You are on page 1of 10

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017

Mô hình quản lý công mới và


tính khả thi khi áp dụng ở Việt Nam
New public management and its feasibility for Vietnam

ThS. Lê Minh Thảo, Trường Chính trị tỉnh Hải Dương


Le Minh Thao, M.A., Hai Duong Province School of Political

Lê Thị Nga, Trường Chính trị tỉnh Hải Dương


Le Thi Nga, Hai Duong Province School of Political

Tóm tắt
“Quản lý công mới” (New public management, NPM) là một mô hình lý luận quản lý công được đưa ra
vào thập niên 80 của thế kỷ 20 tại các quốc gia như Anh, Mỹ, cũng là một trong những tư tưởng chủ đạo
trong cải cách hành chính công ở phương tây những năm gần đây. Quản lý công mới dựa vào lý luận cơ
bản của kinh tế học hiện đại. Chủ trương Chính phủ trong các hoạt động quản lý áp dụng cơ chế cạnh
tranh và các phương pháp quản lý thành công của quản lý kinh tế tư nhân, coi trọng hoạt động phục vụ
của nền công vụ. Bài viết này chúng tôi làm rõ những vấn đề sau: Bối cảnh ra đời, một số tư tưởng lý
luận tiêu biểu, nội dung cơ bản của quản lý công mới và bàn về tính khả thi khi áp dụng “mô hình quản
lý công mới” ở Việt Nam.
Từ khóa: quản lý công mới, tính khả thi, Việt Nam.
Abstract
New public management (NPM) is a public management model theory that has been introduced in the
United States and UK since the 1980s. It also has been one of the main ideas to manage the public
administration reform in the West in recent years. NPM is based on basic theories of the modern
economic. The management policies of the government are performed by applying the competitive
mechanism and successful management methods of the individual economic management as well as
attaching much importance to service activities of the public administration. This article clarifies the
following issues: background, some typical theoretical ideas, basic contents of the new public
management, and the feasibility of "New public management” application to Vietnam.
Keywords: new public administration, feasibility, Vietnam.

1. Đặt vấn đề Vậy “Mô hình Quản lý công mới” là gì và


“Quản lý công mới” (New public có thích hợp khi áp dụng ở Việt Nam hay
management, NPM) là một mô hình lý không. Để làm rõ điều này chúng tôi tiến
luận quản lý công được đưa ra vào thập hành nghiên cứu bối cảnh ra đời, một số tư
niên 80 của thế kỷ 20 tại các quốc gia như tưởng lý luận tiêu biểu, nội dung cơ bản
Anh, Mỹ, cũng là một trong những tư của quản lý công mới và bàn về tính khả
tưởng chủ đạo trong cải cách hành chính thi khi áp dụng “Mô hình quản lý công
công ở phương tây những năm gần đây. mới” ở Việt Nam.

