You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ TÀI
CHIẾM HỮU TÀI SẢN TRONG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Tuyết Nga

Mã LHP: GELA220405_21_3_01CLC

Nhóm SVTH: 11 MSSV

Nguyễn Hoàng Anh 21116336

Trần Thái Vân Hà 21116064

Trần Ngọc Kim Khanh 21116354


Nguyễn Thị Phương Linh 21116356

Đoàn Thành Nam 21116087

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2022


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN: CHIẾM HỮU TÀI SẢN TRONG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

THỨ TỰ HỌ TÊN - MSSV NHIỆM VỤ KÝ TÊN ĐIỂM SỐ

Viết phần mở
Nguyễn Hoàng Anh đầu, phần 1.1, Hoàn thành
1 100
21116336 tổng hợp và làm tốt
word
Trần Thái Vân Hà Viết phần 1.2, 1.3 Hoàn thành
2 100
21116064 và 2.3 tốt
Trần Ngọc Kim Khanh Viết phần 1.2, 1.3 Hoàn thành
3 100
21116354 và 2.2 tốt
Nguyễn Thị Phương Linh Viết phần 1.1, 2.2 Hoàn thành
4 100
21116356 và kết luận tốt
Đoàn Thành Nam Viết phần 1.2, 1.3 Hoàn thành
5 100
21116087 và 2.1 tốt

Trưởng nhóm: Nguyễn Hoàng Anh

Nhận xét của giáo viên


....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
KÝ TÊN
MỤC LỤC
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ .......................................................................................2
A. PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..............................................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................................1
3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................2
5. Bố cục bài tiểu luận..........................................................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................................3
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHIẾM HỮU TÀI SẢN ...................3
1.1. Khái niệm, phân loại tài sản .........................................................................................3
1.1.1. Khái niệm tài sản ..................................................................................................3
1.1.2. Phân loại tài sản ....................................................................................................3
1.2. Nội dung quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng và định đoạt)......................................4
1.2.1. Quyền chiếm hữu ..................................................................................................4
1.2.2. Quyền sử dụng.......................................................................................................6
1.2.3. Quyền định đoạt ....................................................................................................7
1.3. Quy định pháp luật về Chiếm hữu tài sản ..................................................................8
1.3.1. Các loại chiếm hữu được quy định......................................................................8
1.3.2. Chiếm hữu có căn cứ và không có căn cứ theo pháp luật ...............................12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ CHIẾM HỮU TÀI SẢN ...15
2.1. Nhận xét thực trạng chung về Chiếm hữu tài sản ....................................................15
2.2. Phân tích các vụ việc chiếm hữu tài sản ....................................................................19
2.3. Đề xuất giải pháp .........................................................................................................22
C. PHẦN KẾT LUẬN ..........................................................................................................24
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................25
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển và đi lên mạnh mẽ. Trong xu thế hội nhập kinh tế
thế giới hiện nay thì vấn đề giao lưu dân sự giữa các quốc gia, các tập đoàn, công ty,
các tổ chức, cá nhân công dân cũng được phát triển mạnh mẽ. Quan hệ tài sản là một
trong những quan hệ quan trọng nằm trong đối tượng điều chỉnh của luật dân sự cũng
cùng đó mà được phát triển và mở rộng hơn. Quan hệ này là quan hệ giữa người với
người thông qua một tài sản. Vậy để quản lý tốt hơn các mặt trong quan hệ tài sản thì
cần thiết phải đặt ra những quy định đúng đắn và chính xác về chế định tài sản. Tài sản
luôn được đánh giá là biểu hiện cho sự phát triển văn minh của xã hội loài người, là
điều hết sức quan trọng và cần thiết để duy trì một đời sống kinh tế vững mạnh và phát
triển. Việc nghiên cứu mang tính lý luận về chiếm hữu tài sản sẽ mang ý nghĩa to lớn
trong công tác quản lý xã hội của nhà nước, cũng như phát hiện được những hạn chế
còn tồn tại trong pháp luật hiện hành quy định về tài sản ở nước hiện nay rồi từ đó tìm
hướng giải quyết. Bộ luật Dân sự 2015 (bộ luật hiện hành của nước ta) có các quy định
về vấn đề chiếm hữu tài sản.
Vì thế nhóm chúng em quyết định lấy đề tài “Chiếm hữu tài sản trong Luật dân
sự Việt Nam” làm đề tài tiểu luận nhằm tập trung nghiên cứu, hiểu biết sâu hơn về các
vấn đề lý luận và thực tiễn của việc chiếm hữu tài sản ngày nay. Qua đó, giúp mọi
người có cái nhìn chính xác và toàn diện hơn về vấn đề chiếm hữu tài sản đồng thời đề
xuất phương hướng để hoàn thiện quy định của pháp luật.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là các quy định dân sự của pháp luật Việt
Nam hiện hành liên quan đến chiếm hữu tài sản trong để từ đó đứa ra nhận xét, bình
luận và giải pháp.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu cho phần lý thuyết: Đề tài cung cấp hệ thống kiến thức về chiếm hữu
tài sản trong Luật dân sự. Dựa vào đó đi sâu nghiên cứu về những vấn đề của chiếm

1
hữu tài sản trong thực tiễn và chỉ ra được bản chất, ý nghĩa của tài sản trong dân sự
cũng như đối với Nhà nước trong việc điều hành và quản lý đất nước.
Mục tiêu cho phần liên hệ thực tiễn: Rút ra bài học, kinh nghiệm từ những liên
hệ thực tiễn để dễ dàng và thuận lợi cho việc vận dụng những thành tựu của thực tiễn
vào trong việc phát triển và vận hành nền kinh tế đất nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tham khảo và trích lược các nguồn tài liệu sơ cấp như văn bản pháp luật để
làm cơ sở cho việc xác định các khái niệm xuất hiện trong đề tài.
Tiểu luận sử dụng và vận dụng các cơ sở lý luận trong giáo trình, các phương
pháp nghiên cứu định tính, phân tích hệ thống, suy luận logic, phương pháp so sánh,
đối chiếu,… để làm sáng tỏ và làm rõ các nội dung nghiện cứu, đồng thời học hỏi tiếp
thu có phê phán và chọn lọc những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
5. Bố cục bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì bài tiểu luận
được chia làm hai phần:
Chương 1: Quy định của pháp luật về Chiếm hữu tài sản.
Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định về Chiếm hữu tài sản.
Trong quá trình thực hiện đề tài “Chiếm hữu tài sản trong Luật dân sự Việt
Nam”, với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của sinh viên, bài
báo cáo này không thể tránh được những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự
chỉ bảo, đóng góp ý kiến từ cô để chúng em có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức và
kiến thức của mình, phục vụ tốt hơn cho quá trình học tập sau này.
Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn!

