c và đá nh dẹp.
Vua cho Bộ Lạ i giữ chứ c câ n nhắ c nhâ n tà i, Trọ ng Bình vố n giữ tiết thá o liêm chính,
đổ i là m Tả tham tri Bộ Lạ i. Nă m thứ 28 (1875) ở Bắ c Ninh có bã o lụ t lự a sung
Khâ m sai tớ i xét và chẩ n cấ p, rồ i hộ lý Tổ ng đố c Sơn Hưng Tuyên. Chẳ ng bao lâ u vì
tuổ i già xin về nghỉ, vua khô ng bằ ng lò ng lạ i dụ rằ ng : "nhà ngươi mộ t lò ng cô ng
trung, trướ c sau khô ng đổ i, huố ng hồ lỗ i chưa bổ â n chưa gia, đương lú c gian nguy
nà y, sao nỡ đã cá o lã o”, chuẩ n y cho thự c thụ .
Nă m thứ 32 (1879) Phù ng Sú ng lạ i tớ i nơi quâ n thứ ở Thá i Nguyên, vua cho Trọ ng
Bình vẫ n có tiếng thuầ n lương, lạ i cù ng vớ i Phù ng đề đố c quen biết, sai tớ i thương
thuyết việc quâ n, rồ i chuyển về tỉnh Bắ c tính việc chẩ n tế.
Nă m thứ 33 (1880) mù a thu Trọ ng Bình và o chầ u vua, vua cho triệu và o hỏ i việc
ngoà i biên ở Bắ c Hà và nhâ n đó hỏ i rằ ng : "Việc trậ n mạ c ở ngoà i biên ở Bắ c Hà
chưa biết ngà y nà o đượ c yên, hiện nay tham tá n thờ i nhiều, chưa có ngườ i nà o vố n
có phẩ m vọ ng, nên cù ng vớ i Hoà ng Tá Viêm bà n luậ n khô ng hợ p. Khanh như sung
mộ t chứ c hiệp đố c hoặ c biên vụ , tư liệu cù ng vớ i Tá Viêm thương nghị có giú p nên
đượ c việc chă ng?" Trọ ng Bình thưa rằ ng : "Thầ n tính thô suấ t, việc binh lạ i khô ng
phả i sở trườ ng, khô ng dá m tự đương, duy cho thầ n lỵ nhiệm ở Sơn, nếu gặ p việc
cù ng thương lượ ng tưở ng cũ ng có chỗ nghe nhau”. Vua lạ i hỏ i : "Khanh trị dâ n như
thế nà o mà thấ y dâ n yêu?" Trọ ng Bình thưa rằ ng : "Duy khô ng dung tú ng lạ i tư,
nghiêm bắ t trộ m cướ p và sứ c cho phủ huyện hết thả y các tạ p tụ ng khô ng đượ c để
lâ u và thuế lệ hà ng nă m chính thâ n phả i chiếu cố , quâ n hà nh cho rõ ". Vua muố n lưu
lạ i để sung và o Bộ Lạ i, lạ i cho viên lạ i ở Bắ c Kỳ phầ n nhiều là ngườ i mớ i, Trọ ng
Bình là lã o thà nh khá nhờ đượ c trấ n á p, lạ i chuẩ n cho về Sơn Tây. Bấ y giờ ở Bắ c Kỳ
có lờ i nghị luậ n về việc vậ n chuyển khô ng đượ c ngay thẳ ng, Trọ ng Bình định
Phướ c lạ i việc nên là m ở tà u thuyền và tự xin qua lạ i trô ng coi, vua cho thuyền
chính mớ i bắ t đầ u, Trọ ng Bình đã cá n là m, lạ i xin tự đương lấ y, đổ i là m Tổ ng đố c
Định Yên kiêm trô ng coi việc đó .
Nă m thứ 35 (1882) lên thọ 70, vua d rằ ng: "Trọ ng Bình trả i là m quan 3 triều, dẫ u
tính thiên định kiến nên thườ ng vấ p vá p nhưng mộ t lò ng thự c thà trung hậ u ưu á i
đến già khô ng đổ i, cho bạ c tiền phẩ m vậ t để khuyến khích cầ n lao và tỏ rõ cá i ý
dưỡ ng lã o".
Kiến Phướ c nă m đầ u (1883), lạ i khở i phụ c thương biện cô ng việc tỉnh Nghệ An, rồ i
triệu về cấ t là m Hộ bộ Thượ ng thư, vì già xin về hưu. Đồ ng Khá nh nă m đầ u (1866)
chuẩ n cho hà m Thượ ng thư đượ c hưu trí, â n cấ p cho nử a bổ ng. Nă m Thà nh Thá i
thứ 10 (1899) chết ở nhà , thọ 91 tuổ i. Tỉnh thầ n tâ u lên, vua thương nghĩ là cự u
thầ n truy thụ Hiệp biện đạ i họ c sĩ, cấ p cho tiền tuấ t. Lạ i cho ngườ i rể là Thừ a Thiên
phủ doã n Hoà ng Cô n (nay thự tổ ng đố c Thuậ n Khá nh) đượ c trả hạ n về lo liệu cô ng
việc.
Trọ ng Bình là ngườ i cứ ng rắ n thẳ ng thắ n thự c thà ngay thẳ ng, đến đâ u cũ ng có
tiếng liêm bình, dẫ u sở đoả n về cá ch dù ng binh, nhưng sở trườ ng về cá ch trị dâ n,
nên sau khi đi, dẫ n vẫ n thườ ng nhớ . Trả i khắ p trong ngoà i 50 nă m có lẻ, thự c xứ ng
câ u Há n Chương Đế nó i "An tĩnh chi lạ i, khẩ n bứ c vô họ a", nghĩa là : Kẻ lạ i yên tĩnh,
rấ t thà nh thự c khô ng hoa mỹ. Hô m chết có đoá i bả o con em rằ ng : "cả đờ i ta chỉ giữ
3 chữ : khô ng dố i vua", nay tỏ rõ đã đượ c miễn. Con có 2 ngườ i, lớ n là Liêm, đỗ cử
nhâ n khoa Tự Đứ c Đinh mã o, là m đến Hà n lâ m thị giả ng họ c sĩ, khoả ng nă m Đồ ng
Khá nh theo Phù Quố c cô ng là Phan Đình Bình đi hiểu dụ để dẹp yên trong hạ t, bị
giặ c hạ i. Thứ là Trinh cũ ng đỗ hương tiến là m đến huấ n
Huy Lịch tính điềm đạ m, giả n dị, trầ m tĩnh, khi là m quan thanh bạ ch, cẩ n thậ n,
đượ c yên thâ n. Sau khi qui điền, lấ y sá ch vở là m vui, là m điều nghĩa bả o ban họ c
trò , lấ y thi lệ khuyên ră n con chá u. Trả i 30 nă m vết châ n chưa đến thà nh thị, cá c
viên thú mụ c tớ i cai trị đều trọ ng là ngườ i có khí độ , thườ ng muố n đề cử lên, Huy
Lịch đều cả m tạ , xin rú t lui để đượ c an điềm. Đầ u nă m Kiến Phướ c (4) thờ i chết,
thọ 85 tuổ i. Con có 9 ngườ i, 3 ngườ i đă ng khoa. Huy Cử u châ n ấ m sinh đỗ tú tà i,
Huy Vũ đỗ cử nhâ n, cả hai đều là m tri huyện, Huy Cá p đỗ tú tà i, con Cá p là Huy Di,
nă m Thà nh Thá i thứ 9 (1897) cũ ng đỗ hương tiến.
QUYỂ N 32
Tiễn Thà nh tớ i Hả i Dương gặ p dâ n đang đó i, tứ c thì tiện việc trích gạ o ở kho 3.000
phương giao cho phủ huyện chia phá t chẩ n, rồ i viết tậ p tâ u lên xin tộ i. Vua cho gấ p
việc chẩ n tế đượ c miễn tộ i. Bấy giờ cá c cả ng đạ o ở Thanh Nghệ nhiều chỗ nô ng lấ p,
Tiễn Thà nh tâ u xin cho khơi đà o ra, vua chuẩ n giao cho 2 tỉnh khá m xét mà là m.
Vua nó i : "Giú p việc cơ mưu trong mà n tướ ng cũ ng khô ng nên thiếu, Tiễn Thà nh
trướ c ở Binh bộ cô ng việc đã hiểu, lạ i bổ là m Binh bộ Thượ ng thư và thưở ng cho 1
đồ ng kim tiền hạ ng lớ n có 2 chữ : "viết trung", cù ng dụ bả o cá i ý hễ việc xong sẽ ưu
thưở ng đề bạ t cho".
Nă m thứ 23 (1870) vua ra duyệt đồ n lũ y ở Thuậ n An, thưở ng cho 1 chiếc nhẫ n đeo
tay bằ ng và ng mạ n thủ y tinh và 1 chiếc kim khá nh hạ ng lớ n có nhữ ng chữ "liêm
bình cầ n cá n", rồ i cho là m thự Hiệp biện lĩnh chứ c kiêm sung như cũ .
Nă m thứ 25 (1872) vì có tang mẹ xin về đến khi hết trở , đượ c vua phê bả o : "Khanh
về chứ c phậ n, giao nghị, trá ch vọ ng như thế, há nên để vắ ng lâ u, cấ p cho 500 quan
tiền và nghỉ 3 thá ng để lo liệu cho xong việc chay ma".
Tiễn Thà nh dâ ng sớ xin từ , lượ c rằ ng : "Thầ n độ i ơn cấ t nhắ c, cho giú p việc giữ về
binh khu tham cả cơ vụ trả i 10 nă m có lẻ. Phà m các việc đều noi theo sự tính toá n
củ a nhà vua và kính chịu cả mọ i phương lượ c, thầ n khô ng chú t có phương lượ c nà o
để xứ ng đá ng ngô i cao, may đượ c nhà vua thể tuấ t chu toà n cho, khô ng nhữ ng giữ
cho khô ng có lỗ i lớ n mà lạ i đượ c trọ n cả đạ o hiếu. Hà ng nă m nay bố n phương
nhiều nạ n, cá c tướ ng sĩ đều tỏ hết tiết nghĩa ở ngoà i biên, mà thâ n mộ t mình đượ c
ra và o hầ u hạ nơi tả hữ u, bí mậ t mưu mô việc miếu đườ ng, thự c là nhà vua lấy hiếu
trị thiên hạ . Nhà vua thể tấ t cả quầ n thầ n, nên thương thầ n cò n mẹ mà khô ng để
thiếu phụ ng dưỡ ng mộ t ngà y. Nă m trướ c gặ p lễ đạ i khá nh tiết ban cho mẹ thầ n cá c
phẩ m vậ t, mẹ thầ n từ ng bả o thầ n rằ ng : "ơn vua long trọ ng đến cả mẹ như thế, mẹ
nay khô ng dá m có con nữ a". Khi mẹ thầ n ố m, lạ i đượ c sắ c cho thá i y bố c thuố c điều
trị và thườ ng đượ c trung sứ tớ i hỏ i thă m. Thầ n mỗ i khi hầ u thuố c, mẹ thầ n giụ c tớ i
triều và khó c bả o rằ ng : "â n tư như thế, con dẫ u kiếp tá i sinh là m khuyển mã cũ ng
khó xứ ng bù đượ c. Trướ c sau lờ i dạ y bả o củ a mẹ thầ n, thầ n đâ u dá m quên, nay
thầ n ngà y thờ mẹ đã hết. Gầ n đây chuẩ n cho hết 3 thá ng phả i tự u chứ c, thầ n khô ng
dá m vượ t mệnh, phả i mặ c đồ đen ra giú p việc, đó là khi có binh cách khô ng trá nh
hiềm nghi, cổ nhâ n vẫ n thườ ng là m. Thự c là nhà vua châ m chướ c cho tò ng quyền
mà thầ n cũ ng khỏ i hiềm nghi về vượ t ngoà i tang chế. Nay lạ i vộ i gia sủ ng mệnh
mớ i, thầ n thự c chưa giả i về cô ng nghị ra sao. Kính xin thu về thà nh mệnh, vẫ n cho
thự hà m giữ mộ t chứ c để hết sứ c giố ng ngự a hèn cố gắ ng lên mà giong ruổ i, đó là
hậ u vọ ng củ a thầ n".
Tờ sớ dâ ng và o vua phê bả o : "Đó là điển thườ ng mà khanh cho là khí quá , trẫ m
cũ ng khô ng ép, tạ m theo ý kiến, để khanh thi thố mưu toan bá o đá p, tỏ lờ i khuyên r
củ a ngườ i hiền mẫ u, xứ ng đá ng là bậ c hữ u dụ ng cho quố c gia, may việc biên sớ m
xong, thưở ng cho cũ ng chưa muộ n".
Nă m thứ 26 (1873) Hà Nộ i, Hả i Dương, Nam Định, Ninh Bình kế tiếp bị thấ t thủ ,
khi Nguyễn Vă n Tườ ng tớ i Hà Nộ i giả ng giả i thu về 4 tỉnh, vua cho Vă n Tườ ng là do
Tiễn Thà nh đề cử lên mớ i đượ c biết, xuố ng dụ rằ ng : "Vă n Tườ ng cù ng vớ i trẫ m
đượ c tri ngộ , dẫ u do từ khi là m huyện lệnh ở Thanh Hó a mà mớ i biết tiếng thô i,
nhưng phầ n nhiều do Tiễn Thà nh cử ra, nhâ n đó mớ i dầ n tiến lên. Nếu cho là vô tri,
theo lệ số ng lâ u lên lã o, thờ i truy nguyên ra việc thưở ng nên thô i ư! Vậ y thưở ng
thụ Hiệp biện tiến thự Vă n minh điện đạ i họ c sĩ, cò n hà m vẫ n như cũ . Đó là biết
tiến ngườ i hiền nên đượ c thượ ng thưở ng. Khi và o triều kiến thườ ng đượ c ưu lễ,
gọ i là Trầ n khanh mà khô ng gọ i tên.
Lạ i xuố ng dụ rằ ng : "Chứ c đạ i thầ n khô ng nên thâ n hà nh việc nhỏ , tự nay hễ việc ở
bộ như các trọ ng sự : quâ n cơ, quâ n chinh, phá i binh, trừ nhung, mớ i nên quan
trọ ng biện bạ ch rồ i thủ quyết dâ ng phiến lên. Cò n chuyển giao cho tham thị hộ i
đồ ng bà n định mà là m, để đượ c tụ hộ i tinh thầ n, mưu sâ u lo xa, ngà y nghĩ giú p rậ p,
mong đượ c kiến hiệu”.
Phiên â m:
Dịch:
Vua tô i mộ t bụ ng vố n cù ng hưu.
Phiên â m : ( 1 )
 n cầ n chia ấ m cấ p cho cừ u,
Phiên â m: (2)
Tấ p niên dụ c tệ á n Anh c
Y bí thử thâ n hà dĩ bá o,
Dịch:
Phiên â m:
Dịch:
Thọ ấ y so cù ng lò ng giữ lạ i.
Nă m thứ 36 (1882) Tiễn Thà nh vì già ố m tâ u nó i : "Bệnh tình củ a thầ n liên miên
ngà y thá ng, xin trả hạ n để chữ a thuố c đã đến hai ba lầ n, gầ n đâ y lạ i phá t, tă ng giả m
khô ng thườ ng, liệu khô ng phả i hà ng tuầ n đã khỏ i. Nếu lạ i xin nghỉ, thờ i cá i tộ i là m
nhơ nhớ p tai vua cà ng lớ n; vả cô ng thự khô ng phả i là nơi dưỡ ng bệnh, nằ m lâ u sợ
ngườ i ta nó i, nếu tạ m về nhà riêng, thờ i xa cá ch việc cơ mậ t, lò ng rấ t khô ng yên,
đương lú c sự cớ ấ y vẫ n thấ y nhà vua quên ă n trễ ngủ . Thầ n, tấ m thâ n dẫ u mắ c
bệnh, bụ ng thườ ng lo giấ u, cò n mộ t hơi thở cũ ng khô ng dá m chú t trễ nả i. Trộ m
nghĩ : Thầ n chấ t vố n ngu thiển, phụ ng sự tả hữ u 30 nă m có lẻ, mà nhà vua đố i vớ i
ngu thầ n khô ng khá c cha hiền đố i vớ i con, kể về â n tình khó trạ ng đượ c hết, đoá i
về phậ n nghị đâ u dá m thoá i thá c. Thầ n đương lú c trẻ khỏ e số ng chết cò n khô ng
dá m hồ i cố , huố ng nă m nay tuổ i ngoạ ầ n, tính tri nă ng vẫ n cò n, đâ u dá m tiếc cá i
thâ n tà n, chỉ vì thầ n đã tớ i niên lệ, vừ a gặ p việc cơ mậ t bề bộ n, chưa dá m viện lệ
xin. Thờ i kẻ chê ngườ i luyến sạ n (sá ch Tấ n thư : ngự a hèn cò n luyến hộ t đậ u ở
chuồ ng) có ngạ i cho ngườ i hiền; lạ i vừ a nhâ n nghỉ bệnh, thờ i ngườ i cho là thấ y
khó , thoá i thá c cá o ố m. Chú ng khẩ u cò n nó ng hổ i chồ ng chấ t bờ i bờ i nhữ ng lờ i chê
bai, thầ n đương ố m trong tâ m rấ t là đau khổ . Vả thầ n suố t đờ i trung thự c sau trướ c
khô ng trá i, mà tâ m củ a thầ n, bệnh củ a thầ n bậ c đạ i thầ n ở triều biết rõ đã lâ u thầ n
chỉ lò ng lạ i hỏ i lò ng, duy có mặ c họ , mình chỉ mộ t niềm thô i, vậ y nên ở thự , hoặ c
nên về chỗ ngụ trị bệnh khỏ i, lạ i và o hầ u, đợ i ban "â n cá ch".
Phiên â m:
Bá n thế hả i sơn â n mỹ bá o,
Trấ p niên duy á c lã o vô cô ng.
Dịch:
Nử a đờ i chữ a bá o ơn sơn hả i,
Bù i Á i
Ngườ i huyện Phong Doanh tỉnh Nam Định. Á i lú c sắ p sinh, bố chiêm bao thấ y
ngườ i nó i "khá khá " nên đặ t tên đệm là Kha; tính thự c thà thẳ ng thắ n, cố sứ c chă m
đọ c sá ch. Minh Mạ ng nă m thứ 15 (1834) đỗ hương tiến, bổ Tri huyện Hà m An. Đầ u
nă m Thiệu Trị (1841) lĩnh Tri phủ Hò a An, chuyển Viên ngoạ i lang Bộ Lạ i, lạ i thiên
Lang trung. Tự Đứ c nă m thứ 4 (1851) đổ i Á n sá t sứ Quả ng Ngã i, rồ i đổ i Lạ
Vua dụ rằ ng: "Bù i Á i ở Quả ng Ngã i nghe đượ c lò ng dâ n, đượ c ngườ i tuầ n lương
như thế cũ ng khó , thưở ng cho 10 lạ ng bạ c để tỏ ý khuyến liêm khen thiện". Khi tớ i
chứ c đá nh dẹp giặ c lưu manh từ ng phá vỡ , thă ng Thá i bộ c tự khanh, lĩnh Bố chính
sứ Cao Bằ ng, rồ i thă ng lĩnh Tuầ n phủ Lạ ng Sơn.
Lưu Quỹ
Hiệu là Nguyệt Giang, ngườ i huyện Thanh Trì tỉnh Hà Nộ i; bố là Thuyên, Gia Long
nă m đầ u (1802) đượ c lụ c dụ ng, từ ng thă ng Tham hiệp trấ n Sơn Tâ y, trả i chứ c vụ
đều có tiếng khen thanh bạ ch. Khoả ng nă m Minh Mạ ng duyệt đinh Bắ c Thà nh để
bắ t đầ u tuyển lính, Thuyên độ c giữ liêm chính, vua sai ngườ i sau khi xét hỏ i, xuố ng
chiếu khen ngợ i lạ i đổ i là m Hiệp trấ n Lạ ng Sơn.
Minh Mạ ng nă m thứ 16 (1835) Quỹ đỗ tiến sĩ, bổ Tri phủ Nam Sá ch, triệu bổ Giá m
sá t ngự sử , gặ p việc dá m nó i, thườ ng vì thờ i kỳ là m ruộ ng, dâ ng sớ xin đình cô ng
dịch. Lạ i nhâ n hạ n há n, ô ng xin đình việc hình ngụ c. Bấ y giờ sổ tuyển lính ở Định
Tườ ng có thêm số đinh, mà tính trừ đi nă m thà nh khô ng bằ ng 10 thà nh, Bộ Hộ hặ c
là che giấ u dố i trá , vua sai quan đến trù ng tu lạ i sổ sá ch. Quỹ cù ng cấ p sự trung là
Vũ Phạ m Khả i dâ ng sớ ngă n đi, vua khô ng bằ ng lò ng. Lạ i cù ng Phạ m Khả i can vua
ngự hồ Tịnh Tâ m, vua khen đều cho 2 tấ m sa hoa. Thượ ng thư là Nguyễn Trung
Hậ u bị việc phả i gô ng tró i, rồ i lạ i đượ c tha, Quỹ cù ng Phạ m Khả i dâ ng sớ nó i : "xét
rõ tớ i tră m quan, xin tiến thoá i lấ y lễ để cổ lệ giữ thó i liêm sĩ, lạ i dâ ng sớ trình bày
3 điều về tệ hạ i bấ y giờ , nó i thẳ ng ngay về lạ i tệ, vua giao xuố ng đình nghị châ m
chướ c mà là m. Gặ p Bộ Lễ xin cho xét hỏ i về bù a chú củ a nhà chù a, Quỹ dâ ng sớ bà n
về việc ấ y; lạ i cho cá c tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắ c bị đó i, xin cho hoã n thuế mù a
đô ng nă m ấ y. Vua theo. Rồ i thă ng là m bình khoa Chưở ng ấ n cấ p sự trung.
Ngườ i huyện Thạ ch Hà , tỉnh Hà Tĩnh, cha là Doã n Vă n hiệu sinh đờ i Lê. Hoà ng
Nghĩa lú c nhỏ khá u lạ , tuổ i 20 có tiếng vă n hay nhưng thườ ng khố n đố n về trườ ng
ố c, sau đỗ cố ng cử và o thá i họ c. Minh Mạ ng nă m thứ 16 (1835) đỗ tiến sĩ bổ Hà n
lâ m viện biên tu, trả i thự Tri phủ Tĩnh Gia rồ i chết.
Hoà ng Nghĩa đườ ng quan hoạ n khô ng đượ c hiển đạ t mấ y, nhưng về vă n họ c thự c
tay lã o luyện, có hy vọ ng cho sĩ tử . Bấ y giờ ở La Sơn có Nguyễn Thườ ng, Trầ n Tuấ n,
Phan Du, Bù i Viết Tâ m, và ở Thạ ch Hà có Trầ n Mậ u, Bù i Thố , ở Hương Sơn có Đinh
Nho Điển, cũ ng trướ c sau lấ y khoa cử đỗ đạ t đứ c lưu phẩ m trậ t đượ c tiếng khen cả .
Tuấ n đỗ cử nhâ n Minh Mạ ng nă m thứ 9 (1828), trả i bổ Tri huyện Địa Linh, Tri phủ
Khoá i Châ u, Á n sá t sứ Lạ ng Sơn . Khoả ng nă m Tự Đứ c là m Đổ ng lý đườ ng hả i cả ng
ở Nghệ An, rồ i c tặ ng Quang lộ c tự khanh.
Mậ u đỗ phó bả ng Thiệu Trị nă m thứ 7 (1847) bổ Hà n lâ m viện kiểm thả o; đầ u nă m
Tự Đứ c (1848) đượ c sắ c cù ng soạ n Vịnh sử phủ , rồ i chết. Tuy thụ Lạ i bộ chủ sự .
Du cù ng Nho Điển, cù ng đỗ tiến sĩ, Tự Đứ c nă m thứ 28 (1875) Du trả i tri phủ 3 phủ
: Quả ng Ninh, Quả ng Trạ ch và Điện Bà n, rồ i thă ng Đố c họ c Thanh Hó a; Nho Điển
là m đến Hồ ng lô tự khanh, biện lý cô ng việc Bộ Hình.
Vũ Vă n Bả n
Khi trướ c tên là Ngọ c Giá , hiệu là Tù ng Loan, tiên tổ là họ Nguyễn tên Lộ ng, ngườ i
Á i châ u; khi Lê triều mở nướ c ra ứ ng nghĩa dự ng cô ng to, đượ c đặ c phong Thá i
Nguyên quậ n cô ng, vì có vũ dũ ng nên cho họ Vũ , sau theo Thá i tổ đó ng đồ n ở thà nh
Lụ c Niên nú i Thiên Nhã n, rồ i là m nhà ở phía Nam nú i, gọ i là Quyết xã, nay là xã Việt
An, châ u La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, trả i 13 đờ i tuyền đến cha Bả n là Trí là m Phò ng ngự
đồ ng tổ ng tri. Khi Bả n mớ i sinh khá u khỉnh, khi 20 tuổ i thờ i Lê triều thờ tiến sĩ Bù i
Dương Lịch và Phan Bả o Định là m thầ y, rấ t thâ m thú y về Dịch, cù ng vớ i Hoà nh sơn
Nguyễn Đứ c Hiển, Trung cầ n Nguyễn Vă n Giao và Vă n trườ ng Nguyễn Thá i Để đều
nổ i tiếng, bấ y giờ gọ i là Diễn Hoan tứ hổ . Minh Mạ ng nă m thứ 6, khoa Ấ t Dậ u ô ng
cù ng vớ i 10 tên trong bọ n Hà Họ c Hả i, Nguyễn Hoà ng Nghĩa đều là danh sĩ, tớ i kỳ
đệ nhị vă n quyển đều và o hạ ng hỏ ng, khả o quan yêu tà i đổ i phê lấ y đỗ , khi treo
bả ng đều lĩnh hương tiến, kịp lú c về bộ việc giá c ra đều bị truấ t. Nă m thứ 15
(1834) lạ i cấ t giả i đỗ luô n bả ng ấ t thuộ c lễ vy, do Hà n lâ m kiểm thả o theo ra hậ u bổ
ở Hà Nộ i, trả i Tri phủ Lý Nhâ n, chuyển thự phủ Thiên Trườ ng. Thiệu Trị nă m đầ u
(1841) vì dâ n mớ i mộ ở phủ hạ t trố n trá nh bị cá ch, chẳ ng bao lâ u lạ i đượ c khở i
phụ c điển bạ , chuyển Binh ty tư vụ , đổ i Huyện doã n Võ Già ng, rồ i đổ i huyện Phù
Mỹ. Tự Đứ c nă m thứ 2 (1849) mớ i mở nhà Kinh diên, đình thầ n cho có vă n họ c đề
cử lên, đượ c triệu về ứ ng là m bà i chế, đượ c xứ ng chỉ đổ i bổ tu soạ n sung và o khở i
cư trú , rồ i mắ c bệnh về, chết nă m 57 tuổ i, truy thụ trướ c tá c.
Bả n, tính thà nh thự c chấ t phá c, ngà y tri phủ ở Thiên Trườ ng có mộ t á n mạ ng chưa
bắ t đượ c tên phạ m, viên thú trướ c tra xét 5 nă m chưa đượ c tình trạ ng; Bả n mớ i tớ i
nhậ m chứ c, tỉnh ra lệnh gấ p. Bả n bèn trai giớ i tớ i cầ u đả o ở chù a Huyền Quang, khi
mơ mà ng chiêm bao thấ y con nhện con ở trướ c á n, kết thà nh 2 chữ "tiểu nguyệt",
tỉnh dậ y mừ ng thầ m rằ ng : tên phạ m nhâ n là Tiểu. Mậ t hỏ i quả có ngườ i, mớ i tra
tấ n, đã thú phụ c. Ngườ i ta đều cho là thầ n, là m khú c há t để tá n tụ ng việc ấ y,
có câ u rằ ng : "Độ thế tế dâ n tâ m thị Phậ t, cấ m gian trích phụ c đạ o hà thầ n", dịch
nghĩa: giú p dâ n độ thế tâ m là Phậ t, bắ t phạ m trừ gian đạ o rấ t thầ n. Đó là tinh thà nh
cả m cá ch mớ i như thế.
Lú c bình sinh ngoà i sá ch vở khô ng thích gì, đ̍n đâu cũng mở mang dạ y họ c, trở về
Nam thờ i có Trương Quang Đả n, Đoà n Vă n Hộ i và Trầ n Nhượ ng; trở về Bắ c có
Nguyễn Tư Giả n, Nguyễn Đình Nhuậ n, hoặ c lấ y vă n hiển vinh đều là họ c trò cả. Sau
khi chết, Đô ng cá c Quang Đả n có cả m nhớ bà i thơ rằ ng :
Phiên â m:
Hồ ng Sơn vâ n á m đẩ u quang vi,
Cự u thả o tầ m lai đă ng hạ độ c,
Dịch:
Sao đẩ u, nú i Hồ ng mâ y che tố i,
Ngườ i huyện Vă n Giang tỉnh Bắ c Ninh (nay thuộ c huyện Châ u Giang tỉnh Hả i
Dương), Minh Mạ ng nă m thứ 15 (1834) đỗ hương tiến, bổ Tri huyện Phú Lương,
tớ i kỳ khả o mã n (hoặ c 3 nă m hay 6 nă m, xét cô ng trạ ng) đượ c thă ng Tri phủ Ứ ng
Hò a, rồ i và o là m Giá m sá t ngự sử , mắ c bệnh rú t lui về ở nhà , đượ c 10 nă m lạ i triệu
bổ ngự sử , chuyển sang Lang trung Bộ Hình. Tự Đứ c nă m thứ 15 (1862), đổ i á n sá t
sứ ở Cao Bằ ng, rồ i mắ c bệnh chết.
Lê Lượ ng Bạ t
Tự là Trọ ng Vự ng, ngườ i huyện Nghi Lộ c tỉnh Nghệ An, Minh Mạ ng nă m thứ 15
(1834) đỗ hương tiến, đổ i Tri huyện Hưng Nhâ n, kỳ khả o khó a đượ c đầ u, chuyển
là m Tri phủ Cam Lộ , thă ng Đố c họ c Nam Định. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) là m thị
giả ng sung Sử quá n Biên tu, đượ c chiếu đi tìm tò i sá ch só t lạ i, khi về thă ng Lễ bộ
lang trung gia Hồ ng lô tự khanh sung Sử quá n Toả n tu, rồ i Bố chính sứ ở Thanh
Hó a, giữ chứ c đượ c 3 nă m, dng khô ng nhiễu dâ n, có tiếng về hà nh chính vua khen,
thưở ng cho chiếc khá nh và ng mà u thắ m có chữ "liêm bình cầ n cá n", thă ng thự Hữ u
tham tri Bộ Hộ , kế chuyển Lễ Lạ i 2 bộ , rồ i cho thự c thụ .
ont>
Trầ n Á i
Tự là Trọ ng Ngọ c, ngườ i huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Cha là Lâ m, Gia Long nă m
đầ u (1802) đỗ hương cố ng, là m đến Tham hiệp trấ n Sơn Tâ y. Minh Mạ ng nă m thứ
15 (1834) Á i đỗ hương tiến, nă m thứ 19 (1838) đổ i Tri huyện Thă ng Bình, mắ c tộ i
bị miễn chứ c, tớ i Tâ y thà nh ra sứ c chuộ c tộ i. Thiệu Trị nă m đầ u (1841) vì ố m xin
về đọ c sá ch dạ y họ c, ngườ i theo họ c nhiều. Tự Đứ c nă m thứ 15 (1862) lạ i khở i bổ
Huấ n đạ o Thanh Chương, ở chứ c 5 nă m, tuổ i vừ a 70 xin trí sự rồ i chết.
t="0">
Á i chă m họ c thích cổ , có trướ c tá c quyển "Thô ng giá m cương mụ c" và quyển "Chu
Vă n Cô ng gia lễ", phụ á n có nó i : trưng dẫ n rộ ng rã i, trì luậ n tinh vi. Con là Vỹ thi
hộ i đỗ khoa Ấ t.(Hộ i thi ấ t khoa là phó bả ng).
Lưu Lượ ng
Nguyễn Hữ u Hò a
Khi trướ c tên là Toà n, ngườ i huyện Hương Thủ y phủ Thừ a Thiên. Lú c nhỏ chă m
họ c. Khoả ng nă m Minh Mạ ng từ ng đỗ tú tà i, theo lệ 40 nă m và o hạ ng hạ ự , lú c đầ u
bổ Huấ n đạ o Hò a Vang. Thiệu Trị nă m đầ u (1841) đình thầ n cho có họ c hạ nh đề cử
lên, đượ c thă ng Kiểm thả o, sung giả ng tậ p phủ Hoà ng đệ, rồ i thă ng tu soạ n sung
là m bạ n đọ c củ a Hoà ng tử Tự Đứ c nă m đầ u (1848) thă ng là m Thị độ c họ c sĩ sung
hà nh tẩ u sở Ty luâ n trong Nộ i cá c. Ô ng trả i Á n sá t sứ Định Tườ ng, Quả ng Bình,
chuyển Bố chính sứ Hưng Hó a, Hộ lý tuầ n phủ . Bấ y giờ ở Hưng Hó a thườ ng luô n
bá o độ ng ở ngoà i biên, Hữ u Hò a là ngườ i cá n luyện, giữ chứ c đã lâ u, nên đá nh dẹp
vỗ yên đư;ợ c tù y nghi. Nă m thứ 15 (1851) ô ng đượ c thă ng bổ tuầ n phủ , nă m thứ
16 (1862) đổ i về Tham tri Bộ Cô ng, sung là m đổ ng lý ở sở Vạ n niên. Chẳ ng bao lâ u,
chết chỗ là m quan. Vua cho rằ ng trướ c ở Hưng Hó a thườ ng có quâ n cô ng, truy tặ ng
Thượ ng thư, gia cấp cho gấ m sa lụ a và lụ c dụ ng cho ngườ i con. Nă m thứ 22 (1868)
có tứ tuầ n đạ i khá nh tiết truy nghĩ bậ c giả ng trưở ng cự u thầ n, cho tế lễ ở nhà .
Tự là Bích Lậ p, ngườ i huyện Quả ng Điền phủ Thừ a Thiên, có tà i biện. Khoả ng Minh
Mạ ng nă m đầ u (1820) đầ u tên và o sổ lạ i, trả i thă ng chủ sự . Tự Đứ c nă m thứ 4
(1851) bổ viên ngoạ i, sung và o sứ bộ hà nh nhâ n sang Thanh. Nă m thứ 12 (1859)
cử a Đà Nẵ ng có bá o độ ng, cho Thự hà m lang trung, sung là m Từ hà n ở quâ n thứ
Quả ng Nam. Nă m thứ 16 (1863) thự á n sá t sứ Quả ng Ngã i, bấ y giờ có giặ c Man ở
Thạ ch Bích, đá nh dẹp đượ c yên, rồ i đổ i tớ i Bình Thuậ n. Nă m thứ 18 (1865) bổ
Hồ ng lô tự khanh, biện lý Bộ Hộ , chuyển Thị lang, là m hiệp lý Kinh kỳ thủ y sư.
Nă m thứ 22 (1869) Tuyên Quang có giặ c ngoà i biên, sai ô ng sung tá n lý quâ n vụ .
Đình Thi cù ng nguyên tá n lý là Trầ n Đình Tú c (bấ y giờ đổ i sung Thương biện Sơn
Tâ y) có dâ ng sớ trình bày việc khu xử bọ n quâ n Lưu Đoà n (tên Vĩnh Phướ c), lượ c
rằ ng : "nơi Bả o Thắ ng (tên đấ t thuộ c tỉnh Hưng Hó a) là nơi có thể ở buô n bá n sinh
lợ i đượ c, đả ng Lưu Đoà n phầ n nhiều hung dữ , thườ ng cù ng vớ i Hà Quâ n Xương
(tên nhà buô n nướ c Thanh) tranh nhau ở đó đá nh thuế ngườ i buô n và muố n chiếm
nơi đó để là m sà o huyệt. Sau nà y sợ nền mó ng đã thà nh, khó mà cấ m á t, xin do
Tổ ng thố ng Nguyễn Bá Nghi thương lượ ng cù ng vớ i Thanh sú y là Phù ng Tử Tà i
sớ m sứ c cho về Đườ ng, để thư việc ngoà i biên.
Vua cho lờ i nó i là phả i, gặ p quâ n thổ phỉ nướ c Thanh là Hoà ng Anh chia đồ n cướ p
bó c quấ y nhiễu, Đình Thi cù ng Tá n tương Nguyễn Hữ u Điềm và Đố c binh Tạ Hiện
đem binh cố sứ c đá nh liền hạ đượ c 3 đồ n (Bình Trạ ch, Thọ Sơn, Chiêm Hoa).
Vua khen thưở ng bổ Tham tri, đổ i sung Tham tá n quâ n vụ ở Lạ ng, Bình, Ninh, Thá i.
Đình Thi giỏ i về từ lệnh thườ ng lô i kéo biền binh ngườ i Thanh hộ i lạ i đá nh dẹp,
phầ n nhiều nghe theo. Chẳ ng bao lâ u lạ i chuẩ n cho về Tuyên. Nă m thứ 24 (1871)
Thá i Nguyên có tên thổ phỉ trố n và Lụ c Chi Bình tụ họ p quấ y nhiễu ở 2 xã : Phương
Viên, Nam Mẫ u. Vua sai Đình Thi chuyển coi quâ n vụ ở quâ n thứ Thá i Nguyên, lạ i
thương khó nhọ c ban cho sâ m quế. Thế rồ i đả ng giặ c ngà y cà ng lan kết cà n bậ y,
vua cho Đình Thi mưu tính là thấ t sá ch, phả i tả chuyển Hồ ng lô tự khanh lĩnh Bố
chính sứ Thá i Nguyên. Nă m thứ 27 (1874) có chỉ cho về Kinh, mớ i đến Thanh Hó a,
gặ p lú c Nghệ An có tên Mai Tấ n gâ y biến, Tham tá n Tam Tuyên là Lê Thuyết tự Sơn
Tâ y dờ i quâ n hộ i lạ i đá nh dẹp, xin cho lưu lạ i sung là m tá n lý. Chợ t lạ i bá o đá m
thủ y phỉ ở Hả i Dương (tên Khá ch Cô ng), đá nh hã m phủ huyện tiến bứ c tỉnh thà nh.
Vua sai Thuyết trích phá i Đình Thi cù ng Đề đố c Nguyễn Vă n Hù ng gấ p đườ ng tớ i
cứ u viện, chưa tớ i tỉnh Hả i Dương thờ i vò ng vây đã giả i, Đình Thi theo lờ i chuẩ n
cho về Kinh, lấ y nguyên hà m sung Hiệp lý thủ y sư rồ i thă ng Thị lang Bộ Lạ i.
Nă m thứ 34 (1881) chuyển là m Tham tri , vẫ n hiệp lý như cũ , rồ i chết ở nơi là m
quan, thọ 66 tuổ i. Em là Đình Tuâ n đỗ phó bả ng là m đến đố c họ c, con là Hữ u Dự đỗ
cử nhâ n là m Tri huyện huyện Sơn Hò a.
QUYỂ N 33
Nguyễn Cử u Trườ ng
Tiên tổ ngườ i huyện Quý Hương, tỉnh Thanh Hoa (41), sau dờ i là m nhà ở huyện Lệ
Thủ y, tỉnh Quả ng Bình. Cử u Trườ ng lú c trướ c sung cố ng sinh bổ Quố c tử giá m.
Minh Mạ ng nă m thứ 19 (1838) ô ng đỗ tiến sĩ, trả i cấ p Tu soạ n, rồ i bổ Tri phủ Kiến
Xương, chuyển và o nộ i là m Viên ngoạ i lang sung Cơ mậ t viện hà nh tẩ u. Thiệu Trị
nă m đầ u (1841) cho là m Thị độ c họ c sĩ tham biện cô ng việc Nộ i các, từ ng gia Thá i
bộ c tự khanh, sung là m việc ở Cá c như cũ , rồ i bị khiển trá ch, phả i theo sang Đô ng
ra sứ c chuộ c tộ i . Nă m thứ 4 (1844) ô ng lạ i đượ c Thị giả ng họ c sĩ sung là m việc ở
Cá c. Nă m thứ 6 (1846) đổ i là m Bố chính sứ Hà Nộ i, trở về là m Hữ u thị lang Bộ Lạ i,
lạ i sung là m việc ở Cá c. Tự Đứ c nă m đNu (1848) sung Kinh diên nhậ t giả ng quan.
Vua cho Cử u Trườ ng chă m chỉ cẩ n thậ n, thừ a chỉ đượ c rõ rà ng, đặ c cá ch cho ă n
lương Nhị phẩ m.
Phiên â m:
Hoà ng cá c tằ ng tră m bú t,
Lâ m dâ n yếu tự thanh.font>
Tả o vã n phụ c đă ng Doanh.
D̔3;ch:
Tà i bú t nơi Hoà ng cá c,
Thanh bạ ch cố t yêu dâ n,
Sớ m tố i t lên tiên.
Lê Duy Trung
Tên tự là Hy Vĩnh, ngườ i huyện Thượ ng Phướ c tỉnh Hà Nộ i (Nay thuộ c huyện
Thườ ng Tín tỉnh Hà Tây). Minh Mạ ng nă m thứ 19 (1838) đỗ tiến sĩ, do Hà n lâ m
biên tu, cấ p Tri phủ Vĩnh Tườ ng, sau bổ Đố c họ c Thanh Hó a, vì ố m xin về.
Duy Trung lú c nhỏ bố chết thờ mẹ có hiếu hạ nh đượ c tiếng vớ i là ng mạ c; là m quan
thờ i liêm khiết yên dâ n, từ khi nhậ n họ c chứ c tớ i khi lui về dạ y họ c vui vẻ giả ng
bả o, ai nó i đến đều khen là bậ c tiên tiến, đườ ng cư xử thờ i nhã đạ m. Khi chết thọ
69 tuổ i.
Ngườ i cù ng thờ i là Nguyễn Đình Dao và Phạ m Gia Chuyên cù ng đều điềm đạ m
nhú n nhườ ng tỏ rõ chí khí, cố t chỉ bả o hậ u họ c đượ c tiến đạ t. Đình Dao hiệu là
Nhậ n Trai, ngườ i huyện Thanh Trì, đỗ hương tiến là m đến thự ở phủ Tiên Hưng,
sau về dạ y họ c, có quyển "Nhậ n trai vă n tậ p" truyền bá ở đờ i. Gia Chuyên ngườ i
huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ là m quan đến Tư nghiệp. Cò n Bạ ch Đô ng Ô n ngườ i huyện
Kim Bả ng đỗ tiến sĩ, là m quan lang trung, về dưỡ ng bệnh rồ i xin hưu trí. Điềm đạ m
khô ng có mưu sinh, cả ngà y chỉ thích vui rượ u, ngườ i cho là
Phạ m Vă n Nghị
Hiệu là Nghĩa Trai, ngườ i huyện Đạ i An tỉnh Nam Định. Minh Mạ ng nă m thứ 19
(183 8) đỗ tiến sĩ. Do Hà n lâ m tu soạ n, là m Tri phủ Lý Nhâ n, khi tạ i chứ c, dâ n có
tranh tụ ng, lấ y nghĩa hiếu bả o, khô ng thích giấ y tờ á n kiện, bề bộ n; rồ i chuyển Sử
quá n biên tu, nhâ n ố m cá o về dạ y họ c, chú ng bạ n họ ;c trò đô ng, đượ c thà nh đạ t
cũ ng nhiều, mà số nhiều là đỗ đạ t là m quan. Nơi ở gầ n cử a biển Đạ i An, thấ y chỗ
đấ t bỏ khô ng ở bờ biển, bèn chiêu tậ p ngườ i cù ng quê khai khẩ n lậ p thà nh hương
ấ p, gọ i là trạ i Sĩ Lâ m. Tự Đứ c nă m thứ 11 (1858) khở i phụ c lĩnh Đố c họ c Nam Định;
nă m ấ y ở Trà Ú c có bá o độ ng (42) ô ng dâ ng sớ xin kết tậ p nghĩa dũ ng theo quâ n
đá nh giặ c, khi đến thờ i binh lử a đã chuyển về Nam. Vua cho Vă n Nghị phấ n dũ ng
khích lệ chí khí cao thượ ng đá ng mừ ng, đặ c cách thưở ng lạ o, và cho về giữ nguyên
chứ c. Gặ p giặ c ở Đô ng bắ c quấ y nhiễu, Vă n Nghị đem chiến sĩ tụ tậ p trướ c, coi giữ
đồ n Thượ ng nguyên đượ c và i thá ng bèn thô i, rồ i gia Hà n lâ m viện thị giả ng họ c sĩ,
xin nghỉ dưỡ ng bệnh.
Vă n Nghị cù ng Doã n Khuê đều đượ c sĩ vọ ng quy phụ , và ưu đã i tri ngộ cả , gặ p Khuê
và o triều cậ n, vua thong thả hỏ i tớ i bệnh tình củ a Vă n Nghị, và cho và ng tiền thuố c
men, lạ i dụ rằ ng : "Khô ng phả i khen về tiến nhanh thoá i chó ng đâ u khen về chí tiết
gặ p việc hay phấ n phá t đó !"
Ngườ i huyện Thủ Trì tỉnh Nam Định (Nay thuộ c tỉnh Thá i Bình), là em con nhà chú
vớ i Hiệp biện đạ i họ c sĩ Doã n MMinh Mạ ng nă m thứ 19 (1838) đỗ tiến sĩ, do Hà n
lâ m biên tu, bổ Tri phủ Ứ ng Hò a. Đầ u nă m Thiệu Trị (1841) Thiên Giá m sá t ngự sử ,
mắ c bệnh xin về. Tự Đứ c nă m thứ 14 (1861) bổ Nộ i cá c thừ a chỉ, lĩnh Đố c họ c Nam
Định. Bấy giờ Tổ ng đố c Sơn Tâ y là Bù i Á i đề cử ô ng lĩnh Đố c họ c Sơn Tây. Gặ p quâ n
thổ khấ u ở phía Bắ c Sơn Tâ y là m phiến loạ n, Khuê xin đem con em và quâ n nghĩa
dũ ng hiệp cù ng lính tỉnh dẹp bắ t, thu lạ i cá c phủ Lâ m Thao và Quả ng Oai. Trậ n
đá nh ở Đan Hà , con là Giá c bị chết trậ n và Khuê bị kim sang xin nghỉ hạ n để chữ a.
Nă m thứ 16 (1863) lạ i lĩnh Đố c họ c Nam Định và cho rằ ng trướ c kia ở quâ n thứ
Sơn Tâ y có cô ng lao, gia cho Quang lộ c tự khanh. Nă m thứ 19 (1866) ô ng và o
chiêm cậ n, vua cho triệu kiến ú y lạ o hỏ i han và ban cho và ng tiền thuố c men cù ng
thẻ tử Kim bà i có chữ "hiếu nghĩa", lạ i cho tự mình trình bày, Khuê xin cho về ban
họ c chứ c, vua rằ ng : "Giá o sĩ nên trướ c phả i lự c hà nh sau mớ i họ c vă n, ngươi nên
hun đú c dạ y bả o nhâ n tà i để cung dụ ng cho quố c gia".
Nă m thứ 26 (1873) thà nh Nam Định bị thấ t thủ , á n xét phả i trượ ng đồ , cho chuộ c
tộ i miễn chứ c. Vua bả o Lễ bộ rằ ng : “Doã n Khuê và Phạ m Vă n Nghị về họ c hà nh
đượ c sĩ phu ở Nam Định trọ ng bắ t chướ c, thự c vì nướ c, nêu chính đượ c phong hó a
và rà ng buộ c đượ c lò ng ngườ i. Trướ c đâ y vì cô ng ơn trẫ m khô ng thể khuấ t phá p
luậ t cho gia ơn, vậ y ghi chép để tỏ khuyến khích phong hó a".
Nă m thứ 29 (1876) sung là m Thương biện việc ruộ ng đấ t. Trướ c kia phá i quâ n đi
tuầ n phò ng ngoà i biển, theo quâ n thứ vù ng đô ng giú p đượ c việc, cho khai phụ c Thị
giả ng họ c sĩ lạ i có sự trạ ng về mộ ngườ i khai khẩ n là m ruộ ng, phụ c cho cả nguyên
hà m trướ c. Khi chết thọ 66 tuổ i. Con là Chi, lĩnh hương tiến theo đi quâ n thứ ở
Khuê Sơn có cô ng lao, bổ Hà n lâ m viện tu soạ n, sau đem lính mộ theo đi quâ n thứ ở
Hả i Dương, từ ng lậ p đượ c chiến cô ng, thă ng lên Trướ c tá c, sung Tá n tương quâ n
vụ , rồ i do ThN83; giả ng sung Tri phủ Bình Giang, gặ p quâ n thổ khấ u, đá nh nhau ở
Lạ c Sơn bị chết trậ n, tặ ng Thị độ c. Nă m thứ 32 (1879) cho thờ ở đền Trung Nghĩa,
mà Giá c cũ ng chết về quố c sự , tặ ng điển tịch.
Nguyễn Vă n Siêu
Nguyễn Dụ c
>
Tự là Tử Minh, ngườ i tỉnh Quả ng Nam, tiên tổ quê ở Lễ Dương, sau chuyển là m nhà
ở Hà Đô ng (Nay thuộ c tỉnh Quả ng Nam - Đà Nẵ ng). Dụ c lú c nhỏ hiểu biết nhanh
nhẹn, có tiếng vă n hay, Minh Mạ ng nă m thứ 19 (1838) đi thi hộ i trú ng Ấ t khó a
(phó bả ng). Có mẹ già xin cho phụ ng dưỡ ng tớ i khi chết. Thiệu Trị nă m thứ 3
(1843) lú c đầ u bổ Kiểm thả o, chuyển Đồ ng tri phủ ở Kiến Thụ y, lạ i đổ i trướ c tá c
sung Sử quá n biên tu, chuyển Nộ i cá c hà nh tẩ u. Nă m thứ 7 (1847) vì ố m xin về, lấ y
sá ch vở là m vui đượ c 10 nă m có lẻ, họ c trò có nhiều ngườ i thà nh tự u. Tự Đứ c nă m
thứ 14 (1861) lạ i khở i lĩnh Giá o thụ ở Điện Bà n, chuyển Đố c họ c Quả ng Ngã i. Nă m
thứ 17 (1864) đổ i bổ Viên ngoạ i, lĩnh Lang trung Bộ Lạ i. Bấ y giờ sinh viên ở Quố c
tử giá m phầ n nhiều vắ ng thiếu, vua nhâ n hỏ i Tham tri Bộ Lạ i là Phạ m Phú Thứ
rằ ng : "ở tỉnh Quả ng Nam có ngườ i nà o phẩ m hạ nh đoan chính khô ng". Phú Thứ
thưa: "Có Dụ c", tứ c thì cấ t lên Tế tử u vì đặ c cá ch lự a chọ n, chẳ ng bao lâ u xin từ cổ
bệnh. Vua ú y dụ lưu lạ i, rồ i sung Phó chủ khả o trườ ng Bình Định. Nă m thứ 21
(1868) đổ i Thị độ c họ c sĩ, lạ i lĩnh Đố c họ c Quả ng Nam . Nă m thứ 25 (1872) cấ t lên
thị lang bộ Lễ sung giá o đạ o ở nhà Dụ c Đứ c. Dụ c khă n á o nghiêm chính chỉnh tề
nên Hoà ng tử vẫ n kính. Nă m thứ 27 (1874) thá ng 2 có tế Giao, vua chuẩ n cho
Hoà ng tử tế thay, khi mớ i tớ i đà n sở , Hữ u quâ n là Lê Sỹ tặ ng cá i quạ t lô ng, Dụ c hặ c
là khô ng đú ng, vua khen, thưở ng cho sa lụ a. Nă m thứ 29 (1876) Dụ c tuổ i 70, lạ i ố m
xin cá o về, vua đặ c cá ch cho nghỉ hạ n 3 thá ng, lạ i cho 50 lạ ng bạ c, sắ c cho địa
phương thờ i thườ ng hỏ i thă m, khi mã n hạ n lạ i Phướ c tấ u. Nă m thứ 30 (1877) Dụ c
vì ố m lâ u chưa lui, dâ ng sớ xin ở là ng. Vua dụ rằ ng : "Dụ c về đứ c hạ nh thuầ n chính
lã o luyện, gặ p việc cẩ n thậ n, lạ i hay xem xét chỉnh tề, nên hoà ng tử biết nghiêm sợ ,
so vớ i Đoà n Khắ c Thượ ng cò n hơn. Trướ c đâ y thườ ng thườ ng mắ c bệnh xin về,
trẫ m cũ ng thương là suy lã o, gượ ng theo lờ i xin, tưở ng cũ ng cò n lạ i, nên đặ c cá ch
cho và ng, chưa gia â n mệnh. Nă m nay đã ngoạ i 70, cho thă ng thự Lễ bộ Hữ u tham
tri, lạ i chi cho nử a bổ ng đượ c ở là ng, hễ chữ a bệnh thấ y lui, chó ng và o cung chứ c,
để toà n â n ngộ sau trướ c và thỏ a ý trẫ m tô n trọ ng đạ o thầ y, chă m chú ngườ i
ngay".>
Lê Duy Di
Tự là Trọ ng Cung, ngườ i huyện Minh Chính, tỉnh Quả ng Bình, vố n đượ c hà ng
huyện tỏ rõ tên họ . Anh họ là Huệ là m ấ p lệnh, chết về quố c sự đã có truyện. Duy
Di, Minh Mạ ng nă m thứ 18 (1837) lĩnh hương tiến, bổ Tri huyện Thanh Trì có tiếng
về ơn huệ đố i vớ i dâ n. Trong nă m Thiệu Trị cấ t là m Giá m sá t ngự sử , gặ p việc là
tham hặ c khô ng có kiêng nể, thườ ng tâ u : đình thầ n cấ t nhắ c thay đổ i quan lạ i
khô ng đú ng. Vua khen là thẳ ng thắ n, cứ ng rắ n sắ c bén như sắ t; lạ i dâ ng sớ xin
nghiêm sứ c lố i chơi đầ u hồ ở trong cung (khi yến ẩ m chơi ném tên và o hồ rượ u ai
thua phả i phạ t rượ u) để ngă n nhữ ng ngườ i kiêu hã nh.
Tự Đứ c nă m thứ 3 (1850) đổ i Bố chính sứ Quả ng Ngã i, đến khi xin hoã n việc gọ i
lính đó ng thuyền và thuế dầ u ngoạ i ngạ ch cù ng thuế vô danh tạ p hó a đều tâ u xin
bã i.
Duy Di tính cương trự c, biết việc gì là nồ i, thườ ng dâ ng sớ xin kính tin bậ c đạ i thầ n,
nêu khen cá c cô ng thầ n.
Hoà ng Chính
Hoà ng Chính tên tự là Thi Vu ngườ i huyện La Sơn tỉnh Hà Tĩnh, lú c nhỏ thô ng minh
đĩnh ngộ , chă m chỉ họ c tậ p, thế nhưng thi nhiều lầ n khô ng đỗ . Nă m Minh Mạ ng thứ
18 (1837) khả o hạ ch, ô ng đượ c bổ là m tà o quan ở Bộ Cô ng, rồ i thă ng là m Tư vụ ở
Bộ Cô ng. Khoả ng niên hiệu Thiệu Trị (1841-1847) ô ng đượ c bổ là m thô ng phá n ở
ty á n sá t tỉnh Quả ng Bình, sau đó lạ i đổ i là m Hữ u thừ a ty ở đấ t Kinh Triệu, rồ i lạ i
chuyển sang Thanh Hó a, trướ c sau đều là m quan hình á n, cả thả y là 12 nă m; ngườ i
đờ i khen ô ng là ngườ i thẳ ng thắ n cô ng liêm. Nă m Tự Đứ c (1859) ô ng đượ c bổ là m
Tri huyện huyện Hoà ng Hó a, kiêm coi giữ cô ng việc ở huyện Mỹ Hó a. Lú c bấ y giờ
có bọ n giặ c biển ở tỉnh Quả ng Yên tụ họ p đá nh phá châ u Tiên Yên. Sau khi quan
quâ n dẹp yên bọ n giặ c cỏ , triều đình muố n đề cử ngườ i có tà i nă ng ra coi giữ đấ t
nà y bèn đổ i ô ng là m Tri châ u châ u Tiên Yên. Nă m Tự Đứ c thứ 18 (1865) ô ng đượ c
thă ng là m Tri phủ phủ Thiệu Hó a, đến khi hết hạ n, đượ c vờ i và o là m Viên ngoạ i
lang ở Bộ Hình rồ i thă ng là m Lang trung, ít lâ u sau lấ y cớ bệnh tậ t xin về nghỉ hưu.
Hoà ng Chính là ngườ i thẳ ng thắ n cô ng liêm, nhữ ng nơi ô ng đến là m quan đều có
tiếng khen. Sau khi về nhà nghỉ hưu, ô ng thườ ng đem các chuyện là m quan thườ ng
ngà y ra để dạ y bả o con cá i, tự đặ t hiệu là Cú c Viên chủ nhâ n. ô ng mấ t nă m 67 tuổ i.
Về sau do có con là Hoà ng Cao Khả i là m Vă n minh điện đạ i họ c sĩ, phong Diên Mậ u
quậ n cô ng, sung Cơ mậ t viện đạ i thầ n, Bắ c Kỳ kinh lượ c sứ , nên ô ng nhiều lầ n đượ c
truy tặ ng là m Thượ ng thư Bộ Lễ.
Nguyễn Khắ c Thuậ t
Khi trướ c tên là Thiệu, ngườ i huyện Đô ng Ngà n tỉnh Bắ c Ninh (Nay thuộ c Hà Nộ i).
Minh Mạ ng nă m thứ 18 (1837) đỗ hương tiến, bổ Tri huyện Quả ng Yên, chuyển Tri
phủ Đoan Hù ng, rồ i chuyển là m bộ Tà o ở trong Kinh. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) đổ i
á n sá t sứ Lạ ng Sơn, rồ i lĩnh Bố chính sứ Hà Nộ i. Nă m thứ 15 (1862) gặ p lú c dẹp
đượ c quâ n thổ khấ u ở Bắ c Ninh có cô ng, thă ng Thá i bộ c tự khanh lĩnh chứ c như
c$1;, rồ i ố m chết ở chỗ là m quan thọ 51 tuổ i.
Khắ c Thuậ t là m quan chă m chỉ, cẩ n thậ n, điềm đạ m khô ng thích muố n cá i gì, kẻ sĩ
ở Giang Bắ c đều tô n trọ ng.
Tiên tổ là ngườ i tỉnh Bắ c Ninh, ô ng là Vỹ, đỗ tiến sĩ, thuộ c niên hiệu Bả o Thá i
(1720-1729) đờ i Lê Dụ Tô ng, là m Thiếu bả o, phong Kế thiện hầ u. Cha là Chiểu do
đỗ hương cố ng là m đến Hồ ng lô tự khanh, cuố i đờ i Lê trá nh loạ n tớ i là m nhà ở Sơn
Tâ y. Đă ng Tuyển khi trướ c đỗ tú tà i sung cố ng sĩ bổ và o Quố c từ giá m sinh. Minh
Mạ ng nă m thứ 17 (1836), theo là m hậ u bổ tỉnh Tuyên Quang, trả i Tri huyện Vị
Xuyên, chuyển và o trong là m Hộ bộ chủ sự , thă ng thừ a chỉ, tiến Thị độ c, sung Hà nh
tẩ u ở sở Ty luâ n thuộ c Nộ i các. Vì vă n họ c đượ c vua biết đến. Tự Đứ c nă m đầ u
(1848) thườ ng đượ c ứ ng chế thơ vă n, lạ i soạ n nhữ ng quyển "Đà o hoa mộ ng ký",
"Nam thi quố c phong" dâ ng lên vua xem, rồ i chuyển là m Trướ c tá c sung Sử quá n
biên tu. Nă m thứ 9 (1856) bổ Tri phủ Thuậ n Thà nh, rồ i mắ c tậ t xin về hưu.
Lê Dụ
Ngườ i huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, Minh Mạ ng nă m thứ 21 (1840) đỗ hương
tiến, Thiệu Trị nă m đầ u (1841) do Lạ i bộ Hà nh tẩ u, trả i Tri huyện Phong Phú , Tri
phủ Lạ c Hó a, có tiếng hay về hà nh chính, và o là m Giá m sá t ngự sử đạ o An Hà . Tự
Đứ c nă m thứ 5 (1852) cấ t lên Á n sá t sứ ở Thanh Hó a, rồ i đổ i tớ i Vĩnh Long.
Tên tự là Thứ c Phu, tiên tổ là Lương từ Nghệ An tớ i nhậ p tịch ở huyện Quế Sơn
tỉnh Quả ng Nam. Thuậ t thiên tư sá ng suố t nhanh nhẹn. Minh Mạ ng nă m thứ 21
(1840) đỗ hương tiến, Tự Đứ c nă m đầ u (1848) bổ Hà n lâ m trả i tri huyện, tri phủ ở
nhữ ng huyện phủ Minh Linh, Phướ c Long, chuyển viên ngoạ i lang, phá i tớ i Hà Nộ i
hộ i tra bả n á n xử tên giặ c, vì là m việc nhanh nhẹn đượ c việc, thă ng thự Quả n đạ o
tỉnh Quả ng Trị, cấ t bổ á n sá t sứ tỉnh Quả ng Bình, rồ i lĩnh Bố chính sứ . Nă m thứ 18
(1865) chuyển về biện lý Bộ Hình, gặ p tỉnh Quả ng Nam bị đó i, phá i đi chầ n tế, có
xin phá t 2, 3 vạ n phương ở kho gạ o Kinh, giả m giá chiếu cố bá n ra, để chi
cầ n cấ p cho dâ n, vua cho. Nă m thứ 21 (1868) đổ i lĩnh Bố chính sứ ở Tuyên Quang,
rồ i mắ c bệnh xin về. Mấ t nă m 62 tuổ i. Thuậ t là m quan siêng nă ng tà i cá n, đến đâ u
cũ ng có tiếng hay về hà nh chính. Chá u là Quang, Thà nh Thá i nă m thứ 10 (1898) đỗ
tiến sĩ, bổ Tri huyện Lệ Thủ y và Sá ng đỗ tú tà i.
Lê Hữ u Thườ ng
Tên là Hằ ng, ngườ i huyện Đă ng Xương tỉnh Quả ng Trị. Thiệu Trị nă m đầ u (1841)
đỗ hương tiến, đi hậ u bổ ở Quả ng Nam, chuyển Tri huyện Hà Đô ng. Tự Đứ c nă m
thứ 2 (1849) bị giá ng xuố ng bá t phẩ m thư lạ i, theo Bộ Hình ra sứ c chuộ c tộ i, rồ i
khở i phụ c tư vụ , thự chủ sự , chuyển thự Viên ngoạ i lang, lĩnh quả n đạ o ở Hà Tĩnh.
Nă m thứ 14 (1861) thă ng lĩnh á n sá t sứ ở Nghệ An, rồ i đổ i tớ i Quả ng Yên, đượ c lâ u
cấ t lên Quang lộ c tự khanh, lĩnh Bố chính sứ , Hộ lý tuầ n phủ . Nă m thứ 18 (1865) có
tang mẹ, bấ y giờ quâ n há n phỉ ở cá c đạ o sô ng biển thuộ c Hả i Yên (Hả i Dương và
Quả ng Yên) quấ y nhiễu, nên việc ở quâ n thứ bề bộ n, vua cho tạ m gá c tình, ở lạ i để
dù ng, cấ p cho nhà 100 quan tiền để là m ma; khi việc ở quâ n thứ hơi thư, Hữ u
Thườ ng xin về thủ chế, hết hạ n cô ng tớ i Kinh chiêm cậ n. Vua sai sung và o khâ m
phá i đi kinh lý cá c việc tuầ n phò ng ngoà i biển ở cá c tỉnh từ Quả ng Bình đến Nam
Định, việc xong lạ i lĩnh chứ c như cũ . Hữ u Thườ ng tớ i Thanh Hó a cù ng vớ i tỉnh thầ n
tính toá n xin đặ t phá o đà i và đoà n kết dâ n quâ n nghĩa dũ ng đ;ể phò ng đườ ng biển,
khi tớ i Nam Định cũ ng mưu tính như thế. Vua đồ ng ý lờ i xin, rồ i cho thự c thụ .
Bù i Tuấ n
Tự là Trạ ch Phủ , ngườ i huyện Sơn Lã ng, tỉnh Hà Nộ i (Ứ ng Hò a, Hà Tâ y). Thiệu Trị
nă m đầ u (1841) đỗ tiến sĩ cậ p đệ do Tri phủ Thọ Xuâ n, chuyển khả o Cô ng viên
ngoạ i lang, Tự Đứ c nă m đầ u (1848) bổ và o viện Tậ p hiền sung Kinh diên khở i cư
trú , từ ng thă ng Thị giả ng họ c sĩ, đổ i Á n sá t sứ Sơn Tâ y rồ i đổ i tớ i Bắ c Ninh, lạ i
thă ng Quang lộ c tự khanh, lĩnh Bố chính sứ , chuyển tuyên phủ sứ ở đạ o Phú Yên.
Nă m thứ 15 (1862) lạ i bổ Bố chính sứ Bắ c Ninh, gia ban chiếc thẻ bà i Kim khá nh
mầ u tía có 4 chữ : "liêm bình cầ n cá n", rồ i và o là m Tả tham tri Bộ Binh. Nă m thứ 22
(1869) đổ i là m Tuầ n phủ và Hộ lý tổ ng đố c Ninh Thá i. Bấy giờ ngoà i biên vù ng Tây
Bắ c đã bao nă m bá o độ ng có giặ c, mà Bắ c Ninh là nơi xung yếu, mù a thu nă m ấ y
đá m giặ c Ngô Cô n đem đồ đả ng lạ i đá nh tỉnh thà nh. Khí giớ i củ a giặ c rấ t sắ c bén,
mà trong thà nh số lính cò n lạ i 300 tên có lẻ lạ i phầ n nhiều gầ y yếu thế rấ t trơ trọ i
nguy cấ p, Tuấ n vộ i là m cô ng việc giữ thà nh, sai ngườ i ở ngoà i phố và o cả trong
thà nh, lấ y ngườ i khỏ e mạ nh để thêm quâ n, ở bộ thự mớ i đượ c định, giặ c đến vây
thà nh, Tuấ n ngà y đêm ở trên thà nh đố c quâ n chố ng giữ . Sai trô ng chỗ giặ c tụ họ p
bắ n phá p lớ n dữ dộ i. Ngô Cô n trú ng đạ n bị chết. Tuấ n bèn dự chọ n nhữ ng ngườ i
cả m chiến, phò ng bị để dù ng khi hộ i dẹp. Tuầ n phủ là Ô ng Ích (44) và viện binh tớ i,
trong ngoà i đá nh giá p cô ng phá vỡ lớ n, chém đầ u giặ c kể có hà ng nghìn, vò ng vây
đượ c giả i. Sau đó đạ i binh hộ i họ p đá nh dẹp, mà xếp đặ t việc quâ n cầ n đến lương
gạ o dầ u củ i đều dự tính trướ c, ră n cấ m khô ng đượ c phiền dâ n là m việc ấ y, ngoà i ra
mưu tính phầ n nhiều trú ng khớ p, gặ p Phù ng quâ n mô n là Tử Tà i rấ t tô n trọ ng.