136
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA

2. Nội dung nghiên cứu Cải cách hóa thị trường, trên một giác
2.1. Về bối cảnh ra đời của mô hình độ nhất định mà nói, chính là giảm bớt
quản lý công mới chức năng của Chính phủ, đồng thời cũng
Từ giữa thế kỷ trước, các quốc gia tư là sự ủy quyền đầy thú vị của Chính phủ
bản phát triển ở phương tây thực hiện phổ cho khu vực tư nhân. Chính phủ đồng thời
biến chế độ “quốc gia phúc lợi”. Họ vận đóng hai vai quan trọng (i) là người cung
dụng kinh tế học của John Maynard ứng phúc lợi cho xã hội (ii) định hướng
Keynes để điều hành hoạt động kinh tế của cho tăng trưởng và ổn định kinh tế. Chính
quốc gia, dựa vào trò điều tiết nền kinh tế phủ có trách nhiệm bảo đảm thúc đẩy công
của Chính phủ để khắc phục những khuyết bằng xã hội, bình đẳng trong giáo dục,
tật của cơ chế thị trường. Song đã qua chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường,
nhiều năm, “Chính phủ phúc lợi” lại không phân bổ tài nguyên. Xã hội yêu cầu Chính
đạt được sự tăng trưởng kinh tế như mong phủ “chi tiêu ít, đạt được hiệu quả cao.
muốn. Những năm 60, 70 của thế kỷ XX, Như vậy bắt buộc Chính phủ phải tiến
kinh tế đình trệ do lạm phát, đặc biệt là hành cải cách bằng việc áp dụng phương
cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, thức quản lý hiệu quả của khu vực tư nhân,
Chính phủ mở rộng chi tiêu dẫn tới tăng cuối cùng hình thành nên “mô hình quản lý
thuế, phục vụ công của Chính phủ không công mới”.
hiệu quả, tạo thành sự không hài lòng trong 2.2. Một số tư tưởng lý luận tiêu biểu
xã hội. Cuối cùng dẫn tới sự nhận thức tất Mọi người thông thường cho rằng
yếu phải tiến hành cải cách. quản lý công mới là để phân biệt giữa
Trên phương diện chính trị người ta hành chính công truyền thống với sự xuất
bắt đầu phê phán những chính sách cơ bản hiện của mô hình quản lý công mới.
của mô hình “Chính phủ phúc lợi”. Họ chủ C.Heckscher chỉ ra cải cách Chính phủ đã
trương tự do hóa thị trường. Trên hình thái phá vỡ quan hệ chỉ huy mệnh lệnh hành
ý thức, nổi lên tư tưởng “tân phái hữu”, chính một chiều, thiết lập nên quan hệ tác
khởi nguồn từ tư tưởng kinh tế tự do và lý động lẫn nhau giữa chủ thể quản lý với đối
thuyết lựa chọn công để xây dựng mô hình tượng quản lý, đồng thời khởi xướng, thay
kinh tế và sắp đặt các chế độ quản lý thích thế thành tổ chức hậu quan liêu. Michael
hợp; nhấn mạnh lại vai trò của thị trường Barzelay cho rằng từ bỏ thời đại chế độ
tự do, phê phán sự can dự quá mức của quan liêu đã tới, quản lý công chuyển từ
Chính phủ vào thị trường. Họ cho rằng coi trọng hiệu suất tới coi trọng chất lượng
Chính phủ là lực lượng phi thị trường, sẽ phục vụ và sự hài lòng của khách hàng, đề
làm biến dạng quá trình bố trí hiệu quả các cao sự cạnh tranh tạo thành hiệu quả là sứ
nguồn lực xã hội, làm giảm tăng trưởng mệnh của tổ chức. George Osborne và Ted
kinh tế và cắt giảm phúc lợi xã hội. Họ Gaebler đã tổng kết kinh nghiệm cải cách
khuyến nghị các biện pháp cần áp dụng Chính phủ ở Hoa Kỳ khởi xướng hoạt
như: tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, động “sáng tạo lại Chính phủ”. Năm 1989,
thị trường hóa cung ứng dịch vụ công, cạnh Christopher Hood đã tổng kết hoạt động
tranh trong khu vực công, cạnh tranh giữ cải cách Chính phủ của các quốc gia
khu vực công với khu vực tư trong cung phương tây gọi thành “quản lý công mới”.
ứng dịch vụ công. Như vậy, thực tế đã thúc đẩy sự ra đời của

137
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI VÀ TÍNH KHẢ THI KHI ÁP DỤNG Ở VI T NAM

Quản lý công mới mà không phải xuất triển nguồn nhân lực...
phát từ lý luận quản lý hành chính công Trên cơ sở lý luận của kinh tế học hiện
truyền thống. đại và phương pháp quản lý của khu vực
Nền tảng lý luận của Quản lý công kinh tế tư nhân đã phát triển nhiều học
mới có sự khác biệt rất lớn với lý luận quản thuyết quản lý công mới theo các hướng
lý công truyền thống. Nếu nói hành chính khác nhau:
công truyền thống lấy lý luận chính trị của (1) Lý luận “Chính phủ nhỏ xã hội
Wilson, Frank Johnson Goodnow “phân lớn” của Milton Friedman và Friedrich
khai giữa chính trị và hành chính” và mô Hayek
hình “quan liêu” của Max Weber làm trụ Khi nghiên cứu bối cảnh sự can thiệp
cột cho lý luận thì Quản lý công mới lại lấy không hiệu quả của Chính phủ vào thị
kinh tế học hiện đại, lý luận và phương trường Milton Friedman và Friedrich
pháp quản lý của doanh nghiệp tư nhân làm Hayek đã cho rằng Chính phủ cần phải thu
cơ sở lý của của mình: hẹp phạm vi không gian quản lý, không
Thứ nhất, quản lý công mới từ kinh tế can thiệp quá sâu vào thị trường, bởi vì khi
học hiện đại đã thu được rất nhiều căn cứ thị trường làm không được thì Chính phủ
lý luận của mình, ví như từ “con người lý cũng sẽ làm không tốt. Tức nhiệm vụ của
tính” (người lý tính là ai cũng vì lợi ích của Chính phủ chỉ cung cấp biệt lập hoạt động
bản thân mình, đều hy vọng bỏ ra nguồn phục vụ và các sản phẩm công cộng. Ở
lực ít nhất mà thu về lợi ích nhiều nhất) giả quan điểm này, “Chính phủ nhỏ” được hiểu
định này là căn cứ của lý luận “hiệu quả là Chính phủ thu hẹp phạm vi tác động
quản lý”, từ quy luật giá trị trong trao đổi bằng cách chuyển giao các chức năng
hàng hóa và lý thuyết lựa chọn công cộng không cần thiết cho các tổ chức khác trong
là căn cứ của nguyên tắc “Chính phủ nên xã hội chứ không có nghĩa là nhỏ yếu trong
lấy thị trường và khách hàng là tín hiệu để năng lực quản lý và điều hành.
chỉ đạo các hoạt động của mình”, nâng cao (2 ) Lý luận “Tái tạo lại quy trình
hiệu quả, hiệu lực và chất lượng trong phục quản lý”, của Armand Hammer và James
vụ công; từ phân tích giá cả, hiệu quả và Champy
lợi ích hình thành nên nguyên tắc “đánh giá Nội dung chủ yếu của lý luận này như
hiệu quả hoạt động của Chính phủ dựa vào sau:
mục tiêu và phân tích kết quả hoạt động”... (1) Đối với quy trình công việc cần
Thứ hai, từ phương pháp quản lý của phải thiết kế lại, lấy đề cao hiệu quả, hiệu
khu vực tư, quản lý công mới đã áp dụng lực và chất lượng.
vào hoạt động quản lý công như: hình thức (2) Lấy quy trình nghiệp vụ là đối
tổ chức linh hoạt thích ứng với môi trường tượng trung tâm của cải cách, lấy nhu cầu
mà không phân tầng cứng nhắc như mô và độ hài lòng của khách hàng làm mục
hình quan liêu của Max Weber, coi trọng tiêu. Đối với quy trình nghiệp vụ hiện tại
đầu ra và kết quả chứ không chỉ quản đầu tiến hàng khảo sát lại toàn bộ và thiết kế lại
vào, trên phương diện quản lý nhân sự áp một cách triệt để, phá vỡ chức năng và cơ
dụng linh hoạt chế độ hợp đồng, thuê cấu của tổ chức quan liêu truyền thống,
ngoài, trả lương theo vị trí việc làm và hiệu thiết lập mới quy trình và cơ cấu tổ chức,
quả hoạt động, quản lý theo mục tiêu, phát từ đó các mặt giá trị, chất lượng, quá trình