2
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHIẾM HỮU TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, phân loại tài sản
1.1.1. Khái niệm tài sản
Tài sản là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng phổ biến trong xã hội có tư hữu, có
nhà nước và có pháp luật. Theo Bộ luật dân sự năm 2015 “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản”
1.1.2. Phân loại tài sản
- Tài sản là vật:
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có thể
cảm giác được bằng các giác quan của mình. Tuy nhiên, không phải vật nào trong thế giới
khách quan cũng đều là vật trong quan hệ pháp luật dân sự. Khái niệm vật trong BLDS dùng
để chỉ những vật mà con người có thể chiếm hữu được, chi phối được, có thể cân, đo, đong
đếm, xác định được bề rộng, bề dài, theo sự tồn tại và vật hình thành trong tương lai và con
người phải khai thác được, sử dụng được phục vụ cho lợi ích của mình. Như vậy, ngoài yếu
tố là bộ phận của yếu tố vật chất, đáp ứng được nhu cầu của con người, vật có thực với tính
cách là tài sản phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đặc trưng giá trị và trở thành
đối tượng của giao lưu dân sự. Xét về mặt vật lý, vật chất tồn tại dưới ba dạng: rắn, lỏng, khí.
Xét theo cấu tạo hóa, lý, sinh và công dụng của vật thì: vật còn được xác định là vật
chính và vật phụ (Điều 110, ví dụ: điện thoại là vật chính, vỏ ốp của chiếc điện thoại đấy là
vật phụ), vật chia được và vật không chia được (Điều 111, ví dụ: gạo, xăng, dầu là những vật
chia được; giường, tủ, bàn là những vật không chia được), vật tiêu hao và vật không tiêu hao
(Điều 112, ví dụ: xà phòng qua một lần sử dụng bị giảm trọng lượng là vật tiêu hao; ngôi nhà,
chiếc xe ô tô là vật không tiêu hao), vật cùng loại và vật đặc định (Điều 113, ví dụ: gạo, sữa
là vật cùng loại còn bức tranh nàng Monalisa có chữ kí tác giả là vật đặc định), vật đồng bộ
(Điều 114, ví dụ: đôi giày). Cách phân loại vật trong BLDS là căn cứ để xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ có đối tượng là vật trong việc chuyển
giao, đồng thời là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp có đối tượng là vật phát sinh từ
các quan hệ nghĩa vụ và hợp đồng dân sự cụ thể.
Xét về chế độ pháp lý, vật được phân loại là: vật tự do lưu thông (vật lưu thông
không cần điều kiện, được tự do mua bán, thuê, mượn, tặng cho,… và là giao dịch của các

3
giao dịch dân sự), vật hạn chế lưu thông (vật khi lưu thông cần điều kiện về chủ thể, hình
thức, thủ tục,… nhất định. VD: dược phẩm) và vật cấm lưu thông (là những vật tuyệt đối
không được lưu thông dân sự. VD: ma túy).
- Tài sản là tiền:
Tiền theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước đo
giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là tiền hiện nay khi nó đang có giá trị
lưu hành trên thực tế. Tiền có các chức năng như trao đổi, thanh toán, dự trữ và khi xét về
mặt chủ quyền quốc gia thì tiền có chức năng bình ổn giá cả và giữ chủ quyền quốc gia. Tuy
nhiên, chỉ có tiền mệnh giá Việt Nam đồng (VNĐ) mới được lưu thông trong giao dịch dân
sự Việt Nam.
- Tài sản là giấy tờ có giá:
Giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện nay đặc biệt là
giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Giấy tờ có giá được
hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Theo Điều
4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005, giấy tờ có giá là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ
phiếu, cổ phiếu,… Tuy nhiên, các loại giấy tờ như: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất, sổ hưu trí, sổ tiết kiệm, giấy biên một khoản nợ không phải là giấy tờ có
giá; chỉ có tài khoản dư trong ngân hàng hay cơ sở quỹ tiết kiệm mới là tài sản.
- Tài sản là quyền tài sản:
Điều 115 BLDS 2015 quy định về quyền tài sản như sau: “Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Khái quát hơn, quyền tài sản là các quyền trị giá được
bằng tiền, có thể chuyển giao được trong quan hệ pháp luật dân sự.
1.2. Nội dung quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng và định đoạt)
1.2.1. Quyền chiếm hữu
a. Khái niệm của chiếm hữu
Chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu. Người không phải là
chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu tài sản, nếu được chủ sở hữu chuyển giao hoặc do pháp
luật quy định thuộc quyền của chủ sở hữu.

4
Điều 179 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi
phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.” Đây là
lần đầu tiên tron Bộ luật Dân sự, các nhà làm luật quy định về khái niệm chiếm hữu
b. Phân loại quyền chiếm hữu
Chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản bao gồm chủ sở hữu tài sản, người được chủ sở
hữu tài sản, người được chủ sở hữu ủy quyền, người có quyền chiếm hữu tài sản trên cơ sở
một giao dịch dân sự hợp pháp, người được nhà nước giao quyền chiếm hữu thông qua một
quyết định có hiệu lực hoặc qua một bản án có hiệu lực pháp luật, người chiếm hữu không
theo ý chí của chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền.
- Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu:
Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối
tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
- Quyền chiếm hữu của người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản:
Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản thực hiện việc chiếm hữu tài sản
đó trong phạm vi, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.
Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối
với tài sản được giao theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
- Quyền chiếm hữu của người được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự:
Khi chủ sở hữu giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung
không bao gồm việc chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện việc
chiếm hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch.
Người được giao tài sản có quyền sử dụng tài sản được giao, được chuyển quyền
chiếm hữu, sử dụng tài sản đó cho người khác nếu được chủ sở hữu đồng ý.
Người được giao tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản được giao
theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
Các chủ thể nắm giữ và chi phối tài sản tức là trực tiếp quản lý, tác động vào tài sản
theo ý chí của mình nhằm duy trì tình trạng tài sản theo ý chí của mình nhằm duy trì tình trạng
tài sản theo ý chí của mình. Chủ thể có thể bằng hành vi của mình thực hiện việc chiếm hữu
goi là chiếm hữu trực tiếp. Chủ thể thực hiện việc chiếm hữu thông qua hành vi của người
khác gọi là chiếm hữu gián tiếp. Trường hợp này người chiếm hữu giao tài sản của mình cho

5
người khác kiểm soát, vì vậy người kiểm soát tài sản phải thực hiện các hành vi mà người
chiếm hữu cho phép.
Chiếm hữu của các chủ thể không phải là chủ sở hữu được quy định từ điều 228 đến
điều 233 và điều 236 là căn cứ để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
c. Bảo vệ việc chiếm hữu
Nếu việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm, người chiếm hữu có quyền yêu cầu
người có hành vi xâm phạm đó phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại
tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường
thiệt hại.
Về trường hợp đòi lại tài sản: Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có
quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật.Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của
chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó.
Nếu trường hợp chủ sở hữu quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở
hữu từ người chiếm hữu ngay tình. Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có
được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt
tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động
sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của
chủ sở hữu.
1.2.2. Quyền sử dụng
Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và khai thác những lợi ích vật chất của
tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép. Nguyên tắc chung là việc khai thác những giá trị sử
dụng của tài sản nhằm để thoả mãn những nhu cầu về sinh hoạt vật chất hoặc tinh thần cho
bản thân mình.
Thực hiện quyền sử dụng còn là việc dựa vào tính năng của vật mà con người khai
thác lợi ích vật chất của chúng để thoả mãn các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra,
việc khai thác lợi ích vật chất của tài sản còn bao gồm cả việc thu nhận những kết quả của tài
sản do tự nhiên mang lại như hưởng trứng do gia cầm đẻ ra, hoa quả trên cây, gia súc nhỏ do
mẹ chúng sinh ra...