Nă m thứ 25 (1872) đượ c thự c thụ Tổ ng đố c, rồ i vì chứ a chấ t khó nhọ c mắ c bệnh
xin nghỉ, chưa đượ c ai thay, đã chếtỗ là m quan. Thọ 65 tuổ i.
>
Đỗ Huy Uyển
Tự là Viên Khuê, ngườ i huyện Đạ i An tỉnh Nam Định (Nay là Nghĩa Hưng).
Lú c nhỏ có vă n tà i. Thiệu Trị nă m đầ u (1841) thi hộ i đỗ phó bả ng, bổ Hà n lâ m viện
Kiểm thả o, Tự Đứ c nă m đầ u (1848) mở nhà Kinh diên, vua đương hướ ng về vă n
họ c, sai giả ng quan xem xét đề cử lên để cho triệu thí, Huy Uyển ứ ng hạ ch đượ c
trú ng cách, bổ đồ ng tri Bình Giang, rồ i triệu bổ là m Giá m sá t ngự sử , ô ng có điều
trầ n 4 khoả n về thờ i vụ : 1- ít bà n luậ n, 2- bớ t sai phá i, 3- tạ i chứ c đượ c lâ u; 4-
ngă n cấ m kẻ kiêu hã nh.
Vua nó i : lờ i trình bày phầ n nhiều nên thi hà nh, khô ng như ngườ i có p nhắ t
có thể so sá nh đượ c, cho truyền chỉ khen thưở ng, rồ i thiên là m Đố c họ c ở Vĩnh
Long.
Đỗ Huy Uyển về nhà thích trướ c tá c, nên nhiều ngườ i tìm đến viết vă n, tớ i
nay hã y cò n truyền tụ ng. Con là Huy Liệu.
Huy Liệu tên tự là Tích Ô ng, lú c nhỏ sá ng suố t, đượ c tiếng vă n hay, đỗ hương
giả i bổ là m huấ n đạ o huyện Yên Mô . Tự Đứ c nă m thứ 32 (1879) đỗ tiến sĩ, thi đình
đượ c đệ nhấ t. Vua xem bà i đố i sá ch, phê bả o thự c có họ c, khô ng phả i theo lề lố i mà
hay đượ c Lú c đầ u bổ là m trướ c tá c viện Tậ p hiền, trả i Tri phủ ở 2 phủ Đoan Hù ng,
Lâ m Thao, từ ng lượ c vă n họ c quá n suố t rộ ng rã i, cho triệu thí nên cấ t là m Thị độ c
vẫ n lĩnh Tri phủ . Kiến Phướ c nă m đầ u (1884) chuyển Hồ ng lô tự thiếu khanh, là m
Biện lý Bộ Hộ , rồ i đổ i tham biện cô ng việc ở Nộ i cá c. Khoả ng nă m Hà m Nghi
(1885), Kinh thà nh hữ u sự (45), bị ố m xin về.
Vũ Nguyên Doanh
Ngườ i huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nhà nghèo chă m họ c, thờ cha mẹ
đượ c tiếng có hiếu. Thiệu Trị nă m đầ u (1841) thi hộ i đỗ phó bả ng. Lú c đầ u bổ
Kiểm thả o, đổ i Tri phủ Thiên Phướ c. Nă m thứ 7 (1847) thă ng Lễ khoa chưở ng ấ n
cấ p sự trung kiêm tra xét mọ i việc ở Tô n nhâ n phủ , thườ ng cù ng vớ i ngự sử
Nguyễn Cư dâ ng sớ trình bày về tình trạ ng tậ t khổ củ a dâ n ở nhữ ng hạ t : Thừ a
Thiên, Quả ng Bình, Hà Tĩnh và Nghệ An (có nó i ở truyện Nguyễn Cư). Nguyên
Doanh là m Đà i giá n (46) đượ c lâ u có tiếng. Ngà y thườ ng là m quan khô ng để ai đến
yết kiến riêng. Vua thườ ng phá i ra Bắ c kỳ khá m xét về á n kiện, ngườ i đều tô n trọ ng
là cô ng bình ngay thẳ ng; khi ở đình cũ ng từ ng có chương tấ u đề cử lên. Nă m thứ 8
(1855) bổ Á n sá t sứ ở Gia Định,ượ c 3 nă m, mấ t ở chỗ là m quan. Em là Vinh cũ ng đỗ
hương giả i.
Tam Tỉnh là ngườ i đoan trang kín đá o, giữ trá ch nhiệm 7 nă m, thanh liêm
chă m chỉ tự mình cố gắ ng nên đượ c tiếng về hà nh chính, rồ i mắ c việc phả i chuyển
là m Hồ ng lô tự khanh sung hiệp lý việc tuầ n phò ng ở ngoà i biển, bị ố m xin về rồ i
mấ t. Đượ c truy phụ c Bố chính sứ Hả i Dương. Tớ i nay ở Hả i Dương đều khen Tam
Tỉnh là lương mụ c. Tam Tỉnh khi trướ c tên là Nhậ t Tỉnh, sau đổ i tên như ngà y nay.
Con là Trọ ng Mưu đỗ tiến sĩ, nay lĩnh đố c họ c Quả ng Ngã i và Cá t Xu, Trọ ng Nghị
đều đỗ hương tiến. Chá u Trọ ng Mưu là Huy Nhuậ n cũ ng cù ng Trọ ng Mưu đỗ tiến sĩ
cù ng khoa, là m mộ t họ có danh vọ ng ở Việt An.
>
Lê Quang Bỉnh
Tự là Trọ ng Thao, hiệu là Thậ n Trai, ngườ i huyện Hương Trà tỉnh Thừ a
Thiên. Khoả ng Minh Mạ ng nă m đầ u (1820) ghi tên và o sổ lạ i, chuyển Bá t phẩ m niết
ty ở tỉnh Gia Định, vì bắ t giặ c thườ ng có cô ng. Tự Đứ c nă m thứ 7 (1854) Nam kỳ
Kinh lượ c đạ i sứ là Nguyễn Tri Phương cho kham nổ i cô ng cá n đề cử lên đứ ng đầ u
trong hà ng lạ i dịch. Nă m thứ 12 (1859) mù a xuâ n, quâ n Phá p hã m thà nh Gia Định,
quan quâ n ta dờ i đó ng ở đạ i đồ n để triệu mộ quâ n nghĩa dũ ng, Quang Bỉnh khuyến
mộ đượ c 300 đi theo. Gặ p nướ c Cao Man nhâ n có hiềm khích quấ y nhiễu ngoà i
biên, Quang Bỉnh đem lính mộ theo quan quâ n tớ i dẹp đuổ i đượ c, rồ i chuyển về
nơi quâ n thứ , cù ng vớ i quả n cơ là Trương Định đố c thú c đắ p ụ lũ y, thườ ng cù ng
quâ n Phá p chố ng cự . Sau đó đạ i đồ n và 2 tỉnh Định Biên kế tiếp bị hã m, hò a cụ c
chưa thà nh, các thâ n biền ra ứ ng mộ , đều tô n Trương Định là m đầ u mụ c. Quang
Bỉnh đem sở bộ theo. Bấy giờ Phan Trung cũ ng khở i binh ở Biên Hò a, Định sai
Quang Bỉnh tớ i yết kiến, Trung cù ng nó i chuyện cả mừ ng, giữ lạ i cù ng giú p việc.
Khi Định bị hã m ở trậ n đạ i cụ c hơi khá c, Quang Bỉnh biết việc khô ng thể là m đượ c,
bèn cù ng bọ n Trung lẻn tớ i miền thượ ng du ở Biên Hò a, tả n lính mộ khai khẩ n là m
đồ n điền để là m kế trì cử u đợ i mệnh củ a triều đình.
Quang Bỉnh là ngườ i khẳ ng khá i có khí tiết, dẫ u xuấ t thâ n là đao bú t, yêu
thích sá ch vở , thườ ng bả o con rằ ng: "Mộ t bộ sá ch Chu tử tiểu họ c, đọ c mà lạ i hà nh
thờ i thá nh cô ng tưở ng cũ ng đượ c hơn nữ a". Về trì gia lấ y cầ n kiệm là m gố c, phà m
nhữ ng việc chơi bờ i vô ích đều nghiêm ră n bả o, nên dạ y con đượ c thà nh đạ t; con là
Trinh, khoa Tự Đứ c Nhâ m ngọ lĩnh hương tiến, nay lĩnh trướ c tá c ở Nộ i cá c.
QUYỂ N 34
Đứ c Lâ n khi trướ c tên là Đứ c Tiến, Thiệu Trị nă m thứ 2 (1842) đỗ phó bả ng,
bổ Kiểm thả o. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) lĩnh Tri huyện Tam Nô ng rồ i đổ i Tri huyện
Đan Phượ ng. Nă m thứ 22 (1869) bổ chủ sự Bộ Hình. Tính thẳ ng thắ n, trá i ý thượ ng
tư, xưng bệnh xin về, bèn đó ng cử a tạ khá ch, châ n khô ng già y tớ i thà nh phủ ,
thườ ng suố t ngà y ngồ i ngay ngắ n, xung quanh vá ch trá t tiêu điều chẳ ng che mưa
gió , mà vẫ n yên ổ n. Tuổ i ngoạ i 50 thờ i mấ t.
Nguyễn Chính, đỗ tiến sĩ Thiệu Trị nă m thứ 4 (1844), bổ biên tu, rồ i bổ Tri
phủ Thiên Quan, là m đến Đố c họ c ở Hả i Dương.
Nguyễn Danh Vọ ng
Tự là Hy Lã , ngườ i huyện Yên Dũ ng tỉnh Bắ c Ninh, gia thế đều nghề nghiệp
nho thư. Cao tằ ng tổ đều đỗ hương cố ng đờ i Lê, Danh Vọ ng lú c nhỏ chă m họ c.
Thiệu Trị nă m thứ 2 (1842) đỗ tiến sĩ cậ p đệ, khi đầ u bổ Hà n lâ m viện biên tu, trả i
thiên chủ sự , lĩnh Tri phủ Trù ng Khá nh rồ i đổ i Đố c họ c Hả i Dương. Tự Đứ c nă m
đầ u (1848) thự Quố c tử giá m tư nghiệp thă ng lên Tế tử u, bị việc phả i chuyển Viên
ngoạ i lang Bộ Lễ, rồ i mắ c bệnh xin về. Mấ t nă m 61 tuổ i.
gn="center">
Đỗ Đă ng Đệ
Thá ng 10 nă m ấ y có chỉ phả i gá c tình riêng, khở i sung bang biện quâ n thứ
Quả ng Nam, chẳ ng bao lâ u cấ t lĩnh Bố chính sứ ở Định Tườ ng. Nă m thứ 13 (1860)
tỉnh thà nh thấ t thủ phả i cá ch chứ c theo Đổ ng suấ t đạ i thầ n là Nguyễn Tri Phương
ra sứ c sai phá i, lạ i sung Thương biện quâ n vụ . Khi hò a nghị thà nh, đổ i về là m Bang
biện giú p việc nơi quâ n thứ Nghĩa Định. Nă m thứ 18 (1865) lạ i là m Hồ ng lô tự
khanh, biện lý Bộ Hình. Nă m thứ 19 (1866) phá i tớ i Nghệ An tra xét vụ á n đố t phá t
đạ o quan. Khi xong trở về cấ t là m Kinh triệu doã n. Ở mọ i đô thà nh tậ p quá n
chuộ ng phù hoa xa xỉ, hết thả y sử a chính lạ i. Nă m thứ 21 (1868) Kinh sư bị hạ n
há n, vua sai cầ u đả o rồ i đượ c trậ n mưa. Vua khen vì dâ n hết chứ c trá ch, cho mộ t
đồ ng kim tiền, lạ i cho mộ t bà i thơ để tỏ yêu mến. Cuố i bà i thơ có câ u : "Duy dư hữ u
khuyết lạ i nhỉ bổ , tậ n nhĩ chứ c phậ n thiên bấ t phụ " (dịch nghĩa : Ta có khuyết điểm
ngươi bổ cứ u, ngươi hết bổ n phậ n trờ i khô ng phụ ). Rồ i đổ i biện lý Bộ Hộ . Bấy giờ
Bố chính Quả ng Ngã i là Nguyễn Đứ c Trứ tham lam, biển lậ n, Đă ng Đệ dâ ng mậ t sớ
tham hặ c, vì việc khô ng đá ng bí mậ t, phả i giá ng hai cấ p ly. Nă m thứ 24 (1871) đổ i
sung Tịnh Man tiễu phủ sứ . Nă m thứ 27 (1874) cấ t là m thị lang Bộ Binh, nhưng vẫ n
sung sứ chứ c, phá i bắ t tên ngụ y mụ c Phạ m Vă n Hiên và bố n tên đổ đả ng, thưở ng
gia mộ t cấp. Gặ p quâ n á c Man lạ i xuố ng cướ p bó c. Vua cho Đă ng Đệ, thấ t về phò ng
phạ m, giá ng bố n cấ p đượ c lưu, rồ i đổ i về thị lang Bộ Hộ , chuyển Tham tri.
Nă m thứ 29 (1876) sung Chủ khả o trườ ng Thừ a Thiên, tiến thă ng thự Lễ bộ
Thượ ng thư, sung Quố c sử quá n Phó tổ kiêm quả n cả Quố c tử giá m. Nă m thứ 32
(1879) mù a xuâ n có hộ i thí sung là m chủ khả o. Nă m sau sứ nướ c Y Pha Nho tớ i
Kinh, vua sai sung là m Chá nh sứ toà n quyền đạ i thầ n. Nă m thứ 34 (1881) thă ng
thự Thượ ng thư, mù a thu nă m ấy 68 tuổ i vì ố m xin rú t lui. Vua cho và dụ rằ ng : "Đỗ
Đă ng Đệ tha cẩ n thậ n chứ c phậ n, giữ gìn khô ng có lỗ i lớ n, nhưng vì ố m yếu chưa
tớ i niên lệ xin về hưu, xét lờ i trầ n tình cũ ng là bấ t đắ c dĩ, khô ng phả i kẻ vô tà i tầ m
thườ ng so sá nh đượ c, cho gia ơn hà ng nă m chi nử a bổ ng suố t đờ i thì thô i". Đồ ng
Khá nh nă m thứ 3 (1888) thờ i chết. Thọ 75 tuổ i.
Đă ng Đệ có trí thứ c mưu lượ c, ở triều đoan nghiêm thẳ ng thắ n, gặ p việc dá m
nó i, bà n luậ n từ chương lạ i cù ng tinh nhanh. Khi ở Bộ Hộ sổ sá ch chứ a chấ t như
nú i, xem qua mộ t lượ t khô ng só t chỗ nà o. Trú c Đườ ng Phạ m Phú Thứ thườ ng khen
có tà i khô ng thể bì kịp. Sau khi qui điền, gặ p lú c khó khă n như khoả ng nă m Giá p
Thâ n, Ấ t Dậ u là chỗ nơi dụ ng binh khô ng có ngà y nà o đượ c rỗ i. Quan địa phương
tớ i hỏ i cơ mưu phầ n nhiều đượ c bổ ích. Hô m mấ t, tỉnh thầ n đem việc tâ u lên, â n
cấ p cho nử a tiền tuấ t.
Đă ng Đệ sinh bình trướ c tá c thi vă n có quyển "Tù ng đườ ng di thả o". Con có 2
ngườ i, Toá n đỗ tú tà i, trả i là m đến Sơn phò ng tư vụ , Duyên đượ c tậ p ấ m tò ng thấ t
phẩ m. Chá u là : Quả n, Tịch, Quâ n, Quả n đượ c ấ m sinh, theo thừ a phá i việc sơn
phò ng, Tịch tú tà i là m đến Bang biện ở Nghĩa hà nh, Quâ n đỗ tiến sĩ cậ p đệ, Thà nh
Thá i nă m thứ 7 (1894) là m đến Đố c họ c.
Nguyễn Bỉnh
Trướ c tên là Vă n, sau đổ i tên như ngà y nay, tên tự là Bả o Sơn, ngườ i huyện
Bả o Lộ c, tỉnh Bắ c Ninh. Thiệu Trị nă m đầ u (1841) lĩnh hương tiến, bổ Tri huyện
Thượ ng Lang, khi ba nă m tớ i kỳ khả o mã n đượ c đổ i Tri phủ Thiệu Hó a, chuyển
viên ngoạ i Bộ Lạ i, Lang trung phủ Tô n nhâ n, rồ i cấ t là m á n sá t sứ ở Ninh Bình, từ ng
là m Bố chính sứ ở hai tỉnh khấ u khở i ngụ y ở Bắ c Ninh, con là Huy Do bị giặ c hạ i,
Bỉnh bèn xin về quê mộ quâ n nghĩa dũ ng đá nh dẹp, rồ i bị việc phả i khiển trá ch,
tĩnh đợ i ở ngoà i. Nă m thứ 18 (1865) triệu bổ biện lý Bộ Cô ng, tiến tả thị lang, sung
Đổ ng lý ngô i Vạ n niên cơ, lạ i lĩnh Tả tham tri Bộ Hình. Nă m thứ 21 (1868) thự
Tuầ n phủ Hà Nộ i, chuyển là m Thương biện cô ng việc ở tỉnh Bắc Ninh, đứ ng chuyển
vậ n lương thự c cho cá c quâ n thứ ở Lạ ng Bình, Sơn Hưng Tuyên, rồ i thự c thụ Tuầ n
phủ ở Lạ ng Bình. Nă m thứ 25 (1872) triệu về thự Cô ng bộ Thượ ng thư, lạ i đổ i sang
Bộ Hình. Tớ i niên lệ 70 xin về hưu. Vua cho Bỉnh tớ i tuổ i 70 mà thanh bạ ch, tiết
thá o đá ng chú trọ ng, cho thuố c men và ng lụ a và thự c thụ Hình bộ Thượ ng thư trí
sĩ.
Ngườ i huyện Vụ Bả n tỉnh Nam Định. Thiệu Trị nă m đầ u (1841) lĩnh hương
tiến, đổ i ra Tri phủ Vạ n Ninh. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) dẹp quâ n hả i khấ u có cô ng,
chuyển Viên ngoạ i lang Bộ Hộ , thự Hà Tĩnh quả n đạ o, kế là m á n sứ Quả ng Yên, nă m
thứ 12 (1859) tiến thă ng Bố chính Lạ ng Sơn và hộ lý Tuầ n phủ Lạ ng Bình. Nă m thứ
14 (1861) giá ng xuố ng Quang lộ c tự thiếu khanh, biện lý cô ng việc Bộ Hộ , rồ i lĩnh
Bố chính sứ ở Bình Định. Nă m thứ 15 (1862) bọ n giặ c phiến loạ n khở i ngụ y ở Hả i
An, liên kết cả đườ ng thủ y lụ c đá nh cướ p cá c thuộ c ấ p, bứ c vâ y tỉnh thà nh Hả i
D32;ơng. Vua đặ c cá ch cho triệu Huy Phan về Kinh, phá i sung Hả i An thủ y đạ o.
Huy Phan về quê mình đem con tụ họ p nhữ ng quâ n nghĩa dũ ng ở bộ thự , do
đườ ng sô ng Nam Định tiến phá t, đá nh nhau vớ i giặ c ở Ninh Giang, thu lạ i phủ
thà nh. Đả ng giặ c về bắ c, thừ a thắ ng cù ng cá c quâ n đuổ i đến Hà n Giang đá nh luô n
mấ y trậ n đều phá vỡ . Mù a đô ng lạ i đá nh đượ c quâ n giặ c ở quâ n thứ sô ng Nhâ n
Sơn, tên đầ u giặ c trố n chạ y, khí giặ c đã lung lay. Sau đó thuyền giặ c ngấ p nghé lạ i
tớ i, Huy Phan chặ n ở sô ng đó n đá nh, giặ c bèn trố n ra ngoà i biển, đượ c cấ t bổ Bố
chính sứ Quả ng Yên và Hộ lý tuầ n phủ .
Vua xuố ng chiếu khen ngợ i đều thưở ng thêm mộ t cấ p, lạ i ban bà i và ng tía có
chữ "đồ ng tâ m cử chứ c". Nă m thứ 19 bổ Tuầ n phủ Hưng Hó a, bấ y giờ ngườ i Mèo
Man sơn khô ng chịu yên phậ n thườ ng lan trà n xuố ng cướ p bó c. Huy Khở i tâ u nó i:
"Man Mèo ở xa ngoà i biên là dâ n ngu dạ i khô ng có nghề nghiệp gì khá c. Trướ c
nhâ n đó i kém cướ p ă n, sau vì chố ng cự quan quâ n nên sợ tộ i chưa dá m đầ u phụ c,
đã cho thă m dò khô ng phả i là tụ i to lớ n và khô ng có nơi đó ng đồ n tụ tậ p. Nay nếu
tớ i dẹp, thờ i binh tớ i họ đi, binh đi họ tớ i, chỉ cầ n nhiều cá ch dẫ n dụ , họ tấ t quay
đầ u theo giá o hó a. Nếu có mộ t hai tên ngoan cố , thờ i vỗ về tù ng đả ng đã quy phụ c
sai bắ t giả i đó n thưở ng, hoặ c chỉ dẫ n vây bắ t, cũ ng có thể loạ i bỏ đượ c mầ m á c." Lạ i
nó i : "Man Mèo từ trướ c khô ng có qua lạ quan phủ , khô ng so sá nh đượ c như thổ
dâ n, nên tớ i gầ n chỗ đó khai bả o mớ i dễ nghe theo, xin cho phá i ủ y ngườ i tù y liệu
để chiêu dụ ". Vua cho, và bả o nên mưu tính cho chó ng xong để xứ ng đá ng ủ y
nhiệm.
Nă m thứ 23 (1870) đoà n mụ c là Lưu Vĩnh Phướ c xin tớ i vỗ yên, Huy Khở i
đem việc tâ u lên. Vua nó i : "Vĩnh Phướ c vố n cù ng Hoà ng Anh có cừ u thù , khéo
khuyến khích mà dù ng, nhưng tính khô ng thuầ n khó bả o, chớ nên quá vọ ng thà nh
ra khó chế". Huy Khở i đã ở lâ u Hưng Hó a, gặ p giặ c ngoà i biên đầy dẫ y nên vỗ về
chố ng chọ i có phương phá p. Sau đó gia Binh bộ Hữ u tham tri sung Tham tá n đạ i
thầ n, rồ i lạ i về nơi nhậ m chứ c. Nă m thứ 28 (1875) thá ng 2, vâ ng mệnh tớ i Kinh lý
ở Thậ p châ u (47). Thậ p Châ u địa thế rộ ng dà i vố n có tiếng đầ y đủ già u thịnh, quâ n
lưu khấ u phầ n nhiều thườ ng dò m ngó . Huy Khở i đến chiêu dụ vỗ về, chia từ ng ban
quâ n giặ c ra hà ng và vỗ yên thổ dâ n, mù a xuâ n nă m sau mớ i xong việc.
ight="0">
Ngô Phù ng
Tự là Nguyên Trọ ng, ngườ i huyện Thạ ch Hà tỉnh Hà Tĩnh. Viễn tổ là Phướ c
Thanh, khoả ng nă m Lê Hồ ng Đứ c (1470-1497) xuấ t thâ n khở i ệp là võ tướ ng, là m
Tổ ng binh trấ n Thá i Nguyên, trả i 3 đờ i đều giữ ấ n ở quậ n. Tổ 7 đờ i là Cả nh Hự u
giú p nhà Lê diệt nhà Mạ c (có cô ng đầ u) bậ c thứ 8 đờ i trung hưng, phong Thá i bả o
Thế quậ n cô ng, từ đó trả i đờ i đượ c cô ng lao thế phiệt, nố i nhau giữ uy tín. Ô ng là
Phướ c Lâ m khoả ng nă m Cả nh Hưng (1740-1786) mớ i bắ t đầ u đỗ tiến sĩ phá t về
hà ng giá p, là m đến Thị lang Bộ Cô ng.
Nă m thứ 9 (1856) do ố m có trầ n tình xin nghỉ trả hạ n vì cha mẹ đã già , vua
chuẩ n cho lĩnh giá o thụ ở đạ o Hà Tĩnh, để nhờ đó lấ y lộ c phụ ng dưỡ ng. Phù ng đã
về, vua thườ ng sắ c hỏ i, kịp bà i phú vịnh Sứ đã thà nh, tiến lên vua xem, vua bả o lờ i
lẽ cá ch thứ c đượ c trộ i, ban thưở ng gia cho.
>
Tự là Tử Mẫ n, hiệu Trừ ng Giang, ngườ i huyện Bình Long, tỉnh Gia Định.
Thiệu Trị nă m thứ 2 (1842) lĩnh hương tiến, trả i hậ u bổ Khá nh Hò a, chuyển Huấ n
đạ o Long Xuyên, rồ i bổ Tri huyện, bị việc mấ t chứ c. Tự Đứ c nă m thứ 12 (1859)
thà nh Gia Định thấ t thủ , Thiện Chính cù ng nguyên suấ t độ i là Lê Huy tụ họ p dâ n
dũ ng 5800 có lẻ ngă n chố ng quâ n giặ c, bả o hộ đề đố c là Trầ n Tri về Tâ Thá i. Thứ
thầ n (49) đem việc tâ u lên. Vua khen cho khai phụ c nguyên hà m Tri huyện, nhưng
theo quâ n thứ sai phá i, rồ i thă ng Đồ ng Tri phủ .
Nă m thứ 17 (1864) thă ng Thị độ c, lĩnh Phó quả n đạ o ở Phú Yên, chẳ ng bao
lâ u cấ t lên Hồ ng lô tự khanh, biện lý cô ng việc Bộ Hộ , lạ i sung Kinh kỳ hiệp lý thủ y
sư. Vĩ thuyền đi tuầ n ra biển quá hạ n, phả i phạ t bổ ng mộ t nă m. Nă m thứ 19 (1858)
phá i tớ i Hương Cả ng kén mua chiếc tà u thủ y Thuậ n tiệp bị mắ c việc phả i cá ch
chứ c, rồ i lạ i khở i phụ c Kiểm thả o, lĩnh Tri phủ Hà m Thuậ n. Nă m thứ 21 (1868)
quả n Hà n lâ m viện là Vũ Phạ m Khả i cho là giỏ i thơ đề cử lên cấ t bổ tu soạ n sung
chứ c ở Viện, đượ c và i thá ng cấ t lên Hồ ng lô tự thiếu khanh, biện lý cô ng việc Bộ
Binh. Nă m ấ y đổ i sung tá n lý nơi quâ n thứ Sơn Tâ y, dẹp giặ c ở đồ n Mạ n Hạ bị thấ t
lợ i phả i cá ch lưu khá lâ u. Đá m giặ c lạ i chiếm cứ hai đồ n là Dò chợ , Trạ i đấ t dự a và o
hiểm trở cố chết giữ . Thiện Chính cù ng hộ đố c Trầ n Bình đá nh phá tan, cấ t Hồ ng lô
tự tự Khanh, nhưng vẫ n sung chứ c. Sau vì cấ p phá t tiền lương khô ng đú ng lệ, cù ng
hú t thuố c phiện, và cá o ố m để lấ y vợ lẽ, việc phá t ra, lạ i bị cá ch.
Vua nghe tin thương xó t, chuẩ n cho con đườ ng đi, cá c tỉnh phá i bắ t phu
thuyền thủ y lụ c tù y tiện đưa về kinh chỗ ngụ an tá ng.
Khi trướ c tên là Thanh Oai, ngườ i huyện Phong Điền, tỉnh Thừ a Thiên, lú c
nhỏ chă m họ c. Thiệu Trị nă m thứ 3 (1843) đỗ tiến sĩ cậ p đệ, do Hà n lâ m biên tu
và o Cá c, rồ i ra Tri phủ Tuy An, có tiếng về hà nh chính; đượ c ít lâ u thă ng Thị độ c
lĩnh Á n sá t Thanh Hó a. Khi việc cô ng rả nh rỗ i, ô ng lấ y dạ y họ c là m vui, rồ i chuyển
tớ i hai tỉnh Hà Nộ i, Nam Định. Tự Đứ c nă m thứ 13 (1860) thă ng Bố chính Hả i
Dương, gặ p quâ n thủ y phỉ là bọ n Đoà n Ướ c, Tạ Phượ ng họ p đả ng quấ y nhiễu cướ p
bó c, Oai khô ng hay phò ng chế, phả i chuyển là m biện lý Bộ Hình, chẳ ng bao lâ u cấ t
lên Thị lang. Khi quâ n thủ y phỉ đã bình, cá c đồ n biển ở Hả i Dương, ngườ i buô n
nướ c Thanh đến đô ng đú c tụ họ p, Oai tâ u nó i: "Việc cấ m chỉ thuyền buô n nướ c
Thanh có 3 điều hạ i : mộ t là gạ o trong nướ c bị lén lú t đưa đi mà thuế cả ng hao
thiếu, hai là ngườ i là m ruộ ng bị thấ t lợ i mà cà y cấ y sinh lỗ hạ i, ba là dâ n buô n
khô ng chỗ trong mong tư cấ p, cù ng khổ là m gian là ba điều. Mà cho chiêu tậ p
thuyền buô n nướ c Thanh thờ i có 3 điều lợ i: mộ t là cho cù ng nhau đổ i chá c, liệu
định thu thuế, hai là ngườ i là m ruộ ng ra sứ c cà y cấ y mà chỗ bỏ hoang ngà y mộ t mở
mang, ba là ngườ i buô n có chỗ tư cấ p khô ng phả i là m gian dố i, mà từ trướ c đã xảy
châ n nay lạ i có con đườ ng về, hoặ c rú t lui là m dâ n buô n, hoặ c tả n má t là m nghề bẻ
lá i, chẳ ng vỗ yên chẳ ng đá nh dẹp mà yên định", vua cho là phả i, giao cho tỉnh Hả i
Dương biết mà là m, vì Oai đã tớ i nơi đó xét kỹ tình hình rồ i, rồ i thự Tham tri.
Nă m thứ 19 (1866) đổ i Tuầ n phủ Thuậ n Khá nh, bấy giờ 6 tỉnh Nam Kỳ mớ i
bắ t đầ u bị ngoạ i thuộ c, tỉnh Bình Thuậ n cù ng cá c tỉnh lâ n cậ n mọ i ngườ i đều ngờ
sợ , Oai hay trấ n tĩnh cả , trong khoả ng 6 nă m việc lên hiếu khô ng cò n nó i ra và o
nữ a. Nă m thứ 25 (1872) tiến thự Hình bộ Thượ ng thư, gặ p lú c Bắ c Kỳ có bá o độ ng
ở ngoà i biên, quan quâ n đá nh dẹp lâ u chưa bình đình, đổ i là m thự Ninh Thá i Tổ ng
đố c kiêm sung trô ng coi việc quâ n và đồ ng suấ t cả việc quâ n ở Ninh, Thá i, Lạ ng,
Bình. Nă m thứ 27 (1874) đá nh dẹp chưa xong, cách trị cả việc quâ n ở Lạ ng Bình.
Nă m thứ 28 (1875) vua cho Oai ở Bắ c Ninh đã lâ u, chi phí rấ t nhiều mà chưa có tấ c
kiến hiệu nà o, bắ t giả i chứ c, tạ m cho hà m thương biện Thá i Nguyên thứ vụ , để mưu
kiến hiện sau nà y. Liền mắ c bệnh xin về rồ i chết.
Oai có tính khoan bình hò a dị, thườ ng giữ hiến phá p trong nướ c, thấ y kẻ lạ i
là m tờ có ý thâ m thiểm, tấ t trá ch mó c tậ n mặ t và bả o: "Ta trị ngụ c dẫ u khô ng dá m
bả o là vô oan nhưng gố c chỉ có mộ t lò ng bấ t nhẫ n thô i". Khi Tuầ n phủ Thuậ n
Thà nh, thổ tụ c hạ t ấ y khô ng lấy quan quá ch chô n bố mẹ, ô ng thấ y mà thương đứ ng
quyên bổ ng mua quan tà i sai ngườ i đứ ng chủ quả n, gọ i tên nơi đó là phườ ng Xuâ n
Thọ , vì có bụ ng từ thườ ng na ná là như thế. Khi phụ ng mệnh đi thị sư vua có là m
bà i thơ cho rằ ng : "Khẳ ng hứ a ngoan dâ n du Há n tá i, Mạ c phiên lâ n quố c phú tuầ n
phong, bắc mô n tỏ a thượ c tò ng kim cổ , tiên khả i hoà n tham hậ u kính cô ng" (Nghĩa
là : Há để ngoan dâ n qua ả i Há n, Khô ng phiền lâ n quố c chịu tô i Tầ n, Bắ c mô n then
khó a từ nay vữ ng, Khả i tấ u rồ i sau sẽ xét cô ng). Đủ rõ việc biên giớ i ngoà i bắc, nhà
vua vẫ n thườ ng để ý, nhưng đá m thổ phỉ ra và o nơi rừ ng rú , nặ ng nề sơn lam
chướ ng khí, lú c hà ng lú c phả n vỗ về đá nh dẹp đều khó , nên khô ng thà nh cô ng rấ t là
đá ng tiếc. Khi chết vua thương khó nhọ c, truy phụ c cho Hồ ng lô tự khanh. Con là
Hà Hiệp cũ ng
Anh Tuấ n là con ngườ i mẹ kế, gặ p khi phong tặ ng, trình bà y, vua chuẩ n
phong cho mẹ cả . Sau khi Anh Tuấ n chết vua suy nghĩ sau cù ng bà n phong cả mẹ
đẻ, cò n con thờ i ghi tên sẽ lụ c dụ ng.
Vũ Vă n Tuấ n
Ngườ i huyện Gia Lâ m, tỉnh Bắc Ninh (Nay thuộ c Hà Nộ i). Thiệu Trị nă m thứ
3 (1843) đỗ tiến sĩ cậ p đệ, lú c đầ u bổ Hà n lâ m biên tu, đổ i Tri phủ Hà Trung. Tuấ n
là ngườ i bình dị gầ n dâ n, khi cô ng hạ cho cá c trò tớ i giả ng tậ p, thườ ng đến và i tră m
ngườ i. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) triệu bổ Thị giả ng sung Sử quá n biên tu, khi dẫ n ra
mắ t có trình bà y trong bả n tâ u là : xin cho thuế ruộ ng ở Tố ng Sơn đượ c chiết nộ p
thay tiền và cho triệt lính đó ng thú ở ụ Trấ n Man". Vua theo. Nă m thứ 5 (1852) bổ
Thị độ c sung phó s sang Yên Kinh, trả i 3 nă m mớ i về nướ c, vua gia thưở ng lạ o (lờ i
nó i thấ y ở truyện Phan Huy Vịnh), rồ i cấ t Thị giả ng họ c sĩ. Nă m thứ 10 (1857) đổ i
Á n sá t sứ Hưng Hó a, mắ c việc phả i giả i chứ c theo quâ n thứ bắ t giặ c, rồ i ố m chết,
truy thụ Thị độ c.
Khi trướ c Vă n Tuấ n ở Hà Trung có huệ chính, sau dâ n dự ng đền thờ . Con là
Hy trả i bổ tri huyện.
Đỗ Phá t
Nă m thứ 26 (1873) thà nh Nam Định thấ t thủ , Phá t có dự là m cô ng việc tuầ n
phò ng ngoà i biển, đá ng nhẽ phả i tró i đưa về kinh, vua chuẩ n cho ở lạ i và khéo vỗ
về tụ họ p sĩ dâ n theo tỉnh sai phá i ủ y nhiệm, cố ra sứ c chó ng trừ quâ n giặ c biển để
chuộ c lỗ i trướ c. Sau đó bả n á n dâ ng lên phả i đá nh trượ ng đi 73;ầ y. Con là Bỉnh
Thà nh dâ ng tờ xin chịu thay. Vua gia ơn cho chuộ c tộ i phả i miễn chứ c, rồ i lạ i khai
phụ c biên tu sung việc biện điền, lạ i lĩnh doanh điền sứ . Nă m thứ 35 (1882) tuổ i đã
70 xin về hưu, vua cho. Thà nh Thá i nă m đầ u (1889) khai phụ c Hồ ng lô tự khanh,
lạ i cho tuổ i cao có đứ c vọ ng tiến bổ Thị lang, rồ i cho trí sự . Khi mấ t thọ 81 tuổ i.
Khi trướ c tỉnh Nam Định, cá t ở biển ngà y mộ t đầy dẫy, thà nh nơi bỏ hoang
trô ng khô ng bờ bến, Phá t trướ c sau là m doanh điền sứ đứ ng chiêu tậ p nhữ ng nhà
thự c hộ . Khá ch hộ cho khai khẩ n đượ c thà nh ruộ ng mà sau khi niên hạ n đã nhấ t
định đầ y đủ phả i nộ p thuế tính ra 10.000 mẫ u có lẻ, nhâ n đinh đổ về sum họ p lậ p
thà nh nhữ ng ấ p : Quế Phương, Trung Phương, Trù ng Quang, Thanh Trà , Doã n
Đô ng và Lộ c Trung đều sầ m uấ t thà nh thô n xó m, ngườ i đều đượ c nhờ . Con là Bỉnh
Thà nh đỗ hương giả i, bổ giá o thụ , trả i thă ng hà m trướ c tá c.
Phạ m Phú Thứ
ự là Giá o Chi, hiệu là Trú c Đườ ng, biệt hiệu là Giá Viên, tiên tổ từ Bắ c
sang, lệ thuộ c và o sổ ở huyện Diên Phướ c, tỉnh Quả ng Nam. Phú Thứ mẹ chết sớ m,
nhà nghèo chă m họ c, cù ng vớ i anh là cử nhâ n Phú Duy thờ cha mẹ rấ t hiếu. Thiệu
Trị nă m thứ 3 (1843) đỗ tiến sĩ cậ p đệ, lú c đầ u bổ biên tu, trả i Tri phủ Lạ ng Giang,
thă ng thị độ c, vì có tang cha mẹ nghỉ chứ c, khi hết trở sung Kinh diên khở i cư chú .
Tự Đứ c nă m thứ 3 (1850) bấy giờ nhâ n mưa rét, thấ y nhà vua nà o bã i triều, nà o
nhà Kinh diên cũ ng ít ra ngự , Phú Thứ dâ ng sớ can lượ c rằ ng : "Lễ đạ i đình ít thấ y
ra triều thị, nhạ c nộ i uyển kèn trố ng suố t cả đêm, nhà Kinh diên lâ u khô ng tớ i
giả ng, chố n triều đình lâ u khô ng ban hỏ i, thầ n tử ở bố n phương phủ huyện cũ ng
lâ u khô ng đượ c thừ a chỉ thanh vấ n. Lạ i nó i : thá i y phương thuố c điều hò a, thự c
cũ ng quá ư nghệ thuậ t, quầ n thầ n dâ ng sớ thỉnh an, vì tình khuấ t cả lờ i nó i". Lờ i lẽ
trong tờ khô ng cò n kiêng sợ , na ná là như thứ .
Nă m thứ 12 (1859) vì ố m cá o, vua sai ngườ i ban cho sâ m quế thuố c men,
Phú Thứ lạ i vì cả i tá ng ngô i mộ bố xin về quê. Vua nó i : "ngườ i nếu muố n mưu bá o
đá p thờ i ngà y cò n i, trẫ m khô ng trá ch về chó ng mong kiến hiệu", cấ p cho 20 lạ ng
bạ c bả o về, khi tớ i Kinh tâ u xin các việc : đắ p đê khơi sô ng và tuầ n phò ng huấ n
luyện ở Quả ng Nam đượ c cấ t là m Thị lang Bộ Lạ i, rồ i thự Tham tri.
ht="0">
Nă m thứ 18 (1865) tiến thự Hộ bộ Thượ ng thư sung Cơ mậ t viện đạ i thầ n, có
mậ t xin đặ t 4 tuyên phủ sứ ở cá c địa đầ u : Về Quả ng Trị thì ở 9 châ u Cam Lộ , về
Bình Định thờ i ở nơi cù ng cự c về địa giớ i phía tâ y trên tổ ng An Tâ y, về Nghệ An thì
ở phủ Trấ n tâ y; về Hưng Hó a thờ i ở phủ Điện Biên xâ y thà nh là m trườ ng giao dịch
chợ bú a, ngoà i sử a thuế thương chính mà ngụ ý về quâ n chính. Lạ i xin lậ p thổ từ
đờ i đờ i đượ c tiếp cậ n mà liệu đá nh thuế khiến cha anh con em họ cù ng nhau ngă n
giữ . Đình thầ n cho lờ i trình bày thự c có ý kiến là m mạ nh vữ ng nơi biên phò ng, xin
mậ t tư cho cá c tỉnh rõ xét rồ i Phướ c lạ i, nhưng việc rú t cụ c khô ng thà nh.
Nă m thứ 26 (1873) vì Hộ bộ giấ u lỗ i rồ i về hoá vậ t củ a nhà nướ c, phả i giá ng
Thị lang, rồ i khai phụ c Tham tri, vẫ n thự c Thượ ng thư.
Vua nó i : "Ngươi giữ chứ c tham bồ i đã lâ u, gặ p việc nên biết kỹ. Nay tớ i đó vỗ
yên phò ng bị cố t đượ c vữ ng mạ nh mà việc thương chính có quan hệ lớ n, nên thi
thố tà i mưu là m cố t có lợ i khô ng hạ i, mà phả i giữ bụ ng cố gắ ng lấ y tiết thá o cho
cô ng bằ ng trong sạ ch. Bụ ng đã sá ng suố t thờ i việc đều biến đổ i xứ ng đá ng cả. Cò n
Ích Khiêm như đã đổ i hết lỗ i trướ c giao cho ngươi thiện hó a thêm, nhâ n cho bài
thơ để cố gắ ng lên. Thơ rằ ng :
Phiên â m:
Lưu hầ u trạ ng mạ o cự khô i ngô ,
Cấ p ngọ a Hoà i dương bệnh bấ t cồ .
Thanh vâ n tả o đạ t ưu nhưng họ c,
Bạ ch tủ khô ng đà m mạ n tự nho.
Dịch nghĩa:
Đườ ng mâ y sớ m đạ t nhưng cò n họ c,
Hộ Tà o lạ i nứ c tiếng Di Ngô .
Lạ i chuẩ n cho họ a lạ i dâ ng lên và ban cho 2 chi thượ ng hạ ng kim cương toà n
sâ m cù ng mộ t bình chè thượ ng hạ ng bích loa (hình con ố c mà u biếc) ở Quan Đô ng
(đều là củ a sứ bộ sang Thanh mua về), cù ng dụ rằ ng: đó là đương chỗ giữ trọ ng
nhiệm nhiều việc nguy kịch nên khô ng quên."
Phú Thứ khi đi đườ ng qua Thanh Hó a có hỏ i biết Phan Đứ c Trạ ch trướ c khi
là m Niết sự ở Thanh (bấ y giờ lĩnh Bố chính ở Nam Định) là m việc phầ n nhiều
khô ng đú ng, có tờ mậ t phong tâ u lên. Vua giao tờ ấ y xuố ng viện duyệt lạ i. Khi ô ng
tớ i tỉnh, thì tỉnh thà nh sau khi binh hỏ a dinh thự đấ t phá , là ng ấ p tiêu điều, khi
trướ c, có bà n đặ t nha thự để khai trương việc tuầ n phò ng ở biển, đều chưa xâ y
dự ng. phú Thứ ngà y cù ng phó viện mớ i là Nguyễn Tă ng, Nguyễn Đa Phương mưu
xếp đặ t cô ng việc dầ n dầ n đã có manh mố i; gặ p lú c đê huyện vă n Giang tỉnh Bắ c vỡ ,
nướ c lụ t trà n cả 2 phủ Bình Gianh Ninh Giang thuộ c Hả i Dương, dâ n đó i phiêu lưu
tả n má t tớ i tỉnh đợ i chẩ n kể cho hà ng vạ n mà kho khô ng cò n củ a để. Phú Thứ xin
phâ n trích ở kho gạ o Hưng Yên 5 vạ n phương phá t chẩ n cho, lạ i cho dâ n cầ m cố đồ
đạ c cấ p cho nhà có củ a. Lạ i phá i thuộ c hạ đem nhữ ng ngườ i khỏ e mạ nh tớ i huyện
Đô ng Triều cà y cấy khai khẩ n sinh số ng, chờ khi nướ c xuố ng cho về là ng mụ c, dâ n
nhờ đó mớ i số ng. Khi nha thự về thương chính đã xong, hộ i đồ ng lã nh sự mở cả ng
chiêu thương, mộ t dả i sô ng Cấ m thuyền xe tụ họ p đô ng đú c thà nh ra nơi lạ c thổ .
Nă m thứ 29 (1876) chuẩ n cho đượ c thự c thụ , Phú Thứ lạ i xin đặ t trườ ng
mua gạ o ở chợ An Biên huyện An Dương và xã Đồ Sơn huyện Đô ng Triều, cho dâ n
mua gạ o và đá nh thuế. Bấ y giờ Sở thương chính mớ i mở , quâ n giặ c biển chưa hết.
Như đả o Cá t Bà ở Quả ng Yên (Nay thuộ c Hả i Phò ng) trướ c vẫ n là nơi sầ m uấ t ra
và o củ a giặ c và lưu dâ n Khâ m châ u tớ i ở đó phầ n nhiều cà n gỡ ngang ngượ c; vua
cho việc quan hệ tớ i phong cương, sai Phú Thứ phá i xét tình trạ ng, nên đá nh dẹp
nên vỗ về tù y liệu khu xử . Phú Thứ tứ c thì phá i thương biện là Lươngến tớ i hiểu
dụ , lưu dâ n đều yên nghiệp, bèn đặ t bang trưở ng và đầ u mụ c cho khai danh sá ch
chịu thuế thà nh ra biên hộ , mộ t hạ t Quả ng Yên tạ m đượ c yên lặ ng.
Nă m thứ 32 (1879) gặ p dịp Thấ t tuầ n khá nh tiết củ a Nghi Tiên Chương
hoà ng hậ u, xin về lạ y mừ ng, vua cho và chuẩ n cho Lê Điều đến thự thay. Rồ i vì
quâ n buô n giả o quyệt khở i xướ ng phao đồ n, đem việc mậ t tâ u lên, lạ i chuẩ n cho ở
lạ i là m việc. Sau đó viện bạ c thầ n tâ u nó i : "Phú Thứ cù ng vớ i thủ lĩnh Phá o tình
khô ng hò a hợ p nên có lờ i trá ch mó c. Đạ i lượ c gạ o xuấ t ra cho ngườ i buô n củ a Phá p
thờ i nghiêm cấ m mà ở ngườ i Thanh thờ i thườ ng buô ng tha. Ở tỉnh Ninh Hà thờ i
nghiêm cấ m mà ở Trà Lý, chỉ mộ t nơi đó là cho. Đều do Đô ng đố c (Đô ng đố c là
Tổ ng đố c tỉnh Đô ng) là m cả , xin lự a phá t ngườ i khá c thay. Vua cho họ là lờ i lẽ có
mộ t mặ t, khô ng chuẩ n cho thay đổ i, chỉ mậ t dụ nghiêm trá ch để đổ i lỗ i ra sứ c mà
là m, khiến cho yên lặ ng tình hình buô n bá n và hết lờ i nó i phao lên. Khô ng thế sẽ
kết tộ i gâ y biến, gặ p Khâ m phá i ngự sử là Dương Quả n lạ i cho hạ t ấ y phầ n nhiều có
ngườ i buô n nướ c Thanh chở trộ m gạ o và viên giá m đố c việc tuầ n phò ng ngoà i biển
là Lương Vă n Tiến (anh em họ ngoạ i vớ i Phú Thứ ) cậ y thế chở gạ o rạ ngoà i quố c
v.v... thanh minh tâ u lên. Vua sai nguyên chuẩ n cho Thự đố c là Lê Điền đổ i sung
Khâ m sai tra xét, Phú Thứ mắ c bệnh xin về Kinh chữ a thuố c và đợ i á n; Điền lạ i tâ u
xin cho ở lạ i và i thá ng để giú p đượ c am hiểu, vua cho.
Phú Thứ khi xưa tên là Phú Thứ , ngà y đỗ tiến sĩ đượ c vua ban cho tên như
ngà y nay, về vă n họ c tà i biện thự c là đứ ng đầ u ở Nam châ u. Vua khi nhà n hạ có
đà m luậ n về vă n chương. Thườ ng nó i : "vă n củ a Khắ c Đả n theo cổ nhưng cứ ng, vă n
củ a Thanh Giả n cũ ng theo cổ nhưng nhã , cò n Phú Thứ chưa nhã cứ ng lắ m nếu cố
gắ ng cũ ng thế". Ngà y là m Tổ ng đố c Hả i An có quyển khắ c cá c sá ch như: "Vạ n quố c
cô ng phá p", "Bắ c vậ t tâ n biên", "Hà n hả i kim châ m", "Khai mô i yếu phá p", "Tò ng
chính di quy bả n thả o" và tự là m bà i tự a gồ m cá c yếu lượ c. Đó là muố n cho nhữ ng
ngườ i có chí đượ c rộ ng kiến vă n để bổ ích cho thự c dụ ng. Vả ai dẫ u là m quan xa mà
tình trạ ng chố n quê quá n chưa từ ng khô ng quan tâ m. Như khi ở Hả i Đô ng, hạ t
Quả ng Nam luô n nă m đó i kém, mà việc tuầ n phò ng ở ngoà i biển thì gạ o cấ m khá
nghiêm, bèn thương lượ ng tạ m bỏ điều cấ m, hoặ c quyền nghi cho thuyền chố n
ngườ i Thanh, ngườ i Kinh đáp chở gạ o bắ c về Quả ng Nam phâ n tá n phá t mạ i. Ô ng
cò n bỏ liêm bổ ng ra mua 00 phương gạ o gử i về chia ra phá t chẩ n cho dâ n đó i ở
huyện hạ t, nhâ n đó cứ u số ng đượ c nhiều ngườ i, đến nay ngườ i vẫ n cò n nhớ . ô ng có
viết quyển "Tâ y hà nh nhậ t ký", "Tâ y phù thi thả o" và "Gia viên thi vă n tậ p" truyền
bá ở đờ i. Con có 4 ngườ i : Phú Tườ ng đỗ tú tà i ấ m bổ tu soạ n, lĩnh Tri phủ Quả ng
Trạ ch, mắ c tộ i về là m lang biện trô ng coi cô ng việc khơi sô ng ở tỉnh mình, Phú
Khanh hà m bá t phẩ m ở Khá nh Hò a, Phú Khang bổ Hà n lâ m viện biên tu, bị ngụ y
đả ng bắ t giữ , tặ ng trướ c tá c và Phú Lẫ m là m bang biện ở huyện Hò a Vang.
Phạ m Hữ u Thướ c
Khi trướ c tên là Trọ ng Nguyên, ngườ i huyện Hương Thủ y tỉnh Thừ a Thiên,
Thiệu Trị nă m thứ 7 (1847) đỗ tiến sĩ cậ p đệ. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) do Hà n lâ m
biên tu thự Tri phủ Tuy Phướ c, rồ i và o là m Giá m sá t ngự sử ở đạ o Thanh Hó a, đổ i
Thị độ c sung giá o tậ p ở nhà Tô n họ c. Nă m thứ 8 (1855) chuyển là m Lang trung Bộ
Lễ, quyền Nhiếp tá lý Tô n nhâ n phủ . Nă m thứ 10 (1857) ra là m Á n sá t sứ ở Định
Tườ ng, chẳ ng bao lâ u thự Bố chính sứ Nam Định, quyền Chưở ng ấ n Định An Tổ ng
đố c quan phò ng. Nă m thứ 12 (1859) đổ i bổ Thá i bộ c tự khanh, biện lý Bộ Binh.
Mù a đô ng nă m ấ y gia hà m Lễ bộ thị lang, sung sang sứ nướ c Thanh, rồ i vì nướ c
Thanh có việc khô ng đi đượ c, vẫ n giữ biện lý Bộ Binh như cũ . Nă m thứ 16 (1863)
bổ Thị lang lĩnh Lễ bộ tham tri, lạ i chuyển sang Bộ Hộ , kiêm quả n ấ n triện Đô sá t
viện. Mấ t ở chỗ là m quan. Chá u lấy là m con là Trọ ng Từ , Minh Mạ ng nă m thứ 19
(1838) đỗ tiến sĩ là m đến Á n sá t Quả ng Nam.
Lạ i Dương Phướ c Vịnh, ngườ i huyện Phong Điền, xuấ t thâ n đỗ phó bả ng, Tự
Đứ c nă m đầ u (1848) bổ đồ ng Tri phủ ở Nghĩa Hưng. Nă m thứ 7 (1854) đổ i Ngự sử
đạ o Hả i An. Nă m thứ 9 (1856) thự Binh khoa chưở ng ấ n, rồ i chuyển Á n sá t sứ ở
Bình Định. Nă m thứ 14 (1861) cấ t lên Binh bộ Thị lang, Hộ lý Ninh Bình tuầ n phủ
quan phò ng. Nă m thứ 1 (1864) thì chết.
QUYỂ N 35
TRUYỆ N CÁ C QUAN - MỤ C XXV
Lê Sỹ
Ngườ i Phong Lộ c, tỉnh Quả ng Bình. Trướ c do châ n Anh danh đượ c phá i đi theo
Trấ n Tâ y quâ n vụ . Thiệu Trị nă m thứ 3 (1843) bổ là m suấ t độ i Hổ uy Hữ u vệ độ i,
có nhiều cô ng đượ c cấ t lên chứ c Thà nh thủ ú y, sung Quả ng Nam Tả cơ hiệp quả n.
Tự Đứ c nă m đầ u (1848), bổ Tả bả o phó vệ ú y, thuyên chuyển mã i đến Lã nh binh
tỉnh Ninh Bình. Nă m thứ 12 (1859) sung Đố c binh quâ n thứ Quả ng Nam. Đến khi
xét cô ng trạ ng quâ n thứ đượ c bổ là m Binh vệ ú y. Nă m thứ 14 (1861) bổ Biên Hò a
phó đề đố c, rồ i triệu về thự chứ c Chưở ng vệ, quyền chưở ng cô ng việc Vũ lâ m dinh
tả dự c, kiêm chưở ng cá c vệ Kinh tượ ng. Nă m thứ 16 (1863) lĩnh tuầ n phủ Thuậ n
Khá nh. Nă m thứ 17 (1864) bổ thự chưở ng cơ, quyền Chưở ng Vũ lâ m dinh Hữ u
dự c. Mù a thu nă m thứ 19 (1866) tên nghịch Trưng phạ m cử a khuyết (50), Sỹ thú c
quâ n bả n bộ chặ n bắ t bọ n giặ c, có cô ng đượ c lên chứ c Vũ lâ m dinh thố ng chế,
phong tưN99;c Kiên dũ ng nam và thưở ng kim bà i có chữ "Tưở ng trung", nhã n
và ng, kim. tiền. Sau đó , do hà m ấy quyền chưở ng Hữ u quâ n lạ i kiêm quả n Thượ ng
tứ viện. Nă m thứ 20 (1867) thự chứ c Hữ u quâ n đô thố ng. Nă m thứ 36 (1883) thự c
thụ chứ c Hữ u quâ n đô thố ng phủ đô thố ng chưở ng phủ sự , cầ m quâ n giữ thà nh
Trấ n hả i cử a Thuậ n An (Thừ a Thiên).
Mù a thu nă m ấy, n đem binh thuyền đến đá nh, Sỹ cù ng thố ng chế Lê Chuẩ n và phó
phò ng luyện Lâ m Hoà nh chia quâ n ra chố ng giữ , cầ m cự nhau trong 2 ngà y, tiếng
sú ng khô ng ngớ t. Quâ n Phá p bèn chia nhau xuố ng nhữ ng chiếc thuyền nhỏ bằ ng gỗ
sam và bờ rồ i theo lố i đườ ng Thá i Dương ở phía sau đá nh ú p. Thà nh bị hã m, Sỹ
cù ng Chuẩ n, Hoà nh và Chưở ng vệ Nguyễn Trung đều bị chết. Đầ u nă m Kiến Phướ c
(1883) gia tặ ng tướ c Kiên dũ ng tử .
Trầ n Đình Tú c
Cha Tú c là Trung, theo Thế tổ Cao Hoà ng đế (Nguyễn Á nh) ở Gia Định, và o là m Thị
thư viện rồ i bổ Phú Yên hiệp trấ n. Đình Tú c là con thứ hai, bắ t đầ u do châ n ấ m sinh
đượ c và o Quố c tử giá m. Nă m Thiệu Trị thứ 2 (1842) lĩnh châ n hương tiến, bổ Tri
huyện Bấ t Bạ t. Khi quan Thượ ng ty tiến cử Tú c là ngườ i trị dâ n có thà nh
tích, Tú c đượ c bổ Chủ sự Hộ bộ . Tự Đứ c nă m thứ 3 (1850) bổ Tri phủ Vĩnh Tườ ng,
sau và o là m Binh bộ Viên ngoạ i lang rồ i lạ i thự Phú Yên quả n đạ o. Sau đó vì cha mẹ
già về phụ ng dưỡ ng.
0">
Nă m thứ 9 (1856) lạ i đượ c dù ng sung chứ c tù y biện Quả ng Nam quâ n thứ . Vua cho
đi ngự a trạ m vờ i và o Kinh hỏ i về 3 chướ c :á nh, giữ hay hò a". Đình Tú c nó i xin dâ ng
kế "thanh dã " (51) khiến chú ng tiến hó a cũ ng khô ng kiếm đượ c gì, cù ng kỳ lý rồ i
hò a cũ ng khô ng sao. Nă m thứ 12 (1859) lạ i sung chứ c bang biện Quả ng Nam quâ n
vụ . Sau đó Nam kỳ đá nh nhau, đượ c bổ Hồ ng lô tự khanh sung Tá n tương Biên Hò a
quâ n thứ . Vì Biên Hò a thua trậ n, bị lộ t chứ c lưu dụ ng.
Nă m thứ 15 (1862) đượ c trả lạ i nguyên hà m là m Biện lý Hình bộ . Nă m sau, xin mộ
dâ n khai khẩ n ruộ ng hoang ở Thừ a Thiên, Quả ng Trị, vua cho giữ nguyên hà m
sung là m đồ n điền sứ . Tú c mộ dâ n lậ p ấ p, lạ i đắ p con đê ngang ở Hưng Bình để vệ
nô ng. Nă m thứ 19 (1865), vì có cô ng lao, gia chứ c Hộ bộ hữ u thị lang vẫ n sung việc
doanh điền, lạ i ban cho 1 tấ m kim khá nh có chữ "Liêm, Cầ n, Cá n". Bấ y giờ dâ n
Quả ng Trị bị đó i, ô ng xin cho khai sô ng Vĩnh Định, lấ y cô ng việc thay chẩ n, lạ i xin
khai mỏ sắ t Lưu Bả o. Vua đều theo lờ i.
Nă m thứ 21 (1866) phá i đi cô ng cá n Hương Cả ng. Khi về lĩnh chứ c Hà Nộ i tuầ n phủ
sau đổ i đi Thương biện Sơn Tâ y quâ n vụ , rồ i lạ i sung Tá n lý Tuyên Quang quâ n
thứ .
Nă m thứ 23 (1870) lĩnh Hưng Hó a tuầ n phủ , sau sung chứ c Hưng Hó a tá n lý, rồ i
mắ c bệnh trở về, lạ i là m đồ n điền sứ .
Khi đã đến Hà Nộ i, sá ng hô m sau quâ n thứ Sơn Tâ y đem quâ n Cờ đen đến đá nh,
Gạ c Nhê chết trậ n, phá i viên Phá p rấ t ngờ . Nử a chừ ng việc sắ p hỏ ng thì họ yêu cầ u
phả i rú t quâ n trướ c rồ i định hò a ướ c sau. Đình Tú c cù ng Trọ ng Hợ p nhấ t định
gă ng, trở đi, trở lạ i bà n cã i nhiều lấ n, nó i rằ ng cầ n giao trả thà nh trướ c, hò a hả o
xong thì binh khắ c rú t. Phá i viên Phá p khô ng chịu nghe theo, lạ i dự thả o sẵ n cá c
khoả n hò a ướ c, bắ t phả i theo đú ng yêu cầ u củ a họ . Hà ng ngà y cứ giằ ng co mã i
khô ng quyết. Bấ y giờ Khâ m sai Nguyễn Vă n Tườ ng cù ng vớ i viên Thố ng sứ Phá p là
Phi Lá t từ Gia Định đến bèn họ p nhau bà n định, ổ n thỏ a rồ i ấ n định ngà y giao trả
thà nh. Đình Tú c, khi lâ m sự , cứ lấ y lò ng thà nh thự c xử trí, cho nên cô ng việc cũ ng
đượ c xong xuô i.
Sau đó , xét đến cô ng doanh điền khi trướ c, cho thự c thụ Tổ ng đố c. Đình Tú c cho là
mình già ố m nhiều lầ n dâ ng sớ xin về hưu. Vua dụ giữ lạ i.
Nă m thứ 33 (1880) Tú c lạ i nhắ c đến việc nà y xin hưu trướ c. Vua nó i rằ ng : "Trầ n
Đình Tú c, trướ c đâ y cá i việc tứ tỉnh, đã đem thâ n mạ o hiểm là m việc, thao lượ c tà i
cá n đá ng khen, cho gia hà m hiệp biện đạ i họ c sĩ và sai chọ n ngườ i thay. Đình Tú c
lạ i nó i rằ ng : "Cao Thá p thuộ c Hà Nộ i cù ng nhữ ng nơi liền kề thung lũ ng ở cá c tỉnh
Sơn, Hưng, Thanh, Ninh, xin đặ t nhữ ng đồ n nú i tích trữ lương thự c để tiện việc
phò ng giữ ", vua giao cho đình thầ n bà n.
Nă m ấ y Tú c đượ c vờ i đến bà n việc. Khi và o yết kiến, vua yên ủ i, thă m hỏ i cho mỗ i
thá ng lĩnh nử a lương cũ để chi dù ng và sai quan hữ u tư thỉnh thoả ng thă m nom.
Nguyễn Tấ n
Nguyễn Tấ n, tên tự là Tử Vâ n, ngườ i Quả ng Ngã i. Tổ tiên quê ở Chương Nghĩa, sau
dờ i đi Thạ ch Trụ thuộ c Mộ Đứ c là m nhà ở . Ô ng củ a Tấ n là Cô ng Tuy là m Tri phủ
Kiến Xương, có lỗ i phả i miễn chứ c. Tấ n chă m họ c. Nă m Thiệu Trị thứ 3 (1843) đỗ
hương tiến, bắ t đầ u đượ c bổ giá o thụ , rồ i là m quan Tri huyện, Tri phủ , có tiếng
thanh liêm, cô ng bằ ng. Nă m Tự Đứ thứ 3 (1855) là m Giá m sá t ngự sử , đà n hặ c
nhiều việc hợ p ý vua. Gặ p bấ y giờ biên giớ i Bắc (hà ) khô ng yên, ô ng đượ c sung
chứ c bang biện Hưng Yên tỉnh vụ đã đem quâ n đi giả i vây Đườ ng Hà o, sau đi thự
á n sá t s
Tấ n mớ i đến quâ n thứ , ngắ m hình thế, cấ m bọ n buô n rong, đặ t thêm đồ n bả o (đồ n
có thà nh nhỏ xâ y xung quanh), khai khẩ n đấ t hoang. Rồ i dự ng sá ch có rà o vây xung
quanh, khích lệ quâ n sĩ, đá nh lù a thẳ ng và o sà o huyệt, Man đượ c tin, khô ng ngườ i
nà o khô ng khiếp sợ .
Vua cho là xếp đặ t đượ c thích đá ng, thưở ng cho 1 tấ m khá nh bằ ng và ng tía khắ c 4
chữ "liêm, bình, cầ n, cá n", rồ i thă ng lên chứ c Binh bộ Tả thị lang, vẫ n là m chứ c vụ
cũ . Tấ n xin cứ giữ hà m cũ là m việc để truy chuộ c tộ i cho ô ng cha. Vua dụ rằ ng :
"Giữ phép luậ t củ a nướ c nhà cầ n như thế là phả i. Ngươi có thể là m đượ c cá iện giữ
yên lâ u dà i cầ n đi ngay biên giớ i Bắ c kỳ là m bả o chướ ng lớ n cho nhà nướ c. Thế là
bá o đá p mộ t cách ngoạ i lệ cũ ng đượ c. Nă m thứ 23 (1870) quâ n thứ Bắ c Kỳ luô n
luô n thấ t lợ i. Tấ n xin đi để ra sứ c. Vua ngạ i khô ng có ngườ i thay, khô ng cho đi.
Nă m thứ 24 (1871) Tấ n ố m chết, truy tặ ng Binh bộ Tham tri, ban tế và xét dù ng cá c
con. Vua lạ i thấ y ô ng là m quan thanh bạ ch nhà nghèo, cấ p cho mẹ y mỗ i thá ng 3
quan tiền, 3 phương gạ o; sau lạ i cấ p thêm cho 50 quan để là m ma.
Cô ng thà nh, cô ng tâ m,
Ú y cự c cả m thâ m.
Dịch nghĩa:
Vừ a cô ng thà nh, vừ a cô ng tâ m,
Sợ rấ t mự c, cả m kích thâ m.