138
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA

phục vụ... đều được hoàn thiện. ủy quyền từ nhân dân và có nhiệm vụ phục
(3) Lý luận “đánh giá kết quả hoạt vụ nhân dân.
động của Chính phủ” của Marc Holzer 3. Tính cạnh tranh của Chính phủ: đưa
Marc Holzer đã tiếp cận quá trình đánh cơ chế cạnh tranh vào trong các hoạt động
giá kết quả họa động của Chính phủ, đề cung ứng dịch vụ công.
xuất biến quá trình đánh giá kết quả hoạt 4. Chính phủ có sứ mệnh: Cải cách
động của Chính phủ thành một loại công việc xử lý công việc dựa vào giấy tờ hành
cụ để cải tiến kết quả hoạt động của Chính chính.
phủ, tác giả này đã thiết kế một bộ quy 5. Hiệu quả hoạt động của Chính phủ:
trình cụ thể để đánh giá kết quả hoạt động Coi trọng hiệu quả mà không phải là cấp
của Chính phủ, trong đó nhấn mạnh và đề phát ngân sách đầu vào.
cao có sự tham gia đánh giá của công dân 6. Quan hệ với đối tượng quản lý: thỏa
đối với hoạt động của Chính phủ. Lấy kết mãn nhu cầu khách hàng mà không phải là
quả quá trình đánh giá và những thông tin nhu cầu cai trị như ở mô hình quan liêu.
thu được từ quá trình này để hoàn thiện 7. Hoạt động của Chính phủ: có hiệu
chính sách và cải tiến các hoạt động quản quả mà không phải là lãng phí.
lý, điều hành của Chính phủ. 8. Hoạt động dự báo của Chính phủ:
(4 ) Lý luận “Quy trình quản lý chất phòng bệnh chứ không phải là trị bệnh.
lượng toàn diện của Chính phủ” của 9. Phân quyền của Chính phủ: Từ
Marc Holzer cơ chế tầng nấc thành cơ chế điều hòa,
Marc Holzercòn đề ra một bộ quy trình hợp tác.
quản lý chất lượng toàn diện của Chính 10. Chính phủ lấy thị trường là tín hiệu
phủ, thiết lập cơ cấu quản lý công lấy chỉ đạo: Thông qua lực lượng thị trường
khách hàng làm trung tâm, cải tiến liên tục, tiến hành cải cách.
nhấn mạnh trao quyền và hợp tác để đưa (6) “7 đặc trưng Quản lý công mới”
vào quy trình quản lý của Chính phủ nhằm của Christopher hoor
loại bỏ các trở lực của mô hình quan liêu 1. Chuyên nghiệp hóa quản lý.
đem lại như lợi ích nhóm, tầng nấc 2. Có tiêu chuẩn và đánh giá rõ ràng
cứng nhắc... kết quả hoạt động.
(5) Lý luận “Sáng tạo lại Chính phủ” 3. Coi trọng hoạt động khống chế
của George Osborne và Ted Gaebler (dùng kết quả và chế độ dự toán kế hoạch
Trong hoạt động “cải cách Chính phủ” thay thế cho chế độ dự toán hạng mục hữu
quản lý công mới được xem là một bộ phận tính truyền thống).
của cải cách Chính phủ, đồng thời chỉ ra 4. Hành chính nội bộ có xu hướng
mô hình “quản lý công mới” bao gồm 10 phân hóa hỗn hợp.
nội dung cơ bản mang tính nguyên tắc 5. Áp dụng cơ chế cạnh tranh.
sau đây: 6. Áp dụng phương pháp quản lý của
1. Chức năng điều phối của Chính phủ: doanh nghiệp.
“là người cầm lái mà không phải là kẻ chèo 7. Sử dụng tài nguyên hợp lý và tiết
thuyền” kiệm.
2. Quan hệ giữa Chính phủ với công (7) Quan điểm của Tổ chức Hợp tác
dân: Nhân dân làm chủ, Chính phủ nhận sự và Phát triển Kinh tế (0ECD)

