You are on page 1of 9

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 12 (37) - Thaùng 2/2016

Tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng – Từ góc nhìn văn hóa
Việt Nam

Study the concept of belief – From perspective of Viet Nam culture

ThS. Dương Hoàng Lộc,


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM

M.A. Duong Hoang Loc,


University of Social Sciences and Humanities – National University Ho Chi Minh City

Tóm tắt
Mục đích của bài viết nhằm làm rõ khái niệm tín ngưỡng vốn còn nhiều cách hiểu khác nhau. Trong văn
hóa truyền thống Việt Nam, tín ngưỡng hoàn toàn khác với tôn giáo và có mối quan hệ với trình độ
nhận thức, kinh tế, xã hội của con người trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó. Mặt khác, tín ngưỡng
không tồn tại một cách đơn lẻ mà còn là một tích hợp với nhiều hình thức văn hóa khác nhau để thể hiện
niềm tin của con người bằng các hành vi cụ thể như lễ hội, sinh hoạt văn hóa nghệ thuật, phẩm vật,…
Từ khóa: Tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa…
Abstract
The purpose of the paper is to show clearly the concept of belief which still has different ways of
understandings. In the background of Vietnam traditional culture, the belief is considered to be different
to religion and it is based on the people's view, economy, society in any cases. The belief does not exist
alone but it is integrated with other cultural forms, reflecting human belief in many practical ways
such as, festivals, cultural and art activities, and offerings.
Keywords: belief, religion, cultural…

1. Đặt vấn đề mục tiêu của bài viết, ngoài việc tổng hợp
Tín ngưỡng (belief) là một phương các quan điểm khác nhau về khái niệm tín
diện quan trọng của đời sống tinh thần con ngưỡng, còn hướng đến việc đưa ra cách
người, đồng thời còn là một hiện tượng văn hiểu về tín ngưỡng xuất phát từ các đặc
hóa độc đáo, phản ánh được niềm tin, ước trưng văn hóa truyền thống Việt Nam.
vọng của con người từ xưa cho đến nay. 2. Khái niệm tín ngưỡng qua những
Cho nên, tín ngưỡng nhận được sự quan góc nhìn
tâm của các nhà nghiên cứu ở nhiều Trước hết, không thể không tìm hiểu
chuyên ngành khác nhau như văn hóa dân tín ngưỡng ở phương diện từ nguyên. Theo
gian, tôn giáo học, nhân học,… Ở mỗi Từ điển Hán- Việt của học giả Đào Duy
chuyên ngành, do có cách tiếp cận riêng, Anh, tín ngưỡng được giải thích: “Lòng
nên dẫn đến việc hiểu khái niệm tín ngưỡng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo
cũng chưa thống nhất với nhau. Cho nên, hoặc một chủ nghĩa” [Đào Duy Anh, 1996:

