You are on page 1of 32

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HCM

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


Bộ môn: Những NLCB của CNMLN
--------------

TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Quan điểm triết học Mác-Lênin về thực tiễn, nhận
thức và vai trò
của thực tiễn với nhận thức. Vận dụng quan điểm này vào việc đổi mới giáo

dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.

Nhóm SVTT: Nguyễn Thị Kim Anh-MSSV: 21136121

Lê Thị Phương Anh-MSSV: 21136117

Lý Lê Nhật Hòa-MSSV: 21136031

Đặng Châu Anh-MSSV: 21136003

Bùi Xuân Quỳnh-MSSV: 21136076

GVHD: TS.Nguyễn Thị Thúy Cường

TP HCM, 12-2021

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU................................................................................................................................1

B. NỘI DUNG............................................................................................................................2
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ THỰC TIỄN VÀ NHẬN
THỨC…………….................................................................................................................2

1.1. Thực tiễn và giai đoạn của thực tiễn...................................................................4

1.1.1 Khái niệm của thực tiễn……………………………………………………........4

1.1.2 Đặc trưng của thực tiễn……………………………………………………........4

1.1.3 Hình thức của thực tiễn……………………………………………………........4

1.2 Nhận thức và giai đoạn của nhận thức................................................................4

1.2.1 Khái niệm nhận thức.............................................................................................4

1.2.2 Tính chất của nhận thức.......................................................................................4

1.2.2.1 Các giai đoạn của nhận thức..............................................................................4

1.2.2.2 Phân loại nhận thức............................................................................................4

1.3 Vai trò của thực tiễn với nhận thức.....................................................................4

1.3.1 Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức.......................................................4

1.3.2 Thực tiễn là động lực, mục đích của nhận thức....................................................4

1.3.3 Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý..........................................................4

II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LENIN VÀO VIỆC ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................................4

2.1 Thực trạng giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay...........................................4

2.1.1 Những thành tựu của giáo dục và đào tạo ở VN và nguyên nhân những thành tựu
đó.............................................................................................................................................4

2.1.2 Những hạn chế trong giáo dục và đào tạo ở VN và nguyên nhân những hạn chế
đó.............................................................................................................................................4

2.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới giáo dục và đào tạo ở VN hiện nay trên

cơ sở vận dụng quan điểm triết học Mac Lênnin......................................................4


2.2.1 Đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng gắn lý thuyết với thực hành, đặc biệt chú trọng
thực hành…………………………………………………….................................................4

2.2.2 Đẩy mạnh phát triển giáo dục đào tạo một cách toàn diện………………..........4

2.2.3 Đổi mới giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
học...........................................................................................................................................4

III. LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG THỰC TIỄN HIỆN NAY Ở
NƯỚC TA……………………………………………………..............................................4

3.1 Không ngừng nổ lực phấn đấu, tự học, tự nghiên cứu…………………….......4

3.2 Tích cực tham gia xây dựng bảo vệ tổ quốc........................................................4

3.3 Tích cực tham gia phòng chống, đẩy lùi dịch bệnh Covid-19............................4

3.4 Tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện…………………………….......4

C.KẾT LUẬN ........................................................................................................................4

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................

MỞ ĐẦU - MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Triết học được xem là thành tựu của nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo con
người và loài người nói chung. Để có được “Triết học” của ngày hôm nay thì nó đã phải
trải qua một giai đoạn hình thành và phát triển vô cùng lâu dài và phức tạp.
Trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin thì vấn đề quan hệ giữa nhận thức
và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt . Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện
chứng giữa nhận thức và thực tiễn là vô cùng quan trọng cũng như cần thiết.
Vậy nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn với nhận thức hay sự tác
động qua lại giữa nhận thức và thực tiễn ra sao? Và con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không?... đó là những vấn đề cơ bản của triết học mà tất cả mọi trào lưu
hay những khuynh hướng triết học khác nhau, đặc biệt là triết học truyền thống bắt buộc
phải giải quyết.
Trên cơ sở nền tảng triết học Mác – Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp
thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương  hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để

1
xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm
khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn,
phát triển kinh tế, y tế và đặc biệt là giáo dục, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ
với các nước trong khu vực và thế giới . Chính những thành tựu của chủ nghĩa xã hội và
qua nhiều năm đổi mới là minh chứng chính xác cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức
và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh
tế giáo dục ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình
đổi mới hiện nay. Vì vậy, chúng em quyết định chọn đề tài: “Quan điểm triết học Mác-
Lênin về thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức. Vận dụng quan điểm
này vào việc đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.”
NỘI DUNG

I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ THỰC TIỄN VÀ NHẬN


THỨC.

1.1. Thực tiễn và giai đoạn của thực tiễn


1.1.1 Khái niệm thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, có tính sáng tạo, mang
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
1.1.2 Đặc trưng thực tiễn
Thực tiễn là hoạt động vật chất – cảm tính của con người hay nói khác đi là những
hoạt động vật chất mà con người cảm giác được, quan sát được, trực quan được. Hoạt
động vật chất – cảm tính là những hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật
chất, công vụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để biến đổi chúng; trên cơ sở
đó, con người làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi bản thân mình.
Thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia đông đảo của mọi
người, luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể và cũng trải qua các giai
đoạn lịch sử phát triển cụ thể. Do vậy, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã
hội của con người.

2
Thực tiễn là hoạt động có mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội để phục vụ con
người. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người, khác hẳn
với hoạt động chỉ dựa vào bản năng, thụ động của động vật.
1.1.3 Hình thức của thực tiễn
Thực tiễn có 3 hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị
xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn.
Đây là hoạt động mà trong đó con người dùng những công cụ lao động tác động vào giới
tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết để nhằm duy trì sự tồn tại và
phát triển của mình. Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động bằng : lao dộng phổ thông
(chân tay), lao động trí óc, cộng với các phương tiện, dụng cụ lao động, máy móc kĩ thuật
để sản xuất và tái sản xuất mở rộng ra vật chất (sản phẩm,, hàng hóa) phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng và xã hội.
- Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của
con người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã
hội...tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho con người phát triển. Hoạt động chính trị - xã
hội bao gồm các hoạt động như đấu tranh giai cấp; đấu tranh giải phóng dân tộc; đấu tranh
cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội,
nhằm tạo ra môi trường xã hội dân chủ, lành mạnh, thuận lợi cho con người phát triển.
Thiếu hình thức hoạt động thực tiễn này, con người và xã hội loài người cũng không thể
phát triển bình thường.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn.
Bởi lẽ, trong hoạt động thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện
không có sẵn trong tự nhiên cũng như xã hội để tiến hành thực nghiệm khoa học theo mục
đích mà mình đã đề ra. Trên cơ sở đó, vận dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công
nghệ vào sản xuất vật chất, vào cải tạo chính trị - xã hội, cải tạo các quan hệ chính trị - xã
hội phục vụ con người. Ngày nay, khi mà cách mạng khoa học công nghệ phát triển như
vũ bão, ‘‘khi mà tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng

3
sản xuất trực tiếp” thì hình thức hoạt động thực tiễn này ngày càng đóng vai trò quan
trọng.
1.1.4 Mối quan hệ giữa các hoạt động thực tiễn
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan trọng khác nhau.
Không thể thay thế cho nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặc chẽ, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất lại có vai trò quan trọng nhất,
đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác. Bởi vì nó là hoạt động
nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của
con người và nó tại ra những điều kiện, của cái thiết yếu nhất, có tính quyết địnhn nhất với
sự sinh tòn và phát triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không
thể hình thành được các hoạt động thực tiễn khác. Các hình thức hoạt động thực tiễn khác,
suy cho cùng cũng bắt nguồn từ thực tiễn sản xuất vật chất và nhằm phục vụ cho thục tiễn
sản xuất vật chất.