139
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI VÀ TÍNH KHẢ THI KHI ÁP DỤNG Ở VI T NAM

1. Đề cao trình độ quản lý nguồn nhân Quản lý công mới đã cải cách hoàn toàn
lực của nhân viên vào quá trình quyết sách, mối quan hệ truyền thống giữa Chính phủ
nâng cao hiệu quả của cơ chế tiền lương. với người dân. Chính phủ không “mệnh
2. Tăng cường hoạt động kiểm soát lệnh hành chính” như trong cơ cấu của mô
theo mục tiêu. hình quan liêu mà Chính phủ đóng vai trò
3. Ứng dụng kỹ thuật thông tin. người cung ứng sự phục vụ cho người dân,
4. Phục vụ khách hàng. hành chính công của Chính phủ không phải
5. Kết hợp giữa nhu cầu và cung ứng. là “hành chính cai trị’ mà là “hành chính
6. Mở rộng hình thức hợp đồng, thuê phục vụ”. Công dân là “khách hành” thụ
ngoài. hưởng sự phục vụ công của Chính phủ,
7. Quy định cơ chế kiểm soát, triệt tiêu Chính phủ lấy nhu cầu của người dân làm
tính lũng đoạn. hướng chỉ đạo, tôn trọng quyền làm chủ
Như vậy, quản lý công mới lấy tinh của nhân dân kiên trì lấy đó là phương
thần của doanh nghiệp để tiến hành cải hướng phục vụ. Quản lý công mới coi
cách Chính phủ. Đồng thời đưa rất nhiều trọng hiệu quả trong các hoạt động của
những phương pháp quản lý kinh doanh Chính phủ, biểu hiện trung tâm của điều
thành công của doanh nghiệp vào hoạt này được thể hiện trong phương hướng
động của Chính phủ, làm cho các tổ chức mục tiêu hoạt động, từ thẩm quyền hành
công thuộc Chính phủ hoạt động đạt được chính đến hành vi hành chính phải xuất
hiệu quả cao như các doanh nghiệp tư phát từ sự hài lòng của người dân. Chính
nhân. Trong đó điểm quan trọng nhất là lấy phủ lấy việc cung cấp các sản phẩm công
khách hàng (người dân) làm trung tâm, tức có chất lượng toàn diện, cung ứng sự phục
nhấn mạnh trách nhiệm của người cung vụ công bằng và liêm chính là yêu cầu
ứng dịch vụ công (Chính phủ) đối với nghĩa vụ đầu tiên của mình. Trong quản lý
khách hàng (người dân), trong quá trình công mới “Chính phủ có trách nhiệm là
cung ứng dịch vụ công phải không ngừng doanh nghiệp” còn “người dân có quyền
đổi mới, tìm kiếm các phương pháp để được tôn trọng như khách hàng”. Đây
giảm thiểu chi phí và nâng cao chất lượng, chính là nguyên tắc của thị trường được
lắng nghe khách hàng, từ quyền lợi của quản lý công mới tiếp thu. Coi Chính phủ
người dân mà cung ứng dịch vụ, tôn trọng là “nhà doanh nghiệp” song mục tiêu hoạt
quyền chọn lựa của người dân trong việc động lại “phi lợi nhuận”, tái phân bổ lại các
tiếp cận các dịch vụ công công. nguồn lực kinh tế từ lĩnh vực hoạt động
2.3. Nội dung cơ bản của quản lý hiệu quả thấp sang lĩnh vực hoạt động đạt
công mới hiệu quả cao. “Khách hàng điều khiển
Từ những tư tưởng về quản lý công Chính phủ”, Chính phủ có nhiệm vụ cung
mới nêu trên có thể khái quát thành những ứng đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ
nội dung cơ bản của quản lý công mới công với chất lượng không ngừng được cải
như sau: tiến. Như vậy trong hoạt động phục vụ
2.3.1. Lấy khách hàng (nhân dân) làm công với sự tham gia của khách hàng
hướng dẫn chỉ đạo hành động của Chính phủ (người dân) là chủ thể đã thay đổi hoàn
Theo đuổi quan niệm hoàn toàn mới toàn vị thế của người dân trong mối quan
coi “khách hàng (nhân dân) là thượng đế”. hệ với nền hành chính.