31
283]. Tương tự, trong quyển Từ điển Tiếng đẳng giữa các nền văn hóa (trong đó có tôn
Việt do Văn Tân (chủ biên), tín ngưỡng giáo) thì không có sự đánh giá tôn giáo này
nghĩa là: “Tin tưởng vào một tôn giáo: Tự cao hơn tôn giáo khác [Đặng Nghiêm Vạn,
do tín ngưỡng” [Văn Tân (chủ biên), 1991: 2005: 89-90]. Đặc biệt, khi nhắc đến một
1209]. Như vậy, ở nghĩa từ nguyên, tín khái niệm được nhiều người sử dụng là tín
ngưỡng chính là niềm tin tôn giáo ở mỗi ngưỡng dân gian, thì ông lại cho rằng đây
con người. chính là một dạng tôn giáo bình dân:
Tuy nhiên, mở rộng hơn nữa, qua ”Thuật ngữ đó có thể là cách hiểu tôn giáo
phân loại một số tài liệu nghiên cứu có theo lối bình dân, nghĩa là theo tập quán,
được, thì tạm thời có hai nhóm quan điểm theo dư luận hoặc bị cuốn hút vào các nghi
khác nhau về khái niệm tín ngưỡng. Đây là lễ, chứ không theo lối chính thống chủ yếu
một vấn đề rất thú vị và không thể không xuất phát từ việc nghiên cứu giáo lý, suy tư
đi sâu tìm hiểu. rồi giác ngộ mà theo. Hoặc cũng có thể
2.1. Tín ngưỡng dưới góc nhìn của hiểu là các hình thức tôn giáo dân tộc được
các nhà Tôn giáo học, Nhân học lưu truyền lại từ xa xưa, gần gũi với cộng
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng tín đồng như các lễ hội, các cuộc hành hương,
ngưỡng là trạng thái tâm lý của con người các ngày lễ với những rước xách, nhảy
đối với thế lực thiêng, là một bộ phận của múa, thậm chí các hình thức bói toán,
tôn giáo và không thể tách rời khỏi tôn tướng số…Ở đó có cả tầng lớp trí thức,
giáo, là cơ sở hình thành nên tôn giáo. Ở mặc dù ít tin theo nhưng vẫn tham gia. Ở
Việt Nam, một đại diện tiêu biểu của nhóm những lễ hội, đám rước,…đó vẫn được đa
quan điểm này là Đặng Nghiêm Vạn. phần lớp bình dân ở nông thôn hưởng ứng,
Trong công trình Lý luận về tôn giáo và theo một truyền thống đã có từ lâu trong
tình hình tôn giáo ở Việt Nam, ông đã phân dân tộc” [Đặng Nghiêm Vạn, 2005: 91].
tích khá rõ khái niệm tín ngưỡng với tư Một điều cần lưu ý là tác giả đã nhắc lại
cách là đức tin tôn giáo, tín ngưỡng không nội hàm khái niệm tôn giáo của các nhà
hoàn toàn tách rời khỏi tôn giáo: “Nếu hiểu kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra
tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở là: Các hình thái tôn giáo ra đời từ thuở sơ
ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm tin tôn khai cho đến ngày nay, đều được gọi thống
giáo (belief, believe, theo nghĩa hẹp, nhất là tôn giáo. Nếu có chăng và nếu được
croyance religieuse) thì tín ngưỡng chỉ là thì chỉ có thể phân biệt giữa tôtem giáo, ma
một bộ phận chủ yếu cấu thành của tôn thuật, saman giáo với tôn giáo [Đặng
giáo” [Đặng Nghiêm Vạn, 2005: 88]. Tác Nghiêm Vạn, 2005: 91]. Từ cách tiếp cận
giả còn tỏ thái độ không đồng tình và đề này, trong quyển sách trên, Đặng Nghiêm
nghị xem xét lại khi coi tín ngưỡng và tôn Vạn đã xếp tục thờ Thành Hoàng ở làng
giáo như hai cấp độ thấp, cao bởi vì nếu xã, tục thờ Trời của nhà nước phong kiến,
nhà nghiên cứu tôn giáo đã chấp nhận yếu nhất là tục thờ ông bà tổ tiên, là những
tố quyết định của một tôn giáo là đức tin hình thái tôn giáo của Việt Nam và chúng
hay niềm tin, thì đó là thước đo duy nhất được gọi là hệ thống tôn giáo dân tộc. Tiếp
về tính hơn kém của những tôn giáo trong theo, trong sách chuyên khảo Nhân học
cộng đồng, và của những tín đồ với tôn văn hóa con người với siêu nhiên, xã hội
giáo của họ. Và, nếu chấp nhận sự bình với thế giới siêu nhiên, Vũ Minh Chi - tác