Theo quan điểm của duy vật biện chứng, thực tiễn gồm 2 chức năng quan trọng: thứ
nhất là chuyển cái tinh thần thành cái vật chất, tức là khách quan hóa chủ quan. Thứ hai là
chuyển cái vật chất thành cái tinh thần, tức là chủ quan hóa khách quan. Thực tiễn có vai
trò đặc biệt to lớn đối với nhận thức, nó chính là cơ sở mục đích, động lực của nhận thức,
là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
1.2 Nhận thức và các giai đoạn của nhận thức
1.2.1. Nhận thức là gì?
Theo quan điểm của Triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình
phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích
cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái quát các thành
tựu khoa học, C.Mác và Ph.Angghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về
nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức vì
đã xây dựng được những quan điểm khoa học đúng đắn về bản chất của nhận thức. Học
thuyết này ra đời dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:

4
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với tư duy ý thức
của con người. Con người có năng lực nhận thức được thế giới của con người. Về nguyên
tắc là không có cái gì là không biết. Nhận thức của con người về giới tự nhiên là một quá
trình từ thấp đến cao, chuyển chỗ biết không đầy đủ, không chính xác đến chỗ biết ngày
càng đầy đủ, chính xác hơn. Nhận thức đi từ dễ đến khó, đi từ đơn giản đến phức tạp, từ
rộng đến sâu, từ hiện tượng bản chất cấp một đến hiện tượng bản chất cấp hai. Thế giới vật
chất rất rộng lớn, có thể có những cái con người chưa biết nhưng trong tương lai, với sự
phát triển của khoa học, con người dần có thể khám phá ra được. Với khẳng định trên đây,
lý luận nhận thức Mác-xít khẳng định sức mạnh của con người trong việc nhận thức và cải
tạo thế giới.
Hai là, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là quá
trình tạo tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Nhờ nhận thức con người
mới có thể ý thức được thế giới, ý thức về cơ bản là kết quả của quá trình nhận thức thế
giới. Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức của con người tác
động vào các giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý thức.
Con người là chủ thể tích cực, sáng tạo và có ý thức nhận thức cải tạo thế giới. Chủ
thể là sản phẩm có tính lịch sử, xã hội kế thừa tri thức của xã hội trước đồng thời sử dụng
phương tiện nhận thức xã hội tạo ra. Do đó khi nhận thức, các yếu tố của chủ thế như lợi
ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức…đều tham gia vào quá trình nhận thức
với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến quá trình nhận thức
Còn khách thể nhận thức là một bộ phận của thế giới khách quan mà nhận thức
hướng đến nắm bắt, phản ánh nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do
đó, khách thể không đồng nhất với hiện thực khách quan, phạm vi của khách thể nhận thức
được mở rộng đến đâu là tùy theo sự phát triển của nhận thức. Như vậy không chỉ có chủ
thể nhận thức mà khách thể nhận thức cũng mang tính xã hội. Trong quan hệ giữa chủ thể
và khách thể bao giờ cũng giữ vai trò quyết định bởi vì nó quyết đinh nội dung tri thức của
nhận thức. Tuy nhiên chủ thể vẫn có tác động tích cực đến khách thể vì phản ánh của chủ
thể là sự phản ánh có sáng tạo, có mục đích, có chọn lọc nhẳm phục vụ sự vật và thực tiễn.

5
Ba là, nhận thức không phải là một hành động tức thời đơn giản, máy móc và thụ
động mà là quá trình sáng tạo dựa trên hoạt động thực tiễn. Có thể nói quá trình nhận thức
đi từ hiện thực đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Vì vậy:
“trong lý luận nhận thức cũng trong tất cả lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một
cách biện chứng nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và
có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào,
sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn thế
nào”.
Cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn còn là mục
đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức. Nhận thức là quá trình
con người phản ánh một cách biện chứng, năng động sáng tạo thế giới khách quan trên cơ
sở thực tiễn lịch sử-xã hội.
1.2.2. Tính chất của nhận thức:
a) Các giai đoạn của nhận thức:
Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người
đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ
thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong, như
sau:
 Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên
của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào
sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:
- Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của
các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm
giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng
kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức.
- Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự
vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các
cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú hơn.

6
Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực
quan của sự vật.
- Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự
vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác
quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp.
*Giai đoạn này có các đặc điểm:
- Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
- Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và
không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.
- Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất,
tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn,
giai đoạn lý tính.
 Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh
gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm,
phán đoán, suy luận.
- Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính
bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện
chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật.
- Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để
khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng.
- Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút
ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới.
*Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
- Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.
- Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
 Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có
nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật.
b) Phân loại nhận thức:

7
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, nhận thức được phân loại như sau:
 Dựa vào trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng:
- Nhận thức kinh nghiệm hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm là kết quả
của nó, được phân làm hai loại:
+ Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ sự quan sát
trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và sản xuất. Tri thức này rất phong phú, nhờ có tri thức
này con người có vốn kinh nghiệm sống dùng để điều chỉnh hoạt động hàng ngày.
+ Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát các thí
nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ sở để hình thành nhận thức
khoa học và lý luận.
Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau để tạo nên
tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.
- Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận) là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và
khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính
gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Nhận
thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang
tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận thể hiện chân lý sâu sắc hơn,
chính xác hơn và có hệ thống hơn.
 Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác
nhau, có quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận
thức lý luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể. Vì nó
gắn chặt với thực tiễn nên tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý
luận và cung cấp tư liệu để tổng kết thành lý luận. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ
tổng kết kinh nghiệm, nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự phát từ kinh nghiệm.
Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những sự kiện kinh nghiệm,
hướng dẫn sự hình thành tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn kinh nghiệm hợp lý để
phục vụ cho hoạt động thực tiễn. Thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ
chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái khái quát, phổ biến.
8
 Dựa vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự vật:
- Nhận thức thông thường (hay nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức được
hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó
phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc
thái khác nhau của sự vật.
- Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của các sự vật. Nhận thức
khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ
và có tính chân thực.
 Hai loại nhận thức này cũng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhận thức
thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của
các khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động trở lại
nhận thức thông thường, xâm nhập và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng
cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người.