140
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA

2.3.2. Xác định lại vai trò của Chính phủ qua sự kiểm nghiệm của thị trường giúp
Theo David Osborne và Ted Gaebler, Chính phủ hình thành các chính sách có
Chính phủ đóng vai từ người “chèo thuyền” tính hợp lý.
thành người “cầm lái”. Hai tác giả này cho 2.3.4. Coi trọng yêu cầu hiệu quả (kết
rằng một trong những nguyên nhân quan quả - chi phí)
trọng của việc Chính phủ truyền thống hoạt Yêu cầu hiệu quản là điểm xuất phát
động hiệu quả thấp là quá bận với thao tác đồng thời cũng là mục tiêu hướng tới của
chèo thuyền, làm quá nhiều thì làm sẽ làm quản lý công mới. Để đạt được hiệu quả
không tốt, tựa như bỏ phần gốc tìm phần “quản lý công mới” áp dụng 4 biện pháp
ngọn. Chính phủ tập trung thực hiện chức chủ yếu sau đây:
năng định ra chính sách mà không là cấp thi (1) Thực hiện rõ ràng việc khống chế
hành chính sách. Chính phủ nên phân khai mục tiêu hiệu quả. Đối với hành chính
giữa hoạt động quản lý kinh tế với các hoạt công truyền thống lấy việc tôn trọng tuyệt
động sản xuất kinh doanh. Chính phủ thông đối pháp luật và các mệnh lệnh hành chính
qua cơ chế thị trường, không ngừng tiến là mục tiêu hàng đầu, coi nhẹ việc xác định
hành các hoạt động thích hợp và có lợi làm hiệu quả và phương pháp đánh giá hiệu quả
đòn bẩy hướng khu vực tư nhân thành không thống nhất. Quản lý công mới chủ
người “chèo thuyền” còn Chính phủ tập trương giảm nhẹ sự nghiêm ngặt của các
trung thực hiện nhiệm vụ “người cầm lái”, quy chế hành chính, thực hiện nghiêm
định ra chính sách. minh việc khống chế mục tiêu hiệu quả, đã
2.3.3. Đưa cơ chế cạnh tranh vào khu xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân
vực công và mục tiêu chung của tổ chức, đồng thời
Trong hành chính công truyền thống căn cứ vào mục tiêu hiệu quả để tiến hành
cung ứng dịch vụ và hàng hóa công cộng đánh giá, đo lường mức độ hoàn thành mục
là việc của chính quyền, chủ trương mở tiêu trong thực tế.
rộng sự can thiệp hành chính của Chính (2) Coi trọng kết quả. Hành chính công
phủ vào các hoạt động xã hội. Quản lý truyền thống chú trọng yếu tố đầu vào của
công mới lại chủ trương mở rộng cơ chế quá trình quản lý mà không coi trọng kết
cạnh tranh của thị trường vào các hoạt quả đầu ra. Chỉ coi trọng tới quá trình phân
động quản lý của Chính phủ. Thông qua cơ bổ dự toán ngân sách cho các tổ chức theo
chế thị trường làm cho càng nhiều doanh các hạng mục công việc được giao, đối với
nghiệp tư nhân tham gia cung ứng hàng kết quả việc tiêu phí và lợi ích thu được thì
hóa và dịch vụ công. Đề cao hiệu quả, chất không được quan tâm thích đáng. Quản lý
lượng, tiết kiệm giảm giá thành trong phục công mới dựa vào lý thuyết giá trị và
vụ công. Lấy cạnh tranh để sinh tồn, lấy nguyên tắc trao đổi ngang giá của kinh tế
cạnh tranh để yêu cầu chất lượng, lấy cạnh thị trường, coi trọng hiệu quả và chất lượng
tranh để tạo hiệu quả. Tính cạnh tranh sẽ trong quá trình cung ứng hàng hóa và dịch
buộc Chính phủ phải phản ứng nhanh vụ công, Chủ trương đối với sự biến đổi
chóng đối với nhu cầu biến đổi của khách của bên ngoài và các nhu cầu lợi ích không
hàng. Hợp đồng thuê ngoài là cơ chế hoàn thống nhất phải phản ứng chủ động, linh
toàn mới giúp cho Chính phủ thực nghiệm hoạt, giảm giá thành tăng hiệu quả các hoạt
các chính sách cung ứng công mới, thông động phục vụ công.

141
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI VÀ TÍNH KHẢ THI KHI ÁP DỤNG Ở VI T NAM