32
giả quyển sách, kế thừa những quan điểm phạm trù các bộ lạc có tôn giáo. Nhưng vì
về tôn giáo của các nhà nhân học, nhất là định nghĩa chật hẹp này có khuyết điểm là
của Durkheim và Tylor, đã phân loại tôn nó đồng nhất tôn giáo trước hết với những
giáo như sau: Khi quan niệm về tôn giáo biểu hiện tín ngưỡng riêng hơn là với một
theo nghĩa rộng, người ta còn có thể phân quan niệm sâu sắc làm cơ sở của chúng. Vì
loại tôn giáo một cách cổ điển là tôn giáo thế tốt hơn cả là nên dừng lại ở nguồn gốc
nguyên thủy, tôn giáo dân tộc (hay quốc chủ yếu này và chấp nhận sự tín ngưỡng
giáo) và tôn giáo thế giới. Tôn giáo nguyên đối với những thực thể tâm linh là mức tối
thủy là tôn giáo đa số của những người thiểu của tôn giáo”[E.B.Tylor, 2001: 508].
sống trong xã hội chưa có chữ viết, hình Cách giải thích khái niệm tôn giáo của E.B.
thái này cùng với tôn giáo mang tính quốc Tylor nhằm chứng minh rằng thuyết vật
dân của một số dân tộc cổ đại được gọi là linh (Animalism) tồn tại ở tín ngưỡng của
tôn giáo dân tộc, dùng với nghĩa đối lập nhiều tộc người, nó cần được xem là nguồn
với tôn giáo thế giới. Đó là tôn giáo chỉ lưu gốc quan trọng để hình thành nên tôn giáo.
hành trong một phạm vi dân tộc, trong khi Tương tự, trong quyển Cành Vàng nổi
tôn giáo thế giới là tôn giáo khá phổ biến tiếng, Geogre Jame Frazer tiếp tục cho
trên thế giới, lưu hành rộng rãi trong nhiều rằng tôn giáo là việc cầu phúc hay là việc
dân tộc, ví dụ Phật giáo, Thiên Chúa giáo, hòa giải những thế lực cao cấp hơn con
Hồi giáo [Vũ Minh Chi, 2004: 277]. Qua người, những thế lực này, như người ta
cách phân loại này của tác giả đã cho thấy nghĩ, chỉ huy và điều hành dòng chảy của
tôn giáo nguyên thủy, tức là các hình thức tự nhiên và đời sống con người. Tôn giáo
tín ngưỡng gắn liền nhiều tộc người trên được định nghĩa như vậy bao gồm hai
thế giới, trở thành một bộ phận quan trọng thành tố, một mang tính lý thuyết và một
để hợp thành nên tôn giáo dân tộc. Cách mang tính thực hành, biết rằng đó là một
tiếp cận của Vũ Minh Chi rất giống với tín điều vào những thế lực cao cấp hơn con
quan điểm ở trên của Đặng Nghiêm Vạn, người và một cố gắng để làm cho những
khi cả hai cùng cho rằng tín ngưỡng là một thế lực đó trở thành thế lực bảo hộ hay để
bộ phận của tôn giáo. Mở rộng hơn nữa, làm vừa lòng những thế lực ấy. Rõ ràng là
trong nhiều công trình của các học giả tín ngưỡng đến đầu tiên, bởi lẽ chúng ta
nước ngoài, tín ngưỡng vẫn được hiểu là buộc phải tin vào sự tồn tại của thần thánh
niềm tin và thuộc về tôn giáo. E.B.Tylor, trước khi làm vừa lòng những thế lực ấy.
một đại diện tiêu biểu của Trường phái Nhưng, nếu như tín ngưỡng không dẫn đến
Tiến hóa luận, đã trình bày cặn kẽ quan việc thực hành tương ứng với nó thì đó
niệm của ông về khái niệm tôn giáo trong không còn là một tôn giáo mà chỉ đơn giản
công trình nổi tiếng Văn hóa nguyên thủy là thần học,. Theo câu nói của thánh
như sau: ”Nếu trong định nghĩa này, tôn Jacques, “lòng tin mà không có những
giáo phải mang sự tín ngưỡng đối với thần hành động chỉ là lòng tin chết bởi lẽ nó cô
linh tối cao hay sự phán xét sau khi chết, độc” [Geogre Jame Frazer, 2007: 94]. Vì
phải có sự thờ cúng các thần tượng, có tập vậy, khái niệm tôn giáo, được định nghĩa
tục hiến tế, hay có những học thuyết hoặc qua Từ điển Nhân học, bao gồm luôn cả
nghi thức nào tương đối phổ biến, thì tất các hình thái tín ngưỡng của con người và
nhiên phải loại bỏ nhiều bộ lạc ra khỏi chúng được hiểu là tôn giáo không có chữ

