You are on page 1of 15

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH DOANH


KHOA DU LỊCH

BÀI TẬP NHÓM TÌNH HUỐNG


BỘ MÔN KHOA HỌC QUẢN TRỊ
Giảng viên: ThS. Lê Hồng Trân
Mã lớp học phần: 22C1TOU51500206 - Sáng thứ 5 - N2.408
Danh sách thành viên:

STT Họ và tên Phân công công việc Mức độ hoàn thành

1 Nguyễn Thị Trâm Anh Lập bảng excel 100%

2 Hoàng Thu Hà Lập bảng excel 100%

3 Trần Thị Ngọc Hân Biện luận hoàn chỉnh 100%

4 Ou Từ Hồng Loan Lập bảng excel 100%

5 Trần Khánh Ngọc Biện luận hoàn chỉnh 100%

TP Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 10 năm 2022


TÌNH HUỐNG 3.3: SỢI VÀ THỜI TRANG MÙA THU

Từ tầng 10 của tòa nhà làm việc, Katherine Rally nhìn xuống đám người New York đánh nhau trên đường
với các chiếc taxi màu vàng và những người bán hot dog ở hai bên đường. Vào những ngày tiết trời oi ả
tháng bảy, cô ấy đặc biệt chú ý đến các mốt thời trang do nhiều người phụ nữ mặc và tự hỏi học sẽ chọn mặc
gì và những ngày mùa thu. Những suy nghĩ này không chỉ đơn giản là những sự mơ màng vô ý; mà chúng
đặc biệt quan trọng đến công việc của cô ấy vì cô sở hữu và quản lý cửa hàng Trend-Lines,một công ty thời
trang phụ nữ cao cấp.

Cô ấy đã trả cho đội ngũ thiết kế gồm 6 thành viên số tiền là 860.000$ cho việc thiết kế các mặt hàng mùa
thu của họ. Với chi phí thuê và người mẫu trình diễn, nhà thiết kế tóc và chuyên gia trang điểm, may và sửa
quần áo, xây dựng các buổi trình diễn dàn dựng và chạy thử các buổi trình diễn, và thuê địa điểm tổ chức sự
kiện mỗi 3 chương trình biểu diễn thời gian sẽ tốn của cô ấy thêm 2700000$ nữa.

Dòng sản phẩm thời trang cao cấp (professional fashions) mùa thu bao gồm:

Dòng sản phẩm thông thường mùa thu bao gồm:

Cô ấy biết rằng trong tháng tới, cô ấy đã đặt mua 45.000 yards vải len, 28.000 yards chất axetat, 9.000 yards
vải len cashmere, 18.000 yards vải lụa, 30.000 yards tơ nhân tạo, 20.000 yards vải nhung và 30.000 yards
cotton cho việc sản xuất. Giá của các loại vật liệu này được liệt kê bên dưới.
Cụ thể, đế hoàn thành một chiếc áo cánh bằng silk hay một chiếc áo len bằng cotton, sẽ lần lượt cần 2 yards
vải silk và cotton. Từ 2 yards này, sẽ có 1,5 yards vải được dùng cho áo cánh bằng silk hoặc áo len bằng
cotton và 0,5 yards vải còn lại là phần vật liệu còn thừa.

Trend Lines dự đoán họ chỉ có thể bản được khoảng 5.500 quần và 6.000 váy velvet mà thôi. TrendLines
không muốn sản xuất nhiều hơn lượng cầu được dự đoán bởi khi một khi quần và áo sơmi hết thời, công ty sẽ
không thể bán được chúng. Tuy nhiên Trend Lines có thể sản xuất ít hơn lượng cầu dự báo, bởi vì công ty
không bị yêu cầu phải đáp ứng đủ các lượng cầu. Áo len cashmere cũng có lượng cầu bị giới hạn vì giá khá
mắc và TrendLines biết rằng họ có thể bản khoảng 4.000 chiếc. Áo cánh bằng silk và áo lót có lượng cầu giới
hạn bởi vì nhiều phụ nữ nghĩ rằng vải silk phải giữ gìn cẩn thận và TrendLines dự đoán rằng có thể bán được
khoảng 12.000 áo cánh và 15.000 áo lót bằng silk.