1.3 Vai của của thực tiễn đối với nhận thức

1.3.1 Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức

Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các
mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn
bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm
vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải
thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng
hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ
những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con
người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát
triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.

Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn làm cơ

9
sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông, ngược lại, thực
tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực
tiễn mù quáng.

1.3.2 Thực tiễn là động lực, mục đích của nhận thức

Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh
nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản
ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại
động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.

+ Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người
phải nhận thức về thế giới.

+ Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện,
từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.

Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn nhằm cải
biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lênin đã cho rằng: “Quan điểm về đời
sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.

Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao
năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con
người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động,
phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.

Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức
mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng thực tiễn mà kiểm chứng
nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược
lại.

1.3.3 Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm tra chân lý

Nhờ có thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm, tức thực tiễn đóng
vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

10
– Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối
với nhận thức, nó luôn luôn vận động, và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó là mà thúc đẩy
nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không
thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực
tiếp của thực tiễn.

– Chính thực tiễn có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã
đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát
triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết “vấn đề tìm hiểu tư duy của con người có thể
đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một
vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.

– Nhờ có thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh mà ta xác định đâu là cái hợp quy
luật, đâu là cái tri thức đúng, đâu là sai lầm cũng như cái gì nên làm, cái gì không nên làm,
đâu là cái không hợp với quy luật mà chân lý chính là cái tri thức đúng, cái hợp quy luật
hay là đúng với quy luật.

– Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò
quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức còn
phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vì thế mà thực tiễn là cơ
sở, động lực, mục đích của nhận thức vừa là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Và khi nhấn
mạnh điều này thì V.I. Lênin đã viết: “Quan điểm về đời sống và thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”.

– Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, độ sâu vào thực tiễn,
phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu phải liên hệ với thực tiễn tức là
“học phải đi đôi với hành”. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy
ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu, không xác định được quy luật, không phân biệt được
quy luật đó có hợp quy luật hay không có là tri thức đúng (chân lý) hay không nhưng nếu
tuyệt đối hóa thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa nên đòi hỏi chúng
ta phải có cái nhìn đúng đắn thì mới xác định được quy luật hợp chân lý.
11
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LENIN VÀO VIỆC ĐỔI
MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Thực trạng giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay
2.1.1 Những thành tựu của giáo dục và đào tạo ở Việt Nam và nguyên nhân
những thành tựu đó
Hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta đã khá hoàn chỉnh vào thời điểm hiện tại.
Các trường tiểu học hầu hết đều đã có mặt ở các bản, làng, xã, phường; các xã hoặc cụm
liên xã cũng xây dựng những trường trung học cơ sở; trường trung học phổ thông được
xây ở các huyện. Về cơ bản, hệ thống giáo dục và đào tạo nước ta cũng đã đáp ứng được
nhu cầu học tập của nhân dân. Và hiện nay, hầu hết người dân trong độ tuổi đi học đều
được đến trường.

Dưới đây là một vài thành tựu giáo dục nước ta trong hơn 75 năm qua thể hiện sự
quan tâm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đồng thời cho thấy sự nỗ lực to lớn của nhân
dân ta đối với sự nghiệp phát triển giáo dục của nước nhà.

-Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được
hoàn thiện

Bộ GD-ĐT đã rà soát, trình Chính phủ, Quốc hội và ban hành theo thẩm quyền các
cơ chế, chính sách khắc,phục những,hạn chế, bất,cập,tồn tại từ nhiều năm trước. Lần đầu
tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của,Luật,Giáo,dục đại học năm 2018 và Luật,Giáo,dục (sửa đổi,
ban hành mới) năm 2019, giải quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các
hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Hiện nay, về cơ bản các chủ trương của
Nghị quyết 29 đã được thể chế hóa và được cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thực hiện.

-Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở

12
Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5 tuổi đã
hoàn thành ngay từ đầu năm 2017 với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98%. Bên
cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2, trong đó có 18/63 tỉnh,
thành phố đạt mức độ; cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1,
trong đó có 19/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ 2, mức độ 3...

-Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới

Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa lớp 1, với
tổng số 46 quyển của 9 môn học và hoạt động giáo dục cho phép sử dụng trong năm học
2020-2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa phương thực hiện cơ bản nghiêm
túc, công khai, minh bạch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành giáo dục nước ta thực
hiện chủ trương này và đã có kết quả bước đầu đáng khích lệ.

-Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực
chất, hiệu quả hơn

Ở các bậc giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, việc đổi mới thi
cử, kiểm tra và đánh giá chất lượng đã được triển khai theo đánh giá chất lượng và kết hợp
kết quả quá trình với kết quả cuối năm học. Các bậc học sau phổ thông như cao đẳng, đại
học đã chuyển từ việc tổ chức đào tạo theo niên chế sang cơ chế tích lũy mô đun hoặc tín
chỉ. Trình độ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ được kiểm tra, đánh giá chặt chẽ hơn; chất lượng
các luận văn, luận án dần theo tiêu chuẩn quốc tế. Thi tốt nghiệp trung học phổ thông,
tuyển sinh đại học, cao đẳng được đổi mới bằng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá
trình với kết quả cuối năm học, từ đó giảm áp lực và tốn kém cho xã hội.

-Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên, được
quốc tế ghi nhận, đánh giá cao

Trong báo cáo năm’2020 của Ngân hàng’Thế giới về Vốn nhân lực,’thành phần
kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, New

13
Zealand, Thụy Điển. Nhiều chỉ’số được’đánh giá cao trong khu vực của giáo dục và đào
tạo Việt Nam như: tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt
92,08%, đứng trong top đầu của khối ASEAN; kết quả Chương trình Đánh giá kết quả học
tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á (SEA PLM) năm 2019 cho thấy chất
lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng vào top đầu của các nước ASEAN. Trong các
đợt đánh giá PISA, Việt Nam có kết quả vượt trội so với trung bình của các nước trong
khối OECD trong khi giáo dục có mức đầu tư thấp hơn hẳn. Trong những năm vừa qua,
kết quả thi Olympic của học sinh Việt Nam có bước tiến bộ vượt bậc với 49 huy chương
Vàng trong giai đoạn 2016-2020 so với 27 huy chương Vàng trong giai đoạn 2011-2015;
nhiều học sinh Việt Nam đạt những kết quả cao nhất ở các nội dung thi.

-Tự chủ đại học được đẩy mạnh, chất lượng đào tạo đại học có nhiều chuyển biến
tích cực

Nếu như trước đây chỉ có hai đại học quốc gia được giao quyền tự chủ cao, thì từ
năm 2014 đã có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự chủ tương đối toàn
diện theo Nghị quyết 77 của Chính phủ. Vào năm 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng lên 12 bậc so với năm 2018. Và lần đầu
tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế
giới; có 11 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng
đầu Châu Á.

-Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh
viên có nhiều chuyển biến tích cực

Những nội dung giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng sống được chú trọng thực
hiện trong Chương trình giáo dục phổ thông mới thông qua tất cả các môn học, hoạt động
giáo dục.

-Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và tích cực đẩy mạnh chuyển đổi số
trong ngành giáo dục

14
Ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, dạy và học. Lần đầu
tiên, toàn ngành Giáo dục đã xây dựng cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non và giáo
dục phổ thông. Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong các trong các hoạt động
dạy và học; dạy học qua internet, trên truyền hình được thực hiện mạnh mẽ, nhất là trong
thời gian thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19.

- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào
tạo

Hiện tại, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc gia và
vùng lãnh thổ.

2.1.2 Những hạn chế trong giáo dục và đào tạo ở VN và nguyên nhân những hạn
chế đó

Bên cạnh những thành tựu to lớn, giáo dục ở nước ta vẫn đang tồn tại nhiều vấn đề
rất đáng quan tâm:

- Đầu tiên là công tác quản lý nhà nước,’quản trị nhà trường còn bất cập, trách
nhiệm còn’chồng chéo; việc kiện toàn Hội đồng’trường các cơ sở giáo dục đại’học còn
chậm, hoạt động’chưa thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của Hội đồng trường.

- Thứ hai là tình trạng thừa, thiếu giáo’viên vẫn chưa được giải quyết triệt để ở
một số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo
viên chưa đáp ứng được yêu’cầu đổi mới, đặt biệt có những giáo viên vi phạm đạo đức
nhà giáo, gây bức xúc xã hội.

- Thứ ba là quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa
phương chưa phù hợp, ở’một số khu đô thị, khu công nghiệp vẫn còn tình trạng thiếu
trường, lớp; đặc biệt là ở các thành phố lớn thì còn thiếu đất cho xây dựng trường học; quá
trình quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm còn chậm.

15
- Thứ tư là hệ thống quản lý,’quản trị, kết nối,’khai thác dữ liệu ngành phục
vụ’công tác quản lý, điều hành, dạy học’còn chưa đồng bộ; một số nơi như đặc biệt ở các
vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thì hạ tầng công nghệ
thông tin, thiết bị kết nối còn thiếu, ,chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.

- Thứ năm là công tác’truyền thông về giáo’dục còn hạn chế,’chưa tạo được đồng
thuận cao trong xã hội khi bắt đầu triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới của ngành.
Truyền thông nội bộ ngành chưa hiệu quả, còn những ý kiến trái chiều ngay trong đội ngũ
giáo viên khi triển khai chính sách mới.

2.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới giáo dục và đào tạo ở VN hiện nay
trên cơ sở vận dụng quan điểm triết học Mac Lênnin

2.2.1 Đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng gắn lý thuyết với thực hành, đặc
biệt chú trọng thực hành

Trong bối cảnh ngành giáo dục nước ta đang tích cực hướng đến sự phát triển lâu
dài thì công cuộc đổi mới là cực kỳ quan trọng. Nếu như trước đây nội dung, chương trình
giáo dục và đào tạo còn nặng nề về lý thuyết, thực hành vẫn đang còn chưa được áp dụng
nhiều. Thì hiện tại toàn ngành đang cố gắng đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng gắn
lý thuyết với thực hành, và đặc biệt chú trọng thực hành trong học tập và nghiên cứu.

Cách thức học tập sáng tạo sẽ là chìa khóa trong tương lai. Điều này có nghĩa là
thay vì đi vào lớp học suy nghĩ về những gì cần phải học cho một kỳ thi, học sinh sẽ có
mục tiêu riêng của họ trong đầu. Hệ thống giáo dục và đào tạo cần được thiết kế theo
hướng cân đối giữa lý thuyết và thực hành. Để đạt được điều này, ngành giáo dục cần có
những thay đổi để học sinh học các khái niệm tốt hơn bằng cách áp dụng chúng vào thực
tế.

Đổi mới giáo dục và đào tạo sao cho cân đối giữa lý thuyết và thực hành là rất khó
vì nó cần phải hoạt động trên hai mặt - thứ nhất, cần thay đổi cách học sinh được dạy các
khái niệm chứ không phải chỉ được nói suông về chúng. Thứ hai, cần có nhiều cơ hội thực

16
tập hoặc sắp xếp thực tế cho sinh viên để họ có thể áp dụng những gì đã học. Nguyên tắc
quan trọng là tối ưu hóa sự cân bằng giữa lý thuyết và thực hành. Vai trò của giáo dục và
đào tạo là giúp học sinh hiểu lý thuyết, để họ áp dụng vào thực tế.

Giáo dục nên được coi là một quá trình suốt đời. Giáo dục không nên giới hạn
trong một năm học mà cần chú trọng đến việc học tập suốt đời. Học sinh, sinh viên có thể
tham gia các khóa học hoặc hội thảo bất cứ lúc nào trong cuộc đời của họ.

2.2.2 Đẩy mạnh phát triển giáo dục đào tạo một cách toàn diện

Đảng và Nhà nước lấy đổi mới giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, ưu tiên
đầu tư phát triển giáo dục. Đổi mới giáo dục và đào tạo một cách toàn diện là đổi mới từ
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến nội dung, phương pháp, chính sách, mục tiêu. Đổi mới từ
hoạt động quản lý Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục – đào tạo. Tăng
cường sự tham gia của gia đình, cộng đồng xã hội, các tầng lớp nhân dân đóng góp ý kiến,
xây dựng để thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục. Kế thừa và phát huy những thành tựu
đạt được, học hỏi có chọn lọc kinh nghiệm của nền giáo dục các nước trên thế giới. Xây
dựng chính sách giáo dục dài hạn, phù hợp đối với từng cấp học, có lộ trình và tính khả thi
cao. Gắn lý luận với thực tiễn nhằm phát triển năng lực, phẩm chất người học. Có sự kết
hợp, trao đổi và kết nối giữa gia đình và nhà trường. Phát triển kinh tế – xã hội phải đi đôi
với phát triển giáo dục và đào tạo. Nghiên cứu nâng cao phương pháp dạy học, ứng dụng
khoa học công nghệ vào công tác quản lý giáo dục và giảng dạy trong nhà trường. Chú
trọng giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học. Hạn chế những tiêu cực trong công tác thi
cử, kiểm tra để đánh giá đúng năng lực của người học. Phát triển giáo dục ở các cấp, đặc
biệt là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nơi điều kiện kinh tế – xã hội còn gặp nhiều
khó khăn.

2.2.3 Đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất,
năng lực của người học

17
Ðổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa
đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Ðổi mới nội dung giáo dục theo hướng
tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực
hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống,
tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa,
truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến
thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn
hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ
viết của các dân tộc thiểu số; dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt
Nam ở nước ngoài. Ða dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc
học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người. Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền
thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích
tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng
lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các
hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Ðẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin và truyền thông trong dạy và học. Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông
theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và
phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt
động giáo dục tự chọn. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với
từng đối tượng học, chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số và học sinh khuyết tật. Nội dung
giáo dục nghề nghiệp được xây dựng theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, tác phong
làm việc chuyên nghiệp để hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học. Ðổi mới mạnh
mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện đại, phù hợp với từng ngành,
nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống giáo dục đại học. Chú trọng phát triển
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước
tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới.