6
Như vậy, việc sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý
nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi,
lợi tức của tài sản theo ý chí tuỳ nghi của mình. Thông thường, chủ sở hữu trực tiếp sử dụng
tài sản của mình nhưng có thể được chuyển giao cho người khác trên cơ sở một hợp đồng hợp
pháp của chủ sở hữu.
Trong một số trường hợp khác mà pháp luật quy định, cơ quan hoặc tổ chức cũng
có quyền sử dụng tài sản trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ:
Cơ quan, tổ chức sử dụng tài sản bị trưng dụng.
Do sự phát triển nhanh của khoa học kĩ thuật nên có trường hợp chủ sở hữu không
đủ trình độ chuyên môn để sử dụng những tài sản là các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Ví dụ:
Việc sử dụng máy vi tính, xe ô tô, các thiết bị kĩ thuật khác... Trong trường hợp này chủ sở
hữu phải thông qua người thứ ba để thực hiện quyền sử dụng tài sản thì mới khai thác được
các lợi ích vật chất, tính năng của tài sản.
Vì vậy có hai đối tượng được áp dụng quyền sử dụng:
- Quyền sử dụng của chủ sở hữu: Chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của
mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu: Người không phải là chủ sở
hữu được sử dụng tài sản theo thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Quyền định đoạt
Điều 192 Bộ luật dân sự quy định Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở
hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.
a. Phân loại quyền định đoạt
Chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt biểu hiện ở hai khía cạnh:
- Định đoạt về số phận thực tế của các vật:
Định đoạt về số phận thực tế của các vật (làm cho vật không còn trong thực tế nữa)
như: tiêu dùng hết, huy bố, hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật. Trong việc định đoạt số phận
thực tế của vật, chủ sở hữu chỉ cần bằng hành vi của mình tác động trực tiếp đến vật.
- Định đoạt về số phận pháp lý của pháp luật:
Định đoạt về số phận pháp lý của vật là việc làm chuyển giao quyền sở hữu đối vổi
vật từ người này sang người khác. Thông thường định đoạt về số phận pháp lý của vật phải

7
thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sỡ hữu như bán, trao đổi, tặng cho, cho
vay, để thừa kế… thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có thể tiêu dùng hết; chuyển quyền
chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi giữ); quyển chiếm hữu và quyện sử dụng tài sản
trong một khoảng thời hạn (trong hợp đổng cho thuê, cho mượn) hoặc chủ sở hữu chuyển
giao quyển sở hữu tài sản cho người khác bằng hợp đổng bán, đổi, cho…
Trong việc định đoạt về số phận pháp lý chủ sở hữu phải thiết lập với chủ thể khác
một quan hệ pháp luật dân sự. Đối với hình thức định đoạt này, BLDS đã quy định: Người
định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi. Nghĩa là, người đó phải có đầy đủ tư cách
chủ thể. Trong những trường hợp tài sàn ít giá trị (chủ yếu là động sản) việc thực hiện quyền
định đoạt có thể bằng phương thức giản đơn: thoả thuận miệng, chuyển giao ngay tài sản…
nhưng trong những trường hợp pháp luật cố quy định trình tự, thủ tục, thì phải tuân theo
những quy định đó
Việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với vật sẽ làm chấm dứt hoặc thay
đổi các quan hệ pháp lụật liên quan đến vật đó
Ví dụ: Tiêu dùng hết tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản đó. Khi
bán một tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu của người đã bán nhưng lại làm phát sinh
quyền sở hữu về tài sản đó đến với người mua.
b. Hạn chế quyền định đoạt:
- Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định.
- Khi tài sản đem bán là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hoá theo quy định của
Luật di sản văn hóa thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua.
- Trường hợp cá nhân, pháp nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định
theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho
các chủ thể đó.
1.3. Quy định pháp luật về Chiếm hữu tài sản
1.3.1. Các loại chiếm hữu được quy định
a. Chiếm hữu ngay tình
Điều 180 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về chiếm hữu ngày tình như sau: "Chiếm
hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền
đối với tài sản đang chiếm hữu.

8
Chiếm hữu ngay tình là việc người chiếm hữu có lý do để tin rằng mình có quyền
đối với tài sản đang chiếm hữu. Trường hợp giao dịch dân sự không thể thực hiện được việc
thu lợi, lợi tức của một bên thì không phải nộp lại hoa lợi, lợi tức đó.
Khi giao dịch dân sự vô hiệu mà tài sản đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì tài sản đó được chuyển giao cho bên thứ ba ngay tình mà trên cơ sở đăng ký,
thông qua một giao dịch dân sự khác. Nếu giao dịch được xác lập và thực hiện thì giao dịch
đó không bị vô hiệu, trong trường hợp trên, chủ sở hữu khởi kiện, cho rằng chủ thể có lỗi
trong việc xác lập giao dịch, hoàn trả phí và bồi thường thiệt hại. Khi sử dụng vật liệu độc
quyền để tạo ra một sản phẩm khác, chủ sở hữu của vật liệu là chủ sở hữu hợp pháp của sản
phẩm. Sử dụng tài liệu của người khác mà có thiện ý với chủ sở hữu thì phải bồi thường thiệt
hại cho chủ sở hữu đó. Nếu người nhận gia công không trung thực thì chủ sở hữu nguyên vật
liệu có quyền yêu cầu trả lại sản phẩm mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những
người này là chủ sở hữu chung theo tỷ lệ hiện vật mới tạo ra, tương ứng với giá trị vật chất
của mỗi người.
Chủ sở hữu nguyên liệu thô được chế biến độc hại có quyền yêu cầu bên nhận gia
công bồi thường thiệt hại. Khái niệm chiếm hữu ngay tình được đặt cùng với các khái niệm
chiếm hữu có căn cứ pháp luật, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và chiếm hữu của người
không phải là chủ sở hữu tài sản. Trong trường hợp chiếm hữu hợp pháp mà người chiếm hữu
không biết hoặc không thể biết việc chiếm hữu là không có căn cứ pháp luật. Người chiếm
hữu phải tiếp tục trả lại tài sản cho chủ sở hữu, nhưng nếu việc chiếm hữu diễn ra liên tục,
công khai thì người chiếm hữu hợp pháp được hưởng hoa lợi, lợi ích về tài sản trong một thời
gian nhất định theo Điều 236 Bộ luật dân sự 2015. Theo đó, người chiếm hữu, người được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10
năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ
thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
b. Chiếm hữu không ngay tình
- Điều 181. Chiếm hữu không ngay tình
Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải
biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.
Trường hợp người chế biến không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật liệu có quyền
yêu cầu giao lại vật mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những người này là