33
viết có khi được gọi là ”Thuyết vạn vật hữu hại, chữa bệnh bằng phù phép, lễ dục tình,
linh”, “phiếm thần” và “đa thần”, tồn tại ma chay. Về sau, khi chế độ công xã thị tộc
chủ yếu ở châu Phi, Amazonia, Australia trong quá trình tan rã, thì xuất hiện thêm
và một số vùng thuộc Malaysia, có niềm khá nhiều hình thức khác: Sự thờ cúng của
tin vào một vị chúa tối cao dù họ có xu bộ lạc sơ kỳ (lễ thành niên), sự thờ cúng
hướng giới hạn tầm quan trọng, đôi khi coi của nghề săn bắt, sự thờ cúng của thị tộc
các vị thần ít quyền lực hơn và các đồ vật mẫu hệ đối với các vật thiêng và các thần
của thiên nhiên như người Nuer ở Sudan. che chở, sự thờ cúng tổ tiên trong gia đình-
Đẳng cấp tu sĩ không tồn tại trong các tôn thị tộc phụ hệ, shaman giáo, Naguan giáo,
giáo phi chữ viết đó, song các quan hệ ít sùng bái hội kín, sự thờ cúng các thủ lĩnh,
chính thống khó có thể đạt được giữa tín thờ thần bộ lạc, thờ thần nông [X.A.
đồ và tu sĩ, người trực tiếp cầu nguyện tổ Tôcarev, 1994: 57]. Nhìn chung, nhóm
tiên hay đàm phán với các thần linh thông quan điểm này nhìn nhận tín ngưỡng dưới
qua lên đồng, shaman giáo [Thomas góc nhìn Tôn giáo học, Nhân học và có
Barfield, 1997: 675] . Mặt khác, việc hiến những phân tích, lý giải thuyết phục, nhiều
tế trong tôn giáo không chỉ duy trì trong gợi mở mới mẻ và chủ yếu là được đề xuất
các tôn giáo thế giới có chữ viết mà còn ở bởi các học giả phương Tây hoặc những
các tôn giáo địa phương dựa vào truyền người chịu ảnh hưởng bởi họ.
miệng, hay giữa tự nhiên và siêu nhiên. 2.2. Tín ngưỡng dưới góc nhìn các
Các hoạt động khác biệt như hiến tế, pháp nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam
thuật, thờ cúng tổ tiên và sở hữu quỉ thần Bên cạnh đó, một nhóm quan điểm
tạo ra vũ trụ quan con người dùng để giải khác thì lại nhấn mạnh đến tín ngưỡng
thích và tìm hiểu những gì họ trải qua và hi hoàn toàn khác và độc lập với tôn giáo.
vọng [Thomas Barfield, 1997: 675]. Và Đầu tiên, không thể không nhắc đến nhà
càng không thể bỏ qua một học giả nổi Dân tộc học Phan Hữu Dật. Trong một bài
tiếng tôn giáo của Nga là S.A. Tokarev. viết, ông đã phân biệt rất rõ ràng giữa tín
Tương tự, ông cũng thừa nhận: “Mặc dù ngưỡng và tôn giáo: Lâu nay trên sách báo
bác bỏ luận thuyết về sự phát triển nội tại và trong cuộc sống hằng ngày, ta thường
của tôn giáo, chúng tôi vẫn không bao giờ dùng các thuật ngữ tôn giáo, tín ngưỡng,
phủ định sự tồn tại của những mối liên hệ hoặc tôn giáo-tín ngưỡng hay trái lại. Cố
nguồn gốc giữa các tín ngưỡng. Chúng ta nhiên hai thuật ngữ này có nội dung gần
đã thấy rõ những tín ngưỡng đó có tính gũi với nhau. Đó là niềm tin dù đó là tin
bảo thủ đến mức nào. Bất kì một tín vào lực lượng siêu nhiên một cách chất
ngưỡng nào đã bắt rễ vững chắc cũng đều phác mộc mạc, hay tin vào Đấng Cứu Thế.
tồn tại trong nhân dân rất lâu bền, thậm Nhưng tôi nghĩ là không thể đồng nhất
chí tồn tại ngay cả lúc những điều kiện sản chúng với nhau được và cho rằng tín
sinh ra nó cũng thay đổi” ngưỡng phát triển đến mức nào đó mới
[X.A.Tôcarev,1994: 55]. Cụ thể hơn nữa, thành tôn giáo. Ở cấp độ tín ngưỡng chưa
trong quyển sách Các hình thức tôn giáo sơ xuất hiện điện thần (hệ thống thần linh,
khai và sự phát triển của chúng, ông phân panthénon), chưa có hệ thống giáo lý, chưa
chia các hình thức tôn giáo có nguồn gốc có tầng lớp tăng lữ (thày cúng), chưa có
xưa nhất gồm: Tô tem giáo, bùa bả, lễ ám việc xây dựng đền miếu cố định để thờ

