You are on page 1of 39

NGUYỄN XUÂN TÌNH

LLCT- GDCD

Câu 1 ; hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học và vai trò của mác,
angghen, với sự ra đời của CNXHKH? Tại sao nói mác, angghen đã biến chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học ?

Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học:

Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học) là
chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung với tính cách là sự luận toàn diện (triết học, kinh
tế chính trị và xã hội – chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và
thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện khoa học những lợi ích cơ
bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân. Điều ấy nói lên sự thống
nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ
nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện tập trung nhất
tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội – chính trị, là học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thưc hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội
khoa học:
- Điều kiên kinh tế xã hội:

Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được những
bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật
lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh
mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ
mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày
càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho những nhà
dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để
đề ra lý luận khoa học và cách mạng.

Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng
thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng
xã hội độc lập. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết
những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.

Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ
chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn.
Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công nhân thành
phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844;
phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848. Những phong trào đó có tính quần
chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra
yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.

Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra
đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời,
không còn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận
phong trào công nhân.

- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận)


Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa
học, văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen
và T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học
cổ điển Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách,…), kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít,
Đ. Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán (H. Xanhximông, S.
Phuriê, R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra
những tiền đề tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ
nghĩa xã hội khoa học nói riêng.

----. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
khoa học:

- Các Mác (1818 – 1883):

C. Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông là lãnh tụ và
người thầy của giai cấp vô sản thế giới.

- Phriđrích Ăngghen (1820 – 1895):

Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người thầy của giai cấp công nhân hiện
đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.

Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm chủ nghĩa duy
vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến vĩ
đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát
kiến ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học”. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời
không phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo
theo sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản” – một tổ chức công nhân
quốc tế, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” (2-1848) là tác phẩm bất hủ, là khúc ca tuyệt tác
của chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào
công nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được trình bày một cách rõ
ràng và sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”,
theo V.I. Lênin, xứng đáng được thừa nhận là Tuyên ngôn của chủ nghĩa xã hội thế
giới, là “cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là kim chỉ nam cho hành động của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng Sản mácxít – lêninnít lấy tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” làm cơ sở cho việc xây dựng đường lối chiến
lược và sách lược cách mạng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân: thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để tiến lên chủ nghĩa
cộng sản.
TẠI SAO ???
Vì Các Mác, Ph. Ăng-ghen đã có đóng góp lớn trong việc cung cấp những luận cứ
thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội
khoa học. Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác
và Ph. Ăng-ghen đã cung cấp cho giai cấp công nhân “vũ khí” lý luận, chỉ rõ vị thế
và vai trò của họ trong sự phát triển của lịch sử. Trong toàn bộ lý luận của mình,
đặc biệt là trong bộ “Tư bản”, các ông đã phân tích, chứng minh rất rõ rằng, hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn
cố hữu, nội tại, gắn liền với nó và theo quy luật khách quan, tất yếu nó sẽ bị thay
thế bởi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong lý luận về chủ nghĩa xã
hội khoa học, các ông cũng chỉ ra con đường dẫn dắt giai cấp công nhân đấu tranh
giải phóng thoát khỏi sự nô dịch và bóc lột tư bản chủ nghĩa và tiến tới xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, mà sau này, không phải
ngẫu nhiên, V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh rằng: Điều quan trọng nhất trong học
thuyết Mác là việc làm sáng tỏ vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản với
tư cách là người xây dựng, kiến tạo xã hội mới.Và đã trải qua 3 giai đoạn để đi lên
chủ nghĩa khoa học :
- Giai đoạn thứ nhất: những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ
nghĩa thời cổ đại.

Chế độ chiếm hữu nô lệ là bước phát triển tất yếu của lịch sử. Giai câp quý tộc chủ
nô và giai cấp nô lệ là hai giai cấp cơ bản mang tính chất đối kháng quyết liệt.

Mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp làm nảy sinh những mầm mống tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại thể hiện trong dòng
“văn học chưa thành văn”. Thông qua các câu chuyện dân gian như: chuyện thần
thoại, chuyện cổ tích, chủ nghĩa xã hội không tưởng một mặt phản ánh sự bất bình
của đông đảo quần chúng nhân dân đối với các hành vi áp bức, bóc lột của giai cấp
thống trị; mặt khác, nêu lên ước mơ, khát vọng của công chúng bị bóc lột, bị áp bức
về một xã hội bình đẳng, công bằng, bác ái, nhưng rất mơ hồ, vụn vặt, thậm chí
muốn trở về với thời đại “hoàng kim nguyên thủy”.

- Giai đoạn thứ hai: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII

Chủ nghĩa tư bản ra đời và sau đó phát triển ở một số nước, trước hết là ở châu Âu.
Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ và kèm theo đó là những xung đột giai cấp
cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp tư sản từng bước thiết lập địa vị thống trị của mình
và đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động. Trong
bối cảnh lịch sử đó, đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Thông qua
các tác phẩm “ văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân đạo thời cận đại đã lên
án, phê phán chế độ xã hội dựa trên chế độ tư hữu, đòi hỏi phải thay thế chế độ xã
hội đó bằng một xã hội mới thực sự công bằng, bác ái.

- Giai đoạn thứ ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX

Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản
hoàn thành ở nước Anh và sau đó tiếp diễn ở một số nước Tây Âu. Đây là giai đoạn
chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu bộc lộ
bản chất cố hữu của nó: phản động và bóc lột áp bức nhân dân lao động vì quyền
lợi của giai cấp mình; đây cũng là giai đoạn giai cấp vô sản hiện đại hình thành và
bắt đầu thức tỉnh về chính trị.

Trong thời kỳ này, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa được thể hiện như là một học
thuyết. Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đã tố cáo, phê phán sâu sắc xã
hội tư bản chủ nghĩa, phủ định nó, đồng thời đề xuất con đường, biện pháp và
những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai

Câu 2 ;sứ mệnh của giai cấp công nhân ? những điều kiện quy định sứ mệnh
của giai cấp của công nhân ? liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
việt nam?
Sứ mệnh công nhân là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc
hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh
- SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP VIỆT NAM ;
. Khái niệm giai cấp công nhân (giai cấp vô sản):

Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn
phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất
định.

Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người
vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai
cấp vô sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân
hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, nó là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền
đại công nghiệp đó.

Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai
cấp cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản
tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để
sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể
và có quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động.
Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần.
Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động,
phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư,
nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.

Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai
cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu
sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”.

Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm những công việc
khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ
có hai tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội
khác.

- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người
lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực
tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp
ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn
với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai
cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công
nhân.

- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta
phải xem xét trong hai trường hợp sau:

+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản
hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư
mà giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu
chí này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai
cấp vô sản.

+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp
cầm quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở
thành giai cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể
nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa.
Như vậy họ không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng
dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội
chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp
công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp
hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa
ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá
trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội;
đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời
đại ngày nay.

. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:

Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ
đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã
chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của
chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp
tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh
lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân
loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới –
xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ
có thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai
cấp tư sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết
lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân
vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải
phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng
dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.

Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân:

Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã hội
khách quan của nó quy định:

- Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp
công nhân ra đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận
quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội
hóa cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội
xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong
thời đại ngày nay.

- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản
xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vô
sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận của
nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường
làm thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư
sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời
sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những
điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể giải
phóng mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ tư bản chủ
nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được
cả thế giới về mình.

- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện
được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết
với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đoàn
kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế
chống chủ nghĩa đế quốc.

Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện
đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng.
Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại
công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”.

- Liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân việt nam?
GCCN Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân:
- Là giai cấp tiên tiến, là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai
cấp có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật và có tinh thần quốc tế vô
sản nhưng do hoàn cảnh lịch sử giai cấp công nhân Viêt Nam còn có những
đặc điểm riêng như sau:
+Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, bị ba tầng áp bức nặng nề ngay từ mới
ra đời đã chịu ảnh hưởng của cách mạng Tháng 10 Nga, tiếp thu CN Mac-
Lênin, không bị ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng tiểu tư sản, GCCN Viêt
Nam từ khi có đảng lãnh đạo, đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị với
tư cách là một lực lượng chính trị độc lập với mục tiêu:
+ Giải phóng dân tộc xây dựng thành công CHXH và CNCS ở Viêt Nam.
GCCN khi sinh ra đã kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc
ngoại xâm của dân tộc, tinh thần đó lại được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh
đạo của Đảng Sinh ra và trưởng thành ở một nước phong kiến nửa thuôc địa,
nông nghiệp lạc hậu nện hạn chế lớn nhất của giai cấp công nhân Viêt Nam
là còn chịu ảnh hưởng tư tưởng nho giáo phong kiến, tác phong của nền sản
xuất nhỏ tiểu nông, câu nệ với sách vở, xa rời quần chúng, thoát ly sản xuất,
chúng ta đừng có ảo tưởng những tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ ấy có thể một
ngày, hai ngày bị quét sạch ra khỏi đời sống xã hội.

+ GCCN Việt Nam hiện nay gồm người lao động chân tay, lao động trí óc,
hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các Doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, họ đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến có tri thức. Họ là lực lương đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công
nhân, nông dân trí thức.

+ Nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: như số lượng còn ít, chưa
được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay
nghề còn thấp. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch
sử chủ nghĩa GCCN Viêt Nam.

+Xét về bản chất thì chưa thể có và không thể có tổ chức chính trị nào, giai
cấp nào có thể thay thế được giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng
một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động được làm chủ, đất nước độc lập
và phồn vinh xóa bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu
cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
+Sứ mệnh của GCCN Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước
theo định hướng XHCN; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người lao
động, xây dựng một “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh”...

+ Hiện nay, để sớm đưa đất nước khỏi tình trang kém phát triển, nội dung
trọng tâm là đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức
và giữ vững định hướng XHCN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng
định đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa hiện nay là “Rút ngắn quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.

+Theo đó phát triển GCCN nước ta cả về số lượng và chất lượng, và tổ chức;


nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp,
xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Phát triển GCCN
cũng chính là phát triển, hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử hiện đại - cơ
sở xã hội quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

+ Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng chỉ có thể thực hiện thắng lợi
khi quyền lãnh đạo cách mạng của GCCN, thông qua vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà
nước XHCN và chế độ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân lao
động nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển.

Câu 3:phân tích thực chất và đặc điểm thời kì quá độ. Liên hệ với Việt
Nam?
C.Mác. Ph.Ănghen, V.I.Lênin đều khẳng định tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử nhiệm vụ đặc thù
của nó trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa.

Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa

Mác - Lênin, có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ
nhất là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ nghĩa
phát triển ở trình độ cao. Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa
xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, hoặc như
V.l.Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ
phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được
trong điều kiện cụ thể nào đó nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai
cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một hay
nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.

Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình
hình thực tế Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng
Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hòan thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí
Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về
một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội dung cụ thể này. Hồ Chí Minh đã cụ thể và
làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.

Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước
ta có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ
nghĩa xã hội không

-Phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối
các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và
làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý
đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội
quá thấp kém của nước ta.
-LIÊN HỆ
Hồ Chí Minh chỉ ra những biện pháp hết sức quan trọng để xây dựng CNXH,
đó là:
+Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy
xây dựng làm chính, LẤY VD

+ kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành
hai chiến lược cách mạng; xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp và
quyết tâm. Đặc biệt, Người xác định biện pháp cơ bản, lâu dài quyết định
nhất trong xây dựng CNXH ở nước ta là phát huy sức mạnh toàn dân, đem
của dân, tài dân, sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm lợi cho dân.
LẤY VD

Câu 4 : Phân tích tính tất yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.? Nhận thức của đảng ta về quá độ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ?
-- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam:

- Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam:

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở Miền Bắc và
năm 1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián tiếp hoặc như V. I.
Lênin nói là kiểu “đặc biệt của đặc biệt”. Đó là sự lựa chọn tất yếu dựa trên
những căn cứ sau:

+ Căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở những nước
nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

+ Căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó cũng là thời
đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt
Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…

+ Căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá trình phát
triển của cách mạng Việt Nam, con đương quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản trước hết là sự lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ
“Cương lĩnh chính trị năm 1930” đến “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được trình bày ở Đại hội VII năm 1991,
Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân lao
động nước ta khi theo Đảng làm cách mạng là muốn có cuộc đời ấm no, hạnh
phúc. Để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân không có con đường nào
khác là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển về
kinh tế, chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đỗ ở Liên Xô và Đông Âu, nhưng
Đảng ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường duy nhất
đúng đắn. Chủ nghĩa xã hội vẫn là khuynh hướng phát triển khách quan của
thời đại. Nó không chỉ là lý tưởng mà là hiện thực sinh động trong quá trình
phát triển của cách mạng Việt Nam.

- Những phương hướng – nhiệm vụ cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

+ Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công
nhân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực
hiện ngày càng đầy đủ các quyền dân chủ, làm chủ, quyền lực của nhân dân;
giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi tội phạm và kẻ thù của
nhân dân.

+ Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ
trung tâm, nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời
sống nhân dân.

+ Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập tưng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình
thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy hình
thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.

+ Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hóa, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị tri chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa
văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người.

+ Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở
rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực
hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước,
trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các
nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

+ Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây
dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các
thành quả cách mạng.
+ Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

--- Nhận thức của đảng ta về quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ?

-Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính
nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có
thể thực hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người,
hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là
thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang có sự Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân
với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội...” điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục được những
mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy
luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Vì thế,
Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là
thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố
chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên
minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng
lớp nhân dân, tiến hành CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con
đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được
đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và
trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
toàn xã hội...

-Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai
lầm nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng với bản
lĩnh khoa học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm khuyết điểm do
nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm
những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Qua kiểm điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng
thời, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ
hơn con đường quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư
duy về kinh tế, Đảng đã xác định rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm, xây dựng Đảng là then chốt và đã thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN,
như Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề,
nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong
những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng
tạo: con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(6). Như vậy, cả từ phương diện lý
luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ
XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải
phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế
của thời đại, với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng
đúng khát vọng của nhân dân ta.

Câu 5:quan điểm và đặc điểm của NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
VN ?phương hướng xây dựng và hoàn thiện NN pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ?
-QUAN ĐIỂM …
- Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật đồng
bộ, hoàn chỉnh, có chất lượng cao; thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân, phù hợp với tiến bộ xã hội. Các cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức và mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp, pháp luật.

Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền của mình thông qua
hình thức đại diện (qua cơ quan nhà nước do mình bầu ra) và hình thức trực
tiếp.

Thứ ba, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực hiện quản lý xã hội
bằng pháp luật, tăng cường tính pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh
mọi vi phạm pháp luật; bảo đảm thực hiện và bảo vệ quyền tự do cũng như
những lợi ích chính đáng, hợp pháp khác của công dân, chịu trách nhiệm
trước công dân về mọi hoạt động của mình.

Thứ tư, Nhà nước pháp quyền Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp - hành pháp -
tư pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp
pháp của công dân từ phía nhà nước(3).

Nhà nước pháp quyền là một phạm trù lịch sử. Nó có những giá trị mang tính
phổ quát, nhưng cũng có những nét đặc thù được quy định bởi đặc điểm,
điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc. Vì thế, việc xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn
hoá và xã hội cụ thể của mỗi nước. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta luôn coi nhà nước là một nội dung trọng tâm, là cột trụ của hệ
thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân. Đồng thời, chủ
trương xây dựng Nhà nước Việt Nam theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; lấy liên minh công nông và tầng
lớp trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

- ĐẶC ĐIỂM ;
- Một là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
- Hai là, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải
tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối
cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng.
-
- Ba là, khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự
bình đẳng của mọi cá nhân và thể nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền,
không có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào
công tác quản lý nhà nước và xã hội.

- Bốn là, sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam được Hiến định
trong các Hiến pháp trước đây và tiếp tục được khẳng định tại Điều 4 Hiến
pháp năm 2013.

- Năm là, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa
vụ của tất cả mọi người, mọi công dân và của mỗi người, mỗi công dân được
pháp luật và các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là Nhà nước thừa nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.

-PHƯƠNG HƯỚNG:
-Trước những vấn đề được đặt ra trên đây, có thể khẳng định rằng, việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang trở thành một
đòi hỏi khách quan, một nhu cầu tất yếu trong quá trình thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân,
chúng ta cần chú ý giải quyết các vấn đề sau:

- Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về phương thức và vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa có hệ thống pháp luật đồng bộ và chất lượng cao.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức
pháp luật của quần chúng nhân dân.
- Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.

- Kiên quyết và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy nhà nước, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước.

- Xây dựng thể chế và hoàn thiện bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.

Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay chỉ có thể thực hiện thành công trên cơ sở nhận thức đúng và vận dụng
sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước chuyên chính vô
sản, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đồng thời,
chúng ta cần phải quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân và vì dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.

( THAM KHẢO)

Thứ nhất, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực: xây
dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính công khai,
minh bạch cao, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng. Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và
thông qua các dự án luật, bảo đảm quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng,
tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp tiên tiến của
nước ngoài; tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, ý kiến
đóng góp của nhân dân, nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành
pháp luật. Các bộ luật, luật ban hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy
định cụ thể để khắc phục tình trạng phải chờ đợi văn bản hướng dẫn thi hành.
Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật để nhân
dân hiểu và tự giác chấp hành. Tổ chức thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật, đấu tranh chống các biểu hiện coi thường pháp luật, kỷ cương,
phép nước. Bên cạnh đó cần đề cao tinh thần “thượng tôn pháp luật,” coi
trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, kết hợp sức
mạnh của pháp luật với sức mạnh đạo đức, văn hóa và dư luận xã hội. Nâng
cao vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên
trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân, thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào công việc quản
lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các
hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước cũng như trong đời sống xã
hội.