(3) Áp dụng các biện pháp quản lý của họ. Quản lý công mới cho rằng lẩn
thành công của khu vực tư nhân vào quá tránh kết cấu hành chính với chức năng
trình cung ứng hàng hóa và dịch vụ công chính trị của công chức không thể làm cho
như: coi trọng quản lý nguồn nhân lực, nhấn công chức đi tới tận cùng trách nhiệm và
mạnh giá trị của tổ chức, phân tích hiệu bổn phận chấp hành thực thi chính sách.
suất, quản lý chất lượng toàn diện, nhấn Nhìn nhận vai trò chính trị của công chức
mạnh giảm giá thành tăng chất lượng... sẽ làm cho họ có tinh thần chủ động trong
(4) Trong sử dụng các nguồn lực công thiết kế chính sách công, làm cho chính
(chủ yếu là ngân sách, tài nguyên quốc gia sách càng phát huy được hiệu quả chức
và nhân lực) phải tăng cường tính hiệu quả năng xã hội của nó.
và tiết kiệm. Theo Christopher Hoor từ (3) Chuyên nghiệp hóa trong lĩnh vực
phương pháp của doanh nghiệp giảm giá chính sách công. Theo christopher hoor
thành, tăng kỷ luật, đối kháng với nhu cầu nhà quản lý cao cấp kiểm soát cơ quan một
của công đoàn, giảm bớt quyền lợi của cách tích cực, rõ ràng, tự quyết trong phạm
nhân viên, đối với khu vực công yêu cầu vi thẩm quyền. Do vậy cần phân biệt rõ
tiến hành kiểm tra lại toàn bộ việc sử dụng ràng tiền đề của việc ủy quyền với hành vi
nguồn lực công, giảm giá thành trong xử lý thực hiện trách nhiệm, đề cao trách nhiệm
công vụ. Mục tiêu của quá trình này là cá nhân.
giảm giá thành của các sản phẩm và dịch (4) Rõ ràng trong mục tiêu và đo lường
vụ công song với một tiêu chuẩn chất hiệu quả hoạt động. Điều này yêu cầu thiết
lượng cao hơn. lập mục tiêu đồng thời phải thiết định các
2.3.5. Cải cách chế độ công chức, tiêu chuẩn để đánh giá kết quả thực hiện.
công vụ Mục tiêu phải được miêu tả rõ ràng, đề cao
Cải cách chế độ công chức, công vụ hiệu quả và các biện pháp bảo đảm không
được tiến hành theo một số nguyên tắc và chệch mục tiêu. Những người ủng hộ quan
biện pháp sau: điểm này trong khi nghiên cứu đã chỉ ra:
(1) Thông qua áp dụng chế độ làm việc khi giao phó nhiệm vụ (trách nhiệm) và khi
tạm thời và chế độ hợp đồng công việc thay muốn nâng cao hiệu quả công việc thì cần
thế cho quan chế truyền thống: “quan lại xác định rõ mục tiêu đặt ra.
không sai phạm thì không thể miễn chức”. (5) Cơ chế kiểm soát. Căn cứ vào hiệu
(2) Từ bỏ nguyên tắc “giá trị trung quả công việc mà phân bổ các nguồn lực.
lập” (value-neutrality) của công chức. Vì vậy, kiểm soát coi trọng vào kết quả
Quản lý công mới cho rằng tuyệt nhiên thực hiện mục tiêu mà không phải là quá
không thể tác rời giữa hành chính chính trị trình thực hiện.
với hành chính quản lý. Nhấn mạnh giữa (6) Trong nội bộ khu vực công, từ cơ
công chức và quan chức chính trị có tác chế tập trung thành xu hướng phân hóa,
động qua lại và thẩm thấu lẫn nhau. Chủ liên kết và hợp tác. Nó bao gồm việc chia
trương một bộ phận công chức cấp cao nên nhỏ những cơ quan lớn thành các đơn vị
đảm nhiệm vai trò chính trị, để cho họ nhỏ hơn, các đơn vị này có ngân sách độc
được tham gia quá trình hoạch định chính lập song có mối liên hệ qua lại trên cơ sở
sách, đồng thời đảm đương các chức vụ hợp tác với nhau để cùng cung ứng các sản
tương xứng, duy trì tính mẫn cảm chính trị phẩm và dịch vụ công. Xu hướng này làm