18
III. LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG THỰC TIỄN HIỆN NAY Ở
NƯỚC TA

3.1 Không ngừng nổ lực phấn đấu, tự học, tự nghiên cứu

Tự học là sự tự làm việc thông qua chính bản thân mình khi tiếp nhận thông tin, kiến
thức mà không thông qua sự giảng dạy, hướng dẫn chính thức của ai đó. Đó cũng là quá
trình tự đọc, tự chủ động tìm hiểu, tự nghiên cứu, tự tư duy, tự suy luận trên cơ sở lấy cá
nhân mình làm trung tâm tiếp nhận. Khi tự học, mỗi người có thể hoàn toàn tự do và làm
chủ bản thân trong suốt quá trình học, có quyền chủ động về mặt thời gian, thời lượng học
tập, chủ động điều tiết khối lượng kiến thức mình muốn dung nạp, tiếp thu. Tự học là cần
thiết, nhưng tự học ra sao lại vô cùng quan trọng, tức là cần phải có phương pháp tự học
tốt nhất để mang lại hiệu quả cao, tránh những kết quả tiêu cực không đáng có khi tự học
không đúng cách. Do đó, phải căn cứ vào trình độ nhận thức, công việc đang đảm nhiệm
và vị trí của bản thân để lựa chọn những điều cơ bản, thiết thực, những vấn đề cần cho lĩnh
vực công tác đang đảm nhiệm hoặc nhu cầu của mình để học”. Như vậy, tinh thần tự học
là rất quan trọng nhưng tự học đúng cách càng quan trọng hơn bởi khi tự học không đúng
phương pháp, lượng kiến thức tiếp thu được sẽ vô cùng ít ỏi, không nhớ được lâu, thậm
chí học xong là quên ngay. Bên cạnh đó, việc tự học thiếu phương pháp, thiếu bài bản sẽ
gây lãng phí rất nhiều công sức, thời gian mà không đem lại hiệu quả. Ngoài ra, Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn lưu ý thái độ khiêm tốn trong học tập là rất quan trọng. Càng học cao,
hiểu rộng, biết nhiều thì càng cần sự khiêm nhường, đúng mực. Thực tế cho thấy do có
một lượng kiến thức nhất định mà con người ta, nhất là giới trẻ hiện nay hay có tư tưởng
chủ quan, tự tin quá mức dẫn đến tự cao tự đại, cho là mình biết nhiều, biết hết, biết tất,
cho là mình đã rất giỏi rồi. Ngoài ra, lớp trẻ cũng cần tránh việc sĩ diện, vì “cái tôi” mà cố
tình giấu dốt, không biết vẫn nói là biết để khoe khoang, lấp liếm. Bác dạy: “Cái gì biết thì
nói biết, không biết thì nói không biết, kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học
tập”. Bác nhấn mạnh: “Tính khiêm tốn yêu cầu người ta không được thỏa mãn với vốn
kiến thức và thành tích đã đạt được. Trong khi học phải nêu cao tác phong độc lập suy
nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng

19
từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ
lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi vì sao, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem có
hợp với thực tế không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi
chiều. Phải suy nghĩ chín chắn”. Với những phân tích khoa học về con đường tự học và
tinh thần học tập của Bác, điều cần thiết là bài học rút ra cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ
trẻ Việt Nam hiện nay: Một là, phải luôn có tư tưởng, ý thức “hướng học” và “hiếu học”.
“Ăn vóc học hay”, “đi một ngày đàng học một sàng khôn”, phải luôn thường trực sự học
hỏi, học tập ở mọi nơi mọi lúc, phải kết hợp cả “learn” (học thường xuyên và linh hoạt) và
“study” (học tập, nghiên cứu bài bản). Cổ nhân đã dạy, “nét chữ là nét người”, trí tuệ, trình
độ và kiến thức của mỗi người sẽ quyết định vị thế, vai trò của cá nhân trong tổ chức,
ngoài cộng đồng mà không thể một sớm một chiều tích lũy được nếu không thông qua tư
tưởng hướng học tập hàng ngày. Hai là, phải luôn giữ tinh thần, ý chí và nghị lực học tập,
học hỏi không ngừng chứ không phải học theo kiểu “được chăng hay chớ”. Ba là, cần tự
học một cách chủ động, sáng tạo chứ không mang tính đối phó hay chạy theo thành tích.
Việc trau dồi kiến thức không chỉ loanh quanh ở điểm số, giấy khen, bằng cấp mà nằm ở
giá trị con người và sự đóng góp những điều có ích cho xã hội. Nhất là với trí tuệ của
người trẻ, cần phải có sự thông minh trong quá trình tự học ở mọi lúc mọi nơi. Như thế thì
mới thể hiện đúng vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước, đúng như phương châm của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh “Đâu Đảng cần thanh
niên có, việc gì khó có thanh niên”. Bốn là, việc tự học cũng cần có tư duy, có lựa chọn.
Bởi tri thức là vô tận nhưng thời gian, khả năng tiếp nhận của mỗi người là hữu hạn. Năm
là, ngoài tự học các kiến thức chuyên môn thì cần trang bị cho bản thân các kiến thức nền
tảng về chính trị, văn hóa, xã hội. Đặc biệt, lớp trẻ cần có những hiểu biết vững chắc về
lịch sử, truyền thống, phong tục, tập quán và văn hóa Việt Nam, cần thông thạo ngôn ngữ
mẹ đẻ trước khi giỏi ngoại ngữ khác. Bác đã dạy: “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc
tích nước nhà Việt Nam”. Sáu là, học cần đi đôi với hành. Thực tiễn luôn là thước đo
đúng đắn nhất cho mọi bài học. Bảy là, việc học tập và tự học là một quá trình, là “học tập
suốt đời” theo tấm gương của Bác. Do đó, các bạn trẻ không nên “giục tốc bất đạt”, không
nên quá áp lực, tự làm khó cho bản thân. Cần hiểu rằng, giá trị con người nằm nhiều ở

20
nhân cách, cách đối nhân xử thế, việc hành thiện giúp đời.., chứ không chỉ nằm ở kết quả
học tập, thứ bậc, vị trí ở cơ quan đoàn thể, danh vọng ngoài xã hội. Tám là, không để mặt
trái của mạng internet, công nghệ lôi kéo, phân tán, ảnh hưởng đến thời gian, năng suất,
kết quả học tập, lao động. Chín là, học tập, tự học hỏi, tự rèn luyện với mục đích cuối
cùng là để thành công, để phục vụ cho bản thân, gia đình và cao hơn cả là quê hương đất
nước. Mười là cần có phương pháp, công cụ học tập đúng đắn. Phương pháp tự học cũng
là cần thiết để học đúng người, đúng cách, đúng nội dung, đúng thời điểm… Đã qua thời
học tập là một thầy giảng và nhiều người nghe trong một lớp học tập trung, mà kiến thức
đang được tiếp thu liên tục thông qua quá trình tự học hỏi, tự tìm tòi, tự tiếp nhận. Ngày
nay, các cá nhân, tổ chức có điều kiện và cơ hội tự học lớn hơn nhiều so với sinh thời của
Bác, với sự trợ giúp của công nghệ và khả năng tiếp cận kho tri thức trên mạng internet,
thư viện ảo. Giới trẻ đang có điều kiện đầy đủ hơn về vật chất, tinh thần, nếu không nâng
cao tinh thần học tập, tự học, tự rèn luyện thì không thể tài giỏi và trở thành những người
có ích cho cộng đồng, cho đất nước.

