You are on page 1of 44

Bài 1

KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

I. KHÁI LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN


CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

1. Khái niệm chủ nghĩa Mác - Lênin


Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống quan điểm, học thuyết khoa học do
C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập từ những năm giữa thế kỷ XIX, và được
V.I.Lênin bổ sung, phát triển hoàn thiện trong điều kiện mới của lịch sử thế
giới đầu thế kỷ XX; là sự kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư
tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự giải phóng
giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người; là thế
giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn
cách mạng.
Chủ nghĩa Mác Lênin có 2 chức năng quan trọng nhất là chức năng thế
giới quan và chức năng phương pháp luận.
Thế giới quan duy vật biện chứng giúp con người hiểu rõ bản chất của thế
giới là vật chất. Thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người vận động theo
quy luật khách quan. Con người thông qua hoạt động thực tiễn có thể nhận thức,
giải thích, cải tạo và làm chủ thế giới.
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp con người xem xét
sự vật, hiện tượng một cách khách quan biện chứng, phân tích một tình hình cụ
thể trong mối quan hệ với toàn thể, với tự nhiên, xã hội và tư duy.

2. Khái lược quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin
2.1. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập chủ nghĩa Mác
Những tiền đề của sự ra đời của chủ nghĩa Mác:
Tiền đề kinh tế-xã hội: Từ nửa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển mạnh ở nhiều nước
châu Âu. Giai cấp công nhân hiện đại ra đời và phát triển nhưng tình cảnh của
họ rất khổ cực. Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng
gay gắt và đã bùng nổ các cuộc đấu tranh tự phát. Tiêu biểu nhất là các cuộc
khởi nghĩa quy mô lớn của công nhân dệt thành phố Lyon ở Pháp (1831-1834),
phong trào hiến chương của công nhân Anh (1838-1848).
Những điều kiện kinh tế xã hội trong lòng xã hội tư bản và sự phát triển
lớn mạnh của phong trào công nhân là cơ sở hình thành và phát triển lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Những tiền đề về lý luận và khoa học: Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX
ở Châu Âu đã xuất hiện những đỉnh cao về tư tưởng lí luận mà tiêu biểu là trào
lưu triết học cổ điển Đức (Hegel, Phoibach), các học thuyết kinh tế tiến bộ ở
Anh (Adam Smith, David Ricacdo) chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán
Pháp (H. Xanhximông, C. Phuriê, R. Ôoen), C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa
và phát triển trên đỉnh cao tư tưởng lý luận đương thời để xây dựng học thuyết
mới.
Thế kỷ XIX đã xuất hiện nhiều học thuyết khoa học mới trên nhiều lĩnh
vực. Tiêu biểu là học thuyết về sự tiến hoá các loài của Đacuyn, định luật bảo
toàn và chuyển hoá năng lượng của Lômôxốp, học thuyết về sự phát triển của
tế bào của Svác và Slayđen và các thành tựu khoa học khác nhau về hoá học,
cơ học… Sự phát minh và ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học đã củng
cố lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Vai trò nhân tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen.
C.Mác (1818-1883), Ph.Ăngghen (1820-1895) có kiến thức thiên tài trên
nhiều lĩnh vực khoa học như triết học, kinh tế chính trị học, toán học, quân sự.
Đặc biệt, họ là những người hoạt động gắn bó và hiểu biết sâu sắc phong trào
công nhân và nhân dân lao động. Họ có điểm giống nhau là tìm thấy sức mạnh
to lớn của giai cấp công nhân hiện đại và quần chúng nhân dân lao động.
Từ tháng 8-1844 C.Mác, Ph.Ăngghen gặp nhau và nhanh chóng nhất trí
về tư tưởng. Hai ông bắt đầu cộng tác với nhau trên nhiều lĩnh vực và chuyển
biến từ lập trường duy tâm sang duy vật, tích cực hoạt động trong phong trào
công nhân. Qua nghiên cứu sâu sắc, kế thừa, phát triển những đỉnh cao lý luận
đương thời, với tư duy khoa học và hiểu biết sâu sắc thực tiễn vận động của
phong trào công nhân quốc tế, hai ông đã đưa chủ nghĩa xã hội không tưởng trở
thành học thuyết khoa học. Triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội
khoa học là ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác.
Sự ra đời và phát triển học thuyết Mác (1848-1895)
Sự ra đời đặt nền móng phát triển của học thuyết Mác gắn liền với tên
tuổi của Mác, Ăngghen. Đại hội II của Đồng minh những người cộng sản
(12-1847) đã yêu cầu C.Mác và Ph.Ăngghen dự thảo Tuyên ngôn ra đời của
Đồng minh, vừa có tính chất lý luận và là cương lĩnh hoạt động của tổ chức này.
Cuối tháng 2-1848, tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” đã được thông qua
và công bố ở London đặt dấu mốc cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
Kế thừa và phát triển rực rỡ những tinh hoa trí tụê của nhân loại, nắm bắt
thực tiễn trong phong trào công nhân những năm 1848-1849 ở Pháp cùng một
số nước Châu Âu, nghiên cứu những kinh nghịêm thất bại của Công xã Pari
(1871), C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết nhiều tác phẩm như “Đấu tranh giai cấp
ở Pháp”, “Nội chiến Pháp”, bộ “Tư bản”. Các tác phẩm của C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đề cập rất toàn diện về những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa tư
bản, về triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Hai ông đã
tổng kết phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và đề ra những vấn đề
cơ bản có tính chất nguyên lý về cách mạng vô sản và sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
Giá trị lý luận tiêu biểu mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo và cống
hiến cho nhân loại trước hết là về triết học. Triết học Mác không chỉ giải thích
mà còn vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới bằng cách
mạng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận của thế giới quan
khoa học. Nó đòi hỏi khi xem xét mỗi sự vật hiện tượng phải theo quan điểm
toàn diện, lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển.
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử mà cốt lõi là học thuyết hình thái
kinh tế-xã hội là một thành tựu vĩ đại của triết học Mác. Việc chuyển biến từ
hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác là do sự chi phối
của các quy luật khách quan, phải thông qua quá trình đấu tranh giai cấp gay go,
quyết liệt. Với quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, về lý luận hình thái kinh tế-xã hội, lý luận về đấu tranh giai cấp, cách
mạng xã hội... chủ nghĩa Mác đã đem lại cơ sở khoa học cho việc nhận thức về
các quy luật của xã hội, hoạt động tự giác của giai cấp công nhân cùng những
người cách mạng trên thế giới.
Học thuyết giá trị thặng dư đã vạch ra quy luật kinh tế cơ bản của xã hội
tư bản, từ đó cho thấy rõ bản chất của giai cấp tư sản, vai trò địa vị lịch sử của
chủ nghĩa tư bản trong sự phát triển của nhân loại.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chỉ rõ giai cấp công
nhân là người lãnh đạo cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ bóc lột và xây dựng thành
công xã hội mới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là tất yếu thay thế chế độ bóc lột
tư bản chủ nghĩa. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kì quá độ để cải
biến cách mạng xã hội toàn diện xã hội cũ, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần cách mạng nhất, có tính
kỷ luật chặt chẽ, có khối đại đoàn kết liên minh công - nông, có tinh thần quốc
tế… nên đủ khả năng lãnh đạo cách mạng vô sản thắng lợi.
Cùng với sáng tạo ra học thuyết lý luận, C.Mác, Ph.Ăngghen đã tích cực
hoạt động trong phong trào công nhân. Hai ông là lãnh tụ, tổ chức vận động
thành lập Quốc tế I (1863-1876) – là tổ chức của phong trào công nhân quốc tế.
Sau 12 năm hoạt động, Quốc tế I có vai trò rất to lớn, đã xây dựng nền móng
cho sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Năm 1889, Ph.Ăngghen tổ chức thành lập quốc tế II để tuyên truyền sâu
rộng chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân quốc tế, mở ra thời kỳ phát triển
theo bề rộng của phong trào công nhân ở hầu khắp các nước trên thế giới. Hàng
loạt các đảng vô sản của giai cấp công nhân trên thế giới đã được thành lập.
Sau khi Ph.Ăngghen mất (1895), Quốc tế II dần dần mất hết tính chất
cách mạng, rơi vào chủ nghĩa cơ hội và phản động.
2.2. V.I.Lênin phát triển học thuyết Mác (1895 - 1924) về lý luận cách
mạng
Cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX, nghiên cứu sự chuyển biến từ
chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin đã tổng
kết, nêu ra 5 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là: Tập trung sản xuất và
hình thành các tổ chức độc quyền; tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính ra
đời và phát triển; xuất khẩu tư bản ra nước ngoài để thu lợi nhuận cao; phân
chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền; phân chia lãnh thổ thế giới
giữa các cường quốc đế quốc.
Tính đến năm 1914, tất cả các nước Á, Phi đã trở thành thuộc địa của
phương Tây, chủ nghĩa tư bản ở Nga bắt đầu phát triển, phong trào công nhân
Nga phát triển rất nhanh. Nước Nga trở thành trung tâm của cách mạng thế
giới.
Kế thừa lý luận của Mác, Ăngghen và qua thực tiễn hoạt động cách mạng
ở Nga, V.I.Lênin (1870-1924) đã phát triển lý luận mới trên nhiều lĩnh vực.
Sau khi phân tích đặc điểm và địa vị của chủ nghĩa đế quốc. Người chỉ rõ, cách
mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thậm chí một nơi yếu
nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa. Người nêu ra khẩu hiệu nổi tiếng: “Vô
sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Theo V.I.Lênin, lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác khi đã thâm nhập
vào trong phong trào công nhân sẽ trở thành sức mạnh vật chất, làm cho phong
trào công nhân trở thành tự giác. Chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong
trào công nhân sẽ tất yếu hình thành Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân.
Lênin đưa ra lý luận mới về chiến tranh và hòa bình; nhà nước và cách
mạng. Trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, Người kêu gọi những
nhà cách mạng Nga hãy tích cực hoạt động, “biến chiến tranh đế quốc thành
nội chiến cách mạng”. Dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, Đảng Cộng sản Nga và
giai cấp công nhân Nga tiến hành cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành
công. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin chính là sự phát triển chủ nghĩa Mác
trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc.
2.3. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực
Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Lý luận về chủ nghĩa xã hội đã
trở thành hiện thực trên đất nước Nga. Tháng 3-1919, Quốc tế cộng sản (Quốc tế III)
ra đời. Sự kiện đó tác động mạnh mẽ làm cho cách mạng thế giới phát triển thành
cao trào lớn mạnh. Hàng loạt các Đảng cộng sản ở các nước trên thế giới được
thành lập.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin đã tiếp tục phát triển lý luận
của mình trên một loạt vấn đề mới. Người chỉ rõ lý luận về những nhiệm vụ của
chính quyền Xô Viết, về dân chủ và chuyên chính vô sản; thực hành chính sách
kinh tế mới; tiến hành công nghiệp hóa, tập thể hóa…, thực hành cách mạng tư
tưởng văn hóa; phát triển các đoàn thể dưới chủ nghĩa xã hội; chống quan liêu trong
bộ máy nhà nước.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết có giá trị khoa học và bền vững vì nó đưa ra
mục tiêu cao đẹp, lý luận dựa trên cơ sở khoa học, phương pháp luận đúng đắn, được
thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm… đã góp phần thúc đẩy lịch sử nhân loại phát triển.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất nêu lên con đường, lực
lượng, phương pháp để đạt được mục tiêu là giải phóng xã hội, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người; đưa con người và các dân tộc trên toàn thế giới phát
triển toàn diện, bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc. Mục tiêu đó của chủ nghĩa
Mác-Lênin vừa có giá trị nhân văn cao cả, phù hợp với khát vọng tự nhiên của
con người, đem lại hạnh phúc cho cộng đồng, nên trong thời đại ngày nay học
thuyết Mác vẫn không lỗi thời, lạc hậu.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mang bản chất khoa học và cách
mạng. Nó mang bản chất khoa học vì ra đời trên cơ sở các tiền đề kinh tế, xã
hội chín muồi; được kế thừa, phát triển những tinh hoa trí tuệ tư tưởng lý luận,
khoa học nhân loại; nó được sáng lập bởi những lãnh tụ thiên tài, hiểu sâu sắc
phong trào giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra thế giới quan, phương pháp luận để nhìn
nhận đúng đắn những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nhận
thức của con người. Học thuyết này không chỉ để hiểu, giải thích thế giới mà
vấn đề căn bản là cải tạo, phát triển thế giới. Luôn đòi hỏi phải phát hiện quy
luật vận động của thực tiễn xã hội với tinh thần cách mạng, khả năng phê phán,
thường xuyên đổi mới và phát triển.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, với lập trường duy vật luôn gắn bó và cải tạo thực
tiễn, lấy thực tiễn là thước đo kiểm nghiệm, tiêu chuẩn của chân lý. Là học
thuyết mở, năng động với vai trò nền tảng tư tưởng kim chỉ nam định hướng
hành động, đòi hỏi bổ sung, phát triển năng động sáng tạo. Vì vậy, khi nghiên
cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi người cần độc lập tự chủ, nắm lấy
bản chất cách mạng, khoa học của học thuyết để vận dụng sáng tạo vào tình
hình cụ thể, khắc phục cả hai khuynh hướng tư tưởng xét lại hoặc giáo điều,
máy móc.

II. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC -


LÊNIN

1. Triết học Mác – Lênin


Triết học Mác-Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác-Lênin, được C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau
đó được Lênin và các nhà Mácxít khác phát triển thêm. Triết học Mác-Lênin ra
đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với những thành
tựu khoa học, thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của
triết học Mác-Lênin là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng nhân
loại, trong lịch sử triết học. Nhưng cuộc cách mạng ấy bao hàm tính kế thừa, tiếp
thu tất cả những nhân tố tiến bộ mà lịch sử tư tưởng loài người đã để lại.
Triết học Mác-Lênin hình thành dựa trên hệ thống quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen và được Lênin bổ sung sau này. Trong đó Ph.Ăngghen đã phát
triển triết học Mác, thông qua việc khái quát các thành tựu khoa học, phê phán
các lý thuyết triết học duy tâm, siêu hình và cả những quan niệm duy vật tầm
thường ở những người muốn trở thành người Mác-xít. Với những tác phẩm chủ
yếu của mình như: Chống Duyring, Biện chứng tự nhiên, Nguồn gốc gia đình,
chế độ tư hữu và nhà nước, L.Phoiơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức, Ph.Ăngghen đã trình bày học thuyết Mác nói chung và triết học Mác nói
riêng dưới dạng một hệ thống lý luận. Ngoài ra, những ý kiến bổ sung, giải
thích của Ph.Ăngghen sau khi Mác qua đời đối với một số luận điểm của ông
trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển học thuyết Mác.
Triết học Mác là triết học duy vật. Nhưng các nhà sáng lập của triết học
đó không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà những thiếu sót chủ
yếu nhất của nó là máy móc, siêu hình, duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã
hội. Các ông đã khắc phục những thiếu sót ấy, đưa triết học tiến lên một bước
phát triển mới bằng cách tiếp thu một cách có phê phán những thành quả của
triết học cổ điển Đức, nhất là phép biện chứng trong hệ thống triết học
của Hegel. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm,
vì vậy, các nhà sáng lập Triết học Mác đã cải tạo nó, đặt nó trên lập trường duy
vật. Chính trong quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hegel và phát
triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, trên cơ sở khái quát hoá những thành tựu
của khoa học tự nhiên và thực tiễn cho đến giữa thế kỉ XIX, C.Mác,
Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết triết học của mình.
Triết học ấy sau này đã được Lênin phát triển thêm và trở thành Triết học
Mác - Lênin. Triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng triệt để.
Lênin hy vọng khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước
Mác. Trong Triết học Mác - Lênin, các quan điểm duy vật về tự nhiên, xã hội,
các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng gắn bó hết sức chặt chẽ
với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất.
1.1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
1.1.1. Bản chất của thế giới
- Quan điểm duy tâm cho rằng bản chất thế giới là ý thức, ý thức là cái có
trước, vật chất là cái có sau, ý thức quyết định vật chất.
- Quan điểm duy vật khẳng định bản chất của thế giới là vật chất. Vật
chất có trước, ý thức là có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức chỉ là sự
phản ánh một phần thế giới vật chất vào đầu óc con người. Vật chất tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức và biểu hiện qua các dạng vật thể cụ thể của nó.
a. Định nghĩa vật chất
V.I. Lênin định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ
thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”.
Giải thích định nghĩa:
-Vật chất là một phạm trù triết học, khác với phạm trù trong những ngành
khoa học cụ thể khác (như vật lý đã đồng nhất vật chất với những vật thể khác…)
vật chất thể hiện sự tồn tại qua các dạng cụ thể. Vật thể là hữu hạn còn vật chất là vô
cùng, vô tận.
-Thuộc tính chung nhất của vật chất là thuộc tính tồn tại khách quan, tức
là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, không
lệ thuộc vào cảm giác, dù con người có nhận thức được nó hay không.
- Vật chất không phải tồn tại trừu tượng mà tồn tại qua các sự vật cụ thể,
được cảm giác con người ghi lại, sao chụp lại. Điều đó chứng tỏ con người có
thể nhận thức được thế giới.
* Ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin
- Đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, phát triển thế giới quan khoa học cho việc nhận thức
và giải quyết những vấn đề xã hội khác.
- Khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới, củng cố và
phát triển học thuyết khả tri, mở đường cho các ngành khoa học cụ thể đi sâu
nghiên cứu thế giới, tìm thêm những dạng mới của vật chất, đem lại niềm tin
cho con người trong việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
* Các phương thức, hình thức tồn tại của vật chất
Theo Ph.Ăngghen: “Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Vận động là phương thức tồn tại của vật
chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên thông qua vận động mà vật chất
biểu hiện ra các dạng cụ thể của mình.
Nguồn gốc vận động của vật chất là sự vận động tự thân, do mâu thuẫn
bên trong bản thân sự vật quyết định, do tác động qua lại giữa các yếu tố trong
cùng một sự vật hay giữa các sự vật với nhau. Ph.Ăngghen đã chia vận động
thành 5 hình thức cơ bản là:
Vận động cơ học là sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian;
Vận động vật lý là sự vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản,
các quá trình nhiệt, điện...
Vận động hoá học là sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong các quá
trình hoá hợp, phân giải các chất.
Vận động sinh học là sự biến đổi của các cơ thể sống theo môi trường,
biến thái cấu trúc gen v.v...
Vận động xã hội, là sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Vận động là tuyệt đối vì vận
động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Không ở đâu, không lúc nào có vật chất mà lại không có sự vận động. Đứng im
là trạng thái đặc biệt của vận động - vận động trong cân bằng, vận động chưa
làm thay đổi về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận: khi xem xét một sự vật hiện tượng phải xem
xét nó trong sự vận động phát triển không ngừng, và có nhiều hình thức vận
động với nhiều mối tương quan cần xem xét trong một sự vật hiện tượng.
- Không gian là các hình thức tồn tại của các dạng cụ thể của vật chất. Đó
là sự tồn tại ở một ví trí nhất định, có một quảng tính nhất định (chiều cao,
chiều rộng, chiều dài) và tồn tại trong mối tương quan nhất định với các vật thể
khác (trước hay sau, bên phải hay bên trái, bên trên hay bên dưới v.v…)
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là độ dài diễn biến của các
quá trình, sự kế tiếp nhau trong vận động phát triển.
- Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
hữu của vật chất nên nó gắn liền với vật chất vận động. Vật chất vận động
trong không gian và theo thời gian nhất định.
- Không gian và thời gian là thuộc tính vốn có của vật chất, gắn liền với
vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, nên không gian, thời gian cũng
tồn tại khách quan và vô tận, vô hạn.
Ý nghĩa: muốn nhận thức đúng đắn các sự vật hiện tượng nhất thiết phải
xem xét nó trong không gian, thời gian nhất định, phải có quan điểm lịch sử cụ
thể. Phải tính đến quá khứ, hiện tại và tương lai, nhưng hiện tại là quan trọng
nhất.
* Tính thống nhất vật chất của thế giới
Ph.Ăngghen viết: “Tính thống nhất chân chính của thế giới là ở tính vật
chất của nó”. Biểu hiện của sự thống nhất đó là chỉ có một thế giới duy nhất là
thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức; Thế giới vật chất tồn tại
vĩnh viễn vô hạn, không có điểm khởi đầu và điểm kết thúc; Trong thế giới đó
không có gì khác ngoài quá trình vật chất vận động, chuyển hóa lẫn nhau. Mọi
sự tồn tại của thể giới vật chất đều có mối liên hệ với nhau, mối liên hệ gắn kết
từ thế giới vô sinh đến hữu sinh, từ vi mô đến vĩ mô và từ thế giới tự nhiên đến
xã hội và con người…
Ý nghĩa của vấn đề: trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, mỗi người
phải từ bản thân sự vật, hiện thực khách quan mà phân tích, xem xét nó trong
mối quan hệ giữa cái cục bộ, cái riêng lẻ thống nhất trong cái toàn thể, cái
chung, không được chủ quan kết luận.
b. Nguồn gốc và bản chất của ý thức
* Khái niệm ý thức: Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin, ý thức là
một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản
ánh thế giới khách quan vào bộ não người, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
Nếu không không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não
người và không có bộ não (với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức) thì sẻ
không có ý thức.
Nói cách khác ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan được chuyển
vào đầu óc con người và cải biến đi. Tuy xuất phát từ thế giới khách quan,
nhưng do tâm sinh lý, mục đích, yêu cầu và điều kiện hoàn cảnh chủ quan của
con người phản ánh nên cùng một đối tượng nhưng kết quả phản ánh có thể
khác nhau.
* Nguồn gốc ý thức: ý thức có hai nguồn gốc.
- Nguồn gốc tự nhiên là bộ óc người và thế giới khách quan. Do quá trình
vận động, phát triển lâu dài của giới tự nhiên làm xuất hiện con người với bộ
não phát triển cao, từ đó ra đời ý thức. Ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng
không phải là thuộc tính của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao là bộ óc con người. Sự phụ thuộc của ý
thức vào hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt
động của ý thức bị rối loạn. Mặt khác, phải có thế giới khách quan (tự nhiên, xã
hội) tồn tại bên ngoài con người, là đối tượng của ý thức. Không có thế giới
khách quan thì không có gì để ý thức phản ánh. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
là sự tương tác giữa thế giới khách quan và bộ óc con người.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức là do lao động và ngôn ngữ. Ăngghen nói:
“Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ là hai kích thích chủ yếu của
sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não người, từ tâm lý động vật thành ý
thức”.
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người.
Đó là hoạt động chủ động, sáng tạo, có mục đích. Lao động làm thay đổi cấu
trúc cơ thể, phát triển bộ não của con người. Nhờ có lao động, mà những thuộc
tính, những kết cấu, những quy luật vận động của tự nhiên tác động vào bộ óc
người, hình thành dần những ý thức – sự hiểu biết, tri thức, tình cảm của con
người với thế giới khách quan xung quanh. “Lao động là điều kiện cơ bản đầu
tiên của toàn bộ đời sống loài ngươi, và như thế đến một mức độ và trên một ý
nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con
người” – Ăngghen.
Do lao động mà ngôn ngữ ra đời vì trong lao động mà con người cần trao
đổi, quan hệ, liên hệ với nhau. Ngôn ngữ không chỉ trao đổi thông tin, tình cảm
mà còn là công cụ của tư duy, diễn đạt hiểu biết của con người, trở thành tín
hiệu vật chất của ý thức.
Trong hai nguồn gốc của ý thức thì nguồn gốc xã hội có ý nghĩa quyết
định sự ra đời của ý thức. Nguồn gốc xã hội trực tiếp chính là thực tiễn hoạt
động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội, nghiên cứu và thực nghiệm khoa
học.
* Bản chất của ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con
người một cách năng động và sáng tạo.
Phản ánh là thuộc tính của mọi dạng vật chất thông qua những liên hệ,
quan hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng. Đặc trưng của phản ánh
dạng vô cơ có tính chất cơ, lý, hóa là thụ động, giản đơn, không có sự lựa chọn.
Phản ánh dạng động vật có hệ thần kinh thông qua hệ thống phản xạ. Phản xạ
không điều kiện là phản xạ bản năng với môi trường, tự phát, không thông qua