Thứ hai, chủ động xây dựng và kiến tạo các điều kiện thuận lợi để các giá trị
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể hình thành và phát triển
mạnh mẽ. Trước mắt cần tập trung tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ sự
nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt lên mọi khó khăn, thách
thức, đưa đất nước đến gần hơn các giá trị của nhân loại. Cần có các hình
thức đẩy mạnh xã hội học tập, nâng cao trình độ dân trí, tạo lập môi trường
để rèn luyện ý thức và bản lĩnh chính trị của công dân. Quyết tâm thực hiện
các cơ chế mở rộng dân chủ, đặc biệt là yêu cầu công khai, minh bạch và
quyền được thông tin để người dân thực sự được sống, được tham gia vào
đời sống chính trị, được biết và cho ý kiến về những quyết sách có liên quan.
Có các cơ chế thúc đẩy kinh tế, văn hóa phát triển, vì đời sống vật chất, tinh
thần của người dân có thực sự được cải thiện theo hướng đầy đủ và văn minh
thì ý thức, niềm tin, thái độ và hành động của họ mới tốt lên được.

Thứ ba, luôn đứng vững trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ biến về
xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới. Việc học hỏi kinh nghiệm, tìm
tòi, nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo những tinh
hoa, giá trị tiến bộ về nhà nước pháp quyền là một nhu cầu cần thiết khách
quan. Tuy nhiên, học hỏi và vận dụng như thế nào cho có hiệu quả, thiết thực
và phù hợp với Việt Nam là vấn đề không dễ dàng. Trong quá trình này, vấn
đề có tính quan điểm, phương hướng là cần không ngừng khẳng định, phát
triển và làm sâu sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Những quan điểm, nội dung và phương thức cầm quyền cần được Đảng ta
nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo vào lãnh đạo xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng Nhà nước phải giữ vững nguyên
tắc Đảng lãnh đạo bằng quan điểm, đường lối chính trị và cầm quyền lãnh
đạo bằng pháp luật. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện đặc thù
của bản chất, nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt
Nam và đó cũng là đặc điểm của mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề có
tính bản chất, tính nguyên tắc, cả về nội dung, phương thức, cách thức của
nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và xây dựng nhà
nước pháp quyền vẫn phải bảo đảm tính chung, tính phổ quát. Do đó, cần
gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân
dân, thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản
của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân là thống nhất.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là công việc
hoàn toàn mới mẻ, cần đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của
Đảng, tuyệt đối không thể rập khuôn theo các giá trị và mô hình xây dựng
của các nước phương Tây với các mô hình và thể chế chính trị khác. Công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảo
đảm nguyên lý của mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp
quyền. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn đảm bảo được tính chính
đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút của
Đảng đối với nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của nhân dân. Đồng thời, để tiến nhanh
cùng với xu thế phát triển của xã hội hiện đại, sự cầm quyền của Đảng trong
quan hệ với xây dựng nhà nước pháp quyền cần không ngừng được đổi mới:
quyền lực chính trị của Đảng gắn liền với quyền lực nhà nước và quyền lực
của nhân dân.
CÂU 6; Khái niệm, vị trí cơ cấu XH- giai cấp.?Trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội cơ cấu xã hội –giai cấp biến đổi theo xu hướng nào ?
liên hệ vớ việt nam

-- Khái niệm cơ cấu XH- giai cấp

- Cơ cấu xã hội là tất cả những cộng động người và toàn bộ các quan hệ xã
hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Bao gồm cơ cấu
xã hội- giai cấp, cơ cấu xã hội- dân số, cơ cấu xã hội- dân cư, cơ cấu xã hội-
nghề nghiệp, cơ cấu XH- dân tộc, cơ cấu XH- tôn giáo… dưới góc độ môn
học, chỉ tập trung đề cập cơ cấu XH- giai cấp

- Cơ cấu XH- giai cấp là một cơ cấu bao gồm các giai cấp, các tầng lớp XH
và những mối quan hệ của chúng được hình thành dựa trên một số cơ cấu K
tế nhất định

Trong một xã hội có giai cấp thì cơ cấu XH- giai cấp là bộ phận cơ bản, có vị
trí quan trọng quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ cấu khác, vì những
lý do sau:

+ Cơ cấu xã hội- giai cấp tồn tại nhằm bảo vệ lợi ích của các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội

+ Cơ cấu XH- giai cấp quy định tính chât và bản chất của các quan hệ khác
về xã hội.

+ Cơ cấu XH- giai cấp còn liên quan trực tiếp đến quyền lực chính trị

+ Cơ cấu XH- giai cấp còn là yếu tố đặc trưng cho sự khác nhau về chất giữa
XH này với XH khác

+ Xuất phát từ cơ cấu XH- giai cấp mà người ta xây dựng các chính sách
phát triển kinh tế- XH- văn hóa phù hợp với mỗi giai tầng

Như Lê nin nói Kết cấu Xh và chình quyền có nhiều biến đổi, nếu không
hiểu những biến đổi này thì không thể tiến được 1 bước trong bất kỳ lĩnh vực
hoạt động nào.