3.2 Tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc

Có thể nói, ngày nay, đầu tiên, mỗi sinh viên cần phải chuẩn bị cho mình nhận thức
đúng đắn và đầy đủ về trách nhiệm công dân đối với công cuộc bảo vệ an ninh - trật tự của
Tổ quốc. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để giữ gìn cuộc sống bình yên cho nhân dân và
làm cơ sở nền tảng cho sự phát triển đất nước. Đối với sinh viên đang được học tập, rèn
luyện trong nhà trường trước hết phải nhận thức được sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc là
trách nhiệm của tất cả mọi công dân Việt Nam trong đó lực lượng công an nhân dân làm
nòng cốt. Công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm giữ gìn an ninh - trật tự là một cuộc
đấu tranh gay go và phức tạp cần phải huy động sức mạnh của tất cả mọi người, mọi tầng
lớp trong xã hội, là thanh niên Việt Nam nói chung và là đoàn viên thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh nói riêng lại càng gương mẫu và tích cực tham gia vào các công tác giữ gìn
an ninh Tổ quốc, cụ thể là các phong trào giữ gìn an ninh - trật tự của địa phương. Để quán
triệt được quan điểm trên, mỗi sinh viên trong thời gian học tập tại nhà trường phải say mê
học tập, chăm rèn luyện, có nhận thức đúng những điều hay, lẽ phải, biết các việc nên làm
21
và không được làm; nắm vững và chấp hành đầy đủ các nội quy quy định của nhà trường,
các quy định của địa phương và pháp luật của Nhà nước; phát hiện và mạnh dạn đấu tranh
với các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa phương hoặc ở trong nhà
trường.

Thứ hai, mỗi sinh viên cần phải tự giác chấp hành các quy định về đảm bảo an ninh
trật tự của nhà trường và của địa phương nơi cư trú. Để đảm bảo an ninh trật tự, mọi công
dân phải tự giác chấp hành các quy định của nhà nước và của địa phương về giữ gìn an
ninh trật tự như: bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ việc thực hiện các chính sách của
nhà nước, bảo vệ chính quyền, bảo vệ sự vững mạnh của các tổ chức đoàn thể xã hội;
chống kẻ địch phá hoại về chính trị tư tưởng, về kinh tế văn hoá xã hội; xây dựng khối
thống nhất toàn dân.....Mỗi sinh viên đều phải tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà
trường, của đoàn thanh niên hoặc của địa phương tổ chức. Sinh viên không nên xem, đọc,
lưu truyền các văn hoá phẩm độc hại, đồi trụy; không nghe, không bình luận các luận điểm
tuyên truyền xuyên tạc nói xấu Nhà nước xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch; không
truy cập vào các Website có nội dung thiếu lành mạnh; không tự ý thành lập, tham gia
hoạt động trong các tổ chức chính trị và các tổ chức có tính chất chính trị trái pháp luật
Việt Nam. Nếu phát hiện có hành vi sai trái phải ngay lập tức báo và đề nghị với thầy, cô
giáo và các cơ quan chính quyền địa phương nơi cư trú, học tập để có biện pháp ngăn chặn
các hành vị hoạt động tệ nạn xã hội (cờ bạc, ma tuý, mại dâm), các hành vi xâm hại đến an
ninh, trật tự an toàn xã hội.

Thứ ba, các sinh viên cũng cần phải tích cực tham gia vào các phong trào bảo vệ an
ninh trật tự của địa phương. Phong trào toàn dân ở từng cụm dân cư, từng phường, xã có
mạnh hay không là do sự đóng góp chung của tất cả mọi thành viên trong cộng đồng khu
vực, từ trẻ đến già; từ cán bộ, công nhân, viên chức đến sinh viên. Hoạt động này phải trở
thành ý thức tự giác và tự quản của từng người dân, trong đó có sự đóng góp tích cực và
quan trọng của sinh viên. Với trách nhiệm của người sinh viên, là tầng lớp trí thức, có sự
hiểu biết, năng động và sáng tạo, lại đang được tiếp thu những kiến thức khoa học của
nhân loại, là nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước, nhưng mỗi sinh viên cũng cần

22
được sự hỗ trợ, định hướng và dìu dắt của Đảng, Nhà nước, nhà trường và của toàn xã hội,
do đó mỗi người học không những chấp hành đúng và đủ các quy định của Nhà nước về
đảm bảo an ninh trật tự mà còn phải tham gia tích cực vào các phong trào bảo vệ an ninh -
trật tự của địa phương, như: “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở
khu dân cư”; phong trào “Toàn dân phòng chống ma tuý”, “Tự phòng, tự quản, tự bảo vệ”;
phong trào “Toàn dân tham gia cảm hoá giáo dục người lầm lỗi” cũng như các phong trào
bảo vệ an ninh trật tự khác: phong trào xây dựng cụm dân cư an toàn, số nhà an toàn; tham
gia vào các tổ chức quần chúng “Đội thanh niên xung kích an ninh”, “Đội thanh niên tự
quản”,…

Cuối cùng, mỗi sinh viên phải luôn luôn nêu cao ý thức cảnh giác. Sinh viên tích
cực tham gia hoạt động phòng chống tội phạm ở địa phương, phát hiện những hiện tượng
tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong nhà trường và nơi cư trú kịp thời,
cung cấp cho cơ quan công an để có biện pháp ngăn chặn và giải quyết. Để góp phần vào
công tác giữ gìn an ninh trật tự, tạo thành phong trào toàn dân phòng chống tội phạm, sinh
viên cần tích cực tham gia vào các hoạt động giữ gìn an ninh trật tự của, địa phương theo
khả năng của mình như: Phát hiện các hành vi tuyên truyền, phát tán các văn hoá phẩm đồi
trụy, các tài liệu phản động, báo cáo ngay với ban giám hiệu nhà trường, với thầy, cô giáo
chủ nhiệm hoặc cơ quan công an để thu giữ kịp thời, phát hiện và ngăn chặn các vụ đánh
nhau, gây rối trật tự công cộng báo cáo với nhà trường, ban bảo vệ dân phố, cơ quan công
an nơi gần nhất để có biện pháp ngăn chặn, tham gia phát hiện truy bắt các đối tượng
phạm phấp bỏ trốn, phát hiện các hành vi vi phạm các quy định về trật tự an toàn xã hội
như mang chất cháy, chất nổ, chất độc, vũ khí thô sơ đến trường, phát hiện và báo cáo kịp
thời với nhà trường về những người hoặc các hiện tượng sinh viên có biểu hiện sử dụng
các chất ma tuý, đua đòi ăn chơi tụ tập đua xe, đánh bạc ăn tiền...thường xuyên giúp đỡ
các bạn gặp khó khăn về điều kiện học tập, động viên các bạn vượt khó để học tập tốt.