rèn luyện. Phản xạ có điều kiện là phản xạ được hình thành thông qua rèn luyện.
Phản ánh dạng động vật cấp cao là dạng phản ánh có yếu tố tâm lý vui buồn, lo
sợ… trong các mối quan hệ. Tất cả những dạng phản ánh trên, tuy mức độ,
trình độ có sự khác nhau đều là phản ánh của các dạng vật chất.
Tuy nhiên, phản ánh của bộ óc người với hiện thực khách quan là sự phản
ánh đặc biệt của ý thức. Nó thể hiện:
Một là, phản ánh có quy trình theo trình tự trao đổi thông tin giữa chủ thể
và đối tượng, có chọn lọc và định hướng, mô hình hóa đối tượng tư duy, hiện
thực hoá đối tượng qua hoạt động thực tiễn.
Hai là, phản ánh mang tính chủ động, tích cực, sáng tạo, không phản ánh
y nguyên như chụp, chép, mà có chọn lọc theo mục đích, yêu cầu lợi ích của
con người, có dự báo những khía cạnh mới, thuộc tính mới. Phản ánh này có sự
kết hợp cả cảm giác lẫn tư duy, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, cả hiện tại lẫn quá
khứ và tương lai, phản ánh vừa có tính cụ thể hóa, vừa có tính khái quát hóa.
Với những đặc trưng trên về sự phản ánh, ý thức không những có khả năng
phản ánh đúng hiện thực, đúng bản chất sự vật, mà còn có khả năng vạch ra
những quy luật vận động phát triển và có thể dự báo được tương lai của hiện
thực.
c. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Vật chất có trước, sinh ra và quyết định ý thức. Vật chất là tiền đề, là
cơ sở và nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. Điều kiện vật
chất như thế nào thì ý thức như thế đó. Khi cơ sở vật chất, điều kiện vật chất
thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo. Vật chất quyết định ý thức là quyết định
cả nội dung, bản chất và khuynh hướng vận động phát triển của ý thức. Cơ sở
và điều kiện vật chất là thực tiễn, là nơi hình thành công cụ và phương tiện
kiểm nghiệm nhận thức thế giới của con người đúng hay sai.
- Ý thức tác động trở lại vật chất, làm biến đổi, phát triển vật chất theo
mục đích và nhu cầu con người trong đời sống xã hội. Ý thức dù có năng động
đến đâu, dù có vai trò to lớn đến đâu, xét đến cùng bao giờ cũng bị yếu tố vật
chất quyết định. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng ý thức có tác
động to lớn đối với sự phát triển vật chất qua hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, giúp con người
hiểu được bản chất, quy luật vận động phát triển của sự vật hiện tượng để hình
thành phương hướng, mục tiêu và những phương pháp, cách thức thực hiện
phương hướng, mục tiêu đó. Ý thức làm cho con người hoạt động đúng hay sai,
hiệu quả hay không. Nhờ có ý thức, con người biết lựa chọn những khả năng
phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển nhanh hơn. Ý thức, tinh thần có vai trò quyết
định đối với hoạt động thực tiễn chỉ đúng trong một giới hạn hẹp, ở một trạng
thái, một tình huống, một thời điểm nhất định. Hơn nữa, yếu tố ý thức, tinh
thần đó không thể vượt ra khỏi hoàn cảnh khách quan quy định, không thay thế
được yếu tố vật chất khách quan. Nó chỉ là sự phát hiện và sử dụng có hiệu quả
yếu tố vật chất.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
- Vật chất có trước quyết định ý thức nên nhận thức của con người phải
luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan. Mọi sự chủ
quan, nôn nóng, lấy ý kiến của mình làm căn cứ cho lý luận dễ dẫn đến sai lầm
và thất bại trong thực tiễn. Bài học mà Đảng ta nêu ra là mọi đường lối, chủ
trương của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan.
Trong bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, phải chú trọng nâng cao đời
sống vật chất, đồng thời phải chú ý nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần. Đảng
ta chủ trương phát triển kinh tế là trung tâm, làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ
và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kết hợp chặt chẽ giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã
hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, không ngừng bồi
dưỡng nâng cao trình độ, văn hóa, khoa học-kỹ thuật, khơi dậy lòng yêu nước,
phát huy đầy đủ tính năng động, ý chí sáng tạo của con người trong việc nhận
thức, cải tạo và phát triển xã hội.
1.1.2. Phép biện chứng duy vật
a. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và
đóng vai trò xương sống cho phép biện chứng duy vật cua triết học Mác –
Lênin khi xem xét, lý giải sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật được
xây dựng trên nền cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ
bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực khách quan. Trong hệ thống
đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai
nguyên lý khái quát nhất:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật,
hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự
vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06
cặp phạm trù cơ bản.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét
sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận
động và phát triển, (vận đống tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện
thông qua ba quy luật cơ bản.
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm:
+ Khái niệm mối liên hệ: Trong phép biện chứng, mối liên hệ dùng để chỉ:
sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng,
hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
+ Khái niệm mối liên hệ phổ biến: Dùng để chỉ tính phổ biến của các
mối liên hệ, nhằm khẳng định rằng: mối liên hệ là cái vốn có của tất thảy mọi
sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự vật, hiện tượng nào, lĩnh vực
nào.
- Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất đều
có những mối liên hệ biện chứng với nhau, thể hiện qua các tính chất cơ bản
sau:
+ Tính khách quan: vì chúng là cái vốn có của các sự vật, hiện tượng; các
mối liên hệ tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người.
+ Tính phổ biến: vì giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng
có liên hệ với nhau; giữa các quá trình trong sự vận động phát triển của thế giới
cũng liên hệ với nhau. Trong tự nhiên, xã hội và tư duy, các sự vật, hiện tượng
và những vấn đề cũng có liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
+ Tính đa dạng, phong phú. Thể hiện ở các mối liên hệ bên trong giữa các
mặt, các yếu tố trong một sự vật hay một hệ thống. Có mối liên hệ bên ngoài là
mối liên hệ giữa vật này với vật kia, hệ thống này với hệ thống kia. Có mối liên hệ
chung, lại có mối liên hệ riêng biệt. Có mối liên hệ trực tiếp không thông qua khâu
trung gian lại có mối liên hệ gián tiếp, thông qua khâu trung gian. Có mối liên hệ tất
nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản…
- Ý nghĩa của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến là cơ sở lý luận cho quan điểm toàn diện. Nghĩa là khi nghiên cứu
sự vật, hiện tượng thì phải xem xét các mặt, các mối liên hệ bản chất, bên trong
của nó; phải biết đâu là mối liên hệ cơ bản, chủ yếu thì mới nắm được bản chất
sự vật, hiện tượng. Không nên xem xét qua loa một vài mối liên hệ đã vội đánh
giá sự vật một cách chủ quan. Không nên đánh giá các mối liên hệ là như nhau.
Không nên dựa vào một vài mối liên hệ không cơ bản, không chủ yếu để biện
minh một cách chủ quan theo ý mình.
* Nguyên lý về sự phát triển.
- Khái niệm phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự
tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện
tượng; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không
trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát
triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng
đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm "vận động"
(biến đổi) nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn
thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến
đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày
càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân
tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong
hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
- Nội dung nguyên lý
+ Tính khách quan: của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự
vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng;
là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển
là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
+ Tính phổ biến: của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển
diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật,
hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó.
Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của
cái mới, phù họp với quy luật khách quan.
+ Tính đa dạng, phong phú: của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát
triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật. hiện tượng, song rnỗi sự vật, mỗi
hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn
giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau sự vật, hiện
tượng phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình,
sự vật, hiện tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay
quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó
có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có
thể làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về
mặt này và thoái hóa ở mặt khác... Đó đều là những biểu hiện của tính phong
phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
- Ý nghĩa phương pháp luận: Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận
khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo
nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát
triển. Theo V.I.Lê nin, “... Lôgích biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự
phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biển đổi của nó". Quan điểm
phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với
sự phát triển.
Ví dụ, khi xem xét con người và phong trào quần chúng, mỗi khi thành
công hay thất bại cũng đòi hỏi có sự khách quan, chín chắn, bình tĩnh đánh giá
mọi mặt, mọi khía cạnh của vấn đề để lạc quan, tin tưởng tìm hướng giải quyết,
phát triển. Phải nhận thức xu hướng đi lên, nhưng phải thấy được tính quanh co,
phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển, phải thấy được
những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi, vạch ra
khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
b. Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
* Khái niệm quy luật và phân loại quy luật
Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong, có tính phổ
biến và được lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một sự vật, hiện
tượng, hay giữa các sự vật hiện tượng.
Trong thế giới khách quan có nhiều quy luật khác nhau: quy luật chung,
phổ biến tác động trong cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật riêng,
quy luật đặc thù chỉ tác động trong một hay một số mặt trong một lĩnh vực nào
đó. Các quy luật đều có tính khách quan, vốn có của thế giới vật chất.
Quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự phát, thông qua sự tác động của các
lực lượng tự nhiên, không cần sự tham gia của con người.
Quy luật xã hội được hình thành và tác động thông qua hoạt động của con
người. Quy luật xã hội thường biểu hiện như một xu hướng, không biểu hiện
theo quan hệ trực tiếp, có tính xác định với từng việc, từng người. Các sự kiện
trong đời sống xã hội nếu xảy ra trong thời gian càng dài, không gian càng rộng,
lặp đi, lặp lại thì tính quy luật của nó biểu hiện càng rõ. Kết quả tác động của
quy luật xã hội phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng của con người. Con
người là chủ thể của xã hội, của lịch sử. Không có con người thì không có xã
hội, không có quy luật xã hội. Quy luật của xã hội vừa là tiền đề, vừa là kết quả
hoạt động của con người.
Quy luật có tính khách quan do những mối liên hệ bản chất tất nhiên bên
trong của nó quyết định. Con người không thể sáng tạo hay xoá bỏ quy luật