Cụ thể, lượng cầu là 7.000 quần âu bằng vải len và 5.000 áo khoác len. Katherine muốn đáp ứng được ít nhất
60% lượng cầu của hai sản phẩm này để đảm bảo được lòng trung thành của khách hàng và không đánh mất
các mối làm ăn trong tương lai. Mặc dù lượng cấu cho váy thủ công không được dự báo, Katherine cảm thấy
cô ấy nên sản xuất ít nhất 2.800 chiếc.

a. Ted đang cố thuyết phục Katherine không sản xuất áo sơmi velvet bởi vì nhu cầu cho sản phẩm
thuộc mốt nhất thời này là khá tháp. Ông ấy lập luận rằng chỉ riêng việc sản xuất sản phẩm này đã
tiêu tốn khoảng 500.000$ chi phí thiết kế cố định và các chi phí khác. Mức đóng góp ròng (giá bán các
loại quần áo này chi phí nguyên vật liệu chi phí nhân công) từ việc bán loại sản phẩm này có thể trang
trãi các loại chi phí cố định này. Mỗi chiếc áo sơmi vải velvet có thể đóng góp khoảng 22$ tiền lời. Ông
ấy lập luận rằng với mức đóng góp rồng này, thậm chí ngay cả khi sản xuất tối đa hóa lượng cấu cũng
sẽ không tạo ra mức lợi nhuận nào. Bạn nghĩ gì về lập luận của Ted?

Chi phí thiết kế và thời trang (500.000 đô la) là chi phí chìm không thể thu hồi, do đó, chúng không nên được
xem xét khi xác định sản xuất. Vì những chiếc áo sơ mi nhung có đóng góp tích cực vào việc bảo hiểm chi
phí thấp, chúng nên được sản xuất, hoặc ít nhất là tính đến việc sản xuất chuyên sâu hơn về mô hình quảng
cáo. Vì vậy lập luận của Ted có thể bị bác bỏ với mô hình lập trình tuyến tính. Nhưng đúng là với số tiền
đóng góp là 22 đô la/chiếc và nhu cầu của 6000 chiếc áo nhung thì mức thu được tối đa chỉ là 132.000 đô la.
Số tiền này sẽ không đủ để trang trải chi phí cố định 500.000 đô la cho sản phẩm này.
b. Lập và giải bài toán mô hình lập trình tuyến tính để tối đa hóa lợi nhuận với các ràng buộc về mức
sản xuất, nguồn lực và nhu cầu đã biết.

c. Nếu Velvet không thể được Hoàn tiền ($) ed, Trendlines nên tăng số lượng sản phẩm nhưng để họ có thể
sử dụng hết nguyên liệu này. Chúng ta có thể thấy trong giải pháp trên, những chiếc áo nhung được sản xuất
ở mức tối đa, nhưng những chiếc áo nhưng không được sản xuất để tối đa hóa lợi nhuận. Tất cả các vật liệu
nhung nên được sử dụng (20.000 thước Anh).

d. "Khi công ty không thể nhận được tiền hoàn lại cho nhung, công ty sẽ mất số tiền hoàn lại cho sản phẩm
này. Chi phí này không còn là chi phí biến đổi mà là chi phí không hoàn lại. Bán thêm sản phẩm này có thể
trả lại một phần chi phí cố định. Thay vì không. Sản xuất, Trendlines bây giờ sẽ sản xuất quần nhung, sản
xuất những sản phẩm này sẽ ảnh hưởng đến các vật liệu khác (axetat)."
e.

f.

g.
TÌNH HUỐNG 5.4: PHÂN BỐ HỌC SINH ĐẾN CÁC TRƯỜNG (XEM LẠI)
Xem lại tình huống 3-5. Ban Giám Hiệu Trường Springfield vẫn có chính sách cung cấp xe đưa đón cho tất
cả học sinh cấp hai phải đi xa hơn khoảng một dặm. Một chính sách hiện thời khác là tách các vùng giữa các
trường nếu nó làm giảm chi phí xe buýt. (Chính sách sau sẽ được quay trở lại trong Tình Huống 7-3.) Tuy
nhiên, trước khi chấp nhận một phương án xe buýt trong phần a của Tình huống 3-5, ban giám hiệu trường
muốn thực hiện một số phân tích what - if.

a. Nếu bạn đã làm như vậy cho phần a của Tình Huống 3-5, lập và giải một mô hình lập trình tuyến tính cho
bài toán này trên một bảng tính.

b. Dùng Solver để chạy báo cáo độ nhạy.


c. Dùng báo cáo độ nhạy để kiểm tra chi phi xe buýt từ khu vực 6 đến trường 1 có thể tăng (giả sử chi phí của
các trường khác không đổi) bao nhiều trước khi giải pháp tối ưu hiện tại sẽ không còn tối ưu. Nếu khoảng
tăng cho phép ít hơn 10 phần trăm, dùng Solver để tìm một giải pháp tối ưu mới với 10 phần trăm tăng.