3.3 Tích cực tham gia phòng chống, đẩy lùi dịch bệnh Covid-19.

COVID-19 là một bệnh truyền nhiễm gây viêm đường hô hấp cấp tính với tác nhân
là virus SARS- CoV-2. Triệu chứng của COVID-19 chủ yếu là sốt, ho và khó thở, diễn

23
biến từ nhẹ như một cảm cúm thông thường, đến nặng như suy hô hấp và có nguy cơ dẫn
đến tử vong. Cho đến nay, bệnh này đã trở thành một trong những đại dịch được cho là đã
làm thay đổi cả thế giới. Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, vấn đề phòng bệnh là
chủ yếu, nó được xem như là một chiến lược mang tính toàn cầu với sự tham gia của toàn
dân, với mục đích là khống chế và đẩy lùi dịch bệnh. Chiến lược này đã được cụ thể hóa ở
từng quốc gia, vùng miền và được phổ biến rộng rãi trên hầu hết các phương tiện truyền
thông đại chúng. Chúng ta phải huy động sức mạnh tổng lực của hệ thống chính trị, của
nhân dân để sớm đẩy lùi đợt dịch lần thứ 4 này càng sớm càng tốt - Thủ tướng Chính phủ
nhiều lần nhấn mạnh quan điểm này với các cấp, các ngành "tất cả vì sức khỏe, tính mạng
của nhân dân là trên hết, trước hết". “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Từ
khi dịch COVID-19 bùng phát, hàng trăm ngàn thanh niên đã sát cánh bên nhau làm việc
ròng rã, người nơi tuyến đầu, người ở tuyến sau, đồng cam cộng khổ hỗ trợ cộng đồng
vượt qua dịch bệnh. Đến nay, từ Trung ương đến địa phương đã lập nên những “phòng
tuyến áo xanh” thực hiện rất nhiều nhiệm vụ như tuyên truyền, phát khẩu trang, nước sát
khuẩn miễn phí cho người dân; tham gia tổ COVID-19 cộng đồng; phục vụ các khu cách
ly; trực tại các chốt kiểm dịch, phong tỏa; hỗ trợ các điểm tiêm phòng; hỗ trợ tiêu thụ nông
sản cho dân… “Bản thân là một công dân Việt Nam và mang trong mình sức mạnh của
tuổi trẻ, em không thể làm ngơ đứng nhìn đất nước mình rơi vào tình cảnh nguy hiểm,
nhất là trong đại dịch COVID-19 này, nên em đã tình nguyện tham gia chống COVID-19,
với hy vọng chung tay đánh tan dịch bệnh nguy hiểm này”, là tâm sự của không ít đoàn
viên thanh niên. Đến nay, trên cả nước, Đoàn Thanh niên đã thành lập và duy trì hoạt động
khoảng 10.000 đội hình thanh niên tình nguyện tham gia chống dịch. “Dũng cảm trong
chiến đấu, gương mẫu giữa đời thường”. Ngày hôm nay, câu nói “Tất cả vì miền Nam ruột
thịt” lại vang lên lần nữa, hàng ngàn người đang xung phong vào Nam để chia sẻ khó
khăn, mất mát, nhường cơm sẻ áo,  lo cho đồng bào mình. Đây là thời điểm rất khó khăn
của đất nước, nhưng chúng ta cùng đoàn kết, cùng Chính phủ và cả hệ thống chính trị,
quyết tâm, đồng lòng chiến đấu với “kẻ thù giấu mặt- COVID 19”. Nhất định chúng ta sẽ
làm được và sẽ chiến thắng trong cuộc chiến này để đem lại bình an, ấm no hạnh phúc cho
nhân dân. Sinh viên luôn xác định công tác phòng, chống dịch COVID-19 là nhiệm vụ

24
chính trị quan trọng, cấp bách, “chống dịch như chống giặc, tuyệt đối không lơ là, chủ
quan, mất cảnh giác; nâng cấp độ phòng chống dịch tại Trường ở mức cao nhất, luôn chủ
động để có phương án ứng phó trong mọi tình huống; không lo sợ, lúng túng, mất bình
tĩnh, thiếu kiên trì, thiếu bản lĩnh khi có dịch xảy ra”. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh
phương châm “bốn tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện, vật tư tại chỗ,
hậu cần tại chỗ); theo tinh thần “chủ động tấn công”, nguyên tắc phòng, chống dịch
“phòng ngừa tích cực, phát hiện sớm, cách ly nhanh, điều trị hiệu quả, xử lý dứt điểm,
nhanh chóng ổn định tình hình”; luôn chuẩn bị cho từng tình huống xấu, đưa ra giải pháp
tương ứng với từng mức nguy cơ.
3.4 Tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện

Các hoạt động tình nguyện là các hoạt động tạo ra những ảnh hưởng tích cực với
cộng động, xã hội và nhận được sự tham gia một cách hoàn toàn tự nguyện của người
tham gia. Những hoạt động tình nguyện tại trường đại học thường được tổ chức bởi các
bạn sinh viên thuộc đoàn hội khoa dưới sự quản lý của Đoàn trường hoặc Hội Sinh viên.
Ngoài những thầy cô và sinh viên có nhiệm vụ quản lý, các hoạt động tình nguyện không
thể thành công nếu không có sự tham gia của các bạn sinh viên. Tình nguyện là sự tự
nguyện, sẵn lòng đóng góp, một chút thời gian và kỹ năng, kiến thức của mình để giúp đỡ
cộng đồng chung quanh như hàng xóm láng giềng, tổ dân phố, khu phố mình cư ngụ,
thành phố mình ở, đất nước của mình hay rộng hơn là các nước trên thế giới. Tình nguyện
phải xuất phát từ trái tim và tình nguyện sẽ không có giá trị nào nếu không thật sự là tình
nguyện. Tình nguyện về cơ bản là cống hiến thời gian, sức lực, kỹ năng mà không đòi hỏi
lợi ích cá nhân. Ngoài những giờ học trên giảng đường, tham gia tình nguyện là một cách
đơn giản để sinh viên có được những bài học bổ ích. Từ những công việc chuẩn bị cho
chương trình tình nguyện đến lúc đi thực tế, sinh viên sẽ tích góp được rất nhiều kinh
nghiệm hữu ích. Khi tham gia các hoạt động này dù với vai trò thành viên, tình nguyện
viên hay cộng tác viên, sinh viên đều được bước ra khỏi không gian lớp học, tập làm việc
trong một hệ thống có tổ chức, rèn luyện cho bản thân nhiều kỹ năng mềm như giao tiếp
liên cá nhân, hoạt động nhóm, lãnh đạo,... và trau dồi nhiều kiến thức chuyên môn cũng