-XU HƯỚNG :
Xu hướng biến đổi của cơ cấu XH- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH:

- Xu thế chủ yếu:

Trong thời kỳ quá độ và kể cả dưởi chủ nghĩa xã hội, mặc dù đã xóa bỏ được
sự đối kháng về giai cấp, bất bình đẳng về giai cấp, mang lại sư thay đổi về
chất của các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động so với xã hội trước đó,
nhưng với nền kinh tế hgangf hóa nhiều thành phần dưới sự quản lý của nhà
nước XHCN nên vẫn còn tồn tại sự khác nhau giữa giai cấp và tầng lớp xã
hội về nhiều mặt. Song, sự khác nhau đó ngày càng được rút ngắn, sự xích
lại gần nhau ngày càng được gia tăng cùng với sự phát triển KT- XH của đất
nước. Xu hướng xích lại gần nhay được thể hiện ở 4 điểm sau đây:

+ Sự xích lại gần nhay từng bước giữa các giai cấp, tầng lớp về mối quan hệ
với tư liệu sản xuất. Xu hướng này thể hiện thông qua việc dần dần hoàn
thiện quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao. Với chủ trương phát triển
nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hóa chế độ sở hữu… tạo điều kiện chó các
thành phần xã hội tồn tại bên cạnh nhau, xích lại gần nhau, đan xen lẫn nhau
để cùng phát triển

+ Sự xích lại gần nhau về tính chất lao động giữa các giai cấp, tầng lớp, xư
hướng này thể hiện thông qua việc phát triển cuộc CM về khoa học và công
nghệ, áp dụng những thành tuuw mới vào quá trình phát triển lực lượng sản
xuất, rút ngắn khoảng cách của sự khác biệt giữa các lực lượng xã hội trong
quá trình lao động

+ Xích lại gần nhau về mối quan hệ phân phối tư liệu tiêu dùng giữa các giai
cấp và tầng lớp. Xu hướng này diễn ra chủ yếu liên quan đến việc thực hiện
ngày càng hoàn thiện nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế,

+ Sự xích lại gần nhau về tiến bộ về đời sống tính thần giữa các giai cấp. Xu
hướng này thể hiện trực tiếp thông qua cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa làm cho các giai cấp xích lại gần nhau.

- Tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu XH- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH:
Sự biến đổi của cơ cấu XH- giai cấp gắn liền và được quy định bởi biến đọng
cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế, cơ cấu hành chính kinh tế- XH. Sự tồn tại
của nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn đến cơ cấu XH giai cấp đa dạng và
phức tạp. Trong thời kỳ này \, có những giai cấp, tầng lớp của cơ cấu xã hội
giai cấp mới và một bộ phận của giai cấp, tầng lớp bóc lột. Quá trình biến
đổi cơ cấu XH giai cấp cũ sang cơ cấu xã hội giai cấp mới là 1 quá trình liên
tục,m đa đạng , phức tạp và mạnh mẽ. Cơ cấu xã hội giai cấp trong thời kỳ
quá độ lên CNXH biến động và phát triển trong mối quan hệ vừa có mâu
thuẫn, vừa có mối quan hệ liên minh với nhau, tiến tới xóa bỏ hiện tượng bất
bình đẳng trong XH, đưa đến sự xích lại gần nhau giữa các giai cấp và tầng
lớp trong XH, đặc biệt là giữa công nhân, nông dân và trí thức.

LIÊN HỆ VỚI VN
- Xu hướng phát triển của cơ cấu XH- giai cấp ở VN trong thời kỳ quá độ:
Tính đa dạng và tính thống nhất

Tính đa dạng thể hiện ở sự tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội: giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, bộ phận tư sản và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Tính đa dạng còn thể hiện ngay cả trong cơ
cấu của mỗi giai tầng

Tính thống nhất thể hiện ở chổ trong cơ cấu xã hội giai cấp ấy, giai cấp công
nhân, lực lượng tiêu biểu cho phương thức sản xuất giữ vai trò chư đạo trong
quá trình cải biến xã hội. Đồng thời giai cấp công nhân cùng với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức tạo thành nền tảng chính trị- xã hội vững
chắc,tạo nên sự thống nhất của cơ cấu XH- giai cấp trong thời kỳ quá độ

Câu 7 :Dân tộc là gì ? Hai xu hướng khách quan phát triển quan hệ dân
tộc ? Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác lênin

Khái niệm dân tộc:

Dân tộc là sản ohaamr của một quá trình lâu dài của xã hội loài người. Trước
khi xuất hiện, loài người trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến
cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.

Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong
đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Một là, dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa
đặc thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận
của quốc gia – quốc gia nhiều dân tộc.

Hai là, dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước,
có lãnh thỗ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức
về sự thống nhất quốc của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh
tế, truyền thống, văn hóa và truyền thống đấu tranh chung suốt quá trình lịch
sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân
dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc.

-Hai xu hướng khách quan phát triển quan hệ dân tộc:

Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I.
Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách quan của
nó:

+ Xu hướng thứ nhất:

Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình,
các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc
lập. Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực nơi có nhiều cộng
đồng dân cư với nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu
hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để tiến
tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và có tác động nổi bật trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong xu hướng đó, nhiều cộng đồng dân cư
đã ý thức được rằng chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập, họ mới có quyền
quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.

+ Xu hướng thứ hai:

Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên
hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế,
văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế
mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc
xích lại gần nhau.
Tuỳ từng điều kiện lịch sử khác nhau mà có thể diễn ra sự trội hơn của xu
hướng nào. Nói chung, trong điều kiện phát triển của chủ nghĩa tư bản, sự
vận động của hai xu hướng nói trên gặp rất nhiều trở ngại.

Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/trinh-bay-khai-niem-dan-toc-va-hai-xu-


huong-phat-trien-cua-dan-toc-trong-chu-nghia-tu-ban-
c126a20681.html#ixzz6LrfHSBNM
-NGUYÊN TẮC
1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng

Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân
tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ
không phân biệt trình độ cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang
nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức dân
tộc khác.

Trong một quốc gia nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ ngang nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc lịch sử để lại.

Trên phạm vu giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa
các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc,
gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống
sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển với các nước chậm phát
triển về kinh tế.

Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở thực hiện quyền dân tộc
tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.