142
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA

cho hoạt động của khu vực công sẽ trở nên Nhật Bản... đã tạo ra sự thay đổi căn bản về
linh hoạt, hiệu quả, hình thành thị trường hiệu quả, chất lượng phục vụ của nền hành
cung ứng dịch vụ công. chính trong cung ứng các hoàng hóa, dịch
2.3.6. Chính quyền phải chịu trách vụ công tại các quốc gia đó. Tuy nhiên thế
nhiệm đối với các quyết định của mình giới đã ghi nhận không ít trường hợp các
Học thuyết quản lý công mới cho rằng quốc gia đã thất bại khi áp dụng “mô hình
chính quyền cần dựa vào việc thu phí để dự quản lý công mới” như Mongolia, Pakistan,
trù ngân sách, thông qua việc tạo ra các Ghana, Kenya, Malawi, Tanziania… Điều
nguồn thu mới để bảo đảm nguồn ngân này đã cho thấy việc áp dụng một mô hình
sách chi cho tương lai, không chỉ có thế, quản lý từ nước này sang nước khác không
chính quyền cần thay đổi quan niệm về giá phải là việc dễ dàng đơn giản. Đó không
trị, trên cơ sở chuyển đổi động cơ lợi chỉ là việc sao chép mô hình mà còn cần
nhuận sang yêu cầu phục vụ, học cách chi phải xem xét thật thấu đáo các yếu tố đặc
tiêu để tiết kiệm, đầu tư sao cho có hiệu thù của mỗi quốc gia. Vậy “mô hình quản
quả. Đồng thời, học thuyết quản lý mới còn lý công mới” có khả thi khi áp dụng ở Việt
cho rằng, hành chính công truyền thống chỉ Nam? Để trả lời câu hỏi này cần phải xem
chú trọng cung cấp dịch vụ chứ không để ý xét hai vấn đề sau: (i) Những điều kiện để
đến công tác dự phòng, khi có hậu quả xảy áp dụng “mô hình quản lý công mới” và
ra thì phải tiêu tốn rất nhiều tiền của, công (ii) “mô hình quản lý công mới” có khắc
sức để giải quyết. Theo quản lý công mới: phục được những hạn chế, yếu kém của
Chính phủ phải chú trọng công tác dự nền hành chính nước hay không?
phòng, tức là giải quyết vấn đề chứ không (i) Những điều kiện để áp dụng “mô
phải chỉ là cung cấp dịch vụ. Vì vậy, chính hình quản lý công mới”
quyền cần đầu tư nhiều hơn nữa vào công Phân tích từ bối cảnh ra đời, các lý
tác dự phòng. Chính quyền phải làm được luận tư tưởng tiêu biểu và nội dung quản lý
2 việc chính sau: công mới chúng ta thấy có một số đặc điểm
1. Dùng nguồn kinh phí ít để dự về điều kiện khi áp dụng:
phòng, chứ không phải là tiêu nhiều tiền để Thứ nhất, mô hình quản lý công mới
chữa trị (phòng bệnh hơn chữa bệnh). được áp dụng ở các quốc gia tư bản pháp
2. Khi đưa ra quyết định quan trọng triển, trên một nền quản trị hiện đại, thể
cần tính đến hệ quả lâu dài và phải chịu chế, tổ chức bộ máy khoa học hoàn thiện,
trách nhiệm trước dân về các quyết định đó. năng lực của bộ máy hành chính và cơ sở
2.4. Bàn về tính khả thi khi áp dụng vật chất để cung cấp hàng hóa và dịch vụ
mô hình quản lý công mới ở Việt Nam công đã rất phát triển. Đây là tiền đề để
Trong cải cách hành chính việc áp thực hiện được nội dung lấy khách hàng
dụng các kinh nghiệm và bài học thực tế từ (nhân dân) làm hướng dẫn chỉ đạo hành
nước này sang nước khác là một việc làm động của Chính phủ, xây dựng nền hành
được nhiều quốc gia áp dụng. Quản lý chính phục vụ.
công mới ra đời vào những năm 80 của thế Thứ hai, quản lý công mới áp dụng cơ
kỷ trước tại Anh quốc và Hoa kỳ đã nhanh chế thị trường cạnh tranh trong cung ứng
chóng được nhiều quốc gia áp dụng thành hàng hóa và dịch vụ công. Cơ sở để các chủ
công như New Zealand, Canada, Australia, thể cung ứng cạnh tranh với nhau là “giá cả

143
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI VÀ TÍNH KHẢ THI KHI ÁP DỤNG Ở VI T NAM

thấp” và “chất lượng cao”, người dân khi nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ
thụ hưởng dịch vụ, hàng hóa phải “trả phí” máy nhà nước” đã chỉ rõ: “nền hành chính
theo nguyên tắc “trao đổi ngang giá”. nhà nước còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hệ
Thứ ba, quản lý công mới tăng quyền thống thể chế, pháp luật, nhất là thể chế
lực giám sát của người dân đối với các hoạt kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
động của chính quyền. Như vậy, phải có nghĩa vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc.
một hệ thống pháp luật giám sát quyền lực Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan
công có hiệu lực buộc chính quyền phải trong hệ thống hành chính nhà nước chưa
công khai, minh bạch quá trình hoạt động đủ rõ, còn trùng lặp và chưa bao quát hết
và thực hiện chế độ “giải trình và chịu các lĩnh vực quản lý nhà nước; cơ cấu tổ
trách nhiệm cá nhân khi ra các quyết định” chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp.
như: Luật trưng cầu ý dân, luật biểu tình, Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa
luật bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Chính đáp ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan liêu,
phủ, luật về quyền tiếp cận thông tin… lãng phí còn nghiêm trọng. Thể chế, luật
Đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể của pháp về quản lý tài chính công tuy có nhiều
Việt Nam trong hiện tại chúng ta thấy ba đổi mới, nhưng còn bất cập. Thủ tục hành
điều kiện trên chưa hoàn thiện, đang trong chính còn nhiều vướng mắc, gây phiền hà
quá trình hình thành. Vì Vậy, nếu cải cách cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ cương
hành chính của Việt Nam hướng tới “mô cán bộ, công chức chưa nghiêm; hiệu lực,
hình quản lý công mới” thì điều kiện tiên hiệu quả của quản lý nhà nước còn nhiều
quyết là phải cải cách thể chế và hoàn thiện yếu kém.”. Như vậy, những yếu kém trên
cơ sở vật chất của nền hành chính để tạo ra mang tính đặc thù của Việt Nam, “vượt
các tiền đề trên. quá khả năng giải quyết của mô hình
(ii) “Mô hình quản lý công mới” có quản lý công mới”.
khắc phục được những hạn chế, yếu kém Tuy nhiên, sáu nội dung của quản lý
của nền hành chính nước ta hay không? công mới nêu ra như đã phân tích ở trên
Xét về cấu trúc nền hành chính nhà “có nhiều điểm tương đồng phù hợp với
nước được xác định bao gồm bốn yếu tố: bản chất của nền hành chính và những
(1) Hệ thống thể chế hành chính (là hệ vấn đề mà nền hành chính Việt Nam
thống văn bản qui phạm pháp luật quy định đang phải giải quyết” như: xây dựng nền
về tổ chức, hoạt động của hành chính nhà hành chính phụ vụ để phù hợp với bản chất
nước và tài phán hành chính); (2) Bộ máy nhà nước của dân, do dân, và vì dân giống
quản lý hành chính nhà nước từ trung ương với nội dung “Lấy khách hàng (nhân dân)
tới địa phương; (3) Đội ngũ cán bộ, công làm hướng dẫn chỉ đạo hành động của
chức hành chính; (4) Nguồn lực tài chính Chính phủ” của quản lý công mới; xác định
và cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm yêu cầu lại vai trò Chính phủ, cải cách chế độ công
thực thi công vụ của các cơ quan và công chức, công vụ đây là nhữngnnội dung mà
chức hành chính. cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam
Đánh giá về những yếu kém của nền đang áp dụng; cổ phần hóa doanh nghiệp
hành chính Việt Nam Nghị quyết Hội nghị nhà nước, xã hội hóa dịch vụ công ích đây
lần thứ năm của Ban chấp hành trung ương chính là nội dung đưa cơ chế cạnh tranh
khóa X “về đẩy mạnh cải cách hành chính, vào khu vực công của mô hình quản lý