9
đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, tương ứng với giá trị nguyên vật
liệu của mỗi người. Chủ sở hữu nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có quyền yêu
cầu người chế biến bồi thường thiệt hại.
Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn
cứ pháp luật và không ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm
hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Theo đó, có hai trường hợp để nhận biết hành vi chiếm hữu không ngay tình:
Đó là chủ thể biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu hoặc
chủ thể phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.
Thường người đang chiếm hữu sẽ được suy đoán là có quyền đối với tài sản và
người nào tranh chấp quyền đối với người đang chiếm hữu tài sản thì phải tự mình chứng
minh dựa vào những căn cứ luật định trong Bộ luật dân sự năm 2015 về “chiếm hữu có căn
cứ hay không có căn cứ pháp luật” để chứng minh.
c. Chiếm hữu liên tục
Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian
mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được
giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.
Việc chiếm hữu không liên tục không được coi là căn cứ để suy đoán về tình trạng
và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 của Bộ luật này.
- Người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm
hữu không ngay tình thì phải chứng minh.
- Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy
đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về
việc người chiếm hữu không có quyền.
- Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng
quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định của Bộ luật này và
luật khác có liên quan.
Như vậy, Chiếm hữu liên tục được hiểu là việc chiếm hữu được thực hiện trong một
khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp
nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án

10
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm
hữu.
Hành vi chiếm hữu không liên tục sẽ không được pháp luật bảo vệ bởi nó không
được coi là căn cứ để suy đoán về tình trạng của người chiếm hữu là ngay tình và được xác
lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
d. Chiếm hữu công khai
Điều 183 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: “Chiếm hữu công khai là việc chiếm
hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử
dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của
chính mình.”
Hành vi chiếm hữu công khai được giải thích theo hình thức diễn giải từ nghĩa: công
khai là minh bạch, không giấu giếm. Tiếp theo, hành vi chiếm hữu công khai được cụ thể
dưới 2 góc độ: chiếm hữu kèm sử dụng (tài sản được người chiếm hữu sử dụng theo đúng tính
năng, công dụng của tài sản), chiếm hữu kèm theo bảo quản (người chiếm hữu phải có ý thức
bảo quản và áp dụng các biện pháp bảo quản tài sản, giữ gìn tài sản như chính tài sản của
mình).
Hành vi chiếm hữu không công khai thì pháp luật sẽ không bảo vệ, bởi nó không
được xem là căn cứ để suy đoán về tình trạng chiếm hữu ngay tình của một người. Chỉ khi
nào người chiếm hữu công khai, ngay tình, liên tục trong khoảng thời gian luật định thì mới
được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản chiếm hữu.
e. Suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu
- Điều 184. Suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu
 Người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm
hữu không ngay tình thì phải chứng minh.
 Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được
suy đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh
về việc người chiếm hữu không có quyền.
 Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng
quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định của Bộ luật này và
luật khác có liên quan.

11
Tình trạng thực tế đang chiếm hữu đối với tài sản luôn được pháp luật bảo vệ bằng
cách cho phép suy đoán là người chiếm hữu ngay tình. Và nghĩa vụ chứng minh “không ngay
tình” thuộc về người có suy đoán cho rằng người chiếm hữu không ngay tình. Điều 180 của
Bộ luật dân sựu có quy định về chiếm hữu ngay tình: “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm
hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mĩnh có quyền đổi với tài sản đang chiếm
hữu”. Theo định nghĩa này thì người chiếm hữu phải chỉ ra các căn cứ mà mình có quyền đặt
niềm tin là mình có quyền đối với tài sản. Có nghĩa là người chiếm hữu vẫn phải chứng minh
sự ngay tình của mình trên các căn cứ luật định.
Điều 184 Bộ luật dân sự 2015 nhà làm luật quy định người chiếm hữu không có
nghĩa vụ phải chứng minh sự ngay tình mà để cho người nào có suy luận ngược lại sẽ phải tự
chứng minh. Nhà làm luật đã đặt sự ưu tiên tuyệt đối cho người đang thực tế chiếm hữu tài
sản trong tay.
Trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu có quyền
yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả
lại tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường
thiệt hại.
f. Bảo vệ việc chiếm hữu
Trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu có quyền
yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả
lại tài sản và bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường
thiệt hại.
Chủ sở hữu, chủ thể có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài
sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.Chủ sở hữu không có quyền đòi lại
tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó.
1.3.2. Chiếm hữu có căn cứ và không có căn cứ theo pháp luật
Căn cứ vào chủ thể đang nắm giữ tài sản thì ta có chiếm hữu của chủ sở hữu và
chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu.
a. Chiếm hữu có căn cứ theo pháp luật

12
Theo quy định của điểm a khoản 1 Điều 165 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hành vi
chiếm hữu của chủ sở hữu là hành vi chiếm hữu có căn cứ pháp luật; còn hành vi chiếm hữu
của người không phải là chủ sở hữu thì có thể là chiếm hữu có căn cứ pháp luật theo điểm b,
c, d, đ, e khoản 1 Điều 165 và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật theo khoản 2 Điều 165.
Cụ thể nội dung Điều 165 Bộ luật dân sự như sau:
- Điều 165. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật:
1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau
đây:
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp
với quy định của pháp luật;
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở
hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều
kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
e) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp
với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
f) Trường hợp khác do pháp luật quy định.
2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Người không phải là chủ sở hữu đang chiếm hữu tài sản không đương nhiên được
công nhận là chủ sở hữu đối với tài sản đang chiếm hữu, nhưng việc chiếm hữu của họ có thể
là căn cứ để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản theo quy định tại:
Điều 228 Bộ luật dân sự quy định về Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ,
tài sản không xác định được chủ sở hữu.
Điều 229 Bộ luật dân sự quy định về Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn,
giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy.
Điều 230 Bộ luật dân sự quy định về Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người
khác đánh rơi, bỏ quên.
Điều 231 Bộ luật dân sự quy định về Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất
lạc.

13
Điều 232 Bộ luật dân sự quy định về Xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất
lạc.
Điều 233 Bộ luật dân sự quy định về Xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới
nước.
Điều 236 Bộ luật dân sự quy định về Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm
hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
b. Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu của một người đối với một
tài sản mà không dựa trên những căn cứ của pháp luật quy định.
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình: Đó là việc chiếm hữu của một
người không có căn cứ pháp luật nhưng không biết và không thể biết (pháp luật không buộc
phải biết) việc chiếm hữu là không có căn cứ.
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình: Đó là việc chiếm hữu của
một người không có căn cứ pháp luật và người đó biết là không có căn cứ hoặc là tuy không
biết nhưng pháp luật buộc phải biết việc chiếm hữu của họ là không có căn cứ.