Non sô ng bia tạ c,
Lạ i nhữ ng câ u rằ ng :
Hạ nh hữ u Tử Vâ n
Nhâ n tâ m tư chi,
Dịch nghĩa:
Vá ch đá chở m chở m,
May có Tử Vâ n,
Lò ng ngườ i nhớ ơn
Như bia nú i Nghiên (54)
(Bà i củ a Lượ ng Bạ t)
Nguyễn Vă n Phong, tên tự là Hữ u Niên, ngườ i Tuy Viễn thuộ c Bình Định, cù ng vớ i
em là Vă n Nhã . đều có tiếng vă n họ c, ngườ i ta vẫ n chắ c sẽ trở thà nh bậ c đạ i tà i.
Phong thi nhiều lầ n khô ng đỗ , do châ n phủ cố ng và o giá m sinh Quố c tử giá m.
Khoả ng nă m Thiệu Trị (1841-1847) bổ Điển bạ rồ i là m Tu soạ n sung Hoà ng tử bạ n
độ c. Nă m đầ u Tự Đứ c (1848), do chứ c Tư phủ An Nhơn và o là m Giá m sá t ngự sử .
Khi dẫ n và o yết vua, đượ c cấ t lên chứ c Lang trung, rồ i qua là m Quang lộ c tự khanh
tham biện cá c vụ Sau đổ i đi thự Bố chính Nghệ An rồ i bổ Phủ doã n thừ a biện. Nă m
thứ 9 (1856) bổ tuầ n phủ Ninh Bình, chưa bao lâ u thă ng thự Ninh Thá i Tổ ng đố c.
Nă m thứ 17 (1864), bọ n phỉ bên đấ t Thanh lan trà n sang quấ y cá c tỉnh Lạ ng Bắ c,
để đườ ng trạ m khô ng thô ng, bị cá ch chứ c lưu dụ ng. Sau đó cả i bổ Cô ng bộ Thượ ng
thư kiêm Lễ bộ , rồ i lạ i đổ i sang Lạ i bộ kiêm Cô ng bộ . Nă m 21 (1868), đổ i sang là m
Hình bộ thì đượ c miễn việc
"- Cha, cố đạ o khi giả ng đạ o ở hạ t nà o, phả i đến quan sở tạ i trình thự c, nếu có đi lạ i
thă m nom ai, cho đượ c dù ng 1 cỗ võ ng mà u lam, hoặ c 1 con ngự a; khô ng đượ c
tiếm dù ng tà n lọ ng, nghi trượ ng, trố ng khẩ u; khô ng đượ c mang theo quá hơn chụ c
ngườ i. Nhà thờ , khô ng đượ c đà o hà o đắp lũ y.
"- Sứ c rõ cho cá c quan tỉnh, đạ o phủ , huyện phả i cô ng bằ ng xét xử , khô ng đượ c
phâ n biệt đố i xử .
Phong đến tỉnh, đó ng ở trong thà nh. Bọ n Ngô Cô n đến vây ngặ t. Phong cù ng Tổ ng
đố c Bù i Tuấ n bá m sá t lấ y thà nh cố thủ , thờ i vừ a gặ p ô ng ích Khiêm dẫ n viện binh
đến, trong ngoà i giao nhau bắ n. Cô n trú ng đạ n bị thương chết. Phỉ tan, giả i đượ c
vò ng vâ y.
Nă m 24 (1871) vì đến lệ 70, xin về hưu trí. Vua dụ rằ ng : "Việc biên giớ i chưa xong,
cầ n có mộ t vị lã o thầ n để trấ n cho đượ c yên. Phong lạ i lấ y cớ có bệnh cố xin. Vua
bèn cho. Đến nă m 25 (1872) mấ t. Th̔5; 71 tuổ i, truy tặ ng là Hiệp biện đạ i họ c sĩ.
Vă n Nhã , Thiệu Trị nă m thứ 7 (1847) đỗ hương tiến, là m quan đến Bố chính Vĩnh
Long, can việc phả i miễn chứ c. Con Phong là Hữ u Luâ n cũ ng đỗ thi hương, chưa kịp
ra là m quan. Chá u là Hà m Hanh đượ c ấ m thụ Hà n lâ m điển bạ .
Nguyễn Vă n Vỹ
Nguyễn Vă n Vỹ ngườ i Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, là ngườ i trầ m nghị, có mưu lượ c.
Khoả ng nă m Minh Mạ ng vì có vă n họ c, do châ n phủ cố ng và o Giá m đượ c chọ n bổ
dự hạ ng và đã đượ c thă ng Tri huyện Kim Độ ng. Tính ngườ i hà o mạ i thườ ng â n hậ n
vì khô ng đượ c do châ n khoa cử tiến thâ n, lú c rỗ i việc cô ng thườ ng đà n hấ t thích
chí. Rồ i can tộ i ngủ đêm ở nhà cô đầ u bị lộ t chứ c.
Khi đã phụ c chứ c chuyên tâ m về cử nghiệp. Nă m Thiệu Trị thứ 3 (1843) đỗ á
nguyên kỳ thi hương, trả i nhậ m phủ , huyện có tiếng tố t.
Bấ y giờ hai tỉnh Hà Nộ i, Bắc Ninh liền nă m bị vỡ đê. Vua nó i đê chính rấ t có quan
hệ đến lợ i hạ i củ a dâ n, sai đình thầ n chọ n cử ngườ i cầ m cá n, am hiểu, thô ng thạ o
sung là m việc đê. Đình thầ n đồ ng thanh cử Vũ Trọ ng Bình và Vỹ. Vua chuẩ n cho Vỹ
thă ng Thá i bộ c tự thiếu khanh tham biện đê chính.
Nă m thứ 14 (1861) giặ c biển Quả ng Yên rủ nhau tụ họ p đi cướ p bó c, lan đến Hả i
Dương. Vỹ đượ c đổ i sung Khâ m phá i Hả i An quâ n vụ , cù ng vớ i Đề đố c Nguyễn Tiến
Phá t đá nh giặ c ở phủ Kinh Mô n, hạ luô n đượ c 5 đồ n. Việc tâ u lên, vua xuố ng dụ
khen thưở ng, lạ i khuyên ră n rằ ng : "Vỹ vố n giỏ i việc binh, nhưng nên suy nghĩ chín,
đừ ng quen như nhữ ng trậ n thắ ng nhỏ ". Thế rồ i đả ng phỉ phạ m đồ n Cổ Phá p, Lã nh
binh Bù i Quang Chu bị chết. Vỹ, mộ t mình mang quâ n bả n bộ đi trướ c đá nh lui
đượ c giặ c, đượ c cấ t bổ lên chứ c Binh bộ Thị lang tham biện quâ n vụ .
Nă m thứ 18 (1865), 300 chiếc thuyền giặ c biển từ Cá t Bà chia từ ng toá n đến quấ y
nhiễu. Tri Phương lạ i sai Vỹ đố c quâ n đá nh, bắ n chìm đượ c thuyền giặ c, chém
đượ c cừ mụ c giặ c rấ t nhiều. Giặ c cả sợ tan vỡ .
Nă m thứ 19 (1866), Vỹ lạ i đi chợ Chu (tên đấ t thuộ c tỉnh Thá i Nguyên), đá nh phá
đồ n phỉ, bắ t và chém đượ c hơn 80 tên. Khâ m sai Vũ Trọ ng Bình thấ y Vỹ mạ nh giỏ i,
thô ng thạ o, đạ t lý, gặ p việc ứ ng phó đượ c tứ c thì, liền dâ ng sớ xin khai phụ c cho
chứ c Thị độ c lĩnh á n sá t sứ Cao Bằ ng. Vua y cho, rồ i sau chuẩ n cho quyền Bố chá nh.
Nă m thứ 23 (1870) Vỹ sung Bắ c kỳ quâ n thứ thương biện quâ n vụ , dẹp bắ t giặ c, có
cô ng, thứ thầ n lạ i dâ ng sớ xin lượ ng cho khai phụ c. Vua thấ y việc xét nghĩ chưa
xong, thưở ng cho bạ c hậ u và dụ khuyên phả i cố gắ ng. Thá ng 10 nă m ấ y Vỹ ố m chết
ở trong quâ n. Việc tâ u lên, ban cho 100 quan tiền. Đến khi đình thầ n nghĩ cô ng tộ i
củ a cá c tướ ng, viện cá i lệ truy tặ ng củ a Phạ m Chi Hương và Vũ Phạ m Khả i tâ u xin
cho Vỹ. Quan Nộ i cá c cho là Vỹ 2 lầ n bị giặ c bắ t, đượ c giặ c nuô i nấ ng, có hạ i đến
danh tiết, tâ u bá c đi. Vua bả o : "Vỹ bị bắ t 2 lầ n đều do quan quâ n đem về đượ c,
khô ng có tình trạ ng theo giặ c hay là trố n thoá t. Ngườ i xưa 3 lầ n thua bị bắ t, sau
cũ ng cò n phấ n phá t lên đượ c. Nếu trá ch rằ ng khô ng "chết" thì "chết"à khô ng có ích
cho việc, cũ ng có thể nhấ t thiết coi như nhau đượ c. Huố ng chi ngà y thườ ng, Vỹ
cũ ng gian lao nhiều, khô ng may chưa chuộ c đượ c tộ i mà đã chết, há nên khô ng có
mộ t "hà m" để cũ ng đượ c như kẻ khô ng vấ t vả gì sao? Thự c là khô ng nỡ . Vậ y chuẩ n
cho truy phụ c nguyên hà m Thị độ c". Chá u Vỹ là Trinh Mai cũ ng đỗ hương tiến;
Trinh Tú c, Trinh Lý đỗ tú tà i.
Nguyễn Tư Giả n tên tự là Tuâ n Thú c, ngườ i huyện Đô ng Ngà n, Bắ c Ninh (Nay
thuộ c Đô ng Anh, Hà Nộ i). Tiên tổ là Quố c Thự c, buổ i đầ u Lê trung hưng đỗ tiến sĩ,
là m Thá i tể tướ c Lan quậ n cô ng, sau đó đờ i đờ i khanh tướ ng là mộ t nhà có tiếng ở
Giang Bắ c. Ô ng là Á n, buổ i đầ u Gia Long đỗ hương cố ng đã là m qua Tri huyện Tiên
Lã ng. Cha là Tri Hoà n cũ ng đỗ hương tiến, bổ Lang trung Hình bộ . Tư Giả n, khi 20
tuổ i đã nổ i tiếng vă n họ c, Thiệu Trị nă m thứ 4 (1844) đỗ tiến sĩ. Nă m mớ i 22 tuổ i
đã do chứ c tu soạ n Hà n lâ m viện bổ Tri phủ Ninh Thuậ n. Nă m đầ u Tự Đứ c (1848)
bổ cấ p sự trung, ít lâ u đổ i sang Tậ p hiền viện Thị độ c sung Kinh diên khở i cư chú .
Vua nhâ n bà n về quố c sử đến việc Quố c Thự c, khen là cha con truyền nố i vẻ vang
mà giữ mình thanh bạ ch, thậ n trọ ng, có phong cá ch bậ c tướ ng thầ n đờ i xưa. Giả n
giậ p đầ u tạ ơn Vua bả o : "Ngườ i là con chá u bậ c danh thầ n, nên lo nố i dõ i thó i nhà ",
rồ i khen ngợ i vui mừ ng giờ lâ u.
Nă m thứ 14 (1861) thá ng 4, Giả n xin phép về thă m cha mẹ, tế tổ tiên. Bấ y giờ Nhị
Hà luô n hà ng nă m bị vỡ đê, nhữ ng thuyết về bỏ đê, đắ p đê khô ng đến chỗ thố ng
nhấ t. Vua nhâ n vờ i Giả n đến Đô ng các ụ rằ ng : lầ n đi nà y cầ n nhớ lấ y việc trị thủ y
hô m nọ , hỏ i han xem xét cẩ n thậ n sao tìm đượ c chướ c tố t nhấ t để hồ i tâ u. Đến
thá ng 8 phụ c mệnh, ô ng dâ ng sớ cự c lự c nó i về cá i hạ i bỏ đê và nhâ n điều trầ n 10
điều về cô ng việc trị thủ y như sau :
3- Là m bờ đậ p để phò ng nướ c lụ t lớ n.
Sớ tâ u lên, vua giao xuố ng cho quan coi việc bà n bạ c thi hà nh. Mù a đô ng nă m ấ y, do
hà m cũ sung là m biện lý đê chính sự vụ , kiêm việc khơi mở con sô ng Thiên Đứ c
(Tứ c sô ng Đuố ng chả y qua vù ng Bắ c Ninh). Khi và o bệ từ , vua ban cho mộ t bà i thơ
trườ ng thiên để tỏ ý (thơ chép ở Thá nh chế thi tậ p).
Mộ t thờ i gian lâ u, đượ c tiến lên chứ c Lạ i bộ Thị lang, vẫ n sung Đê chính. Gặ p khi
Nam Kỳ có bá o độ ng, ô ng dâ ng sớ bà n về việc cương giớ i, đều đượ c vua cho lưu lạ i
để xét.ă m thứ 15 (1862) phương đô ng bắ c, thổ khấ u phiến độ ng. Giả n đượ c đổ i
là m Tham biện Hả i An quâ n vụ . Em ô ng là Nă ng Á i bấ y giờ đương Tri phủ Diễn
châ u, xin mộ dõ ng theo anh đi đá nh giặ c. Vua cho.
Tư Giả n ở quâ n thứ , gặ p giặ c đã từ ng đá nh bạ i giặ c ở cầ u Phú Thá i. Sau đó thì bọ n
giặ c lan trà n, Giả n bị khép tộ i tham dự việc quâ n khô ng nên cô ng trạ ng gì, bị cấ t
chứ c cho đi tò ng quâ n, bèn bị ố m xin về.
Nă m thứ 18 (1865), Giả n đượ c khở i phụ c là m chứ c Tu soạ n dầ n dầ n thă ng lên
chứ c Tậ p hiền viện Thị độ c, rồ i đổ i sung Hồ ng lô tự thiếu khanh biện lý Hộ bộ .
Vua từ ng hỏ i Giả n về quẻ Khô n trong Kinh Dịch từ chỗ cá c chữ "Khô n nguyên
hanh" đến chỗ cá c chữ "An trinh cá t", bả n nghĩa và truyện khô ng giố ng nhau, cá ch
chấ m câ u cũ ng khá c, đều phả i đoá n định cho rõ , cầ n trả lờ i minh bạ ch. Giả n trả lờ i
cho là lờ i bà n nó i củ a bố n nhà : Dương Giả n đờ i Tố ng, Cù Thị đờ i Minh, Nhâ m Khả i
Vậ n và Đườ ng Thô i Cả nh đờ i Thanh là vă n thuậ n, lý rõ , so ra hơn cá c thuyết khá c.
Vua khen là lự c họ c và có kiến thứ c rồ i cho thă ng mã i đến Hộ bộ tả thị lang quả n
Hà n lâ m viện như cũ .
Tư Giả n là m quan từ khi cò n ít tuổ i, đã từ ng trả i qua nhữ ng chứ c cao sang trọ ng
yếu gầ n 40 nă m. Mỗ i khi triều đình có nhữ ng cuộ c bà n luậ n lớ n lao về vă n điển
sá ch khó khă n, thì phầ n nhiều Giả n đượ c bà n bạ c mà soạ n ra. Giả n có trướ c thuậ t
ra cá c tậ p "Thạ ch nô ng thi vă n", 3 quyển "yên thiều thi thả o", 1 quyển "Yên thiều
vă n thả o", 1 quyển "Trung châ u Quỳnh dao tậ p", 1 quyển "Tiểu tuyết sơn phò ng cổ
lụ c", 1 quyển "Thạ ch Nô ng tù ng thoạ i", 3 quyển "Hà phò ng tấ u nghị". Trướ c ô ng
tên là Vă n Phú , sau đổ i ra tên ngà y nay. Con là Kham nố i nghiệp đạ i khoa. Cá c con
thứ là Cơ, Cả nh, Khả i đều đỗ hương tiến, Chuẩ n, đượ c ấ m thụ kiểm thả o, Viên đỗ tú
tà i Con Cơ là Doã n Thạ c đỗ cử nhâ n.
Cha Kham trướ c nằ m mộ ng thấ y trong mặ t tră ng có chữ "ứ ng mà sinh ra Kham,
nên đặ t tên tự cho Kham là "Ứ ng Tâ n". Kham lú c cò n bé, trầ m tĩnh hiếu họ cTự Đứ c
nă m thứ 24 (1871) đỗ tiến sĩ, bấy giờ Tư Giả n đương giữ việc Nộ i cá c. Ngà y hô m
sau dâ ng biểu tạ ơn, vua nó i rằ ng : "Bố dạ y con là đâ y, nhà nướ c chọ n nhâ n tà i cũ ng
là đâ y, chỉ cò n cá i cha con nhà ngươi gắ ng gỏ i lên mà thô i".
Bắ t đầ u Kham đượ c bổ Hà n lâ m viện biên tu. Tư Giả n nhâ n dâ ng chương xin cho
Kham mộ t hạ n 10 nă m về nhà đọ c sá ch. Vua chuẩ n cho hạ n 5 nă m. Đến khi hết hạ n,
Hả i An Tổ ng đố c Phạ m Phú Thứ lấ y cớ vă n họ c tiến cử Kham. Triệu đến thử , hợ p ý
vua, bèn cho thă ng vượ t lên Hà n lâ m thừ a chỉ sung Hà nh tẩ u Nộ i cá c Ty luâ n sở .
Nă m thứ 31 (1875), hỗ tò ng vua đi chơi nú i Thú y Vâ n (nú i Dụ c Thú y ở Ninh Bình)
đượ c họ a bà i thơ vua là m. Vua xem đến câ u "Hết kinh phong vũ lai thiện thượ ng"
(Bỗ ng sợ gió mưa từ trờ i xuố ng), vua thưở ng câ u nà y và bả o rằ ng "Câ u thơ củ a
ngươi giố ng như câ u củ a cha ngươi (Vạ n khoả nh trong lò ng chưa có bến). Sao
ngươi khô ng bả o cha ngươi lạ i sớ m. Vớ t lạ i lú c xế chiều chưa phả i đã là muộ n,
ngườ i ta ai cũ ng có cá i sở trườ ng. Trẫ m hà ng ngà y vẫ n mong đấy".
Sau đượ c thự Thị giả ng họ c sĩ lĩnh á n sá t sứ Bình Định. Nă m thứ 35 (1882) Kham
đượ c đổ i đi Quả ng Nam, đến nă m sau triệu về Tham biện việc Cá c. Vua có cho bà i
thơ rằ ng :
Dịch nghĩa:
Vă n Đứ c Khuê
Vă n Đứ c Khuê tên tự là Mỹ Phủ , ngườ i Quỳnh Lưu thuộ c Nghệ An. Cha là Đà m đã
Tri huyện Thủ y Đườ ng. Đứ c Khuê, Thiệu Trị nă m thứ 4 (1844) đỗ tiến sĩ, vì mẹ già ,
xin về nuô i phụ ng dưỡ ng. Tự Đứ c đầ u nă m (1848) bổ Biên tu, lĩnh Quả ng Bình đố c
họ c. Nă m thứ 12 (l1857) triệu về là m Hình bộ viên ngoạ i lang. Sang nă m sau đổ i
sang Hà n lâ m viện thị độ c lĩnh Quố c tử giá m tư nghiệp, rồ i thă ng thụ Thị độ c họ c sĩ
lĩnh chứ c Phó sứ đi Yên Kinh (Bắ c Kinh). Khi đến Quả ng Tâ y, vì có giặ c nghẽn
đườ ng lạ i trở về. Nă m thứ 14 (1861), bổ Kinh kỳ đạ o chưở ng ấ n kiêm hạ ch Tô n
nhâ n phủ sự vụ . Gặ p bấ y giờ Nam kỳ hữ u sự , Khuê mộ dõ ng đi theo quâ n thứ Biên
Hò a cù ng vớ i hiệp tá n Thâ n Vă n Nhiếp, Nguyễn Tú c Trưng trù biện việc quâ n, giữ
chỗ hiểm đó n đá nh, luô n luô n ngă n đ địch. Vua xuố ng chiếu khen ngợ i khuyến
khích và bổ Lang trung Binh bộ , Tham tá n quâ n vụ . Rồ i sau Biên Hò a khô ng giữ
đượ c, bị phạ t lộ t chứ c cho đi Gia Định hộ i đồ ng vớ i Tuầ n phủ Đỗ Quang, lã nh binh
Trương Định, Bố chính Đỗ Thú c Tĩnh, Á n sá t Nguyễn Vă n Nhã tậ p hợ p quâ n nghĩa
dũ ng để hiệu lự c. Quâ n thứ đạ i thầ n Nguyễn Tri Phương muố n tâ u xin giữ Khuê lạ i
theo giú p việc quâ n thứ . Nhưng Khuê từ chố i, lén tìm đườ ng đi Gia Định cù ng vớ i
cá c quan tậ p hợ p nghĩa binh, sử a sang sú ng ố ng, khí giớ i chờ khở i sự . Gặ p khi hò a
nghị thà nh, rú t ô ng về, bổ chứ c Hồ ng lô tự khanh lĩnh Phủ sứ Phú Yên. Lú c nà y
đương đó i, Khuê tậ n tâ m trù tính việc chẩ n cấ p, dâ n nhờ vậ y đượ c qua cơn đó i.
Nă m thứ 16 (1863) triệu về biện lý Hình bộ sự vụ . Bấy giờ ở Hả i Yên, giặ c biển
đương bà nh trướ ng, vua cho Khuê là m hộ lý Hả i Yên tuầ n phủ quan phò ng.
Đứ c Khuê khi cò n nhỏ mồ cô i bố , thờ mẹ rấ t hiếu, là m quan thờ i thanh liêm kiện
ướ c, Khuê từ ng bả o con rằ ng : "Ta khô ng phả i khô ng biết gâ y dự ng sả n nghiệp cho
cá c ngươi, nhưng đã khô ng có đứ c để lạ i cho con chá u, thì cũ ng khô ng muố n chứ a
củ a bấ t lương để lạ i mố i nguy cho chú ng về sau”. Ô ng vố n tên là Giai, sau đượ c vua
ban cho tên hiện nay. Con là Sỹ, do châ n ấ m sinh đượ c bổ tặ ng chứ c Kiểm thả o. Con
thứ là Thù y
n>
Phan Đình Tuyển tên tự là Thuấ n Cử , ngườ i La Sơn thuộ c Hà Tĩnh. Thiệu Trị nă m
thứ 4 (1844) trú ng Ấ t khoa (phó bả ng) kỳ thi Hộ i. Bắ t đấ u bổ Hà n lâ m viện kiểm
thả o. Đượ c bổ qua Giá m sá t ngự sử và Tô n nhâ n phủ lang trung rồ i cấ t lên chứ c á n
sá t sứ Bắ c Ninh, rồ i có tang nghỉ việc. Sau đượ c bổ Biện lý Lạ i bộ sự vụ rồ i chuyển
sang Hổ ng lô tự khanh lĩnh Kinh triệu Doã n. Hồ i giữ a niên hiệu Tự Đứ c, do châ n
Bắ c Thứ tá n lý lên lĩnh chứ c Lạ ng Sơn tuầ n phủ . Bấy giờ giặ c phỉ ở Quả ng Tâ y lan
trà n, thà nh Lạ ng ở giữ a chỗ xung yếu. Đình Tuyển cầ m quâ n đó ng giữ bị giặ c giết,
đượ c truy thụ tuầ n phủ . Nă m thứ 32 (1879) đượ c liệt thờ ở Trung nghĩa từ Có 3
ngườ i con : Đình Vậ n, đỗ phó bả ng, Đình Phù ng đỗ tiến sĩ, Đình Thuậ t đỗ cử nhâ n.
Cá c anh là Vă n Nhã , Vă n Phong, Vă n Dư cũ ng đỗ đạ t có tiếng.
Phạ m Ý
Phạ m Ý , trướ c tên là Vă n Tườ ng, ngườ i Quả ng Điền, Thừ a Thiên. Thiệu Trị nă m
thứ 4 (l844), trú ng Ấ t khoa kỳ thi hộ i, do châ n kiểm thả o qua là m Tri huyện An
Ngã i, Tri phủ Quả ng Hó a, và o là m Ngự sử rồ i thă ng chứ c Chưở ng ấ n. Tự Đứ c nă m
thứ 12 (1857), lĩnh Khá nh Hò a á n sá t rồ i chuyển sang á n sá t Gia Định. Nă m thứ 14
(1861) tỉnh thà nh hữ u sự , đạ i đồ n bị thấ t thủ , ý bị cá ch chứ c lưu dụ ng đổ i về biện
lý Cô ng bộ . Chưa bao lâ u thự chứ c Bố chính sứ Bình Thuậ n. Nă m thứ 21 (1868) bổ
Hộ bộ thị lang kiêm quả n Thô ng chá nh sứ . Bấy giờ việc quâ n cá c tỉnh Bắc kỳ đương
khẩ n cấ p, vua sai ý cù ng vớ i Ngự sử Hồ Trọ ng Dĩnh đi xem xét tình hình phỉ, tình
hình dâ n và quâ n ta quâ n Thanh và tình trạ ng hiện hà nh củ a cá c tỉnh, để về tâ u.
Nă m thứ 24 (1871) ô ng là m thự Cô ng bộ tham tri rồ i bổ Tuầ n phủ hộ lý Bình Phú
Tổ ng đố c, vì mẹ già xin về gầ n phụ ng dưỡ ng, đượ c đổ i bổ tham tri Hình bộ . Nă m
thứ 26 (1873) thự Tổ ng đố c Hả i An. Bấ y giờ tỉnh thà nh mớ i hữ u sự xong. Ý là
ngườ i phá t thự c là m việc cầ n đượ c thiết thự c, quan Đạ i Phá p cũ ng tin. Chưa đầ y
mộ t nă m, và o thự Thượ ng thư Cô ng bộ kiêm quả n Quố c tử giá m. Nă m thứ 28
(1875) đổ i thự Tổ ng đố c Bình Phú . Nhâ n đượ c triệu tờ sắ c nó i rằ ng : "Bình. Định là
địa phương lớ n ở Tả kỳ, thự c khó đượ c ngườ i bổ nhiệm. Ngườ i là m việc ở đấ y nên
như hồ i ở Hả i Dương là xứ ng đá ng chứ c vụ . Cứ nên lấ y cô ng bằ ng, thanh liêm là m
că n bả n, khô ng để Trầ n Vă n Nhiếp riêng có tiếng tố t ở trướ c mắ t mình". Lạ i bả o
rằ ng : "Trầ n Bình trướ c là m việc ở Hà Nộ i, trẫ m từ ng đem bài thơ cổ (là ng ấ y nhiều
ngọ c bá u. Thậ n trọ ng đừ ng chá n cả nh thanh bầ n) dụ bả o, nhưng khô ng hề chịu
nghe ta. Đến khi đi Sơn Tâ y để sinh tai tiếng. Việc đã qua khô ng nó i là m gì, nhâ n
tiện thì phà n nà n thô i". Khi Ý đã đến nhậ m chứ c trù tính tâ u bày việc cơ mậ t quâ n
thứ và xin hợ p hai đạ o quâ n tĩnh man ở Quả ng Ngã i, Bình Định là m quâ n thứ Ngã i
Định. Vua nghe lờ i.
Nă m thứ 31 (1878) tiết Ngũ tuầ n đạ i khá nh, đượ c gia hà m Hiệp biện đạ i
họ sĩ. Nă m thứ 33 (1880) mấ t ở nơi là m việc, cấ p cho mộ t nghìn quan tiền, hai câ y
gấ m tà u, sai quan ban tế. Có hai ngườ i con, ngườ i cả là Doã n Khá nh là m thô ng
phá n; ngườ i thứ là Doã n Hoà i đỗ tú tà i, đã là m đến chứ c Tư vụ .
Phan Trung
Phan Trung tên tự là Tứ Đan, tên hiệu là Bú t Phong, trướ c tên là Cư Chính. Tổ tiên
ngườ i ở Phướ c Kiến (Trung Quố c). Tổ bố n đờ i sang nướ c Nam là m nhà ở Ninh
Thuậ n thuộ c Khá nh Hò a. Trung là ngườ i cương nghị có khí tiết. Thiệu Trị nă m đầ u
(1841) đỗ hương tiến đã Tri huyện Tâ n Thịnh, vì có mẹ già xin về phụ ng dưỡ ng.
Sau vì phá t ra việc tranh tụ ng bị cách chứ c.
Nă m thứ 32 (1879) tiết Thấ t tuầ n đạ i khá nh, Trung đượ c sung là m Tả trự c kỳ
khâ m điểm (60). Vua cho vờ i và o điện riêng, Trung tâ u thưa từ ng khoả n tườ ng tậ n.
Vua khen là ngườ i trung nghĩa khả ng khá i, cho bạ t bổ Thị lang Hộ bộ , vẫ n sung
chứ c điền nô ng sứ . Nă m thứ 36 (1883) triệu về Kinh. Nă m đầ u Kiến Phướ c (1884)
vì tuổ i già xin về nghỉ rồ i mấ t nă m 71 tuổ i. Khi ở Kinh sư tiễn châ n Trung, nhà thơ
có tiếng đương thờ i như hiệp biện Bù i An Liên cũ ng có tặ ng thơ và Trung họ a
rằ ng :
Dịch nghĩa:
Ngườ i Thượ ng Phướ c, Hà Nộ i (Nay là Thườ ng Tín, tỉnh Hà Tâ y), lú c nhỏ thô ng
minh.
Thiệu Trị nă m thứ 3 (1843 ) đỗ hương giả i. Buổ i đầ u Tự Đứ c bổ Thanh Trì huấ n
đạ o, thă ng Giá o thụ phủ Thá i Bình rồ i nhâ n ố m xin nghỉ. Nă m thứ 26 (1873) đượ c
đình cử là ngườ i vă n họ c, hạ nh kiểm đứ ng đắ n, bổ Đố c họ c Nam Định, sau ố m về
rồ i mấ t nă m 66 tuổ i.
Trí Trạ ch có tiếng là thờ cha mẹ có hiếu, tính điềm đạ m, xử thâ n, tiếp xú c vớ i ngườ i
nhấ t thiết theo lễ; việc giả ng tậ p cà ng chă m chỉ. Trạ ch từ ng bả o : dạ y ngườ i khô ng
ngoà i qui củ việc họ c cố t ở nghiên cứ u kinh sá ch, vă n chương cầ n có că n cứ và tao
nhã , là điều trướ c hết. Họ c trò bố n phương theo về nhiều.
Lạ i cò n Lê Như Dạ ng, Ngô Xuâ n Kinh, Lê Huy Tiến, đều là ngườ i cù ng huyện vớ i
Huy Khiêm. Như Dạ ng, Tự Đứ c nă m thứ 11 (1858), châ n cử nhâ n đượ c bổ Tri
huyện Tứ Kỳ rồ i chuyển đi Tri phủ Lâ m Thao, sau lĩnh Lang trung Lạ i bộ . Nă m thứ
30 (1877) đượ c cấ t lên chứ c á n sá t sứ Lạ ng Sơn rồ i lạ i thă ng Bố chính sứ sung Tam
Tuyên tá n lý quâ n vụ . Hồ i đầ u niên hiệu Đồ ng Khá nh (1886) lĩnh Tuầ n phủ Ninh
Bình, rồ i ố m chết.
Tự là Nguyên Bưu, ngườ i Vĩnh Lộ c thuộ c Thanh Hó a. Thiệu Trị nă m thứ 3 (1843)
đỗ hương tiến. Tự Đứ c nă m thứ 7 (1854) bổ Hà Nộ i kinh lịch, rồ i trả i qua Tri huyện
Thạ ch An, Thủ y Đườ ng kế đó cấ t lên chứ c Đồ ng tri lĩnh tri phủ Ninh Giang. Nă m
thứ 16 (1863) triệu về là m Sử quá n biên tu. Mộ t thờ i gian lâ u, đi lĩnh đố c họ c
Quả ng Bình, chuyển về Lang trung Cô ng bộ , rồ i bổ á n sá t Khá nh Hò a. Sau đó đổ i
là m Hồ ng lô tự khanh sung chứ c Sử quá n toả n tu. Huy Bính sớ m nổ i danh là ngườ i
tà i trí, là m quan suố t gầ n 30 nă m, đến lú c tuổ i già đượ c bổ nhiệm và o chứ c vụ
trong Sử quá n, thờ i bị bệnh về, rồ i mấ t nă m 84 tuổ i. Con là Khai, đỗ tú tà i.
>
Dương Do��n Hà i
Tự là Ngu Doã n, ngườ i Quỳnh Lưu thuộ c Nghệ An. Tổ bố n đờ i là Lệ, đỗ chế khoa
đờ i Lê, là m Hữ u thị lang Lạ i bộ . Doã n Hà i lú c trẻ thô ng minh lanh lợ i, Tự Đứ c nă m
thứ 3 (1850) đô hương giả i, bổ Hà n lâ m viện kiểm thả o. Khoả ng đầ u niên hiệu Tự
Đứ c bổ Tri huyện Bấ t Bạ t rồ i thă ng Tri phủ Thă ng Bình, hết lò ng là m việc, đượ c
dâ n phủ ca tụ ng. Nă m thứ 2 (1856) đi thự Đố c họ c Bình Định. Gặ p bấy giờ Nam kỳ
hữ u sự , Tổ ng đố c Phạ m Quỹ cử Hà i đi thương nghị việc tỉnh, mộ họ c trò củ a mình
lậ p là m nghĩa hiệu (62). Nă m thứ 12 (1857) chuyển về Lang trung bộ Cô ng quả n
đố c việc quâ n phò ng thủ đồ n Thừ a Phướ c. Rồ i sau bổ Thị độ c họ c sĩ lĩnh á n sá t
Thanh Hó a, chưa bao lâ u đổ i đi Ninh Bình. Bấy giờ ở Nho Quan, Thổ khấ u nổ i lên,
Hà i hết sứ c dẹp yên, đượ c thưở ng thă ng thụ á n sá t sứ quyền chưở ng ấ n quan
phò ng tuầ n phủ , rồ i lạ i do châ n Hổ ng lô tự khanh lĩnh Bố chính sứ Thanh Hó a.
Nă m thứ 17 (1864) triệu về là m hộ lý Vũ khố lang trung sung tá n lý Hả i An quâ n
thứ . Bị ố m xin nghỉ thì gặ p can việc bị mấ t chứ c về.
Hồ Sỹ Tuầ n
Tự là Tử Thuậ n, ngườ i Quỳnh Lưu thuộ c Nghệ An. Thiệu Trị nă m thứ 4 (1844) đỗ
tiến sĩ. Do châ n Hà n lâ m bổ đi Tri phủ Quả ng Oai. Hồ i đầ u niên hiệu Tự Đứ c (1840),
chuyên và o Lang trung Lễ bộ , thă ng Thị giả ng họ c sĩ sung Sử quá n toả n tu. Nă m
thứ 14 (1861), Quả ng Yên có giặ c, do hà m ấ y đi thự Quả ng Yên tuầ n phủ . Sỹ Tuầ n
đến nhậ n chứ c, sử a đắ p thà nh trì, vỗ yên nhâ n dâ n, đem quâ n dẹp bắ t, bọ n giặ c
liền rú t lui về Vạ n Ninh. Sang nă m sau Tuầ n lạ i cầ m quâ n tiến đá nh, cả phá đượ c,
rồ i bỗ ng bị ố m mà chết.
Vua bả o : "Sỹ Tuầ n đó ng giữ mộ t thà nh trơ trọ i, có cô ng trạ ng xá c thự c, cho truy
thụ Bố chá nh sứ , nguyên hà m thự Quả ng Yên tuầ n phủ như cũ ”. Con là Bác, Tâ n,
đều đỗ tú tà i. Tâ n là m quan đến chứ c Kinh lịch.
="0">
Ngườ i Hương Thủ y, Thừ a Thiên. Bố là m Ngự y ngoạ i khoa. Tiến Chẩ n, thâ n thể to
lớ n khỏ e mạ nh, sứ c ă n khỏ e gấ p 7, 8 ngườ i. Từ bé quen bơi lộ i, trô ng mâ y, trô ng
tră ng biết trướ c đượ c gió mưa. Thiệu Trị nă m thứ 3 (1843) và o lính thủ y. Nă m thứ
5 (1845), vua ra cử a Thuậ n An. Bấ y giờ giữ a tiết Tiểu mã n, bã o nổ i lên, dâ y kéo
thuyền ngự bỗ ng đứ t. Nhữ ng vệ sĩ hỗ tò ng sợ luố ng cuố ng khô ng biết là m thế nà o.
Tiến Chẩ n liền xuố ng nướ c kéo đầ u dây nố i lạ i, đượ c vô sự . Vua rấ t lấ y là m lạ , khi
trở về, xuố ng sắ c ban khen và chuẩ n cho thự c thụ độ i trưở ng.
Phan Thú c Trự c ngườ i Yên Thà nh, Nghệ An, tổ bố n nă m đờ i đều đỗ hương cố ng
triều Lê, cha là Vũ gặ p lú c Lê Mạ t, N49;n dậ t họ c tậ p. Rồ i đầ u niên hiệu Gia Long,
nhiều lầ n lên trườ ng quâ y trướ ng dạ y họ c, kinh sử thườ ng ngà y từ ng đọ c thuộ c
lò ng, ngườ i ta đều tô n là bậ c họ c rộ ng. Thú c Trự c ở nhà họ c cha, thô ng minh, xem
rộ ng, nổ i tiếng hay chữ . Hồ i lâ u đi thi hương luô n bị quan trườ ng đá nh hỏ ng. Trự c
bèn lấ y châ n tú tà i sung cố ng sinh và o họ c trườ ng Quố c Tử Giá m. Thiệu Trị nă m
thứ 7 (1847) đỗ nhấ t giá p tiến sĩ cậ p đệ đệ tam danh, đượ c bổ Hà n lâ m viện trướ c
tá c. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) đượ c và o Nộ i cá c, rồ i thă ng Tậ p hiền viện thị độ c sung
Kinh diên khở i cư chú . Vâ ng mệnh là m thơ vă n, luô n đượ c vua khen ngợ i . Nă m thứ
4 (1851), vâ ng chiếu đi Bắ c Kỳ tìm kiếm sá ch vở xưa cò n lạ i. Nă m sau về tớ i Thanh
Hó a thì ố m chết, đượ c truy thụ Thị giả ng họ c sĩ.
">
Trịnh Lý Hanh
Lý Hanh, trướ c tên là Đình Thá i, sau đổ i ra tên nà y. Nhữ ng ngườ i cù ng mộ t địa
phương vớ i Lý Hanh đỗ đạ t kẻ trướ c ngườ i sau cù ng mộ t thờ i bấ y giờ là :
Vũ Vă n Lý, ngườ i Nang Xang, đỗ đồ ng tiến sĩ, Thiệu Trị nă m đầ u (1841) là m chứ c
Tế tử u.
Trầ n Vỹ, Nguyễn Hữ u Tạ o, ngườ i Từ Liêm, đều đỗ khoả ng nă m Thiệu Trị : Vỹ, do
chứ c thị giả ng đi t Đố c họ c Hà Nộ i, Tạ o thă ng mã i đến Bố chính sứ Sơn Tâ y.
Hoà ng Đình Chuyên và em là Đinh Tá , ngườ i Thanh Trì. Đình Chuyên đỗ tiến sĩ Tự
Đứ c nă m thứ 2 (1849), là m đến á n sá t tớ i bị giá ng chứ c đổ i đi lĩnh Đố c họ c Ninh
Bình. Đình Tá , tiến sĩ Thiệu Trị nă m thứ 2 (1842) cuố i cù ng là m đến Tri phủ Nghĩa
Hưng.
Trịnh Xuâ n Thưở ng
Xuâ n Thưở ng tính bướ ng, cho nên suố t 19 nă m trờ i bị chìm đắ m ở hà ng quan
dướ i. Sau đượ c bổ đi á n sá t Sơn Tây, bị việc phả i đổ i xuố ng chứ c, lạ i và o là m đà i
lang, chưa đến nhậ n chứ c thờ i mấ t, thọ 56 tuổ i. Vua lấ y là m tiếc, truy phụ c cho
chứ c cũ .
t>
Nguyễn Vă n Hiển
Tự là Doã n Trai, ngườ i tỉnh Quả ng Trị. Tổ 3 đờ i dờ i đến huyện Phù Cá t thuộ c Bình
Định. Cha là Vă n Sỹ, châ n cử nhâ n là m quan đến tri huyện.
Vă n Hiển đỗ nhị giá p tiến sĩ Thiệu Trị nă m thứ 7 (1847), bổ Hà n lâ m viện tu soạ n.
Tự Đứ c nă m đầ u (1848) qua là m Tri phủ Kiến Tườ ng rồ i sau đổ i đi Tri phủ Điện
Bà n thuộ c Quả ng Nam. Hiển gặ p việc quyết đoá n sá ng suố t, lạ i và dâ n đều tín phụ c.
Quan tỉnh là Lê Dầ n, Đặ ng Kham vố n vẫ n khen ngợ i, biết rõ và là m sớ tiến cử lên.
Gặ p nă m thu hoạ ch kém, Hiển trù nghĩ mấ y điều cứ u đó i, phầ n nhiều đượ c, quan
tỉnh đem dù ng. Phủ Trị (Điện Bà n) kiêm lý cả hạ t Diên Phướ c. Nhữ ng dâ n nghèo
khổ , già yếu, Hiển đem xét hỏ i trướ c, chia ra hạ ng nghèo khổ nhấ t, nghèo khổ vừ a,
lậ p sẵ n danh sá ch, rồ i khuyến quyên đượ c hơn 2 vạ n quan để cấp giú p. Thó c kho
cho lĩnh thì lự a đấ t đặ t ra trườ ng lĩnh, că n cứ danh sá ch chia thà nh khu, xét tên yết
biển, tù y theo nơi ở xa gầ n mà ấ n định cho giờ khắ c tớ i lĩnh. Dâ n nghèo lấ y là m
tiện. Quan tỉnh khen là trù hoạ ch xếp đặ t đượ c kỷ cà ng, nên ơn trạ ch đượ c vớ i tay
kẻ nghèo. Tuầ n phủ Gia Định Phạ m Thế Hiển vâ ng mậ t chỉ về mậ t xét tình hình
Quả ng Nam, cho là cá i việc Hiển xử trí đố i vớ i dâ n nghèo nó i trên rấ t có chính
thuậ t, đem việc tâ u lên. Vua ban khen, cho cấ t lên chứ c Hà n lâ m thị độ c vẫ n lĩnh
phủ ấ y, để khuyến khích cho kẻ hết lò ng về việc dâ n. Sau vì có bà tuổ i già , tâ u bày
xin về phụ ng dưỡ ng. Ngoà i thì giờ chă m só c thă m nom bà , lạ i dạ y hượ c thà nh tự u.
Tổ ng đố c Bù i Quỹ dâ ng sớ cử ngườ i họ c thứ c phẩ m hạ nh đứ ng đắ n, lạ i bổ dụ ng
Hiển là m đố c họ c, họ c trò cà ng đô ng. Đến khi bờ biển hữ u sự , Hiển là m bang biện
Thi Nạ i quâ n vụ . Khi việc yên, đượ c thưở ng thụ Hà n lâ m viện thị giả ng họ c sĩ, rồ i
sau thă ng á n sá t sứ Quả ng Ngã i. Vua bả o : Nguyễn Vă n Hiển ngà y thườ ng bà n luậ n
rấ t có mưu cơ thao lượ c, cho đổ i sung Biên Hò a quâ n thứ tá n tương. Sau thă ng lĩnh
Thừ a Thiên phủ doã n, chưa kịp tớ i lỵ sở có chỉ cho đổ i lĩnh Tuyên phủ sứ đạ o Phú
Yên. Rồ i mấ t và o nă m 39 tuổ i, truy tặ ng Phú Yên Tuyên phủ sứ . Hiển có là m ra
quyển "Đồ bà thà nh ký" và quyển "Bình Định, Phú Yên, Quả ng Nam đạ o chí”. Em là
Vă n Chính, Vă n Dĩnh, con là Vă n Ngoan, đều đỗ cử nhâ n, đờ i đờ i có vì vă n họ c đượ c
hiển đạ t.
s New Roman">
Trầ n Nhượ ng
Nă m thứ 33 (1880), Nhượ ng thă ng Tuầ n phủ Thuậ n Khá nh. Rồ i lạ i đổ i đi (tuầ n
phủ ) Nam Ngã i, dâ ng sớ xin cấ m chỉ đồ ng tiền khá c hình dá ng để phò ng mố i tệ, ổ n
định lò ng dâ n. Lạ i nêu rõ cho là Hộ bộ là m khô ng đú ng. Quan bộ cũ ng dâ ng sớ cã i.
Vua cho rằ ng về việc tả i tiền, trướ c xin cấ m, sau lạ i xin cho phép, tiền hậ u bấ t nhấ t,
quan bộ cũ ng khô ng trá nh đượ c lỗ i. Cò n như tiền thuế, quan tỉnh khô ng chịu tuâ n
mà trích thu thì cũ ng là dự a nhau. Vậ y đều phạ t giá ng cấ p lưu dụ
Thú c Nhẫ n, trướ c tên là Bình, sau đổ i ra tên nà y, tên tự là Hy Nhâ n. Đỗ hương tiến
Tự Đứ c nă m thứ 20 (1867) thă ng mã i đến Tham tri Lễ bộ . Hồ i phế đế (Hiệp Hò a)
sai đi cử a Thuậ n thương nghị giả ng hò a vớ i phá i viên Đạ i Phá p. Đến khi Hả i thà nh
khô ng giữ đượ c, phẫ n uấ t nhả y xuố ng sô ng tự tử .
>
Phan Hữ u Tự
Nă m thứ 9 (1856) vì có mẹ già đã 70 tuổ i, xin về phụ ng dưỡ ng. Quan tỉnh tỉnh ấ y
xét là ngườ i là m quan thanh liêm kiệm ướ c, dâ ng sớ xin cho đổ i về Diễn Châ u ở
nguyên quá n giả ng dạ y để tiện việc trô ng nom mẹ già . Vua cho phép. Qua nă m thứ
10 (1857), có đặ c chỉ cả i bổ là m Tri huyện Đô ng Sơn ở tỉnh bên cạ nh, để đượ c ở
gầ n phụ ng dưỡ ng mẹ già , vì thương cả nh nhà thanh bạ ch, muố n cho lấ y lương để
nuô i mẹ. Rồ i sau thă ng lĩnh Tri phủ Thiệu Hó a cù ng hạ t; dâ n rấ t đượ c vui vẻ quan
tỉnh luô n luô n xin cho thă ng chứ c. Nă m thứ 14 (1861) thă ng bổ đồ ng tri phủ rồ i
sung chứ c phâ n khả o trườ ng Thừ a Thiên. Xong việc lạ i về sung chứ c như cũ .
Huy Liễn là ngườ i chá u họ con thứ ba trong phá i họ Hữ u Tự , hiệu là Uẩ n Trai. Tổ 4
đờ i là châ n sinh đồ trong thờ i Lê. Tô e 5 đờ i là Doã n Cầ u, là m đồ ng tri ở Gia Hưng.
Cha là Đứ c Hà m, đỗ 5 khoa tú tà i trong khoả ng Gia Long, Minh Mạ ng, sau vì có chá u
là Huy Quá n quan to do đó đượ c tặ ng Triều liệt đạ i phu Hà n lâ m thị độ c họ c sĩ. Huy
Liễn là con thứ ba, lú c cò n trẻ đi theo Hữ u Tự , có tiếng về vă n họ c, phẩ m hạ nh.
Thiệu Trị nă m đầ u đỗ tú tà i. Khoa Nhâ m tý Tự Đứ c thứ 5 (1852), cả 3 anh em cù ng
đỗ hương tiến bả ng giá p, bả ng ấ t. Sau ở lạ i quê họ c tậ p và dạ y họ c kể có hơn 10
nă m, họ c trò theo đến họ c nhiều, có kẻ hiển đạ t. Kịp tớ i khi đến lệ đượ c ra là m việc,
đượ c sung là m giả ng tậ p trong phủ Phù Cá t Thuậ n cô ng. Sau bổ đi Huyện doã n Kim
Độ ng, có tiếng liêm, cầ n. Khi tớ i nhậ m mớ i đượ c hơn tră m ngà y, mộ t hô m gầ n nử a
đêm, Liễn nghe phía ngoà i huyện lỵ có tiếng ồ n à o như có quan quâ n, thâ n ra tuầ n
xét thì im lặ ng khô ng thấ y gì cả , bèn về ngủ . Đượ c mộ t lú c, khô ng bệnh tậ t mà mấ t.
Quan thượ ng ty cù ng dâ n hạ t khô ng ai lấ y là m lạ , lạ i yêu mến mà thương tiếc, cấ p
giú p và mang về quê chô n cấ t đượ c ưu hậ u.
Huy Liễn là ngườ i thà nh thự c đứ ng đắ n, cho nên lú c chết cũ ng khá c. Sau vì con là
Huy Quá n hiển quí, nên đượ c tặ ng Trung nghị đạ i phu Thá i bộ c tự khanh. Con thứ
có cô ng đượ c thưở ng hà m cử u
Nguyễn Tạ o
Tự là Thă ng Chi, ngườ i Lễ Dương, Quả ng Nam. Cha tên là Đạ o, có tiếng khen là nhà
dò ng dõ i phẩ m hạ nh nhâ n nghĩa. Tạ o lú c trẻ có tiếng hay chữ , Thiệu Trị nă m thứ 6
(1846) đỗ hương tiến, 6 lầ n đến lễ vi (thi hộ i) đều bị hỏ ng. Tự Đứ c nă m thứ 15
(1862) mớ i đượ c do lệ tuổ i bổ Huấ n đạ o huyện Gia Lộ c. Nhâ n có việc đổ i bổ đi
Hương Trà . Sau thă ng Biên tu, sung Tậ p hiền viện khở i cư chú , giữ việc chú thích
cá c thơ và sử vua là m ra cù ng biên tậ p các sá ch sử yếu. Nă m thứ 18 (1865) đổ i lĩnh
huyện Phù Cá t. Huyện nà y mớ i đặ t, đấ t rừ ng rậ m có nạ n hổ bá o, lạ i lắ m trộ m giặ c,
từ trướ c vẫ n phá i quan quâ n đến đó ng. Tạ o tậ n tâ m vỗ yên, lưu nhậ m đượ c 3 nă m
thì ruộ ng đấ t mở mang, trộ m giặ c yên, nạ n hổ cũ ng hết. Bấy giờ có 2 thô n An Lạ c,
Vĩnh Thắ ng nhiều đinh, ít ruộ ng, Tạ o khuyên bả o đượ c.thô n Chính Lộ c đem 25
mẫ u cô ng điền nhượ ng cho. Quan tỉnh là Thâ n Vă n Nhiếp đề cử là hạ ng tô i xuấ t sắ c,
đượ c dụ ban khen, hậ u thưở ng cho mộ t tấ m "Liêm, Bình, Cầ n, Cá n" nhị hạ ng tử kim
khá nh lạ i thă ng thụ chứ c yếu khuyết (65) tri phủ , giao cho bộ bổ ngay và khô ng lụ c
đi chó cá c thú lệnh trong kinh và cá c tỉnh biết việc khuyến khích đặ c cá ch đó .
Bấ y giờ Hữ u Tạ o đã có chỉ lĩnh chứ c Lạ i khoa cấ p sự trung, chưa kịp nhậ n chứ c,
liền cả i bổ đi phủ Hoà i Đứ c. Qua mộ t nă m, thă ng Thị độ c lĩnh á n sá t sứ Hả i Dương.
Cá c phủ huyện Nam Sá ch, Đô ng Triều trong tỉnh hạ t bị bọ n phỉ ngườ i Thanh là
Tă ng Á Trị quấ y nhiễu, quan quâ n đương tiến đá nh. Tạ o vậ n lương tiếp tế, lạ i cù ng
vớ i Tá n lý Ô ng Ích Khiêm. Đề đố c Đặ ng Duy Ngọ mang lính dõ ng quầ y đá nh, cả phá
đượ c thưở ng 1 đồ ng Tam thọ kim tiền. Nă m thứ 25 (1872) có tang cha đờ i chứ c.
Khi hết tang, thă ng thụ Thị độ c họ c sĩ sung biện cá c vụ . Nă m thứ 27 (1874), Phạ m
Như Mạ i, Nguyễn Tấ n ở Nghệ An và Nguyễn Hà m ở Hà Tĩnh lậ p thể ỷ giố c gâ y biến
loạ n, thà nh Hà T nít thấ t thủ . Vua cho là Quả ng Bình tiếp giá p, cầ n phả i đề phò ng,
đá nh dẹp. Tạ o là ngườ i am hiểu lã o luyện, đượ c thă ng bổ Bố chá nh tỉnh nà y, chưa
bao lâ u thờ i đổ i đi Nam Định.
Tạ o từ ng nhâ n khi tâ u việc kèm việc xin cho kinh lý miền nú i Quả ng Nam, vì cho
rằ ng miền thượ ng du hạ t nà y, mộ t giả i tá giang từ đồ n Bả o Định đến đồ n Phướ c
Sơm rừ ng gò hoang vu phầ n nhiều là rộ ng rã i mà u mỡ . Xin đặ t nha sơn phò ng,
chọ n ngườ i địa phương giỏ i giang trô ng coi cô ng việc, trích hương binh đến đó ng
để khai khẩ n và lượ ng tha nhữ ng tù tộ i cho đến ở để khẩ n khoang. Hiểu dụ nhữ ng
thâ n hà o vậ t lự c nếu ai tình nguyện mộ điền tố t, sắ m lấ y đổ vậ t, lương thự c, điền
khí, dồ n lậ p thà nh độ i ngũ , đặ t ngườ i cai quả n đưa đến khai khẩ n, đều chiểu lệ có
thưở ng có phạ t. Vua y lờ i xin, cho Tạ o là ngườ i tố t, giỏ i mà có lò ng, cho đổ i lĩnh
chứ c ấ y. Hô m bá i mạ ng ra đi đượ c vua phê bả o rằ ng: "Ngươi chuyến nà y nên là m
thế nà o sớ m đượ c thà nh hiệu, khiến cho dâ n ngà y thêm đượ c vui về điều lợ i". Khi
Tạ o đến sơn phò ng, lạ i dâ ng sớ xin lấ p sô ng Vĩnh Điện, mở sô ng á i nghĩa. Bấ y giờ
nhâ n có hạ n mấ t mù a, Tạ o trù tính xin 8 điều :
1- Ngă n giữ nhữ ng nơi danh sơn để giữ gìn địa mạ ch.
6- Cấ p chẩ n để đỡ tú ng đó i cho dâ n.
Tạ o là ngườ i thanh liêm giỏ i giang, là m quan ở đâ u đều có tiếng tố t, đượ c vua phê
rằ ng: "Quan giỏ i hiếm có ". Lạ i có dụ rằ ng "Ai thanh liêm tà i giỏ i đượ c như Nguyễn
Tạ o thờ i hậ u thưở ng". Tạ o vố n đượ c vua phâ n biệt yêu mến là như vậ y đó . Khi tuổ i
già xin kinh lý mọ i việc là có lò ng cá ng đá ng cô ng việc, nhưng bậ n việc cô ng lạ i
khô ng đượ c ở yên mộ t nơi vớ i chứ c vụ , Lạ i nhâ n luô n gặ p biến cố , nên khó là m
trọ n đượ c ý định. Thứ c giả lấ y là m tiếc.
Ô ng Ích Khiêm
Trướ c tên là Ích Khiêm, tên tự là Mụ c Chi, ngườ i Diên Phướ c, Quả ng Nam, lú c nhỏ
là ngườ i trí tuệ. Thiệu Trị nă m thứ 7 (1847) đỗ hương tiến mớ i 15 tuổ i. Vua cho
mờ i và o Tả thi lâ u viện cho thử lạ i bằ ng bà i thơ lấ y đầ u đề là : "Thiếu niên đă ng cao
khoa" (trẻ tuổ i đỗ cao). Bà i là m củ a Ích Khiêm có câ u :
Hà tà i đá p thá nh minh.
Dịch nghĩa:
Thanh niên gặ p bướ c tiến lên
Nă m thứ 21 (1868), bọ n phỉ tiến đá nh ở Cao Bằ ng lạ i nổ i lên. Vua sai Chi Hương đi
Cao Bằ ng trù tính đá nh dẹp, Ích Khiêm thờ i quyền giữ ấ n Tổ ng đố c quan phò ng.
Chưa bao lâ u, Khiêm đổ i sang (tá n lý quâ n thứ Lạ ng Bình, cù ng vớ i đề đố c Nguyễn
Viết Thà nh hộ i họ p vớ i phó tướ ng Tạ Kế Quý nướ c Thanh đá nh phỉ ở Thấ t Khê, cả
phá đượ c, có trong nử a ngà y đố t luô n đượ c hơn 30 đồ n giặ c. Khiêm đượ c thưở ng
cá c hạ ng nhẫ n và ng khả m pha lê ló ng lá nh. Sau bị việc để cho quâ n bộ biền đi đố t
nhà cướ p củ a, khép và o tộ i đồ , vẫ n cho phép mộ lính dõ ng theo đi đá nh giặ c.
Nă m thứ 24 (1871) Ích Khiêm đó ng quâ n thứ ở Đô ng Triều dẹp phỉ đượ c thắ ng lợ i
luô n. Mù a hè nă m ấy, bọ n phỉ lạ i cướ p Sơn Tâ y. Khiêm đượ c thă ng thụ Thị lang gia
hà m tham tri đổ i tham tá n quâ n thứ Sơn Tâ y, chuyên đố c lạ o quâ n Sơn phà m việc
quâ n cơ đượ c là m tậ p tâ u riêng phá t đ̓
Nă m thứ 25 (1872), thá ng 2, Khiêm cù ng tá n tương Nguyễn Dy phá tan sà o huyệt
phỉ ở Quá n Tư, lấ y lạ i huyện Trấ n Yên, đượ c thưở ng thêm 1 tấ n kim bà i. Ích Khiêm
lạ i họ a địa đồ Sơn Hưng Tuyên dâ ng vua. Vua xem, nó i rằ ng : "Nay hã y trù tính
Hưng trướ c, Tuyên sau”. Ít lâ u, vì trậ n đá nh ở Đạ i Đồ ng thua, rú t lui, bị cách chứ c
lưu dụ ng.
Vũ lộ lô i đình vạ n lý mô n
Dinh nghĩa:
Ở uy củ a vua xa dặ m ngà n.
Chưa bao lâ u đượ c phụ c hà m Thị giả ng tham biện phò ng vụ Đến khi đồ n cử a
Thuậ n khô ng giữ đượ c, Ích Khiêm thu hơn 700 quâ n về đến bến Nam Phổ vẫ n chưa
thô i tiếng trố ng. Việc tâ u lên, vua quở , đổ i sang chứ c Biện lý Lễ bộ . Sau đó Nguyễn
Vă n Tườ ng, Lê Thuyết mưu vớ i nhau phế lậ p, giả cá ch thuậ n cho phế đế nhượ ng
ngô i, lui về phủ cũ , rồ i mậ t bả o Ích Khiêm và Trương Đă ng Thê mờ i vua đến nha Hộ
Thà nh cho uố ng nướ c độ c giết chết.
Đầ u niên hiệu Kiến Phướ c (1854) thă ng thụ Thị lang tấ n phong tướ c Kiên Trung
Nam. Thá ng 5 nă m ấ y, mang 50 lính đi thẳ ng về quê ở tỉnh Quả ng Nam. Bọ n Ngự sử
Đà o Hữ u Ích đà n hặ c là tự tiện bắ t binh mã giao thô ng vớ i phủ đệ, Khiêm lạ i bị cá ch
chứ c phá i đi an trí ở Bình Thuậ n rồ i mấ t ở trong ngụ c, bấ y giờ 55 tuổ i. Hồ i đầ u
niên hiệu Hà m Nghi (1885) truy phụ c hà m Thị độ c.
Nguyễn Tă ng Doã n
Tự là Tử Cao, ngườ i Hả i Lă ng thuộ c Quả ng Trị, đỗ hương tiến Thiệu Trị nă m thứ 7
(1847). Hồ i đầ u niên hiệu Tự Đứ c (1848) do châ n hậ u bổ đi tạ m thay việc huyện
Bồ ng Sơn, can việc phả i về bộ hiệu lự c chuộ c tộ i, rồ i đượ c khai phụ c sung và o Nộ i
cá c hà nh tẩ u. Nă m thứ 18 (1865) lĩnh viên ngoạ i lang Cẩ n tín ty, đượ c phá i đi cù ng
vớ i Bố chính Quả ng Nam Đặ ng Huy Trứ sang Quả ng Đô ng do xét tình hình nướ c
ngoà i. Sau bổ chủ sự lĩnh Viên ngoạ i lang Hộ bộ , rồ i lạ i phá i đi thủ đô nướ c Phá p.
Nă m thứ 23 (1870) cù ng vớ i quả n đố c Lê Huy đi Hương Cả ng, Á o Mô n cô ng cá n. Ít
lâ u, bị giá ng đổ i xuố ng Binh bộ tư vụ . Sau mộ t thờ i gian, bổ Viên ngoạ i lang lĩnh á n
sá t sứ Nghệ An. Nă m thứ 26 (1873), do châ n Hồ ng lô tự khanh sung bở i sứ sứ bộ
sang Tâ y, cù ng vớ i Chính sứ Lê Tuấ n, phó sứ Nguyễn Vă n Tườ ng đi đến Gia Định.
Gặ p lú c Bắc kỳ hữ u sự , bèn cù ng vớ i Thố ng soá i Phá p Giu Bi Lê định hò a ướ c rồ i
trở về. Sau đượ c chứ c tả thị lang Lạ i bộ và lạ i cù ng Nguyễn Vă n Tườ ng đi Gia Định
cù ng vớ i Thố ng soá i Phá p Cơ Lă ng giả ng định bả n thương ướ c. Nă m sau, vì thương
chính mớ i mở , phá i đi Hả i Dương, Hà Nộ i điều tra, trù tính cô ng việc nên là m. Rồ i
lạ i vì có hiệp lự c đá nh giặ c biển có cô ng, đượ c thưở ng 2 lầ n quâ n cô ng kỷ lụ c. Sau
đó thì lĩnh Tuầ n phủ Hả i Dương kiêm lĩnh cô ng việc Thương chính.
Nă m thứ 32 (1879) ố m chết tạ i chứ c, vua sai đưa về quê chô n và sắ c cho tỉnh thầ n
ban tế. Con là Tă ng ý, đỗ hương tiến, là m đến Phủ doã n Thừ a Thiên, Tă ng Khá c, ấ m
thụ kiểm thả o.
Phạ m Huy
Huy, lú c nhỏ chă m họ c, đỗ hương tiến Thiệu Trị nă m thứ 7 (1847) Bổ tri huyện
Châ u Lộ c. Huy khuyên dâ n bỏ thó c ra lậ p nghĩa thương, có nă m bị mấ t mù a, đem
giú p cho dâ n khỏ i đó i, đượ c cấ t lên đồ ng Tri phủ rồ i qua Tri huyện Châ n Định lạ i
chuyển về Mỹ Lộ c. Quan tỉnh thấ y là ngườ i có tà i đứ c cô ng lao, đề cử đượ c thă ng
lên Thị độ c Nộ i các lĩnh chưở ng ấ n cấ p sự trung. Ít lâ u, bổ Thị giả ng họ c sĩ lĩnh á n
sá t Quả ng Nam, rồ i bổ Bố chính Hộ lý tuầ n phủ Hưng Yên. Tự Đứ c nă m thứ 20
(1867), lĩnh Kinh triệu doã n, can việc bị đổ i xuố ng Chủ sự , phá i đi khá m mỏ vù ng
Quả ng Bình ố m rồ i chết, truy phụ c Viên ngoạ i lang. Sau vì có con là Ngọ c Thọ là m
quan to, đượ c tặ ng Thá i bộ c tự khanh.
Tự là Hy Liễu, ngườ i Đô ng Thà nh thuộ c Nghệ An. Đỗ hương tiến Thiệu Trị nă m thứ
7 (1847), đượ c bổ huấ n đạ o huyện Lệ Thủ y, sau thă ng giá o thụ Thiên Tườ ng rồ i
qua tri huyện ở 4 huyện Châ n Ninh, Hà m Yên, Hoằ ng Hó a, Hò a Đa. Là m quan thanh
liêm, kiệm ướ c có tiếng tố t, đượ c cấ t lên chứ c Đố c họ c Quả ng Bình. Tự Đứ c nă m
thứ 17 (1864), lĩnh Quố c tử giá m tư nghiệp rồ i chuyển sang lĩnh Lang trung Binh
bộ . Vì trướ c ở Hoằ ng Hó a là m việc đà o sô ng, khô ng nộ p thuế, á n xét phả i đền hơn 4
nghìn quan tiền cô ng, đượ c cho khoan hạ n tìm nộ p. Sau lâ u, lạ i ra lĩnh họ c quan
Bình Định rồ i lạ i đổ i đi Đố c họ c Bình Thuậ n. Nhữ ng họ c trò trong hạ t và hà o mụ c ở
2 huyện Tuy Lý, Hò a Đa tình nguyện đền thay xong khoả n tiền đó . Quan hữ u tư
đem việc tâ u lên, vua bả o "ở lâ u đượ c lò ng dâ n", rồ i chuẩ n cho bổ Hà n lâ m viện thị
giả ng họ c sĩ lĩnh á n sá t sứ Bình Thuậ n. Sau đến niên lệ xin về hưu. Mấ t nă m 73
Trọ ng Sính là ngườ i tính nết điềm đạ m, hò a nhã , giả n dị và gìn giữ vớ i mọ i ngườ i,
lò ng rấ t ham đượ c dạ y dỗ nhữ ng kẻ hậ u họ c. Là m giá o chứ c nhiều nơi, nhà luô n
tú ng thiếu, vẫ n bình thả n như khô ng vậ y. Họ c trò , nhiều ngườ i thà nh đạ t có kẻ là m
đến tư mụ c mộ t phương.
Hồ Trọ ng Đĩnh
Nă m thứ 24 (1871), do hà m Bố chính hộ lý tuầ n phủ Quả ng Yên. Địa thế tỉnh nà y
liền nú i, giá p biển, là nơi quầ n tụ trộ m giặ c. Khi đã nhậ m chứ c, Đĩnh dâ ng sớ xin
đó ng chiến thuyN73;n lậ p đồ n kiểm soá t, mộ trá ng lính dõ ng cho tậ p thủ y chiến để
phò ng dù ng đến.