34
cúng như sau này đối với tôn giáo dân tộc, thức thực hành (tín ngưỡng: Ma thuật, tôn
tôn giáo khu vực và tôn giáo thế giới [Phan giáo: Lễ nghi tôn giáo), thiết chế (tín
Hữu Dật, 1999: 322]. Ngoài ra, Trần Ngọc ngưỡng thì chưa hoàn chình, còn tôn giáo
Thêm, dưới góc nhìn của văn hóa học, đã thì hoàn chỉnh về thiết chế vật chất, có giới
lý giải rất thuyết phục về sự khác biệt giữa tăng lữ, hệ thống nghi thức, nghi vật, nghi
tín ngưỡng và tôn giáo dựa vào bối cảnh, trượng hoàn chỉnh, có hệ thống kinh sách,
đặc điểm riêng của văn hóa Việt Nam. có đạo đức niềm tin, có tình cảm cộng
Trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, đồng về niềm tin) và cuối cùng là phạm vi
ông xếp tín ngưỡng thuộc về văn hóa tổ ảnh hưởng, khung cảnh xã hội (tín ngưỡng:
chức đời sống cá nhân và đồng thời nhấn Hẹp, thường là các cộng đồng tộc người, ở
mạnh rằng: Khi đời sống và trình độ hiểu các xã hội chưa có nhà nước. Tôn giáo:
biết còn thấp, họ tin tưởng và ngưỡng mộ Rộng, phổ biến ở các cộng đồng tộc người,
vào những thần thánh mà họ tưởng tượng quốc gia, thế giới, ở các xã hội có nhà
ra. Từ tự phát lên tự giác theo con đường nước) [Lê Như Hoa (chủ biên), 2001:21-
quy phạm hóa thành giáo lý, có giáo chủ, 22]. Để hiểu hơn về sự khác biệt giữa tín
thánh đường-tín ngưỡng trở thành tôn giáo. ngưỡng và tôn giáo thì không thể bỏ qua
Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, do mạnh về Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo của nhà
tư duy tổng hợp mà thiếu óc phân tích nên nước Việt Nam được ban hành năm 2004.
các tín ngưỡng dân gian chưa chuyển biến Pháp lệnh đã phân biệt rõ cả hai hoạt động
hoàn toàn được thành tôn giáo theo đúng tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo, và cũng
nghĩa của nó-mới có những mầm móng của theo đó, cả hai khái niệm này có sự khác
những tôn giáo như thế-đó là đạo Ông Bà, nhau. Theo đó, hoạt động tín ngưỡng là
đạo Mẫu. Phải đợi khi các tôn giáo thế giới hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên, tưởng
như Phật giáo, Đạo giáo, Kitô giáo du nhập niệm và tôn vinh những người có công với
vào và đến thời điểm giao lưu với phương nước, với cộng đồng, thờ cúng thần, thánh,
Tây, các tôn giáo dân tộc (như Đạo Cao biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt
Đài, Đạo Hòa Hảo) mới xuất hiện [Trần động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu
Ngọc Thêm, 2001: 233]. Trong một công cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn
trình viết về tín ngưỡng ở Việt Nam, Lê hóa, đạo đức xã hội. Còn hoạt động tôn
Như Hoa cho rằng: Như vậy, về bản chất, giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lí,
tín ngưỡng cũng như tôn giáo là phương giáo luật, lễ nghi, quản lí tổ chức của tôn
thức nhận thức và cải tạo hiện thực. Sự giáo [Ban Tôn giáo chính phủ, 2007: 21-
khác nhau giữa chúng và cải tạo hiện thực. 22]. Qua tìm hiểu một số công trình của
Sự khác nhau giữa chúng chỉ là những đặc giới nghiên cứu trong nước và văn bản của
điểm mang tính cách lịch sử. Mặt khác, tác nhà nước ta đã cho thấy tín ngưỡng khác
giả, dựa vào đặc điểm, đã đề xuất 5 tiêu chí với tôn giáo ở nhiều phương diện. Đây là
để phân biệt chúng là: Cội nguồn (tín nhóm quan điểm nhấn mạnh việc phân tích
ngưỡng chỉ có thuyết hồn linh, còn tôn sự hình thành tín ngưỡng trong bối cảnh
giáo thì ngoài thuyết hồn linh còn có vật tổ văn hóa truyền thống Việt Nam và dĩ
hoặc thuyết về đấng siêu nhiên khác), đối nhiên, điều này hoàn toàn khác với cách
tượng sùng bái (tín ngưỡng: Vạn vật hữu tiếp cận của phương Tây.
linh, đa thần, tôn giáo: Nhất thần), phương