14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ CHIẾM HỮU TÀI SẢN
2.1. Nhận xét thực trạng chung về Chiếm hữu tài sản
Bộ luật Dân sự 2015 ra đời có thêm một chế định mới về chiếm hữu được quy định
tại Chương XII. Sự xuất hiện của chế định này là một bước tiến của pháp luật dân sự Việt
Nam khi thừa nhận một loại quan hệ pháp luật mới thông qua đối tượng là trạng thái của tài
sản, bên cạnh hệ thống quy định về vật quyền từ trước đến nay.
Tuy nhiên, do lần đầu tiên luật hoá một cách chính thức về vấn đề thực tế chiếm hữu
tài sản, do đó chế định mới còn có tương đối đơn giản, ngắn gọn, thiếu sự chi tiết. Bên cạnh
đó, sự xuất hiện của chế định mới cũng kéo theo một số điểm mâu thuẫn trong hệ thống lý
luận cũng như bất cập của quy định pháp luật về chiếm hữu tài sản.
Tại nhiều nước tiên tiến, đặc biệt là các nước châu Âu, nội dung quyền sở hữu được
xây dựng là một tập hợp của ba nhóm quyền năng, bao gồm: quyền sử dụng tài sản, quyền
khai thác công năng của tài sản nhằm phục vụ cho nhu cầu của chủ thể; quyền thu nhận những
lợi ích vật chất mà tài sản mang lại, đặc biệt là những lợi ích được nhận dạng dưới hình thức
hoa lợi (fruits) của tài sản; quyền định đoạt tài sản, bao gồm định đoạt vật chất (tiêu dùng,
tiêu huỷ,…) và định đoạt pháp lý (bán, tặng cho, để thừa kế,…). Quan niệm này được sử dụng
như một công cụ chủ yếu để phân tích các quyền chủ thể đối với tài sản, nhằm làm rõ bản
chất của các quyền ấy, tạo điều kiện cho việc xây dựng, hoàn thiện các chế độ pháp lý liên
quan.
Trong khi đó, Việt Nam do ảnh hưởng của trường phái pháp luật Xô-viết nên Bộ
luật Dân sự năm 2005 quy định Quyền chiếm hữu được cấu thành từ quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt. Sự khác biệt lớn nhất ở đây chính là sự quy định chiếm hữu như
một quyền nằm trong nội dung của quyền sở hữu, bảo vệ chiếm hữu theo cách thức bảo vệ
quyền sở hữu.
Chính sự khác biệt ấy đã dẫn đến sự hình thành một chế độ pháp lý về sở hữu rất
đặc thù trong luật Việt Nam. Điều này khiến cho một mặt, luật Việt Nam trở nên bất hoà nhập
đối với thế giới, mặt khác, việc thực hiện quyền sở hữu trở nên phức tạp do sự trộn lẫn các
quyền năng có tính chất khác biệt trong khuôn khổ một chế định duy nhất.
Bộ luật Dân sự 2015 ra đời đã kế thừa những nội dung về quyền chiếm hữu từ Bộ
luật Dân sự 2005, đồng thời tiếp tục mở rộng khai thác vấn đề chiếm hữu tài sản ở một khía

15
cạnh khác - là tình trạng thực tế của tài sản, từ đó hình thành nên chế định mới trong Bộ luật
Dân sự 2015 - chế định Chiếm hữu (chương XII).
Tuy nhiên, việc sử dụng cùng một thuật ngữ pháp lý để xây dựng hai chế định với
tính chất hoàn toàn khác nhau đã dẫn tới một vấn đề quan trọng, đó là sự tồn tại cùng lúc
những hạn chế cũ chưa được khắc phục do việc kế thừa quy định về quyền chiếm hữu từ Bộ
luật Dân sự 2005, đồng thời tạo nên những mâu thuẫn nội tại mới phát sinh trong Bộ luật Dân
sự 2015. Đặc biệt là có sự xung đột giữa cơ chế bảo vệ quyền chiếm hữu và cơ chế bảo vệ
tình trạng chiếm hữu tài sản.
- Khái quát về chiếm hữu tài sản:
Nghiên cứu lý thuyết về vật quyền thấy rằng, quyền sở hữu và các loại quyền đối
với tài sản của người khác là một quan hệ mang tính chất pháp lý quan trọng của chủ thể đối
với đồ vật. Trước đây pháp luật Dân sự Việt Nam khi xây dựng chế định pháp lý liên quan
đến vật quyền thường khai thác dưới góc độ quyền năng của một người đối với tài sản. Tuy
nhiên, thực tiễn một số trường hợp cho thấy có thể các chủ thể đó không thực sự đang nắm
giữ chuyển sở hữu, có thể họ là những người được thuê, người nhặt được của rơi, người trộm
cắp hoặc vô tình chiếm giữ tài sản có được do trộm cắp…
Như vậy, có thể thấy rằng, bên cạnh chiếm hữu dưới dạng quyền năng của chủ sở
hữu hoặc người được chủ sở hữu uỷ quyền, tồn tại một trạng thái thực tế đồ vật bị chiếm giữ,
tình trạng này được định danh là tình trạng chiếm hữu.
Theo Bộ luật Dân sự 2015, chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. Ở đây có một từ ngữ tương
đối lạ và ít khi gặp trong văn phạm pháp luật, đó là chữ “như", cụ thể là chiếm hữu “như chủ
thể có quyền đối với tài sản". Có thể thấy, quy định này không hướng đến vấn đề chủ thể thực
hiện chiếm hữu là ai, mà đang đặt trọng tâm ở việc chiếm hữu như thế nào? Nói cách khác,
khái niệm chiếm hữu được xây dựng theo hướng là một sự biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể
trong lúc thực hiện nắm giữ, chi phối tài sản. Một người xuất hiện công khai trong dáng vẻ,
tư thế của người có những quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản. Dáng vẻ, tư thế ấy được
thể hiện trong cách ứng xử trong mối quan hệ với tài sản, chẳng hạn điều khiển xe chạy trên
đường, sinh hoạt trong nhà… Bất kỳ người nào dù có quyền hay không có quyền cũng có thể
thực hiện việc nắm giữ, chi phối tài sản, chỉ cần người đó biểu hiện ra bên ngoài như trạng