Đĩnh trị nhậ m ở đấ y suố t 8 nă m, đến nă m thứ 31 (1878) đượ c triệu về bổ Tả tham
tri Lạ i bộ , kiêm cô ng việc Đô sá t viện, rồ i chuyển sang tham tri bộ Hình, Hộ Cô ng
thự Cô ng bộ Thượ ng thư. Bỗ ng nhâ n có bệnh xin về nghỉ, bị ngự sử tâ u hặ c, thờ i có
chỉ cho lấ y là m Tham tri về nghỉ chữ a bệnh, rồ i mấ t nă m 65 tuổ i. Đĩnh có là m ra
tậ p "Cô ng hạ thi thả o". Con là Trọ ng Bà châ n cử nhâ n bổ kinh huyện.
Nguyễn Vă n Lợ i
Đặ ng Trầ n Chuyên
Tự là Mô ng Trai, ngườ i An Sơn, Sơn Tâ y (Nay là Quố c Oai , Hà Tâ y). Tự Đứ c nă m
đầ u (1848) đỗ tiến sĩ, do châ n Hà n lâ m bổ Tri phủ Kiến Thụ y, rồ i triệu về bổ Giá m
sá t ngự sử . Nă m thứ 9 (1856) thă ng Thị độ c sung Việt sử cụ c toả n tu. Nă m thứ 13
(1860), do châ n Lang trung Hình bộ ra là m á n sá t sứ Bắ c Ninh. Bấ y giờ thổ khấ u
hạ t Bắ c nổ i lên, ô ng đi đá nh bắ t có cô ng trạ ng. Nă m thứ 16 (1863) cấ t lên Quang
lộ c tự khanh biện lý Hình bộ sự vụ , rồ i lạ i đi lĩnh Bố chính sứ Quả ng Bình. Sau đổ i
sung Hả i An quâ n thứ tá n lý, luô n phá đượ c giặ c, thu phụ c đượ c phủ thà nh Hả i
Ninh. Thă ng chứ c Hữ u tham tri Lạ i bộ , và đượ c ban "Kỷ cô ng kim khá nh". Sau đó ,
phụ ng chỉ chuyển đi Thá i Nguyên hộ i tiễu bọ n cổ phỉ. Nă m thứ 19 (1866), đổ i bổ
Tuầ n phủ Nam Định, hộ lý Định An Tổ ng đố c quan phò ng. Nă m ấ y, khi võ cô ng đã
xong, đượ c thưở ng các hạ ng kim tiền song long hạ ng lớ n nhẫ n và ng nạ m thủ y tinh
và quạ t ngọ c. Chuyên trị nhậ m (ở đây) 4 nă m, việc thưa, dâ n yêu, khô ng phiền toá i,
đượ c gia ban tấ m tử kim khá nh "Liêm, Bình, Cầ n, Cá n". Rồ i ố m mấ t tạ i chứ c. Vua
thấ y Chuyên từ ng đi việc quâ n, nhiều lầ n có cô ng to hạ dụ cho truy thụ Tổ ng đố c và
sai quan ban tế. Con là Nghị, đượ c ấ m thụ tu soạ n, đã lĩnh Quả n đạ o Đô ng Triều.
Nguyễn Mạ i
Nguyễn Mạ i, trướ c tên là Khắ c Cầ n, ngườ i Yên Lạ c (nay thuộ c Vĩnh Phướ c) thuộ c
Sơn Tâ y, Tự Đứ c nă m đầ u (1848) đỗ tiến sĩ, bổ Hà n lâ m viện Tu soạ n sung Thừ a
chỉ Nộ i cá c. Nă m thứ 3 (1850), lĩnh Đố c họ c Bắ c Ninh rồ i bổ Tậ p hiền viện Thị
giả ng họ c sĩ. Nă ;m thứ 9 (1856) thự Quả ng Bình á n sá t sứ , có đạ i tang nghỉ việc. Khi
hết tang, biện lý Lạ i bộ sự vụ rồ i ra lĩnh á n sá t sứ Nghệ An. Kế đó , cấ t lên chứ c
Quang lộ c tự khanh lĩnh Bố chính sứ Quả ng Bình. Nă m thứ 15 (1862), bang biện
tỉnh vụ Sơn Tâ y, vì dẹp giặ c thắ ng lợ i nhiều lầ n đượ c gia thưở ng quâ n cô ng kỷ lụ c
và đổ i lĩnh Bố chính sứ Thá i Nguyên. Sau đó , triệu về cho thự Hình bộ hữ u tham tri,
rồ i thự Hà Nộ i tuầ n phủ . Nă m thứ 21 (1868), tên đầ u sỏ giặ c Cô n họ p đả ng đá nh
chiếm cá c vù ng thượ ng du, Mạ i đượ c sung Lạ ng Bình quâ n thứ tham tá n quâ n vụ
đạ i thầ n, cầ m quâ n tiến đá nh. Mạ i đem tướ ng hiệu hạ đồ n giặ c ở Tú Sơn, luô n phá
đượ c sà o huyệt giặ c ở Lạ c Dương, Bó ng Phong, rồ i thừ a thế tiến á p tỉnh thà nh Cao
Bằ ng, đó ng quâ n ở đồ n Phú Thứ . Sau giặ c đem toà n lự c lạ i đá nh, Mạ i chố ng đỡ
khô ng nỗ i, đồ n vỡ , bèn bị hạ i. Việc tâ u lên, cho truy thụ Tuầ n phủ , gia tặ ng Binh bộ
Thượ ng thư và cho mộ t ngườ i con đượ c ấ m thụ thấ t phẩ m vă n giai. Nă m thứ 31
(1878) đượ c liệt thờ và o Trung nghĩa từ . Sau, con là Thiệu, khoả ng niên hiệu Kiến
Phướ c đi theo việc quâ n đượ c bổ Hà n lâ m viện Tu soạ n.
Nă m thứ 14 (1861), Gia Định, Định Tườ ng nố i nhau thấ t thủ , Thú c Tĩnh dâ ng sớ
xin đi. Vua khen là ngườ i trung nghĩa khẳ ng khá i, cho sung khâ m sai mang dụ chỉ
đi. Lạ i cấ p cho 30 lạ ng bạ c, đi ngự a trạ m đến 2 tỉnh Long, Hà tuyên thị cho sĩ dâ n và
chiêu mộ nghĩa dũ ng, rồ i hợ p lự c cù ng Tổ ng đố c Trương Vă n Uyển tuầ n phủ Phan
Khắ c Thậ n thươngệc quâ n. Phà m mọ i việc đượ c tù y tiện mà là m. Binh lương cho
phép trù định lấ y, viên biền, cho phép cắ t đặ t lấ y lính dõ ng cheo phép tổ chứ c huấ n
luyện lấ y, tiền thó c, cho phép quyên phá t lấ y, đến như tướ ng sĩ, ai có cô ng, đượ c
khen thưở ng, sợ hã i rú t lui, đượ c chém đầ u đem rao để thị uy. Đặ c biệt ban cho
quyền trọ ng như vậ y để mong cô ng việc có thà nh hiệu. Sau chuẩ n cho lĩnh Tuầ n
phủ Định Tườ ng. Thú c Tĩnh dâ ng sớ xin triệu tậ p binh sĩ, tích trữ lương, chọ n chỗ
hiểm lậ p đồ n luyện quâ n để phò ng lú c đá nh, lú c giữ . Lạ i xin thuê nhữ ng ngườ i Xích
mao và ngườ i Thanh hiện ở Gia Định để là m nộ i ứ ng mặ t thuỷ, mặ t bộ . Vua nghe lờ i
và dụ rằ ng: "Thú c Tĩnh tiết thứ xem xét tình hình, trù nghĩ phương lượ c, mọ i khoả n
điều hay. Hiện nay triệu tậ p binh dõ ng, tích trữ tiền, lương đều kể có hà ng vạ n. Tuy
cò n đương lắ ng chờ cơ hộ i, chưa thể vộ i vã đem dù ng, nhưng vì nướ c là m việc như
vậ y tin là có lò ng trung thà nh mưu tính sâ u xa. Thương tình nhà ngươi vấ t vả cho
thă ng thụ Lạ i bộ thị lang vẫ n lĩnh chứ c cũ ”. Nă m thứ 15 (1862) Thú c Tĩnh chết. Ô ng
là ngườ i khẳ ng khá i, dũ ng cả m thao lượ c, có chí mà chưa đạ t, vua rấ t lấ y là m tiếc,
truy tặ ng Tuầ n phủ và gia cấ p cho gấ m lụ a bạ c tiền. Con là Hữ u Điển, đượ c ấ m thụ
chứ c tư vụ , thă ng mã i đến Tri phủ Ninh Hò a.
Phan Sỹ Thụ c
Ngườ i Thanh Chương thuộ c Nghệ An. Đỗ tiến sĩ Tự Đứ c nă m thứ 2 (1849), do châ n
Hà n lâ m bổ Tri phủ Cam Lộ . Thụ c thâ n đến xem xét tình th871; 9 châ u, tâ u trù tính
cô ng việc sử a sang, rồ i lạ i bổ đi Tri phủ Kiến Thụ y. Nă m thứ 9 (1856), bổ Tậ p hiền
viện thị độ c chuyển đi quả n đạ o Phú Yên, lĩnh tuyên phủ sứ rồ i nhâ n ố m đượ c cho
cá o quan. Nă m thứ 18 (1865) Tổ ng đố c An Tĩnh Hoà ng Tá Viêm dâ ng sớ cử ngườ i
có sĩ vọ ng (ngườ i đượ c họ c trò hâ m mộ ) xin cho lĩnh đố c họ c tỉnh. Vua cho. Nă m
thứ 20 (1868) triệu về bổ Lạ i bộ lang trung, thă ng Hồ ng lô tự khanh biện lý Lễ bộ
sự vụ . Rồ i lạ i bổ Thị lang Lạ i bộ cho đi Bố chính Quả ng Ngã i. Sau sung chá nh sứ đi
Yên Kinh (Bắ c Kinh ngà y nay), trữ về can việc, bị đổ i xuố ng Hồ ng lô tự khanh. Nă m
thứ 28 (1875), cấ t lên lang trung Hình bộ phá i đi Nam kỳ xem xét. Khi trở về, dâ ng
sớ nó i 9 châ u là lố i sau củ a Kinh thà nh phả i sử a sang trướ c và tự tin cá ng đá ng
cô ng việc. Việc giao xuố ng Cơ mậ t viện bà n bạ c cho thi hà nh. Nă m sau chuyển đi Bố
chính Quả ng Bình. Sau lạ i thă ng Tuầ n phủ Quả ng Trị thờ i có đạ i tang từ chứ c. Hết
tang, bổ tham tri Lạ i bộ , lạ i ra là m Tuầ n phủ Quả ng Trị. Nă m thứ 26 (1873), vì việc
có nạ n bã o khô ng phá t chẩ n ngay cho dâ n bị biếm xuố ng Viên ngoạ i lang rồ i bị ố m
về nhà .
Đặ ng Toá n
Tự là Tiết Phủ , ngườ i Giao Thủ y, Nam Định. Thi hộ i trú ng Ấ t khoa Tự Đứ c nă m đầ u
(1848) do châ n Hà n lâ m viện kiểm thả o bổ đồ ng Tri phủ Nam Sá ch rồ i lĩnh đồ ng
Tri phủ Tĩnh Gia. Gặ p nă m đê Nhị hà vỡ , đượ c phá i đi khá m xét cá c đườ ng sô ng,
lĩnh chứ c đê chính viên ngoạ i lang. Nhâ n thấ y bã i biển Nam Định sa bồ i, đi chiêu
dâ n khai khẩ n lậ p thà nh tổ ng Lạ c Thiện cho lệ thuộ c và o huyện Giao Thủ y. Sau
đượ c cấ t lên chứ c Thị giả ng họ c sĩ lĩnh á n sá t sứ Bắ c Ninh, sau lạ i đổ i đi Ninh Bình.
Nă m thứ 20 (1867), hộ lý tuầ n phủ Lạ ng Bình. Bấ y giờ bọ n phỉ Quả ng Tâ y lan trà n,
Toá n trù nghĩ cô ng việc xử trí tên Tô Tú và chia chú ng đến ở mọ i nơi, dâ ng sớ lên.
Vua ban khen, thưở ng mộ t lầ n kỷ lụ c.
Nă m thứ 23 (1840), bọ n giặ c vâ y hã m tỉnh thà nh, vì trá ch nhiệm ở quâ n thứ , đượ c
xử nhẹ giá ng xuố ng Hà n lâ m viện thị giả ng đổ i sung quâ n thứ tỉ;nh Bắ c, rồ i lạ i đổ i
đi Thương biện Lạ ng Sơn thứ tỉnh sự vụ , sau vì trậ n đá nh ở Vâ n Trì thắ ng lợ i đượ c
khai phụ c Hồ ng lô tự khanh lĩnh Bố chính sứ Cao Bằ ng. Nă m thứ 27 (1874) lĩnh
Tuầ n phủ Ninh Bình thả n vô sự đã gầ n qua 2 kỳ xét cô ng, Toá n đượ c thă ng lĩnh
Tổ ng đố c An Tĩnh, nhưng chưa kịp nhậ m chứ c thờ i ố m chết, thọ 68 tuổ i. Con là
Tiễn ấ m thụ kiểm thả o.
Tự là Khả i Phủ , ngườ i Lương Sơn (Nay là huyện Đô Lương), Nghệ An. Lú c trẻ có
tiếng hay chữ . Ban đầ u đỗ kỳ thi hương Minh Mạ ng nă m thứ 15 (1834), vì phạ m
trườ ng qui, bị lộ t tên đuổ i về. Thể lạ i cà ng cố sứ c đọ c sá ch. Đương thờ i, nhữ ng họ c
trò ưu tú ở vù ng Anh, Diễn theo về họ c nhiều và cũ ng nhiều ngườ i thà nh đạ t Tự
Đứ c nă m đầ u (1848) lạ i chuẩ n cho đượ c đi thi. Nă m ấ y đỗ hương thí, sang nă m liền
trú ng kỳ thi Nam cung (68) đỗ tiến sĩ, bổ Hà n lâ m viện biên tu, rồ i thă ng mã i đến
Tậ p hiền viện thị độ c sung Kinh diên khở i cư chú .
Thể sinh thờ i khô ng có thị hiếu gì khá c, chỉ lấ y sá ch vở là m vui, ngoà i nhữ ng khi
giả ng dạ y, đà m luậ n, lạ i vì dâ n là ng mở mang nguồ n lợ i trồ ng chè và câ y cố i ở nú i.
Mọ i ngườ i đều cho là ích lợ i, đến nay nhớ tớ i cô ng đứ c, dự ng riêng ngô i đền để thờ
ô ng. Con là Tuâ n, tên tự là Đam Như, châ n phó bả ng là m tớ i Tri phủ Quỳ Châ u, con
thứ là Trự c và chá u là Du, đỗ hương tiến.
Lê Đình Diên
Diên, tính giả n dị, thanh đạ m, cho nên tự ví vớ i hoa cú c. Bình nhậ t lắ m bệnh,
thườ ng muố n đượ c lui về sớ m để dạ y họ c. Giả ng dạ y theo điều thiết thự c, họ c trò
theo họ c nhiều, thà nh đạ t cũ ng nhiều.
Đặ ng Đứ c Địch
Đặ ng Đứ c Địch, tên tự là Cử u Tuâ n, ngườ i Giao Thủ y, Nam Định. Lú c trẻ có chí họ c
tậ p, trú ng Ấ t khoa Lễ vi (69) Tự Đứ c nă m thứ 2 (1849). Do châ n Hà n lâ m kiểm thả o
bổ Tri huyện Hà n Yên rồ i thă ng trướ c tá c lĩnh Đố c họ c Hả i Dương. Sau triệu về là m
Giá m sá t ngự sử , vì việc nó i bị đổ i xuố ng sung chứ c Tậ p hiền viện hộ i tu sử yếu, rồ i
lạ i bổ tu soạ n sung Kinh diên khở i cư chú . Sau bị ố m về nghỉ giả hạ n. Nă m thứ 27
(1874) lạ i dù ng ra lĩnh Đố c họ c Nam Định rồ i thă ng Thị độ c họ c sĩ sung Sử quá n
toả n tu. Sau lạ i do châ n Hồ ng lô tự khanh biện lý Lạ i bộ sự vụ chuyển sang tả thị
lang, rồ i lạ i đổ i sang Hình bộ kiêm Tô n nhâ n phủ hữ u tô n khanh.
Đứ c Địch là m quan đượ c vua biết là ngườ i cô ng bằ ng cầ n cá n, cho nên luô n đượ c
cấ t bổ , đều là do tự ý vua. Nă m thứ 36 (1883) thự Tuầ n phủ Quả ng Ngã i, từ ng gặ p
nhữ ng thuyền Việt Đô ng (Quả ng Đô ng, Trung Quố c) bị bã o dạ t đến, hết sứ c chu cấp
giú p đỡ họ đượ c số ng toà n vẹn, nên ngườ i Việt Đô ng khen là có ơn huệ. Kiến
Phướ c nă m đầ u (1884) bổ Lễ bộ tham tri sung Sử quá n toả n tu. Nă m ấ y lĩnh
Thượ ng thư Hình bộ vă n kiêm chứ c sử quan. Hồ i đầ u Đồ ng Khá nh (1886) bổ
Thượ ng thư Lễ bộ sung Kinh diên giả ng quan, đượ c ban mộ t tấ m kim khá nh "Liêm,
bình, cầ n, cá n". Mù a đô ng nă m ấ y dâ ng sớ xin về trí sĩ Vua cho. Sau khi về, Địch
giả ng dạ y họ c trò ngay ở nơi nhà ở và rong chơi nơi đồ ng ruộ ng trong mườ i nă m
trờ i. Họ c trò thà nh tự u cũ ng nhiều. Con là Tiến, đỗ tú tà i.
Lê Bá Thậ n
Tự là Thẩ m Chi, biệt hiệu là Xuâ n Sơn, trướ c tên là Hồ ng Tâ n, ngườ i Hương Thủ y
thuộ c Thừ a Thiên. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) thi hộ i trú ng ấ t khoa, do châ n Hà n lâ m
kiểm thả o bổ Tri huyện thự Tri phủ Khoá i châ u. Rồ i và o Nộ i cá c, qua Thừ a chỉ độ c
thờ i bổ Thị giả ng họ c sĩ tham biện Cá c vụ . Sau thă ng lĩnh Bố chính sứ Nghệ An, đổ i
dầ n mã i lên Binh bộ Tham tri rồ i đổ i sang thự Tả phó đô ngự sử Đô sá t viện. Nă m
thứ 21 (1868) phỉ ngườ i Thanh lan trà n quấ y nhiễu Thá i Nguyên, vua cho Bá
Thậ n sung Tham tá n Ninh Thá i đạ o. Bấy giờ cổ phỉ đá nh phá phủ Phú Bình, Thậ n
mang quâ n đá nh phá đượ c. Sau đó bọ n giặ c lạ i tụ tậ p ở trong rừ ng Lụ c Ngạ n, Bá
Thậ n cù ng Tá n tương Ô ng Ích Khiêm đá nh lui, đượ c cấ t bổ lên Thượ ng thư Binh bộ
vẫ n sung Tham tá n. Gặ p khi phủ thà nh Thô ng Hó a khô ng giữ đượ c, Tuầ n biên Trầ n
Vă n Mỹ bị chết, Bá Thậ n tâ u bá o về, lờ i lẽ phầ n nhiều bưng bít, bị giá ng xuố ng Bố
chính Thá i Nguyên. Sau đổ i về Lễ bộ Thị lang rồ i lạ i thă ng Tham tri thự Thượ ng
thư.
Nă m thứ 26 (1873), Trầ n Quang Hoà n ở Hà Tĩnh khở i biến, đá nh phá đạ o thà nh,
vua cho Bá Thậ n là m Thố ng đố c quâ n vụ cù ng vớ i hiệp đố c Vũ Lã mang binh
thuyền đến Linh giang phò ng bị đá nh dẹp. Bấ y giờ gặ p Khâ m sai Nguyễn Vă n
Tườ ng đi hỏ a thuyền đườ ng biển đến giá p gầ n bờ biển chỗ ấ y, khẩ n cấ p tố c quâ n
chia nhau bắ n đố t cá c đồ n giặ c ở Mũ i Đao, Tầ u Đầ u, Bá Thậ n nhâ n đó kế tiếp lên
đá nh, thu lạ i đượ c đạ o thà nh. Tin thắ ng trậ n bá o về, vua gia thưở ng Bá Thậ n mộ t
cấ p quâ n cô ng, rồ i triệu về cho thă ng thự Hiệp biện đạ i họ c sĩ vẫ n lĩnh Lễ bộ và
kiêm Cơ mậ t viện. Bá Thậ n dâ ng sớ từ chố i đạ i lượ c rằ ng : "Thầ n vâ ng mệnh cầ m
quâ n, may nhờ mưu lượ c triều đình mà giữ yên đượ c cho dâ n mộ t phương, chứ
thầ n khô ng có tà i nă ng gì. Nay lạ m nhậ n chứ c cơ mậ t, thờ i cơ mưu ứ ng khó thầ n
diệu, định liệu tinh nhanh khô ng bằ ng Phú Thứ , họ c thứ c sâ u rộ ng, kế hoạ ch tinh
tườ ng khô ng bằ ng Nguyễn T32; Giả n, tớ i việc liệu chướ c, luô n luô n trú ng thờ i cơ
thờ i khô ng bằ ng Nguyễn Vă n Tườ ng, mà hà m nhấ t phẩ m tô n vinh. Thầ n e sứ c
khô ng đủ mà miễn cưỡ ng là m thờ i mố i lo khô ng gì lớ n bằ ng". Vua khô ng nghe, dụ
rằ ng : "Khuyến cô ng, thù lao là điển lệ long trọ ng củ a triều đình, nay chự c bỏ điển
lễ đi thờ i lấ y gì khuyến khích ngườ i đờ i". Khi đã khai phụ c chứ c cũ lạ i kiêm chưở ng
Lạ i bộ , đổ i sang Lễ bộ . Nă m thứ 29 (1876), vua cho Bá Thậ n là ngườ i chính chắ n,
cẩ n thậ n, biết mệnh trờ i, cho sung chứ c Dụ c Đứ c đườ ng sư bả o. Nă m thứ 31 (1878)
gặ p tiết Ngũ tuầ n đạ i khá nh, dụ rằ ng : "Bá Thậ n mộ t lò ng phá c thự c trung thà nh,
cẩ n thậ n tinh tườ ng, là m việc ở kinh lâ u ngà y, giỏ i giang thô ng thạ o, chuẩ n cho
thự c thụ hiệp biện". Sau đó can và o việc phạ m tấ t, vua phê hỏ i, lạ i lấ y cớ là đến
thỉnh an để che đậ y. Vua cho là dố i trá , nhâ n lạ i đượ c tin là Bá Thậ n xử trị việc gia
đình hà khắ c, tà n nhẫ n, liền xử phạ t trượ ng đồ , rồ i ố m chết, bấy giờ 60 tuổ i. Vua
thương tình có cô ng lao trướ c, cho truy phụ c Tham tri và cho con đượ c ấ m tử . Lạ i
cấ p cho gấ m sa, lụ a vải và 700 quan tiền để lo ma. Đến nă m Thà nh Thá i thứ 15,
quan trong viện xin cho khai phụ c nguyên hà m Hiệp biện.
Bá Thậ n là ngườ i giỏ i giang lanh lợ i, là m quan suố t 30 nă m biết chă m lo chứ c vụ ,
xử trí việc gia đình có điều nghiêm mà nó ng. Có 4 ngườ i con : Bá Cẩ n, do châ n ấ m
tử là m quan, đượ c bổ mã i đến Tri phủ Diên Khá nh, Bá Nhượ ng, do châ n đã i chiếu
sung Sử quá n thừ a phá i, Bá Đằ ng đỗ hương tiến, do châ n Tu soạ n đi hậ u bổ Thanh
Hó a; Bá Cá o lấ y cô ng chú a, bổ Phò mã đô ú y.
Nguyễn Huyên
ht="0">
Ngườ i Yên Mô , Ninh Bình. Tự Đứ c nă m thứ 2, thi hộ i trú ng Ấ t khoa, bổ Tri huyện
Tiên Du. Nă m thứ 9 (1856) lĩnh Đố c họ c Ninh Bình, là m việc 7 nă m rấ t đượ c thỏ a
lò ng hâ m mộ củ a họ c trò , đượ c triệu về bổ Hà n lâ m viện thị giả ng họ c sĩ sung Kinh
diên khở i cư chú . Rồ i ố m nghỉ. Nă m thứ 19 (1866), bổ Lễ bộ viên ngoạ i lang, lâ u rồ i
chuyển lên Lang trung. Nă m thứ 22 ra lĩnh á n sá t sứ Hả i Dương. Sang nă m sau ố m
về rồ i mấ t, truy tặ ng Hà n lâ m viện Thị giả ng họ c sĩ.
Bù i Sỹ Tuyển
Tự là Thă ng Phủ , ngườ i Thanh Chương, Nghệ An. Khoả ng nă m Minh Mạ ng, do châ n
tú tà i qua kỳ hạ ch, đượ c bổ huấ n đạ o rồ i thă ng đi giá o thụ Thườ ng Tín. Tự Đứ c
nă m đầ u (1848) thi hộ i trú ng ấ t khoa, bổ Hà n lâ m viện Tu soạ n, vâ ng mệnh là m
nhữ ng vă n thơ vua ra đầ u đề đượ c hợ p cá ch. Rồ i bổ Tậ p hiền viện sung Kinh diện
khở i cư chú , sau thă ng thừ a chỉ rồ i qua là m đố c họ c hai tỉnh Quả ng Bình, Hả i
Dương. Nă m thứ 9 (1856) triệu và o lĩnh Lang trung Bộ Binh rồ i lạ i cấ t lên Hà n lâ m
viện Thị độ c họ c sĩ lĩnh Đố c họ c Quả ng Nam. Vì Tuyển họ c rộ ng và ở giá o chứ c lâ u
nă m nên đượ c họ c trò mến mộ .
Nă m thứ 15 (1862) bổ Hổ ng lô tự khanh Sử quá n toả n tu rồ i mấ t nă m 66 tuổ i.
Họ Nghiêm trướ c chưa hiển đạ t, đến 3 anh em Xuâ n Lượ ng đều có tiếng. Em họ là
Phương cũ ng là ngườ i chă m lo cô ng việc. Con Thiều là Xuâ n Quả ng nay đỗ tiến sĩ.
ight="0">
>
Nguyễn Thô ng
iv height="0">
Thô ng là ngườ i họ c hỏ i sâ u rộ ng, tâ u bà n rấ t có kiến thứ c, cá c quan trong triều đều
coi là bậ c có tà i. Có là m ra các sá ch: "Việt sử cương giá m khả o lượ c", “Ngọ a du sà o
thi vă n tậ p”, "Kỳ xuâ n thi vă n sao", "Kỳ xuyên cô ng độ c". Con là Trọ ng Lỗ i, ấ m sinh.
Trương Gia Hộ i
Tự là Trọ ng Hạ nh, ngườ i Bình Dương, Gia Định. Cha là Thừ a Huy, khoả ng nă m Gia
Long là m đến Thiêm sự phủ thiêm sự . Sau can việc bị cách chứ c rồ i lạ i khở i phụ c
là m Chủ sự . Gia Hộ i đỗ hương tiến, Tự Đứ c nă m thứ 2 (1949), qua huấ n đạ o Long
Thà nh chuyển đi Tri huyện Trà Vinh, có 'tiếng tố t đượ c bổ Tri phủ Hoằ ng Trị rồ i
đổ i đi Hà m Thuậ n. Nă m thứ 28 (1875) và o là m Giá m sá t ngự sử , thă ng Hộ khoa
chưở ng ấ n rồ i chuyển lĩnh Lang trung Binh bộ .
Gia Hộ i là ngườ i trầ m tĩnh có trí thứ c, là m việc lanh lợ i giỏ i giang, thườ ng lấ y điều
thanh đạ m tự xử , chẳ ng nhữ ng bạ n đồ ng liêu tô n phụ c mà quan Phá p phầ n nhiều
cũ ng tô n. Có 2 ngườ i con : Gia Tuấ n đượ c ấ m thụ kiểm thả o, Gia Mô , đã i chiếu.
Trầ n Vă n T
Ngườ i Hương Trà , Thừ a Thiên. Đỗ hương tiến Tự Đứ c nă m thứ 3 (1850). Qua là m
thừ a biện Hộ bộ , chuyển sang Nộ i cá c biên tu rồ i thă ng Tri huyện Hò a Vang. Nă m
thứ 15 (1862) lĩnh Lạ i bộ Chủ sự , chưa đượ c bao lâ u thờ i đổ i sang thự trướ c tá c
lĩnh Nộ i cá c Thị độ c. Nă m thứ 17 (1864) quyền sung Tô n nhâ n phủ lang trung.
Nă m thứ 18 (1865 ) cấ t lên Hồ ng lô tự thiếu khanh biện lý Binh bộ sự vụ , chuyển
đề lĩnh á n sá t sứ Quả ng Bình rồ i lạ i đổ i đi Bắ c Ninh. Nă m thứ 20 (1867), có tang
cha, rồ i rờ i chứ c. Thá ng 11 nă m ấ y, vì trướ c là m á n sá t Bắc Ninh đã khô ng xét kỹ tờ
phiến lụ c Bộ Hình, lầ m đem tên tù bị xử trả m giam hậ u Lý Anh xử và o tử tộ i, bị
giá ng bổ xuố ng Lạ i bộ tư vụ quyền sung Viên ngoạ i lang. Nă m thứ 22 (1869), khai
phụ c hà m thiếu khanh trướ c và biện lý Binh bộ . Bấy giờ việc quâ n bá o ở 3 đạ o
quâ n Bắ c kỳ đến hà ng ngà y, việc quâ n cơ rấ t bậ n, bộ thầ n vâ ng chỉ là m việc đượ c
tinh tườ ng lanh chó ng. Vua khen, thưở ng Vă n Tuy 1 đồ ng kim tiền. Nă m thứ 24
(1871) thă ng thụ Hồ ng lô tự khanh biện lý Binh bộ . Nă m 25 (1872) thă ng thụ Thị
lang sung biện Cá c vụ rồ i thự Tham tri Hình bộ , lạ i đổ i sang Cô ng bộ sung khâ m sai,
đi Hưng Yên tra cứ u cá i á n thầ n phủ Tô n Thấ t Đả n nhũ ng lạ m, xa xỉ. Nă m thứ 26
(1873), đổ i đi thự Tuầ n phủ hộ lý Định Yên Tổ ng đố c quan phò ng. Chưa đượ c bao
lâ u, lạ i đổ i về thự Hình bộ tham tri quyền biện Cá c vụ . Vì cô ng việc quan Cá c tâ u
hặ c quan Viện, Tuy là m việc sơ suấ t, lạ i là m riêng tờ phiếu tâ u xin giao phiếu Cá c
khô ng hợ p lệ, bị giá ng xuố ng Quang lộ c tự khanh vẫ n lưu lạ i là m việc và lạ i kiêm
quả n Thô ng chính sứ ty. Nă m thứ 28 (1875) cấ t bổ lên Hộ bộ hữ u tham tri kiêm
quả n Đô sá t viện. Nă m thứ 29 (1876), can việc khinh dố i vua (việc chép ở truyện
Hoà ng Tuyển), bị xử mã n trượ ng đồ (đá nh đủ 100 trượ ng rồ i cho đi đà y). Sau đó
thì Tổ ng đố c tỉnh Sơn Tâ y là Vũ Trọ ng Bình dâ ng sớ xin tha, cho theo tỉnh Sơn Tâ y
sai phá i, đượ c sung lang biện tỉnh vụ , rồ i lạ i khai phụ c Hồ ng lô tự khanh hộ lý tuầ n
phủ Quả ng Yên. Nă m thứ 33 (1880) thă ng thụ Bố chính vẫ n lĩnh Tuầ n phủ . Nă m
thứ 34 (1 881), Bắ c kỳ bị bã o lụ t, quan Khâ m sai khoa đạ o Phan Đình Phù ng từ
phía Bắ c trở về, tâ u nó iă n Tuy hà ng ngà y say rượ u, ở lâ u nơi biên giớ i e sinh trở
ngạ i, liền bị triệt về giá ng xuố ng Quang lộ c tự khanh biện lý Binh bộ . Nă m thứ 35
(1882) thờ i ố m chết khi ấ y 75 tuổ i, đượ c truy thụ Thị lang. Con là Vă n Vỹ, nay là
Tham tri Cô ng bộ mớ i bị giá ng chứ c đương chờ bổ .
Vũ Duy Thanh
Tự là Trừ ng Phủ , ngườ i Yên Khá nh thuộ c Ninh Bình. Lú c trẻ thô ng tuệ, xem đâ u
nhớ đấ y, 14, 15 tuổ i biết là m vă n. Anh là Đề, là họ c trò giỏ i mà Duy Thanh họ c lạ i
cò n hơn. Bắ t đầ u đỗ hương tiến. Thi hộ i trượ t, về lạ i cà ng chă m họ c. Gặ p tang mẹ,
thương nhớ gầ y rộ c ngườ i đi, dâ n là ng khen là có hiếu . Tự Đứ c nă m thứ 4 (1851)
trú ng ấ t bả ng (kỳ thi hộ i). Mù a hè nă m ấ y lạ i mở chế khoa. Vua tự thâ n ra vă n sá ch,
nhắ c Thanh lên hà ng đầ u, cho đỗ Đệ nhấ t giá p cá t sĩ cậ p đệ đệ nhị danh (thườ ng
gọ i là bả ng nhã n), bổ Hà n lâ m viện Thị độ c. Qua Tậ p hiền viện thờ i bổ Quố c tử
giá m Tư nghiệp rồ i thă ng Tế tử u.
Duy Thanh, tính chấ t phá c, ngay thẳ ng, đố i vớ i mọ i ngườ i vui vẻ giả n dị, khô ng
cạ nh tranh. Nhưng đến khi luậ n về sự sai lầ m củ a tụ c họ c và cá i tai hạ i củ a dị đoan
thờ i tấ t ra sứ c nó i. Thanh từ ng dâ ng sớ nó i rằ ng: muố n đượ c thự c tà i tấ t phả i khô i
phụ c phép dạ y, phép thi củ a cổ nhâ n, và liệt ra 8 mụ c :
2- Kén chng lý và tá lạ i
3- Dự ng xã thương
="0">
4- Giữ nghiêm phép dạ y ở cá c trườ ng phủ huyện
Vũ Huy Dự c
Nguyễn Thá i
Tự là Lý An, ngườ i Nam Đà n thuộ c Nghệ An. Lú c trẻ thô ng tuệ kỳ dị, có tiếng hay
chữ . Tự Đứ c nă m thứ 4 (1851) thi hộ i trú ng ấ t khoa. Mù a hè nă m ấ y thi khoa bá c
họ c hoà nh từ đỗ Đệ nhị giá p cá t sĩ xuấ t thâ n (tương đương Hoà ng giá p) đượ c bổ
Hà n lâ m viện trướ c tá c sung Vậ n hả i sở tu thư. Nă m thứ 6 (1853) thự Đố c họ c
Quả ng Ngã i, trậ t mã n đượ c thự c thụ . Nă m thứ 9 (1856) triệu về là m Tậ p hiền viện
thị giả ng sung Kinh diên khở i cư chú . Vâ ng mệnh là m nhữ ng vă n thơ vua ra đầ u đề
đượ c hợ p cách, đượ c cấ t lên Thị độ c họ c sĩ.
Thá i ở lâ u nơi thanh bí, luô n đượ c vua hỏ i đến và ban khen. Nă m thứ 14 (1861) bổ
á n sá t sứ Hưng Yên rồ i thì mấ t.
Huy Tích lú c nhỏ tuấ n tú hơn ngườ i, đỗ Thi hương nă m 23 tuổ i. Tự Đứ c thứ 4
(1851) đỗ khoa bá c họ c hoà nh từ , và o viện Hà n lâ m tiếng tă m khắ p nơi. Bổ Tri phủ
Nam sá ch, can việc phả i mấ t chứ c. Sau lạ i đượ c bổ Đố c họ c Hả i Dương, bị ố m về,
lá nh đến ở huyện Thanh Liêm. Nhà suô ng bố n vá ch, vẫ n thả n nhiên như thườ ng.
Gặ p buổ i đờ i biến cố ngà y mộ t nhiều, Huy Tích thườ ng ở mộ t mình trong mộ t nhà
riêng, suố t ngà y ngấ t ngâ y như si, khô ng hề nó i đến việc đờ i cũ ng khô ng nó i tớ i vă n
chương. Ngườ ;i đến thờ i lá nh, ít khi đượ c thấ y mặ t; gặ p đườ ng chà o hỏ i thờ i khô ng
trả lờ i. Cứ như thế gầ n 30 nă m. Đến khi có tuổ i, mớ i thấ y cù ng mộ t và i nhà vă n đi
du lã m nơi sơn thủ y. Gặ p khi có đề vịnh đâ u thờ i lờ i lẽ cũ ng thấ y sá ng sủ a đá ng
đọ c, biết khô ng phả i là si thự c. Nhưng xét cá i cớ tạ i sao khô ng nó i thờ i chẳ ng ai rõ
cả .
Trầ n Hữ u Dỵ
Hữ u Dỵ có tiếng hay chữ , chuộ ng khí tiết, chưa kịp đem ra thự c dụ ng, thứ c giả lấ y
là m tiếc. Trướ c tên là Dự c, sau đổ i ra tên hiện nay. Con là Oanh, đỗ tú tà i.
0">
Phạ m Huy
Ngườ i Thanh Chương, Nghệ An. Tổ 11 đờ i, buổ i Lê trung hưng có cô ng đượ c phong
Phụ quố c thượ ng tướ ng quâ n Vũ Nguyên Hầ u, rồ i sau đờ i đờ i có cô ng lao hiển quí.
Cha là Lệ đỗ hương tiến, ở nhà dạ y họ c.
Đình Thự c lú c trẻ thô ng tuệ kỳ dị, chưa 20 tuổ i đã lên họ c trườ ng phủ . Tự Đứ c nă m
thứ 4 (1851) thi hộ i trú ng ấ t khoa, thụ chứ c Hà n lâ m kiểm thả o, là m sá ch vă n uyển.
Sá ch xong, sung Nộ i cá c Hà nh tẩ u rồ i bổ Đồ ng tri qua ngồ i 2 huyện Thanh Sơn,
Thanh Thủ y. Từ ng khai ú ng ở khu ruộ ng Phương Giao trong huyện hạ t, là m cho
hà ng nă m đượ c mù a, và tìm cá ch dẹp yên trộ m giặ c ở Trườ ng Sơn, nhâ n dâ n ca
tụ ng. Đượ c triệu về bổ Tậ p hiền viện Thị giả ng sung Kinh diên khở i cư chú , rồ i ra
sung Th biện Nghệ An phò ng bị sự vụ . Gặ p khi giặ c biển ở Hả i Dương là lũ Ướ c,
Phượ ng và o cử a Cờ n, Đình Thự c mang quâ n hả i phò ng đá nh lui. Giặ c và o Quả ng
Bình thì bị bắ t. Sau lĩnh á n sá t sứ Nam Định, nhiều lầ n dâ ng sớ bà n về việc cương
giớ i, rồ i bổ thụ Hồ ng lô tự thiếu khanh biện lý Hình bộ sự vụ . Nă m thứ 23 (1870)
can việc, bị phá i đi quâ n thứ Tam Tuyên bị ố m về rồ i mấ t nă m 52 tuổ i.
Ngườ i Phú Lộ c, Thừ a Thiên, có tiếng hay chữ . Tự Đứ c nă m thứ 4 (1851) đỗ tiến sĩ.
Do châ n Hà n Lâ m viện Biên tu qua Tri phủ Kiến An, có tiếng tố t, rồ i chuyển về thự
Viên ngoạ i lang Cơ mậ t viện. Nă m thứ 11 (1858) bổ thự Thị độ c họ c sĩ tham biện
Cá c vụ . Nă m thứ 13 (1860), Gia Định có cá o cấ p đượ c mang tờ dụ chỉ đến quâ n thứ
xét hỏ i tình hình. Tuyển bèn tâ u bà y cô ng việc có 4 điều :
ht="0">
- Trích lấ y tiền quyên cấ p thêm cho binh, dõ ng cá c hạ ng.
Vua đều nghe theo. Đến khi về, bạ t bổ Quang lộ c tự khanh vẫ n tham biện Cá c vụ .
Rồ i sau đổ i sang biện lý Binh bộ tham việc Cơ mậ t viện. Nă m thứ 16 (1863) bổ thự
Thị lang Binh bộ rồ i chuyển lên Tham tri.
Nă m thứ 19 (1866), đổ i đi thự Tuầ n phủ Thuậ n Khá nh rồ i lạ i chuyển đi Nam Ngã i.
Chưa bao lâ u bổ Tham tri Hộ bộ . Nă m thứ 21 (1868), Tuyên, Cao, Thá i, Lạ ng luô n
có cá o cấ p biên giớ i, đượ c sai đi sung Tả đạ o tham tá n đạ i thầ n, Tuyển ở quâ n thứ
1 nă m, luô n kêu ố m xin nghỉ, bị giá ng là m Quang lộ c tự khanh lĩnh Thị lang Binh
bộ . Nă m thứ 25 (1872) bạ t bổ Tham tri Hộ bộ hộ lý Bình Phú tổ ng đố c.
Nă m thứ 27 (1874), vua thấ y nhà có mẹ già , ban cho sâ m quế tiền lụ a và phá i
ngườ i đến thăm sứ c khỏ e cù ng là xem ngườ i em thứ 2 và con đã trưở ng
thà nh chưa, có phụ ng dưỡ ng đượ c khô ng về Phướ c tâ u, rồ i sai đem việc ấ y lụ c gở i
cho Vă n Tuyển biết để đượ c yên tâ m mà hết lò ng vớ i chứ c vụ . Rồ i lạ i ban cho hai
chi toà n sâ m Quả ng Đô ng thượ ng hạ ng kim cương và mộ t bình Thượ ng bích loa trà
(nhữ ng thứ nà y đều do sứ bộ đi Thanh mua về). Dụ rằ ng : "Đâ y đương là địa
phương nghiêm trọ ng và lắ m việc, cho nên khô ng quên". Sau đó Tuyển dâ ng sớ xin
về gầ n phụ ng dưỡ ng, đượ c đổ i về thự Thượ ng thư Cô ng bộ sung Cơ mậ t viện
Lê Đình Dao
an">Tự là Bá Ngọ c, ngườ i Thuậ n Xương, Quả ng Trị. Cha là Đình Khuê, bậ c tú c nho
đờ i bấ y giờ , đi thi bị quan trườ ng đá nh hỏ ng mã i, bèn ở nơi hẻo lá nh dạ y họ c, họ c
trò theo họ c đô ng. Nhà rấ t nghèo, có nuô i mộ t con trâ u là m kế sinh nhai. Đình Dao
khi cò n nhỏ vừ a chă n trâ u vừ a họ c, tố i về, cha hỏ i nghĩa sá ch, trả lờ i vỡ vạ c. Cha lấ y
là m lạ , bèn bá n trâ u đi cho chuyên họ c tậ p. Khi lớ n tiếng đồ n hay chữ khắ p nơi.
Nă m 25 tuổ i đỗ thi hương, thi hộ i thờ i đứ ng đầ u bả ng phụ . Bấy giờ là khoa Tâ n hợ i
Tự Đứ c nă m thứ 4 (1851), phó bả ng khô ng đượ c dự kỳ thi điện (thi điện cũ ng là thi
đình), bèn theo lệ đượ c thụ chứ c kiểm thả o sung biên tậ p hả i thử sở (nơi biên tậ p
sá ch vậ n hả i). Nă m thứ 7 (1854) thụ chứ c đồ ng tri lĩnh huyện Phù Mỹ, kế đó sung
Phướ c khả o trườ ng Nghệ An. Khi xong việc về huyện lỵ thờ i bị việc phả i đổ i trở
xuố ng chứ c Nộ i cá c điển bạ sung kiểm biên sá ch "Nhâ n sự kim giá m". Sá ch xong,
cho thă ng kiểm thả o và ban cho bạ c lạ ng, thế rồ i chuyển đi kinh lịch Thanh Hó a.
Nă m thứ 16 (1863) đổ i đi Tuy viễn kiêm nhiếp huyện Tuy Phướ c rồ i thì có tang mẹ
xin từ chứ c. Nă m thứ 23 (1870) bổ thuyên và o tư vụ rồ i qua thă ng Đố c họ c Quả ng
Trị. Nă m thứ 30 (1877) bổ Viên ngoạ i lang Hộ bộ lĩnh Lang trung sung giá m khả o 2
trườ ng Nghệ An, Nam Định. Nă m thứ 32 (1879) kỳ thi hộ i, sung tri cố ng cử . Rồ i thì
mấ t tạ i chứ c, đượ c truy thụ quan hà m tứ phẩ m, nă m ấ y 57 tuổ i.
Đình Dao, tính thuậ n hò a chấ t phá c, có phong độ cổ nhâ n, là m quan 30 nă m, chìm
đắ m mã i hà ng quan dướ i, vẫ n điềm đạ m tự xử , khô ng nó i câ u gì buồ n bự c vớ i ai.
Bấ y giờ Dao có nhiều bạ n đồ ng quậ n là m quan chứ c trọ ng yếu, hoặ c có ngườ i
khuyên chỉ cầ n đến bá i yết mộ t lầ n là đượ c châ n quan tố t thì Đình Dao chỉ từ tạ nó i
là mình vụ ng về. Đến khi có tuổ i bè bạ n nhiều ngườ i gặ p bướ c là m to, nhiều lầ n
tiến cử Dao lên hà ng đạ i thầ n, đã xin đượ c chỉ vua thì Đình Dao đã mấ t. Con là Đình
Diễm, đỗ tú tà i, Đình Luyện đổ cử nhâ n, hiện nay là m Quang lộ c tự thiếu khanh
tham biện Cá c vụ ; Đình Đạ o, Đình Lạ c hiện là m quan có lượ ng.
QUYỂ N 38
TRUYỆ N CÁ C QUAN - MỤ C XXII
Hoà ng Diệu
Tự là Quang Viễn, hiệu là Tĩnh Trai, trướ c tên là Kim Tích, ngườ i Diên Phướ c,
Quả ng Nam. Anh em sá u ngườ i đều đỗ . Diệu là con thứ . Tự Đứ c nă m thứ 6 (1853),
đỗ ấ t khoa Lễ vị, do châ n Hà n lâ m kiểm thả o đi nhậ m cá c huyện Bồ ng Sơn Tuy
Viễn, Tĩnh Gia. Nhâ n sai lầ m bị giá ng, lạ i lấ y tên chứ c tri huyện rồ i chuyển đi Tri
phủ Lạ ng Giang, Đa Phướ c, có tiếng tố t. Sau bổ á n sá t Nam Định rồ i thă ng Bố chính
Bắ c Ninh. Nă m thứ 30 (1877) thă ng thự Hình bộ Tham tri rồ i liền đổ i sang Lạ i bộ
kiêm quả n Đô sá t viện. Phà m có việc thuyên chuyển, đề cử , đều mộ t lò ng cô ng
bằ ng, ngườ i ta đều khen là liêm chính. Nă m thứ 31 (1878), dâ n Nam Ngã i đó i, đượ c
sung Khâ m sai, mang cờ tiết đến nơi, tù y liệu mà chẩ n cấ p. Nă m thứ 33 (1880)
thă ng thự Hà Ninh Tổ ng đố c, cù ng vớ i quyền Tổ ng đố c tỉnh Sơn Tâ y Nguyễn Hữ u
Độ dâ ng sớ nó i về việc sử a sang biên phò ng, lạ i cù ng vớ i Nguyễn Đình Nhuậ n mậ t
tâ u về chướ c phò ng bị sẵ n. Vua về khen ngợ i, nghe lờ i.
Diệu, tính cương trự c, là m quan thanh liêm, liêm sự quyết đoá n, có phong độ
bậ c đạ i thầ n.
Ngà y Diệu tổ ng đố c Hà Ninh, vua thấ y Diệu có mẹ già , ban cho sâ m quế bạ c
sa để an ủ i, thự c là đặ c ơn vậ y. Tờ biểu tạ ơn củ a Diệu nó i rằ ng : "Phậ n con khó bá o,
ơn mẹ cà ng tă ng; việc nướ c chưa rồ i gia đình đâ u ngó . Khô ng trung vớ i vua thờ i
khô ng phả i là hiếu, dá m đâ u để hổ cha mẹ thầ n. Việc có lợ i cho nướ c là là m, ngõ
hầ u có thể bá o đá p quà ban củ a nhà vua. Đượ c vua châ u điểm đoạ n nà y. Đến khi tử
tiết ở Hà Thà nh, vua thấ y Diệu là bậ c trung nghĩa khá c ngườ i, sai quan tỉnh Quả ng
Nam ban mộ t tuầ n tế, lạ i cấp 1 nghìn quan tiền để nuô i bà mẹ. Nă m thứ 36 (1883)
đượ c thờ và o Trung nghĩa từ . Con là Tuấ n, châ n ấ m sinh Tri phủ Anh Sơn.
Nguyễn Vă n Quá n
Ngườ i Yên Thà nh thuộ c Nghệ An, đỗ hương tiến Tự Đứ c nă m thứ 3 (1850).
Bắ t đầ u bổ huấ n đạ o Yên Định, rồ i thă ng Tri huyện Phong Doanh. Nhậ m chứ c đượ c
1 khó a xét cô ng, vì trong điển xét cô ng có đủ cả đứ c tà i cô ng lao, đượ c cấ t lên Tri
phủ Quả ng Ninh. Gặ p khi có giặ c biển thườ ng lai vã ng cử a Nhậ t Lệ cướ p bó c, dâ n
giá p biển nhiều ngườ i bị hạ i, Vă n Quá n lậ p cá ch đề phò ng chế á p, nạ n giặ c bèn hết.
Nă m thứ 18 (1865) triệu về là m Giá m sá t ngự sử , chuyển qua Lễ bộ Lang trung,
thă ng Hồ ng lô tự khanh biện lý Hình bộ sự vụ Đổ ng lý thanh tra Vũ khố , rồ i đổ i
sang biện lý Cô ng bộ . Nă m thứ 26 (1873), vì có bố mẹ già xin về phụ ng dưỡ ng. Vua
cho phép. Nă m sau, dâ n Nghệ An nhâ n có việc sinh ra ná o độ ng, lạ i dù ng ra là m
thương biện tỉnh vụ , rồ i ố m chết.
Chu Duy Tĩnh
Ngườ i Đô ng Yên thuộ c Hưng Yên. Đỗ hương tiến Tự Đứ c nă m thứ 3 (1850) đượ c
bổ Tri huyện Tiên Ninh rồ i lạ i chuyển đi huyện Lậ p Thạ ch. Nă m thứ 26 (1873)
triệu về bổ giá m sá t ngự sử , sau vì có bố mẹ già , đượ c phép về phụ ng dưỡ ng, rồ i
rong chơi nơi đồ ng ruộ ng gầ n 20 nă m. Bình sinh phẩ m hạ nh thuầ n tú y tố t đẹp,
đượ c ngườ i trong huyện xã tô n trọ ng. Mấ t nă m 69 tuổ i. Con là Mạ nh Trinh, đỗ tiến
sĩ, nay bổ á n sá t Thá i Nguyên, hiện cá o quan.
Ngườ i Đô ng Thà nh, Nghệ An, ô ng cha do nghề võ là m nên. Hoằ ng Nghị là ngườ i có
sứ c khỏ e, đỗ võ cử Tự Đứ c nă m thứ 5 (1852). Bắ t đầ u là m Cẩ m y vệ hà nh tẩ u, bổ
Tinh binh độ i trưở ng rồ i chuyển sang Thá i hù ng cơ lụ c độ i cai độ i, rồ i luô n luô n
theo đi đá nh dẹp, nhiều cô ng lao, đượ c thă ng Nghiêm vũ vệ hiệp quả n. Sau đượ c
chọ n và o Vũ sinh vệ đi Bắc Ninh bắ t giặ c, rồ i lạ i qua cá c huyện Lụ c Ngạ n, Yên
Phong tiễu phỉ có cô ng, đượ c bổ Cấ m binh cai độ i. Sau lạ i đi quâ n thứ Tuyên Quang
rồ i chuyển về quâ n thứ Sơn Tâ y đá nh lấ y lạ i huyện Phù Ninh, đượ c cấ t lên Phó
quả n cơ. Hoằ ng Nghị do châ n võ cử đi tò ng chinh lâ u ngà y, nên nă m thứ 28
(1875)ượ c thă ng Phó lã nh binh sung đố c binh quâ n thứ tỉnh Thá i rồ i ố m mấ t ở
quâ n.
Phạ m Trinh
Phan Sỹ
</div>
Ngườ i Hương Trà thuộ c Thừ a Thiên. Đầ u quâ n và o (dinh) Tiền phong
khoả ng nă m Thiệu Trị. Tự Đứ c nă m thứ 2 (1849) sá t hạ ch về đấ u gậ y, dự hạ ng ưu,
đượ c bổ độ i trưở ng. Qua thă ng suấ t độ i rồ i theo đi quâ n thứ Quả ng Nam, Hả i Yên,
có chiến cô ng, thă ng mã i lên Cấ m binh phó vệ ú y. Nă m thứ 21 (1868) sung Lã nh
binh tỉnh Hả i Dương, chưa bao lâ u thờ i đổ i lĩnh Sơn Tâ y đề đố c. Bấy giờ có hơn
nghìn phỉ lan đến huyện Sơn Dương. Sỹ cù ng vớ i Lã nh binh Đỗ Đứ c Thịnh mang
quâ n đến đá nh, bị phỉ vây, Sỹ đá nh phá đượ c, phỉ tan chạ y. Sau lạ i đổ i đi quâ n thứ
tỉnh Tuyên. Thá ng 7 nă m ấ y, trậ n đá nh ở Nghĩa An, Sỹ thừ a thắ ng đuổ i theo, bọ n
phỉ bấ t ngờ ra vâ y, bị hạ i. Việc tâ u lên, cho truy tặ ng Đô thố ng chế. Con là Vă n
Quả ng đượ c ấm thụ Cấ m binh độ i trưở ng rồ i thă ng suấ t độ i.
v height="0">
>
Nguyễn Vă n Hù ng
ight="0">
Nguyễn Đứ c Đạ t
Tự là Khoá t Như, ngườ i Thanh Chương, Nghệ An (Nay thuộ c là ng Hoà nh Sơn
huyện Nam Đà n). Cha tên là Quang, đỗ hương cố ng triều Gia Long, là m đến Lạ i bộ
viên ngoạ i lang. Đứ c Đạ t, khoa Quý sử u Tự Đứ c nă m thứ 6 (1853), cù ng vớ i ngườ i
cù ng tổ ng là Nguyễn Vă n Giao (71) cù ng đỗ Đệ nhấ t giá sĩ cậ p đệ đệ tam danh; mộ t
khoa 2 Thá m hoa, từ xưa hiếm có . Bắ t đầ u thụ chứ c Hà n lâ m viện thị giả ng lĩnh Đố c
họ c Nghệ An, rồ i triệu về là m Kinh kỳ đạ o chưở ng ấ n. Nă m thứ 23 (1870) lạ i lĩnh
Đố c họ c Nghệ An, rồ i Hộ lý tuầ n phủ Hưng Yên. Nă m thứ 26 (1873), Bắ c Kỳ có cá o
cấ p Đứ c Đạ t vỗ yên lạ i, dâ n, giữ vữ ng đều đượ c vô sự , bả o toà n cho hạ t mình, có
chiếu thư ban khen và cho thự c thụ .
Lê Tuấ n
Tuấ n ở ngoà i có tiếng tố t, lạ i cẩ n thậ n giữ mình, luô n luô n từ chố i việc bổ là m
quan ngoà i, vì thế đượ c vua biết đến. Nă m thứ 21 (1868) do châ n Hà n lâ m viện
trự c họ c sĩ vâ ng mệnh đi sứ sang Yên Kinh, vua ban cho bà i thơ để là m vinh dự cho
cuộ c đi sứ , có nhữ ng câ u rằ ng :
Vạ n lý trù ng quan lưu tính tự
Dịch nghĩa:
Bố n phương đố i đá p giữ lờ i lẽ
Khi về bổ Hữ u thị lang Binh bộ , chuyển sang Tham tri Bộ Hình rồ i lên thự
Thượ ng thư. Bấ y giờ ở ven biên giớ i Bắc kỳ, bọ n cổ phỉ lan trà n, ở Quả ng Yên, giặ c
biển cũ ng tụ tậ p là m trở ngạ i. Vua cho Tuấ n sung Khâ m sai Bắc kỳ thị sư lạ i kiêm
Kinh lượ c đạ i thầ n. Tuấ n dâ ng sớ nó i về tình hình giặ c và tâ u bày cô ng việc xếp đặ t
về sau ở cá c tỉnh ven biển, tấ t cả có 9 điều.
Sau đó , tình hình giặ c nú i đã hơi bớ t, nhưng thế giặ c vù ng Hả i Yên thờ i hung
dữ , có chỉ vua cho Tuấ n đố c suấ t quâ n vụ Hả i Yên.
Nă m thứ 26 (1873), triệu về sung Chá nh sứ sang Tâ y (sang Phá p), Nguyễn
Vă n Tườ ng là m phó , trướ c hết hã y đến Gia Định cù ng vớ i nguyên soá i Phá p Du Bi
Lê thương nghị. Lạ i phá t giao cho sắ c ấ n toà n quyền tuâ n hà nh. Sau ô ng mắ c bệnh
mấ t ở Gia Định và o Tự Đứ c nă m thứ 27 (1874). Đượ c tin bá o tang, vua vô cù ng
thương tiếc, dụ rằ ng : "Lê Tuấ n, sớ m đỗ liền khoa, trả i nhậ m lâ u nă m, phụ ng sứ
sang Tâ y, vì nghĩa khô ng từ khó nhọ c. Lạ i cho đồ ng sự quay trở về là m việc, rấ t là
bổ ích. Nay việc giao hả o vừ a xong, sứ bộ đượ c tạ m về, thờ i bị mộ t chứ ng bệnh mà
bỗ ng vĩnh biệt, thự c là đau đớ n. Vậ y cho thự c thụ Thượ ng thư, tặ ng Hiệp biện đạ i
họ c sĩ." Rồ i ban và ng lụ a để lo việc tang. Lạ i hạ sắ c : khi đá m tang về qua kinh thà nh
thờ i dừ ng lạ i ở bến sô ng. Rồ i vua thâ n là m bà i vă n tự thuậ t danh phậ n tình nghĩa
Tuấ n lú c sinh thờ i rấ t là thiết tha, thương tiếc, và sai hoà ng tử cù ng quan hữ u tư
phụ ng chỉ ban tế để tỏ đặ c â n. Bà i vă n rằ ng :
Times New Roman"> "Hỡ i ơi! Thương thay! Hỡ i Lê Tuấ n ngươi sao vộ i phụ trẫ m
và vĩnh biệt vậ y? Chỉ đượ c thấ y tiễn ngươi đi mà chẳ ng đượ c thấ y đó n ngươi về.
Thờ i trẫ m là m sao cho đà nh lò ng đượ c. Hỡ i ơi thương thay! Vả , ngườ i khô ng phả i
là họ c trò củ a trẫ m, chẳ ng mong gì ở ngươi tiến cử bạ n hiền lương để bá o đá p
trẫ m. Cá i dù i trong tú i chưa ló mũ i ra (72). Trẫ m cũ ng chẳ ng phả i đã đặ c biệt hiểu
biết ngươi. Vậ y thờ i chẳ ng biết ngươi nghĩ thế nà o mà quyến luyến vớ i trẫ m :
ngườ i ta đều cầ u ta là m quan ngoà i mà riêng ngươi chỉ xin về triều. Há rằ ng ngươi
muố n lậ p dị để lấ y tiếng là cao? Ở quậ n, tuy khô ng có cô ng trạ ng rự c rỡ , nhưng mà
nổ i tiếng mộ t vị quan tố t, đã là khô ng phụ điều mong mỏ i mộ t vị Phướ c tính. Thờ i
ngươi từ ng cò n muố n cầ u tiến gì hơn nữ a? Đi sứ Bắc Kinh, vă n (từ ) tuy chưa đủ ,
nhưng phẩ m (chấ t) có thừ a, là bậ c lương thầ n giữ a triều đình, sớ m giữ mộ t địa vị
nhâ n tà i hữ u dụ ng, nên từ đó ngươi cà ng thêm cố gắ ng chă ng? Khi Bắc phạ t đi thị
sư, đem đạ o quâ n lẻ loi và o sâ u trọ ng địa mà thầ n sắ c vẫ n bình tĩnh. cuố i cù ng giả i
đượ c vò ng vây bấ t ngờ , thì ngươi dũ ng cả m thế nà o mà khô ng biết sợ hã i như vậ y ?
Hỡ i ơi thương thay! Chỉ vì lò ng trung mà thô i.
Vả ngươi chưa tớ i lụ c tuầ n, mắ c cá i bệnh hầ u tỳ (75) khô ng quan trọ ng, trẫ m
đã khô ng ngạ i xa xô i nghìn dặ m, ban thầ y cấ p thuố c liên tiếp dọ c đườ ng,tưở ng
rằ ng cá i bệnh vô că n nguyên ấ y khô ng thuố c rồ i cũ ng khỏ i. Đâ u có ngờ ngươi vộ i từ
trầ n. Hỡ i ơi thương thay! Tạ i vấ t vả ư? Tạ i mệnh ư? Nếu mệnh ngươi chỉ có thế, sao
khô ng chết ở nơi lam chướ ng, trậ n mạ c mà lạ i chết và o lú c bệnh tậ t tầ m thườ ng.
Mệnh chă ng? vấ t vả chă ng? Hỡ i ơi thương thay!
Lạ i thêm, ngươi vố n là ngườ i ítệnh, cho nên trong bà i thơ trẫ m tiễn châ n
ngươi có câ u: "Ngườ i ta sinh ở đờ i là gử i. Thọ yểu hiền ngu cũ ng chết thô i". Đó là
cá i tình lý châ n thự c. Đương lú c lo â u, hổ thẹn đè nén trong lò ng điều sở nguyện
bấ y giờ chỉ có thế, cho nên chẳ ng mà ng đến việc lự a lờ i nó i, muố n nó i rõ châ n tình,
muố n dù ng lờ i cả m độ ng khích lệ ngươi cố t mong cho đượ c thà nh cô ng, chứ khô ng
có ý gì khá c. Nhưng lạ i có nhữ ng chữ "thừ a vâ n" (cưỡ i mâ y) "chi thỉ" (mũ i tên giữ
lạ i). Khi Tuấ n đi sứ , vua cho bà i trạ o ca (76) có nhữ ng câ u rằ ng :
Dịch:
Mộ t đờ i phiền lụ yộ t mai đồ n
Dù ta cưỡ i mâ y về đế hương
Ngươi từ khi đi Bắ c Kinh về, xét kỹ tình hình củ a ngườ i củ a mình, dườ ng như
đã có ý kiến nhấ t định. Chuyến đi nà y cũ ng khô ng phả i là cẩ u thả , mà là hy vọ ng
(có kết quả ) lớ n lao. Khô ng ngờ cơ hộ i chẳ ng chiều lò ng, phả i là m cho xong chuyện.
Trong (tình thê) bấ t đắ c dĩ đó , trẫ m vẫ n mong sao có đượ c ngườ i giú p đỡ , khô ng
ngờ ngươi vộ i phụ trẫ m. Có chi chưa đạ t, ngó tả , nhìn hữ u như mấ t châ n tay.
Đương cá i lú c nhiều việc khó khă n nà y, ngườ i bạ n lú c gian.nan có thể thiếu đượ c
ư? Vạ n nhấ t mà giấ c mộ ng con hươu (80) khó thà nh sự thự c, chim tinh vệ lấ p biển
(81) nhữ ng uổ ng cô ng, việc khô i phụ c bờ cõ i chưa đền đượ c ơn, mũ i tên gố i lạ i vô
cô ng hiệu, thờ i ngươi ở lướ i đấ t có biết, cũ ng â n hậ n khô ng bao giờ nguô i. Hỡ i ơi
thương thay ! Số mệnh ngươi ư? ! Số mệnh trẫ m ư?! Tà i đứ c cô ng nghiệp củ a
ngươi, đã có ngò i bú t củ a sử thầ n. Đâ y trẫ m chỉ ghi lạ i cá i tình tri giao đố i vớ i
ngươi, gọ i có mấ y lờ i, ró t mấ y chén rượ u, cho trọ n cá i nghĩa thủ y chung vua tô i mà
thô i. Hỡ i ơi thương thay!".
Nhâ n vậ t bổ di sơn hả i tậ p,
Phong ba bộ i tỉ Độ ng Đình hồ .
Mậ u triển du vi tá n viễn đồ .
Dịch:
Nhâ n vậ t bổ di tậ p sơn hả i,
Só ng gió gấ p mấ y hồ Độ ng Đình.
Tự là Đạ m Như, ngườ i Thanh Chương, Nghệ An (Nay thuộ c huyện Nam Đà n).
Khoa Quý sử u Tự Đứ c nă m thứ 6 (1853) cù ng vớ i ngườ i hà ng tổ ng là Nguyễn Đứ c
Đạ t cù ng đỗ Đệ nhấ t giá p tiến sĩ cậ p đệ đệ tam danh, thụ chứ c Hà n lâ m trướ c sung
Hà nh tẩ u Nộ i cá c Bí thư sở , rồ i thă ng thừ a chỉ. Nă m thứ 12 (1859), thă ng Thị giả ng
họ c sĩ đi khá m xét việc đà o sô ng ở Nghệ An. Nă m thứ 23 (1870) là m Tham biện Nộ i
cá c sự vụ .
Vă n Giao hầ u việc gầ n nơi thanh yếu, đượ c vua thườ ng hỏ i đến, phà m nhữ ng
việc cơ mậ t, trọ ng yếu tấ t thà nh thụ c trình bày, vua rấ t ngợ i khen. Nă m thứ 16
(1863) mấ t tạ i chứ c, 53 tuổ i, đượ c tặ ng Quang Lộ c tự khanh.
Vũ Khắ c Bô n
Vũ Khắ c Bô n tự là Trọ ng Phu, ngườ i La Sơn, Hà Tĩnh (nay là Đứ c Thọ tỉnh Hà
Tĩnh). Cha là Khắ c Kiệm, đỗ hương tiến khoả ng nă m Gia Long, qua Tri huyện Yên
Định và Quả ng Xương, giữ mình liêm chính, nhữ ng khi rỗ i việc cô ng từ ng giú p họ c
trò trong hạ t giả ng tậ p, sau thă ng Tri phủ Anh Sơn, chưa kịp đến nhậ m chứ c thờ i
chết.