Theo báo cáo độ nhạy trên, ta thấy Area 6 School 1 có giá trị tăng cho phép là 33,(3). Nếu tăng lên 10% chi
phí từ Area 6 đến School 1 thì giải pháp tối ưu sẽ thay đổi đổi như bảng sau:
d. Làm lại phần c cho trường 2 (giả sử chi phí của các trường khác không đổi).

Theo báo cáo độ nhạy trên, ta thấy Area 6 School 2 có giá trị tăng cho phép là vô hạn. Nếu tăng lên 10% chi
phí từ Area 6 đến School 2 thì giải pháp tối ưu sẽ không thay đổi.
e. Giờ giả sử rằng chi phí xe buýt từ khu vực 6 sẽ tăng cùng tỉ lệ phần trăm cho tất cả các trường. Dùng báo
cáo độ nhạy để xác định tỉ lệ phần trăm này có thể lớn bao nhiêu trước khi làm giải pháp tối ưu không còn tối
ưu. Nếu khoảng tăng cho phép ít hơn 10 phần trăm, dùng Solver để tìm một giải pháp tối ưu mới với 10 phần
trăm tăng.

Theo bảng báo cáo độ nhạy trên ta thấy mức tăng cho phép của Area 6 đến School 1 là 33,3, đến School 2 là
vô hạn, đến School 3 là 166,7. Nếu đều tăng 10% chi phí cho tất cả các trường thì giải pháp tối ưu sẽ thay đổi
như bảng sau:
Ban giám hiệu trường có lựa chọn có thể tăng số phòng học di động để tăng công suất của một hay nhiều
trường trong một vài năm. Tuy nhiên, đây là một khả năng tốn kém mà ban giám hiệu chỉ cản nhạc nếu nó
giảm mạnh chi phí đưa đón. Mỗi phòng học di động có thể phục vụ 20 học sinh và tiền thuê là 2.500% mỗi
năm. Để phân tích lựa chọn này, ban giám hiệu trường quyết định giả sử rằng việc sửa đường ở khu vực 6 sẽ
giảm bớt mà không làm tăng nhiều chi phi xe buýt trong khu vực đó.

f. Với mỗi trường, dùng shadow price tương ứng từ báo cáo độ nhạy để xác định liệu có nên thêm
phòng học di động nào không.

Trường số 1. Bất kỳ sự gia tăng công suất nào đối với Trường học 1 đều sẽ vô ích vì nó sẽ không làm giảm
chi phí vận chuyển
Trường số 2 Tiết kiệm được bằng cách thêm một thiết bị di động ($ 3555,56) vào chi phí của thiết bị di động
($25). Việc tăng công suất ở Trường 2 sẽ rất đáng giá.
Trường số 3: Tiết kiệm được thực hiện bằng cách thêm một thiết bị di động ($ 2880,89) chi phí của thiết bị di
động ($ 25) .Việc tăng công suất ở Trường 3 sẽ rất đáng giá.

g. Với mỗi trường cần thêm phòng học di động. dùng báo cáo độ nhạy để xác định có thể thêm bao
nhiêu phòng trước khi shadow price không còn giá trị (giả sử rằng đây là trường duy nhất nhận phòng
học di động).
Trường 2: Ở trường 2 bạn chỉ có thể thêm 1 phòng học di động vì mức tăng cho phép là 36
Trường 3: Ở trường chỉ được thêm 2 phòng học di động vì mức tăng cho phép là 42

h. Nếu cần thiết phải thêm phòng học di động cho hơn một trường, dùng báo cáo độ nhạy để xác định
các kết hợp của các số phòng thêm mà với nó shadow price chắc chắn vẫn còn giá trị. Sau đó dùng
shadow price để xác định kết hợp nào là tốt nhất trong việc giảm thiểu chi phí đưa đón học sinh và
thuê phòng học di động. Dùng Solver để tìm giải pháp tối ưu tương ứng cho việc phân công học sinh
đến các trường.