16
thái của một người đang có quyền hợp pháp đối với tài sản đó, thì trạng thái này được xem là
chiếm hữu.
Tuy nhiên, cách hiểu như phân tích ở trên vẫn còn mang nhiều đặc điểm của sự suy
luận mang tính chủ quan, bởi vì chế định Chiếm hữu tại Chương XII của Bộ luật Dân sự 2015
được xây dựng lần đầu tiên và còn tương đối ngắn gọn, thiếu những quy định chi tiết về việc
vận dụng và hậu quả pháp lý của chiếm hữu trong thực tế. Điều này sẽ dẫn đến một khó khăn
đó là sự khó hiểu và chồng chéo khi đặt trong bối cảnh so sánh ở góc độ lý luận hoặc thực
tiễn giải quyết tranh chấp có liên quan đến tình trạng chiếm hữu và quyền chiếm hữu tài sản.
Cụ thể, cụm từ “như chủ thể có quyền đối với tài sản” đang làm cho các điều luật
không thống nhất với nhau. Bởi lẽ, cụm từ “như chủ thể có quyền đối với tài sản” đương
nhiên bao gồm chủ sở hữu và những người có “quyền khác đối với tài sản” được quy định tại
khoản 2 Điều 159 (tức người có quyền đối với bất động sản liền kề, quyền bề mặt và quyền
hưởng dụng), nhưng vấn đề đặt ra là người thuê, người mượn tài sản người khác đều là người
được sử dụng tài sản có được xem là chủ thể có quyền trong khái niệm này không? Rõ ràng,
ở khía cạnh sử dụng cụm từ “quyền khác đối với tài sản” trong điều luật này khi đối chiếu với
Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ dẫn đến bất hợp lý. Ở đây đã dẫn đến hai cách hiểu
khác nhau, cụm từ “như chủ thể có quyền đối với tài sản” đã từng có tác giả hiểu theo kiểu
“của chủ thể có quyền đối với tài sản”. Điều này dẫn đến hệ quả định nghĩa chiếm hữu đồng
nhất với chiếm hữu có căn cứ pháp luật, từ đó sẽ bất hợp lý trong mối tương quan với khái
niệm chiếm hữu trái pháp luật, vì bản thân chiếm hữu trái pháp luật trước hết phải là chiếm
hữu.
Bên cạnh việc quy định chiếm hữu như một tình trạng thực tế của vật (possession),
Bộ luật Dân sự 2015 lại quy định song song về quyền chiếm hữu là nội hàm của quyền sở
hữu (giống như quyền ius dententio trong dân luật La Mã cổ đại). Việc cả hai khái niệm này
đều được gọi bằng “chiếm hữu” sẽ gây ra khó khăn rất lớn cho việc áp dụng pháp luật trên
thực tế. So sánh với Bộ luật Dân sự 2005 thấy rằng, tại Điều 182 Bộ luật Dân sự 2005 có định
nghĩa “Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lí tài sản” mang một số điểm tương đồng so
với khái niệm Chiếm hữu được ghi nhận tại Điều 179 Bộ luật Dân sự 2015 hiện nay. Trong
khi đó, Bộ luật Dân sự 2015 lại không đưa ra định nghĩa về quyền chiếm hữu dưới góc độ nội
hàm của quyền sở hữu, mà lại chỉ định nghĩa về trạng thái chiếm hữu. Như vậy, Bộ luật Dân
sự 2015 quy định “việc chiếm hữu" có sự kế thừa nhất định từ khái niệm “quyền chiếm hữu"

17
cũ trong Bộ luật Dân sự 2005, đồng thời Bộ luật Dân sự 2015 cũng bỏ đi định nghĩa về Quyền
chiếm hữu. Từ những sự thay đổi này, rất khó có thể có căn cứ trên cơ sở lý luận về quyền
chiếm hữu trước đây để lý giải về trạng thái chiếm hữu trong Bộ luật Dân sự 2015 bây giờ,
từ đó dẫn đến khó khăn trong sự phân định đâu là quyền chiếm hữu, và đâu là trạng thái chiếm
hữu.
Sự tồn tại song song hai chế định về “quyền chiếm hữu" và “chiếm hữu" như trình
bày ở trên đã khiến cho chế định sở hữu nói chung và vấn đề liên quan đến chiếm hữu nói
riêng của Bộ luật Dân sự Việt Nam trở nên kì lạ, khác biệt hẳn đổi với chế định quyền sở hữu
trong truyền thống pháp luật Dân sự thế giới, mà khởi nguyên từ luật La Mã, vốn chỉ quy định
quyền sở hữu gồm có quyền sử dụng, hưởng hoa lợi và định đoạt.
- Những bất cập:
Pháp luật Việt Nam vốn chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật La Mã, do đó khi xây
dựng chế định về chiếm hữu cũng mang nhiều điểm tương đồng. Theo sự phân tích ở mục 2
về suy đoán tình trạng và quyền của người chiếm hữu, có thể thấy rằng người chiếm hữu hiện
nay đã không còn phải chứng minh quyền của mình để được bảo vệ như ở Bộ luật Dân sự
năm 2005 nữa. Đây là một điểm tiến bộ rất lớn trong quy định về chiếm hữu của Bộ luật Dân
sự năm 2015. Ta sẽ cùng phân tích hiệu quả của sự bảo vệ này dưới góc độ người chiếm hữu
và người kiện đòi khôi phục chiếm hữu.
Đối với người chiếm hữu, nhờ suy đoán ngay tình mà người chiếm hữu được nhận
hoa lợi, lợi tức mà không cần chứng minh sự ngay tình của mình; được hưởng thời hiệu xác
lập sở hữu mà không cần chứng minh. Đứng trước một sự xâm phạm trực tiếp vào tình trạng
chiếm hữu (mà tranh chấp về cành cây vươn lấn sang không gian là một ví dụ), người chiếm
hữu có thể kiện yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền buộc người xâm phạm phải chấm
dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại. Đứng trước
một tranh chấp về chiếm hữu, người chiếm hữu cũng được bảo vệ mà không cần chứng minh
mình có quyền. Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bảo vệ tốt đối với người chiếm hữu.
Tuy nhiên, đối với người đi kiện đòi khôi phục chiếm hữu thì Bộ luật Dân sự năm
2015 lại bày tỏ những bất cập. Trong thực tế, người đi kiện đòi tài sản có thể tranh chấp về
tình trạng của tài sản, cũng có thể tranh chấp về quyền với người chiếm hữu. Tuy nhiên,
dường như Bộ luật Dân sự năm 2015 không cho phép người đi kiện được phát một đơn kiện
để đòi khôi phục tình trạng chiếm hữu. Khoản 1 Điều 166 về quyền đòi lại tài sản quy định

18
“Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm
hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật”. Như vậy,
luật chỉ cho phép người có quyền được đòi lại tài sản của mình. Xét ví dụ: B ăn cắp xe máy
từ A bán cho C, C ngay tình và lại bị ăn cắp chiếc xe máy đó bởi D. Như vậy, trong khi luật
pháp các nước trên thế giới cho phép C kiện D để đòi khôi phục tình trạng chiếm hữu (không
quan tâm đến việc C có phải là chủ sở hữu không) thì luật Việt Nam chỉ cho phép người có
quyền, tức là A được phép kiện C thông qua hình thực kiện bảo vệ quyền sở hữu (vốn có
nghĩa vụ chứng minh rất khó khăn).
Ngoài ra, trong trường hợp một người khởi kiện yêu cầu trả lại tài sản do xâm phạm
về quyền chiếm hữu và đã chứng minh được quyền chiếm hữu hợp pháp của mình, trong khi
tài sản đó đang bị chiếm hữu bởi một người khác. Đặc biệt đối với những vụ án có xuất hiện
tình huống phản tố, khi người bị khởi kiện đang chiếm hữu tài sản sử dụng yêu cầu phản tố
dựa trên căn cứ tại Điều 185 về Bảo vệ việc chiếm hữu để yêu cầu người có quyền chiếm hữu
trả lại tài sản, như vậy trong trường hợp này Toà án sẽ bảo vệ người có quyền chiếm hữu hay
người đang thực hiện việc chiếm hữu?
- Nhận xét:
Thực tế trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là một sự tiến bộ đáng chú ý trong pháp luật
dân sự, tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm thì cũng phải xem xét một số điểm hạn chế và
không ít những bất cập nó gây không ít những khó khăn cho cơ quan thi hành pháp luật cũng
như gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của người dân qua đó có khả năng dẫn đến tình
trạng phát sinh nhiều hành vi xâm phạm tài sản thuộc sở hữu của người khác bằng cách cố ý
chiếm hữu thực tế tài sản. từ đó chúng ta phải không ngừng hoàn thiện từng ngày để bịt kín
những lỗ hổng và bảo vệ quyền lợi của nhân dân.
2.2. Phân tích các vụ việc chiếm hữu tài sản
a. Vụ án 1: Bản án thích đáng cho kẻ có lòng tham từ việc “Nhặt được của rơi”
Khoảng 15 giờ ngày 07/02/2021, Đặng Văn Lâm nhặt được 01 chiếc ví của anh Sằm
Văn Hiệp đánh rơi tại khu vực hầm gửi xe Trung tâm thương mại Vincom Tuyên Quang,
trong ví có 5.000.000 đồng, 01 thẻ ATM và các giấy tờ tùy thân của anh Hiệp. Lâm chi tiêu
cá nhân hết số tiền trong ví và tiếp tục nảy sinh ý định sử dụng số tiền trong tài khoản ngân
hàng của anh Hiệp. Lâm đến phòng giao dịch của Ngân hàng, giả là chủ thẻ yêu cầu cấp lại
mật khẩu thẻ, sau đó đến máy ATM đổi mật khẩu thẻ và kiểm tra số dư trong tài khoản của