Khắ c Bô n mồ cô i cha từ khi c ở trong bụ ng. Mẹ là Phạ m Thị, giữ tiết nuô i
nấ ng. Bô n lú c bé thô ng tuệ, 14 tuổ i đã có tiếng hay chữ . Tự Đứ c nă m thứ 6 (1853)
thi hộ i đỗ ấ t khoa, bắ t đầ u bổ Tri huyện Bố Trạ ch, huyện ở bờ biển, nhiều đấ t nướ c
mặ n, trướ c có cá i đậ p ngă n nướ c thủ y triều bị bỏ đã lâ u, Khắ c Bô n về, sứ c dâ n phu
đắ p lạ i, khô ng bị nướ c mặ n là m hạ i nữ a, dâ n đượ c tiện lợ i. Sau chuyển bổ đi Tri
huyện Yên Dũ ng, rồ i thă ng Tri phủ Tĩnh Gia, mã n trậ t, và o là m Hình bộ lang trung.
Thă ng Thừ a Thiên phủ thừ a thờ i bị việc phả i mấ t chứ c, đượ c hiệu lự c, đi lang biện
quâ n thứ Lạ ng Sơn rồ i mắ c bệnh về nghỉ. Sau lạ i cho khở i phụ c là m Trướ c tá c lĩnh
Đố c họ c Nghệ An, họ c trò tin theo nhiều, rồ i thì mấ t.
Nguyễn Hanh
Tự là Gia Cá t, ngườ i Hò a Vang, Quả ng Nam. Tính cẩ n thậ n ở nhà có tiếng hiếu
hạ nh. Đỗ hương tiến Tự Đứ c nă m thứ 5 (1852), đi nhậ m phủ huyện rồ i là m Ngự sử ,
có tiếng giỏ i giang. Thă ng Hà tĩnh phó quả n đạ o rồ i đổ i lĩnh Á n sá t sứ Nghệ An. Vì
việc phò ng bị sơ sà i ở quâ n thứ , bị cách chứ c đi hiệu lự c quâ n thứ Tuyên Quang
đượ c khở i phụ c là m bang biện rồ i mắ c bệnh về nhà . Gặ p lú c dâ n đó i, đi khuyến
quyên giú p việc chẩ n cấ p đắc lự c, đượ c thưở ng cho khở i phụ c là m Thị độ c Khoả ng
nă m Đồ ng Khá nh, trong hạ t khô ng yê Khâ m sai Phan Thanh Liêm ủ y đi nhà thờ đạ o
Phú Thượ ng thương thuyết, bị giết ở giữ a đườ ng, nă m ấ y 67 tuổ i. Vua cho là chết
vì việc nướ c, tặ ng Đạ i lý tự khanh.
Lê Đình Tuấ n
Tự là Thú c Trạ ch, ngườ i Hương Trà , Thừ a Thiên, đỗ hương tiến Tự Đứ c nă m
thứ 5 (1852), do châ n Hà n lâ m điển bạ sung Sử quá n khả o hiệu chuyển đi Tri
huyện Đồ ng Xuâ n. Bấ y giờ cương giớ i mặ t biển Nam Kỳ lụ c tỉnh có cá o cấ p. Đình
Tuấ n khuyên dâ n quyên nộ p tiền, thó c để giú p quâ n. Lạ i thâ n đi đố c bắ t đượ c tên
phạ m trố n là Đinh Vă n Chính. Quả ng đạ o Phú Yên Nguyễn Trung Thà nh đề cử là
ngườ i tham liêm, giỏ i giang, đượ c cấ t lên tò ng ngũ phẩ m, lĩnh Cấ p sự trung Hình
khoa, rồ i thă ng mã i lên Hồ ng lô tự khanh lĩnh Bố chính sứ Khá nh Hò a. Vua dụ
rằ ng : "Khá nh Hò a đấ t nhỏ , dâ n ít, ngươi nên gia tâ m vỗ về, đem lạ i đờ i số ng tố t
đẹp cho dâ n, đừ ng cam chịu tầ m thườ ng, thờ i là tố t". Sau đượ c thự c thụ Bố chính
sứ , lâ u rồ i thă ng thự Tuầ n phủ Khá nh Hò a. Kịp khi có cá i việc ngườ i khá ch tên là
Trầ n Khai Kim sợ bỏ trố n, Suý phủ Phá p thườ ng nó i đến mã i, Tuấ n bị đổ i xuố ng
Quang lộ c tự khanh lĩnh Bố chính Quả ng Trị hộ lý Trị Bình tuầ n phủ . Hô m bá i từ đi
nhậ m chứ c, vua dụ rằ ng : "Quả ng Trị đấ t xấ u, dâ n nghèo. Ngươi trả i nhậ m mọ i nơi
đã lâ u, nay đến đấ y, nên vì dâ n chấ n hưng điều lợ i, bài trừ điều hạ i, sao cho dâ n
đượ c tỉnh lạ i. Đến như đấ t Cam Lộ cũ ng là chỗ rấ t quan trọ ng xung yếu nên thờ i
thườ ng gắ ng để mắ t đến, trù tính là m ệc thế nà o khiến có lợ i cho nướ c nhà mớ i
xứ ng đá ng sự ủ y thá c". Chưa bao lâ u, chuyển về Thị lang Hình bộ , rồ i thă ng quan
Tham tri quyền chưở ng bộ vụ . Nă m thứ 34 (1881) thờ i mấ t, thọ 50 tuổ i. Vua đượ c
tin nó i rằ ng : Tuấ n trả i nhậ m lâ u, siêng nă ng, cẩ n thậ n khô ng bao giờ thay đổ i, nay
vộ i chết, đá ng tiếc đặ c gia cấ p cho 300 quan tiền và sa lụ a. Con là Đình Vỹ do châ n
ấ m sinh là m đến Tri huyện Vĩnh Bả o.
Ngô Vă n Độ
Nguyễn Cao Bính ngườ i Thạ ch Hà , Hà Tĩnh. Cha là Thườ ng Trâ n là m Viên
ngoạ i lang. Cao Bính lú c trẻ thô ng minh, lanh lợ i, mườ i tuổ i đã biết tậ p là m vă n. Đỗ
hương tiến Tự Đứ c nă m thứ 8 (1855). Bắ t đầ u theo Tậ p hiền viện là m Kiểm biện
sá ch Vậ n hả i, rồ i lạ i sung là m Kiểm biện sá ch Kim giá m ở Nộ i cá c. Sá ch xong, bổ đi
Tri huyện Hò a Vang. Qua Hà n lâ m viện Tu soạ n và Hà nh tẩ u Nộ i cá c Bả n chương sở
Bấ y giờ vì Quả ng Nam quâ n thứ là Đà o Trí có sớ tiến cử , đượ c cấ t lên trướ c tá c
sung chứ c Tù y biện quâ n thứ . Sau rồ i lĩnh Tri phủ Thuậ n Thà nh. Nă m thứ 18
(1865) bổ Tá n tương quâ n thứ Lạ ng Bình, sau thă ng Hà n lâ m viện thị độ c họ c sĩ
lĩnh á n sá t Hưng Yên, lạ i thă ng Bố chính sứ Cao Bằ ng rồ i mấ t tạ i chứ c. Sau vì có
việc, bị truy giá ng xuố ng Hà n lâ m viện thị độ c. Con là Đô n, đỗ hương tiến.
Trầ n Đô n Phụ c
Trọ ng Quang ngườ i Giao Thủ y, đỗ kỳ thi hương nă m Thiệu Trị thứ 2 (1842)
do châ n Tri châ u Đà Bắc đi Tri phủ qua 2 phủ Hả i Ninh, Lâ m Thao. Giữ a niên hiệu
Tự Đứ c, chuyển về Viên ngoạ i lang Bộ Binh thì can việc phả i miễn chứ c. Vì trướ c ở
Hả i Ninh có tiếng giỏ i, chuẩ n cho đượ c theo Nộ i cá c là m sá ch để hiệu lự c chuộ c tộ i.
Sau đượ c bổ đi Tri huyện Thượ ng Lang. Gặ p khi cổ phỉ phá vỡ tỉnh thà nh Cao Bằ ng,
đườ ng đi đạ i đồ n quâ n thứ bị nghẽn, Trọ ng Quang bèn sang Quả ng Tâ y theo Tạ
thố ng lĩnh về tiến đá nh thu phụ c đượ c (thà nh), đượ c sung là m Tuầ n biên lang biện.
Sau đó , Cao Bằ ng lạ i bị phỉ chiếm cứ . Nă m thứ 24 (1871), quâ n cá c đạ o củ a ta lạ i
lấ y lạ i đượ c, vua thấ y Trọ ng Quang nhiều cô ng lao, bổ là m sá t sứ Cao Bằ ng, rồ i
Quang mấ t tạ i chứ c.
olor="black">
Phạ m Hữ u C
Tự là Huy Phủ , ngườ i Diên Phướ c, Quả ng Nam. Đỗ hương tiến Tự Đứ c nă m
thứ 3 (1850), do châ n điển tịch lĩnh giá o thụ Thă ng Bình, Qua tri huyện 3 huyện
Bồ ng Sơn, Phong Doanh, Châ n Ninh rồ i và o là m Giá m sá t ngự sử . Rồ i chuyển sang
Viên ngoạ i lang Cô ng bộ , thă ng Lang trung, đổ i sang Hồ ng lô tự khanh thờ i sung
là m Quả n đố c chiếc hỏ a thuyền Mẫ n thỏ a đằ ng huy đi Quả ng Bình là m việc quâ n.
Nă m thứ 24 (1871), Chiểu đá nh nhau vớ i giặ c biển bị thương, vua sai mang cho
sâ m, quế và 30 lạ ng bạ c. Sau vì vết thương nặ ng mà chết, nă m ấ y 48 tuổ i. Theo lệ
chết trậ n, cho truy tặ ng Hà n lâ m viện trự c họ c sĩ. Con là Quy, là m Tư vụ Cô ng bộ .
n>
Lê Khắ c Nghị
Trầ n Vă n Chuẩ n
Vă n Chuẩ n thườ ng lưu tâ m về chính thuậ t. Trướ c phụ ng mệnh sang sứ Yên
Kinh, có đượ c bộ "Trầ n thi ngũ loạ i di qui đem về khắ c bả n ấ n hà nh. Nă m đầ u
Thà nh Thá i (1889) có chỉ ban khen. Con là Nguyên Quả ng châ n tú tà i, thụ chứ c
Kiểm thả o đi lĩnh Tri huyện Tuyên Hó a.
es New Roman">
Đặ ng Vă n Kiều
Bấ y giờ vua chú ý đến việc nho họ c, mù a thu nă m thứ 18 (1865) lạ i mở chế
khoa, xuố ng chiếu cho trong Kinh, cá c tỉnh có cử nhữ ng ngườ i vă n họ c đều mờ i đến
thi ở dướ i cử a khuyết. Vua thâ n ra vă n sá ch, Vă n Kiều đượ c chọ n đứ ng đầ u, cho đỗ
Đệ nhấ t giá p nhã sĩ cậ p đệ đệ tam danh. Nă m thứ 19 (1866) đượ c bổ Á n sá t sứ
Quả ng Bình. Nă m thứ 23 (1870) sung Tô n họ c chưở ng giá o rồ i chuyển sang Thị
giả ng họ c sĩ sung Sử quá n Toả n tu. Nă m thứ 26 (1877), Bắ c kỳ hữ u sự , dâ n
Nghệ An nhâ n vậ y khô ng đượ c yên tỉnh. Vă n Kiều phụ ng chỉ đi hiểu dụ . Sau đó
triệu về lạ i giữ châ n Thị giả ng họ c sĩ toả n tu ở trong Sử quá n 10 nă m
Hoà ng Hữ u Tà i
Tự là Đạ t Chi, ngườ i Phướ c Thọ , Sơn Tâ y, con chá u Thạ c quâ n cô ng Phù ng
Cơ đờ i Lê. Cha là Đồ ng, do châ n chư sinh là m lên, đượ c bổ Đô chỉ huy sứ .
Phạ m Hy Lượ ng
Ngườ i Bình Sơn, Quả ng Ngã i, là con Vệ ú y Cầ m ở Gia Định Hữ u thủ y vệ. Sau
Cầ m mấ t, Định nhâ n ngụ ngay ở nơi cha đó ng quâ n. Định am hiểu võ nghệ, dũ ng
cả m, mưu lượ c. Tự Đứ c nă m thứ 14 (1861) , thà nh Gia Định hữ u sự , Định hưở ng
ứ ng việc nghĩa, chiêu mộ thú dõ ng đượ c hơn 6.000 ngườ i, lạ i kiêm quả n nhữ ng đầ u
mụ c thâ n hà o mộ việc nghĩa, dồ n lậ p 18 cơ quâ n luô n chố ng đá nh ngườ i Phá p, thu
hoạ ch đượ c sú ng ố ng khí giớ i và đú c chế thêm để dù ng, đượ c bạ t bổ là m quả n cơ
lĩnh Phó lã nh binh Gia Định.
Khi hò a ướ c đã định, xuố ng dụ cho Nam kỳ thô i việc binh, đổ i bổ Định về Phú
Yên. Bấ y giờ dâ n khở i nghĩa cá c tỉnh cử Định là m đầ u mụ c, trình bày xin đá nh.
Triều đình cho thế là trá i hiệp ướ c, khô ng cho, và sai Khâ m sai đạ i thầ n Phan
Thanh Giả n về hiểu dụ . Định, mã i khô ng chịu đến nhậ m chứ c, cứ lú c ẩ n, lú c hiện
chố ng đá nh, xưng là Trung thiên tướ ng quâ n, sau vì thấ t lợ i bị chết. Con là Tuệ,
cũ ng chết vì việc quâ n. Vợ Định là Lê Thị Thưở ng khô ng nơi nương tự a trở về
nguyên quá n là m ă n.
Nă m thứ 27 (1874), quan tỉnh Quả ng Ngã i đem việc Định là ngườ i nghĩa khí
đá ng khen, vợ Định nghèo khổ đá ng thương, tâ u xin cấ p dưỡ ng chung thâ n cho
ngườ i vợ mỗ i thá ng 20 quan và 2 phương gạ o.
Nă m thứ 31 (1878), phiên thầ n Trà Quý B��nh tâ u nó i mộ t nhà cha con
Trương Định trung nghĩa, biết rõ từ lâ u, đượ c chuẩ n cấ p cho 5 mẫ u tự điền, cho
ngườ i tộ c thuộ c là Vă n Hổ thừ a tự .
Nă m thứ 24 (1871) (83) vua nghĩ đến Định, lạ i sai dự ng đền ở xã Tư Cung sở
tạ i để thờ , cấ p thêm cho ngườ i vợ mỗ i thá ng lên 10 quan và sai xã ấ y thỉnh thoả ng
đến thă m nom. Sau khi thị mấ t, cho 100 quan tiền.
Ngườ i châ u Tiên Yên thuộ c Quả ng Yên. Châ u nà y nguyên thuộ c phủ Khâ m
châ u nướ c Thanh. Tự Đứ c nă m thứ 9 (1856), Thỏ a là m Cai tổ ng tổ ng Hả i An, đến
phủ Hả i Ninh đệ đơn xin đem châ u mình qui phụ , đượ c bổ thụ Cử u phẩ m bá hộ .
Nă m thứ 15 (1862) tên nghịch Phượ ng khở i biến đá nh vỡ phủ thà nh Hả i Ninh.
Đình Thỏ a khô ng chịu theo giặ c, tự đứ ng mộ thủ dõ ng đá nh lấy lạ i thà nh, đượ c
thưở ng cai độ i. Sau vì quyên giú p hơn 5 nghìn quan tiền quâ n nhu, đượ c bạ t bổ
Phó vệ ú y.
Đình Thỏ a từ khi qui phụ theo quâ n thứ trong vò ng 4 nă m, đã bắ t, chém
đượ c phỉ và đấ u mụ c phỉ cả thả y hơn 180 tên, và bắ t đượ c củ a ngụ y 1 trung quâ n
đô thố ng, 1 đạ i tướ ng lạ i thuê mộ dõ ng toà n ngườ i nướ c Thanh trợ chiến, luô n lậ p
đượ c chiến cô ng; xác thự c là có cô ng lao vấ t vả . Vua ban khen, cho truy thụ Chưở ng
vệ, sai sở tạ i dự ng đố n thờ , ban tên là đền Cầ n Trung, để nêu danh.
Đồ ng Vă n Quỳ
QUYỂ N 39
Lê Liêm
Tự là Thanh Khê, ngườ i Lương Phú , Gia Định, là ngườ i thô ng minh lanh lợ i
có tà i là m việc. Tự Đứ c nă m thứ 5 (1852), đỗ hương tiến. Nă m thứ 12 (1859) Gia
Định có cá o cấ p, mộ dõ ng đi tò ng quâ n. Qua là m Giá o thụ Hoà ng Trị, Tri huyện Kim
Giang, chuyển sang Tri phủ Định Viễn rồ i đổ i đi An Nhâ n. Bấy giờ quâ n nhu ở Bắ c
Kỳ rấ t tố n, Liêm quyên 1 vạ n quan tiền để giú p quâ n, đượ c thă ng bổ Viên ngoạ i
lang Lạ i bộ . Nă m 26 (1873) ô ng đượ c đổ i đi Đố c họ c Bình Định, chưa bao lâ u thă ng
Á n sá t sứ Khá nh Hò a.
Nă m thứ 33 (1880), tiết Ngũ tuầ n đạ i khá nh, ô ng đượ c sung Khâ m điểm
(đượ c chấ m về triều chú c hỗ ), đi qua Quả ng Nam, gặ p lú c dâ n đó i, điều trầ n về
cô ng việc cứ u hoạ n. Vua khen là m có họ c thứ c, cấ t lên chứ c Bố chính sứ Bình Định,
qua thă ng chứ c Thị lang Hộ , Binh, Cô ng 3 bộ thờ i chuyển lên thự Tham tri Binh bộ
kiêm Tả phó đô ngự sử . Nă m thứ 36 (1883) đổ i đi thự Tuầ n phủ Thuậ n Khá nh.
Nă m Ấ t Dậ u niên hiệu Đồ ng Khá nh (1885) bọ n hiệp quả n Hồ Bình thuộ c tỉnh gâ y
việc, Liêm bị chú ng bắ t, việc tâ u lên, bị giá ng bố n cấp, ly chứ c. Sau lạ i bị phỉ dìm
chết, khi ấ y 58 tuổ i, đượ c truy thụ Bố chá nh sứ .
Vũ Tú c
Tự là Nguyên Nhị, ngườ i Nam Trự c, Nam Định, lú c trẻ có tiếng hay chữ . Tự
Đứ c nă m thứ 11 (1858) đỗ hương tiến, bắ t đầ u sung Dự c thiện ở phủ Phú Lương
cô ng rồ i bổ Tri huyện Bấ t Bạ t. Bấ y giờ cổ phỉ lan trà n, Tú c mộ hơn 500 thủ dõ ng
phò ng ngự huyện hạ t, rồ i sung Thương biện quâ n vụ quâ n thứ Hưng Yên, mang số
dõ ng mộ trướ c theo sai phá i. Thố ng đố c Hoà ng Tá Viêm nhiều lầ n ủ y đi cá c hạ t
Lâ m Thao, Thanh Oai, đề phò ng trấ n á p và đá nh bắ t, cổ nhiều cô ng trạ ng.
Nă m thứ 27 (1874) cấ t lên Tri phủ Nam Sá ch, vì có tiếng tố t đượ c gia Hà n
lâ m viện thị độ c. Nă m sau sung quả n lý nha thương chính Hả i Phò ng. Nă m thứ 13
(niên hiệu nà y có lẽ nhầ m) thă ng Thị độ c họ c s97; lĩnh Bố chính sứ Hả i Dương
kiêm phò ng khẩ n chá nh sứ . Nă m thứ 32 (1879) bổ Quang lộ c tự khanh vẫ n lĩnh
chứ c như cũ . Tú c nhậ m chứ c ở đâ y lâ u nă m, gặ p việc là m đượ c trô i chả y, thườ ng
đượ c việc về sung là m việc Cá c, lạ i đượ c thă ng lĩnh Tuầ n phủ Ninh Bình, đều vì
quan tỉnh xin lưu lạ i rồ i lạ i
Nă m thứ 36 (1883) việc nghị hò a thà nh, chuẩ n cho các quan tỉnh đều về chỗ
cũ . Tú c cù ng vớ i đồ ng sự về đến Hả i Phò ng, vô cù ng phẫ n uấ t, nhâ n uố ng rượ u quá
say khô ng dậ y đượ c rồ i mấ t. Nă m ấ y 53 tuổ i.
Phan Vă n Dư
man">
Nguyễn Vă n Liêm
<font color="black"> Tự là Thoá i Chi, ngườ i Yên Thà nh, Nghệ An. Đỗ hương
tiến Tự Đứ c nă m thứ 11 (1858). Bắ t đầ u thụ chứ c Hà n lâ m viện điển tịch đi hậ u bổ
ở tỉnh Thanh Hó a. Qua thay cô ng việc ở cá c huyện Hoà ng Hó a, Mỹ Hó a và Đô ng
Sơn, sau thă ng tu soạ n lĩnh Huấ n đạ o Quỳnh Lưu. Nă m thứ 26 (1873), đượ c cấ t lên
Trướ c tá c sung hả i phò ng Thương biện Nghệ An, phò ng bị có phương phá p. Sau vì
có đạ i tang rờ i chứ c. Nă m thứ 33 (1880) triệu ra bổ Viên ngoạ i lang Bộ Hộ , sung Vũ
khố phó giá m lâ m, lâ u rồ i bổ Nộ i vụ phủ lang trung. Kiến Phướ c nă m đầ u (1884)
thă ng Hổ ng lô tự khanh biện lý Hộ bộ sự vụ rồ i ố m về, mấ t nă m 57 tuổ i.
Vă n Liêm ngà y thườ ng thờ cha mẹ có hiếu, là m quan có tiếng ngay thẳ ng.
Trướ c tên là Sính, sau đổ i ra tên nà y.
Trầ n Hy Tă ng
Tự là Vọ ng Thù . Trướ c tên là Bích San, sau đượ c vua ban cho tên hiện nay.
Ngườ i Mỹ Lộ c, Nam Định. Cha tên là Doã n Đạ t, họ c rộ ng, đỗ Ấ t khoa kỳ thi Hộ i, qua
là m Tậ p hiền viện kiểm thả o sung Kinh diên khở i cư chú , bấ y giờ đi lĩnh huyện
Thạ ch Thấ t, sau thă ng mã i đến Đố c họ c ở 2 tỉnh Sơn Tâ y, Nam Định rồ i bổ Á n sá t
sứ Hưng Hoá . Là m quan nghiêm trang, cẩ n trọ ng, có tiếng tố t.
"0">
Gặ p bấ y giờ vua muố n rõ tình hình nướ c ngoà i, cho Tă ng đi Trung Quố c cô ng
cá n. Sau đó vì có tang cha rờ i chứ c. Khi hết tang lạ i sung là m việc ở Cá c rồ i thă ng Tả
thị lang Lạ i bộ lĩnh Tuầ n phủ Trị Bình. Vua thâ n là m ban cho bà i thơ rằ ng :
Bắ c cố trù ng sinh hạ nh
Lệ hả i vă n lan vậ n
Đan xa kỳ tấ u tích
Phụ c kiến chưở ng ti luâ n.
Lệ hả i vă n lan chuyển,
Dịch:
Hữ u ý tâ n đồ diệc bấ t dĩ.
Dịch:
Đoạ n cuố i nó i:
Sở họ c y hà ? họ c trí dụ ng
Bấ t tu chiết liễu tặ ng lâ m hà nh
Dịch:
Họ c để là m gì? họ c để dù ng
Dịch:
Tự là Thuầ n Chi, ngườ i Duy Xuyên, Quả ng Nam, tính thanh liêm ngay thẳ ng.
Đỗ hương tiến Tự Đứ c nă m thứ 17 (1864). Bắ t đầ u bổ Huấ n đạ o Duy Xuyên rồ i
thă ng Tu soạ n lĩnh Tri huyện Hương Trà có tiếng tố t. Và o là m Giá m sá t ngự sử
chuyển sang Viên ngoạ i lang Lạ i bộ rồ i sau thự Lang trung. Nă m thứ 36 (1883), đổ i
bổ Thị độ c họ c sĩ lĩnh Á n sá t sứ Quả ng Trị, là m việc cô ng bằ ng đượ c dâ n yêu, rồ i
đổ i về biện lý Binh bộ kiêm Chưở ng Đạ i lý tự ấ n triện.
Kiến Phướ c nă m đầ u (1884) vua dụ rằ ng : "Chứ c Kinh triệu từ xưa vẫ n trọ ng,
cũ ng vì là việc khó . Gầ n đây bổ sung ít thấ y đượ c ngườ i giỏ i". Bèn cho Thanh Thụ c
lĩnh Thừ a Thiên phủ doã n. Sau đổ i đi Bố chính sứ Bình Thuậ n chưa đượ c bao lâ u
thờ i ố m chết nă m 53 tuổ i. Anh là Thanh Châ u, Thanh Nhã , em là Thanh Nghiêm
đều có tiếng hay chữ . Thanh Châ u đỗ hương tiến Thiệu Trị nă m đầ u (1841), Thanh
Nhã phó bả ng Tự Đứ c nă m thứ 4 (1851), đều là m đến Tri huyện. Thanh Nghiêm đỗ
hương tiến Tự Đứ c nă m thứ 26 (1873) chưa kịp là m quan. Con Nhã là Thanh
Lượ ng, con Nghiêm là Thanh Tú c cù ng đỗ kỳ
Hà Vă n Quan
Buổ i đầ u Vă n Quan mắ c bệnh, vua nghĩ tình cô ng lao vấ t ả luô n ban cho sâ m
quế quí. Đến khi mấ t, hậ u cấ p tiền, lụ a và cho ban tế tạ i nhà . Bấ y giờ Quan 62 tuổ i.
Sá ch là m ra có quyển "Yên hà nh nha ngữ thi cả o". Con là : Vă n Khai, ấ m thụ Hà n
lâ m kiểm thả o; Vă n Khá ng, đỗ cử nhâ n.
Thà nh Ngọ c Uẩ n
Hiệu là Tỉnh Hiên, lú c trẻ thô ng minh hiểu biết, 10 tuổ i đã biết là m vă n. Đỗ
hương tiến Minh Mạ ng nă m thứ 18 (1837). Thi Hộ i trú ng cá ch, nhưng can viết
trang sai lấ m can cô ng lệnh, giao Bộ Lạ i luậ n tộ i, lâ u rồ i đượ c tha về. Thà nh cà ng ra
sứ c đọ c sá ch giả ng tìm về mô n họ c cá c sá ch kinh, họ c trò theo họ c ngà y mộ t đô ng.
Phiên sứ Nguyễn Đă ng Giai rấ t trọ ng, cho con theo họ c. Tự Đứ c nă m thứ 18 (1865),
xuố ng chiếu cho trong Kinh và cá c tỉnh tiến cử ngườ i có tà i đứ c, Tổ ng đố c Ninh
Thá i Nguyễn Tri Phương xin tiến cử lên, đượ c bổ Cung phụ ng lĩnh Huấ n đạ o An
Lạ c, rồ i qua thă ng Trướ c tá c lĩnh Đố c họ c Bắ c Ninh. Nă m 70 tuổ i hưu trí rồ i chết.
Vũ Như
>
Lâ m Hoà nh
Trướ c tên là Chuẩ n, ngườ i Gio Linh, Quả ng Trị. Đỗ phó bả ng kỳ thi Hộ i Tự Đứ c nă m
thứ 21 (1868), đượ c bổ Tri huyện Kim thà nh nhiếp (là m thay cô ng việc chứ c to
hơn khi chứ c nà y vắ ng hay khuyết) phủ vụ Ninh Giang. Nă m thứ 25 (1872), do
châ n Quố c tử giá m Tư nghiệp cấ t lên biện lý Lạ i bộ , rồ i Tham biện Nộ i cá c sự vụ bổ
đi á n sá t sứ
Nă m thứ 31 (1878) sung Phó sứ sang Yên Kinh, khi về, Hộ lý tuầ n phủ Nam Ngã i.
Sau đó đổ i bổ Bố chính sứ Quả ng Ngã i, gặ p lú c đờ i số ng khó khă n, tâ u xin khuyến
quyên chẩ n cấ p giú p dâ n, cứ u số ng rấ t nhiều ngườ i. Nă m thứ 24 (1881) bổ Hữ u thị
lang Cô ng bộ rồ i thự Hữ u tham tri. Hoà nh dâ ng sớ nó i cử a biển Thuậ n An là cử a
ngõ Kinh sư, việc phò ng bị rấ t là quan yếu Và từ khi có ngoạ i hoạ n đến nay hơn 20
nă m, (ngườ i xưa nó i) "buộ c từ lú c chưa mưa" mà nay cò n sợ khoá ng như vậ y lơ
thết nhiên có việc xả y ra thờ i trô ng cậ y và o đâ u”. Vua chuẩ n cho đi chỉ thị cô ng việc
sử a sang cử a biển. Nă m thứ 36 (1883) sung Thuậ n An hả i phò ng phó phò ng huyện,
gặ p bấ y giờ nướ c Phá p đem chiến thuyền đến đá nh, Hoà nh cù ng vớ i Hữ u quâ n Lê
Sỹ, Thố ng chế Lê Chuẩ n, Chưở ng vệ Nguyễn Trung đều bị chết (việc chép ở truyện
Sỹ). Hồ i đầ u Kiến Phướ c (1884) truy tặ ng Cô ng bộ Thượ ng thư. Con là Hoà n do
châ n ấ m thụ Biên tu là m đến Lang trung Cô ng bộ .
Nguyễn Vă n Á i
Nguyễn Hữ u Độ
Nă m ấ y, Độ xin nghỉ giả hạ n về chỗ ở trong Kinh chă m nom cha mẹ, mồ mả . Vua hỏ i
về việc Bắ c kỳ, Độ nó i Bắc kỳ có 3 điều khó khă n lớ n là việc đê, nạ n lưu dâ n và
thương chính, rồ i tâ u bà y về nhữ ng cô ng việc nên là m : Việc đê điều cô ng phu, phí
tổ n rấ t lớ n, mộ t phen xếp đặ t có quan hệ đến lợ i lạ i muô ni, xin cho khá m xét kỹ rồ i
bà n bạ c vớ i quan tỉnh là m tậ p tâ u lên. Nạ n lưu dâ n thì nó i bọ n nà y là nhữ ng phỉ
trố n bên nhà Thanh, hung hã n khó thuầ n lạ i đượ c, trướ c đến giờ đã hao phí lương,
tiền, rú t cụ c vẫ n khô ng xong. Xin do địa phương tù y tiện xếp đấ t cho chú ng đến ở ,
nếu chú ng bướ ng ngạ nh khô ng hiểu lẽ thờ i thương nghị vớ i quan Phá p hiệp lự c
tiễu trừ . Về việc Thương chính thờ i nó i ý phá i viên chứ c giỏ i giang hiệp lự c vớ i họ
cù ng trô ng nom là m, mố i lợ i ta cầ n nắ m vữ ng đằ ng chuô i. Vua khen, nghe lờ i, rồ i
cả i bổ là m Lạ i bộ biện lý sung Tham biện Thương bạ c sự vụ . Độ nhâ n lạ i dâ ng sớ
nó i việc chấ m thi Hộ i, quan trườ ng lấ y đỗ bừ a bã i, khô ng xứ ng đá ng, hình tích á m
muộ i. Đình thầ n xét quả đú ng, lạ i đượ c cho là nêu tấ u có sự thự c, đượ c thưở ng thụ
Quang lộ c tự khanh lĩnh Tuầ n phủ Hà Nộ i kiêm Chưở ng thương chính.
Sau khi đến nhậ m chứ c, dâ ng sớ tâ u về kế sá ch sử a trong phò ng ngoà i. Lạ i xin chia
nướ c ra là m 5 đạ o, đều đặ t chứ c tuyên sá t kinh lượ c truấ t trắ c đạ i thầ n. Phà m mọ i
việc thuộ c trong đạ o nhấ t nhấ t phả i xem xét, phả i xét thâ n hà o địa phương tâ u xin
chọ n dù ng, khiến cho trong ngoà i dự a và o nhau, như nanh vuố t giữ lấ y nhau, nếu
họ có sinh lò ng nà o thờ i quâ y quầ n lạ i mà hưở ng ứ ng vớ i nhau. Việc giao xuố ng
đình nghị rồ i bỏ . Độ lạ i tâ u bày chính sá ch lớ n về binh chính, tà i chính cả thả y 8
điều giao xuố ng đình thầ n bà n nghị, có đô i việc thi hà nh. Bấ y giờ (quâ n) đoà n củ a
họ Lưu (Lưu Vĩnh Phướ c) cậ y đô ng, kiêu că ng, ngang trá i. Hữ u Độ biết đạ i cụ c sắ p
biến đổ i, mà họ Lưu cù ng binh lính ngườ i khá ch đều khô ng đủ trô ng cậ y, dâ ng sớ
nó i mã i về việc nà y. Lạ i tư xin đi (tuầ n) biên giớ i sung Đoan Hù ng đạ o tĩnh biên
phó sứ .
Nă m thứ 35 (1882) Hà thà nh thấ t lợ i, Độ sung Phó khâ m sai vă n lĩnh Tuầ n phủ Hà
Nộ i, cù ng vớ i Chá nh sứ Trầ n Đình Tú c cù ng đến Hà Nộ i hộ i thương nhậ n thà nh trì
là m việc. Bấ y giờ quan Phá p muố n cho rú t bỏ quâ n đoà n Lưu, thườ ng nhắ c đến
mã i. Thố ng đố c Hoà ng Tá Viêm cho việc di quâ n là việc khó , mà Hữ u Độ vẫ n cù ng
hắ n (Lưu) đi lạ i thâ n thiện, xin giao cho Hữ u Độ khu xử . Hữ u Độ thờ i bả o rằ ng Vĩnh
Phướ c đã ở lâ u dướ i quyền Tá Viêm, xin giao cho Tá Viêm xử trí; hai ngườ i đều
dâ ng sớ xin chỉ. Vua bèn dụ Hữ u Độ lạ i sung Tĩnh biên phó sứ , cù ng vớ i Tá Viêm
hết lò ng khéo xử trí việc ấ y. Thá ng 11 đổ i đi hộ Tổ ng đố c Hà Ninh. Độ dâ ng sớ xin
từ chố i khô ng đượ c. Gặ p khi xả y ra việc Cầ u Giấy, quâ n Phá p phó ng hoả đố t thà nh,
Hữ u Độ bèn đi đến đó ng ở huyện Từ Liêm. Sau đượ c tin trong Kinh cho biết thuyền
binh Phá p đá nh phá cử a Thuậ n, lạ i ký hò a nghị mớ i, Độ tuâ n dụ về nơi cũ là m việc.
Ban đầ u Hữ u Độ mắ c bệnh, vua luô n luô n sai trung sứ mang ban cho quế, thuố c
quý và phá i ngườ i đến điều trị, rồ i thâ n lậ p đà n cầ u cú ng cho. Khi mấ t, bã i triều 3
ngà y, hậ u ban cho sa, lụ a, tiền và ban mộ t tuầ n tế. Ở Bắc kỳ, cá c cô ng sở quâ n Phá p
đều có đeo bă ng đen để tang theo quố c tụ c. Độ vố n đượ c ngườ i Phá p yêu mến quí
trọ ng là như thế. Con là : Hữ u Lung, dự có cô ng trong việc phò trợ , rộ ng ơn cho
tặ ng Thá i thườ ng tự khanh, phong tướ c Phả Lạ i bá ; Hữ u Tườ ng châ n cử nhâ n, bổ
á n sá t Hà Nam, Hưng Yên, nay đổ i đi Bắc Ninh.
Nguyễn Đình Tự u
Tự là Doã n Ngũ , ngườ i Hà Đô ng thuộ c Quả ng Nam. Đỗ ấ t khoa kỳ thi Hộ i Tự Đứ c
nă m thứ 21 (1868) đượ c thụ chứ c Tu soạ n lĩnh Hộ bộ chủ sự . Nớ i đặ t việc giả ng
tậ p ở Dụ c Đứ c đườ ng, bộ thầ n thấ y là có vă n họ c phẩ m hạ nh, cử lên. Vua thâ n ra đề
cho ứ ng hạ ch đượ c dự hạ ng, thă ng cho mộ t trậ t rồ i cho sung là m. Sau vì có cha mẹ
già , cho đổ i lĩnh Đố c họ c Quả ng Nam. Nă m thứ 32 (1879) bổ Thị giả ng sung chứ c
tá n thiện ở Chính Mô ng đườ ng, chưa bao lâ u lĩnh Quố c họ c sĩ, sung Phó chủ khả o
kỳ thi Hộ i. Đồ ng Khá nh nă m thứ 3 (1888) thă ng Hồ ng lô tự khanh lạ i lĩnh Đố c họ c
tỉnh rồ i ố m mấ t nă m 62 tuổ i.
Tiếp Phương từ ng là m quan nhiều nơi, nhưng nhà vẫ n nghèo tú ng. Ngà y mấ t, phụ
lã o trong ấ p bả o con em gó p tiền giú p đỡ việc tang. Trướ c tên là Lâ n, sau lấ y tên tự
gọ i.
Trịnh Vă n Lâ m
Ngườ i An Thi, Hưng Yên, đỗ hương tiến Tự Đứ c nă m thứ 21 (1868) đượ c bổ Giá o
thụ Thá i Bình . Rồ i đổ i bổ Tri huyện Hà Đô ng, vì can việc bị đổ i xuố ng chứ c liền bổ
Đố c họ c Hà Tĩnh.
Nguyễn Đă ng Ngoạ n
Chưa bao lâ u, á c man Thạ ch Bích nổ i lên Đă ng Ngoạ n am thuộ c tình thế (nơi đó ) lạ i
nă ng đi việc quâ n, cũ ng là ngườ i giỏ i giang thô ng thạ o, cho đổ i sung Tĩnh man quâ n
thứ tá n tương, đố c quâ n tiến đá nh sá ch Man, luô n đượ c thắ ng lợ i.
Nă m thứ 32 (1879) đổ i sung Sơn phò ng tiễu phủ sứ Ngã i Định mang quâ n tiến
đá nh sá ch Man ở Long Võ , đá nh dẹp, vỗ về đú ng đườ ng, đượ c ban kỷ lụ c. Nă m thứ
36 (1883) thă ng Quang lộ c tự khanh vẫ n sung sứ chứ c. Hồ i đầ u niên hiệu Kiến
Phướ c (1884) thă ng Binh bộ Tả thị lang hộ lý Nam Ngã i tuầ n phủ quan phò ng. Kịp
khi Kinh thà nh hữ u sự , tỉnh thà nh nhâ n thế cũ ng khô ng giữ đượ c, Đă ng Ngoạ n lén
trố n về quê, bị giá ng 4 cấ p ly chứ c, rồ i ố m chết.
Nguyễn Xuâ n Ô n
Ngườ i Đô ng Thà nh, Nghệ An, tính cương trự c, trọ ng khí tiết. Đỗ tiến sĩ Tự Đứ c nă m
thứ 24 (1871) do châ n Hà n lâ m biên tu đi thự Tri phủ Quả ng Ninh. Vì thà nh tích trị
dâ n đượ tiến cử , có chỉ đổ i đi Đố c họ c Bình Định, dâ n xin giữ lạ i khô ng đượ c. Nă m
thứ 28 (1875) là m Giá m sá t ngự sử , thă ng Lễ khoa chưở ng ấ n ra lĩnh Á n sá t sứ
Bình Thuậ n rồ i đổ i đi Quả ng Ngã i. Chưa bao lâ u triệu về biện lý Lạ i bộ , dâ n tỉnh
Ngã i lạ i liên danh ký đơn xin lưu lạ i. Vua sai ghi việc đó và o bả n sự trạ ng để khuyến
khích. Rồ i lạ i chuyển sang Hình bộ . Ở Quả ng Bình có nhữ ng á n kinh niên cò n bỏ lạ i
vì tình lý khó khă n khô ng xét ra đượ c. Ô n khâ m phá i đi điều tra kết luậ n. Nhâ n thấ y
việc ở Bắ c thà nh, ô ng mậ t tâ u về điều trầ n cá c khoả n Bộ Lạ i khép tộ i là vi chỉ, bị
cá ch chứ c. Đã đượ c chuẩ n cho lụ c đi rồ i, lạ i đượ c phê "Tạ m cho ở lạ i là m xong việc
phụ c mệnh". Sau đượ c khở i phụ c Thị giả ng lĩnh Đố c họ c Quả ng Bình.
Khoả ng nă m Hà m Nghi (1885) Kinh thà nh hữ u sự , vua dờ i đi nơi khá c, địa phương
nhâ n thế cũ ng khô ng đượ c yên tĩnh. Xuâ n Ô n bỏ quan về.
Xuâ n Ô n lú c trẻ thô ng minh. Khi chưa đỗ , nhà khô ng sẵ n sá ch để họ c từ ng phả i đến
nhà ngườ i họ c chung, hoặ c mượ n sá ch về, chỉ đọ c mộ t lượ t là thuộ c. Là m vă n thì hễ
cầ m đến bú t là xong. Có khi là m vă n về mộ t đầ u đề, là m đến 5, 6 thể mà cấ u
tứ đều khá c nhau và đều tuyệt hay.
Tính thích là m vă n gà cho ngườ i. Ở phủ huyện hà ng nă m đến ngà y rỗ i mở kỳ thi
khả o khó a, Xuâ n Ô n thườ ng mang họ c trò đi theo, là m mộ t cá i lều lớ n, ngồ i ở giữ a,
hơn chụ c họ c trò ngồ i quanh bên phả i bên trá i. Rồ i Xuâ n ô n ệng cứ đọ c suố t bà i nọ ,
lạ i bắ t đầ u đến bà i kia, ngườ i ta lấ y là m kỳ như có sẵ n bài nhá p ở trong bụ ng. Đến
khi ra là m quan, là m việc cô ng bằ ng ngay thẳ ng, đến đâ u cũ ng có tiếng tố t, cho nên
sau khi đổ i đi, ngườ i ta nhớ tiếc. Con là : Xuâ n Hả i, đỗ tú tà i; Xuâ n Vịnh, cử nhâ n.
Hoà ng Hữ u Thườ ng
Nă m thứ 36 (1883) phế đế lậ p lên, trấ n Hả i thà nh thấ t thủ . Sau khi lạ i giả ng hò a,
đượ c sai là m Định ướ c tham biện chuyên Chưở ng vă n thư sự vụ .
Bấ y giờ ở Bắc kỳ sau khi hữ u sự , lò ng ngườ i ngờ sợ , trộ m giặ c nổ i lên tứ tung. Sứ
thầ n Phá p xin phá i viên chứ c giỏ i giang mau đến xử trí. Triều đình cử Đoà n Vă n
Hộ i và Hữ u Thườ ng. Thườ ng đượ c thă ng thự Tham tri Lạ i bộ sung Phó khâ m sai
đạ i thầ n, cù ng vớ i Vă n Hộ i đến bà n định về việc thuế lệ khai mỏ . Khi trở về, bổ sang
Hộ bộ . Khi Cả nh Tô n Thuầ n hoà ng đế bắ t đầ u lên nố i ngô i, đượ c bạ t Cô ng bộ
Thượ ng thư. Nă m thứ 3 (1888) cho thự hiệp biện đạ i họ c sĩ. Hữ u Thườ ng cố từ
khô ng đượ c. Liền dâ ng sớ nó i : Vương chế nó i rằ ng : "Nướ c khô ng có tích luỹ 6
nă m thờ i là cầ n cấ p; nướ c khô ng có tích luỹ 3 nă m thờ i cho là nướ c khô ng ra nướ c
nữ a". Cho nên việc tích trữ là chính sá ch lớ n củ a nướ c, nên suy tính kỹ mà dự
phò ng trướ c.
"Kinh sư là nơi trọ ng địa, quan lạ i, binh lính tụ tậ p đô ng số chi phá t khá nhiều.
Thừ a Thiên số thó c thuế ít, khô ng đủ dù ng trong mộ t hạ t mình, đồ ng niên chi phí
toà n nhờ ở Nam, Bắ c hai kỳ. Nhữ ng nă m trướ c, Bắ c Kỳ chở thó c gạ o về nộ p kinh
mỗ i nă m đến 15 vạ n hộ c, phương, Thanh Hó a chở đến 15 vạ n hộ c, phương, Nghệ
An chở đến 4, 5 vạ n hộ c, phương. Ngoà i số đó lạ i có gạ o cướ c giá , gạ o phụ hao chở
đến bá n ra, con số cũ ng nhiều. Cho nên hạ t gạ o đượ c lưu thô ng, mỗ i phương giá
tiền chỉ 3,4 quan, mà giữ a khi gặ p lú c mù a mà ng kém, dâ n gian cò n có tình trạ ng
ngặ t nghèo. Huố ng nay số thó c Bắ c kỳ phả i chở đến đã cho chiết nộ p bằ ng tiền mà
lương bổ ng quan lạ i binh lính lạ i hậ u hơn trướ c; lạ i, cá c tỉnh từ Thanh Hó a trở về
phía Nam, sau cơn binh hỏ a, 10 nhà thì 9 nhà khô ng, số nhậ p nă m nay khô ng đủ
cung số xuấ t, nên gầ n đâ y cá c tỉnh xin vay, xin miễn thuế, luô n luô n kêu hết ă n. Số
hiện dự trữ ở kho Kinh chỉ cò n có thể chi đượ c 1 nă m mà thô i, có xuấ t mà khô ng
nhậ p, tình hình tích lũ y cô ng và tư thậ t đá ng buồ n. Nếu khô ng dự trữ tính trướ c mà
chỉ trô ng ở sự vậ n tả i củ a hiệu Khá ch Cô ng Xương, thả ng hoặ c gặ p khi só ng gió ,
khô ng thô ng đồ ng thờ i sự chi dụ ng củ a nhà nướ c lấ y và o đâ u? Tuy hiện nay có tà u
thủ y chở gạ o đến bá n, có thể đổ i chá c vớ i họ đượ c, phả i cá i dâ n gian tiêu thụ khô ng
nhiều, nhà nướ c thờ i cũ ng chưa mua trữ cho nên số gạ o chở đến cũ ng ít. Huố ng
bọ n lá i buô n lắ m má nh khó e. Nếu có chở đến cũ ng thừ a cơ lú c mình thiếu ă n, cố
tình kìm hã m để lấ y lã i nhiều. Như thế mà mong cho nướ c có lương thừ a, dâ n
khô ng sắ c đó i, tưở ng cũ ng là chuyện khó .
"Vậ y nay xin đặ t ra Kinh mễ cụ c, bấ t cứ ai xin lĩnh (thầ u), thì họ xuấ tố n ra, nhà
nướ c chỉ phá t bằ ng cho để tiện thô ng thương. Chở đến, bấ t cứ nhiều hay ít, cho
phép đượ c đem bá n cho dâ n. Cò n thừ a bao nhiêu, nhà nướ c sẽ chiếu giá thị trườ ng
mà thu mua. Rồ i quan, quâ n lĩnh lương, đến ngay tạ i chỗ mà lĩnh mà phá t cũ ng
tiện. Hoặ c sứ c cho đem đến Kinh thương chứ a lạ i, mỗ i nă m cầ n đượ c 20 vạ n
phương gạ o đủ để chi phá t.
"Nhà nướ c đã mua thì họ chở đến ngà y mộ t nhiều; ngà y mộ t nhiều thờ i giá ngà y
mộ t hạ . Lỡ khi chở đến khô ng kế tiếp giá gạ o có hơi cao thì nhà nướ c phá t bá n ra
để tiện cho dâ n. Như thế chứ a chấ t sẵ n sà ng, lụ t, hạ n khô ng đá ng lo; hạ t gạ o
thườ ng đủ , cô ng, tư có thể khô ng quẫ n bá ch. Đó cũ ng là mộ t chướ c là m đủ dù ng
cho nướ c, dồ i dà o cho dâ n vậ y". Vua rấ t khen ngợ i nghe lờ i.
Dịch:
Nguyễn Tà i Tuyển
Tự là Chu Sỹ, ngườ i Nam Đà n, Nghệ An, tính thà nh thự c, chấ t phá c, có tiếng là thờ
cha mẹ có hiếu. Đỗ tiến sĩ Tự Đứ c nă m thứ 30 (1877), bổ Tri phủ Tương Dương.
Tạ i chứ c, lưu đến việc canh nô ng, mộ dâ n khẩ n ruộ ng nú i, vỗ về dâ n Man, tấ t cả vớ i
tấ m lò ng thà nh tín, lạ i dâ n mến yêu. Sau do châ n Thị giả ng sung sơn phò ng Phó sứ
Nghệ An. Gặ p khi quâ n Man cướ p bó c ở địa giớ i (phủ ) Tương, (phủ ) Quỳ, Tà i
Tuyển đem quâ n tiến đá nh, ngườ i Man đều đến quâ n đầ u thú . Tuyển bèn đó ng lạ i
ở Quỳ Châ u để chiêu dụ trấ n á p. Có ngườ i thấ y ở đkhí độ c nặ ng, khuyên Tuyển dờ i
về. Tuyển nó i : "Đạ o là m tô i phả i tậ n tụ y, khí lam chướ ng khô ng đá ng kể". Đã có lầ n
bị nướ c lũ nguồ n độ t ngộ t đổ đến, lương thự c chuyên chở khô ng kịp, Tuyển cù ng
quâ n sĩ mấ y ngà y ă n mộ t bữ a, nhưng lấ y cô ng nghĩa kích thích, họ cũ ng đều bền
chí. Kiến Phướ c nă m đầ u (1884) vì vấ t vả quá nhiều sinh bệnh rồ i mấ t ở trong
quâ n, đượ c truy thụ Hà n lâ m viện thị độ c.
Hoà ng Vă n Hoè
Vă n Hoè lú c trẻ có tiếng hay chữ . Đỗ tiến sĩ Tự Đứ c nă m thứ 33 (1880), thụ chứ c
Hà n lâ m viện Tu soạ n. Sau lạ i thấ y họ c rộ ng cho mờ i đến thử đượ c trú ng tuyển, bổ
Thị độ c lĩnh Tri phủ Kiến Xương. Khoả ng niên hiệu Kiến Phướ c, sung bang biện
Bắ c Ninh thứ vụ . Sau vì đi theo quâ n thứ khô ng có cô ng trạ ng, bị đổ i xuố ng chứ c
là m Kinh diên khở i cư chú . Hà m Nghi nă m đầ u (1885) Kinh thà nh hữ u sự , chết
trong nạ n (n32;ớ c). Hồ i đầ u niên hiệu Thà nh Thá i (1889) đượ c truy thụ trướ c tá c.
Anh Vă n Hò e là Kỳ, cũ ng đỗ hương tiến.
QUYỂ N 40
(Phụ : Đặ ng Tích)
Ngườ i Đô ng Thà nh, Nghệ An. Tò ng quâ n nă m đầ u niên hiệu Gia Long (1802) , đượ c
bổ Nghiêm vũ vệ cử u độ i trưở ng, rồ i bổ Tam độ i thí sai chá nh độ i trưở ng. Sau theo
Phó vệ ú y Nguyễn Đình Phú đi miền đườ ng nú i Quỳnh Lưu đá nh nhau vớ i giặ c,
giao chiến mà bị chết. Nă m Tự Đứ c thứ 9 (1856), đượ c liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Nguyễn Thế Cá t
Minh Mạ ng nă m thứ 7 (1826), huyện có tin bá o giặ c, Thế Cá t thâ n mang lệ thuộ c
đến đồ n Thọ Thế bắ t phạ m, giả i về đến giữ a đườ ng qua khu rừ ng là ng Từ Đà , bỗ ng
gặ p quâ n phỉ đó n đá nh, hoả ng hố t ứ ng phó khô ng kịp, bị giặ c đâ m chết vứ t xá c
xuố ng sô ng. Xá c trô i về đến trướ c cử a Vă n từ xã Phượ ng Lâ u, xã nà y sử a lễ đem
mai tá ng, lạ i cả m về cô ng đứ c, dự ng đền thờ . Quan trấ n thủ tâ u lên, vua thương
tiếc, gia thưở ng 50 quan tiền và tặ ng đồ ng tri phủ . Tự Đứ c nă m thứ 6 (1853), đượ c
liệt thờ và o Trung nghĩa từ . Con là Ngọ c Chấ n.
Ngô Vă n Thà nh
Ngô Vă n Thà nh ngườ i Tâ n Hò a, Gia Định, đầ u quâ n nă m Gia Long, trả i thă ng Tượ ng
quâ n vệ ú y. Minh Mạ ng nă m thứ 7 (1826), Phan Bá Và nh gâ y biến ở cá c hạ t Nam
Định, Hả i Dương, Thà nh vâ ng mệnh mang quâ n đi đá nh ở sô ng Cổ Trai (thuộ c tỉnh
Hả i Dương), bị hã m trậ n thấ t lạ c cả thi hà i. Vua đượ c tin thương xó t, tặ ng Chưở ng
cơ, chi 3 quan tiền cô ng, giao cho địa phương xâ y cá i mộ giả , ban tế mộ t tuầ n.
eight="0">
Lạ i Phó vệ ú y Trầ n V59;n Thạ c, Nguyễn Vă n Truyền, phó quả n cơ Nguyễn Phướ c
Quyền, cai cơ Bù i Vă n Giá cũ ng đá nh bắ t ngụ y Và nh, bị chết trậ n. Thạ c, Truyền đều
tặ ng Vệ ú y; Quyền, Giá đều tặ ng Quả n cơ, và đều liệt thờ và o Trung nghĩa từ Thạ c
ngườ i Diên Phướ c, Quả ng Nam; Truyền, ngườ i Phú Cá t Bình Định; Phú , Quyền,
ngườ i Phú Lộ c, Gia Định; Giá , ngườ i Nam Đà n, Nghệ An.
Nguyễn Vă n Thậ n
Hữ u Thuyên, ngườ i Tố ng Sơn, Thanh Hoá . Vă n Thậ n đượ c truy tặ ng Thố ng chế,
Hữ u Thuyên tặ ng Vệ ú y, đều liệt thờ Trung nghĩa tử .
Lê Vă n Nghĩa
Trướ c tên là Hằ ng, ngườ i Kiến Hò a, Định Tườ ng. Tò ng quâ n nă m Gia Long, thă ng
mã i đến Lã nh binh quan tỉnh An Giang. Minh Mạ ng nă m thứ 14 (1833), nghịch
Khô i dấ y loạ n ở Phiên An. Thườ ng mang quâ n đi hộ i tiễu, bị giặ c bắ t. Giặ c dụ hà ng,
Thườ ng khô ng chịu khuấ t. Bấ y giờ Phó lã nh binh Hà Tiên Nguyễn Lộ c cũ ng bị bắ t,
đương bị lưu giam ở trong thà nh. Thườ ng bèn đồ ng mưu vớ i Lộ c ngầ m sai gia
nhâ n đố t kho thuố c sú ng củ a giặ c. Việc tiết lộ , giặ c đều giết cả .
">
Trương Vă n Phượ ng
Trương Vă n Phượ ng ngườ i Phong Điền, Thừ a Thiên. Đầ u quâ n nă m Gia Long thứ
10 (1811) , từ độ i trưở ng thă ng lên cai độ i. Minh Mạ ng nă m thứ 10 (1829), ô ng
mang quố c thư sang Xiêm thô ng hiếu, xong việc trở về, đượ c cấ t lên Thầ n cơ Hữ u
vị phó vệ ú y. Tiến đá nh nghịch Khô i ở Phiên An bị tử trậ n (Lê Vă n Khô i nổ i loạ n
chố ng triều đình nă m 1883 tạ i Phiên An), truy tặ ng là Vệ ú y.
Tă ng Thá p
Ngườ i Đô ng Thà nh, Nghệ An, là ngườ i dũ ng trá ng giỏ i giang có sứ c khỏ e. Tò ng
quâ n khoả ng nă m Gia Long, đến nă m thứ 15 (1816) bổ Chá nh độ i trưở ng. Vì tiễu
phỉ có cô ng, đượ c bổ Hoà n vũ về Lụ c độ i suấ t độ i, phá i đi trú ở Trấ n Ninh. Minh
Mạ ng nă m thứ 15 (1834) quyền lĩnh Phó vệ ú y, hiệp lự c Cù ng Nhiên vũ vệ phó vệ
ú y Nguyễn Cô ng Cậ n đá nh phá ở Thanh Chương bị chết trậ n, đượ c truy tặ ng là
Minh nghĩa đô ú y. Tự Đứ c nă m thứ 9 (1856), liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Lạ i ngườ i cù ng quê là Ngô Sỹ Thườ ng. Thiệu Trị nă m thứ 2 (1842) quyền lĩnh Phó
vệ ú y sung giả n bổ Phâ n vũ vệ ngũ độ i độ i trưở ng, thă ng dầ n lên Chá nh độ i trưở ng.
Tự Đứ c nă m thứ 15 (1862) phá i đi quâ n thứ tỉnh Bắ c, đá nh nhau vớ i giặ c ở Trườ ng
Giang, bị chết, đượ c truy tặ ng Tinh binh cai độ i.
Nguyễn Đứ c Chung
Ngườ i Hương Trà , Thừ a Thiên. Cha là Đứ c Huyên là m Thá i y viện phó . Đứ c Chung
lú c nhỏ đi du họ c, đến nă m Gia Long thứ 15 (1816) đầ u quâ n và o Tiền phong dinh.
Khoả ng nă m Minh Mạ ng là m quan chứ c cai độ i, rồ i thă ng mã i đến Vệ uý. Thiệu Trị
nă m thứ 5 (1845), bổ Lã nh binh quan An Giang. Đến nă m thứ 7 (1847), cử a Đà
Nẵ ng bá o cấ p chuyển đi bắ t giặ c rồ i chết trậ n, nă m ấ y 60 tuổ i. Đượ c truy tặ ng
Chưở ng vệ, gia cấ p tiền tuấ t và liệt thờ và o Trung nghĩa từ . Con là Điển bổ châ n ấ m
thụ thiên hộ qua là m Độ i trưở ng suấ t độ i.
Roman">
Lê Vă n Cư
Ngườ i Phong Đă ng, Quả ng Bình, là ngườ i khẳ ng khá i có khí tiết. Trướ c tò ng quâ n
có quâ n cô ng thă ng mã i đến Vũ lâ m Tả dự c nhấ t độ i cai độ i. Minh Mạ ng nă m thứ 16
(1835) nghịch Khô i giữ thà nh là m phả n. Vă n Cư theo quâ n thứ Phiên An, mang
quâ n đà o đườ ng ngầ m để cô ng thà nh bị giặ c bắ t. Giặ c Chẩ m tra hỏ i, nhấ t định
khô ng nó i gì, chỉ bả o rằ ng: "Ta nhậ n quan tướ c triều đình, nay bị bắ t, có chết mà
thô i". Giặ c khen là nghĩa khí, khô ng nỡ giết. Sau đó lạ i ngầ m mưu nộ i cô ng, việc tiết
lộ , giặ c bèn giết đi. Khi sắ p bị chết, mắ ng giặ c rằ ng: "Sau khi ta chết, mộ t tụ i nghịch
tặ c chú ng bay sớ m muộ n cũ ng sẽ châ u đầ u chịu giết thô i". Sau cá c tướ ng dò xét
đượ c tình hình đem việc tâ u lên. Vua nó i: "Vă n Cư giữ tiết thá o khô ng chịu khuấ t,
mắ ng giặ c mà chết, trung liệt đá ng ghi." Rồ i cho truy tặ ng Phó vệ ú y, cấ p tiền tuấ t.
or="black">
Tố ng Thú c Mi
(Phụ : Trương Vă n Sử )
Ngườ i Bình Dương, Gia Định. Đầ u quâ n nă m Gia Long thă ng mã i đến Trá ng vũ vệ
phó vệ ú y. Minh Mạ ng nă m thứ 15 (1834), phá i đi trú phò ng ở phủ Trấ n Ninh . Gặ p
khi thổ phỉ đá nh vâ y phủ ly, Phướ c Minh cù ng quả n cơ Trương Vă n Sử ra sứ c đá nh
nhau vớ i giặ c và đều bị chết trậ n. Truy tặ ng Phướ c Minh là Vệ ú y, Vă n Sử là Phó vệ
ú y và đều liệt thờ và o Trung nghĩa từ . Vă n Sử ngườ i Tố ng Sơn thuộ c Thanh Hó a.
Lê Huệ
Ngườ i Minh Chính, Quả ng Bình. Đỗ hương tiến Gia Long nă m thứ 18 (1819). Hồ i
đầ u niên hiệu Minh Mạ ng bổ Tri huyện Thụ y Anh. Huệ ở đây, chă m việc về nuô i
dâ n, cố t trừ bỏ hoạ n nạ n cho dâ n. Mù a xuâ n nă m thứ 5 (1824), Huệ nhậ n đi đố c
thuế trong huyện, 3;ến ấ p Trà Hồ i, bỗ ng do thá m đồ ng đả ng mưu đoạ t lạ i, kéo đến
như ong. Mọ i ngườ i toan đưa Huệ trá nh đi. Nhưng Huệ khô ng độ ng cự a, rồ i mang
đinh trá ng ra sứ c chố ng cự , bèn bị giặ c hạ i. Khi giặ c chự c đâ m Huệ thì ngườ i tù y lệ
củ a Huệ là Bù i Vă n Giả ng 4 lầ n thấ y thâ n che đỡ cho Huệ, giặ c bèn giết cả . Con ngự a
củ a Huệ cưỡ i, giặ c bứ c bá ch đem cưỡ i, nó khô ng chịu đi, giặ c đá nh bị thương ở
lưng. Ngự a liền trố n đi, sau lạ i trở về chỗ Huệ chết, phụ c đấ t mà kêu rồ i mấ y ngà y
sau cũ ng chết. Ngườ i ta lấ y là m cả m độ ng sự trung nghĩa đó . Việc tâ u lên, vua lấ y
là m khen ngợ i, truy tà ng là đồ ng Tri phủ . Quan huyện sau nhớ đến sự oanh liệt,
dự ng đền thờ . Tự Đứ c nă m thứ 9 (1856) liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Bù i Đình Dự
Ngườ i ở Hậ u Lộ c, Thanh Hó a. Đỗ hương tiến Gia.Long nă m thứ 18 (1819). Hồ i đầ u
niên hiệu Minh Mạ ng, bổ Hà n lâ m sung Sử quá n biên tu. Qua đi Giá o thụ Hoà i Đứ c,
đến nă m thứ 8 (1827), thờ i bổ đồ ng Tri phủ Thuậ n An . Nă m thứ 11 (1830) thổ
Khấ u đến đá nh phủ thà nh, Đình Dự mang quâ n chố ng cự , bị hạ i, truy tặ ng là Tri
phủ , liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Vũ Viết Tuấ n
Ngườ i Hương Trà , Thừ a Thiên. Nă m đầ u Gia Long và o quâ n Tuyển phong, qua
thă ng đến Tiền vệ phó vệ ú y. Minh Mạ ng nă m thứ 15 (1834), Tri châ u Bả o Lạ c
Nô ng Vă n Vâ n dấy loạ n, đá nh vỡ cá c thà nh Tuyên, Cao, Thá i, Lạ ng. Đình Lộ c tiến
đá nh ở Cao Bằ ng, bị chết trậ n, truy tặ ng Cẩ m binh vệ ú y.
Ngườ i Tuy Phướ c, Bình Định. Đầ u quâ n nă m Gia Long, qua thă ng Thầ n cơ dinh
Trung vệ phó vệ ú y. Minh Mạ ng nă m thứ 20 (1839) gặ p Xiêm gâ y họ a ở Ba Xuyên,
Vă n Phạ t vâ ng phá i đi đá nh bắ t, bị chết trậ n, truy tặ ng Vệ ú y.
="4">
(Phụ : Phạ m Vă n Lưu)
Vă n Lưu, ngườ i Tâ n Bình. Gia Định. Vì tò ng quâ n có cô ng, thă ng mã i đến Lã nh binh
tỉnh Lạ ng Sơn. Khi Cao Bằ ng có cá o cấ p tự xin tiếp viện ở Lạ ng, nên Vă n Lưu đem
hơn tră m lính cơ đến tiếp ứ ng. Kịp khi thà nh bị vỡ , khô ng chịu khuấ t mà chết. Tự
Đứ c nă m thứ 9 (1856), cù ng vớ i Tă ng Huy, Đình Trạ c đều đượ c liệt thờ và o Trung
nghĩa từ .
Phạ m Đình Trạ c
Roman">
Đình Trạ c tính hạ nh khoan hò a, ngà y thườ ng giao tiếp vớ i ngườ i rấ t giữ lễ độ . Đỗ
hương tiến Minh Mạ ng nă m thứ 2 (1821), bắ t đầ u là m Hà nh tẩ u trong bộ , ai tiến cử
cho đều khô ng nhậ n. Sau triều đình tuyển cử đi Tri huyện Hà Đô ng, lạ i triệu về bổ
Lạ i bộ chủ sự , rồ i thă ng mã i lên Lang trung. Nă m thứ 14 (1833), đượ c đặ c chuyển
là m á n sá t sứ Cao Bằ ng. Gặ p bấ y giờ thổ tù Tuyên Quang là Nô ng Vă n Vâ n phả n
nghịch, lan trà n đến Cao Bằ ng, thế rấ t mở rộ ng và hung hă ng. Đình Trạ c tính kế
cù ng thà nh cù ng cò n mấ t, bèn cù ng vớ i đồ ng sự mưu giữ lấ y củ a cả i, thó c lú a mà cố
thủ . Qua hơn mộ t thá ng, quâ n cứ u viện khô ng đến, giặ c quâ y đá nh 4 mặ t, phá o bắ n
như mưa, thà nh sắ p bị vỡ . Đình Trạ c nó i rằ ng : "Trá ch nhiệm giữ đấ t đai, bổ n phậ n
nên phả i chết". Rồ i sai đà o sẵ n huyệt là m nơi để chết. Trướ c hết mặ c triều phụ c
quay về hướ ng bắc lạ y, xong xuố ng huyệt nằ m ngay ngắ n rồ i sai lấ p đấ t đi nó i
rằ ng : "để cho vẹn toà n đờ i số ng củ a ta vậ y". Bố chính Bù i Tă ng Huy, Lã nh binh
Phạ m Vă n Lưu cũ ng đều chết cả . Khi sắ p xuố ng huyệt Đình Trạ c có là m bà i thơ
rằ ng :
Tâ n tỵ đô ng xuấ t thâ n
Quý tỵ đô ng thâ n tử
Cầ u hổ thầ n sự quâ n
Cầ n hồ tử sự thâ n,
San phu dữ â u tử
Thầ n lự c vâ n kiệt hĩ
Nguyện tử ự vương sự
Chiêm vọ ng tình hà dĩ
Dịch:
Đô ng tâ n tỵ xuấ tâ n;
Chết giữ a đô ng quý tỵ .