theo ý muốn chủ quan của mình, nhưng con người có thể chủ động phát hiện,
nhận thức và vận dụng tạo ra những điều kiện thuận lợi, hoặc hạn chế tác hại
của quy luật nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của mình.
Khi con người chưa nhận thức được quy luật hoặc hành động tuỳ tiện bất
chấp quy luật thì sẽ tất yếu bị quy luật đáp trả và thất bại. Khi con người nhận
thức được quy luật và chủ động, tự giác hành động, tác động theo quy luật một
cách tích cực, sáng tạo thì con người trở thành tự do. Tự do không có nghĩa là
hoạt động tùy tiện, bất chấp quy luật, mà tự do chính là nhận thức được tất yếu.
* Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (gọi tắt là quy
luật mâu thuẫn)
- Vai trò quy luật: Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật. Nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển,
là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
- Một số khái niệm
+ Khái niệm mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm,
những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược
nhau tồn tại một cách khách quan trong cùng một sự vật, hiện tượng hoặc trong
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong thế giới.
Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì tất cả các sự vật, hiện tượng
trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Ví dụ như: Trong
nguyên tử có điện tử và hạt nhân, hay trong sinh vật thì có sự đồng hóa và dị
hóa, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền. Những mặt trái
ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
+ Khái niệm thống nhất giữa các mặt đối lập: Sự thống nhất của các mặt
đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối
lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Hai mặt
đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau.
+ Khái niêm đấu tranh giữa các mặt đối lập: Đấu tranh của các mặt đối
lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các
mặt đó. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng,
tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ
điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
- Nội dung quy luật: Sự vật, hiện tượng nào cũng là thể thống nhất của
các mặt đối lập. Đó là thống nhất của những mâu thuẫn với nhau trong chính
bản thân mọi sự vật. Các mặt đối lập trong mỗi sự vật vừa thống nhất lại vừa
đấu tranh tác động, bài trừ phủ định nhau. Sự đấu tranh đó đưa đến sự chuyển
hoá làm thay đổi mỗi mặt đối lập hoặc cả hai mặt đối lập, chuyển lên trình độ
cao hơn hoặc cả hai mặt đối lập cũ mất đi, hình thành hai mặt đối lập mới. Sự
vật, hiện tượng mới ra đời. Các mặt đối lập lại vừa thống nhất lại vừa đấu tranh
tác động, bài trừ phủ định nhau. Quá trình trên diễn ra liên tục làm cho sự vật,
hiện tượng không ngừng vận động.
Đấu tranh các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển mọi sự
vật, hiện tượng. Sự thống nhất các mặt đối lập là tương đối. Bất cứ sự thống
nhất nào cũng là sự thống nhất có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, gắn với đứng
im tương đối của sự vật. Đứng im là thời điểm các mặt đối lập có sự phù hợp,
đồng nhất, tác dụng ngang nhau. Đây là trạng thái cân bằng giữa các mặt đối
lập.
Đấu tranh là tuyệt đối vì nó diễn ra liên tục không bao giờ ngừng, trong
suốt quá trình tồn tại các mặt đối lập. Trong thống nhất có đấu tranh. Đấu tranh
gắn liền với vận động mà vận động của vật chất là tuyệt đối nên đấu tranh cũng
là tuyệt đối.
+ Một số loại mẫu thuẫn tiêu biểu:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Bản thân sự vật hiện
tượng có nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các mặt,
những bộ phận bên trong của sự vật, là mâu thuẫn tự thân, có vị trí vai trò
quyết định đối với sự vận động phát triển của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài là
mâu thuẫn giữa sự vật này với sự vật kia. Mỗi sự vật tồn tại, không tách rời sự
vật khác, nên mâu thuãn bên trong không tách rời mâu thuẫn bên ngoài. Mâu
thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật nhưng phải thông
qua mâu thuẫn bên trong. Trong nhận thức và thực tiễn, con người không được
xem nhẹ mâu thuẫn bên ngoài và không tuyệt đối hoá mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn bên cơ bản và không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn
tồn tại trong suốt quá trình sự vật tồn tại, nó quyết định bản chất và quá trình
phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không giữ vị trí vai
trò quyết định bản chất sự vật và nó phụ thuộc vào mâu thuẫn cơ bản. Bản chất
của sự vật chỉ thay đổi khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết. Con người muốn
thay đổi bản chất của sự vật, phải phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản và tìm cách
giải quyết nó. Đây là cơ sở khách quan để xác định đúng phương hướng, mục
tiêu, chiến lược cách mạng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là biểu hiện
mâu thuẫn cơ bản nổi lên hàng đầu trong mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển của
sự vật, có ảnh hưởng quyết định đối với các mâu thuẫn khác nhau trong thời
điểm đó. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu là theo từng bước đi đến giải quyết
mâu thuẫn cơ bản của sự vật. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không giữ vai
trò quyết định tính chất đặc điểm của sự vật trong thời kỳ, giai đoạn nhất định.
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng: Mâu thuẫn đối kháng là mâu
thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích căn bản đối lập nhau, không thể
điều hoà. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng là mâu thuẫn đặc thù của xã hội có
giai cấp đối kháng. Phân biệt và xác định mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn
không đối kháng là việc làm quan trọng là cơ sở xác định đúng đắn bạn và thù,
đối tượng liên minh và đối tượng đấu tranh để có biện pháp giải quyết cho phù
hợp bằng bạo lực cách mạng hay bằng con đường hoà bình, bằng tổ chức, giáo
dục, thuyết phục.
- Ý nghĩa của quy luật: Muốn nhận thức được nguồn gốc và bản chất của mọi
sự vận động, phát triển thì cần phải nghiên cứu, phát hiện và sử dụng được sự thống
nhất và đấu tranh của chúng. Trong nhận thức và thực tiễn phải phát hiện được
những mâu thuẫn của sự vật hiện tượng, biết phân loại mâu thuẫn, có các biện pháp
để giải quyết mâu thuẫn thích hợp. Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết
mâu thuẫn.
* Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng chất)
- Vai trò quy luật: Quy luật này chỉ ra phương thức của sự vận động và
phát triển thế giới. Đây là quy luật chung nhất chi phối sự vận động phát triển
của tất cả các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất.
- Khái niệm chất: Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của
những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật,
hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật,
hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ
đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.
- Khái niệm lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động
và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các
thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài
hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp,
nhịp điệu nhanh hay chậm…
Lượng là cái khách quan vốn có của sự vật. Sự vật, hiện tượng bao giờ
cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập lượng và chất. Lượng nào chất ấy,
chất nào lượng ấy. Không có chất lượng tồn tại rách rời nhau. Phân biệt giữa
chất và lượng chỉ là tương đối. Trong mối quan hệ này nó là lượng, trong mối
quan hệ khác nó là chất.
Sự thống nhất giữa lượng và chất, được thể hiện trong giới hạn nhất định gọi là
Độ.
- Khái niệm Độ: Độ là giới hạn trong đó có sự thống nhất giữa lượng và chất.
Ở đó đã có sự biến đổi về lượng nhưng chưa có sự thay đổi về chất; sự vật còn là nó,
chưa là cái khác.
Tại thời điểm chất biến đổi gọi là bước nhảy. Bước nhảy xảy ra tại điểm
nút. Bước nhảy là bước ngoặt của sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất.
Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
- Nội dung quy luật: Từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại là thể hiện quan hệ biện chứng giữa hai mặt lượng và
chất trong sự vật.
Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt thường xuyên biến đổi.
Lượng biến đổi làm phá vỡ chất cũ, chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới
lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm lượng.
Quá trình này cứ thế tiếp diễn tạo nên cách thức hoạt động phát triển thống
nhất giữa tính liên tục và tính đứt đoạn trong sự vận động và phát triển của sự
vật.
Thế giới muôn vẻ và đa dạng nên sự nhảy vọt cũng rất phong phú. Bước
nhảy trong tự nhiên có tính tự phát, không qua hoạt động của con người. Khi
lượng đổi đạt tới điểm nút thì bước nhảy xảy ra. Trong xã hội, bước nhảy được
thực hiện thông qua hoạt động của con người nên tùy điều kiện chuẩn bị chủ
quan, khách quan, tình thế, thời cơ mà bước nhảy có thể diễn ra nhanh chóng
hay chậm chạp.
- Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật: Nắm vững những quy luật
của phép biện chứng duy vật giúp con người nhận thức và hoạt động thực tiễn,
khắc phục được khuynh hướng tả khuynh. Mọi biểu hiện không chú ý tích lũy
về lượng, chủ quan nôn nóng, duy ý chí chỉ muốn các bước nhảy tiếp tục sẽ dẫn
tới thất bại. Mặt khác, cần khắc phục tư tưởng hữu khuynh, ngại khó, ngại khổ,
lo sợ không dám thực hiện những bước nhảy vọt khi có đủ điều kiện. Trong
hoạt động thực tiễn, cần khắc phục những xu hướng tả khuynh bảo thủ, dung
hòa. Phải tích cực chuẩn bị kỹ mọi điều kiện khách quan và chủ quan. Mỗi khi
có tình thế, thời cơ thì kiên quyết tổ chức thực hiện bước nhảy để giành thắng
lợi quyết định.
* Quy luật phủ định của phủ định
- Vai trò quy luật: Quy luật này vạch ra khuynh hướng cơ bản, phổ biến của
sự vận động, phát triển của mọi sự vận động và phát triển diễn ra trong lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy. Theo đó sự phát triển của sự vật, hiện tượng có xu
hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn, phát triển
theo hình xoắn trôn ốc.
Theo triết học Mác - Lênin thì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế
giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất
đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự
thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định.
- Phủ định siêu hình là: phủ định làm cho sự vật vận động thụt lùi, đi
xuống, tan rã.
- Phủ định biện chứng là: Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng
để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình
dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng gắn
liền với sự vận động phát triển. Tuy nhiên có sự phủ định chỉ là phá hủy cái
cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến lên và lực lượng phủ định được đưa từ ngoài
vào kết cấu của sự vật, tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự
phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay cái cũ.
- Nội dung quy luật: Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản là tính
khách quan và tính kế thừa.
+ Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản
thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc
giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Mỗi sự vật có
phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản
thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào
ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình
phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển
của sự vật.
+ Tính kế thừa: vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân
của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái
mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra đời không xóa bỏ hoàn
toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp, những
mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây
cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời cũng là khẳng
định.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu,
một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định
(lần thứ 1), cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ định
lần thứ 2 (phủ định của phủ định).
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những
lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới
lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự
vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến
cao một cách vô tận theo đường "xoáy ốc" hay "vòng xoáy trôn ốc". Sau mỗi
chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời lặp lại cái cũ nhưng trên cơ
sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc
trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại,
tính tiến lên. Mỗi vòng của đường "xoáy ốc" thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn,
thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do
mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu
tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt
khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ
chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu. Sự phủ định lần thứ hai,
sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và
trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên vẹn như cái cũ mà trên cơ sở cao
hơn, tốt hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và
phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định
ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng
hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú
hơn, toàn diện hơn. Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của
một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự
vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới
ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của phủ
định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Ý nghĩa phương pháp luận: Lý luận trên cho ta ý nghĩa khi xem xét sự
vận động phát triển của sự vật, phải xem xét nó trong quan hệ cái mới ra đời từ
cái cũ, cái tiến bộ ra đời từ cái lạc hậu. Cần bênh vực, ủng hộ cái mới, tin tưởng
cái mới nhất định chiến thắng. Khi có những bước thụt lùi hoặc thoái trào, cần
xem xét kỹ lưỡng, phân tích nguyên nhân, tìm cách khắc phục để từ đó có niềm
tin vào thắng lợi của cái mới.
1.2. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã
hôi của triết học Mác – Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên
cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong
ba bộ phận hợp thành triết học Mác xít. Chủ nghĩa duy vật lịch sử lý giải sự
tiến hóa của xã hội loài người bằng sự phát triển của trình độ sản xuất. Trình
độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ sản xuất cũng thay đổi dẫn đến những mối
quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó cùng với những tư
tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay đổi kéo theo sự thay
đổi hệ thống pháp lý và chính trị. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác trở thành
phương pháp luận của nhiều nhà nghiên cứu trong các bộ môn như sử học, xã
hội học...
1.2.1. Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất
Sản xuất vật chất là yêu cầu khách quan, là cơ sở của sự tồn tại, vận động
và phát triển của xã hội. Trên cơ sở sản xuất vật chất mới hình thành các quan
điểm tư tưởng, quan hệ xã hội và các thiết chế xã hội khác nhau. Do đó, sản
xuất vật chất là cơ sở của mọi sự tiến bộ xã hội.
Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất vật chất trong một
giai đoạn nhất định của lịch sử. Mỗi phương thức sản xuất gồm hai mặt cấu
thành là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là
trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của phương thức
sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Tư
liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và công cụ lao động, trong đó công
cụ lao động là yếu tố động nhất, luôn đổi mới theo tiến trình phát triển khách
quan của sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan
hệ sở hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất, quan hệ của họ trong quá
trình tổ chức, quản lý và phân công lao động; quan hệ của họ trong phân phối
sản phẩm lao động. Ba mặt đó có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở
hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất là mặt quyết định các mối quan
hệ khác.
Phương thức sản xuất quyết định tính chất của xã hội. Xã hội là do những
con người với các hoạt động của mình tạo ra. Nhưng con người không thể tuỳ ý
lựa chọn chế độ xã hội cho mình. Những vĩ nhân hay nhà nước, những tư tưởng,
học thuyết khoa học không thể áp đặt được chế độ xã hội. Sự ra đời một chế độ
xã hội trong lịch sử do yếu tố hoàn toàn khách quan là phương thức sản xuất
quyết định. Phương thức sản xuất phong kiến quyết định tính chất của xã hội
phong kiến. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định tính chất của
chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa.
Phương thức sản xuất quyết định tổ chức kết cấu của xã hội. Tổ chức kết
cấu của xã hội bao gồm các tổ chức kinh tế, quan điểm tư tưởng, giai cấp, đảng
phái, nhà nước, thiết chế xã hội và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Tổ chức
kết cấu ấy không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà do phương
thức sản xuất quyết định. Mỗi phương thức sản xuất khác nhau sinh ra một kiểu
tổ chức kết cấu xã hội khác nhau.
Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển hoá của xã hội loài người qua
các giai đoạn lịch sử khác nhau. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển
của sản xuất, thực chất là sự phát triển của các phương thức sản xuất. Khi
phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thì chế độ xã
hội cũ mất theo và chế độ xã hội mới sẽ ra đời.
Loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất, tương ứng với nó là
năm chế độ xã hội là chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế
độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và cuối cùng là chế độ cộng sản chủ
nghĩa (giai đoạn thấp của nó là xã hội chủ nghĩa).
Ý nghĩa khi nghiên cứu mọi hiện tượng xã hội phải đi tìm nguồn gốc phát
sinh từ phương thức sản xuất, từ tất yếu kinh tế. Nhận thức đúng vai trò của
phương thức sản xuất trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trọng tâm, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn
với kinh tế tri thức.
1.2.2. Những quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội
* Quy luật về sự phù hợp của tính chất và trình độ quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của mỗi quá trình sản xuất, bao
gồm các yếu tố tư liệu sản xuất và người lao động, trong đó người lao động là
yếu tố cơ bản nhất, giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất; còn quan hệ
sản xuất là mối quan hệ xã hội giữa con người với nhau trong quá trình sản
xuất, đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình ấy, bao gồm các quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ
phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Trong mỗi phương thức
sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau. Lực
lượng sản xuất là nội dung vật chất, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của
phương thức sản xuất. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là mối quan hệ nội dung và hình thức của quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất như thế nào về trình độ thì quan hệ sản xuất phù hợp
như thế ấy. Trình độ lực lượng sản xuất thủ công, với công cụ thô sơ có tính
chất cá nhân thì phù hợp với nó là quan hệ sản xuất cá thể. Khi trình độ lực
lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. Do con người
luôn tích luỹ sáng kiến và kinh nghiệm, luôn cải tiến công cụ và phương pháp
sản xuất nên lực lượng sản xuất luôn phát triển.
Ngày nay, khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức phát triển đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ nào đó mà quan
hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa nó sẽ cản trở hoặc mâu thuẫn gay gắt với lực
lượng sản xuất. Để tiếp tục phát triển, lực lượng sản xuất phải phá vỡ quan hệ sản
xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản
xuất.
Vai trò tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất không phù hợp
thì nó kìm hãm, thậm chí phá vỡ lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
khi nó tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của lực lượng sản
xuất (người lao động, công cụ, đối tượng lao động) kết hợp với nhau một cách
hài hoà để sản xuất phát triển và đưa lại năng suất lao động cao.
Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không phải chỉ
thực hiện một lần là xong mà diễn ra cả một quá trình. Mỗi khi sự phù hợp
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất bị phá vỡ là mỗi lần điều chỉnh, thay
bằng sự phù hợp khác cao hơn.
Ý nghĩa của vấn đề: Ở đâu có đối tượng lao động thì ở đó cần có người
lao động và công cụ lao động tương ứng với trình độ, kỹ năng của người lao
động. Phải làm rõ các quan hệ sở hữu, cách thức tổ chức quản lý quá trình sản
xuất và các hình thức phân phối phù hợp mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển.
* Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, bao gồm quan hệ sản xuất thống trị,
quan hệ sản xuất còn lại của hình thái kinh tế - xã hội trước và quan hệ sản xuất
của hình thái kinh tế - xã hội tương lai. Trong ba loại quan hệ sản xuất đó thì
quan hệ sản xuất thống trị là chủ đạo và chi phối các quan hệ sản xuất khác và
là đặc trưng của cơ sở hạ tầng đó. Cơ sở hạ tầng có tính giai cấp.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng chính trị,
pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học... và những thiết chế tương
ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các tổ chức quần chúng..., được hình
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định và phản ánh cơ sở hạ tầng đó. Mỗi bộ phận
của kiến trúc thượng tầng có đặc trưng, quy luật vận động và mối liên hệ riêng
với cơ sở hạ tầng và liên hệ tác động lẫn nhau.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng có tính chất giai cấp. Cơ
sở hạ tầng thế nào thì kiến trúc thượng tầng xây dựng tương ứng. Quan hệ sản
xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Khi cơ
sở hạ tầng biến đổi, kiến trúc thượng tầng biến đổi theo. Biến đổi cơ sở hạ tầng,
sớm hay muộn cũng dẫn tới biến đổi kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng cũ
mất đi, cơ sở hạ tầng mới ra đời, sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũ cũng
mất đi và kiến trúc thượng tầng mới ra đời. Kiến trúc thượng tầng là lĩnh vực ý
thức xã hội có tính chất độc lập tương đối. Khi cơ sở hạ tầng mất đi nhưng các
bộ phận của kiến trúc thượng tầng mất theo không đều, có bộ phận vẫn tồn tại,
thậm chí nó còn được sử dụng. Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại, bảo vệ
cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Kiến trúc thượng tầng là tiên tiến khi nó bảo vệ cơ
sở hạ tầng tiến bộ và tác động thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Kiến trúc
thượng tầng bảo thủ, lạc hậu sẽ tác động kìm hãm nhất thời sự phát triển cơ sở
hạ tầng, sớm hay muộn nó cũng sẽ bị thay thế. Mỗi bộ phận của kiến trúc
thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo hình thức và mức độ khác nhau,
trong đó nhà nước có vai trò quan trọng và có hiệu lực mạnh nhất vì nhà nước
là công cụ quyền lực, hiệu quả của giai cấp thống trị xã hội.
Ý nghĩa của vấn đề: Kinh tế quyết định chính trị, muốn hiểu các hiện
tượng, quá trình xã hội phải xem xét cơ sở kinh tế nảy sinh các hiện tượng xã
hội đó. Nhưng chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, có khả năng thúc đẩy,
phát triển kinh tế.