19
anh Hiệp, khi thấy số tiền còn lại ở mức tối thiểu, không rút được nên Lâm cất thẻ ATM trong
ví.
Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 13/02/2021, Lâm đang làm nhân viên phục vụ tại quán
Bar NYX thì nhặt được 01 chiếc điện thoại di động Iphone XS MAX trị giá 11.500.000 đồng
của anh Nguyễn Ngọc Cường. Lâm biết chắc chắn là của anh Cường tắt nguồn và cất điện
thoại trong túi áo mang về nhà. Sau đó, Lâm mở điện thoại và đăng nhập vào ứng dụng Ipay
trên điện thoại, thấy trong tài khoản ngân hàng có 52.000.000 đồng nên Lâm đã chuyển tiền
từ tài khoản của anh Cường sang tài khoản của anh Hiệp mà trước đó Lâm đã đổi mật khẩu
thẻ và rút được 47.000.000 đồng. Do anh Hiệp phát hiện biến động số dư trong tài khoản của
mình và nghi có người đang sử dụng tài khoản của mình nên anh Hiệp đã thực hiện thao tác
báo mất thẻ và khóa thẻ, vì vậy Lâm chỉ rút được số tiền 47.000.000 đồng trong thẻ.
Đối với chiếc điện thoại Iphone XS MAX Lâm nhặt được của anh Cường, Lâm đã bán
lấy tiền chi tiêu cá nhân. Đối với số tiền 47.000.000 đồng, Lâm mua 01 chiếc điện thoại
iPhone 11 PRO MAX hết số tiền 23.490.000 đồng, số tiền còn lại đã chi tiêu cá nhân hết.
Theo những tình tiết trên, ta thấy Lâm có hành vi sai trái đến hai lần. Lần đầu chính
là nhặt được của rơi (chiếc ví của anh Hiệp) nhưng không thông báo cho chính quyền hay là
ban quản lí của trung tâm thương mại để trả lại chủ sở hữu. Lần thứ hai có thể xem vi phạm
nặng hơn khi cố tình không trả lại tài sản chiếc điện thoại trong khi biết chủ sở hữu là ai.
Chính lòng tham đã khiến Lâm phải trả cái giá thích đáng. Quá trình điều tra, Lâm đã chuộc
lại chiếc điện thoại trả lại cho anh Cường và trả lại toàn bộ số tiền chiếm đoạt được của anh
Cường, đồng thời trả lại anh Hiệp số tiền trong ví nhặt được của anh Hiệp. Bên cạnh đó Lâm
còn phải phạt tù về tội Chiếm giữ trái phép tài sản.
b. Vụ án 2: Tranh chấp đòi lại nhà và đất cho ở nhờ
Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà Lê Thị Bích L. là chủ sở hữu căn nhà số
16 đường T. Về nguồn gốc căn nhà và quyền sử dụng đất: Bà L sống cùng bố mẹ đẻ tại căn
nhà trên. Bố mẹ tôi mất không để lại di chúc gì. Ngày 28/6/2002, những người thừa kế theo
pháp luật của bố và mẹ L, trong đó có T1 đã lập biên bản đoàn tụ gia đình và L có toàn bộ
quyền sử dụng đất và tài sản liên quan đến đất. Căn cứ vào đó, UBND thị trấn đã làm thủ tục
cấp GCNQSDĐ cho bà L. Năm 2003, ông L chuyển nhượng một số tài sản của mình cho ông
Lê Anh T2. Ngày 28/8/2003, UBND Thành phố cấp GCNQSDĐ diện tích 156,4 m2. Năm
2003, nhà của bố mẹ anh L có dấu hiệu hư hỏng nên bà L xây nhà mới. Năm 2006, do hoàn

20
cảnh khó khăn nên anh L đi làm công nhân tại thành phố Hồ Chí Minh, bà L cho vợ chồng
người cháu của mình là ông T1 và bà B ở nhờ. Trong thời gian ở, vợ chồng ông T1 và bà B
tự ý cơi nới thêm diện tích mà ông L không hề hay biết. Ngày 07/04/2015, ông L chuyển
nhượng nhà và tài sản cho ông T và bà H. Hợp đồng chuyển nhượng của hai bên được nhà
nước công chứng. Sau khi chuyển nhượng, ông L có mượn của vợ chồng ông T 50.000.000
đồng và giao số tiền này cho vợ chồng ông T1 và bà B để vợ chồng ông chuyển đến địa điểm
mới. Tuy nhiên, bà T1 và bà B vẫn không chịu trả lại nhà và tài sản cho bà L. Vì vậy, bà L
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T1, bà B trả lại ngôi nhà và đất cho mình.
Qua tình tiết trên, ta thấy vợ chồng ông T1 chiếm hữu không ngay tình vì hai người
không phải là chủ sở hữu căn nhà trên giấy tờ nhưng vẫn cố ý mở rộng diện tích, sửa chữa lại
nhà cửa mà không có sự đồng ý với bà L (chủ sở hữu). Ngoài ra, tuy bà L đã tạo điều kiện
đưa cho vợ chồng ông T1 và bà H 50.000.000 đồng để tranh thủ dời đi và kiếm chỗ khác để
sinh sống nhưng họ vẫn không đồng ý trả lại nhà và đất. Có thể nói vợ chồng bà B và ông T1
đã có những hành vi vi phạm quyền chiếm hữu, sử dụng đất hợp pháp. Vì thế hai người họ
phải chấp nhận những phán quyết của Tòa án nhân dân đưa ra, buộc phải trả lại đất và nhà,
nếu không sẽ Tòa án sẽ giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
c. Vụ án 3: Bị bắt vì không trả 70 triệu đồng chuyển khoản nhầm
Ngày 10/12/2020, anh Lê Quang Thái sử dụng dịch vụ Internet Banking của Ngân
hàng Sacombank để chuyển 70 triệu đồng trả nợ cho chị Phạm Thị Thanh Thủy. Do nhập
nhầm hai số trong tài khoản của người cần trả nợ nên số tiền nêu trên chuyển nhầm đến tài
khoản của Trần Thị Thúy. Sau khi phát hiện nhầm lẫn, anh Thái đã cố gắng liên lạc với Thủy
để lấy lại tiền nhưng Thủy cố tình tránh mặt và tắt máy. Vì muốn chiếm giữ 70 triệu đồng của
anh Thái, Thủy đã nhiều lần dùng thẻ tín dụng cá nhân đến trạm thanh toán tự động (ATM)
rút toàn bộ số tiền của anh Thái đã chuyển nhầm để tiêu xài.
Bức xúc khi bị người khác chiếm dụng trái phép tài sản, ngày 15/12/2020, anh Lê
Quang Thái báo cáo cơ quan chức năng và khởi kiện tại TAND TP Cam Ranh. Sau nhiều lần
triệu tập Trần Thị Thúy bất thành, ngày 21/9/2021, TAND TP Cam Ranh đã có văn bản kiến
nghị Cơ quan CSĐT Công an TP Cam Ranh khởi tố vụ án hình sự do có dấu hiệu tội phạm.
Sau 9 ngày lẩn trốn, chiều tối 28/1 Trần Thị Thúy vừa lén lút trở về nhà thì Thượng úy
Ngô Văn Nam và Trung úy Lê Văn Hợi, cán bộ Đội điều tra tổng hợp Công an TP Cam Ranh
ập đến bắt giữ.