2. Các dân tộc được quyền tự quyết”

Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh
của dân tộc mình: quyền quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường
phát triển của dân tộc mình; quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành
một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện hiệp
lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh
chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có
thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia, dân tộc.

Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù
hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc,
lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của
các nước.

c.Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại

Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Leenin: nó phản án bản
chất quốc tế của phông trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong
trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.

Nó uy định mục tiêu hướng tới, quy định đường lối, phương pháp xem xét,
cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời,
nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp
bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch HCM khẳng định: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cm vô
sản”

Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong các
dân tộc để đấu tranh chống chũ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ
xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết
cả 3 nội dung cương lĩnh thành một chỉnh thể

Câu 8 :Đặc điểm dân tộc Việt Nam ? Quan điểm và chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước Việt Nam ?

Tình hình các dân tộc ở Việt Nam:

- Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất (54 dân tộc). Dân tộc Kinh
chiếm 87% dân số, còn lại là dân tộc ít người phân bố rải rác trên địa bàn cả
nước.
- Tính cố kết dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở
thành truyền thống của dân tộc VN trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ Tổ Quốc và xây dựng đất nước.

- Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu xã hội
nông thôn bền chặt nên dân tộc VN xuất hiện rấ sớm, gắn liền với cuộc đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh chống thiên tai. Vì vậy đoàn kết là xu
hướng khách quan trên cơ sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử, có
chung tương lại, tiền đồ.

- Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam ngày càng gia tăng.
Các dân tộc không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng. Và sự
thống nhất giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội
ngày càng được củng cố.

- Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột
trong lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc còn
chênh lệch, khác biệt. Đây là một đặc trưng cần hết sức quan tâm nhằm thực
hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta.

- Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú
trên địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng,
an ninh, giao lưu quốc tế đó là vùng biên giới, vùng núi cao, hải đảo.

- Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân
tộc VN có đời sồng văn hóa mang bản sắc riêng, góp phần làm phong phú
thêm nên văn hóa của cộng đồng.

Các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta:

a. Quan điểm chung:

- Dựa trên quan điểm CN ML về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu
tranh cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN cũng như dựa vào tình
hình thế giới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi vấn đề dân tộc và
xây dựng khối đại đoàn kết có tầm quan trọng đặc biêt, HCM đã nói: Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, đồng bào các dân tộc đều là anh
em ruột thịt là con cháu một nhà, thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa
vụ thiêng liêng của các dân tộc.
Trong mỗi kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước coi việc giải quyết đúng đắn
vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp, cũng như tiềm năng của từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành
độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên cnxh.

Trong văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta nêu rõ: “Vấn đề
dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng. Thực hiện tốt các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kêt, tương trợ,
giúp nhau cùng phát triển … thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc,
giữa miền núi và miền xuôi, kiên quyết chống kỳ thị và chia rẽ dân tộc;
chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư
tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.

b. Những chính sách cụ thể:

Phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện
và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai
thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào
việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của
đồng bào các dân tộc, từng bước nâng cao dân trí đồng bào dân tộc, nhất là
các dân tộc thiểu số vùng cao, hải đảo.

Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân
tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc
hẹp hòi, nghiêm cấm các hành vi miệt thị dân tộc và chia rẽ dân tộc. HCM đã
chỉ rõ: “Đại đoàn kết dân tộc là động lực chủ yếu, là sức mạnh vĩ đại quyết
định sự thành công của CM”, Người khẳng định : “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công”

Tăng cường, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ ít người để phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội miền núi; đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết, hợp tác cho
cán bộ dân tộc.

Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính toàn diện,
tổng hợp tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Do đó, chính sách dân tộc còn
mang tính cm và tiến bộ, đồng thời mang tính nhân đạo, bởi vì nó không bỏ
sót một dân tộc nào, nó tôn trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền
tự quyết của các dân tộc. Mặt khác, nó còn nhằm phát huy nội lực của mỗi
dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em trong cả
nước.

Câu 9 :Bản chất , nguồn gốc , tính chất tôn giáo ??


TÔN GIÁO LÀ :
Một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan , thông qua
sự phản ảnh đó , các lực lượng tự nhiên trở thành siêu tự nhiên và thần
bí,..

1. Bản chất của tôn giáo:

Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một
hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước sức mạnh
tự nhiên và sức mạnh xã hội.

Theo C.Mác: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn
hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo
là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có
trái tim … tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.

Tuy nhiên tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp
với đạo đức, đạo lý của xã hội.

Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan duy vật Mác xít và thế giới
quan tôn giáo là dối lập nhau. Tuy vây, những người cộng sản có lập trường
mác xít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa ML và những
người cộng sản, chế độ xhcn luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không
tín ngưỡng của nhân dân.

2. Nguồn gốc của tôn giáo:

Nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo:

Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém con
người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì
vậy họ đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh
hóa nhứn sức mạnh đó. Từ đó, họ xây dựng nên những biểu hiện tôn giáo để
thờ cúng.

Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực
trước sức mạnh của thế lực giai cấp thống trị. Họ không giải thích được
nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức, bóc lột, tội ác … tất cả họ quy
về số phận và định mệnh. Từ đó, họ đã thần thành hóa một số người thành
những thần tượng có khả năng chi phối suy nghĩ và hành động người khác
mà sinh ra tôn giáo.

Như vậy, sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần
cùng về kinh tế, áp bức, bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công
của xã hội là nguồn gốc sâu xa của

Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:

Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã
hội và bản thân mình còn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và xã hội có
nhiều điều khoa học chưa khám phá và giải thích được nên con người lại tìm
đến tôn giáo.

Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi vào
ảo tưởng, thần thành hóa đối tượng.

Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:

Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà
dẫn đến việc ính ra tôn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm
“sự sợ hãi sinh ra tôn giáo”. Lênin cũng cho rằng, sợ hãi trước thế lực mù
quáng của tư bản …. sự phá sản “đột ngột” “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm họ
bị diệt vong …, dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của
tôn giáo hiện đại.