2. Kinh tế chính trị Mác – Lênin


Kinh tế chính trị Mác – Lênin hay kinh tế chính trị học Mác - Lênin là
một lý thuyết về kinh tế chính trị do Mác, Ăngghen và sau này là Lê-nin phát
triển trong giai đoạn mới, có đối tượng nghiên cứu là phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Những nghiên cứu về kinh tế chính trị của Mác
và Lênin cung cấp cơ sở lý luận cho những học thuyết khác về chính trị, triết
học, xã hội học của họ. Cốt lõi của kinh tế chính trị Mác - Lênin là học thuyết
giá trị thặng dư của Mác.
Để làm rõ điều đó, kinh tế chính trị học Mác - Lênin bắt đầu từ việc xây
dựng học thuyết giá trị, học thuyết giá trị thặng dư.
2.1. Học thuyết giá trị
Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của Mác.
Bằng việc phân tích hàng hoá, Mác vạch ra quan hệ giữa người với người
thông qua quan hệ trao đổi hàng hoá, đó chính là lao động, cơ sở của giá trị
hàng hoá.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, dùng để thoả mãn nhu cầu nhất định
nào đó của con người thông qua trao đổi mua bán.
Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu
cầu nào đó của con người. Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá
quyết định. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện như là một quan hệ số lượng, là một tỷ lệ
theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng
loại khác.
Giá trị của hàng hoá (kí hiệu: G) là lượng lao động xã hội cần thiết của
người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, còn giá trị trao đổi chỉ là hình
thái biểu hiện của giá trị hàng hoá. Sở dĩ giá trị của hàng hoá được đo bằng thời
gian lao động xã hội cần thiết, vì một loại hàng hoá đưa ra thị trường là do
nhiều người sản xuất ra nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình
độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra
hàng hoá của họ khác nhau, do đó lượng giá trị cá biệt của hàng hoá mà từng
người sản xuất ra là khác nhau. Để trao đổi hàng hoá đó với nhau, không thể
căn cứ vào giá trị cá biệt của hàng hoá mà phải căn cứ vào giá trị xã hội của nó,
hay nói cách khác là lượng lao động xã hội cần thiết hoặc thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó.
Thước đo lượng giá trị của hàng hóa là thời gian lao động xã hội cần thiết
- thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường
của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động
trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của
hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tùy thuộc vào
năng suất lao động và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động. Hay nói
cách khác, năng suất lao động và mức độ phức tạp của lao động là hai nhân tố
tác động ảnh hưởng trực tiếp đến lượng giá trị của hàng hóa.
Năng suất lao động (NSLĐ) xã hội là năng lực sản xuất của lao động
được tính bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian
hoặc lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất
lao động xã hội càng tăng, thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng
giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao
động xã hội càng giảm, thì thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng tăng
và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Như vậy, năng suất lao
động tỷ lệ nghịch với thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng
hoá – giá trị của hàng hoá (G). NSLĐ tăng thì G giảm và NSLĐ giảm thì G
tăng. Năng suất lao động tùy thuộc vào nhiều yếu tố: trình độ khéo léo của
người lao động, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, hiệu quả
việc sử dụng tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên, trình độ tổ chức quản lý
trong sản xuất…
Chất lượng của lao động hay mức độ phức tạp của lao động tỷ lệ thuận
với giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao
động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao
động của bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể
thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được huấn luyện
đào tạo thành lao động lành nghề, với trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày
càng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Việc sản xuất và trao đổi hàng
hoá thể hiện sự liên hệ giữa những người sản xuất riêng lẻ với nhau, do thị
trường làm trung gian. Lao động giản đơn tạo ra giá trị hàng hóa thấp, còn lao
động càng phức tạp tạo ra giá trị hàng hóa càng cao. Chính vì vậy, các nhà sản
xuất cạnh tranh nhau chính là cạnh tranh ở năng suất lao động và sử dụng lao
động có trình độ chất xám cao. Để làm được như vậy, họ đầu tư phát triển trình
độ lực lượng sản xuất, tập trung phát triển khoa học công nghệ và giáo dục đào
tạo bằng những chính sách nghiên cứu và phát triển không ngừng ở cấp quốc
gia và doanh nghiệp.
Cấu thành lượng giá trị hàng hóa chính là bằng hao phí lao động quá khứ
(giá trị tư liệu sản xuất kí hiệu là c) và hao phí lao động sống của người sản
xuất trong quá trình tạo ra hàng hóa (giá trị mới kí hiệu là v + m).
Vậy: G = c + v + m.
Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất
hiện của tiền tệ. Tiền là sản phẩm của lưu thông hàng hoá, bắt đầu từ những
hành vi trao đổi riêng lẻ ngẫu nhiên, qua nhiều bước, cuối cùng đến hình thái
tiền tệ.
Vậy tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng
hóa làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa đem trao đổi; nó thể hiện
lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
Tiền tệ có những chức năng như sau:
Thước đo giá trị, tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của hàng
hóa. Muốn đo lường giá trị của hàng hóa, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy,
tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Giá trị hàng hóa được
biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa. Nên giá cả hàng hóa do các yếu tố
quyết định là giá trị hàng hóa, giá trị của tiền và ảnh hưởng của quan hệ cung -
cầu.
Phương tiện lưu thông, chức năng của tiền lúc này chỉ làm môi giới trong
quá trình trao đổi, tách rời giữa hai quá trình mua và bán, nên nó chứa đựng
mầm mống của quá trình khủng hoảng kinh tế. Trong lưu thông, để cho thuận
lợi và nhanh chóng với khối lượng hàng hóa khổng lồ, những hình thức tiền tệ
xuất hiện lần lượt trong lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa như: vàng
thoi, bạc nén, tiền giấy, tiền kỹ thật số… Đặc biệt, khi sự ra đời của tiền giấy,
bản thân nó không có giá trị mà chỉ là kí hiệu giá trị và được công nhận trong
phạm vi quốc gia. Nên từ khi tiền giấy ra đời, nền kinh tế hay bị tác động
khủng hoảng kinh tế do lạm phát hay giảm phát đều nói đến lượng cung tiền
trong nền kinh tế của quốc gia.
Quy luật lưu thông tiền tệ thể hiện như sau: Tổng lượng tiền cần thiết
trong lưu thông bằng giá cả của đơn vị hàng hóa nhân với khối lượng hàng hóa
dịch vụ đưa vào lưu thông tất cả chia cho số vòng lưu thông của một đơn vị
tiền tệ.
Phương tiện cất trữ, tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Tiền làm
được chức năng này là vì tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá
trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương
tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm
cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết
cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được
đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hóa ít thì một
phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
Phương tiện thanh toán, tiền được dung để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua
chịu hàng… việc mua chịu bán chịu phát triển rộng rãi trong nền kinh tế, nếu
đến kỳ thanh toán do trục trặc khoản nào đó không thanh toán được, cũng có
thể phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
Tiền tệ thế giới, khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền
làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị và đó
chính là vàng. Vàng được dung làm phương tiện mua bán hàng hóa, phương
tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Ở đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật
giá trị.
Nội dung của quy luật giá trị cho rằng, sản xuất và trao đổi hàng hóa
phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Có nghĩa là người sản
xuất muốn bán được hàng hóa và có lãi thì phải điều chỉnh mức hao phí lao
động cá biệt phù hợp với mức hao phí lao động trung bình của xã hội. Còn khi
trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước
hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ
cao và ngược lại. Thực tế trên thị trường, ngoài yếu tố giá trị, giá cả còn chịu
tác động của cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự vận động giá cả
thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị. Đó chính là cơ chế hoạt động
của quy luật giá trị.
Tác dụng của quy luật giá trị: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa,
tác dụng này điều chỉnh mối quan hệ cung – cầu đến trạng thái cân bằng, điều
chỉnh giá cả một cách hợp lý theo quy luật giá trị; kích thích cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động và phát triển lực lượng sản xuất
của xã hội dưới sự tác động của cạnh tranh; thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và
phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu người nghèo.
Ý nghĩa của học thuyết giá trị, hiểu rõ quy luật giá trị sẽ có kiến thức
điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá; kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá
sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Từ đó
giúp cho chúng ta hiểu rõ nguyên nhân của việc lựa chọn tự nhiên và phân hoá
giữa người với người trong nền sản xuất hàng hoá; nguyên nhân của sự phân
hoá xã hội thành người giàu, người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội
để có phương hướng, giải pháp khắc phục.
2.2. Học thuyết giá trị thặng dư
Học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong toàn bộ học thuyết kinh
tế của Mác, là đóng góp to lớn của ông trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Nó chỉ
ra bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Học thuyết chỉ ra rằng, sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất
định thì tiền biến thành tư bản. Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng
hóa, đồng thời cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của lưu thông tư bản. Mọi
tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản
thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều
kiện nhất định. Khi chúng được sử dụng đề bóc lột lao động của người khác.
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích lưu thông của tư bản là
sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động của tư bản là không
có giới hạn, vì sự lớn lên của tư bản là không có giới hạn.
C.Mác gọi công thức chung của tư bản là T – H – T’, vì sự vận động của
mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản
thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay. Trong công thức chung
T’ > T, T’ – T = Δt. Δt là giá trị thặng dư.
Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản không thể phát sinh từ bản thân số
tiền đó, mà là ở hàng hóa trong quá trình vận động của tư bản. Đó là một loại
hàng hóa đặc biệt vì giá trị sử dụng của nó là nguồn gốc sinh ra giá trị lớn hơn
giá trị bản thân nó. Thứ hàng hóa đặc biệt đó chính là sức lao động mà nhà tư
bản đã tìm thấy trên thị trường. Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện
quyết định để tiền biến thành tư bản. Khi sức lao động trở thành hàng hoá thì
tiền tệ mang hình thái tư bản trong mối quan hệ giữa nhà tư bản và lao động
làm thuê, làm xuất hiện sự chiếm đoạt giá trị thặng dư. Mục đích của sản xuất
tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, cũng không phải là
giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư.
Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và
tinh thần tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất
hàng hoá. Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của
sản xuất. Nhưng sức lao động không phải bao giờ cũng là hàng hóa, nó chỉ biến
thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất định. Những điều kiện đó là:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, họ có toàn quyền
bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, người lao động bị tước đoạt hết về tư liệu sản xuất. Khi bị tước
đoạt mọi tư liệu sản xuất, để sống họ buộc phải bán sức lao động của mình.
Sức lao động biến thành hàng hóa là nhân tố đánh dấu một giai đoạn phát
triển mới trong sự phát triển sản xuất hàng hóa trở thành hình thái phổ biến sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Sự cưỡng bức lao động bằng các biện pháp phi
kinh tế trong chế độ nô lệ và chế độ phong kiến được thay bằng hợp đồng mua
bán bình đẳng về hình thức giữa người sở hữu sức lao động và người sở hữu tư
liệu sản xuất.
Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có thuộc tính
là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức sao động chỉ
tồn tại như năng lượng, sức lực con người sống, muốn tái sản xuất ra năng
lượng đó người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.
Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được
quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt ấy. Hay nói cách khác, giá trị hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp
bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần để tái sản xuất sức lao
động của chính bản thân và gia đình họ. Ngoài ra còn có chi phí đào tạo nên
trình độ hay mức độ của lao động đó.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện trong quá trình
tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá
trình đó là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó; đồng thời là quá
trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân hàng hóa sức lao động. Phần lớn
hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử
dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, là nguồn gốc sinh ra giá
trị, tức là nó có thể sinh ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Như vậy, giá
trị của hàng hoá sức lao động biểu hiện bằng tiền công, tiền lương của người
công nhân làm thuê do người chủ tư bản trả. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức
lao động biểu hiện người công nhân chỉ cần dùng một phần ngày lao động để
sản xuất ra một khối lượng hàng hoá ngang bằng với chi phí nuôi bản thân và
nuôi gia đình mình (tiền công), phần còn lại thì làm không công, tạo ra giá trị
thặng dư cho nhà tư bản, đó là nguồn gốc lợi nhuận, nguồn gốc giàu có của chủ
tư bản. Đó cũng là nội dung căn bản nhất của học thuyết giá trị thặng dư.
Tóm lại, tư bản không phải là vật, là tiền mà là một quan hệ sản xuất xã
hội (mặc dù hình thức biểu hiện ban đầu của tư bản là một lượng tiền nhất
định). Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột người công
nhân làm thuê. Sở dĩ tư bản có giá trị này là do người công nhân không có công
cụ, phương tiện để vật hoá lao động của mình. Để sống, để tồn tại, người công
nhân buộc phải bán sức lao động của mình. Sau khi mua sức lao động, nhà tư
bản có quyền sử dụng hàng hoá sức lao động này. Mục đích của các nhà tư bản
là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa.
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư diễn ra trong xí nghiệp tư bản chủ nói
riêng và trong chủ nghĩa tư bản nói chung, là quá trình nhà tư bản mua sức lao
động, tư liệu sản xuất và tiến hành sản xuất. Người công nhân làm việc dưới sự
quản lý và kiểm soát của nhà tư bản, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư
bản và họ quyết định việc phân chia giá trị sức lao động và giá trị thặng dư từ
nguồn gốc giá trị mới của người công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất.
Nhà tư bản sẽ ứng trước ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao
động là để tạo ra giá trị thặng dư. Quá trình tạo ra giá trị thặng dư được Mác
phân tích rất kỹ lưỡng qua bài toán kéo sợi giả dụ của ông.
Để chế tạo ra 01 kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền gồm:

 20.000 đơn vị tiền tệ để mua 1 kg bông


 3.000 đơn vị tiền tệ cho hao phí máy móc
5.000 đơn vị tiền tệ để mua sức lao động của công nhân điều khiển

máy móc trong 01 ngày (10 giờ).
 Tổng cộng: 28.000 đơn vị tiền tệ.
Giả định việc mua này đúng giá trị và mỗi giờ lao động của công nhân tạo
ra giá trị mới kết tinh vào sản phẩm là 1.000 đơn vị.
Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể, công nhân sử dụng máy
móc để chuyển 1 kg bông thành 1 kg sợi, theo đó giá trị của bông và hao mòn
máy móc cũng được chuyển vào sợi. Tỷ dụ chỉ trong 5 giờ công nhân đã kéo
xong 1 kg bông thành 1 kg sợi, thì giá trị 1 kg sợi được tính theo các khoản chi
phí như sau:

 Giá trị 1 kg bông chuyển vào = 20.000 đơn vị


 Hao mòn máy móc = 3.000 đơn vị
 Giá trị mới tạo ra: 5 giờ X 1.000 đơn vị = 5.000 đơn vị
 Tổng cộng = 28.000 đơn vị tiền tệ.
Nếu quá trình lao động ngừng ở đây thì nhà tư bản chưa có được giá trị
thặng dư vì nếu bán hàng hóa đi thì chi phí này bằng với chi phí ban đầu đã bỏ
ra và chỉ huề vốn.
Thời gian lao động (5 giờ) mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị
ngang với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động tất
yếu, tương tự lao động trong khoảng thời gian ấy gọi là lao động tất yếu.
Tuy nhiên, nhà tư bản đã mua sức lao động trong 1 ngày với 10 giờ, chứ
không phải 5 giờ. Như vậy, trong 5 giờ lao động tiếp theo, nhà tư bản chỉ
phải chi thêm 20.000 đơn vị để mua 1 kg bông và 3.000 đơn vị hao mòn máy
móc mà không phải chi thêm tiền công mướn lao động nữa. Và với 5 giờ lao
động sau, người công nhân vẫn tạo ra 5.000 đơn vị giá trị mới (mà không được
chi thêm đồng nào theo đợt thứ 2 này) và nhà tư bản lại có thêm 1 kg sợi bán đi
với giá trị 28.000 đơn vị.
Và bảng giá tính tiền trong 5 giờ sau vẫn giống như 5 giờ ban đầu gồm
chi phí nguyên liệu: 20.000 đơn vị, hao mòn máy móc: 3.000 đơn vị, giá trị
mới: 5.000 đơn vị, tổng số: 28.000 đơn vị. Nhưng khác với bảng giá lần 1, chi
phí đầu vào lần 2 này không có khoản 5.000 đơn vị để mua sức lao động.
Tổng cộng số tiền nhà tư bản chi ra để có được 2 kg sợi sẽ là:

 Tiền mua bông: 20.000 x 2 lần sản xuất = 40.000 đơn vị


 Hao mòn máy móc (máy chạy 10 tiếng): 3.000 x 2 lần sản xuất
= 6.000 đơn vị
 Tiền lương công nhân sản xuất cả ngày (trong 10 giờ, tính theo
đúng giá trị sức lao động) = 5.000 đơn vị
 Tổng cộng = 51.000 đơn vị
Tổng giá trị của thu được của 2 kg sợi là: 2 kg x 28.000/kg = 56.000
đơn vị
Như vậy, lượng giá trị thặng dư thu được là:
56.000 (bán được) - 51.000 (chi phí) = 5.000 đơn vị
(5.000 dư này là do chiếm đoạt lao động không công của công nhân mà
có).
Thời gian lao động (5 giờ) để tạo ra giá trị thặng dư gọi là thời gian lao
động thặng dư, và lao động trong thời gian ấy gọi là lao động thặng dư và Giá
trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Nhà tư bản chi phối
được số lao động không công ấy vì nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất.
Mác nói: “Bí quyết của sự tự tăng thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ
tư bản chi phối được một số lượng lao động không công nhất định của người
khác”.
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị
sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Qua quá trình sản xuất giá trị thặng dư có thể thấy rằng, giá trị mới do
người công nhân tạo ra bao gồm giá trị sức lao động và giá trị thặng dư. Và
thời gian một ngày lao động của công nhân chia làm hai phần đó là thời gian
lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối do kéo dài thời gian lao động vượt quá
thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và
thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Ví dụ các nhà tư bản thường sử dụng
các biện pháp như kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, giảm tiền
công…
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối do rút ngắn thời gian lao động tất yếu
bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động
thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Biện pháp
mà các nhà tư bản thường dùng là áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ,
cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động xã hội để thu nhiều giá trị thặng
dư.
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất gía trị thặng dư, có thể định nghĩa
chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công
nhân lao động làm thuê. Như vậy bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản
xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp
công nhân tạo ra.
Trong quá trình sản xuất, tư bản ứng ra ban đầu có thể được chia thành
hai phần là tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Tư bản bất biến (c) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức giá trị các tư
liệu sản xuất như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên liệu, vật liệu
phụ… mà giá trị của nó được bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm và
trong quá trình đó giá trị của nó không đổi.
Tư bản khả biến (v) là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức giá trị sức lao
động (tức bộ phận tư bản dùng để trả lương). Trong quá trình sản xuất nó được
tăng lên về lượng, do giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có điểm đặc
biệt là khi được tiêu dùng thì nó tạo ra được một lượng giá trị mới lớn hơn giá
trị bản thân. Tư liệu sản xuất có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất,
quyết định năng suất lao động của công nhân.
Giá trị của hàng hoá G = c + v + m
Tích luỹ tư bản.
Tích luỹ tư bản là tư bản hoá một phần giá trị thặng dư, tức biến một phần
giá trị thặng thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.
Động cơ của tích luỹ tư bản là tăng cường tìm kiếm giá trị thặng dư
nhưng mặt khác tích luỹ tư bản cũng là một đòi hỏi tất yếu của cạnh tranh trong
nền kinh tế thị trường.
Nguồn gốc duy nhất của tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư và tích luỹ tư
bản lại ngày càng làm tăng quy mô tư bản đầu tư, và từ đó lại thu được giá trị
thặng dư ngày càng nhiều. Ở đây nhờ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất mà nhà
tư bản có quyền chiếm đoạt giá trị thặng dư do người khác làm ra.
Nhà tư bản thường làm tăng quy mô khối lượng giá trị thặng dư bằng
nhiều cách khác nhau. Đơn giản là cắt xén tiền công, tăng cường độ lao động,
kéo dài ngày lao động… Tinh vi hơn là gián tiếp thông qua sự phát triển của
khoa học - công nghệ từ đó làm gia tăng năng suất lao động ở từng doanh
nghiệp và trên toàn xã hội tư bản.
Quy luật chung của tích luỹ tư bản là quá trình tích luỹ sự giàu có về số ít giai
cấp tư sản và tích luỹ sự bần cùng về phía giai cấp công nhân và quần chúng lao
động làm cho đời sống của họ nghèo khổ, thất nghiệp, bần cùng hoá, sự bất công tất
yếu dẫn tới mâu thuẫn và đấu tranh giữa tư bản và công nhân ngày càng gay gắt,
quyết liệt.
Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối, là cơ sở tồn tại và
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Quy luật này vạch rõ mục đích và phương tiện
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là
sản xuất giá trị thặng dư ngày càng nhiều càng tốt. Phương tiện để đạt mục đích
là cải tiến, phát triển khoa học kĩ thuật, tăng năng suất lao động, mở rộng quy
mô sản xuất, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động…
Thật vậy, quá trình sản xuất giá trị thặng dư đã phản ánh mối quan hệ
kinh tế bản chất của chủ nghĩa tư bản. Đó là quan hệ tư bản bóc lột lao động
làm thuê. Giá trị thặng dư là do lao động không công của người công nhân tạo
ra là nguồn gốc làm giàu của tư bản. Quy luật đã phản ánh bản chất của tư bản
là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm
thuê.
Mục đích của sản xuất tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là sản
xuất ra giá trị thặng dư. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hóa với chất
lượng tốt nhất có thể thì đó cũng chỉ nhằm mục đích thu được giá trị thặng dư
tối đa.
Sản xuất giá trị thặng dư tối đa còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn bóc lột
của nhà tư bản là tăng cường độ lao động, tăng năng suất lao động, tích lũy tư
bản, tái sản xuất mở rộng…
Như vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt, các quá trình kinh tế và là mục địch,
động lực phát triển của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản ngày càng
văn minh, hiện đại, khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển, tăng năng suất lao
động, tạo ra lượng hàng hóa khổng lồ, thúc đẩy mức sống nhân loại ngày càng
cao. Đồng thời, quy mô giá trị thặng dư tăng lên, tích luỹ tư bản càng lớn, thủ
tiêu sản xuất nhỏ càng nhanh, sản xuất lớn phát triển và càng thu lượng giá trị
thặng dư khổng lồ.
Sự cạnh tranh trong sản xuất, tìm thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường
nguyên liệu… là nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng kinh tế với quy
mô ngày càng lớn. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động bị bóc lột nhiều hơn.
Tính chất xã hội hoá lực lượng sản xuất mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất trong chủ nghĩa tư bản. Những mâu thuẫn ấy được
biểu hiện qua các hoạt động đấu tranh chống giai cấp tư sản, chống chế độ
chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất tất yếu sẽ bùng nổ.
Tóm lại, quy luật giá trị thặng dư có tác động mạnh mẽ trong xã hội tư
bản. Một mặt nó thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, tăng
năng suất lao động xã hội, xã hội hoá sản xuất tạo ra nhiều hàng hoá đa dạng,
phong phú. Mặt khác, nó làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản
ngày càng gay gắt, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình
thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi mức độ nào đó với điều kiện
mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản vẫn còn nguyên vẹn, bản chất
bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Nhưng trong điều kiện hiện
nay, với sự phát triển của trình độ lực lượng sản xuất nên quá trình sản xuất
giá trị thặng dư có những đặc điểm mới như sau:
Một là, do sự tiến bộ của kỹ thuật và công nghệ, nên khối lượng giá trị
thặng dư được tạo ra nhờ việc áp dụng công nghệ làm tăng năng suất sao động.
Quá trình đó làm cho chi phí lao động sống giảm, máy móc thiết bị thay thế
được nhiều lao động hơn, xu hướng thất nghiệp ngày càng gia tăng trong xã hội
tư bản phát triển và nhà tư bản tăng cường trình độ bóc lột khi phải sử dụng lao
động phức tạp có trình độ chất xám cao làm cho cơ cấu lao động trong quá
trình sản xuất tư bản thay đổi.
Hai là, sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế
ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức như: xuất khẩu tư bản và hàng
hóa, trao đổi thương mại không ngang giá… lợi nhuận siêu ngạch của các
nước tư bản chủ nghĩa từ việc bòn rút tài nguyên, lao động từ các nước nghèo
đã tăng lên rất nhiều lần. Và đó là nguyên nhân tạo khoảng cách giữa các nước
giàu và các nước nghèo, nạn hủy hoại môi sinh, môi trường ngày càng nghiêm
trọng đe dọa sự sống còn của cả hành tinh.
Ý nghĩa của học thuyết giá trị thặng dư đã bóc trần bản chất của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa; chứng minh khoa học về cách thức bóc lột của giai cấp
tư sản và luận chứng những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm xoá bỏ mọi chế độ áp
bức bóc lột tư bản chủ nghĩa là tất yếu. Học thuyết giá trị thặng dư còn trang bị
cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động công cụ nhận thức các quy luật
kinh tế, thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, tạo ra nhiều hàng hoá phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội
mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Học thuyết giá trị thặng dư là biểu hiện mẫu mực
nghiên cứu và vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào sự phân tích các quá
trình kinh tế trong xã hội tư bản. Nó cung cấp tri thức về lịch sử phát triển của
sản xuất tư bản chủ nghĩa, là cơ sở khoa học để phân tích nguyên nhân và dự
báo chiều hướng phát triển kinh tế và xã hội.