21
Qua sự việc trên ta thấy Trần Thị Thúy có hành vi “chiếm giữ trái phép tài sản” và
đồng thời cố ý phạm tội “Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, đang
chấp hành án phạt tù trốn”. Vì thế, Trần Thị Thúy sẽ bị xử phạt về cả hành chính và hình sự
theo phán quyết của tòa án đưa ra.
2.3. Đề xuất giải pháp
Dân trí nước ta còn hạn chế, vì vậy việc thực hiện các chế định pháp lý về quyền sở
hữu còn bộc lọ những tồn tại nhất định, đòi hỏi cần có những biện pháp khắc phục kịp thời.
Đầu tiên là bổ sung các quy định, thiết lập các thể chế cần thiết và hoàn thành việc
đăng ký thay đổi quyền động vật. Điều kiện cần thiết để quyền của chủ thể được tôn trọng và
bảo đảm thực hiện bằng vũ lực là quyền đó phải được xã hội biết đến. Việc đăng ký tài sản là
rất quan trọng, một mặt là cơ sở để chủ sở hữu bảo vệ quyền lợi của mình, chống lại bên thứ
ba trong trường hợp có tranh chấp, mặt khác tạo điều kiện rất thuận lợi cho Tòa án xác định
chứng cứ. và quyết định tranh chấp. Bộ luật Dân sự cần quy định chung về việc đăng ký tài
sản, giá trị pháp lý của việc đăng ký, v.v.
Thứ hai, xây dựng lại hệ thống sở hữu và hệ thống sở hữu bằng những vật liệu phù
hợp hơn. Việc xây dựng lại các hệ thống này cần dựa trên nguyên tắc thống nhất của pháp
luật, đảm bảo rằng hệ thống lý luận về chiếm hữu phải logic và chặt chẽ. Trong BLDS năm
2015, chiếm hữu có thể tách rời sở hữu, và chỉ có thể xác lập chế độ sở hữu chung trong
BLDS 2015, tránh việc sử dụng cùng 1 thuật ngữ “chiếm hữu” để xây dựng 2 chế định khác
nhau như hiện nay.
Thứ ba, bổ sung khái niệm thế chấp tạm thời để phân biệt với tình trạng chiếm hữu
thực tế của tài sản. Quan hệ chiếm hữu chỉ được xác lập khi chủ thể thực sự có thái độ tinh
thần của một người có quyền lực của mình đối với tài sản, không vay mượn sức mạnh của
người khác. Nói cách khác, quyền sở hữu được xác lập khi người có tài sản tuyên bố là chủ
sở hữu của tài sản; chỉ nên ghi nhận quyền cầm giữ tạm thời nếu người giữ tài sản đưa ra một
vị trí khác với chủ sở hữu, chẳng hạn như của người thuê hoặc người mượn.
Giải pháp này dẫn đến sự phân biệt giữa hai trạng thái khác nhau của người nắm giữ
tài sản, tất yếu dẫn đến một vấn đề: khi đối chất với người đang giữ tài sản, làm thế nào để
xác định đó là người nắm giữ hay chỉ tạm thời là người dân? Để giải quyết vấn đề này, chúng
ta có thể tham khảo luật của Pháp, và các nhà lập pháp của Pháp sử dụng hai công cụ. Một
mặt, theo BLDS Pháp Điều 2250, bất kỳ người nào đang nắm giữ tài sản đều được suy đoán

22
là người chiếm hữu, cho đến khi có ai khác chứng minh được rằng người này chỉ là người
nắm giữ tài sản của người khác, tức là chỉ cầm giữ tạm thời. Mặt khác, theo Điều 2251, người
nào đã mang tư cách người cầm giữ tạm thời, thì luôn được suy đoán là chỉ có tư cách đó chứ
không thể “tự suy diễn” hoặc tự xác lập thành người chiếm hữu, dù bao nhiêu thời gian có
trôi qua, trừ trường hợp chứng minh được rằng mình đã trở thành chủ sở hữu bằng các con
đường hợp pháp.

23
C. PHẦN KẾT LUẬN
Việc áp dụng pháp luật về quyền chiếm hữu trong Bộ luật dân sự diễn ra trong
sự vận động phát triển không ngừng của nền kinh tế xã hội. Các quan hệ pháp luật dân
sự ngày càng trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi sự can thiệp sâu rộng của các cơ quan bảo
vệ pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp, ngăn chặn phát sinh các mâu thuẫn giữa
các chủ thể khi thực hiện nội dung của chế định pháp luật về quyền chiếm hữu.
Từ việc phân tích khái quát về Chiếm hữu tài sản trong Luật dân sự Việt Nam
và đánh giá thực trạng áp dụng quy định về chiếm hữu tài sản cũng như thực tiễn hoạt
động thực hiện pháp luật trên thực tế, tôi đã đưa ra những giải pháp đóng góp hoàn
thiện quy định về chiếm hữu tài sản và đồng thời đưa ra các phương án nâng cao hiệu
quả.Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy vai trò này thì chúng ta phải tiến hành đồng bộ
nhiều giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh, nâng cao chất lượng của công tác phổ biến giáo
dục pháp luật từ đó nhằm hoàn thiện, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân đáp ứng
yêu cầu trong tình hình mới hiện nay.

24
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
hjhj

25

You might also like