144
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA

công mới; tình trạng hiệu quả thấp trong Chú thích:
đầu tư, chi tiêu công chúng ta cần áp dụng 1
Trong giai đoạn cải cách này, Vương quốc Anh
nội dung coi trọng yêu cầu hiệu quả (kết là quốc gia đi tiên phong. Năm 1980, Chính phủ
quả - chi phí) của mô hình quản lý công của thủ tướng Margaret Hilda Thatcher tiến hành
mới và áp dụng nội dung chính quyền phải thu nhỏ quy mô của Chính phủ và tiến hành “đổi
mới quản lý tài chính” là trung tâm của cải cách.
chịu trách nhiệm đối với các quyết định
New Zealand vào năm 1988 đã lấy cải cách “dự
của mình của mô hình quản lý công mới. luật Chính phủ” là bản mẫu của cải cách hành
3. Kết luận chính. Hoa kỳ vào năm 1993 thành lập “Uỷ ban
Tóm lại, khi nghiên cứu mô hình quản đánh giá hiệu quả quốc gia” để chỉ đạo cải cách
lý công mới chúng ta thấy rằng đây là một Chính phủ... Đặc trưng của những cải cách này là
mô hình quản lý hiện đại, có rất nhiều ưu phát huy cơ chế thị trường vào lĩnh vực phục vụ
điểm, là một gợi ý tốt cho các quốc gia công, tích cực áp dụng phương pháp và kỹ thuật
quản lý của tư nhân, đề cao năng lực quản lý của
chuyển đổi mô hình quản lý như Việt Nam
Chính phủ và năng lực phục vụ công cộng.
tham khảo. Tuy nhiên, từ hai điểm phân
tích về điều kiện để áp dụng mô hình và Tài liệu tham khảo
khả năng giải quyết những hạn chế, yếu 1. Barzelay, K. 1992. Breaking though
kém của nền hành chính Việt Nam của mô Bureaucracy. Universisty of California Press,
hình quản lý công mới nếu được áp dụng, Berkeley.
chúng tôi cho rằng “mô hình quản lý công 2. Osborne, D. and T. Geabler (1992).
Reinventing Government. Reading, MA:
mới” không phải là “chìa khóa vạn năng”
Addison-Wesley.
giải quyết được hết những vấn đề bất cập
3. Hood, C. (1995), New public management: A
của nền hành chính Việt Nam. Cải cách new global paradigm, Public Policy and
hành chính ở Việt Nam có thể “vận dụng Administration.
những yếu tố hợp lý của mô hình quản 4. http://www3.carleton.ca/cgpm/Projects/archiv
lý công mới” song song với việc giải quyết ed/reform/Inversions%20without%20End.pdf.
những hạn chế mang tính đặc thù của hành 5. http://www.jstor.org/stable/30217562
chính Việt Nam, tạo ra “các tiền đề điều 6. Nghị quyết Số 17-NQ/TW ngày 1 tháng 8
kiện” trước khi áp dụng toàn bộ “mô hình năm 2007, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
quản lý công mới”. hành Trung ương khóa X.

Ngày nhận bài: 10/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017

145

You might also like