3. Chủ nghĩa xã hội khoa học


Chủ nghĩa xã hội khoa học là thuật ngữ được Ph.Ăngghen nêu ra để mô tả
các lý thuyết về kinh tế-chính trị-xã hội do C.Mác và ông sáng tạo. Thuật ngữ
này đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng vì nó trình bày một cách có hệ
thống, nêu bật lên được những điều kiện và tiền đề cho việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội khoa học. Nó chỉ rõ con đường hiện thực dựa vào khoa học để thủ
tiêu tình trạng người bóc lột người và đưa ra một tổ chức xã hội mới không biết
đến những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản mà những người theo chủ nghĩa xã
hội không tưởng đã mơ ước nhưng không thực hiện được.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp
thành của chủ nghĩa Mác-Lênin, nghiên cứu sự vận động xã hội nhằm thủ tiêu
chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học đã dựa trên phương pháp
luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời cũng dựa trên
những cơ sở lý luận khoa học về các quy luật kinh tế cho sự ra đời, tồn tại và
phát triển của chủ nghĩa tư bản để luận giải một cách khoa học về quá trình nảy
sinh cách mạng xã hội chủ nghĩa, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa, gắn liền với sứ mệnh lịch sử có tính toàn thế
giới của giai cấp công nhân hiện đại, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã
hội.
Theo nghĩa rộng, Lênin khẳng định "chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ
nghĩa Mác". Vì triết học Mác lẫn kinh tế chính trị Mác đều dẫn đến cái tất yếu
lịch sử là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Theo họ, những người lãnh đạo, tổ chức cùng nhân dân
thực hiện sự nghiệp cách mạng lâu dài và triệt để đó chỉ có thể là giai cấp công nhân
hiện đại, thông qua đảng của nó. Lênin nhận định, bộ "Tư bản" là tác phẩm chủ yếu
và cơ bản trình bày về chủ nghĩa xã hội khoa học, những yếu tố từ đó nảy sinh ra
chế độ tương lai.
3.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nội dung quan trọng của lý thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học là sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là một thành tích
của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Định nghĩa giai cấp công nhân: C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số
thuật ngữ khác nhau về giai cấp công nhân như giai cấp vô sản, giai cấp công
nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp thế kỷ XIX… Các ông coi
giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động không phải chủ sở
hữu của phương tiện, của tư liệu sản xuất mà phải bán sức lao động, tạo ra giá
trị thặng dư để có tiền lương cho mình và làm giàu cho xã hội. Họ là con đẻ của
nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, đại biểu cho lực lượng sản xuất
tiên tiến, hiện đại. Ph.Ăngghen định nghĩa: “Giai cấp vô sản là một giai cấp xã
hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán sức lao động của mình, chứ không
phải kiếm sống bằng lợi nhuận của bất cứ tư bản nào... Nói tóm lại, giai cấp vô
sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX”.
V.I.Lênin bổ sung, giai cấp công nhân sau cách mạng vô sản, giành được chính
quyền đã trở thành người chủ, lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức phát triển,
công nhân có trình độ ngày càng cao, làm việc ở những ngành ứng dụng công
nghệ cao, khái niệm công nhân đã có những thay đổi. Đảng ta định nghĩa:
“Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển,
bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương
trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất
kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Nguyện vọng và lợi ích
căn bản của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, giành
lấy chính quyền, tổ chức xây dựng chế độ mới với chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất.
Lợi ích của công nhân về cơ bản là phù hợp với lợi ích của quần chúng
lao động nên giai cấp công nhân có thể là lực lượng trung tâm, đoàn kết các
giai cấp, tầng lớp khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải
phóng mình và toàn xã hội.
* Những điều kiện khách quan qui định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
- Về địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân, giai cấp công nhân là
sản phẩm của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, đại biểu cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất tiến bộ. Trình độ của họ ngày càng cao trước xu hướng phát
triển nhanh chóng của nền đại công nghiệp trong xã hội tương lai nên giai cấp
công nhân có địa vị cao trong nền kinh tế, chính trị, xã hội đó mà các giai cấp
khác không thể có đựợc.
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến vì họ đại biểu cho
phương thức sản xuất hiện đại nhất, gắn với khoa học và công nghệ tiên tiến -
xu hướng của xã hội tương lai.
Thứ hai, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để. Trong xã hội
tư bản, họ luôn đi đầu đấu tranh vì những quyền lợi, địa vị, lợi ích lẽ ra là của
họ. Trong sản xuất, công nhân luôn đổi mới, cải cách điều kiện làm việc, nâng
cao năng suất lao động. Mục đích của họ không chỉ là giải phóng mình mà còn
giải phóng toàn bộ xã hội.
Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao vì họ lao động
trong hệ thống sản xuất có tính chất dây chuyền với yêu cầu nghiêm ngặt về kỷ
luật lao động và thói quen của lối sống đô thị tập trung, tuân thủ pháp luật nhà
nước.
Thứ tư, giai cấp công nhân có tinh thần quốc tế vô sản vì nền sản xuất
công nghiệp tư bản chủ nghĩa có tính chất quốc tế; lao động của họ có tính chất
quốc tế. Chủ nghĩa tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn chiến thắng nó, cần
phải có sự đoàn kết quốc tế.
3.2. Tiến trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ
nghĩa
3.2.1. Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ là thời kỳ chuyển tiếp từ trạng thái này sang trạng thái
khác trong quá trình vận động và phát triển nhưng đang ở giai đoạn trung gian.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc
toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã
hội cũ sang xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tồn tại đan xen
những yếu tố của xã hội cũ và những nhân tố của xã hội mới. Cái cũ trong các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội chưa xoá bỏ hết, cái mới được xây
dựng chưa đầy đủ, còn non yếu. Trong thời kỳ quá độ, cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp tư sản vừa bị đánh bại, có sự cấu kết giữa các lực lượng chống
phá trong, ngoài nước với giai cấp công nhân và nhân dân lao động vẫn còn
tiếp diễn. Các giai cấp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Về kinh tế còn tồn
tại nhiều thành phần kinh tế, vừa thống nhất vừa cạnh tranh với nhau. Về tư
tưởng văn hoá, tồn tại tư tưởng của giai cấp bóc lột vừa bị đánh đổ, tư tưởng
tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, các yếu tố văn hoá cũ và mới, tồn tại đan xen ảnh
hưởng lẫn nhau. Các yếu tố đó vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau nên cần
có thời gian để giai cấp công nhân và nhân dân lao động lãnh đạo xây dựng
toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, con người mới từng bước vững
chắc.
Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực kinh tế:
phát triển lực lượng sản xuất xã hội, tiến hành công nghiệp hoá để xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội với những bước đi, hình thức thích
hợp. Đồng thời từng bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản
xuất mới trên cơ sở của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Trong lĩnh vực chính trị: xây dựng củng cố nhà
nước vô sản, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân; xây dựng Đảng cộng sản trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo
cách mạng; đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, xâm hại quyền làm chủ của
nhân dân; tiến hành đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá
cách mạng của các thế lực thù địch. Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: xây
dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, kế thừa tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp
thu có chọn lọc giá trị văn hoá nhân loại; khắc phục những tư tưởng và tâm lý
ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong lĩnh vực
xã hội: khắc phục, hạn chế những tệ nạn xã hội; từng bước khắc phục sự chênh
lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội; từng bước
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
3.2.2. Hai giai đoạn chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
* Chủ nghĩa xã hội: là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, là xã hội
có những đặc trưng cơ bản: Cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa
là nền đại công nghiệp ở trình độ cao, tạo ra năng suất lao động cao hơn hẳn
năng suất lao động trong xã hội tư bản. Có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất;
không còn chế độ người bóc lột người. Cách tổ chức lao động và kỷ luật lao
động trên tinh thần tự giác, tự nguyện. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động và phân phối theo phúc lợi xã hội ngày càng tăng. Là xã hội dân chủ, Nhà
nước có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, phát triển toàn diện.
* Chủ nghĩa cộng sản: Chủ nghĩa Mác - Lênin dự báo về xã hội cộng sản
chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản là: Lực lượng sản xuất phát triển rất cao,
của cải xã hội trở nên dồi dào, khoa học phát triển, lao động trở thành nhu cầu
của con người, “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Con người có đầy đủ
các điều kiện phát triển năng lực toàn diện. Trình độ xã hội ngày càng phát
triển, không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay. Dân chủ phát triển ở mức độ cao. Những thiết chế chính
trị và pháp luật sẽ hoàn toàn mất đi, nhà nước trở thành không cần thiết, nó tự
tiêu vong.

III. VAI TRÒ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN CỦA CHỦ


NGHĨA MÁC - LÊNIN

1. Vai trò lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin: thể hiện tính đúng đắn,
tiến bộ và khoa học
Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin là kết quả của sự tổng kết xã hội
trên cơ sở kế thừa toàn bộ di sản tư tưởng của nhân loại, nên nó phản ánh đầy
đủ và đúng đắn nhất các mối quan hệ vật chất của xã hội ở các giai đoạn lịch sử
xã hội loài người. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin là tiếng nói của một
giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất trong lịch sử nhân loại, đó là giai cấp vô sản
và nhân dân lao động. Do vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành vũ khí sắc bén
cho phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động vì mục đích
giải phóng sự nô dịch giai cấp, xóa bỏ tình trạng phân chia giai cấp trong xã hội,
xóa bỏ sự áp bức bóc lột, sự bất công và bất bình đẳng tiến tới giải phóng con
người.
Cho đến nay, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là học thuyết cách mạng, khoa
học với vai trò là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của các
đảng cộng sản trên thế giới trong đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Các hội nghị quốc tế và các cuộc gặp gỡ của lãnh tụ các đảng cộng sản
các nước đã thường xuyên trao đổi kinh nghiệm vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh cách mạng trong điều
kiện đặc thù của từng nước.
Trên cơ sở những nguyên lý lý luận phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin, các đảng cộng sản và công nhân từng nước vận dụng sáng tạo và
cụ thể hóa những quy luật chung và đặc thù, đề ra những nhiệm vụ cụ thể của
cách mạng nước mình để bổ sung và làm phong phú, phát triển lý luận mới. Đó
là biểu hiện sáng tạo và sức sống mới về mặt thực tiễn của chủ nghĩa Mác –
Lênin.

2. Vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay
Mỗi thời đại lịch sử thường có nhiều học thuyết xã hội tác động, ảnh
hưởng đến sự phát triển xã hội, song có một học thuyết nổi bật, trở thành chủ
thuyết phát triển của thời đại. Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác – Lênin
luôn phát triển các cuộc đấu tranh với các học thuyết đối lập và nó trở thành
chủ thuyết phát triển của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới. Thực tiễn lịch sử xã hội đã xác nhận, gần hai thế
kỷ qua chủ nghĩa Mác – Lênin đã thể hiện ưu thế vượt trội và sức sống mãnh
liệt với bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn trong đời sống xã hội nhân
loại. Sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội gần hai thế kỷ qua là nhân
chứng sinh động, có sức thuyết phục cho bản chất khoa học, cách mạng và
nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ở quốc gia xã hội chủ nghĩa, nhu cầu học tập và nghiên cứu phát triển chủ
nghĩa Mác – Lênin vẫn là một nhu cầu cấp thiết trong thời đại mới vì mục tiêu
phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân và các đảng cộng sản
các nước vẫn kiên trì học tập, nghiên cứu và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin
như là một vũ khí lý luận nhằm chống lại chủ nghĩa tư bản, góp phần xây dựng
xã hội công bằng, tiến bộ và nhân bản hơn.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
vai trò nền tảng tư tưởng khoa học của toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”; phải “vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
Thường xuyên tống kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, giải quyết đúng
đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra”.
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin là những quan điểm
nền tảng có tính chân lý khoa học bền vững. Bởi vậy sinh viên học tập chủ
nghĩa Mác – Lênin để hiểu rõ lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; nhận thức sâu sắc
các quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước Việt Nam; xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh
quan cách mạng, niềm tin, lý tưởng cách mạng; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, trong rèn luyện tư tưởng
đạo đức, đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ tổ
quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra, học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin giúp chúng ta từng
bước xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học, có phương pháp tiếp thu
một cách hiệu quả lý luận mới, những thành tựu khoa học - công nghệ của nhân
loại, có niềm tin vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, có cơ sở khoa học
chống lại tư tưởng lạc hậu, phản động. Hiểu và nắm vững chủ nghĩa Mác -
Lênin, mỗi người có điều kiện hiểu rõ mục đích, con đường, lực lượng, cách
thức, bước đi của sự nghiệp giải phóng con người, không sa vào tình trạng mò
mẫm, mất phương hướng, chủ quan, duy ý chí. Có cách nhìn xa trông rộng, chủ
động sáng tạo trong công việc, khắc phục chủ nghĩa giáo điều, máy móc, tư
tưởng nôn nóng đốt cháy giai đoạn và các sai lầm khác. Học tập các nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp sinh viên có động cơ học tập đúng đắn, thái độ
nghiêm túc trong rèn luyện đạo đức công dân, ý thức nghề nghiệp của người
lao động tương lai. Để đạt được mục đích đó người học cần chú ý liên hệ từng
nguyên lý, có ý thức trách nhiệm trong học tập, rèn luyện, từng bước vận dụng
vào đời sống, xây dựng tập thể, góp phần lớn nhất vào sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân tích quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin.
2. Phân tích vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin với cách mạng thế giới
và cách mạng Việt Nam. Chỉ rõ một vài ý nghĩa của học thuyết với việc
nâng cao trình độ tư duy, nhận thức của bản thân thông qua hệ thống ý nghĩa
phương pháp luận khoa học được rút ra từ chủ nghĩa duy vật biện chứng.
3. Hãy phân tích ý nghĩa của học thuyết kinh tế chính trị Mác – Lênin
trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay.

You might also like