Ngay cả những tâm lý tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi
được thể hiện qua tôn giáo.

3. Tính chất của tôn giáo:


Tính lịch sử của tôn giáo:

Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù nó còn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ
là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu
tượng của con người đạt tới mức độ nhất định.

Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn lịch sử, tôn giáo có
sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời
đại thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.

Đến một giai đoạn lịch sử nhất định, khi con người nhận thức được bản chất
các hiện tượng tự nhiên, xã hội, khi con người làm chủ được tự nhiên, xã hội,
làm chủ được bản thân mình và xây dựng được niềm tin cho mỗi con người
thì tôn giáo sẽ không còn.

Tính quần chúng của tôn giáo:

Tôn giáo là nơi sinh hoặt văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần chúng
nhân dân lao động. Hiện nay, số lượng tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ
khá cao trong dân số thế giới.

Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo, song nó phản ánh khát vọng của
những con người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bát ái … Bởi vì,
tôn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo hướng thiện. Vì vậy, còn nhiều
người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội.

Tính chính trị của tôn giáo

Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chi giai cấp, các
giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình.

Trong nội bộ tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái nhiều khi cũng
mang tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo
thường là một bộ phận của đấu tranh giai cấp.

Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp không
chỉ ở quốc gia mà còn cả phạm vi quốc tế. Đó là sự xuất hiện các tổ chức
quốc tế của tôn giáo với thế lực lớn đã tác động đến nhiều mặt, trong đó có
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận thức rõ: đa số quần
chúng đến với tôn giáo nhằm thõa mãn nhu cầu tinh thần; song trên thực tế
đã và đang bị các thế lực chính trị – xã hội lợi dụng để thực hiện mục đích
ngoài tôn giáo của họ.

Câu 10: Tôn giáo là gì ? Nguyên tắc để giải quyết vấn đề tôn giáo trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Liên hệ VIỆT NAM

KHÁI NIỆM :
-Quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình
xây dựng cnxh

Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy,
việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải thận trọng, tỉ mỉ,
vừa giữ vững nguyên tắc, đồng thời vừa mềm dẻo, linh hoạt cụ thể là:

- Khắc phụ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội
phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Đây là yêu
cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng cnxh.

- Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín
ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín
ngưỡng của công dân.

- Thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo
một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân
tộc để xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia
rẻ vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

- Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tôn giáo này. Đây là mâu thuẫn
không đối kháng. Khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài.
Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh
cm, chống cnxh của các phần tử phản động đội lốt tôn giáo. Đây là mâu
thuẩn đối kháng. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị vừa phải khẩn trương,
cương quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược.

- Phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác động của từng tôn giáo đối với đời sống
xã hội không giống nhau. Vì vậy, cần có quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem
xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.

Liên Hệ :
Khái quát tình hình tôn giáo ở nước ta:

Nước ta có nhiều tôn giáo khác nhau. Trong đó có 6 tôn giáo (Phật giáo,
Công giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo) với khoảng 20 triệu tín
đồ.

Đồng bào các tôn giáo trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.

Trong sự nghiệp xây dựng cnxh, nhiều tín đồ và các giáo sĩ đã nhận thức
đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm tố cả “việc đạo” và “việc đời”.

Trong những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phát triển nhiều hơn trước,
số người tham gia các hoạt động tôn giáo tăng lên, các chùa đình, miếu mạo,
nhà thờ … xây cất, tu sửa lại. Các hoạt động lễ hội mang màu sắc tôn giáo
nhiều lên, mang nhiều màu sắc khác nhau, tất nhiên cũng xuất hiện nhiều
hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng trên, một mặt phản ánh nhu cầu tinh
thần của quần chúng, mặt khác cũng nói lên điều không bình thường vì đó
không chỉ có sự ính hoạt tôn giáo thuần túy, mà còn biểu hiện lợi dụng tôn
giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.

Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:

Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Ĩ, Đảng ta khẳng định:
“Tín ngưởng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực
hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tính ngưỡng
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật ... chống mọi hành động vi phạm tự do tín
ngưỡng đồng thơi chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân”. Trên quan điểm đó, Đảng ta đã nêu ra chính sách
tôn giáo cụ thể sau:

- Thực hiện quyền tự do tín ngưỡng không tín ngưỡng của công dân trên cơ
sở pháp luật.
- Tích cực vận động đồng bào tôn giáo tăng cường đoàn kết toàn dân nhằm
xây dựng một cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo” góp phần vào công cuộc đổi mới
kt – xã hội.

- Hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật, làm
cho các giáo hội ngày càng gắn bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng toàn
dân.

- Luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn của các
thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cm của nhân dân.

- Những quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn
giáo phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc tế và đối ngoại của
Nhà nước ta.

Câu 11 :gia đình là gì ? Trình bày khái quát vị trí ,chức năng của gia
đình
Kn gia đình:

Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một
thiết chề văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên
cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và
giáo dục … giữa các thành viên.

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh “xã hội thu nhỏ”, cơ
bản nhất của xã hội.

Gia đình hình thành từ rất sớm và trải qua một quá trình phát triển lâu dài.
Lịch sử nhân loại có những hình thức hôn nhân: tạp hôn, đối ngẫu, một vợ
một chồng thì cũng có các hình thức gia đình: tập thể, cặp đôi, cá thể và cũng
có các loại gia đình: một thế hệ, hai thế hệ và nhiều thế hệ.

Vị trí gia đình trong xã hội


Gia đình là tế bào của xã hội
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hoàn chỉnh và không ngừng biến đổi
được "sắp xếp, tổ chức" theo nhiều mối quan hệ trong đó gia đình được xem
là một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội được sinh
thành, vận động và biến đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất xác định và
có vai trò quy định đối với gia đình. Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thông qua
các hình thức kết cấu và quy mô gia đình. Mỗi gia đình hạnh phúc, hoà thuận
thì cả cộng đồng và xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm. Mục đích
chung của sự vận động biến đổi của xã hội trước hết vì lợi ích của mỗi công
dân, mỗi thành viên xã hội và mỗi gia đình - tổ chức và thiết chế xã hội đầu
tiên, cơ sở nơi quần tụ của mỗi công dân và thành viên của xã hội. Nhưng lợi
ích của mỗi công dân, mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích
các tập đoàn giai cấp thống trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia
thành giai cấp.

Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mô, kết cấu, hình thức tổ
chức và tính chất của gia đình
Quan điểm duy vật về lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức
phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế. Trong
tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa đã lần lượt
thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy mô
và kết cấu cũng như tính chất của gia đình. Từ gia đình tập thể - quần hôn
với các hình thức huyết thống, đối ngẫu, gia đình cặp đôi bước sang hình
thức gia đình cá thể, một vợ một chồng; từ gia đình một vợ, một chồng bất
bình đẳng, chỉ về phía người phụ nữ, người vợ sang gia đình một vợ, một
chồng ngày càng bình đẳng giữa nam - nữ, giữa các thành viên trong gia
đình. Tất cả những bước tiến đó của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết
vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế của mỗi
thời đại.

Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa cá nhân
với xã hội
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là thiết chế cơ
sở, đầu tiên, nhỏ nhất. Sự vận động biến đổi của thiết chế tuân theo những
quy luật chung của cả hệ thống. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi còn
trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống của mỗi nền văn hoá, mỗi
vùng và địa phương khác nhau và còn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi thành viên
và thế hệ thành viên trong sự "giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình.
Thông qua các hoạt động tổ chức đời sống trong gia đình và của gia đình,
mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại đối
với những tác động của xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính
sách... của xã hội. Sự đồng thuận hay không đồng thuận của những tác động
từ xã hội, nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia
đình sẽ tạo ra kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại.

Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời sống
cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội
Từ thuở lọt lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được nuôi dưỡng,
chăm sóc để trở thành công dân của xã hội, lao động cống hiến và hưởng thụ,
đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thông qua gia đình và với gia
đình. Sự yên ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho
sự hình thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động
lao động của xã hội. Rõ ràng là, muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng
gia đình. Xây dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong
chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của
chính xã hội
Các chức năng cơ bản của gia đình
Chức năng tái sản xuất ra con người
Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và riêng
có của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất,
duy trì nòi giống, nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất
nguồn lao động và sức lao động cho xã hội.

Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn
tại của chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất
tự nhiên, chính đáng của con người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ
dân cư... và nhiều yếu tố khác liên quan đến các vấn đề chiến lược và trình
độ phát triển kinh tế, xã hội... Vì vậy sinh đẻ của mỗi gia đình không chỉ là
việc riêng của gia đình mà còn là một nội dung quan trọng của mỗi quốc gia
và toàn nhân loại. Chiến lược về dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách có
kế hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
là mục tiêu, động lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.

Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình


Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của
gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản
xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở,
đi lại của mỗi thành viên và của gia đình.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có sở
hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị
kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo trong kinh tế, đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách
sao cho mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt
động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.

Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia đình công nhân viên
chức, cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn
nghệ sỹ... cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập
chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này tuy không
trực tiếp thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một
nội dung quan trọng của hoạt động kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng đáp
ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của con người, qua đó kích thích sự phát
triển hoạt động kinh tế của xã hội.

Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc
cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngoài cơ sở kinh tế, thì còn
nhiều yếu tố khác mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh
phúc.

Chức năng giáo dục của gia đình


Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri thức và
kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý
thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song
chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng không ít
của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo
dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng
có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn
không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục. Do đó,
chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối
với con cháu.

Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn thiện
thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do đó, dù giáo dục nhà trường và
giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi
là một thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Giáo dục gia đình luôn
trở thành bộ phận quan trọng, hợp thành giáo dục nói chung phục vụ các lợi
ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại nào, khi xã hội còn giai
cấp và phân chia giai cấp.
Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia đình.
Nếu như trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống
gia đình là điều kiện và tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì thoả mãn
các nhu cầu tâm sinh lý được coi là một chức năng có tính văn hoá - xã hội
của gia đình. Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các chức
năng khác tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhiều
vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính và giới, tâm lý lứa tuổi và thế hệ,
những căng thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và công
tác... nhiều khi có thể được giải quyết trong một môi trường gia đình hoà
thuận. Sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu tâm sinh lý
giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái... làm cho mỗi thành viên có điều kiện
sống lạc quan, khoẻ mạnh về thể chất và tinh thần là những tiền đề cần thiết
cho một thái độ, hành vi tích cực trong cuộc sống gia đình và xã hội.

Gia đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi thành viên gia đình, tuỳ thuộc
vào vị thế, lứa tuổi... đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng nói
trên. Trong đó, người phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi họ là người
do đặc thù tự nhiên - sinh học, đảm nhận và thực hiện một số thiên chức
không thể thay thế. Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử, phụ nữ là những
người vất vả, cực nhọc và chịu nhiều thiệt thòi nhất cả trong quan hệ xã hội
lẫn trong quan hệ gia đình. Do đó, giải phóng phụ nữ được coi là một mục
tiêu quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải được bắt đầu từ gia
đình.

Gia đình, thông qua thực hiện các chức năng khách quan vốn có của mình,
có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng chỉ với tư cách là
của cái bộ phận đối với cái toàn thể. Mọi quan điểm tuyệt đối hoá, đề cao
quá mức hay phủ nhận, hạ thấp vai trò của gia đình đều là sai lầm.

Câu 12 :Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên
CNXH
-biến đổi quy mô và kết cấu của gia đình
- biến đổi chức năng gđ
+chức năng tái sx ra con người
+chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
_+ chức năng giáo dục
+ chức năng thỏa mãn nh cầu tâm lý , duy trì tình cảm
- Sự

You might also like