Bá o đá p mớ i mộ t kỷ.
Cầ u về tô i thờ vua
Mớ i mộ t tiệc thọ hí
Ba mươi lẻ ba ngà y,
Sứ c thầ n đã tậ n tụ y
Nguyễn Doã n
Ngườ i Hả i Lă ng, Quả ng Trị, có sứ c khỏ e. Đầ u quâ n khoả ng nă m Gia Long, qua Độ i
trưở ng suấ t độ i, rồ i chuyển lên Cẩ m y vệ Tam độ i cai độ i. Minh Mạ ng nă m thứ 21
(1840) thă ng Hồ ng dinh phó vệ ú y. Thiệu Trị nă m đầ u thă ng Vệ ú y là m Phó lã nh
binh An Giang. Bấ y giờ đả ng phỉ phá vỡ huyện Trà Vinh. Doã n cù ng Bù i Cô ng
Huyên mang quâ n đá nh lấ y lạ i đượ c. Lạ i liên tiếp phá đượ c đồ n phỉ ở sú c Bà o
Tượ ng, Bỗ ng Liên, đượ c thưở ng thụ Vệ ú y. Ô ng lạ i cù ng Nguyên Tiến Lâ m, Nguyễn
Tri Phương hợ p quâ n giá p cô ng thổ phỉ ở Sú c Sâ m. Bọ n phỉ giữ lũ y chố ng cự . Doã n
bị thương ở châ n phả i, buộ c vết thương ra sứ c đá nh, quan quâ n kế tiếp tiến lên,
bọ n phỉ vỡ . Đượ c thưở ng mộ t cấ p quâ n cô ng và ngâ n bài, kim tiền. Khi về ra là m
Phó lã nh binh quan Nghệ An. Chưa bao lâ u chuyển đi Lã nh binh quan Thanh Hó a,
tiễu thổ phỉ có cô ng, đượ c thưở ng mộ t đồ ng Bá t bả o kim tiền. Nă m thứ 6 (1825),
thă ng thưở ng Vệ ú y lĩnh Kinh thà nh đề đố c kiêm lý Thừ a Thiên phủ vụ . Mù a đô ng
nă m ấ y đổ i thự Long vũ dinh Thố ng chế. Kỳ đạ i lễ (104) nă m thứ 7 (1826) vì là m
việc đuố i kém, giá ng xuố ng Vệ ú y. Kịp đến nă m đầ u Dự c Tô n Anh hoà ng đế (Tự
Đứ c) lên ngô i, thấ y Doã n trướ c ở Thanh Hó a thô ng thuộ c địa thế lạ i thă ng là m
Lã nh binh (Thanh Hó a). Nă m thứ 21 (1849) chuyển đi thự Kinh kỳ Thủ y sư nhấ t vệ
Chưở ng vệ, cai quả n hả i vậ n thuyền, giả i củ a cô ng ở miền Bắ c và o. Thuyền đỗ ở cử a
biển Biện Sơn, bị thấ t hỏ a, biền binh bị chết, củ a cô ng bị đắ m mấ t. Doã n vì phò ng
ngừ a khô ng tố t, bị phạ t bổ ng 5 nă m. Tự Đứ c nă m thứ 11 (1858), thă ng thự Tiền
phong dinh thố ng chế kiêm quả n Tả quâ n, sau lạ i quyền Hữ u quâ n kiêm quả n Hậ u
quâ n. Nă m thứ 16 giặ c biển ở Hả i An quấ y nhiễu, sai đi sung Quâ n thứ thố ng quả n
thủ y đạ i thầ n. Gặ p khi toá n phỉ xô ng và o giang phậ n Lương Sâ m, Vũ Định, dù ng hỏ a
cô ng thủ y đạ o Cấ m Giang, quan quâ n cả vỡ , Doã n bị giặ c bắ t khô ng chịu khuấ t bị
giết. Việc tâ u lên, ô ng đượ c truy tặ ng Đô thố ng, cấ p thêm 500 quan tiền. Nă m thứ
33 liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Doã n, trướ c tên là Y, sau đượ c vua ban cho tên hiện nay. Con tên là (?)..., đượ c tậ p
ấ m ngà nh võ , vì có theo họ c, đi thi đỗ kỳ thi hương, hiện là m Bố chính sứ Quả ng
Bình.
Nguyễn Duy Tâ m
Ngườ i Phú Vang, Thừ a Thiên, có sứ c khỏ e, tò ng quâ n nă m Gia Long, qua độ i
trưở ng, cai độ i rồ i chuyển lên Tiền dinh Phấ n vũ vệ vệ ú y. Minh Mạ ng nă m thứ 11
(1830) ra là m Trấ n thủ Quả ng Yên. Mù a đô ng nă m ấy, mang thuyền binh tiến đá nh
giặ c biển, trậ n đá nh ở Phụ c Lễ bị chết trậ n. Tự Đứ c nă m thứ 33 (1880) liệt thờ và o
Trung nghĩa từ .
Phạ m Xuâ n Bích
Gặ p khi tên nghịch Khô i là m phả n ở Gia Định, lính hồ i lương thuộ c tỉnh (Hà Tiên)
mưu hưở ng ứ ng, ban đêm xung phạ m và o dinh thự . Xuâ n Bích cầ m gươm chạ y ra
hô hà o giết giặ c. Bấy giờ quâ n sĩ đều chạ y tá n loạ n, chỉ có mộ t đầ y tớ chạ y theo
Bích, chố ng cự vớ i giặ c mộ t lú c lâ u thì bị giặ c bắ t. Giặ c ép đầ u hà ng, Bích lớ n tiếng
mắ ng rằ ng : "Chết thì chết, há chịu hà ng bọ n tù chú ng bay". Bèn bị giết. Việc tâ u lên,
vua bả o : Xuâ n Bích ngà y thườ ng phò ng ngừ a sơ suấ t để đến sinh biến ở ngay cạ nh
ná ch, cố nhiên là có lỗ i. Nhưng nghĩ việc xả y bấ t thầ n mà biết mắ ng giặ c chịu bỏ
mình, cho phép truy tặ ng Tuầ n phủ và thưở ng 100 lạ ng bạ c phá t về gia đình. Tự
Đứ c nă m thứ 9 (1856) liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Trầ n Vă n Quả n
(con là Toả n)
Ngườ i Hương Trà , Thừ a Thiên, là ngườ i thô ng minh lanh lợ i có tà i là m việc. Minh
Mạ ng nă m thứ 5 (1824) và o Lạ i bộ tư thư lạ i, chưa bao lâ u đượ c bổ cử u phẩ m rồ i
thă ng mã i lên ă m thứ 14 (1833), bổ Á n sá t sứ Hà Tiên. Gặ p khi nghịch Khô i dấ y
loạ n ở Phiên An, hai độ i binh hồ i lương an hương thuộ c tỉnh (Hà Tiên) mưu hưở ng
ứ ng vớ i Khô i, ban đêm họ p đả ng vâ y dinh quan. Quả n thấ y biến, vá c dao chạ y ra
đâ m chết mấ y tên. Bỗ ng đượ c tin bá o thự (tuầ n) phủ Phạ m Xuâ n Bích đã bị giết,
Quả n, thế bá ch khô ng chịu khuấ t cũ ng bị giết nố t, khi ấ y 50 tuổ i. Việc tâ u lên, cho
truy tặ ng Bố chính sứ . Con là Toả n do châ n ấ m thụ bá t phẩ m qua thă ng đến Tri phủ
Phú Bình, gặ p khi Ngô Cô n vâ y hã m, cũ ng bị chết vì quố c sO21;. Quả n, mộ t nhà cha
con vì nướ c bỏ mình, đều đượ c liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Lê Quang Tiến
Tự là Miếu Tiến, ngườ i Hương Trà , Thừ a Thiên, có sứ c khỏ e, mưu lượ c. Đầ u quâ n
khoả ng nă m Minh Mạ ng, vì võ nghệ thô ng thạ o, qua là m phó độ i, thă ng mã i lên Phó
vệ ú y. Tự Đứ c nă m thứ 11 (1858) đượ c bổ Lã nh binh quan Thanh Hó a rồ i thă ng Đề
đố c. Nă m thứ 15 (1862) trộ m giặ c Hả i An nổ i dậ y, đườ ng thủ y, đườ ng bộ liên kết
vớ i nhau đá nh phá , cướ p bó c cá c là ng thuộ c hạ và vâ y ép tỉnh thà nh Hả i Dương.
Vua cho là Quang Tiến là m đượ c việc, cho thă ng sung Hả i Dương quâ n thứ thủ y
đạ o thố ng chế. Bấy giờ phỉ Minh, phỉ Nho mang hơn 200 chiếc thuyền và o sô ng
Bạ ch Đằ ng cự chiến luô n mấ y chụ c ngà y. Quan Tiến cù ng viên Hiệp đố c thủ y đạ o là
Bù i Huy Phiên, ban đêm cho triệu thâ n hà o đến, bí mậ t dặ n dò về cá ch ướ c thú c rồ i
tiến lạ i gầ n lũ y củ a phỉ, phá t phá o á p lạ i cô ng phá . Thuyền phỉ có nhiều chiếc bị
đắ m chết. Bọ n phỉ hoả ng sợ , kéo hơn 500 chiếc thuyền chia đó ng ở hphậ n Cá t Bà
và Đồ Sơn. Quang Tiến bả o vớ i Huy Phiên rằ ng xô ng thẳ ng đến sà o huyệt giặ c thì
có thể thà nh cô ng đượ c. Bèn chia đạ o ra mạ o hiểm mà tiến đi trướ c. Đạ o hậ u là
Khổ ng Trung, Phạ m Do gặ p giặ c, chạ y trướ c, nên 2 đạ o Trung, Tiền bị phỉ giá p
cô ng, chố ng đỡ khô ng nổ i. Quan Tiến tự lao xuố ng biển cù ng vớ i Huy Phiên đều bị
chết, nă m ấ y 55 tuổ i. Việc tâ u lên, vua rấ t lấ y là m tiếc, cho truy tặ ng Đô thố ng chế
và đặ c ban cho tuấ t hậ u. Nă m thứ 33 (1880) đượ c liệt thờ và o Trung nghĩa từ . Con
là Quang Hậ u, ấ m thụ , là m đến suấ t độ i Nghệ An, Huy Phiên có truyện riêng.
Nguyễn Điền
>
Ngườ i Hương Trà , Thừ a Thiên. Đầ u quâ n hồ i đầ u niên hiệu Minh Mạ ng, đến
khoả ng nă m Tự Đứ c qua là m độ i trưở ng suấ t độ i thă ng mã i đến Lã nh binh Bình
Thuậ n rồ i thă ng thụ Chưở ng vệ. Nă m thứ 22 (1869), biên giớ i phía Bắ c có cá o cấ p
sung quâ n thứ đi Đề đạ o Sơn Bắ c. Bấ y giờ bọ n phỉ ở đồ n lan xuố ng, thế rấ t hung
hă ng. Điền tự lĩnh quâ n Tả đạ o cù ng vớ i Tá n lý Ô ng Ích Khiêm, Tá n tương Trầ n
Thiện Chính, chia từ ng đạ o ra sứ c đá nh, chém đượ c hơn 30 thủ cấ p phỉ, lạ i bắ n
chết nhiều tên, bọ n phỉ hoả ng sợ , bèn rú t và o đồ n cũ liều chết giữ . Điền cù ng cá c
đạ o quâ n thừ a thắ ng hợ p nhau vâ y đồ n rồ i phá cử a, đà o thủ ng lũ y nhả y và o từ ng
thứ nhấ t. Bọ n phỉ ở mặ t trướ c tan vỡ . Sau đó 3 mặ t kia trở ra chố ng cự , vừ a lú c có
mộ t toá n thổ phỉ từ trong ú i xô ng tớ i hợ p chiến. Phỉ nhiều, mình ít khô ng địch nổ i,
Điền cù ng Nguyễn Vă n Nhà n, Trương Trườ ng đều bị chết. Việc tâ u lên, gia tặ ng Đô
thố ng chế và chiếu theo lệ tậ p ấ m, cấ p tuấ t. Nhà n và Trườ ng khô ng rõ ngườ i về hạ t
nà o. Nhà n lĩnh Phó đề đố c, Trườ ng, Lã nh binh đều đượ c gia tặ ng Thố ng chế. Con
(Điền) là Hổ , Tư. Hổ là m đến suấ t độ i Bình Định, Tư là m đến cai độ i ở Hà Tĩnh.
Nguyễn Đạ c
Ngườ i Phú Vang, Thừ a Thiên, có sứ c khỏ e. Đầ u quâ n nă m đầ u Minh Mạ ng, thă ng
mã i đến Phó vệ ú y. Thiệu Trị nă m thứ 5 (1845), ra là m Lã nh binh quan Hà Tĩnh.
Hồ i đầ u niên hiệu Tự Đứ c đổ i về Tuyển phong vệ ú y. Nă m thứ 4 (1851) thă ng thự
Chưở ng vệ là m Lã nh binh Lạ ng Sơn. Gặ p khi phỉ ngườ i Thanh là đả ng tên Tam
Đườ ng hơn 2 nghìn tên rủ nhau cướ p bó c ở Hữ u Sả n (tên đấ t). Đạ c cù ng á n sá t Mai
Anh Tuấ n mang binh, dõ ng tiến đá nh. Bọ n phỉ rú t đi ẩ n ná u. Đạ c bà n chia quâ n là m
3 đạ o tiến đá nh. Khi đến Thiết Đà m, phía trướ c bị trở vì ruộ ng lầ y Đạ c cù ng 80 biền
binh lộ i trướ c. Phỉ thấ y có ít quâ n, xô ng lạ i đá nh lộ n. Đạ c cù ng thự Phó cơ Nguyễn
Thọ Kỷ đều chết tạ i trậ n. Anh Tuấ n đến sau cũ ng bị hạ i cả . Việc tâ u lên, vua nó i :
“Đạ c là chủ tướ ng, việc quâ n vố n quen mà tham thắ ng đến nổ i bị hạ i, thự c đá ng
thương tiếc". Rồ i cho truy thụ Chưở ng vệ, cấ p tiền tuấ t gấ p đô i và dù ng mộ t ngườ i
con. Anh Tuấ n có truyện riêng. ỷ ngườ i Đô ng Ngà n, Bắ c Ninh, cũ ng truy thụ Phó cơ
và đều đượ c liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Ngô Đứ c Tu
t color="black">
Phan Bâ n
Ngườ i Hả i Lă ng, Quả ng Trị, có sứ c mạ nh. Đầ u quâ n Thiệu Trị nă m thứ 2 (1842),
qua là m Độ i trưở ng suấ t độ i thă ng lên Lạ ng dũ ng cơ quả n cơ. Tự Đứ c nă m thứ 15
(1862) cấ t lên phó Lã nh binh quan Hưng Hó a. Nă m thứ 21, bổ Chưở ng vệ sung Hả i
An hả i phậ n đề đố c. Gặ p khi bọ n phỉ ngườ i Thanh Ngô Cô n cướ p bó c Cao Bằ ng,
quan quâ n thua trậ n, thế giặ c hung dữ , vua cho Bâ n đổ i sung Đề đố c quâ n thứ Lạ ng
Bình, cù ng vớ i Tá n tương Mai Quý mang quâ n đi đá nh. Thế rồ i Cô n lạ i họ p đả ng lan
trà n quấ y nhiễu Thá i Nguyên thờ i lạ i đổ i về Thá i Nguyên quâ n thứ để đề phò ng
ngă n chặ n. Nă m thứ 22 (1869), cù ng vớ i Đề đố c Nguyễn Hữ u Thâ n đá nh ú p đồ n
phỉ ở chợ Mớ i, bị phỉ bắ t. Bâ n khô ng chịu khuấ t mà tự tử . Quan quâ n thứ cho dò la
đượ c tình hình và tìm đượ c thi hà i, đem việc tâ u lên, cho truy tặ ng Thố ng chế, cấ p
tuấ t gấ p đô i và liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Hồ Thiện
Nguyễn Hữ u Trì
an>
Ngườ i Bình Giang, Hả i Dương, lú c bé thô ng minh, lanh lợ i tính hà o hù ng, khả ng
khá i. Đi du họ c, chưa từ ng mở sá ch họ c dướ i đèn, chỉ nghe ngườ i ta đọ c mấ y lầ n,
liền nhớ khô ng quên nữ a. Hồ i đầ u niên hiệu Minh Mạ ng, ứ ng cử vố việc vă n hà n.
Bấ y giờ Hoà ng đệ Kiến An cô ng tính mến kẻ vă n họ c, Dĩnh vì thơ vă n đượ c cô ng
biết đến. Có mộ t hô m theo cô ng bơi thuyền trên sô ng Hương, đà n địch đều nổ i lên.
Cô ng ngẫ u hứ ng đọ c rằ ng : Phi lưu trự c hạ tam thiên xích (Dò ng trô i thẳ ng xuố ng
ba ngà n thướ c). Dĩnh ứ ng khẩ u đọ c nố i rằ ng : Cầ m sắ t vô đoan ngũ thậ p huyền
(Cầ m sắ t can gì nă m mươi dâ y).
Nă m thứ 14 (1833), ngụ y Khô i khở i nghthà nh Phiên An, quan quâ n tiến đá nh, Dĩnh
xin tò ng quâ n có cô ng đượ c thă ng thụ Tri phủ Hò a An (thuộ c tỉnh Cao Bằ ng). Phủ
nà y mớ i đặ t, chưa có thà nh trì, b̔3; thổ phỉ kéo đến vâ y hã m. Ngườ i bà n mưu vớ i
Dĩnh rằ ng : "Giữ khô ng vữ ng đượ c, đá nh khô ng thắ ng đượ c, ở đây nú i rừ ng khô ng
xa, nhâ n lú c đêm tố i có thể thoá t ra đượ c." Dĩnh cương quyết nó i rằ ng : "Là m bầ y
tô i, chỉ kể là có trung hay khô ng, cò n mạ nh yếu khô ng đá ng nó i. Miếu Trung nghĩa
ở là ng cũ thờ tổ xa đờ i nhà ta, ngươi chẳ ng nghe nó i ư? Đền Tam Trung ở đâ y thờ
danh thầ n đờ i nay, ngươi khô ng trô ng thấ y ư? Ta đượ c theo cá c ngà i xuố ng chơi
â m phủ là đủ rồ i, há cam lò ng là m mộ t thằ ng sợ chết?" Bèn mở cử a phủ , thâ n mang
gia đinh, lệ thuộ c ra sứ c đá nh, giặ c nhiều khô ng địch nổ i, bị chết về tên thuố c độ c.
Vợ và 4 ngườ i gia đinh cũ ng đều bị chết. Việc tâ u lên, vua rấ t thương xó t, cho tặ ng
Viên ngoạ i lang Binh bộ . Quan tỉnh có câ u đố i viếng rằ ng :
Dịch:
Dâ n phủ lậ p đền để thờ . Đầ u niên hiệu Tự Đứ c (1848) đượ c liệt thờ và o Trung
nghĩa từ .
>
Trầ n Tuyên
(Phụ : con là Xuâ n Hò a, Hoà ng Hữ u Quang)
Ngườ i Hả i Lă ng, Quả ng Trị. Nă m đầ u Thiệu Trị là m Bố chính sứ Vĩnh Long, cho
trinh thá m đượ c tin lính Long nhuệ thô ng đồ ng vớ i giặ c, Tuyên liền lưu Á n sá t
Nguyễn Đă ng Sỹ giữ thà nh, tự mang hơn 1 nghìn lính đến Lạ c Hó a đá nh bắ t giặ c.
Giặ c họ p đồ ng đả ng lạ i chố ng cự . Tuyên chia quâ n là m 5 toá n, đá nh, đố t cá c thô n
lạ c củ a giặ c. Đến chiều đem quâ n về Nô Độ ng, quan quâ n nố i gó t nhau đi hà ng mộ t.
Bỗ ng trờ i mưa gió tố i sầ m lạ i, quâ n mai phụ c củ a giặ c bố n mặ t vù ng dậ y. Quâ n sĩ
hoả ng vỡ ; bọ n Vệ ú y Lê Kỳ ở Hữ u lộ lưỡ ng lự khô ng tiến. Giặ c xô ng đến đá nh giết
loạ n bậ y. Tri huyện Trà Vinh Hoà ng Hữ u Quang thấ y Tuyên bị giặ c đá nh bứ c bá ch,
rú t gươm xô ng đến cứ u, cù ng Tuyên đều bị hạ i. Việc tâ u lên, vua cho Tuyên chết là
bở i Tổ ng đố c Bù i Cô ng Nghị đó ng lạ i khô ng đi, là m lỡ việc, quở trá ch rấ t nặ ng. Sau
con Tuyên là Xuâ n Hò a cũ ng chết về quố c sự .
Xuâ n Hò a cử nhâ n nă m Tự Đứ c, đượ c bổ Tri phủ sung Định Tườ ng đạ o binh bị. Vì
đã mộ dõ ng mai phụ c giết lính ma tà 6 lầ n, đượ c thưở ng thự Thị độ c họ c sĩ. Gặ p khi
quâ n Phá p và o Định Tườ ng, (vì) Xuâ n Hò a cai quả n đạ o Binh bị, bị Phá p bắ t, cắ n
lưỡ i mà chết, đượ c truy tặ ng Quang lộ c tự khanh. Sau, vua từ ng bả o quan Bộ Lễ
rằ ng : "Cha con Trầ n Tuyên, tiết nghĩa tiếng thơm, vẻ vang sử sá ch, rấ t là hiếm có ”,
rố t đều chuẩ n cho liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
or="black">
>
Phạ m Đứ c Hinh
Tự là Tậ p Phương, ngườ i Đườ ng Hà o, Hả i Dương. Minh Mạ ng nă m thứ 7 (1826) do
châ n Tuế cố ng (cố ng sinh do địa phương cố ng cử lên theo kỳ hạ n) đượ c bổ Quố c tử
giá m sinh, rồ i Đình khiêu (Đình thầ n lự a chọ n ngườ i bổ đi là m việc) bổ đi Tri
huyện Thượ ng Lung, thă ng Tri phủ Thá i Bình rồ i đổ i về Ứ ng Hò a. Sau đó , do châ n
tò ng ngũ phẩ m theo là m Binh bộ thừ a biện. Tự Đứ c nă m thứ 10 (1857) lạ i bổ Tri
phủ Thá i Bình . Nă m thứ 14 (1861) tự nguyện đem lính mộ đi theo Gia Định quâ n
thứ . Gặ p khi giặ c biển phá vỡ phủ Hả i Ninh, có chỉ bổ Đứ c Hinh đi Tri phủ Hả i Ninh.
Bấ y giờ thế giặ c hung tợ n, đườ ng Quả ng Yên bị nghẽn, Đứ c Hinh mang dõ ng theo
quâ n thứ Hả i An đi đá nh bắ t giặ c.
Nguyễn Đă ng Sỹ
Hiệu là Điềm Trai, ngườ i Vĩnh Lộ c, Thanh Hó a. Tổ tiên hiển qui trong triều Lê. Tổ 5
đờ i là Dụ , sau ượ c phong tướ c Gia quậ n cô ng.
Đă ng Sỹ đỗ hương tiến. Minh Mạ ng nă m thứ 9 (1828), bắ t đầ u bổ Tri huyện Thạ ch
Thấ t, thă ng bổ Tri phủ Xuâ n Trườ ng rồ i thă ng mã i lên Giá m sá t ngự sử qua là m á n
sá t sứ 3 tỉnh Nghệ An, Hả i Dương, Thá i Nguyên. Tự Đứ c nă m thứ 12 (1859) cấ t lên
Thá i bộ c tự khanh LĨnh Thá i Nguyên Bố chính sứ . Gặ p khi bọ n giặ c Vũ Minh lạ i xâ m
phạ m, Sỹ chia quâ n ra đó n đá nh, thắ ng luô n. ít lâ u giặ c cù ng vớ i bọ n cổ phỉ họ p
quâ n đến hơn vạ n tên, do Tù ng Hó a tiến đến Đạ i Từ . Lã nh binh vũ Thà nh á n ngữ ở
nú i Cầ u Vâ n (Cù Vâ n) gặ p giặ c, bị thua. Giặ c bèn thừ a thế đến vâ y tỉnh thà nh. Bấy
giờ trong thà nh chỉ có hơn 400 lính Đă ng Sỹ đem điều nghĩa kích lệ lạ i, sĩ, mọ i
ngườ i đều tuâ n lệnh đã từ ng ban đêm đem quâ n ra chém giết ở doanh giặ c. Thế
suy nhượ c giặ c lạ i đem địa lô i bắ n phá gó c bên hữ u thà nh. Đă ng Sỹ đem quâ n ra
sứ c chố ng cự và đắ p lạ i đượ c, giặ c khô ng dá m á p đến. Giữ bền đượ c hơn 2 thá ng,
đườ ng nghẽn, viện tuyệt, thà nh bị vỡ . Đă ng Sỹ đến kho thuố c sú ng toan tự đố t
mình, trong khi hoả ng hố t chưa biết tìm đâ u đượ c lử a thì bị giặ c bắ t. Giặ c dụ dỗ ,
khô ng chịu khuấ t, giặ c thi hà nh đủ ngó n á c : Trướ c hết chú ng đố t 5 ngó n tay Sỹ, Sỹ
hết lờ i chử i mắ ng; giặ c đá nh gã y ră ng, vẫ n chử i khô ng ngơi miệng; giặ c bèn giết đi.
Trướ c đó Đă ng Sỹ bị cá i á n gièm pha lẫ n nhau, Bộ Lạ i nghị xin tướ c chứ c. Đến nay
việc tâ u lên, cho truy phụ c Hà n lâ m viện thị độ c, liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Trầ n Đứ c Trá ng
Tên là Viên, ngườ i Phú Vang, Thừ a Thiên. Đầ u quâ n Minh Mạ ng nă m thứ 9 (1828).
Am tườ ng võ nghệ, sá t hạ ch luô n đượ c trung hạ ng, qua thă ng là m Phó quả n cơ
Ninh Bình. Tự Đứ c nă m thứ 14 (1861) sung Lã nh binh Hưng Hó a đi thượ ng du
đá nh phỉ, luô n có cô ng đượ c thưở ng quâ n cô ng kỷ lụ c và ngâ n tiền. Nă m thứ 18
(1865) Man Mèo lan trà n quấ y nhiễu 2 châ u Trấ n Yên, Thủ y Vỹ, Trá ng đem quâ n đi
đá nh, và o sâ u đườ ng rừ ng, gặ p phỉ, ra sứ c đá nh, khô ng địch nổ i bị giặ c hạ i, đượ c
truy tặ ng Chưở ng vệ, liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
lor="black">
Nguyễn Khoa Dự c
Là con Hiệp biện đạ i họ c sĩ Khoa Minh, chá u Tham chinh Khoa Thuyên. Là ngườ i
khả ng khá i, có trí lượ c. Minh Mạ ng nă m thứ 12 (1831), vì tậ p ấ m đượ c bổ quan.
Hồ i đầ u niên hiệu Thiệu Trị, thă ng mã i lên á n sá t Hưng Hó a. Tự Đứ c nă m đầ u
(1848), chuyển đi hộ lý Bố chính tuầ n phủ Quả ng Yên. Gặ p khi phỉ ngườ i Thanh
quấ y nhiễu á p về phía tỉnh thà nh, Khoa Dự c ra thà nh đố c chiến bắ t số ng đượ c bọ n
Trầ n Viễn 164 ngườ i, tâ u xin giả i giao cho nướ c Thanh. Sau đó Tổ ng trấ n Quỳnh
Châ u ủ y ngườ i mang binh thuyền đến sô ng Bạ ch Đằ ng đưa cô ng vă n nhậ n (tù
binh). Sau lạ i ủ y thư phủ Hoà ng Bâ n mang chè, quạ t, hoa quả sang là m quà và bạ c
tặ ng để thưở ng cho bộ biền. Khoa Dự c từ chố i nó i rằ ng : "Chuyến nà y bộ biền bên
tỉnh tô i đã đượ c Hoà ng thượ ng chú ng tô i hậ u thưở ng rồ i, mó n quà quí bá u nà y xin
hoà n lạ i, khô ng dá m nhậ n." Việc tâ u lên vua khen là xử trả i thể; lạ i cho rằ ng Khoa
Dự c chịu trá ch nhiệm mộ t địa phương quan trọ ng mà vỗ về, phò ng ngự phả i
đườ ng, cho cấ t lên thự Tuầ n phủ và gia mộ t cấ p quâ n cô ng.
Mù a xuâ n nă m thứ 7 (1854), bọ n phỉ trố n lạ i quấ y nhiễu. Khoa Dự c tâ u xin đặ t
thêm 3 bả o An Lương, Bình Liêu, Kiên Bả n, đó ng giữ , tiễu thá m để tiệt lố i đến củ a
phỉ. Vua theo lờ i xin.
Bấ y giờ ở châ u Vĩnh An có tên phỉ trố n Hoà ng Cơ Long rấ t là giả o hoạ t. Khoa Dự c
xin chi tiền cho thuê ngườ i bắ t, Dự c bị phạ t xuố ng chứ c theo bộ hiệu lự c chuộ c tộ i.
Nă m thứ 11 (1858) khở i phụ c là m chủ sự rồ i chuyển lên Viên ngoạ i lang, lạ i thự Á n
sá t sứ Quả ng Yên. Gặ p bấ y giờ phỉ ngườ i Thanh quấ y nhiễu Hả i Ninh phủ , Khoa
Dự c thâ n đi trướ c đố c chiến, bị chết trậ n, đượ c truy thụ Á n sá t. Nă m thứ 33 (1880)
liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Dương Vă n Phong
Ngườ i Bồ ng Sơn, Bình Định. Khoả ng Minh Mạ ng đầ u quâ n và o Tiền phong Hữ u vệ.
Nă m thứ 15 (1834) đi theo quâ n thứ Gia Định. Bấ y giờ ngụ y Chẩ m họ p đả ng giữ
thà nh Phiên An. Quâ n ta quâ y đá nh mã i khô ng hạ đượ c. Giặ c nhè ban đêm xô ng ra
đá nh quâ n ta, Điểm bị bắ t. Chẩ m dụ Điểm rằ ng và o thà nh thì nó i dố i rằ ng : "Quan
quâ n ở ngoà i thà nh có số ít giặ c Xiêm đã đến, ở Bắ c Kỳ thì giặ c trộ m nổ i lên lạ i ở
trong thà nh ai ra thú là giết cả ", để lừ a dố i mọ i ngườ i. Điểm giả cá ch nhậ n lờ i. Khi
gặ p giặ c hỏ i, Điểm đều nó i phả n lạ i và bả o rằ ng : "Thâ n đã bị bắ t, há có tiếc gì mộ t
cá i chết, cho nên đem sự thự c mà bả o mọ i ngườ i trong thà nh, khiến đều sớ m tìm
lấ y đườ ng số ng. Thà rằ ng trá i ý giặ c mà chết, cò n có thể là m thầ n há chẳ ng hơn là
theo giặ c chết mà là m ma quỉ ư?" Chẩ m cả giậ n, đem giết rồ i mổ gan, ă n thịt. Quâ n
thứ dò xét đượ c sự thự c, đem việc tâ u lên, vua ban khen và dụ Nộ i cá c rằ ng : "Vă n
Điểm là mộ t tên lính quèn mà biết tỏ nghĩa lớ n, trung phẩ n kịch liệt, chí tiết so vớ i
ngườ i xưa cũ ng chẳ ng kém mấ y." Cho truy tặ ng là m Cai độ i chá nh ngũ phẩ m và
chiếu phẩ m cấ p tuấ t. Lạ i khi dự ng miếu chiến sĩ trậ n vong sử a tế thờ i Điểm cũ ng
đượ c dự . Con Điểm là Vă n Hoan cò n nhỏ , mỗ i thá ng cấ p cho 1 quan tiền, 1 phương;
khi lớ n thờ i lụ c dụ ng. Hồ i đầ u niên hiệu Tự Đứ c, Điểm đượ c liệt thờ và o Trung
nghĩa từ .
QUYỂ N 41
iv height="0">
Bù i Quang Chu
Tên là Thuậ n, ngườ i Hả i Lă ng, Quả ng Trị. Minh Mạ ng nă m thứ 16 (1835), bổ Nghệ
An Trá ng vũ vệ suấ t độ i. Hồ i đầ u Thiệu Trị, lĩnh Thà nh thủ ú y Quả ng Bình. Tự Đứ c
nă m thứ 10 (1857), triệu về bổ Kỳ vũ phó vệ ú y. Qua bổ Phó lã nh binh quan Thá i
Nguyên rồ i thă ng bổ Lã nh binh quan Nam Định. Nă m thứ 15 (1862), tiễu phỉ ở đồ n
Cổ Phá p Hả i Dương, giặ c dồ n lạ i chèn ép, Quang Chu cố sứ c đá nh mà bị chết.
Con là Quang Khoá ng, châ n Vũ sinh suấ t độ i Nam Định đi Cao Bằ ng bắ t giặ c, đượ c
tin Quang Chu chết, xin về theo đi bắ t giặ c để rử a thù cha, lạ i bị giặ c giết nố t, đượ c
tặ ng Cẩ m binh cai độ i. Quang Chu đượ c liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Trầ n Quang Hà
Ngườ i Chương Ngã i, Quả ng Ngã i. Đầ u quâ n Minh Mạ ng nă m thứ 15 (1834) qua
thă ng Quả n cơ rồ i theo quâ n thứ Gia Định, An Giang, dự có chiến cô ng, đượ c bổ
Phó quả n cơ sung Sơn Tâ y quâ n thứ đố c binh. Nă m thứ 21 (1840) sung Phó lã nh
binh quan Sơn Tâ y.
="0">
Ngườ i Phong Điền, Thừ a Thiên. Lú c bé đọ c sá ch, tương đố i am hiểu võ nghệ. Khi
Dự c Tô n Anh Hoà ng đế (Tự Đứ c) chưa lên ngô i, Chung và o là m thơ lạ i trong phủ ,
rồ i qua thă ng Binh bộ Bưu chính ty ty vụ . Tự Đứ c nă m đầ u (1848), chuyển và o Cẩ n
tín ty cả i bổ Tam đẳ ng thị vệ rồ i thă ng mã i lên Trung quâ n Nhấ t vệ vệ ú y sung Hiệp
lĩnh thị vệ trự c ban. Nă m thứ 12 (1859), Gia Định có cá o cấ p, vua thấ y Ngọ c Chung,
cự u thầ n nơi tiềm để là ngườ i trung thà nh cẩ n tậ n, sai sung Tá n tương quâ n vụ .
Thá ng 3 nă m ấ y quâ n Đạ i Phá p phá vỡ Phú Thọ hữ u đồ n. Ngọ c Chung cự chiến bị
chết. Việc tâ u lên, vua rấ t thương nhớ , cho tặ ng Thố ng chế, gia cấ p 80 lạ ng bạ c
cù ng gấ m lụ a. Sau liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Vũ Tả o
(con là Thọ )
Con Tả o là Thọ , hiếu mà dũ ng cả m, thương cha chết vì giặ c phỉ, thề giết giặ c phụ c
thù , mộ dõ ng đi theo quâ n thứ , đượ c cấ t lên chứ c Phó quả n cơ. Nă m thứ 18 (1865),
cổ phỉ bên đấ t nhà Thanh lan sang quấ y nhiễu Thá i Nguyên, Thọ ra sứ c đá nh, bị
chết trậ n, đượ c tặ ng Quả n cơ.
Ngườ i Hương Trà , Thừ a Thiên. Đầ u quâ n nă m đầ u Thiệu Trị (1841), đượ c bổ Độ i
trưở ng. Tự Đứ c nă m thứ 8 (1855) sá t hạ ch đấ u cô n dự bình hạ ng, đượ c thưở ng
Chá nh độ i trưở ng suấ t độ i Nă m thứ 13 (1860), sá t hạ ch sú ng điểu thương, lạ i dự
ưu hạ ng, đượ c thă ng thưở ng Quả n vệ. Nă m thứ 16 (1863), theo quâ n thứ Lạ ng
Bình rồ i đổ i thự Lã nh binh quan Hả i Dương. Nă m thứ 21 (1868), sung Phó đề đố c
quâ n thứ Lạ ng Bình. Thá ng 7 nă m ấ y, trậ n đá nh ở đồ n Tú c Sơn, quâ n ta thua, Tham
tá n Nguyễn Lệ bị chết; Viết Thà nh cũ ng bị giết. Việc tâ u lên, cho truy thụ Chưở ng
vệ, ấ m thụ mộ t ngườ i con tò ng thấ t phẩ m thiên h
Lê Tuấ n
Ngườ i Vĩnh Xương, Quả ng Trị, tù ng trá ng, giỏ i giang và có sứ c khỏ e . Đầ u quâ n nă m
đầ u Thiệu Trị (1841), đến nă m Tự Đứ c thứ 9 (1856) đượ c bổ cai độ i. Lâ u rồ i ra
sung Thà nh thủ ú y tỉnh Thá i Nguyên. Nă m thứ 19 (1866) lĩnh Phó lã nh binh quan
cù ng vớ i bang biện Nguyễn Vă n Vỹ mang binh, voi đi phá sà o huyện phỉ ở nú i Mã
Hiên châ u Bạ ch Thô ng, bắ t số ng đượ c phỉ ngườ i Nù ng, ngườ i Há n nhà Thanh. Nă m
thứ 17 (1864) thă ng Phó vệ ú y sung Lã nh binh. Sau đó phỉ lạ i phá vỡ châ u Bạ ch
Thô ng. Tuấ n cù ng Tri châ u Chu Xuâ n Lự c chố ng khô ng nN93;i bỏ đồ n chạ y, bị cá ch
chứ c lưu dụ ng. Nă m thứ 21 (1868), trậ n đá nh ở chợ Mớ i bị chết trậ n, đượ c truy
thụ Chưở ng vệ. Nă m thứ 33 (1880) liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
Nguyễn Vă n Thuậ n
Tự là Sinh Sắ c, trướ c tên là Chu, ngườ i Duy Xuyên, Quả ng Nam. Tính lanh lợ i, chính
trự c có sứ c khỏ e dũ ng cả m, mưu lượ c . Đầ u quâ n nă m đầ u Thiệu Trị (1841), qua
độ i trưở ng chuyển lên độ i. Khoả ng nă m Tự Đứ c, theo đi bắ t giặ c ở Sơn Bắ c, có
chiến cô ng đượ c thă ng Cấ m binh cai độ i sung Quả ng Nam Hữ u cơ quả n rồ i bổ quả n
cơ. Lâ u rồ i cấ t lên Phó lã nh binh quan Quả ng Trị. Lạ i vì trướ c bắ t giặ c ở Sơn Bắ c
xuấ t sắ c đượ c thă ;ng Lã nh binh quâ n thứ Lạ ng Thá i, luô n đá nh vớ i phỉ liên tiếp
thắ ng lợ i. Nă m thứ 21 (1868) đá nh giả i đượ c vò ng vây Bắc Ninh, đượ c bạ t bổ Phó
đề đố c, đổ i đi sung Hả i Phò ng quâ n thứ đuổ i bắ t giặ c biển. Xong việc lạ i trở về
Tuyên Quang quâ n thứ . Nă m thứ 25 (1872) , trậ n đá nh ở An Thịnh, bị tử trậ n, khi
ấ y 56 tuổ i, đượ c truy tặ ng Chưở ng vệ. Có 2 ngườ i con : Vă n Phong đượ c ấ m thụ
thấ t phẩ m độ i trưở ng; Vă n Giả i, Quả ng Nam độ i trưở ng.
Hoà ng Tạ o
Tự là Thườ ng Phu, trướ c tên là Tuấ n Thă ng. Ngườ i Vĩnh Lộ c, Thanh Hó a. Cử nhâ n
Thiệu Trị nă m thứ 2 (1842). Đầ u niên hiệu Tự Đứ c (1848), theo là m Hà nh tẩ u Bộ
Lạ i, qua bổ Tri huyện Nghi Xuâ n, sung Đô chính chủ sự chờ thă ng bổ Tri
phủ Đứ c Thọ Và o là m Giá m sá t ngự sở , chuyển sang Nộ i vụ phủ lang trung rồ i ra
là m Bang biện quâ n vụ quâ n thứ tỉnh Thá i. Nă m thứ 13 (1870) lĩnh á n sá t sứ Cao
Bằ ng. Bấ y giờ cổ phỉ quấ y nhiễu biên giớ i, Cao Bằ ng bị tà ng phá đã lâ u ngà y. Gặ p
khi giặ c từ Hạ Đố ng đến, Bố chính sứ có việc đi vắ ng, mộ t mình Tạ o ở thà nh, lính
thú khô ng đầ y 100. Tạ o ra sứ c trù bị phò ng ngự . Khô ng bao lâ u, hà ng giặ c là
Nguyễn Tứ , Trương Thậ p Nhị nhằ m ban đêm phả n cô ng, Tạ o bị bắ t, liền rú t con
dao con ra đâ m cổ , sắ p sử a chết, giặ c giữ lạ i. Tạ ịn ă n mà chết.
Tạ o, bẩ m tính cương trự c, khi mớ i nghe tin Cao Bằ ng có giặ c, thứ c giả đều đoá n
rằ ng thế nà o Tạ o cũ ng chết, sau quả nhiên như vậ y. Tạ o đượ c truy thụ Hà n lâ m
viện họ c sĩ. Nă m thứ 32 (1879) liệt thờ và o Trung nghĩa từ . Con thứ hai là Mậ u, đỗ
hương giả i.
Trầ n Vă n Mỹ
Lê Huy Trạ c
(Anh là Độ )
Ngườ i Ngọ c Sơn, Thanh Hó a. Đỗ hương tiến nă m Thiệu Trị thứ 3 (1843). Bắ t đầ u
bổ Hà n lâ m kiểm thả o biên chép vă n qui đờ i Thiệu Trị. Tự Đứ c nă m thứ 7 (1854)
bổ Tri phủ Cẩ m Già ng. Bấ y giờ giặ c cỏ đương đá nh phá chiếm cứ phủ thà nh. Huy
Trạ c đượ c lệnh bổ , cương quyết mang hơn 10 ngườ i thâ n thuộ c tù y tò ng, từ giã mẹ
ra đi nhậ m chứ c. Anh là Huy Độ vố n ngườ i hữ u á i, thấ y thế nguy, đi theo vớ i em.
Khi đến nơi, theo đạ o quâ n tỉnh Bắc đến lấ y lạ i đượ c phủ thà nh. Mớ i đượ c hơn 1
thá ng, giặ c lạ i á p đến quây đá nh. Huy Trạ c mang hết lự c lượ ng chố ng giữ . Thế rồ i
sứ c kiệt, thà nh vỡ . Huy Trạ c cù ng anh đều bị bắ t, mắ ng giặ c khô ng chịu khuấ t, giặ c
đều giết cả . Việc tâ u lên, cho truy tặ ng Hà n lâ m th883; độ c, liệt thờ và o Trung nghĩa
từ và ấ m thụ cho mộ t ngườ i con là m Chá nh cử u phẩ m vă n giai. Lạ i thụ hà m Chá nh
cử u phẩ m cho Huy Độ và sai quan hữ u từ cấ p nuô i cho ngườ i mẹ, đô i lú c thă m
nom. Con Huy Trạ c là Tậ p, sau đỗ thi hương.
>
Trầ n Hò a
Ngườ i Vĩnh Bình, Gia Định. Đỗ hương tiến hồ i đầ u Thiệu Trị. Thă ng mã i đến Hà n
lâ m thị giả ng sung Binh bộ đạ o á n Giang. Tự Đứ c nă m thứ 14 (1861) Man mụ c là ố c
nha Long (ố c nha là chứ c quan; Long là tên ngườ i) kéo đến quấ y nhiễu bả o An Tậ p,
Hò a mang quâ n đá nh, bị giặ c giết chết. Vua cho rằ ng Hò a tuy khinh chiến bị hạ i,
nhưng là mộ t quan vă n mà trung dũ ng chết vì việc nướ c thờ i nghĩa khá i đá ng khen,
cho truy tặ ng Thị độ c họ c sĩ và cấ p tuấ t gấ p đô i. Nă m thứ 33 (1880) liệt thờ và o
Trung nghĩa từ .
Bù i Thắ ng
Ngườ i Hương Trà , Thừ a Thiên. Cha là Vă n Thị, là m cai độ i Hồ i đầ u Thiệu Trị, Thắ ng
đầ u quâ n và o Giá o dưỡ ng tam độ i. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) thă ng dầ n lên Chá nh
độ i trưở ng. Lâ u rồ i bổ Cấ m binh cai độ i sung Quả ng Ngã i sơn phò ng Tĩnh man cơ
hiệp quả n, sau ra là m Nghệ An trung vệ quả n cơ. Nă m thứ 20 (1857), ở Sơn Tâ y có
cá o cấp biên giớ i, đượ c phá i đi bắ t giặ c có cô ng, cấ t lên Phó lã nh binh quan cù ng
vớ i Đề đố c Nguyễn Điền đá nh phá ở đồ n Man Hạ , bị chết, đượ c truy tặ ng Chưở ng
vệ, liệt thờ và o Trung nghĩa từ . Con là Hữ u Huâ n, suấ t độ i ở Sơn phò ng Nghĩa Định.
iv>
Vũ Hổ
Trự c Nghĩa, lú c nhỏ thô ng minh, cũ ng có vă n tà i. Đỗ hương tiến Thiệu Trị nă m thứ
6 (1846). Bắ t đầ u bổ huấ n đạ o Kim Thà nh rồ i qua Tri huyện Vă n Chấ n, có tiếng tố t,
sau có đN41;i tang phả i dờ i chứ c. Nă m thứ 13 (1860) đổ i đi Tri huyện Yên Hưng
đượ c phá i sang Hả i An quâ n thứ bổ vụ , đá nh nhau vớ i giặ c bị chết trậ n, đượ c truy
tặ ng Hà n lâ m viện thị độ c. Nă m thứ 32 (l879) liệt thờ và o Trung nghĩa từ . Con là
Phú , ấ m thụ Chá nh cử u phẩ m vă n giai.
Đặ ng Hữ u Khuê
Ngườ i Phú Vang, Thừ a Thiên. Thiệu Trị nă m thứ 6 (1846) và o là m thủ lạ i ở phủ
Trấ n Tĩnh quậ n cô ng rồ i xin đi mộ dõ ng theo quâ n thứ . Tự Đứ c nă m thứ 14 (1861)
thă ng mã i đến Phó quả n cơ sung Thá i (Nguyên quâ n) thú đố c binh, luô n lậ p chiến
cô ng, đượ c thă ng Phó lã nh binh quan Lạ ng Sơn. Bấy giờ phỉ ngườ i Thanh lan trà n
quấ y nhiễu. Hữ u Khuê đó ng giữ đồ n Quang Lang, đá nh nhau vớ i phỉ bị thua, chết
tạ i trậ n, đượ c truy thụ Lã nh binh quan, gia tặ ng Chưở ng vệ và liệt thờ và o Trung
nghĩa từ . Con là Hữ u Lai, do châ n ấ m sinh là m đến Chá nh độ i.
Trầ n Vă n Uy
Đặ ng Đình Khả i
Ngườ i Thạ ch Hà , Hà Tĩnh, đỗ hương tiến nă m Thiệu Trị thứ 6 (1846). Hồ i đầ u niên
hiệu Tự Đứ c (1848), bổ Hà n lâ m kiểm thả o sung việc biên chép sá ch Đạ i Nam hộ i
điển. Trả i Tri huyện 2 huyện Phong Đă ng, Thủ y Đườ ng, mã n trậ t, đượ c. cấ t lên Tri
phủ Minh Giang rồ i chuyển về Hộ bộ viên ngoạ i lang. Sau lĩnh Lang trung sung
quâ n thứ Hả i An có nhiều chiến cô ng, đượ c thưở ng 2 lầ n quâ n cô ng kỷ lụ c. Nă m
thứ 17 (1863) là m bang biện Hả i Dương tỉnh vụ . Mù a đô ng nă m ấ y, trậ n đá nh ở
Lịch Liệt thấ t lợ i, bị giặ c bắ t, mắ ng giặ c khô ng chịu khuấ t mà chết; truy tặ ng Lang
trung. Nă m thứ 33 (1880) liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
New Roman">
Nguyễn Huy Tâ n
Ngườ i Đô ng Ngạ n, Bắc Ninh. Đỗ hương tiến nă m Thiệu Trị thứ 7 (1847), bổ giá o
thụ Hoà i Đứ c, quy Đố c họ c Hà Nộ i rồ i và o là m Giá m sá t ngự sử . Tự Đứ c nă m thứ 15
(1862) đượ c phá i đi Bắ c (Ninh quâ n) thứ đá nh dẹp, trậ n đá nh ở Xương Giang bị
chết tạ i trậ n. Tặ ng Hà n lâ m thị độ c, liệt thờ và o Trung nghĩa từ và ấ m thụ con là m
Chá nh cử u phẩ m vă n giai.
ont>
Hoà ng Vă n Giả ng
Ngườ i Hả i Lă ng, Quả ng Trị. Đỗ hương tiến Thiệu Trị nă m thứ 7 (1847) đượ c bổ Tri
huyện Tiến Lữ . Tự Đứ c nă m thứ 12 (1859) bổ đồ ng tri lã nh Tri huyện Kim Thà nh,
lạ i đổ i đi tri huyện Phù Cừ rồ i thự Tri phủ Khoá i Châ u. Sau bổ Thị giả ng lĩnh Hà
Tĩnh quả n đạ o. Nă m thứ 17 (1864) lĩnh Á n sá t sứ Lạ ng Sơn, tiến đá nh cổ phỉ, bị phỉ
giết chết, truy thụ Á n sá t sứ . Nă m thứ 32 (1879) liệt thờ và o Trung nghĩa từ .
nt>
Ngô Xuâ n Mỹ
Ngườ i Siêu Loạ i, Bắc Ninh. Đỗ hương tiến Thiệu Trị nă m thứ 7 (1847), trả i là m Tri
huyện Thủ y Đườ ng rồ i theo quâ n thứ Lạ ng Sơn, sang đố c vậ n Lang đạ o. Tự Đứ c
nă m thứ 5 (1852) lĩnh Tri phủ Thiệu Hó a, và o là m Giá m sá t ngự sử rồ i thă ng Binh
khoa chưở ng ấ n cấ p sự trung. Nă m thứ 34 (1881) bổ Á n sá t sứ Quả ng Yên, sau đổ i
đi Quả ng Ngã i, thế rồ i quyền thự Bố chính sứ Quả ng Nam thì mắ c bệnh về. Hồ i đầ u
niên hiệu Đồ ng Khá nh, hạ t Bắ c Ninh trộ m cướ p đầy dẫ y, Xuâ n Mỹ bị giặ c bắ t. Con
là Ý khó c chạ y theo xin lấ y thâ n thay cho cha. Giặ c đuổ i cũ ng khô ng đi, bèn bị giặ c
giết cả .
Nguyễn Di
Tự là Dụ c Xuâ n, ngườ i Yên Thà nh, Nghệ An. Tổ tiên quê ở Nghi Xuâ n. Tổ 4 đờ i là
Huyền Nhâ n mớ i đến Yên Thà nh, yêu cả nh non nướ c rồ i ở lạ i đó .
Di, đỗ hương tiến nă m đầ u Tự Đứ c (1848) do châ n Huấ n đạ o Quả ng Điền bổ đi Tri
huyện Tuy Phong. Về Kinh đượ c dẫ n đến yết vua, điều trầ n thờ i vụ 3 việc, hợ p ý
vua đượ c thă ng bổ Tri phủ Trườ ng Định, rồ i đổ i sung Bang biện mọ i việc giang
vậ n, hả i phò ng Hà Tĩnh, sau đượ c cấ t lên Thị giả ng lĩnh Đố c họ c Quả ng Bình.
Di là ngườ i có chí hướ ng, phẩ m hạ nh thuầ n hậ u, thự c thà , khô ng chuộ ng kiểu cá ch.
Là m quan thanh liêm, kiệm ướ c có tiếng tố t. Sá ch là m ra có "ứ ng vậ t thi vă n tậ p".
Trướ c tên là Hâ n, sau đổ i ra tên hiện nay
Lê Đình Thứ c
Tự là Thuậ n Phủ , ngườ i Thanh Chương, Nghệ An. Trú ng Ấ t khoa kỳ thi Hộ i nă m
đầ u Tự Đứ c (1848) đượ c bổ Hà n lâ m kiểm thả o rồ i thă ng Trướ c tá c lĩnh Hình bộ
viên ngoạ i lang. Sau rồ i cấ t lên chứ c Lang trung. Nă m thứ 14 (1861), phá i đi Thá i
Nguyên thanh tra á n phỉ, gặ p khi Thá i Nguyên có giặ c, tỉnh thầ n tâ u xin lưu lạ i
tham biện việc quâ n. Vua cho. Thế rồ i giặ c vây ép tỉnh thà nh, Đình Thứ c đố c quâ n
chố ng giữ . Thà nh vỡ , Thứ c bị chết, truy thụ Lang trung, liệt thờ và o Trung nghĩa từ ,
và ấ m thụ 1 ngườ i con Chá nh cử u phẩ m vă n giai.
Phạ m Vă n Đạ t
="black">
Mai Thạ c
Mai Thạ c tự là Khoan Chi, ngườ i Nga Sơn, Thanh Hó a. Cha là Sơn đượ Trung thủ y
vệ suấ t độ i.
Nă m thứ 30 (1877), Thạ c đi giả i lương tiến Kinh về. Giặ c dò biết, họ p đồ ng đả ng
lớ n, bé hơn chụ c chiếc thuyền để chờ Thạ c. Khi Thạ c đi đến biển Quả ng Bình thờ i
cá c thuyền đã đi trướ c. Vì Thạ c đố c tả i nên đi ở sau. Giặ c dà n liền thuyền thà nh
hà ng trậ n chữ nhấ t chặ n đườ ng. Rồ i hai bên cầ m cự nhau mộ t ngà y mộ t đêm, só ng
biển gầ m gà o, thuyền giặ c như đà n nhím họ p. Thạ c thấ y việc cấ p bá ch bả o nhữ ng
ngườ i trong thuyền rằ ng : "Giặ c chú ý đến tô i đã lâ u, nay chú ng nhiều, ta ít, đá nh
khô ng thắ ng mà trong chỗ só ng nướ c dữ dộ i nà y lạ i khô ng phả i chỗ giữ thế đượ c.
Chi bằ ng tô i chạ y sang giặ c để khỏ i lụ y cho cá c ô ng". Bèn nhả y sang thuyền giặ c,
mú a dao chém loạ n. Giặ c hoả ng trá nh, rồ i xú m giá o lạ i đâ m. Thạ c ngử a mặ t lên trờ i
hô lớ n, giết mấ y tên giặ c rồ i nhả y xuố ng biển mà chết, nă m ấ y 54 tuổ i. Là ng Thạ c
có là m bà i tườ ng thuậ để ghi nhớ .
Nguyễn Tiến Thả ng
Tự là Thà nh Chi, trướ c tên là Đă ng, ngườ i Lễ Dương, Quả ng Nam, lú c bé thô ng
minh. Đỗ ấ t khoa kỳ thi Hộ i nă m Tự Đứ c thứ 2 (1849). Mớ i đầ u bổ Hà n lâ m viện
kiểm thả o rồ i bổ đồ ng tri lĩnh huyện Tri Viễn. Là m việc thanh liêm, cô ng bà ng đượ c
dâ n tin phụ c. Sau vì chậ m chạ p việc kết nghĩ cá c á n cướ p, bị giá ng bổ xuố ng chá nh
bá t phẩ m lĩnh kiểm thả o sung Nộ i cá c hà nh tẩ u. Nă m thứ 21 (1868) phá i đi theo
quâ n thứ Lạ ng Bình, chưa bao lâ u thă ng Biên tu lĩnh Tri huyện Hương Trà . Sau cấ t
lên Thị độ c họ c sĩ lĩnh Á n sá t sứ Hà Nộ i.
v>
Ngườ i cù ng tỉnh là Nguyễn Hữ u Quâ n tự là Trú c Hiên ngườ i huyện Duy Xuyên đỗ
cử nhâ n khoa đinh mã o Tự Đứ c nă m thứ 20 (1867), thi Hộ i đượ c dự phâ n số . Bắ t
đầ u bổ Huấ n đạ o tỉnh giá o thụ Quả ng Trạ ch. Có đạ i tang về nghỉ việc, khi mã n tang
đổ i lĩnh Nam Sá ch. Nă m thứ 1872) là m thay việc phủ .
Bấ y giờ hơn 90 chiếc thuyền phỉ và hơn 1.300 đồ đả ng phỉ ở Quả ng Yên á p đến
đá nh phủ thà nh. Quâ n cù ng vớ i ngườ i là m việc Lã nh binh Hoà ng Vă n Trữ lên thà nh
chố ng cự bị giặ c giết chết, đượ c gia tặ ng Thị giả ng và cũ ng liệt thờ và o Trung nghĩa
từ . Con là Hữ u Đệ đượ c ấ m thụ đã i chiếu.
font>
Đặ ng Vă n Tạ i
Ngườ i Quế Sơn, Quả ng Nam. Có sứ c khỏ e. Đầ u niên hiệu Thiệu Trị (1841), đầ u
quâ n và o Long vũ vệ tứ độ i. Tự Đứ c nă m thứ 20 (1867), đỗ võ cử , đến nă m thứ 10
bổ Chá nh độ i trưở ng suấ t rồ i thă ng Quả n cơ bổ đi Phó lã nh quan Bình Định. Lâ u rồ i
đổ i về Tiền phong dinh phó vệ ú y. Nă m thứ 33 (1880) ra là m Lã nh binh quan Nghệ
An, chưa bao lâ u lĩnh Đề đố c Hà Nộ i. Nă m thứ 36 (1883) đi Sơn Tây đá nh phỉ, trú ng
đạ n bị thương mắ t bên trá i, trở về thự (Đề đố c) Hà Nộ i. Thá ng 10 nă m ấ y đầ u mụ c
phỉ là Sô họ p đả ng lan trà n đến quấ y nhiễu Hương Quan, Nghi Cầ u (2 xã thuộ c phủ
Hoà i Đứ c), Vă n Tạ i đố c quâ n á p chiến, bị phỉ giết chết. Việc tâ u lên, cho truy thụ Đề
đố c chiểu lệ cấ p tiền tuấ t.
Ngườ i Kiến Hưng, Định Tườ ng. Đỗ hương giả i Tự Đứ c nă m thứ 5 (1852), qua chứ c
Giá o thụ thă ng lên Phó quả n đạ o. Nă m thứ 21 (1868), lụ c tỉnh hữ u sự (chỉ sự kiện
thự c dâ n Phá p xâ m lượ c Nam kỳ), Hữ u Huâ n chiêu mộ nghĩa binh mưu đồ khô i
phụ c, việc tiết lộ bị quan Phá p bắ t đưa đi đà y ở hả i ngoạ i. Sau 7 nă m đượ c tha về,
lạ i cù ng vớ i  u Dương Lâ n tậ p hợ p 3.000 quâ n, khá ng cự vớ i quâ n Phá p nhiều lầ n
rồ i lạ i bị b̑5;t. Hữ u Huâ n vớ i hơn 100 ngườ i đầ u mụ c đều bị chết.
Nguyễn Hữ u Điển
(Phụ : Trầ n Mâ n)
Nguyễn Hữ u Điển hiệu là Quy Trai, ngườ i Nam Đà n, Nghệ An. Cha là Bích đỗ cử
nhâ n là m đến Tri huyện Thiên Thi có tiếng tố t.
Hữ u Điển lú c trẻ chă m họ c, thờ mẹ có hiếu. Tự Đứ c nă m thứ 6 (1853) đỗ tiến sĩ bổ
Hà n lâ m viện biên tu rồ i thă ng chủ sự . Nă m thứ 9 (1856) thự Tri phủ Bình Giang,
nhậ n chứ c 2 nă m, dâ n rấ t yên vui. Gặ p khi thổ phỉ ở Hưng Yên đến cướ p bó c trong
hạ t, Hữ u Điển mang quâ n đi đá nh bắ t. Có ngườ i thấ y thế giặ c đương mạ nh ngă n lạ i
thì Điển nó i rằ ng : "Tô i lạ m đượ c coi giữ đấ t nà y, dẹp giặ c yên dâ n là phậ n sự củ a
tô i. Nay giặ c hạ i dâ n, có thể ngồ i nhìn cho giặ c thêm đắ c chí ư?” Bèn tiến đi, giặ c
nhiều khô ng địch nổ i bị giặ c giết. Ô ng đượ c truy thụ Hà n lâ m viện thị độ c.
Quan trấ n thủ đem việc tâ u lên, vua thấ y là dâ n mọ n mà biết trung nghĩa, đều truy
tặ ng Cử u phẩ m bách hộ và ban biển ngạ ch "Tiết nghĩa khả gia” (Tiết nghĩa đá ng
khen) để nêu khen.
Thừ a Duyệt vố n có thao lượ c, đương lú c thế giặ c hung hă ng, đồ n Bắc Kạ n trơ trọ i,
hẻo lá nh; ban đầ u dự tính cố giữ để chờ viện binh, kế đó thờ i mưu đá nh ú p để phá
vỡ vò ng vây. Gặ p khi thế lự c khó chố ng đỡ , khô ng nỡ tham số ng chịu nhụ c, lạ i đem
lương thự c, khí giớ i phó cho mộ t ngọ n lử a mà khô ng chịu để cho giặ c dù ng, khí tiết
hơn kẻ bị giặ c bắ t mà chết xa vậ y. Con là Thừ a Cả nh, có họ c (nên) lạ i ấ m thụ Chá nh
bá t phẩ m vă n giai.
Nguyễn Trung
ew Roman">
Hoà ng Vă n Trữ
Ngườ i Bạ ch Hạ c, Sơn Tây. Trú ng võ cử Tự Đứ c nă m thứ 11 (1858), đượ c bổ
Thanh Hó a Cườ ng vũ vệ Nhấ t độ i chá nh độ i trưở ng suấ t độ i, rồ i bổ Nghĩa vũ vệ
hiệp quả n. Kế đó đi quâ n thứ Sơn Tâ y, có nhiều chiến cô ng, đượ c quyền Phó lã nh
binh quan ở ngay quâ n thứ . Nă m thứ 24 (1871), theo quâ n thứ Hả i Dương đó ng
giữ phủ Nam Sá ch. Sau đá nh nhau vớ i giặ c bị chết, đượ c truy tặ ng Minh Nghĩa đô
ú y phó lã nh binh quan Con là Chấ t, bổ Sơn Tâ y Hữ u hù ng cơ suấ t độ i; Dậ t Kế, do
châ n võ cử cầ m quâ n.
Nguyễn Tích
ht="5%">Nguyễn Cao
Ngườ i Quế Dương, Bắ c Ninh. Cha là Hanh, do châ n hương tiến đi Tri huyện Thủ y
Đườ ng. Cao là ngườ i khả ng khá i, chuộ ng khí tiết, đỗ giả i nguyên nă m Tự Đứ c thứ
20 bổ Tri huyện An Dương. Nă m thứ 36 (1883), thuyền binh Phá p từ Hả i Phò ng
tiến lên Hả i Dương, sai bắ t dẫ n đườ ng, bèn nhả y xuố ng sô ng mà chết. Việc tâ u lên,
đến đầ u niên hiệu Kiến Phướ c (1889) đượ c tặ ng Hà n lâ m viện thị giả ng. Con là Cơ,
đỗ cử nhâ n.
QUYỂ N 42
HẠ NH NGHĨA
Nguyễn Du
Phạ m Hộ i
Tự là Ấ n Thô ng. Tổ tiên là ngườ i Đườ ng An, Hả i Phò ng sau đến Thọ Xương
thuộ c Bắ c Thà nh rồ i ở đấ y.
Hộ i lú c nhỏ mồ cô i, nhà nghèo khô ng nơi nương tự a. Có hai ngườ i chị quyết
chí ở nhà thờ mẹ nuô i em, ai dạ m hỏ i cũ ng từ chố i, ngà y ngà y kéo sợ i để kiếm hai
bữ a cơm. Hộ i dầ n lớ n, thờ mẹ cà ng hết lò ng hiếu thả o. Mẹ thích uố ng nướ c Hồ Tâ y,
mỗ i ngà y họ c xong, Hộ i lạ i xá ch bình đi mú c nướ c về cho mẹ. Sau mẹ mấ t thờ i Hộ i
đỗ hương giả i. Bấy giờ hai chị đã cao tuổ i, khô ng lấ y chồ ng nữ a.
Roman"> Hồ i đầ u niên hiệu Minh Mạ ng (1820) Hộ i đượ c bổ đi giá o thụ Anh
Sơn rồ i thì bị ố m về nhà dạ y họ c, thờ chị như thờ mẹ. Phà m việc nhà , việc gì cũ ng
bẩ m vớ i chị rồ i mớ i là m, thuậ n hò a, khô ng có điều gì xích mích. Họ c trò đều coi đó
là m khuô n phép. Sau chị thứ chết, con Hộ i là Ngạ ch cũ ng chịu tang như thế. Ngườ i
ta khen là mộ t nhà chí hạ nh.