25
như thực tiễn để hỗ trợ cho công việc sau khi ra trường. Không thể phủ nhận rằng việc
tham gia các dự án và hội nhóm sinh viên giúp cho thế hệ trẻ trở nên tự tin hơn, hiểu biết
hơn, ghi điểm trong mắt nhà tuyển dụng và nhanh chóng hòa nhập vào môi trường mới.
Khi tham gia vào đội hình tình nguyện, sinh viên sẽ được tiếp xúc với những bạn bè cùng
lứa hoặc anh chị trong và ngoài trường. Đây chính là cơ hội tốt để sinh viên mở rộng mối
quan hệ của mình. Những anh chị đi trước có thể chia sẻ nhiều điều thú vị mà sinh viên có
thể học hỏi. Tuy nhiên, do việc tình nguyện là những hoạt động không bắt buộc nên sinh
viên chỉ nên tham gia khi sắp xếp được thời gian và cảm thấy bản thân sẽ học hỏi được
nhiều thứ sau chương trình kết thúc. Tham gia các chương trình tình nguyện đồng nghĩa
sinh viên phải dành bớt thời gian học tập để hoàn thành những nhiệm vụ được ban tổ chức
giao cho. Thông thường, các hoạt động gây quỹ sẽ chiếm thời gian nhiều nhất. Ngoài ra,
nếu có văn nghệ, ca hát thì sinh viên cũng phải dành thời gian để họp nhóm, tổng dợt
chương trình. Do đó, để tham gia trọn vẹn tất cả những hoạt động của chương trình tình
nguyện, sinh viên cần phải biết cách sắp xếp thời gian học tập hợp lý. Nếu nhận thấy kết
quả học tập của bản thân bị ảnh hưởng, sinh viên nên cân nhắc tham gia tình nguyện vào
những lần sau để tránh sa sút việc học. Tham gia tình nguyện là một hoạt động tự nguyện
của sinh viên. Tuy nhiên, việc quan trọng nhất khi quyết định đăng ký tham gia các hoạt
động này là cân bằng được việc học tập và hoạt động ngoại khóa để vừa học được nhiều
kinh nghiệm mới thông qua các hoạt động tình nguyện, vừa có thể giữ được điểm số cao
trên giảng đường.
KẾT LUẬN
Những bước phát triển gì nữa sẽ đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam trước thềm thiên
niên kỷ mới? Đổi mới kinh tế - giáo dục, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải chăng vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu thời đại ? Đương nhiên, câu trả lời cho vấn đề ấy còn đang
còn ở phía trước. Tuy vậy, với lối đi đúng đắn và lựa chọn quyết đoán của Đảng - Nhà
nước, chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành tựu mới.Triết học Mác-Lênin có ý nghĩa quan
trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của con người. Chủ nghĩa Mác-Lênin giúp ta
hiểu hơn về thế giới khách quan. Đặc biệt là việc tiếp thu được phạm trù thực tiễn và nhận
thức. Giữa phạm trù nhận thức và thực tiễn, con người ta cần quan tâm đến mối quan hệ

26
biện chứng của chúng: nhận thức tác động đến thực tiễn và thực tiễn đồng thời cũng tác
động lại nhận thức. Vòng khâu của nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, được lặp đi lặp lại nhưng sâu hơn về bản chất.
Đó cũng chính là quá trình giải quyết những mâu thuẫn không ngừng nảy sinh trong nhận
thức. Đó là mâu thuẫn giữa chưa biết và biết, giữa biết ít và biết nhiều, giữa chân lý và sai
lầm... Cứ mỗi khi mâu thuẫn được giải quyết, thì nhận thức của con người lại tiến gần tới
chân lý.
Tiếp thu và nhận thức được triết học Mác-Lênin giúp chúng ta nhận thức sâu sắc
hơn CNXH, công cuộc xây dựng CNXH của Đảng và Nhà nước ta trở nên thuận lợi và
hoàn thiện hơn.

27
PHỤ LỤC
KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG VIẾT TIỂU LUẬN
Mức độ
Nội dung hoàn thành Sinh viên hoàn thành hoàn
thành

PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU

Nội dung 1: Lý do chọn đề tài, mục tiêu,


Lê Thị Phương Anh Tốt
phương pháp nghiên cứu

PHẦN 2. NỘI DUNG

Nội dung 2: Thực tiễn và các giai đoạn


Lý Lê Nhật Hòa Tốt
của thực tiễn

Nội dung 3: Nhận thức và các giai đoạn


Lý Lê Nhật Hòa Tốt
của nhận thức

Nội dung 4: Vai trò của thực tiễn đối với


Lý Lê Nhật Hòa Tốt
nhận thức

Nội dung 5: Thực trạng giáo dục và đào


Đặng Châu Anh Tốt
tạo ở nước ta hiện nay

Nội dung 6: Một số giải pháp chủ yếu


nhằm đổi mới giáo dục ở VN hiện nay
Đặng Châu Anh Tốt
trên cơ sở vận dụng quan điểm Triết học
Mác- Lênnin

Nội dung 7: Không ngừng nổ lực phấn Bùi Xuân Quỳnh Tốt
đấu, tự học, tự nghiên cứu

Nội dung 8: Tích cực tham gia xây dựng


Bùi Xuân Quỳnh Tốt
bảo vệ tổ quốc
Nội dung 9: Tích cực tham gia phòng
chống, đẩy lùi dịch bệnh Covid-19 Bùi Xuân Quỳnh Tốt

Nội dung 10: Tích cực tham gia các hoạt


Nguyễn Thị Kim Anh Tốt
đông thiên nguyện

PHẦN 3 . KẾT LUẬN

Nội dung 11: Biên tập lời kết luận. Lê Thị Phương Anh Tốt

TỔNG HỢP NỘI DUNG BÀI TIỂU Lý Lê Nhật Hòa


Tốt
LUẬN, CHỈNH SỬA HOÀN THIỆN Nguyễn Thị Kim Anh

TÀI LIỆU THAM KHẢO


https://thoidai.com.vn/con-duong-tu-hoc-cua-chu-tich-ho-chi-minh-bai-hoc-sau-sac-cho-
the-he-tre-viet-nam-hom-nay-145350.html?
fbclid=IwAR2tX216_W80784jsW9BzsORQv7BsN5iCw5XFXVOmSLyDr4h_8O-
SCZafXE
https://moh.gov.vn/tin-lien-quan/-/asset_publisher/vjYyM7O9aWnX/content/xung-phong-
ra-tuyen-au-chong-dich?fbclid=IwAR2khLieed0Y5DIe5wyY_EjPjgm-
nTag_qEq2WNIbrQ77r2Rl4AG0mzSiaw
https://viez.vn/tham-gia-lam-sinh-vien-tinh-nguyen-thoi-dai-hoc-co-dang-hay-khong-
0T43PXyymAK1.html?
fbclid=IwAR3PnYgnXxfmrPcdR6i5sTXSMxIhmislKls_A3wyy3P7SA0UyzLaAFClMnI
https://dangcongsan.vn/y-te/giao-duc-viet-nam--nhung-thanh-tuu-va-thach-thuc-
47043.html

You might also like