i. Nếu phần h áp dụng được, chỉnh sửa kết hợp tốt nhất của các phòng học di động đã tìm được bằng
cách thêm một vào trường có shadow price tốt nhất. Dùng Solver để tìm giải pháp tối ưu tương ứng
cho việc phân công học sinh đến các trường và chạy báo cáo độ nhạy tương ứng. Dùng thông tin này để
đánh giá kế hoạch triển khai trong phần h có phải là tốt nhất cho việc giảm thiểu chi phí đưa đón học
sinh và thuê phòng học di động không. Nếu không tìm kế hoạch tốt nhất.
9.2. Công ty University Toys đã phát triển một dòng sản phẩm hoàn toàn mới - Business Professor Action
Figures (BPAFs) thể hiện chân dung của các giáo sư nổi tiếng ở trường kinh doanh địa phương. Ban quản trị
có hai sự lựa chọn:

Điều đầu tiên là ngay lập tức tăng cường sản xuất và đồng thời khởi chạy một chiến dịch quảng cáo trên tờ
báo của trường đại học và tùy chọn này sẽ có giá 1.000 đô la. Thứ hai tùy chọn là thử nghiệm thị trường sản
phẩm và chi phí cho tùy chọn này được ước tính là $ 100. Nhưng có một sự phức tạp với tùy chọn thứ hai là
thị trường thử nghiệm.

a. Giả định rằng marketing thử nghiệm đã hoàn thành. Sử dụng mẫu bảng xác suất hậu định để xác định khả
năng BPAF sẽ bán tốt nếu được bán ra thị trường hoàn toàn, cho rằng nó sẽ bán tốt trong thị trường thử
nghiệm và sau đó cho rằng nó bán không tốt trong thị trường thử nghiệm.

b. Sử dụng RSPE để phát triển và giải một cây quyết định để hỗ trợ University Toys quyết định chuỗi hành
động tốt nhất và giá trị thu hồi kỳ vọng.
Cách tốt nhất của hành động là bỏ qua thị trường thử nghiệm và ngay lập tức tiếp thị sản phẩm một cách
đầy đủ, vì lợi nhuận dự kiến là $ 1,750.

c. Bây giờ giả định rằng University Toys không chắc chắn về xác suất mà LSPAF sẽ gia nhập vào thị
trưởng trước khi marketing thử nghiệm vào thị trường sẽ hoàn thành (nếu nó được thực hiện).
Bạn kỳ vọng thế nào về sự thay đổi của giá trị thu hồi kỳ vọng khi xác suất mà LSPAFs sẽ được
đưa vào thị trường thay đổi?

Điều này sẽ làm cho thị trường có lợi nhuận ít hơn nhiều nếu xác suất LSPAF tham gia thị trường trước
khi quá trình tiếp thị thử nghiệm hoàn thành đã tăng lên. Vì vậy, nó sẽ không phải là giá trị làm gì cả. Tuy
nhiên điều này sẽ làm cho thị trường thử nghiệm hấp dẫn hơn nếu xác suất giảm. Nó có thể đạt đến điểm
mà nó có giá trị trên thị trường thử nghiệm.

d. Hình thành một bảng dữ liệu thể hiện giá trị thu hồi và quyết định marketing thử nghiệm thay đối
như thế nào khi xác suất việc LSPAF sẽ được đưa vào thị trường thay đổi từ 0% thành 100% (với
bước nhảy 10%).

Prob (LSPAF) Expected Payoff Test Market?

$1.750 No
0.0 $1.906 Yes
0.1 $1.755 Yes
0.2 $1.750 No
0.3 $1.750 No
0.4 $1.750 No
0.5 $1.750 No
0.6 $1.750 No
0.7 $1.750 No
0.8 $1.750 No
0.9 $1.750 No
1.0 $1.750 No
e. Tại xác suất nào thì quyết định về việc marketing thử nghiệm thay đổi?

Tốt hơn nên thực hiện thị trường thử nghiệm nếu xác suất LSPAF tham gia thị trường là 10% hoặc ít hơn.
Nó tốt hơn là bỏ qua thị trường thử nghiệm nếu xác suất lớn hơn 10%.

You might also like