Trầ n Doã n Đứ c
Ngườ i La Sơn, Hà Tĩnh. Cha là Thă ng, nhà khá giả , ưa là m điều thiện. Thấ y
là ng mình vố n chấ t phá c, ít vă n (họ c), bèn khả ng khá i bỏ tiền ra dự ng vă n từ , lạ i
mờ i thầ y về dạ y con họ c để là m gương.>
Lê Huy Bích
Tự là Huyền Chương, ngườ i Hoằ ng Hó a, Thanh Hó a. Khi trẻ gặ p loạ n Tâ y
Sơn, đi ẩ n ná u. Đến Minh Mạ ng nă m thứ 7 (1826) Kính Giang hầ u Nguyễn Đứ c
Nhuậ n cho và o hà ng ẩ n dậ t, tiến cử về triều. Có mệnh đến mờ i, khô ng từ chố i đượ c,
khi đến triều, lấ y cớ ố m đau khẩ n thiết xin từ . Sắ c ban cho chứ c Hà n lâ m viện đã i
chiếu rồ i cho về. Từ đó , đó ng cử a dạ y họ c, họ c trò theo nhiều. Có là m ra 1 bộ "Kỷ sự
tâ n biên". Hồ i đầ u niên hiệu Tự Đứ c (1848) cho ngườ i đi tìm mua sá ch cũ , gia đình
nà y đem dâ ng lên, đượ c tà ng trữ và o thư viện.
Con là Như Đỉnh, trướ c tên là Huyễn, lú c trẻ có tiếng tà i giỏ i. Thiệu Trị nă m
thứ 7 (1847) đỗ hương tiến, đến khi bị duyệt lạ i cho là thiếu qui thứ c, bị truấ t. Tự
Đứ c nă m thứ 5 (1852) lạ i đỗ giả i nguyên (đỗ đầ u thi hương) là m đến Tri huyện.
Tính nó ng thẳ ng, lạ i cứ ng cổ , luô n trá i ngượ c ý vớ i quan trên, bị đổ i giá ng chứ c
xuố ng Huấ n đạ o, bèn cá o quan về dạ y họ c, họ c trò đến theo nhiều.
>
Lê Quý Kiểm
Tự là Bá Tu, ngườ i Hoằ ng Hó a, Thanh Hó a. Nhà rấ t nghèo, cha mẹ mấ t sớ m,
ở vớ i chú . Nhà chú chuyên nghề nô ng, có đó n thầ y dạ y con họ c, Quý Kiểm bấy giờ
3;ã 18 tuổ i sá ng sớ m đi chă n trâ u, tố i về hỏ i nghĩa sá ch, cứ qua mắ t là nhớ . Thầ y
họ c lấ y là m lạ , khuyên ngườ i chú cho theo họ c, vì vậ y chuyên chú đến kinh sử .
>
imes New Roman">
lor="black">
Nguyễn Đạ o
Hai phườ ng An Phú , Dụ c Thú y trong huyện khô ng có đấ t ă n ở lênh đênh trên
mặ t nướ c. Đạ o khuyên dâ n xã mình trích ra hơn 20 mẫ u cô ng điền nhượ ng cho.
Việc tâ u lên, dâ n xã đượ c thưở ng 1 tấ m biển 4 chữ "Thiện tụ c khả phong" (Tụ c
thiện đá ng là m gương).
Con Đạ o là Thuậ t, có tiếng hay chữ . Nă m Mậ u thìn (1868) thi Hộ i đượ c trú ng
cá ch, đến kỳ Phướ c thí lạ i xuố ng bả ng ấ t. Thâ n bằ ng đến mừ ng đều lấ y là m tiếc,
Thuậ t từ tạ mà bả o rằ ng : "Nhà tô i vố n nhà thanh bạ ch, tô i lạ i khô ng có cô ng đứ c gì,
cá i Phướ c quá to như vậ y, sợ khô ng đương nổ i. Đó chính là cá c vị trong điều đá ng
mừ ng lạ i mừ ng thêm vậ y".
Con ngườ i hiểu phậ n mình biết vừ a đủ là như vậ y đó . Cá c con hiển quí, Đạ o
cò n lo là họ là m việc có hạ i đến â m đứ c, nên thườ ng nhắ c đến câ u củ a cổ nhâ n rằ ng
: "Nếu xuấ t hiện mộ t vị tiến sĩ là m hạ i â m đứ c, thờ i khô ng bằ ng xuấ t hiện mộ t
ngườ i bình dâ n biết tiếp tụ c Phướ c", để ră n dạ y cá c con. Cho nên các con đều có
danh tiếng tố t trong sự nghiệp là m quan. Đạ o mấ t nă m 70 tuổ i, do quan hà m củ a
con, đặ ng mã i đến Đô sá t viện Hữ u phó Đô ngự sử , tô n thụ y là Trang Khả i. Cá c con
là : Tạ o, có truyện riêng; Thuậ t hiện do châ n Thá i tử thiếu bả o Hiệp biện đạ i họ c sĩ
đượ c phó ng tướ c An Trườ ng tử lĩnh Lạ i bộ thượ ng thư sung Cơ mậ t viện đạ i thầ n
về hưu trí; Quýnh, cũ ng đỗ kỳ thi hương, chưa kịp là m quan; Thuyên đỗ tú tà i. Con
Thuậ t là : Chứ c, đỗ hương tiến, hiện châ n Hà n lâ m tu soạ n chờ bổ ; Kinh, cũ ng đỗ tú
tà i.
Phạ m Duy Vĩnh
Đỗ Xuâ n Cá t
Tự là Bá Trinh, ngườ i Hoằ ng Hó a, Thanh Hó a. Cha là Thá i gặ p buổ i cuố i Lê,
khả ng khá i có chí. Buổ i đầ u quố c triều dấ y nghiệp, Thá i hưở ng ứ ng việc nghĩa, theo
và o Gia Định (theo Nguyễn Á nh lú c chưa lên ngô i vua). Sau có nhiều cô ng đượ c bổ
Tri phủ Hà Trung rồ i can việc mã i phả i bã i chứ c.
Xuâ n Cá t đỗ hương giả i nă m đầ u Thiệu Trị (1841) từ chố i khô ng xin tuyển
(bổ ), ở ẩ n ná u dạ y họ c. Xuâ n Cá t lú c nhỏ đọ c sá ch đã biết đạ i ý củ a chính họ c (106).
Họ c thì ưa nghĩ vấ n và khéo dẫ n giả i. Ngà y thườ ng, tính hiếu cổ và giữ lễ. Thờ mẹ
hết đạ o hiếu, đến khi chịu tang là m nhà ra mộ ở 3 nă m, ngà y đêm khô ng ngơi tiếng
khó c. Việc chô n cấ t, cú ng tế nhấ t thiết theo lễ, khô ng theo phong tụ c đương
thờ i. Ngườ i là ng đượ c cả m hó a nhiều. Ă n ở vớ i thâ n thích là ng mạ c thờ i thă m nom
kẻ ố m đau, chu cấp kẻ về hạ nh thự c, sau mớ i đến vă n nghệ. Thườ ng nó i : "Tồ n tâ m,
dưỡ ng tính là điều quyết chí bậ c nhấ t; tiến thoá i ứ ng đố i là sự nghiệp mộ t đờ i ; cổ
độ ng khô ng tiết chế mà là m lên đượ c cô ng nghiệp thờ i chưa từ ng có . Ngoà i kinh
sá ch ra, Xuâ n Cá t cò n kiêm cả thiên vă n, luậ t lịch đồ chí. Buổ i đầ u Tự Đứ c, vì đê
sô ng ở Bắc kỳ vỡ , luô n phả i sai quan kinh lý, Xuâ n Cá t có là m ra Hà phò ng ngũ
thuyết (nă m thuyết về việc đề phò ng sô ng nướ c). Thứ c giả cho là có thự c họ c về
kinh tế. Gặ p khi có chiếu tiến cử tứ khoa (107), đạ i thầ n giao cho tờ tâ u để tiến lên,
khi đến triều, bèn lấ y cớ bệnh xin cá o. Vua cho đượ c đi ngự a trạ m về. Nă m thứ 11
(1858), có cá o cấ p giặ c biển, Cá t tớ i tỉnh nghị cù ng dâ ng sớ tâ u bà y việc trấ n thủ .
Vua ban khen, sai tiến cử nhữ ng ngườ i mình hiểu biết. Cá t cố từ , rồ i sau mấ t nă m
59 tuổ i, đượ c tặ ng Hà n lâ m viện biên tu.
Em là Xuâ n Vĩnh, cử nhâ n, bổ Tri huyện Thanh Chương. Có ngườ i đến biếu
bạ c, cự tuyệt khô ng nhậ n. Họ ép nà i thờ i nó i rằ ng sợ anh Bá Trinh tô i biết. Là m
quan có tiếng thanh liêm.
Dương Quang
Quang lú c trẻ chă m họ c, có tiếng giỏ i, đỗ tườ ng sinh, cá c quan to đều quí
trọ ng tà i, nhưng chậ t vậ t mã i về trườ ng ố c thi luô n hơn 10 khoa. Á n sá t Hoà ng
Đình Chuyên dâ ng sớ cử về họ c, hạ nh, đượ c mờ i nhưng có bệnh xin từ chố i. Nă m
50 tuổ i thờ i ngườ i con là Khuê đỗ thi hương, kế đỗ tiến sĩ. Từ đó , Quang từ tạ từ
vă n khoa cử , ở ẩ n mộ t nơi, lấ y kinh sá ch dạ y dỗ con em.
Ngườ i Nghi Lộ c, Nghệ An. Lú c bé nhà nghèo, tính rấ t hiếu, thườ ng tự thâ n
gá nh nướ c, giã gạ o để phụ ng dưỡ ng hai thâ n, lú c rỗ i thờ i họ c. Tự Đứ c nă m đầ u
(1848), đỗ hương tiến rồ i luô n gặ p cha mẹ chết, là m nhà ra ở mồ , thương cả m, dầ u
dã i nắ ng rét khô ng chú t đổ i thay. Khi mã n tang, khô ng muố n là m quan, bèn tớ i ấ p
Hò a Ninh tìm chỗ là m nhà ở , đọ c sá ch và mưu sinh, tự hiệu là Thổ Lưỡ ng cư sĩ. Ấ p
ấ y chỉ thuầ n cá t trắ ng, đấ t sỏi khô ng thể cà y trồ ng, cho nên dâ n cư chỉ sinh
số ng về nghề cưa xẻ, khô ng có cà y cấy họ c hà nh. Trinh Hoằ ng rấ t xấ u hỗ , nghĩ cá ch
cả i hó a đi. Bèn thâ n mang dâ n ấ p ra sứ c khai khẩ n đấ t hoang, nạ o hết cá t nổ i trên
mặ t đấ t đêm đổ đi, rồ i tính mẫ u quâ n cấ p, bắ t buộ c phả i cày cấy, mọ i ngườ i kiếm
đượ c ă n mà rồ i nghề cưa xẻ bỏ hết. Khoả ng mấ y nă m mở mang mã i, thà nh ra
ruộ ng thuộ c. Hoằ ng lạ i tự mở trườ ng tư để dạ y con em trong ấ p. Con em nà o khô ng
họ c thờ i trá ch cứ và o cha anh. Hoằ ng cà ng chă m chỉ dạ y dỗ , khô ng lấ y mộ t mả y
tiền cô ng dạ y họ c, cho nên ngườ i ta vui theo họ c. Ô ng là m nhữ ng tậ p Phướ c từ như
"Sĩ nô ng canh độ c truyện", "Khuyến thiện quố c ngữ ca" và 4 khú c "Quâ n thầ n",
"Phụ tử ", "Huynh đệ", "phu phụ ". Hà ng nă m cứ đến thá ng 2, họ p dâ n để nghe giả ng.
Cho đến cá c việc cầ u, đậ p, phò ng đê, dấy lợ i, trừ hạ i, tấ t đều nhấ t nhấ t ra sứ c là m.
Ngườ i ấ p đều phụ c tò ng lờ i dạ y bả o, yên tâ m vớ i nghề nghiệp là m ă n, khô ng ai là
khô ng yêu mà sợ . Hiện nay phong tụ c ngà y mộ t thuầ n hậ u, vă n họ c ngà y mộ t tiến
tớ i, ngườ i trong ấ p lầ n lượ t đỗ cá c kỳ thi hương. Thự c đú ng con ngườ i mà bả o rằ ng
: "ở nơi đồ ng ruộ ng thì phong tụ c tố t".
Vũ Quang
Tự là Mộ ng Lý. Tổ tiên quê ở Vũ Ninh, sau dờ i đến Bắc Thà nh, hiện nay là
ngườ i Thọ Xương (nay thuộ c quậ n Hoà n Kiếm. Hà Nộ i).
Quang đỗ hương tiến Tự Đứ c nă m thứ 3 (1850), cha mẹ già , từ chố i khô ng
xin tuyển (bổ ). Sau bèn bổ đi giá o thụ Quố c Oai, danh sĩ nhiều ngườ i suy tô n, khen
ngợ i. Qua mấ y nă m mắ c bệnh vé nghỉ, yên lò ng trong cả nh thanh đạ m. Tỉnh cử
cũ ng từ khô ng đi. Dạ y họ c, lấ y trau dồ i hạ nh thụ c là m đầ u từ ng bả o họ c trò rằ ng :
"Họ c để là m ngườ i, con đườ ng khoa cử là cá i bậ c thềm, đừ ng hỏ i là trú ng hay
khô ng trú ng, chỉ nên hỏ i họ c hay khô ng họ c thô i. Nếu lấ y cá i lò ng đượ c, thua mà đi
thi thờ i triều đình cầ u để là m gì".
Trướ c Duy Thà nh đi thi có mộ t khó a đã và o tam trườ ng, đá m quan trườ ng
có mộ t ngườ i vố n biết tiếng Thà nh. bả o nhỏ Thà nh rằ ng : "2 kỳ trướ c vă n anh đã
đứ ng đầ u. Cố lên! Cố lên! Mau đỗ hương nguyên". Duy Thà nh sau khi nhậ p trườ ng,
bèn lấ y cớ ố m cá o về. Bạ n thâ n cố ngă n lạ i thờ i Duy Thà nh cương quyết nó i : "Cha
tô i sinh ra tô i, thầ y tô i dạ y tô i, tô i lạ i khô ng đỗ nổ i mộ t khoa thi hay sao mà phả i
nhờ ngườ i". Vì xấ u hổ sợ ngườ i ta cho có ý tấ t thinh thá c, mà dá ng như mình khô ng
cầ u cạ nh cũ ng khô ng đố kỵ gì. Thờ i bấy giờ ngườ i đồ ng tỉnh do khoa giá p hiển quí
như Ngô Thế Vinh ở Bá i Dương, Phạ m Vă n Nghị ở Tam Đă ng, Doã n Khuê ở Ngoạ i
Lã ng đều coi Thà nh như bậ c đà n anh. Họ c trò thà nh đạ t, nhiều ngườ i có tiếng vă n
họ c, như Tham tri lĩnh Quố c tử giá m tế tử u Khiếu Nă ng Tĩnh là châ n đỗ cao.
Duy Thà nh tính điềm đạ m, lờ i nó i việc là m khô ng cẩ u thả , luô n luô n tuâ n
theo lễ phép. Ngườ i là ng đều hó a theo thà nh thiện tụ c, khô ng dá m có kiện tụ ng gì
đến cử a cô ng. Khi chết, 72 tuổ i, họ c trò là m bà i vă n tế có đoạ n rằ ng :
Duy Đô ng Duy cô ng
Đắ c kỳ phạ m mô
Cổ Lê tiến sĩ
Đắ c kỳ yếu chỉ
Duy tế tử u cô ng
Đứ c hạ nh đạ o nghệ
Tiên sinh kỳ đệ
Duy Hoà i đứ c cô ng
Thá i Sơn Bắ c đẩ u
Ó c thủ tương hoan
Tiên sinh kỳ hữ u.
Dịch:
Khuô n mẫ u là m thầ
Duy tế tử u cô ng,
Đứ c hạ nh đạ o nghệ
Bậ c thầ y danh vọ ng
Tay bắ t mặ t mừ ng
Tiên sinh là bạ n.
Nguyễn Huy Đứ c
Nguyễn Mậ u Kiến
Ngườ i Trự c Định, Nam Định (nay thuộ c huyện Kiến Xương tỉnh Thá i Bình).
Nhà vố n già u, tà ng trữ hơn 300 bộ sá ch cổ . Mậ u Kiến là ngườ i hiếu họ c, thô ng hiểu
nhiều thứ , châ n tuế cố ng đượ c bổ Quố c tử giá m sinh. Gặ p nă m đó i, nộ p tiền củ a
ứ ng tuyển, đượ c bổ quan tứ phẩ m. Lạ i vì họ c rộ ng, nên đượ c nhiều ngườ i tiến cử ;
Doã n Khuê, Phạ m Vă n Nghị nó i là có biết binh lượ c. Tự Đứ c nă m thứ 20 (1867),
đượ c sá t hạ ch rồ i bổ Lạ i bộ Lang trung bang biện Nam Định. Rồ i lạ i đổ i đi sang
bang biện quâ n thứ Lạ ng Bình, thă ng mã i đến á n sá t Quả ng Yên, Lạ ng Sơn, có nhiều
cô ng lao đượ c gia Quang lộ c tự khanh. Sau đó vì có việc bị lạ c chứ c, theo Hồ ng Hó a
sơn phò ng hiệu lự c để sai phá i. Sau vì có biết thiên vă n, bó i toá n, triệu và o trự c ở
Thị vệ xứ và nă ng đượ c vua hỏ i đến. Vua nó i rằ ng họ c tương đố i rộ ng, nó i đều
chính đá ng, rồ i cho khai phụ c là Hà n lâ m viện kiểm thả o. Hơn 1 nă m, lạ i cho về sơn
phò ng khai khẩ n cho xong việc, rồ i chết nă m 61 tuổ i (108).
Trướ c Mậ u Kiến có là m Chiêm bá i đườ ng cho hiệu khắ c các sá ch "Khâ m định
ngũ kinh", "Ngũ tử ", "Cậ n tư lụ c" và "Độ c thư lạ c thú tam diệu phá p", rồ i tà ng trữ
bả n in ở trong (chiêm bá i) đườ ng. Đặ t ra nghĩa trang điền 280 mẫ u để nuô i ngườ i
họ . Lạ i đặ t ruộ ng hương họ c điền, lậ p ra khó a trình, con em trong ấ p chẳ ng ai là
khô ng đượ c họ c. Sau khi chết, cá c con là m thà nh tự u chí củ a cha, tiếp tụ c đã để ra
hơn 100 mẫ u là m ruộ ng nuô i lính củ a là ng, ai ra lính thờ i cấp cho. Việc tâ u lên, cho
truy thụ hà m Bố chính. Sá ch là m ra có : 2 quyển "Kính đà i tậ p vịnh", 2 quyển "Dịch
lý tâ m biên", 8 quyển "Chiêm thiên tham khả o", 2 quyển "Minh sử luậ n đoá n khả o
biện". Con là Bả n, trong (chiến) dịch nă m Quý Mù i, châ n huyện đoà n mang hương
dũ ng về phụ giữ tỉnh thà nh, thà nh vỡ đá nh vớ i giặ c bị chết, đượ c tặ ng Hà n lâ m viện
tu soạ n.
Trá c Chi là ngườ i khả ng khá i, cù ng vớ i anh đi trọ họ c, có tiếng hay chữ .
Khoả ng nă m Tự Đứ c, Nam Kỳ có cá o cấ p Trá c Chi hă ng há i bỏ họ c, bả o ngườ i anh
rằ ng: "Nay chố n biên giớ i xa hữ u sự , có thể khô ng nghĩ gắ ng chú t cô ng lao ư?" Bèn
cù ng nhau đều đi quâ n thứ Biên Hò a theo sai phá i. Rồ i tiết thứ khuyến quyên tiền
bạ c và bỏ củ a nhà ra mua sắ m sú ng ố ng, lương thự c để giú p quâ n. Lạ i mộ dâ n khẩ n
ruộ ng, thiết lậ p ra Ninh că n hộ . Quan quâ n thứ tâ u lên, thưở ng Trá c Chi hà m Thấ t
phẩ m vă n giai, Bả o Phá c hà m Chá nh bá t phẩ m vă n giai, để khuyến khích nhữ ng
ngườ i có lò ng ham điều nghĩa. Nă m thứ 22 (1869), Trá c Chi đượ c do hà m thấ t
phẩ m đổ i bổ tư vụ nha điển nô ng, lâ u rồ i thă ng thụ đồ ng tri, lĩnh Tri phủ Diên
Khá nh, có lò ng thanh liêm, chính trự c, đượ c dâ n ca tụ ng. Sau rồ i can về việc chậ m
bá o vụ cướ p, phả i đổ i đi chủ sự quyền sung Thương cụ c viên ngoạ i lang tỉnh Bình
Thuậ n. Chưa bao lâ u chuyển sang giá m lâ m kho tỉnh. Phà m nhữ ng thó i cũ ngườ i
giữ kho đò i (tiền) khoá n lệ, nhấ t thiết khô ng tiêm nhiễm. Nă m đầ u Đồ ng Khá nh
(1886) mắ c bệnh về rồ i mấ t nă m 59 tuổ i.
Trịnh Vă n Diệm
Lê Mậ u Chu
Tên cũ bên tả là chữ ngô n, bên hữ u là chữ chu, ngườ i Vĩnh Linh, Quả ng Trị.
Thừ a nghiệp cha, sinh kế gia đình đượ c đầy đủ . Tính hà o hiệp, chuộ ng nghĩa, gặ p
ngườ i nghèo nà n lam lũ cầ u khẩ n điều gì là giú p ngay, khô ng chú t ngạ i tiếc. Xó m có
nhà tích trữ (hà ng hó a) để bá n cho ngườ i lấ y lợ i cao dương (109) kẻ mắ c nợ có
ngườ ấ t cả gia sả n. Chu lấ y là m khinh ghét, nó i rằ ng : "Tiền củ a, có thể nhiều lú c
"khô ng", há chẳ ng có thể nhiều lú c "có " hay sao. Ta số ng ở đờ i (chỉ) có hạ n". Rồ i
khuyên mẹ đem đố t nhữ ng vă n tự nợ , tính ra hơn 200 lạ ng bạ c, hơn 3400 quan
tiền và 370 hộ c thó c. Quan (hữ u) tư địa (phương) đem việc tâ u lên, Minh Mạ ng
nă m thứ 19 (1838), đượ c chuẩ n miễn cho 15 nă m thuế thâ n, dao.
p>
Phạ m Vă n Thu
Ngườ i tỉnh Phú Yên (từ đây trở xuố ng khô ng rõ huyện) thờ mẹ rấ t hiếu. Mẹ
ố m, thuố c men, cơm chá o chưa bao giờ trễ nả i. Khi mẹ chết, là m nhà ra ở cạ nh mồ ,
sớ m chiều lạ y, khó c. Hổ bá o đêm thườ ng đi qua, khô ng là m hạ i. Trướ c đó , rừ ng có
bá o độ ng, tiều phu khô ng dá m đi. Ngườ i nhà khuyên Thu về Thu khô ng độ ng sắ c. 3
nă m mã n tang, Thu trở về khô ng thay đổ i hình dạ ng, ngườ i ta cho là nhờ ở sự cả m
độ ng củ a lò ng hiếu. Tự Đứ c nă m thứ 20 (1867) thưở ng cho ngâ n sa và tấ m biển
khắ c nhữ ng chữ "Hiếu hạ nh khả phong".
Tô Thế Mỹ
Cha ố m, thuố c men, cơm chá o đều thâ n tự kiểm soá t trô ng coi, sớ m chiều
să n só c quên cả ă n ngủ . Khi cha chết, đem chô n ở nú i. Đấ t nhiều hổ , Mỹ khuâ n đá
đắ p thà nh mộ , rồ i là m nhà ra ở mộ 3 nă m, hổ thườ ng qua lạ i, khô ng là m hạ i. Đến
khi ngườ i mẹ ố m, dặ n rằ ng đừ ng là m như trướ c thờ i bỏ bê việc nhà là m lụ y đến
con chá u. Khi mẹ chết, Mỹ đem hợ p tá ng ở mộ cha rồ i lạ i là m nhà đến ở 3 nă m, củ i,
nướ c tự tìm lấ y thương xó t quá thà nh bệnh. Ngườ i là ng thương mà khuyên về. Khi
ấ y Mỹ 38 tuổ i. Tự Đứ c nă m thứ 12, nêu khen là con hiếu và ban cho biển và ng và
ngâ n sa.
Hoà ng Việt T
Tự Đứ c nă m thứ 12 (1859) nêu ban cho biển ngạ ch hiếu tử và ngâ n sa.
Phạ m Hữ u Chí
Nguyễn Vă n Khoa
Ẩ N D̑
Đỗ Trọ ng Ngoạ n
Doã n Trĩ tự hiệu là Tạ Hiên, có trướ c tá c nhữ ng tậ p "Tạ Hiên thi vă n".
Nguyễn Vă n Siêu ở huyện Thọ Xương có là m bài hà nh trạ ng cho rằ ng : "Viễn Phu
trướ c hết đượ c thầ y dạ y, sau tự cố sứ c là m, yên lặ ng tìm tò i, trong ngoà i như mộ t,
khô ng phả i qua ngườ i hướ ng đạ o, rồ i theo ý nghĩa mà là m đượ c giỏ i như thế ư!"
Thứ c giả cho lờ i nó i là phả i. Trong nă m Tự Đứ c, nộ i cá c Nguyễn Tư Giả n ghi chép
nhữ ng bà i thơ dâ ng lên và tâ u nó i: "Thơ Doã n Trĩ về cậ n thể cò n non nớ t bình
thườ ng, về cổ thi ý điệu cao khiết. Vì là ngườ i xuềnh xoà ng quê mù a điềm đạ m, từ
khi 15 tuổ i đến lú c bạ c đầ u khô ng có khuyết điểm. Lạ i xử lý theo nghĩa lý giữ ướ c lễ
ngoà i ra khô ng có cầ u cạ nh, mà tiếp nhâ n thờ i khiêm tố n hoà nhã cù ng mọ i việc
khô ng có cạ nh tranh''. Lạ i nó i : "Nghe lờ i nó i, xem độ ng tĩnh, khiến ngườ i nó ng
phả i nguô i, ngườ i kiêu că ng phả i bình, thự c là ẩ n dậ t khô ng xa ngườ i thâ n, trinh tín
khô ng dứ t thế tụ c, có vẻ ngay thẳ ng cẩ n thậ n, rõ ra bậ c ẩ n quâ n tử như Bỉnh
Nguyên đờ i Đô ng Há n". Đượ c sĩ phu bà n bạ c suy tô n là như thế! Sau khi Doã n Trĩ
chết, xem lờ i vă n phầ n nhiều tả n dậ t, nay quyển thi vă n nhiều ngườ i cò n giữ .
Bù i Trú
Lê Bậ c Triệu
Tự là Ô n Phủ , ngườ i huyện Hoằ ng Hoá , tỉnh Thanh Hó a. Gia thế có danh tiếng
vă n họ c, em là Đứ c là m đến Tuầ n phủ , có truyện riêng. Bậ c Triệu sinh và o cuố i Lê,
khô ng có bụ ng ra là m quan, thờ mẹ đọ c sá ch. Khoả ng nă m Gia Long, hai lầ n cho gọ i
đều cố từ . Chỗ ở thuộ c là ng Đạ i Trung có cá i đầ m thả sen, nhâ n đặ t hiệu là Liên
Khê. Tính thích rượ u, có ai hỏ i chữ nhờ là m vă n đều mang rượ u tớ i, cầ m chén uố ng
là hoa bú t viết thà nh thiên. Ngườ i ta gọ i là rượ u tiên. Bụ ng dạ rộ ng xa mà nết na
cà ng ngay thẳ ng trong sạ ch. Em là Đứ c ngà y là m quan thườ ng biên thơ khuyên
nhủ , tố t nhấ t có gở i về cá i gì dẫ u á o đẹp đồ chơi quí bá u, tứ c thì cho ngườ i nghèo
khố n khô ng chú t tham tiếc. Đó là chẳ ng muố n hình dịch ngoạ i vậ t mà cũ ng tá c
thà nh liêm khiết cho em, dạ y họ c kể có hà ng nghìn ngườ i, mà thà nh đạ t cũ ng lắ m.
Đứ c cũ ng nhờ có gia họ c. Khi chết đượ c 80 tuổ i, Sau khi chết hễ nó i đến Đạ i trung
tiên sinh hay Điền phu dã tẩ u thờ i ai cũ ng biết.
Lê Khắ c Phố i
"0">
Lê Mẫ n Đứ c
Ngườ i huyện Thạ ch Hà , tỉnh Hà Tĩnh. Lú c nhỏ thô ng minh đĩnh ngộ , ham
họ c, đó ng cử a đọ c sá ch có khi và i thá ng khô ng đi đâ u Minh Mạ ng nă m đầ u (1820)
đượ c liệt và o tườ ng sinh; thế rồ i chá n họ c khoa cử khô ng chă m việc đi thi nữ a, lấ y
thơ vă n là m vui, thườ ng chơi cả nh Hương Sơn đến cá c danh thắ ng ở Quả ng Bình.
Sau về là m nhà dạ y họ c, ngườ i tớ i họ c, đều dạ y về vă n nghĩa lý nên cắ p sá ch tớ i họ c
ngà y nhiều. Nă m Tự Đứ c thứ 5 (1852), Tổ ng đố c Sơn Tâ y là Nguyễn Khắ c Tuầ n cho
là ngườ i ẩ n dậ t tiến lên triều đình, vua cho triệu tớ i cử a khuyết. Khi đến, cá o bệnh
cố từ , vua bèn cho về, từ đó cà ng nú m ná u cù ng vớ i tiều phu mụ c đồ ng qua lạ i
quã ng sơn dã , phó ng khoá ng tự đắ c, vá ch trá t xung quanh trô ng thự c tiêu điều mà
vẫ n thả n nhiên. Thương Sơn cô ng thườ ng tặ ng thơ và ví như Bà ng Đứ c (đờ i Đô ng
Há n). Mấ t nă m 65 tuổ i. Có trướ c tá c nhữ ng tậ p thơ : lú c đầ u gọ i là "Hương Sơn phụ
tậ p" và "Quýnh trai tậ p", sau khi về nhà gọ i là : "Quy điền tậ p", lú c vã n niên gọ i là
"Mô ng viên tậ p
0">
Tô n Đứ c Tiến
Hiệu là Lỗ Xuyên, ngườ i huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Mấ y lầ n thi đỗ
tú tà i, ở nhà dạ y họ c yên phậ n nghèo nà n kiệm ướ c chỉ chă m chắ m về việc dẫ n bả o
hậ u họ c về cá c Kinh sử chu tử bách gia cho đến cử u lưu (110) thuậ t số , khô ng sá ch
gì là khô ng nghiên cứ u tinh vi. Lạ i giỏ i xem ngườ i, ngườ i mớ i tớ i họ c xem vă n đủ
biết ngườ i ấy sau nà y cù ng hay đạ t, mà xa gầ n theo họ c chấ t vấ n điều nà o khó , thờ i
phâ n tích hết nghĩa lý cho hiểu. Nên ngườ i đờ i khen là vă n họ c sâ u rộ ng, họ c trò
đượ c hiển đạ t có mấ y tră m ngườ i. Khoả ng nă m Tự Đứ c thì mấ t, thọ 81 tuổ i. Con có
5 ngườ i thờ i 4 ngườ i là Diễm, Soạ n, Thâ n, Diên đều đỗ hương tiến, cò n Đĩnh đỗ tú
tà i Soạ n trả i là m huấ n đạ o, Thâ n là m đến viên ngoạ i lang và Diên bổ tu soạ n.
CAO TĂ NG
Li Phong thiền sư
Khô ng rõ là ngườ i thế nà o, hoặ c nó i : họ Lê tên Ban, ngườ i ở Kinh Triệu Bắ c,
chố ng gậ y tích trượ ng sang Nam đến thà nh Quy Nhơn, (nay tỉnh Bình Định) thấ y
phía Đô ng Bắ c thà nh độ 30 dặ m có nú i cao câ y đá rừ ng suố i cả nh trí sầ m uấ t, bèn
dự ng gậ y ở đó . Kết vỏ câ y là m á o, tiêu dao ở trong hang nú i. Ngườ i ta chỉ gọ i là sơn
độ ng, ở đượ c và i nă m chỗ lưng chừ ng nú i có nướ c suố i chảy xiết, thấ y phá gai gó c
chở đá to đến xâ y đắ p dự ng mộ t cá i am nhỏ kết bằ ng cỏ gianh và tre, khô ng mấ y
hô m đã xong, tự a hồ có sơn binh ngầ m giú p. Khi am thà nh gọ i là chù a Dũ ng Tuyền,
chù a gố i và o ngọ n nú i rấ t cao, nướ c suố i trong chả y réo xiết, hai bên tả hữ u dâ y
mâ y quấ n leo đã lâ u và đá cây hoa đều khá c lạ , rấ t sầ m uấ t thắ ng địa. Bên tả chù a
có cá i nhà bằ ng đá , nà o tườ ng nà o sâ n nà o thềm hai bên cao thấ p như cả nh thiên
nhiên vẽ ra. Sơn ô ng thườ ng qua đó ngồ i mộ t mình niệm kinh, nú i có nhiều hổ ,
cù ng ở vớ i mộ t chú tiểu đồ ng và cù ng chơi bờ i vớ i hổ bá o hưu nai quên cả vậ t và ta.
Ngà y rỗ i sư đi kiếm củ i bó thà nh bó to, dẫ u và i ngườ i có sứ c lự c cũ ng khô ng mang
đượ c, mà sơn ô ng mộ t mình mang để dướ i nú i. Khá ch đi đườ ng đến đều biết là củ i
củ a sơn ô ng mang để đó để đổ i lấ y gạ o rau, kịp lú c ra lấ y thờ i cho và o tay á o đi,
khô ng có so sá nh nhiều ít, cứ như thế đượ c mươi nă m. Thứ c giả khô ng rõ đượ c
tô ng tích.
Nă m Hiếu Vũ Hoà ng đế (tứ c Thế tô ng, chú a thứ 8 nhà Nguyễn (Tứ c Nguyễn
Phướ c Khoá t (1738-1765) thứ 3, xuố ng sắ c cho triệu tớ i bà n lý luậ n đạ o Phậ t gầ n
mộ t thá ng, rồ i từ về, gia ơn cho á o cà sa và vò ng ngọ c mó c và ng 1 cặ p để là m phá p
phụ c, tỏ sự quí mến khá c thườ ng. Tớ i khi Tây Sơn tiếm hiệu, Sơn ô ng đã về chầ u
Phậ t rồ i. Cá c sơn tă ng hộ i họ p chô n cấ t, xâ y thá p ở bên hữ u chù a và ở thá p có đô i
câ u đố i rằ ng :
Nghĩa là :
Đến Thế Tổ Cao Hoà ng đế (Gia Long) sau khi đạ i định thườ ng có hỏ i tớ i.
Minh Mạ ng nă m thứ 7 (1826) cho chiếc á o cà sa mớ i may và mó c và ng vò ng ngà 1
cặ p để thờ , cù ng lấ y bạ c ở trong kho 120 lạ ng sai sù ng tu lạ i. Trướ c đây nhà vua
khó ở mớ i nằ m ngủ chiêm bao thấ y mộ t lã o tă ng mặ c á o vỏ gỗ đứ ng cạ nh bên
giườ ng hầ u quạ t, đến sớ m mừ ng thấ y yên, bèn đem mộ ng triệu bả o vớ i cá c quan,
nhâ n nhớ khi trướ c, có việc ô ng á o gỗ ở nú t Linh Phong, bụ ng lấ y là m lạ , nên có
mệnh ấ y.
Khoả ng nă m Tự Đứ c, Hiệp biện là Lương Khê Phan Thanh Giả n mến cả nh ấy,
thườ ng tớ i du lã m có đề bà i thơ rằ ng :
Phiên â m :
Đạ i giá c bấ t thầ n tá c,
Lạ i tò ng sơn sắ c tậ n,
Tọ a khá n hả i vâ n sinh
Dịch :
div>
Đạ i giá c chợ t tớ i là m,
Tớ i thờ i sắ c nú i hết,
Dịch:
Thà nh Thá i nă m thứ 7 (1879), bèn đem việc tâ u lên, có tớ i tai Lương cung,
ban cho 70 lạ ng bạ c, sai tỉnh thầ n trù ng tu lạ i ngô i chù a ấ y.
Giá c Ngộ Hò a thượ ng
Ngườ i tỉnh Gia Định, khô ng rõ họ , tự hiệu là Sơn Nhâ n. Khi trướ c ra là m việc
đắ p thà nh, đẽo đá rấ t chă m, chợ t ở trong hò n đá lớ n đượ c mộ t tượ ng Phậ t, bèn
phá t nguyện đem tượ ng và o rừ ng đoạ n tuyệt vớ i đờ i mã i mã i. Sau có ngườ i ở Phí
Yên trô ng thấ y trong chù a Thô n Khô ng ở trên nú i có ngườ i ở , trướ c đâ y ngườ i
trong thô n có dự ng chù a ở trên nú i, mà nú i lạ i nhiều hổ , đến bây giờ ; thấ y Sơn
Nhâ n ở đó bèn sợ hỏ i. Sơn Nhâ n nó i : "Ta là ta, hổ là hổ ". Lạ i hỏ i : "họ c chú ở kinh
nà o mà hà ng đượ c hổ ?" Đá p : "chỉ có 6 chữ châ m ngô n là : Na mô a di đà phậ t thô i."
Bấ y giờ dịch bệnh thịnh hà nh nhiều ngườ i nhuố m bệnh chết, độ c thô n ấ y có Sơn
Nhâ n tụ ng kinh cầ u đả o nên đượ c yên. Gặ p tỉnh quan là mỗ (khuyết họ tên), có
ngườ i con bị bệnh đau tim, cũ ng vá i thuố c men khô ng hiệu, ngườ i ta cho là có hổ
nương thà nh yêu quấ y nhiễu bèn sai ngườ i đi tớ i thỉnh Sơn Nhâ n hỏ i : "tỉnh ở nơi
nà o?" Ngườ i tớ i thỉnh đá p : "ở hướ ng đô ng". Sơn Nhâ n nó i : "ngườ i về trướ c ta biết
rồ i". Thế rồ i Sơn Nhâ n quả đến trướ c và o bắ t mạ ch và nó i : "hồ nương hã y tha cho,
họ vừ a dạ i vừ a ngâ y, hồ nương hồ nương tha đi". Chợ t có tiếng độ ng, hình như tấ m
lụ a bay vú t đi rồ i tan. Con viên mỗ liền khỏ i bệnh, tỉnh thầ n đem việc tâ u lên.
Thá nh Tổ Nhâ n Hoà ng đế (Minh Mạ ng) xuố ng sắ c cho triệu và o nộ i, cho ngồ i, rồ i
trình bày về câ u hỏ i, vì đâ u đượ c đắ c đạ o và ban cấp rấ t hậ u. Đều cá o từ khô ng
nhậ n.
Vua nó i: "Đờ i xưa có bả o : thuầ n nhấ t khô ng pha là hò a, muô n loà i đều tô n
trọ ng là thượ ng, là ngườ i ấ y ư!" Bèn cho hiệu là Sơn Nhâ n Hò a thượ ng, lạ i sắ c cho
hò a thượ ng ở cá c chù a cô ng nên đổ i tên là ă ng cương để tỏ có phâ n biệt. Lạ i sắ c
cho ở chù a Giá c Hoà ng, hơn mộ t thá ng xin về nú i. Đờ i truyền Sơn Nhâ n mặ c á o vỏ
câ y đi dép gỗ rắ n, đi bộ rấ t nhanh, khi về nú i tuổ i đã 80. Khô ng rõ về sau ra sao.
Trầ n Viết Thọ
Tự là Sơn Phủ , hiệu là Điềm Tĩnh cư sĩ, ngườ i Thuậ n Xương tỉnh Quả ng Trị.
Tính cương trự c cù ng ngườ i ít hợ p, Tự Đứ c nă m Tâ n Mù i (1871), đỗ phó bả ng, trả i
là m phủ huyện thi hà nh chính trị đượ c sá ng rõ . Bấy giờ Nguyễn Hữ u Độ là m biện lý
Bộ Lạ i có sớ đề cử lên, vì là ngườ i cứ ng thẳ ng dù ng đượ c và Tổ ng đố c Vũ Trọ ng
Bình cũ ng cho là chấ t phá c thẳ ng thắ n khô ng nhiễu bạ n tiến lên. Tự Đứ c nă m thứ
30 (1877) chuyển là m chủ sự Bộ Lạ i, sung Cơ mậ t viện hà nh tẩ u, rồ i mắ c bệnh xin
nghỉ và khả ng khá i lo phiền thờ i sự đó ng cử a khô ng chịu ra nữ a. Đầ u nă m Hà m
Nghi (1885) nhữ ng quâ n mượ n tiếng , tạ o sự là xướ ng nghĩa cướ p lấ y tỉnh thà nh
(Quả ng Trị). Viết Thọ nghe biến, thâ n tớ i đem việc họ a Phướ c bà y tỏ phâ n giả i,
đả ng ấ y liền phâ n tá n bỏ đi. Quan quâ n nhâ n đó thu lạ i tỉnh thà nh. Đầ u nă m Đồ ng
Khá nh (1886) cấ t bổ Thị giả ng họ c sĩ, lĩnh Á n sá t sứ tỉnh Quả ng Nam, rồ i mắ c việc
phả i tả thiên lĩnh đố c họ c ở tỉnh ấ y. Đượ c hơn nă m, triều đình cho trướ c kia có
cô ng bài giả i, lạ i thưở ng bổ Thị giả ng.
Viết Thọ dạ y ngườ i ta lấ y 2 chữ "tiết thá o" là m nghĩa thứ nhấ t, họ c giả đều
tô n là m thầ Thà nh Thá i nă m thứ 5 (1893) vì già xin về hưu, bấ y giờ tuổ i đã 59 tuổ i.
Tỉnh thầ n là Đà o Hữ u Ích cho là sĩ tử đương vui tin theo, cố gắ ng ở lạ i. Viết Thọ
khô ng chịu, tỉnh lạ i cố ý để lâ u khô ng đề đạ t việc ấ y lên. Viết Thọ bèn dặ n hiệu sinh
mang ấ n họ c chính quan phò ng do tỉnh đưa nộ p rồ i bỏ đi.
1/ Câ u đố i củ a Cú c Khê :
Dịch:
Dịch:
Tu đượ c thế há khô n nhâ n, chi phả i hỏ i trướ c sinh thiên sau thà nh phậ t;
Chết thế nà o khô ng cầ n biện, chỉ vì tranh dễ khẳ ng khá i khó thung dung.
Giả i tô hậ u, Hương sơn lai vã ng, nã o thà nh tính nhậ p hỏ a khanh khô ng;
Dịch:
n">
Vũ Đứ c Nghiêm
Ngườ i huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quả ng Ngã i. Sinh ra thô ng minh trí tuệ, ít nó i
cườ i, khi cò n hà i đề đã sớ m có quan niệm Na mô phậ t bả o hiệu; nă m 12 tuổ i xuấ t
gia. phó ng bướ c chơi xa, yêu thích chù a Phướ c Lâ m ở Thanh Hà tỉnh Quả ng Nam,
bèn dừ ng gậ y tích ở đó 10 nă m có lẻ, lạ i về là ng ra lính chỉ huy. Mộ t hô m hoả ng hố t
như mấ t cá i gì, bỏ chứ c trố n đi, tớ i phố Hộ i An tỉnh Quả ng Nam phá t nguyện quét
chợ . Trong 20 nă m bụ i trầ n xấ u xí mà vẫ n như khô ng, đượ c lâ u ngườ i ta biết lấ y
là m lạ , đều giữ lễ như mớ i khi gặ p gỡ . Chù a Di Đà mớ i tớ i là m bả n tự trụ trì, rồ i các
sơn tự mở giớ i đà n tô n là m Minh giớ i Hò a thượ ng và trong tờ có nó i : "Phậ t là giá c
giã , Hò a thượ ng có tính thô ng tuệ, tự cho con đườ ng tình duyên lanh lợ i đã 20 nă m
nay như đem dao cắ t đứ t hẳ n, coi giố ng cá t sô ng bọ t nổ i. Lạ i đem mình ở nơi thị
tỉnh chịu đự ng bụ i trầ n nhọ c lò ng khổ chí để giữ vữ ng tâ m niệm nhậ đạ o mà thà nh
tự u tấ m thâ n chứ ng đạ o. Đã hay tự mình khai giá c hết thả y nhữ ng ngườ i có tình
như chiêm bao thứ c giấ c dậ y. Trong điển Phậ t có nó i, tự mình biết, bả o cho ngườ i
khá c biết, đó là ý nghĩa đầy đủ tiếng khen về biết rõ cả ". Từ đấy ngườ i xuấ t gia
ngườ i tạ i gia đều tô n là m phậ t tử xuấ t thế.
Chù a Phướ c Lâ m khi bé Đứ c Nghiêm thế phá t ở đó , bèn quyên mộ gó p và ng
sử a chù a đú c chuô ng lớ n, biện thà nh mộ t cả nh giớ i rộ ng rã i sầ m uấ t, đượ c khá lâ u
rồ i chết, thọ 84 tuổ i. Sau có ngườ i dậ t sĩ ghi chép việc đó có câ u rằ ng :
Phiên â m:
Bình nam tả o thị, lưỡ ng độ gian lao, xuấ t gia kỳ phá t nguyện vưu kỳ, bá t dậ t
sinh thiên thà nh chứ ng quả ;
Dịch:
Bình nam quét chợ , hai độ gian lao, xuấ t gia kỳ phá t nguyện cũ ng kỳ, tá m
chụ c chầ u trờ i thà nh quả Phướ c;
QUYỂ N 44
LIỆ T NỮ
Hoà ng Thị Trú c
Ngườ i tỉnh Lạ ng Sơn, tuổ i 19 có sắ c đẹp, tên thổ ty là Thố ng muố n hiếp, thị
khô ng chịu, bị Thố ng giết. Minh Mạ ng nă m thứ 14 (1833) đượ c nêu khen.
Nguyễn Thị Liệu, ngườ i tỉnh Vĩnh Long, tuổ i trẻ đi mộ t mình, bị tên cườ ng
bạ o bứ c hiếp, thị chố ng cự bị hạ i. Thiệu Trị nă m thứ 5 (1845) đượ c nêu khen.
Bù i Thị Tâ m
Ngườ i huyện Tuy Phướ c, tỉnh Bình Định. Nhà nghèo bố mẹ chết sớ m, tự
mình trô ng coi việc nhà , nuô i nấ ng em nhỏ . Nă m 18 tuổ i chưồ ng. Có đứ a con trai
cườ ng bạ o muố n hã m hiếp khô ng đượ c, dọ a giết chết, thị chỉnh sắ c nó i : "Thà chết
khô ng chịu điếm nhụ c", tên bạ o nam đâ m chết. Minh Mạ ng nă m thứ 16 (1835) sắ c
cho biển và ng và dự ng phườ ng nêu khen.
Vũ Thị Lự u
Ngườ i huyện Võ Già ng, tỉnh Bắ c Ninh. Gả chồ ng là ngườ i là ng Nguyễn Điệp
là m kế thấ t nă m 21 tuổ i chổ ng chết, khi hết trở , mẹ chồ ng cho là cò n ít tuổ i và chưa
có con bả o nên tá i giá . Thị khó c nó i rằ ng : "Ngườ i liệt nữ khô ng lấ y hai đờ i chồ ng,
huố ng con chồ ng cũ ng như con mình, xin cho toà n đạ o vợ , thề khô ng có chí khá c".
Thế rồ i ngoà i cử a ong bướ m tin đi mố i lạ i nhiều ngườ i, mẹ chồ ng cho tự lự a lấ y, thị
tứ c thì cắ t tó c tỏ chí, đượ c tớ i khi đầ u bạ c trọ n tiết. Minh Mạ ng nă m thứ 17 (1836)
đượ c nêu khen thưở ng cho hạ ng ưu và cấ p theo lệ.
ight="0">
Vi Thị Phí
Ngườ i huyện Ô n Châ u, tỉnh Lạ ng Sơn. Về nhà chồ ng nă m 20 tuổ i, đẻ mộ t con
trai mớ i 3 thá ng thờ i chồ ng chết. Khi hết trở , ó ng ả có vẻ cò n đẹp. Ngườ i ta tranh
nhau nhờ ngườ i tớ i nạ p thá i và ra và o đầy cử a. Mẹ chồ ng gượ ng ép tá i giá , thị
khô ng theo, cắ t tó c thề khô ng đổ i chí, thờ mẹ chổ ng nuô i con trướ c sau trọ n tiết.
Minh Mạ ng nă m thứ 18 (1837) đượ c nêu khen thưở ng cho biển và ng và bạ c the.
Ngườ i huyện Nghi Xuâ n, tỉnh Hà Tĩnh. Nă m 20 tuổ i chồ ng chết khô ng có con,
ở gó a giữ tiết. Kính nuô i mẹ chồ ng, nhiều ngườ i cầ u hô n, thề khô ng tá i giá . Khi mẹ
chồ ng chết, 3 nă m thương xó t, gặ p loạ n Tâ y Sơn trong đó có tên thích vì sắ c đẹp
bứ c bá ch cầ u phố i hợ p. Thị cắ t tó c trố n là m sư ni để trọ n đạ o vợ . Minh Mạ ng nă m
thứ 19 (1838) đượ c nêu khen.
<p>
Times New Roman"> Ngườ i tỉnh Thanh Hó a. Tuổ i 20 đã gó a chồ ng, là ng xó m
có ngườ i muố n lấ y, thị tứ c thì cắ t tó c để tỏ chí. Khi đả ng giặ c nghe tiếng đẹp lạ i bứ c
ép, thị tự thích và o mặ t rồ i đem con 3;i, bèn đượ c thoá t. Thiệu Trị nă m thứ 2
(1842) nêu khen cho biển ngạ ch tiết phụ và bạ c the.
pan>
Ngườ i tỉnh Hà Nộ i, tuổ i 21 gó a chồ ng, chưa có con. Cha muố n ép lấy chồ ng,
thị uố ng thuố c độ c, bố mẹ chồ ;ng biết cứ u chữ a bèn tỉnh. Từ đó khô ng bà n đến việc
cả i giá nữ a, thị đượ c trướ c sau trọ n tiết. Thiệu Trị nă m thứ 2 (1842) đượ c nêu
khen cho biển ngạ ch tiết phụ .
Lê Thị Nhuậ n
Trương Thị Cậ n
Ngườ i tỉnh Quả ng Trị. Về nhà chồ ng, đẻ đượ c 1 trai, chổ ng chết. Thị cò n ít
tuổ i lạ i có nhan sắ c, nhiều ngườ i tranh lấ y cha mẹ muố n ép cả i tiết, thị cắ t tó c thề,
sau khô ng cả i giá . Thiệu Trị nă m thứ 6 (l846) đượ c nêu khen biển ngạ ch tiết phụ
và cho bạ c the.
Lê Thị Tể
Đoà n Thị Lự u
Ngườ i tỉnh Hưng Yên. Nă m 18 tuổ i lấ y chồ ng, chưa đượ c 1 nă m chồ ng chết,
cha mẹ thương khuyên cả i giá , thị khô ng theo, l̐1;i thườ ng cố ép, thị lấ y mó ng tay
hủ y hoạ i cơn mắ t, quyết chí giữ trinh bạ ch. Tự Đứ c nă m đầ u (1848) đượ c nêu
khen.
Ngườ i huyện Bồ ng Sơn, tỉnh Bình Định. Nă m 24 tuổ i chưa lấ y chồ ng, cha ra
đầ u quâ n là m việc nơi xa, ở vớ i mẹ già mã i trong nú i. Đêm đến hổ chợ t và o muố n
quắ p lấ y mẹị ra sứ c đá nh hổ trú ng và o chỗ yếu, hổ chết ngay, bèn hộ vệ mẹ đi ra
thoá t đượ c hạ i. Tự Đứ c nă m thứ 2 (1849) sắ c cho biển và ng có chữ "hiếu nghĩa khả
phong", và dự ng phườ ng nêu khen cù ng gia thưở ng cho cá c hạ ng bạ c và the. Sau
lấ y chồ ng đẻ 1 con, chồ ng chết ở gó a giữ tiết nuô i con đến lú c trưở ng thà nh, tớ i
nă m 78 tuổ i mớ i chết.
Ngườ i tỉnh Hưng Yên. Nă m 23 tuổ i chồ ng chết khô ng có con Quyết chí ở gó a,
có tên thổ phỉ dọ a hiếp khô ng nghe, gieo mình xuố ng sô ng, ngườ i lá ng giềng cứ u
thoá t khỏ i. Tuổ i đượ c 60 trướ c sau trọ n tiết. Tự Đứ c nă m thứ 2 (1849) đượ c nêu
khen.
Ngườ i huyện Lễ Dương, tỉnh Quả ng Nam. Nă m 18 tuổ i lấ y phạ m Vă n Thà nh,
19 tuổ i đẻ đượ c 1 con. Vă n Thà nh ố m rồ i chết, thị mớ i 20 tuổ i. Trong xã có tên
cườ ng hà o nhờ mố i lá i tớ i cầ u hô n, thị mộ t mự c cự tuyệt, khổ tiết giữ mình, thờ mẹ
chồ ng thà nh kính, là ng xó m khen là hiền phụ , dạ y khuyên con là Hữ u Ngâ n đi họ c,
sau đỗ tú tà i. Tự Đứ c nă m thứ 10 (1857) đượ c nêu khen
Lê Thị Nữ
Ngườ i huyện Phong Lộ c, tỉnh Quả ng Bình, cha là Tả o dâ n miền nú i. Nữ có
tính hiếu. Tự Đứ c nă m thứ 24 (1871), Nữ 15 tuổ i, theo Tả o và o nú i Lệ Kỳ chặ t củ i,
chợt con mã nh hổ từ trong rừ ng xô ng ra quắ p Tả o. Nữ ở bên cạ nh giậ n lắ m
kêu to lên vộ i lấy cà nh cây chặ t đượ c đá nh lung tung con hổ , hổ đau buô ng Tả o.
Tả o ra đượ c, lạ i lấ y dao chẻ củ i kế tiếp đá nh, hổ gà o thét chạ y và o rừ ng, Nữ bèn độ i
bó củ i cù ng vớ i Tả o đi về. Ngườ i là ng đến thă m Tả o, và trình nghiệm ở bụ ng lưng
có vết thương bị hổ là m sâ y sá t. Vết thương cũ ng khỏ i,. việc đến tai vua. Vua xuố ng
chỉ nêu khen và sắ c cho biển ngạ ch bằ ng chữ và ng có chữ "hiếu hạ nh khả phong"
và quan dự ng phườ ng treo lên.
">
Phạ m Thị Thườ ng
Ngườ i tỉnh Hả i Dương. Sớ m có chồ ng, đượ c 1 con. Chồ ng chết, cha mẹ mưu
muố n gả chồ ng, đến kỳ sính lễ, thị lén tự vẫ n ở trong buồ ng. Ngườ i đến cứ u cở i dây
hơi thở gầ n tắ t hô n mê mấ t mộ t đêm lạ i số ng, cha mẹ thương chí hướ ng bèn thô i,
đượ c tò ng nhấ t đến chết, Thiệu Trị nă m thứ 6 (1846) đượ c nêu khen cho biển
ngạ ch "tiết phụ " và bạ c the.
="3" face="Times New Roman">
Ngườ i huyện Đô ng Sơn, tỉnh Thanh Hó a, 17 tuổ i về nhà chồ ng, đượ c luô n 1
trai 2 gá i. Nă m 20 tuổ i gó a chồ ng, khi hết tang, ngườ i ấ p bên cạ nh mến có hạ nh,
cầ u cạ nh mố i lá i. Cha mẹ chồ ng thương con ít tuổ i cũ ng ép cả i giá , thị khô ng theo,
cắ t tó c tự thề. Sau đó trong quậ n có tên đạ i giả o hoạ t nghe có nhan sắ c muố n ép
nhờ ngườ i đưa đồ nạ p thá i, thị ẵ m con khó c nó i rằ ng : "Bỏ con bấ t từ , phụ chồ ng là
vô lễ", nếu khô ng tính kế trướ c sợ lụ y tớ i cha mẹ, bèn tự thích và o mặ t, má u ra
khắ p mình sắ p ch871;t, nhờ cứ u khỏ i, tứ c thì mang con đi ở nơi khá c. Khi tên đạ i
giả o hoạ t bị giết, mớ i trở về. Gia Long nă m thứ 7 (1808) cha mẹ chồ ng kế tiếp chết,
chô n cấ t theo lễ, giữ tiết cho chí lú c già . Khoả ng nă m Thiệu Trị (1841-1847) cho
biển ngạ ch nêu khen.
Phạ m
Ngườ i huyện Thượ ng Nguyên, tỉnh Nam Định, sinh trưở ng trong nhà quan,
biết sá ch vở , tuổ i tớ i cà i trâ m (tuổ i 15) lấ y tú tà i Nguyễn Khắ c Cầ n, đượ c hơn nă m,
chồ ng chết khô ng có con. Thị thương khó c, nó i rằ ng : "Nếu có con ra thờ i phậ n đã
yên. Nay lạ i khô ng thế, biết ra sao". Chú ng bạ n đều khuyên giả i. Mộ t hô m vắ ng vẻ
tự vẫ n chết, khá m trong hò m á o có để lạ i mộ t lá thư từ tạ . Cả nhà sợ hã i than thở
đem việc trình lên. Thủ thầ n trọ ng vì tiết nghĩa trình bà y trong sớ nó i : "Bậ c tiên
triết có ră n bả o, khô ng quý kẻ nghịch tình, mà Kinh Lễ đã lậ p giá o cũ ng ră n ngườ i
thương tính; nhưng nghĩa trinh tò ng nhấ t, khă ng khá i tỏ chí, khích lệ kẻ ngoan,
đô n đố c kẻ bạ c cũ ng nên khen ngợ i. Nay họ Phạ m quyên sinh theo chồ ng, ngẫ m lờ i
lẽ khẩ n khoả n thương xó t do tâ m phá t ra, thự c nên khoan thứ . Mong nhà vua
xuố ng sắ c giao cho bộ Lễ châ m chướ c bà n định, ngõ hầ u có chú t bổ ích cho phong
giá o". Khoả ng nă m Tự Đứ c đượ c chỉ nêu khen, mà quan vì đó dự ng nhà phườ ng
treo lên.
<span>
(phụ : Vũ Thị)
Ngườ i huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hó a. Tuổ i cà i trâ m về nhà chồ ng đượ c
hơn thá ng, gặ p nă m Nhâ m tuấ t dấy binh, chồ ng lệ thuộ c sổ quâ n, phả i đi tò ng
chinh, đó ng ở Vũ Ninh rồ i ố m chết. Vợ mớ i có 19 tuổ i để tang 3 nă m, sau có ngườ i
tỏ ý kiến dỗ đi cả i giá , thị chố ng cự dữ , nhâ n đố t đồ mã xong, tớ i mộ khó c ló c 3 trở
về tự vẫ n ở trong buồ ng. Nhà chồ ng kinh sợ than thở lấ y lễ chô n cấ t.
nt color="black">
Ngườ i huyện Nam Đà n, tỉnh Nghệ An, là vợ Lê hiệu sinh Nguyễn Chương.
Nă m 20 tuổ i gó a chổ ng, tự cắ t tó c thề giữ tiết nuô i con cô i, thườ ng khuyên con
chă m chỉ nghề nghiệp sẵ n có củ a tiên nhâ n, dạ y bả o rấ t nghiêm, đến già cũ ng
khô ng chú t trễ nả i. Thị tuổ i gầ n 50. Con là Du đỗ tú tà i. Đến nă m 70 chá u là Thá i đỗ
cá t sĩ về kỳ chế khoa. Tự Đứ c nă m thứ 10 (1857) viên hữ u tư trình bà y trong trạ ng
tâ u lên, vì là ngườ i đà n bà trinh tiết hiền nă ng, lạ i đem thi thư dạ y bả o con. chá u
đều đượ c thà nh đạ t. Vua cho biển và quan dự ng phườ ng treo lên.
v>
Đỗ tiết phụ
Ngườ i huyện Đô ng Sơn, tỉnh Thanh Hó a, là vợ nhà canh nô ng Lê Đình Dũ ng.
Nă m 19 tuổ i về nhà chồ ng, đượ c hơn nă m đẻ mộ t con gá i, chồ ng chết, con gá i đến
tuổ i thà nh niên cũ ng chết non. Đình Dũ ng lạ i ít anh em, nhà vẫ n nghèo, mẹ chồ ng
lạ i già ố m và lò a, thị lo tang, nuô i mẹ chồ ng là ng xó m khen là hiếu. Thị lạ i có nhan
sắ c, có ngườ i ta muố n nhờ ngườ i tớ i nạ p thá i, thị trả lờ i mạ nh bạ o và chố ng cự .
Nă m Bính tuấ t có việc đấ y binh, thô n dâ n đêm đến phầ n nhiều sợ chạ y và o cá c bụ i
rậ m. Giá p mỗ có ngườ i cù ng chạ y muố n loạ n dâ m, thị lấ y con dao mũ i nhọ n ở trong
ngườ i ra và mắ ng rằ ng : "bọ n chuộ t đâ u dá m sá nh vớ i hổ ". Cứ ng rắ n tiết liệt đạ i
loạ i như thế. Mẹ chồ ng thườ ng thương về chí hướ ng bả o rằ ng : "Con cò n trẻ chịu
yên phậ n nghèo vớ i ta thờ i tù y ý, trá i lạ i khô ng chịu đượ c cũ ng cho tù y ý. Ta già
phả i chết chớ quyên luyến ta nữ a". Thị cau mà y và nó i : "nếu con đi thờ i lã o mẫ u
trô ng cậ y ai, nhà ta trinh bạ ch đã 2 đờ i nay, nếu để thẹn cho đạ o là m vợ thờ i nhấ t
đá n là m ô nhụ c đó ! Con đâ u nỡ thế ư! Xin thay chồ ng nuô i mẹ cho chí lú c tậ n số ".
Từ đó phá t thệ đà nh như con én mộ t mình, 20 nă m có lẻ chịu khổ tiết nghèo nà n
mẹ chồ ng nà ng dâ u nương tự a lẫ n nhau yên phậ n.
Trướ c đó , xưa bà họ Lê 20 tuổ i gó a chồ ng giữ tiết đến chết, đến ngườ i mẹ
cũ ng 25 tuổ i giữ tiết như mẹ chồ ng, rồ i đếị là 3 đờ i. Thị từ sau khi mẹ chồ ng chết,
đó ng cử a dệt cử i tự cung cấ p lấ y. Đến nă m 60 tuổ i ngườ i ta vẫ n ít khi trô ng thấ y
mặ t, cá c thâ n sĩ ở trong quậ n thờ i nhiều, nhưng ngườ i có tiết nghĩa mớ i là m truyện
để ghi nhớ .
height="0">
Nguyễn Thị (khuyết tên)
Ngườ i huyện Thạ ch Hà , tỉnh Hà Tĩnh. Nă m 19 tuổ i về nhà chồ ng giữ trọ n đạ o
là m vợ , họ hà ng là ng xó m đều khen, đượ c và i nă m chưa có con thờ i chồ ng chết, thị
thương khó c khô ng tiếc tấ m thâ n, lấ y dao đâ m cổ . Cứ u đượ c khô ng chết, nên từ
hô m đó ngà y đêm thương khó c, ă n uố ng đều bỏ , thâ n thuộ c bè bạ n có ngườ i tớ i
khuyên giả i. Thị nó i: "Chồ ng thiếp đã chết, thiếp nay trô ng và o đâ u, chỉ muố n chết
để theo chồ ng ở dướ i suố i và ng là thiếp đượ c mã n nguyện". Mọ i ngườ i thương về
chí hướ ng cù ng dặ n dò giữ gìn thâ n thể. Mộ t hô m thị nhâ n vắ ng ngườ i, nằ m
ngoả nh mặ t và o tườ ng lấ y tay mó c cổ họ ng rồ i chết. Tự Đứ c nă m thứ 13 (1860),
việc đó đến tai vua, Lễ thầ n cho hà nh độ ng củ a thị hơn bậ c trung thườ ng
mà tính hiếu thuậ n lạ i cà ng cao thượ ng, vua thưở ng cho biển ngạ ch chữ và ng và
dự ng nhà phườ ng treo lên.
Ngườ i tỉnh Quả ng Bình. Cha mẹ đã đến tuổ i già chỉ sinh đượ c mộ t gá i, quí
như hò n ngọ c bích lớ n. Khi lớ n định kết hô n, thị đều khô ng chịu, cha mẹ lấ y là m lo
sợ như quả phiến mai quá tuầ n ba bảy chă ng. Thị dò biết ý kiến, bèn tớ i mẹ vừ a
thuậ t vừ a khó c rằ ng: "Thâ n hèn yếu như con, mộ t khi lấ y chồ ng, thờ i cha mẹ lấ y ai
phụ ng dưỡ ng. Xin khô ng lấ y chồ ng, để đượ c cơm nướ c nuô i nấ ng cha mẹ đến hết
tuổ i trờ i, cò n việc khá c con khô ng đoá i tưở ng đến". Sau đượ c như chí nguyện. Tự
Đứ c nă m thứ 17 (1864) cho biển và ng trinh nữ và bạ c the, dự ng nhà phườ ng treo
lên.
ht="0">
>
Ngườ i huyện Quả ng Điền, tỉnh Thừ a Thiên. Nă m 17 tuổ i gả cho sinh đồ xã
Xuâ n Tù y là Hoà ng Đạ o. Thị con gá i nhà già u, cà y cấy chă m chỉ việc nhà , lấ y lễ đố i
xử vớ i chồ ng và khuyên đi du họ c để đượ c toạ i chí, sau Hoà ng Đạ o đỗ liền 2 khoa
tú tà i, có 2 con thờ i Đạ o chết. Tuổ i mớ i 25, ở goá giữ tiết. Bấ y giờ 2 con cò n nhỏ ,
phơi gó i tờ di thư để đợ i nghiêm tuyệt ngườ i lạ qua lạ i, ngườ i là ng có việc giá thú
thờ i đưa lễ, từ chố i khô ng đến. Có ngườ i cầ u cạ nh muố n lấ y thị khô ng thuậ n,
thườ ng bị bứ c bá ch, thị tự vẫ n muố n chết, lạ i đượ c cứ u khỏ i. Rồ i từ đó chọ n lá ng
giềng để dạ y con, mỗ i khi khuyên họ c lạ i chả y nướ c mắ t dạ y con để trọ n chí ngườ i
trướ c và nó i rằ ng : "Cá c con chă m họ c ta có khổ tiết cũ ng cam". Trong khi ngồ i,
thườ ng để roi vọ t, hễ con chơi lườ i là bị trá ch đá nh. Ngườ i ta cho là nghiêm mẫ u;
khi 2 con trưở ng thà nh thờ i thị đã quá 60 tuổ i. Tự Đứ c nă m thứ 36 (1883) hữ u tư
đem việc tâ u lên, đượ c nêu khen biển ngạ ch tiết phụ hạ ng bình và cho bạ c the. Sau
con là Hoà ng Liên, Hoà ng Thô ng đều đỗ cử nhâ n, cù ng nhau kế tiếp đượ c tờ hịch
cho về phụ ng dưỡ ng thừ a hoan, châ n lý cho là vinh dự , thị hưở ng thọ 77 tuổ i. Liên
là m đến Tri phủ rồ i chết. Thô ng hiện nay là m Thị độ c Viện Hà n lâ m, sung trợ giá o
Quố c Họ c.
<div height="0">
Lê Thị Nhâ m
Ngườ i huyện Lễ Dương, tỉnh Quả ng Nam. Tuổ i trẻ đã biết khuô n phép. Lấ y
chồ ng là Nguyễn Vă n Chấ t đẻ 1 trai tên là Hữ u Quang. Đượ c 1 nă m Vă n Chấ t ố m
chết. Thị tuổ i 20, ở gó a giữ chí, phụ ng dưỡ ng bố mẹ chồ ng, đó n thầ y dạ y con, mong
cố gắ ng thà nh đạ t. Khi Hữ u Quang thi đỗ cử nhâ n, Đồ ng Khá nh nă m thứ 2 (1887),
tỉnh thầ n đem việc tâ u lên, đượ c nêu khen và thưở ng ngâ n bà i cù ng bạ c lạ ng.
Hữ u Quang trướ c đâ y khô ng chịu nhơ nhớ p theo ngụ y phỉ đượ c thưở ng thụ
hà m giá o thụ , là m Huấ n đạ o ở huyện Quế Sơn.
QUYỂ N 45
Lê Vă n Khô i
Khi trướ c giặ c Khô i gâ y biến, Phó lã nh binh ở Phiên An là Giả Tiến Chiêm ở
xưở ng thuyền ngoà i thà nh, đem lính thủ y cơ và dâ n phu phụ cậ n đã tớ i cử a thà nh 2
lầ n giao chiến khô ng địch nổ i, bị thương chạ y lui, cù ng vớ i Á n sá t Nguyễn Chương
Đạ t và Lã nh binh Nguyễn Quế (sau cù ng vớ i Chương Đạ t phá i đi ra sứ c chuộ c tộ i
đều bấ t lự c phả i tộ i cả ) cá o cấ p tớ i tỉnh Biên Hò a, Thự phủ là Vũ Quýnh đem việc
tâ u lên.
Vua truyền lệnh cho thự Tổ ng đố c là Lê Phướ c Bả o liệu đem biền binh tớ i
ngay Phiên An và quyền lĩnh Tổ ng đố c An Biên; lạ i sai tỉnh Bình Định phá i Lã nh
binh là Lê Sá ch đem Quả n cơ cơ Định dũ ng là Đặ ng Vă n Quyên cù ng 300 biền binh,
và 2 tỉnh Phú Yên, Khá nh Hò a đều phá i 1 quả n cơ cù ng 200 biền binh, vớ i tỉnh Bình
Thuậ n phá i Lã nh binh là Lê Vă n Nghĩa cù ng 300 biền binh tớ i theo Phướ c Bả o sai
phá i. Lạ i bổ thự Hậ u quâ n đô thố ng Phủ chưở ng phủ sự là Phan Vă n Thú y là m thả o
nghịch Hữ u tướ ng quâ n và Thượ ng thư Hộ bộ là Trương Minh Giả ng là m Tá n quâ n
vụ đạ i thầ n, cấ p cho sắ c ấ n kỳ bà i và thanh kiếm hoà ng kim đều 1 chiếc, coi đem
lính kinh thẳ ng tớ i Phiên An. Đồ ng thờ i lạ i sai Phó vệ ú y vệ Cẩ m y là Đoà n Dũ và
thự Phó vệ ú y vệ Vũ Lâ m là Phan Vă n Song 73;i đườ ng trạ m tớ i tỉnh Biên Hò a hộ i
đồ ng vớ i Lê Sá ch chia nhau chỉ huy cá c biền binh mà nhữ ng tỉnh : Bình Định, Phú
Yên, Bình Thuậ n, Khá nh Hò a đã phả i tớ i, và chọ n lự a voi chiến khỏ e mạ nh dữ tợ n,
hoặ c 5, 6 thớ t, hoặ c 3, 4 thớ t tớ i đổ ra sứ c đá nh dẹp. Vừ a gặ p bá o tỉnh Biên Hò a đã
bị giặ c hã m ngă n trở con đườ ng tiến củ a ta.
Bấ y giờ việc quâ n bá o ở cá c tỉnh đến luô n, vua lạ i cho Trung quâ n đô thố ng
Phủ chưở ng phủ sự là Tố ng Phướ c Lương là m Thả o nghịch tả tướ ng quâ n và Thầ n
sá ch hậ u dinh thố ng chế là Nguyễn Xuâ n là m Tham tá n đạ i thầ n, Lễ bộ hữ u thị lang
là Trương Phướ c Đĩnh là m Tá n tương quâ n vụ , Tiền quâ n đô thố ng Phủ chưở ng
phủ sự là Trầ n Vă n Nă ng là m Bình khấ u tướ ng quâ n, Hiệp biện đạ i họ c sĩ là Lê
Đă ng Doanh và Vũ Lâ m dinh tả dự c thố ng chế là Nguyễn Vă n Trọ ng đều là m Tham
tá n đạ i thầ n, Binh bộ thị lang là Trầ n Chấ n là m Tá n tương quâ n vụ , cấ p cho sắ c ấ n
kỳ bà i và cho tướ ng quâ n tham tá n thanh kiếm hoà ng kim đều 1 chiếc, quả n lĩnh
binh thuyền tiến phá t. Đạ o Thả o nghịch tả tướ ng quâ n do cử a biển Vĩnh Long, Định
Tườ ng và đạ o Bình khấ u tướ ng quâ n do cử a biển Cầ n Giờ thẳ ng tớ i Phiên An, chia
ra đá nh dẹp. Lạ i cho thầ n sá ch trung dinh thố ng chế là Hoà ng Đă ng Thậ n tớ i nhanh
Biên Hò a sung là m Tham tá n đạ i thầ n quả n lĩnh biền binh ở 5 cơ : Nghiêm uy, Hù ng
uy, Trá ng uy, Phấ n uy và Thầ n uy, theo Thả o nghịch hữ u tướ ng quâ n là Phan Vă n
Thuý đá nh giặ c và phá i Cẩ m y biền binh đi thuyền tuầ n hả i chở nhiều nhữ ng phá o
quá sơn bằ ng đồ ng bằ ng sắ t và thuố c đạ n tớ i chỗ quâ n đó ng. Sau đó trong Kinh
phá i Đoà n Dũ và Phan Vă n Song chia nhau đố c suấ t binh tượ ng các kế tiếp đều đến.
Bấ y giờ tỉnh Biên Hò a đã do quâ n ta lấ y lạ i đượ c, bèn tớ i Bình Đô ng (tên đấ t thuộ c
Biên Hò a) đặ t lậ p đồ n trạ i phò ng thủ . Vũ Quýnh phá i ủ y quâ n cơ ở cơ Trung hù ng
là Trầ n Vă n Khanh đem binh thuyền đó ng giữ cử a sô ng Phướ c Long, gặ p 5 chiếc
thuyền giặ c từ cử a biển Phù Gai tớ i, Khanh bỏ thuyền chạ y, giặ c bèn thẳ ng tớ i tỉnh
thà nh. Viên lã nh binh mớ i thự c thụ là Nguyễn Vă n Thị cưỡ i ngự a xô ng lên trướ c.
Vũ Quýnh cù ng phá i viên là Lê Đứ c Tiệm nố i theo, lã nh binh ở Phiên An là Lê Sá ch
(nguyên lã nh binh Bình Định) cũ ng thú c quâ n cố sứ c đá nh, cướ p đượ c 1 chiếc
thuyền giặ c, giặ c lui về bờ bên hữ u. Đoà n Dũ cù ng Lã nh binh Bình Thuậ n là Lê Vă n
Nghĩa và nguyên á n sá t Tô n Thấ t Gia từ Bình Đô ng đến tiếp ứ ng Vă n Nghĩa bị bắ n
thương vẫ n cứ ng cỏ i khô ng độ ng đậ y, Đoà n Dũ mang sú ng điểu thương ngắ m
thuyền giặ c bắ n luô n giết chết 4 tên, quan quâ n mạ nh bạ o ù a đến đá nh, giặ c nhiều
tên bị tử thương bèn lá i chạ y. Hô m sau giặ c lạ i chia thủ y bộ đá nh đến gầ n đồ n Bình
Đô ng. Phan Vă n Song đố c thú c binh tượ ng hết sứ c đá nh, giặ c rú t lui, bèn đuổ i đến
đườ ng cá i quan, gặ p quâ n phụ c binh củ a giặ c nấ p ở bụ i rậ m bên đườ ng nổ sú ng
phá o bắ n lung tung, Song dấ n thâ n trướ c sĩ tố t bị chết vì tên độ c, Cẩ m y cai độ i là
Trầ n Vă n Du ra sứ c chố ng chọ i cũ ng bị hạ i, quâ n ta vỡ chạ y. Giặ c bèn tụ họ p 8 chiếc
thuyền chở đạ n ở tỉnh thà nh lấ y phá o lớ n bắ n và o. Vă n Nghĩa bó vết thương đứ ng
trướ c trậ n, các đạ o binh đều tớ i giết giặ c, giặ c lạ i dẫ n đi. Khô i ở Phiên An nghe bá o,
sai ngụ y Hậ u quâ n phó tướ ng là Nguyễn Vă n Bộ t lạ i đem binh thuyền từ cử a biển
Phù Gia lạ i, lạ i ủ y riêng 1 chi đá nh trạ m Biên Long. Vũ Quýnh cù ng Nguyễn Vă n Thị
ở 4 mặ t tỉnh lỵ hợ p binh coi giữ để đợ i và ủ y Phó lã nh binh ở Phiên An là Giả Tiến
Chiêm tớ i Biên Long hợ p cù ng vớ i nguyên Á n sá t Lê Vă n Lễ và Khá nh Hò a Hò a
thắ ng cơ quả n cơ là Vũ Vă n Đặ ng tù y cơ ngă n chố ng. Chợ t thấ y 17 thuyền giặ c chia
là m 3 chi lá i thẳ ng tớ i bên thà nh đá nh 3 mặ t tiền tả hữ u và lấ y khẩ u quá sơn thầ n
cô ng đạ i phá o cù ng sú ng điển thương tên độ c bắ n loạ n xạ rấ t nhiều. Lê Sá ch ở mặ t
tả đem viên quả n cơ ở cơ Định dũ ng tỉnh Bình Định là Đặ ng Vă n Quyên đố c thú c
đá nh và bắ n phá o và o thuyền giặ c đá nh đắ m 2 chiếc, Quyên cũ ng bị tên độ c bắ n tin
chết. Nguyễn Vă n Thị cưỡ i voi tớ i trướ c sá ch ứ ng, thuyền giặ c rú t sang bờ bên hữ u.
Lê Vă n Nghĩa ở mặ t tiền cù ng giặ c đố i trậ n, giặ c sợ , nhưng giả cách ở giữ a sô ng bắ n
tớ i khô ng dá m và o đậ u. Đoà n Dũ ở mặ t hữ u, đem phó quả n cơ ở cơ Phú trá ng tỉnh
Phú Yên là Trầ n Vă n Thiều cù ng giặ c bắ n giao nhau. Thiều chết ở trậ n. Thuyền giặ c
ở chi tả tiếp đến, hết thả y lên bờ ù a đá nh, quâ n ta nhiều ngườ i bị tử thương, Dũ
cũ ng bị thương rú t lui ra mặ t sau. .Đạ o binh củ a Vũ Quýnh, Lê Sá ch cũ ng lui chạ y.
Mộ t chi quâ n củ a giặ c trà n đến giữ a đườ ng, Vă n Nghĩa cù ng viên Phó quả n cơ ở cơ
Thuậ n Nghĩa (khuyết tên) đều bị chết, Tô n Thấ t Gia bị giặ c bắ t (sau cũ ng khô ng
khuấ t bị giết). Giặ c lạ i tớ i chiếm cứ thà nh, cho Nguyễn Vă n Bộ t là m Trấ n phủ , Hồ
Vă n Hã n (nguyên tự Hộ bộ lang trung, ngụ y xưng Hộ bộ thiêm sự ) là m Tuyên phủ ,
Hoà ng Kim Lượ ng (nguyên thư ký ở quâ n Trấ n Vũ , can á n phả i cá ch chứ c) là m Phó
tuyên phủ , lạ i sai ngụ y thủ y quâ n là Lưu Tín đem binh thuyền hơn 20 chiếc đá nh
ú p Biên Long, quan quâ n lui chạ y tớ i trạ m Thuậ n Biên.
Phan Vă n Thú y, Trương Minh Giả ng từ tỉnh Bình Thuậ n đem đạ i độ i binh
tượ ng phâ n phá i cho thầ n cơ Hữ u vệ, vệ ú y là Trầ n Vă n Trí và Phó vệ ú y là Trương
Vă n Phượ ng đem lính vệ cù ng vớ i Lê Vă n Lễ đi trướ c là m tiền phong. Hữ u vệ vệ ú y
là Nguyễn Vă n Đoá i, Phó vệ ú y là Trầ n Vă n Trí và Phó vệ ú y là Trương Vă n Phượ ng
đem lính vệ cù ng vớ i Lê Vă n Lễ đi trướ c là m tiền phong. Hữ u vệ vệ ú y là Nguyễn
Vă n Đoá i, phó vệ ú y Ngô Tá Đà m đem lính vệ cù ng vớ i phiên dũ ng phó quả n cơ là
Lê Vă n Do và nguyên trấ n thủ Phiên An bị cá ch chứ c hiệu lự c là Trầ n Vă n Thă ng đi
thứ hai, cò n bọ n Thú y thâ n đem đạ i binh kế tiếp tiến lên. Đả ng giặ c ở quã ng đườ ng
rừ ng rú và tả hữ u nơi hiểm yếu hẹp hò i đặ t phụ c binh bắ n sú ng phá o. Viên cai độ i
Thầ n cơ là Nguyễn Vă n Mô n và cai độ i Tịnh Man là Trầ n Vă n Thả i đều bị bắ n chết.
Quâ n ta vừ a đá nh vừ a tiến, giặ c rú t lui ra bờ sô ng Biên Long kết trậ n để chố ng.
Quan trố ng reo hò ù a tớ i đá nh dữ . Giặ c thua to, hoặ c nhả y xuố ng sô ng, hoặ c chạ y
xuyên và o rừ ng bố n ngả trố n trá nh.. Quâ n ta bắ t số ng và chém hơn 40 kẻ phạ m,
thu đượ c thuyền mà nh sú ng ố ng khí giớ i bèn thu quâ n đó ng ở Biên Long; Vũ
Quýnh, Nguyễn Vă n Thị, Đoà n Dũ , Lê Sá ch cũ ng đem quâ n lạ i hộ i, thanh thế chấ n
độ ng lớ n.
Khô i nghe tin rú t hết đả ng phá i, đố c thú c dâ n phu vậ n chở tiền gạ o ở kho các
tỉnh Long Tườ ng và thà nh Phiên An gó p sứ c đó ng giữ ; lạ i chia đả ng phá i chiếm cá c
đườ ng thủ y lụ c quan yếu ở Biên Hò a. Ngụ y Tiền quâ n là Trắ m tụ họ p binh thuyền
hơn 40 chiếc chiếm cứ cá c giang phậ n huyện Phướ c An (có thể thô ng đồ ng con
đườ ng thủ y lụ c vậ n lương ở Bình Thuậ n) chặ n đó n con đườ ng vậ n lương (chú ng
cò n) hướ ng về quâ n thứ củ a ta đó ng ở bến sô ng đá nh trố ng reo hò ầ m ĩ, hoặ c lên
bờ bắ n phá o lớ n, ngà y, đêm đến 3, 4 lầ n. Bọ n Thú y phá i quâ n ngă n giữ chỗ yếu địa.
Giặ c chia 3 đườ ng tớ i. Quâ n ta giao chiến từ giờ ngọ đến giờ dậ u. Giặ c thua chạ y
trố n và o rừ ng rậ m, rồ i lạ i tụ họ p nhiều thuyền ghe ở cử a biển Cầ n Giờ và cá c đồ n
biển Phướ c Thắ ng, Long Hưng chia đả ng ra đặ t phụ c binh, ở tả hữ u con sô ng lớ n
tỉnh Phiên An chú ng đắ p ụ Giao Khẩ u, trên để đạ i phá o, ngang sô ng buộ c xích sắ t,
chứ a nhiều bè củ i đồ phá t hỏ a gọ i là con rồ ng rơm là m kế chố ng cự . Trướ c đây tỉnh
Định Tườ ng thấ t thủ , viên Á n sá t là Ngô Bá Tuấ n ở trong dâ n gian bí mậ t sai viên
suấ t độ i ở cơ Định uy là Thá i Vă n Nhiên và lý trưở ng Long Điền là Ngô Vă n Điền lén
họ p quâ n nghĩa dũ ng mưu toan thu phụ c. Đến bấ y giờ đả ng giặ c rú t về Phiên An,
chỉ để lạ i ngụ y Chương, ngụ y Thuậ n, ngụ y Bạ ch và 6 tên phạ m ở độ i Hồ i lương.
Tuấ n ở Thạ ch Hồ (tên thô n thuộ c huyện Kiến Hò a) nghe bá o thâ n đem nghĩa dâ n
về tỉnh, trướ c hết đem bọ n ngụ y Chương giết đi lạ i tiếp tụ c bắ t đượ c ngụ y tri huyện
ở Kiến Hò a là Hồ Chu (nguyên Binh tà o cử u phẩ m thư lạ i ở thà nh) và ngụ y Đố c phủ
ở Kiên An là Nguyễn Vă n Trí cù ng ngụ y Tuyên ú y ở Bả o An là Nguyễn Vă n An đều
chém theo bọ n kia.
Tin thắ ng trậ n bá o tớ i binh thứ Biên Long, thờ i tướ ng quâ n Phan Vă n Thú y bị ố m
khô ng tiến đượ c, nên Tham tá n là Minh Giả ng và Đă ng Thậ n liệu để lạ i 600 binh
dũ ng cù ng 11 thớ t voi theo á n sá t Biên Hò a là Hoà ng Vă n Đả n đó ng giữ Biên Long
phò ng giữ đườ ng lương thự c, cò n tự coi 4.000 binh tượ ng có lẻ, chia là m 5 đồ n do
đườ ng bộ tiến lên. Thầ n cơ Hữ u vệ vệ ú y là Trầ n Vă n Trí đem binh thuyền 15 chiếc
ở 2 vệ Hù ng uy Nghiêm vũ hợ p cù ng vớ i bọ n Nguyễn Vă n Hò a, Mai Cô ng Ngô n và
Phạ m Hữ u Tâ m từ đườ ng thủ y tiến đi; gặ p có viên tử là Nguyễn Hoà ng Nhiên (con
củ a tiền quâ n Đứ c) do đườ ng rừ ng ở Biên Hò a đưa tớ i tờ bẩ m vă n củ a Cô ng Triều.
Tờ bẩ m lượ c trình bày là : Cô ng Triều đá nh giặ c ở Trừ ng Giang (thuộ c Định
Tườ ng) và Đà m Thị (thuộ c Phiên An) luô n mấ y hô m đều đượ c, chém ngụ y Tả quâ n
là Dương Vă n Nhã và 300 bè đả ng có lẽ, thu hết chiến thuyền thẳ ng tớ i Sà i Gò n,
giặ c và o cả thà nh, Cô ng Triều chia quâ n là m 2 ngả đá nh vây. Bọ n Minh Giả ng thú c
quâ n tiến nhanh, tớ i đâ u cũ ng khô ng có ngă n trở , khi tớ i thà nh Biên Hò a thờ i ngụ y
Trấ n phủ là Bộ t đã nhâ n bị ố m về trướ c Phiên An, cò n ngụ y Tuyên phủ là Hã n (sau
cù ng bọ n Lương, Khuyến, Dũ ng đều bị giết), Phó tuyên phủ là Lượ ng và ngụ y Đô
quả n là Lương Tiến Dũ ng, Quá ch Ngọ c Phiến cù ng bè đả ng 200 có lẻ, tự bó buộ c
binh tượ ng tớ i cử a quan xin hà ng. Bọ n Giả ng định liệu để lạ i binh voi cù ng vớ i Vũ
Quýnh ở đó đó ng giữ , rồ i chia ủ y cho Lã nh binh Lê Sá ch, Phó Vệ ú y Nguyễn Vă n
Đoà i đem binh dũ ng 1400 ngườ i ở 2 đồ n hữ u vệ do thượ ng du sô ng Phướ c Long
tớ i Bình Dương đá nh mặ t sau củ a giặ c, rồ i Giả ng tự quả n binh dũ ng 2.000 ngườ i có
lẻ và 48 thớ t voi ra trậ n ở 3 đồ n trung, tiền, tả , cù ng đồ n quâ n mớ i hà ng là m 4 độ i
tự tấ n sung đi tiền khu, thẳ ng tớ i bờ bắc Phướ c Long và bến đò Bình Đô ng dự ng
đồ n dừ ng đó ng đó . Đả ng giặ c ở trong bụ i rậ m về bờ phía nam sô ng, bắ n phá o
chố ng cự , quâ n ta cũ ng cá ch bờ bắ n trả lạ i, giặ c lạ i tụ họ p 7 chiếc thuyền ở giữ a
sô ng nhâ n nướ c triều tiến lên và bắ n luô n luô n đạ i phá o, quâ n ta nghiêm trậ n
khô ng độ ng. Giặ c bèn lui đỗ ở hạ lưu, quâ n thủ y đạ o củ a Vệ ú y Trầ n Vă n Trí và
Phạ m Hữ u Tâ m tớ i cù ng giặ c đá nh nhau ở sô ng Lã o Sá ch, đá nh chìm mộ t chiếc
thuyền giặ c. Giặ c lá i đi. Nguyễn Vă n Đoá i tiến quâ n tớ i cầ u Tham Lương, cù ng vớ i
Cô ng Triều hộ i họ p, rồ i gặ p giặ c cù ng giao chiến, giặ c lui về bã i tậ p trậ n bà y trậ n
chố ng cự . Quâ n ta bắ n phá o thêm sứ c, giết đượ c ngụ y Hữ u quâ n là Vũ Vĩnh Tiền,
giặ c bèn lui và o khu Sà i Gò n chặ n chỗ hiểm chố ng cự . Viên Vệ ú y vệ Phấ n uy là
Nguyễn Vă n Thá i khinh thườ ng tiến lên bị bắ n chết. Quan quâ n đó ng ở đồ n Hoa
Phong rồ i bá o cho quâ n thứ ở Bình Đô ng, gặ p Nguyễn Vă n Trọ ng đến để lĩnh ấ n
triện Thả o nghịch hữ u tướ ng quâ n, (thay Phan Vă n Thú y), rồ i cù ng Minh Giả ng,
Đặ ng Thậ n đề binh tiến lên. Vừ a tớ i Bình Hò a (tên xã ), thờ i Cô ng Triều đương cù ng
giặ c đá nh nhau ở Giớ i Cầ u mà viên tử là Nguyễn Hoà ng Thỏ a (em Hoà ng Nhiên,
Cô ng Triều về chiêu thuậ n, Thỏ a mộ nghĩa dũ ng đi theo) cù ng giặ c đá nh nhau ở cầ u
Cao Mau đá nh trố ng bắ n phá o ồ n à o chưa phâ n đượ c thua. Bọ n Trọ ng phá i Đoà n
Dũ , Trương Vă n Phượ ng đem biền binh ở 2 vệ Thầ n cơ Hậ u hữ u chia nhau tớ i tiếp
ứ ng. Dũ đem cỗ phá o đạ i luâ n xa bắ n ra, giết nhiều quâ n giặ c; giặ c lui giữ phía nam
cầ u, Phượ ng sấ n tớ i bị đạ n trú ng chết, giặ c bèn chặ t đầ u tự giữ , quâ n ta đó ng ở bên
bắ c cầ u.
Bấ y giờ đoà n thuyền củ a Thả o nghịch tả tướ ng quâ n là Tố ng Phướ c Lương
tớ i trướ c sô ng Lã o Tố , mà Tổ ng đố c An Hà là Lê Đạ i Cương cù ng Định Tườ ng hộ
phủ là Ngô Bá Tuấ n đều đem binh dũ ng, mộ t do sô ng Phiếu tiến đi, mộ t do sô ng
Tra tiến đi và bá o xin phá i binh sá ch ứ ng, Phướ c Lương ủ y riêng cho Tham tá n
Nguyễn Xuâ n lĩnh Phạ m Hữ u Tâ m và binh dũ ng 1.000 ngườ i có lẻ theo sô ng Lô i
Liệp có 3 ngả thuậ n dò ng xuô i xuố ng và đố c quả n cả đạ o binh Long, Tườ ng, An, Hà
thẳ ng tớ i sô ng Cá t đá nh dẹp. Kế sau đoà nền củ a Bình khấ u đạ i tướ ng quâ n là Trầ n
Vă n Nă ng tiếp tớ i, bèn nhâ n đem hộ i họ p đá nh đồ n Giao Khẩ n chém đứ t dâ y sắ t
ngang sô ng thu đượ c thuyền ghe thẳ ng tớ i cử a sô ng Ngưu Chử bắ t số ng ngụ y Thủ y
sư quả n lĩnh là Trầ n Vă n Đề, Ngô Bá Tuấ n cũ ng bắ t đượ c ngụ y Hữ u quâ n là Nguyễn
Vă n Bộ t giam và o củ i sắ t, cù ng vớ i ngụ y Trung quâ n phó tướ ng là Lê Đắ c Lự c đều
giả i về Kinh giết đi.
Trướ c đó Đắ c Lự c chiếm cứ tỉnh Biên Hò a, tự nghe đạ i binh đến, liệu thế giặ c
khô ng là m gì đượ c, bèn cắ t tó c trố n nú p ở chù a Kim Chương, khi Cô ng Triều về
hiệu thuậ n đượ c đắ c lự c tớ i đó để gặ p; bấ y giờ Cô ng Triều bắ t đem đến để chịu tộ i.
Đả ng giặ c từ khi thua ở bã i tậ p trậ n, bèn ở phố Sà i Gò n họ p hết ngườ i nướ c Thanh
đặ t đồ n cố thủ ; quâ n ta về binh thuyền củ a tả đạ o tham tá n là Nguyễn Xuâ n do
sô ng Cá t tiến tớ i cả ng á ng Thô ng. Vừ a đến chợ thô n Vĩnh Hộ i, giặ c nép ở phố bờ
bên tả bắ n sú ng loạ n xạ , quâ n khô ng tiến đượ c, Xuâ n phá i thị vệ là Tô n Thấ t Bậ t
đố c thú c lính ở vệ Hù ng uy lên bờ phó ng hỏ a đố t, binh thuyền sấ n lên chém đượ c
200 thủ cấ p có lẻ. Giặ c thua to chạ y và o trong phố , Xuâ n cù ng bọ n Phạ m Hữ u Tâ m
lạ i đem quâ n mộ t loạ t đá nh phá chém đượ c 60 thủ cấ p bắ t số ng 700 tên.
Thuyền củ a Bình khấ u đạ i tướ ng quâ n đến cử a sô ng Nghi. Giặ c ở trên thà nh
Phiên An bắ n phá o chố ng giữ , tướ ng quâ n thâ n tự đố c quâ n thẳ ng tớ i xưở ng
thuyền và cá c kho tà ng mà bọ n giặ c vẫ n phò ng thủ , đều trô ng thấ y hú t đã trố n
chạ y, thu đượ c 70 chiếc thuyền có lẻ, bèn quan bá o cho 2 đạ o tả hữ u liệu cơ đá nh
hã m.
Quâ n củ a Hữ u đạ o tướ ng quâ n đó ng phía bắc cầ u Cao Man. Quâ n giặ c có hơn
nghìn tên chia đườ ng để đá nh, mộ t lú c tớ i phía nam cầ u ẩ n nú p, mộ t lú c tớ i đồ n
Hoa Phong mà đá nh nhau vớ i đạ o quâ n củ a Lê Sá ch và Nguyễn Vă n Đoá i, vừ a gặ p
Lê Đạ i Cương từ bã i Tậ p trậ n tớ i tiếp ứ ng. Giặ cm lui chợ t có mộ t chi binh từ trong
bụ i rậ m ở rừ ng Tâ y Quá ch đi ra cù ng nhau giao phong và i hợ p. Quâ n ta chố ng đỡ
khô ng nổ i cũ ng lui, Tham tá n là Hoà ng Đă ng Thuậ n đố c thú c Đoà n Dũ và Thá i Cô ng
Triều đem quâ n tiếp đá nh. Giặ c bèn vỡ . Quâ n ta bèn từ nơi Cao Man đến bã i Tậ p
trậ n chia đặ t đồ n đó ng giữ . Ngụ y Đô quả n lĩnh là Trầ n Vă n Nghĩa đem 50 đả ng phá i
có lẻ tớ i quâ n mô n chịu tộ i và 200 ngườ i Thanh có lẻ cũ ng tự tró i nhau đến xin
hà ng. Cá c tướ ng tha hết ngườ i Thanh về là m ă n và dồ n đả ng Trầ n Vă n Nghĩa là m
độ i tự tâ n thứ 5 , chia nhau cắ m giữ ban thuyền và kèm quan quâ n đương quả n
thú c. Ngụ y Lễ bộ thá i khanh là Định Phiên cũ ng tớ i đầ u thú , quâ n thứ đem việc tâ u
lên.
Vua cho Phiên có quan chứ c, nỡ tá n tâ m theo giặ c sai giả i về Kinh, đến Quả ng
Ngã i bị ố m chết, sai phanh thâ y mà con là Vă n Phá c cũ ng liên can mắ c tộ i.
Bấ y giờ quan quâ n đá nh thà nh chưa hạ đượ c, chợ t bá o quâ n Xiêm đem đạ i
binh thuyền, mộ t mặ t do con đườ ng bộ ở Bắ c Tâ m Bô n, mộ t mặ t do đườ ng sô ng
thuộ c Hổ Hả i, mộ t mặ t do đườ ng biển Châ u Bô n thẳ ng tớ i Nam Vang đá nh hã m 2
tỉnh An Giang và Hà Tiên. Đó là vì Khô i gâ y loạ n đưa thư xin quâ n, ướ c hẹn việc
thà nh sẽ cắ t đấ t, nên ngườ i Xiêm bị ngờ hoặ c. Tờ gọ i lính cá o cấ p, vua chia sai Trầ n
Vă n Nă ng, Trương Minh Giả ng và Nguyễn Xuâ n đem quan quâ n cù ng Thá i Cô ng
Triều mang lính hương dũ ng tiến dẹp giặ c Xiêm. Cò n thà nh Phiên An thì phả i hết
sứ c vâ y hã m đợ i họ tự khắ c chết.
Cá c tướ ng quâ n tham tá n bèn ở đấ t lũ y ngoà i thà nh đem kính đạ i thiên lý lên
lầ u ngắ m coi và o trong thà nh về nơi bọ n giặ c tụ họ p và kho thuố c, nhà cử a. Quâ n ta
thườ ng đem phá o đạ i xung tiêu và quả chấ n địa lô i bắ n và o, đả ng giặ c ngà y chết 3,
4 ngườ i hoặ c 5, 6 ngườ i và kho thuố c sú ng cũ ng bị đố t phá . Giặ c Khô i về chỗ ở
chứ a chấ t tiền cả 4 mặ t là m vách, trên gá c vá n gỗ , trên vá n lạ i gá c tiền, về kho
thuố c sú ng thờ i trên mặ t và 4 xung quanh đều lấ y tiền kẽm chồ ng lên để che, đạ n
có lạ c và o cũ ng khô ng thấ u tớ i. Đầ u mụ c giặ c đà o đấ t đắ p luỹ để ở . Trong bứ c
tườ ng xâ y ở trên thà nh lạ i đắ p mộ t cá i lũ y nhỏ che ở ngoà i, hễ thấ y phá o ngoà i
thà nh bắ n và o là tớ i đó nấ p ẩ n.
Thá ng 11, có tên lính độ i ở kho Gia Tín dò ng dâ y xuố ng thà nh ra đơn cho
suấ t độ i Phan Vă n Trọ ng mộ t tờ giấ y có chữ biên là : "ở kho chỉ cò n tiền 604.000 lẻ
10 quan, bạ c đĩnh... 1.420 đĩnh lẻ 1 lạ ng, đĩnh nhỏ 260 đĩnh có lẻ, thó c 94.000 hộ c,
muố i 8.400 phương, thuố c sú ng 52.200 câ n, ố ng phun lử a 600 ố ng, lính 2.000
ngườ i có lẻ và voi 17 thớ t". Lạ i nó i : "Bọ n giặ c ướ c trong thá ng nà y mở thà nh ra
đá nh".
Thá ng 12, Khô i ố m chết. Giặ c đều tô n ngườ i con là Nguyễn Vă n Cù (tuổ i mớ i
lên 8) là m Nguyên suý, mà Trắ m tự thố ng lĩnh cá c quâ n, nghe đạ i binh ta chia sứ c
để chố ng Xiêm, ủ y trong bọ n hơn tră m ngườ i đêm đến lẻn ra ngoà i quá ch đá nh
nhiễu quâ n ta, biền binh sấ n lạ i hỗ n sá t lạ i lui chạ y leo dâ y lên thà nh và o.
Nă m thứ 5 (1834) ngà y thá ng 5, cá c tướ ng quâ n dự định ướ c thú c định ngà y
đá nh thà nh. Trướ c 4 hô m cá c đồ n chia nhau ngà y đêm bắ n luô n các hạ ng phá o lớ n
nhỏ , đêm đến bấ t chợ t treo thắ p đèn lồ ng, đố t phá o thă ng thiên để loạ n tai mắ t,
đến hô m ướ c định và o canh 5 bắ n phá o lử a lớ n tuô n khó i mù mịt và o trong thà nh.
Cò n biền binh quyết chiến lấ y khí cụ đá nh thà nh khẽ đá nh 4 mặ t ở dướ i thà nh biền
binh nố i tớ i. Cá c tướ ng quâ n tham tá n tự đố c chiến, giặ c ở trên thà nh gạ ch đá ném
lung tung sú ng ố ng thi nhau bắ n. Quâ n ta lấ y khó i lử a lên lử a và sú ng phun lử a bắ n
ra từ giờ sử u đến giờ thìn, ngườ i leo thang bị lũ giặ c đá nh ngã . Ngườ i qua hà o bị
thạ ch đạ n ném thương, rú t cụ c khô ng lên đượ c. Quâ n ta bị trậ n vong hơn 300
ngườ i, tướ ng quâ n là Vă n Trọ ng cũ ng bị thương, bèn thu quâ n dâ ng sớ xin tộ i.
Phướ c Lương, Đă ng Doanh đều giả i chứ c về Kinh. Đổ i Nguyễn Xuâ n là m Thả o
nghịch tả tướ ng quâ n.
Vua nghe tin bã i chứ c Đă ng Thậ n cho Hữ u Tâ m lên thay. Từ khi việc củ a Duy
Thung bị tiết lậ u, bọ n Trắ m nhâ n đó hồ nghi, đề phò ng cẩ n mậ t thêm, chỉ ủ y cho và i
mươi ngườ i tâ m Phướ c chia nhau tớ i thà nh Dương Mã n tuầ n phò ng. Tên ra thú là
Vă n Ích cù ng vớ i bọ n Nguyễn Vă n Tà i ở độ i Lự c dũ ng độ hơn 10 ngườ i cầ m gươm
sắ t dao ngắ n theo đá nh ú p giết đi. Ích lấ y mũ i dao nhọ n đâ m 1 tên giặ c, mọ i ngườ i
nhâ n đó đâ m mộ t và i tên, giặ c bèn lui.
Nă m ấ y thá ng 4, trong thà nh có ngụ y Phó tướ ng là Lượ ng (trở xuố ng đều
khuyết họ ), ngụ y Tham tá n là Trinh, ngụ y Binh bộ thiếu khanh là Hò a, ngụ y Hộ bộ
thiếu khanh là Thanh, cù ng mưu giết Trắ m đem thà nh ra hà ng. Việc tiết lậ u đều bị
hạ i. Trắ m nhâ n đó cà ng sợ , hễ bọ n giặ c có khă n dà i cù ng lều xá có dây buộ c đều thu
cấ t đi để đề phò ng đêm đến dò ng dâ y ra thà nh. Ở mặ t thà nh dự ng gỗ nhọ n đầ u và
chứ a từ ng đố ng gạ ch đá dự bị quẳ ng ném, gó c thà nh và cá c sở ở trung đà i, dỡ cộ t
kèo ở kho tà ng để lên trên đó , đắp lũ y đấ t, dù i lỗ cử a sú ng đặ t sú ng bắ n ra. Mặ t gó c
thà nh, dướ i đà o hố sâ u dự bị sú ng điển thương, ố ng phun lử a, cỏ khô và bọ c để quả
chấ n địa lô i cù ng đạ n, đợ i quan quâ n đà o đến đố t lử a bỏ xuố ng.
Vua đương ngự lầ u Vô hạ n ý nghé tin cả mừ ng sai tuyên bố thắ ng trậ n khắ p
bố n phương biết. Quâ n dâ n già trẻ ở men đườ ng tiếng hoan hô dậ y như sấ m, đến
cả bã i chợ . Rồ i sai đem 6 tên phạ m : nghịch Trắ m, nghịch Minh, nghịch Dự , nghịch
Tín, nghịch Do và nghịch Viên, giam và o cũ i sắ t, phá i giả i về Kinh để tậ n phá p xử
trị. Tên Trắ m đến tỉnh Quả ng Ngã i lấ y khoé mó c cổ họ ng chết, sai phanh thâ y từ ng
miếng và chặ t đầ u bỏ hò m đưa về, lạ i tra xét nơi chô n thâ y tên nghịch Khô i đà o lấ y
xương đâ m ná t chia ném và o hố xí ở 6 tỉnh và cắ t chia từ ng miếng thịt cho chó , đầ u
lâ u thì đó ng hò m đưa về Kinh rồ i cù ng đầ u lâ u nhữ ng tên phạ m khá c bêu treo khắ p
chợ bú a nam bắ c, xong vấ t xuố ng sô ng. Cò n bè đả ng a dua khô ng cứ già trai gá i
đềà i dặ m ngoà i thà nh chém ngay, rồ i đà o mộ t hố to vấ t thâ y lấ p đấ t, chồ ng đá là m
gờ dự ng bia khắ c : "Nơi bọ n nghịch tặ c bị giết, để tỏ quố c phá p"
QUYỂ N 46
Nô ng Vă n Vâ n
Hai tỉnh Tuyên Thá i bá o tin về Kinh. Vua sai Tổ ng đố c Sơn Hưng Tuyên là Lê
Vă n Đứ c là m Tổ ng đố c tiễu bộ Tuyên Quang thổ phỉ quâ n vụ , Thự đố c Hả i Dương là
Nguyễn Cô ng Trứ là m Tham tá n, mang theo biền binh đều 500 ngườ i đi nhanh tớ i
đó ; lạ i sai Tổ ng đố c Ninh Thá i Nguyên Đình Phổ liệu trích lính cơ thuộ c tỉnh và đem
nhiều phá o đạ n quá sơn thầ n cô ng tớ i tả thà nh Thá i Nguyên liệu cơ đá nh dẹp.
Giặ c từ khi chiếm cứ chợ Rã thế lự c ngà y mộ t lan trà n. Chú ng mưu muố n
đá nh ú p lấy Tuyên Quang, bèn chia thủ y lụ c là m 3 chi, mộ t chi tớ i địa đầ u phủ
Đoan Hù ng ngă n trở con đườ ng viện binh ở Sơn Tâ y, mộ t chi hợ p cù ng vớ i tên đầ u
giặ c là Nguyễn Đình Liêm ở Thá i Nguyên, do mượ n đườ ng châ u Đạ i Man thẳ ng tớ i
đằ ng trướ c tỉnh thà nh, mộ t chi từ châ u Ninh Biên theo sô ng Tiểu Miện thẳ ng rả o
tớ i mặ t sau tỉnh thà nh. Quan quâ n trong thà nh trướ c hết đem phá o lớ n bắ n ra, giặ c
đều nép rạ p. Lã nh binh là Trầ n Hữ u Á n tự đem binh voi ra thà nh đá nh, giặ c nhiều
ngườ i bị thương vỡ chạ y. Vâ n lạ i ủ y tên ngụ y xưng tuyên mỹ đạ o tiểu bộ tướ ng
quâ n là Lưu Trọ ng Chương và tên ngụ y xưng Lô i hà tả đạ o đạ i tướ ng quâ n là
Hoà ng Trinh Tuyên họ p đả ng 2.000 ngườ i lấ n nhiễu đồ n Đạ i Đồ ng (tiếp giớ i huyện
Tâ y Quan ở Sơn Tâ y). Lê Vă n Đứ c bèn phá i Lã nh binh Nguyễn Vă n Quyền cù ng
Quả n cơ cơ Hậ u chấ n là Hữ u Du và Tri phủ Đoan Hù ng là Nguyễn Đứ c Hoà nh, đem
hơn nghìn quâ n, 2 thớ t voi chia đườ ng giá p đá nh. Gặ p giặ c ở địa phậ n rừ ng thuộ c
xã Hoà ng Loan phá vỡ lớ n chém đầ u giặ c thu đượ c khí giớ i. Vâ n đã thua đem đả ng
tớ i lấ n Cao Bằ ng, thổ ty là Bế Vă n Cậ n, Bế Vă n Huyền phụ theo. Bố chính là Bù i Vă n
Huy và Phạ m Đình Trạ c cho thà nh chơ vơ, quâ n ít sứ c khô ng chố ng nổ i, dờ i ra giữ
ở đồ n nú i Ninh Lạ c, tư xin cứ u viện ở Lạ ng Sơn. Giặ c 4 mặ t vâ y, và chia đả ng lấ n
đến nú i Tiêm (địa giớ i tỉnh Lạ ng) để ngă n trở viện binh. Tuầ n phủ Lạ ng Bình là
Hoà ng Vă n Quyền tiến tớ i châ u Thấ t Tuyền, nghe tỉnh Cao Bằ ng đã bị hã m, bèn
đó ng quâ n ở đồ n Na Lã nh, sai cai độ i Dương Vă n Phong đem quâ n đó n đá nh ở nú i
Tiêm. Giặ c rú t lui. Đêm ấ y giặ c lạ i lén tớ i đồ n ở 3 mặ t vây đá nh, phá o lớ n bắ n loạ n
xạ . Quâ n ta nhiều ngườ i bị thương bị chết. Quyền lui đó ng châ u Thấ t Tuyền, tên Tri
châ u lỵ nhiệm nơi đó là Nguyễn Khắ c Hò a trướ c đã cù ng giặ c thô ng đồ ng cù ng
đá nh ú p và bổ vâ y, Quyền bị giặ c bắ t, giặ c thừ a thắ ng tiến vây tỉnh thà nh Lạ ng Sơn,
quâ n nhiều đến hơn vạ n ngườ i, đặ t lậ p đồ n trạ i đầy nú i lấ p đồ ng thế cà ng bà ng
trướ ng. Nô ng Vă n Sỹ lạ i từ đồ n chợ Rã tụ họ p cù ng vớ i tên giặ c trố n ở Bắ c Ninh là
Trầ n Vă n Thể và bọ n ngụ y Phó thố ng lĩnh là Nguyễn Đình Liêm, ngụ y Tiền thắ ng lữ
chá nh quả n lữ là Tố ng Nam Thô ng, Phó quả n lữ là Vũ Quang Châ u (Nam Thô ng,
Quang Châ u đều ngườ i nướ c Thanh) hợ p binh đá nh bứ c tỉnh Thá i Nguyên. Nguyễn
Đình Phổ đem quâ n chặ n đá nh, giết đượ c Nam Thô ng, Quang Châ u ở trậ n, đả ng
giặ c rú t lui. Vâ n ở Cao Bằ ng nghe Lê Vă n Đứ c tiến tớ i Tuyên Quang, trướ c sai đồ
đả ng dừ ng lạ i tụ họ p ở đồ n Phướ c Nghi châ u Đạ i Man và 2 bên bờ sô ng Ngâ m mưu
toan chố ng cự . Vă n Đứ c cù ng Cô ng Trứ , trướ c hết sai Trung định quả n cơ là Vũ
Tiến Mâ u, Hữ u định quả n cơ là Nguyễn Vă n Huấ n và nguyên á n sá t bị cá ch chứ c
hiệu lự c là Lê Bỉnh Trung đem binh thuyền lương thuyền đi riêng biệt do đườ ng
sô ng Lô lá i tớ i đồ n Ninh Biên. Đứ c cù ng Cô ng Trứ thâ n đem binh dũ ng đều 2.500
ngườ i có lẻ và cá c hạ ng phá o đạ n tiến tớ i Vỵ Xuyên. Thổ ty là Ma Tườ ng Huy tự
đem thủ hạ chém tên phỉ mụ c là Ma Tườ ngườ ng đem thủ cấ p tớ i dâ ng, Ma Trọ ng
Đạ i, Ma Doã n Dưỡ ng xin đầ u thú theo đi đá nh. Đạ o binh Vă n Đứ c lạ i do bên hữ u
sô ng Lô đi qua, đều có đồ n giặ c dự a hiểm phụ c quâ n đó n đá nh. Quan quâ n mạ nh
bạ o tiến lên hoặ c bắ t hoặ c chém, giặ c bỏ đồ n chạ y. Duy mộ t dả i về địa phậ n rừ ng xã
Vă n Lã ng (thuộ c Tuyên Quang), vố n có tiếng rấ t hiểm trở , bọ n giặ c tụ họ p 500
ngườ i ở đỉnh nú i, cò n binh tinh 5, 3 ngườ i chia nhau nú p bụ i câ y dướ i châ n nú i
dò m ngó thấ y sơ hở là bắ n sú ng, và lưng chừ ng nú i lă n đá xuố ng. Vă n Đứ c cho đem
cỗ đạ i luâ n xa quá sơn phá o, ngắ m và o trong bụ i bắ n dữ , Lã nh binh là Nguyễn
Quyền cũ ng đem binh dũ ng xô ng đến đá nh. Giặ c lui mộ t bướ c ta tiến mộ t bướ c, từ
giờ thìn đến giờ mù i mớ i qua đượ c chỗ hiểm. Giặ c tả n má c và o rừ ng, quâ n ta thẳ ng
tớ i phố Vâ n Trung (chỗ sà o huyệt củ a nghịch Vâ n thuộ c châ u Bả o Lạ c). Sau phố có
nú i đấ t mà trên ngọ n cao có mộ t đồ n lớ n, quâ n ta mớ i đến, giặ c bắ n và i tiếng sú ng
rồ i chạ y. Quâ n ta đuổ i bắ t mộ t tên phạ m mớ i biết Vâ n từ sau khi thua ở Tuyên
Quang, sang nơi khá c từ Thá i Nguyên tớ i Cao Bằ ng quấ y rố i, cò n sà o huyệt củ a giặ c
ở Vâ n Trung chỉ ủ y đồ đả ng giữ thô i. Đứ c bèn phá i quâ n đi tuầ n xét, thấ y vài mươi
ngườ i phụ c sứ c quâ n nhâ n ở đằ ng xa, vộ i vẫy lạ i, thì là biền binh ở Cao Bằ ng sau
khi bị thấ t thủ . Hỏ i ra đều nó i : "Hô m mồ ng 2 thá ng 9 giặ c Cậ n vây kín đồ n ở nú i,
giặ c Vâ n tiếp đến đá nh rấ t gấ p, trong đồ n lương thuố c đều hết, ngoà i lạ i khô ng có
viện binh, mồ ng 5 thá ng 10 bố á n ở Cao Bằ ng cù ng lã nh binh ở Lạ ng Sơn phả i tử
trậ n, biền binh đều bị bắ t cả . Vâ n bèn ủ y cho Cậ n chiếm cứ giữ tỉnh thà nh, trích ra
20 biền binh củ a bọ n họ cho theo ngụ y Tham tá n Trầ n Quyền (nguyên là thư lạ i
Hình phò ng ở Tuyên Quang trố n việc tớ i đầ u thú là m thư thủ cho giặ c Vâ n) và ngụ y
tham luậ n Vũ Vă n Nho (ngườ i Hoà i Đứ c) đứ ng trô ng coi cù ng về Bả o Lạ c. (Chú ng)
vừ a đến Ngọ c Mạ o, nghe quan quâ n đã tớ i Vâ n Trung, Vâ n bèn ẩ n ná u ở đó , sai bọ n
Quyền tớ i thă m dò , bọ n họ đi trướ c, cò n thờ i tụ họ p ở đằ ng sau". Vă n Đứ c tứ c thì
mậ t dặ n bọ n họ trở về nhanh là m nộ i ứ ng, quâ n ta theo liền, bắ t đượ c Nho, chém
đượ c Quyền mà 20 biền binh lạ i quy thuậ n về ta.
ĐN41;o binh củ a Cô ng Trứ do bên tả sô ng Lô đến đâ u giặ c đều trố n trướ c, có
tên mường trưở ng ở Bạ ch Miêu là Chú c Vă n Đổ ng đem ngườ i Man xin theo
để hiệu lự c. Và i hô m sau cũ ng tớ i Vâ n Trung cù ng vớ i Vă n Đứ c hộ i họ p rồ i từ Vâ n
Trung tiến lên trá i qua xã Vâ n Quang đến nú i Khú c đườ ng nú i gậ p ghềnh. Giặ c ở
trong bụ i rậ m đặ t phụ c binh bắ n sú ng ra, hoặ c lưng chừ ng nú i chố ng đã là m lũ y,
quâ n ta đá nh trố ng reo hò tiến lên, giặ c đều vỡ tan. Khi tớ i Ngọ c Mạ o (là hang độ ng
riêng củ a giặ c Vâ n), nơi đó xung quanh đều nú i, ở giữ a mở rộ ng san phẳ ng là m
ruộ ng đượ c 2.000 mẫ u, nhà dâ n đều thà nh xó m ở , nhà ngó i 50 chiếc, nhà tranh 100
chiếc có lẻ, tìm khắ p cả , khô ng có bó ng ngườ i. Quâ n ta lù ng bắ t đượ c 1 tên ngụ y
quả n cơ hỏ i ra thờ i Vâ n đã ró c tó c đem vợ con trố n sang địa giớ i nướ c Thanh, bèn
sai đố t hết nhà cử a, chia đi Lụ c Yên, Đạ i Nam tìm bắ t đả ng giặ c (Lưu Trọ ng
Chương, Hoà ng Trinh Tuyên, Nguyễn Quả ng Khả i và Hà Đứ c Thá i).
Vua khen thưở ng, sai dừ ng binh chỉnh lý lạ i phong cương, đợ i đến cuố i thu 3
đạ o binh đều tiến đá nh phá sà o huyệt củ a giặ c.
Ngà y thá ng 10 , đạ o binh Tuyên Quang củ a Lê Vă n Đứ c cù ng vớ i Đề đố c
Phạ m Vă n Điển từ Lụ c Yên chia đườ ng thẳ ng tớ i nú i Thiều Giá p, hai bên sườ n nú i
sừ ng sữ ng cao vó t, ở quã ng giữ a nú i có chỗ lõ m xuố ng và có mộ t con đườ ng đá ong
lở m chở m bá m bậ c mà lên thế rấ t hiểm yếu. Giặ c ở trên đỉnh nú i xếp đá là m lũ y
dự ng đồ n coi giữ , Đứ c lự a và i mươi ngườ i binh dũ ng đắc lự c noi sườ n nú i leo câ y
lên chỗ rấ t cao bắ n sú ng. Đả ng giặ c sợ trá nh. Quâ n ta sấ n lên, giặ c bỏ đồ n chạ y và o
trong rừ ng. Đạ o binh củ a Điển cũ ng tiến tớ i nú i Trú hiệp cù ng vớ i nú i Thiền Giá p
cù ng đố i diện nhau, bên tả dự a và o nú i cao, bên hữ u tớ i bến Miện, ở giữ a có đườ ng
tắ t gậ p ghềnh. Giặ c cũ ng chồ ng chấ t gỗ đá và trạ i cắ m chô ng nhọ n đầ u dự a chỗ
hiểm chố ng cự . Điển đố c quâ n giết tớ i, giặ c liền vỡ tan. Điển cù ng Đứ c hộ i binh tiến
tớ i đầ u địa giớ i Để Định, phó thố ng lĩnh giặ c là Ma Doã n Cao họ p đả ng hơn nghìn
ngườ i ở xứ sở xã Bách Dích, dự ng 2 đồ n lớ n, bên tả tớ i sô ng Miện, hai bên bờ dự a
và o nú i, cù ng là m thế ỷ dố c từ lưng nú i đến bến nướ c chồ ng chấ t gỗ đá là m lũ y,
ngoà i lũ y lạ i có hà ng rà o cắ m gỗ nhọ n đầ u. Ở con đườ ng đi tớ i chú ng chặ t cây to
cho nằ m ngang để ngă n lấ p. Đứ c sai Phó vệ ú y Nguyễn Vă n Quyền coi và i tră m lính
lụ c chiến là m tiền khu, mang vá n gỗ mô ng xung để chố ng sú ng đạ n, mở cắ t gỗ lấ p
ngang, chặ t chỗ câ y vó t ngọ n đầ u c ở trạ i vừ a đá nh vừ a tiến, ô ng lạ i phá i đầ u mụ c ở
đồ n An Long là Hoà ng Đình Phượ ng đem quâ n thổ dõ ng lên ngọ n nú i rấ t cao lén tớ i
phía hữ u đồ n giặ c, dự a và o chỗ cao bắ n sú ng và o, cá c quâ n nhâ n đó sú ng ố ng đều
nổ . Giặ c đứ ng khô ng vữ ng bèn bỏ trố n, thu đượ c gạ o lương hơn 80 gá nh. Khi tớ i
Vâ n Trung giặ c Vâ n đã thiêu hủ y chỗ ở đem gia quyến trố n trướ c. Quyền bèn đem
quâ n tớ i dẹp ở Ngọ c Mạ o.
Cao Bá Quá t
Ngườ i huyện Gia Lâ m tỉnh Bắ c Ninh, cù ng vớ i anh là Bá Đạ t đẻ sinh đô i nên
đặ t tên như thế, nhỏ khá u khỉnh thô ng minh đều có vă n tà i. Quá t sau là m nhà ở
trong thà nh Đạ i La tỉnh Hà Nộ i , Minh Mạ ng nă m, thứ 12 (1831) về khoa Tâ n mã o
thi hương đỗ Á nguyên, khi bộ duyệt đá nh và o hạ ng chưa đượ c Á nguyên mà thi
tiến sĩ thườ ng bị hỏ ng. Bá Quá t tứ c giậ n ngà y thêm dù i mà i, vă n cà ng tiến mạ nh,
cù ng vớ i phó bả ng huyện Thọ Xương là Phương Đình Nguyễn Vă n Siêu đều nổ i
tiếng. Bấy giờ nhiều ngườ i hâ m mộ có câ u : "Vă n như Siêu Quá t vô tiền Há n", nghĩa
là : vă n củ a Siêu Quá t vượ t cả danh nho đờ i tiền Há n.
Bấ y giờ ở Tuyên Cao Thá i Lạ ng đều có bá o độ ng ở ngoà i biên (đá m thổ phỉ
nướ c Thanh), lạ i có Lê Duy Cự tự xưng con chá u nhà Lê. Quá t ngầ m họ p đồ đả ng
lén mưu việc bấ t phá p, ướ c hẹn ngà y tớ i thà nh Hà Nộ i cử sự , mưu bị tiết lộ . Tỉnh
Bắ c Ninh và Hà Nộ i cho đò i rấ t gấ p. Bá Quá t bèn cù ng đả ng phá i suy tô n Duy Cự
là m minh chủ mà tự là m quố c sư, rồ i lén dụ dỗ tên thổ mụ c ở Sơn Tâ y là Đinh Cô ng
Mỹ và Bạ ch Cô ng Trâ n gọ i đả ng phá i lan trà n xuố ng Hà Nộ i, đố t luô n phủ Ứ ng Hò a
và huyện Thanh Oai. Quan quâ n Hà Nộ i đá nh phá ở xã Đồ ng Dương, Bá Quá t lạ i do
huyện Mỹ Lương trố n qua phủ Vĩnh Tườ ng đố t cướ p huyện thà nh Tam Dương, rồ i
lẩ n tớ i các phủ huyện Quố c Oai, An Sơn lan trà n quấ y nhiễu. Phó lã nh binh ở Sơn
Tâ y là Lê Thuậ n Đạ i đem quâ n tớ i đá nh, Bá Quá t bị thua chết ở trậ n. Ngụ y Thượ ng
thư là Nguyễn Kim Thanh, ngụ y Phó vệ là Nguyễn Vă n Thự c cũ ng bị bắ t (sau đều
chém cả ) và chém đượ c mộ t tră m thủ cấ p, bắ t số ng hơn 80 tên, việc đến tai vua, sai
đem thủ cấ p Bá Quá t truyền giao cho cá c tỉnh Bắ c kỳ bêu lên để khuyên bả o dâ n
chú ng rồ i xé xác vấ t xuố ng sô ng.
(1) Ô ng Thiệu Bá đờ i Chu đi tuầ n hà nh nam quố c, tuyển bổ chính lệnh , thườ ng đỗ
ở dướ i cây cam đườ ng, ngườ i sau nhớ cô ng đứ c củ a Thiệu Bá , bả o nhau khô ng nên
đẵ n đi.
(2) Trong Kinh Thi có câ u rằ ng: "Bô ng bô ng thử miêu â m vũ cả o chi, tứ quố c hữ u
vương Tuấ n Bá lạ o chi". Nghĩa là , lú a thứ tố t đù n đù n, mưa dầ m để bó n thêm. bố n
nướ c đã có vương, Tuấ n Bá lạ i vỗ về thêm.
(4) Mạ ch tuệ : Há n thư, Trương Trạ m là m thá i thú ở Ngư Dương, mỗ i cây lú a nẩ y
hai bô ng, nên dâ n ca tụ ng.
(12) Trâ u Diễn thờ Huệ vương nướ c Yên hết lò ng trung, bị quan hầ u bên cạ nh củ a
Huệ Vương gièm pha, phả i giam và o ngụ c, Diên ngã mặ t lên trờ i khó c. Lú c ấ y
đương mù a hạ , trờ i sa sương xuố ng (sử ký).
(16) Tù ng Thiện Cô ng Miên Thẩ m sau đượ c phong là Tù ng Thiện Vương, con thứ
củ a vua Minh Mạ ng.
(18) Có lẽ là Filattre
(28) Thương Thà nh Thang chiêm bao thấ y Phó Duyệt, sá ng dậ y cho vẽ hình đi tìm,
thấ y Phó Duyệt là m thợ nề ở Phó Nham, đó n về giú p nướ c, sau là m tể tướ ng.
(30) Sơ Quả ng, tự là Trọ ng Ô ng, có trí thứ c xa, đờ i Há n Tuyên đế là m đến thá i tử
thá i phó , cố xin về hưu, có nó i : ngườ i hiền lắ m củ a thờ i tổ n chí, ngườ i ngu lắ m củ a
cà ng nhiều lỗ i.
(38) về Đườ ng : là về Tà u.
(39) Khi nhà vua ban cho đình thầ n mà khô ng ngự ở nơi chính tọ a, mà ở bình đà i
thì gọ i là lâ m hiên.
(40) Á n Anh : là m quan đạ i phu nướ c Tề về đờ i Xuâ n Thu có đứ c tiết kiệm, nên
đượ c quý hiển ở đờ i, sá ch sử khen là Á n Trọ ng Bình.
(41) Huyện Quý Hương là huyện Tố ng Sơn, nay là Hà Trung tỉnh Thanh Hó a.
(47) Thậ p châ u là vù ng Tâ y bắc bao gồ m Sơn La, Lai Châ u, mộ t phầ n Yên Bá i, mộ t
phầ n Hò a Bình.
(51) Chữ Há n là Thanh dã , có nghĩa như vườ n khô ng nhà trố ng.
(53) có lẽ là Chợ , Chữ Há n là phù trườ ng, Đâ y là nơi buô n bá n ở miền Tâ y Quả ng
Ngã i - Nguyên Tấ n có tham gia đá nh dẹp ở vù ng nà y.
(56) ở đây chỉ bộ "Khâ m định Việt sử thô ng giá m cương mụ c".
(57) Nơi soạ n chiếu chế ở Tò a Nộ i cá c. Chữ ti luậ n có nghĩa đen là sợ i tơ.
(59) Có hai nghĩa: 1 - Con nố i nghiệp cha, 2- Con chuộ c lỗ i cho cha, chưa rõ nghĩa
n��o là đú ng, vì bố Kham là Tư Giả n cũ ng hay chữ là m quan to giữ nộ i cá c,
nhưng lạ i mấ y lầ n mấ t chứ c.
height="0">
(65) yếu khuyết : Hạ t trọ ng yếu.
(66) Ngũ Đứ c : là 5 đứ c tính tố t là m tướ ng; Trí, nhâ n, dũ ng, nghiêm, minh. Hình
như xuấ t xứ ở Tô n tử binh thi, khô ng nhớ rõ , cò n cầ n tra lạ i.
(70) Hà o Trinh quẻ Tố n Kinh Dịch nó i : "Tiên canh tam nhậ t, cá t" nghĩa là "trướ c
ngà y Canh 3 ngà y thờ i tố t". Trướ c ngà y Canh 3 ngà y là ngà y Đinh. Đinh, ý nó i việc
gì cũ ng phả i đinh ninh lo lắ ng từ trướ c thì tố t.
(71) Nguyễn Vă n Giao quê ở Trung Cầ n cù ng huyện. Nguyễn Đứ c Đạ t và Nguyễn
Vă n Giao đều đỗ thá m hoa.
(76) Bà i há t chèo đò .
(78) Vua nướ c Tấ n khi sắ p chết, đưa 3 mũ i tên cho con là Đườ ng Trang Tô ng, bả o
rằ ng : "Ta có 3 kẻ thù là Vua nướ c Lương, vua nướ c Yên và rợ Khiết Đan, ta chết
cò n di hậ n, cho con 3 mũ i tên nà y, con đừ ng quên cá i chí bá o thù củ a cha".Sau
ngườ i con diệt được nướ c Lương, lậ p nên nhà Hậ u Đườ ng, gọ i là Đườ ng
Trang Tô ng.
s New Roman">(79) xưa Quý Trá t Chi đi sứ , ghé qua thă m Từ Quâ n, Từ rấ t thích
thanh bả o kiếm củ a Quý nhưng khô ng dá m nó i xin. Khi Quý Trá t đi sứ về thì Từ đã
chết. Quý Trá t bèn thanh bả o kiếm treo và o mộ Từ rồ i đi.
black">(80) Ngườ i nướ c Trịnh đi kiếm củ i, giết đượ c con hươu, sợ ngườ i ta thấ y,
giấ ;u và o mộ t cá i hố , lấ y lá chuố i che lạ i, rồ i mộ t lá t quên mấ t chỗ để, cho là giấ c
mộ ng. Từ hả i.nt>
(81) ở bờ biển có loà i chim nhỏ tên là Tinh vệ, thườ ng nhặ t gỗ , đá lấ p biển Đô ng
Nên khi ngườ i ta có điều gì â n hậ n thườ ng ví là chim Tinh vệ lấ p biển.t>
(86) Ngu Hủ tự là Thă ng Khanh là m quan đời Há n, khi đến trị nhậ m đấ t
Bình Ca là nơi đương có giặ c, bạ n bè đến thă m phà n nà n rằ ng vớ đượ c chỗ nà y
đá ng buồ n, Hủ cườ i trả lờ i rằ ng: "...khô ng gặ p gố c to, bướ u nặ ng, sao rõ đượ c đồ
dù ng sắ c".
(88) Chưa hiểu Quố c Vũ Tử là ai và bà i "Cao cừ u như nhu" thế nà o. Thơ Cao Cử u
trong kinh Thi khô ng nó i gì về Quố c Vũ Tử .
="0">
(89) Quá ch Tế Hầ u tứ c là Quá ch Cấ p đờ i Đô ng Há n, khi đến là m quan mụ c ở Tính
châ u lầ n thứ hai, dâ n mộ đứ c khi trướ c tranh nhau ra đó n. Mỗ i khi đi hà nh hạ t đến
Mỹ Tắ c ở Tâ y Hà lạ i có mấ y tră m em nhỏ cưỡ i ngự a tre đó n ở dọ c đườ ng (đó n chứ
khô ng phả i đưa).
(93) Chữ Há n là Nhạ c thủ y. Luậ n Ngữ cố câ u "Trí giả nhạ c thủ y" (ngườ i khô n thờ i
yêu cả nh nướ c). Chữ nướ c dịch trên là nướ c non, khô ng phả i nướ c nhà .
>
(94) Chữ nhâ n đây là nhâ n huệ.
div>
(97) Cá i chiếu phía trướ c khi Há n Vă n đế đến cù ng ngồ i tiếp truyện Giả Nghị.
>
(102) (103) Sá u sá u là 36, nă m nă m là 25; muố n hiểu rõ nghĩa nà y cầ n nghiên cứ u
Hà đ;ồ trong kinh Dịch.
(105) Bộ thầ n là quan ở bộ , cũ ng như tỉnh th̐7;n là quan ở tỉnh, cá c thầ n là quan ở
nộ i các.
ght="0">
(107) Tứ khoa : Đứ c hạ nh, ngô n ngữ , chính sự , vă n họ c.
Roman">(108) Nguyễn Mậ u Kiến (1819-1879) là nhà yêu nướ c chố ng Phá p cuố i
thế kỷ XIX củ a Thá i Bình.
"0">
(109) Nghĩa là dê non, hạ ng dê thườ ng lộ t da để là m á o cừ u. Theo Há n ngữ tự điển,
chữ cao dương cò n có nghĩa là ngườ i thụ nạ n. Ở đây, chưa rõ ý nó i thế nà o, tạ m để
nguyên â m chữ Há n và tồ n nghi...
(110) Cử u lưu là Nho gia, Đ841;o gia, Â m dương gia, Phá p gia, Danh gia, Mặ c gia,
Tuy hoà nh gia, Tạ p gia, Nô ng gia.