35
Ngoài hai nhóm quan điểm mang tính gia nông nghiệp lúa nước và có nền văn
cơ bản này, trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa bản địa phong phú, đa dạng mà phần
hóa dân gian, vốn rất phong phú, đa dạng lớn được hình thành từ trong đời sống, sinh
và là nền tảng của văn hóa truyền thống hoạt của nhân dân lao động, cho nên không
Việt Nam, các nhà nghiên cứu hay nhắc thể không quan tâm đến văn hóa dân gian
đến khái niệm tín ngưỡng dân gian. Vì vậy, nói chung cũng như tín ngưỡng dân gian
nó cần được bàn thêm hơn ở đây. Cũng nói riêng vốn là tài sản của họ được lưu
theo Lê Như Hoa, trong sách Tín ngưỡng truyền và gìn giữ từ nhiều thế hệ, bên cạnh
dân gian ở Việt Nam do ông chủ biên, tín hình thái văn hóa do nhà nước xây dựng
ngưỡng dân gian được hiểu: Là những hình các thiết chế, ban hành cơ chế quản lý và
thái tôn giáo sơ khai, chúng được hình lưu hành. Vì vậy, tín ngưỡng dân gian là
thành trên cơ sở tâm cách nguyên thủy hình thức tín ngưỡng quan trọng, phổ biến
(primitive metality) để nhận thức hiện thực trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân
và tác động đến hiện thực bằng các kỉ xảo dân ta bao đời nay, và thậm chí nó thường
(các biện pháp ma thuật) của thuyết hồn xuyên được các nhà nước phong kiến Việt
linh. Tín ngưỡng “dân gian” ở đây nhằm Nam coi trọng, công nhận. Ở đây, không
phân biệt với những tín ngưỡng, tôn giáo thể không nhắc đến trường hợp các triều
chính thống của những xã hội đã có nhà đại phong kiến nước ta Trần, Lê, Nguyễn
nước (trước khi có nhà nước, chưa có sự đã phong sắc thần cho Thành Hoàng Bổn
phân biệt giữa văn hóa dân gian và văn hóa Cảnh được thờ tại các đình làng-một thiết
nhà nước, chưa có sự phân liệt giữa tín chế văn hóa đặc thù của làng xã Việt Nam.
ngưỡng dân gian và tôn giáo chính thống) Vì tính chất quan trọng và nổi bật này của
[Lê Như Hoa (chủ biên), 2001: 23]. Ở đây, tín ngưỡng dân gian mà Phan Hữu Dật đã
tác giả đã chỉ rõ tín ngưỡng dân gian thuộc nhận định như sau: “Về thực chất, tín
về tầng lớp bình dân trong xã hội, khác hẳn ngưỡng là một bộ phận cấu thành của văn
tín ngưỡng, tôn giáo chính thống của nhà hóa dân gian” [Phan Hữu Dật, 1999: 328].
nước phong kiến thiết lập và quản lí. Một Cho nên, khi nghiên cứu về tín ngưỡng
học giả phương Tây khác, Patrick. B. Việt Nam thì không thể bỏ qua một nội
Mullen, lại cho biết tín ngưỡng dân gian có dung chủ đạo của khái niệm này là tín
một nội hàm rất phong phú và thật xác ngưỡng dân gian.
đáng: “Tín ngưỡng dân gian là một thể loại 3. Một cách hiểu về khái niệm
lớn bao gồm sự biểu cảm và cách ứng xử tín ngưỡng - từ đặc điểm văn hóa Việt Nam
mà ta gọi là mê tín, tín ngưỡng bình dân, Qua tìm hiểu những quan điểm khác
làm phép, các hiện tượng siêu nhiên, các biệt về tín ngưỡng, chúng tôi xin đưa ra
câu cuả bà nội trợ già, y học dân gian, tôn cách tiếp cận khái niệm này cũng như nội
giáo dân gian, các biểu hiện của thời tiết, hàm của nó, dựa vào những đặc trưng của
cây cỏ, các lời cầu khấn tụng niệm, những văn hóa Việt Nam, gồm các nội dung sau:
người hay vật mang đồ rủi, đồ làm từ rễ - Thứ nhất, tín ngưỡng là một hình
cây, những điềm tốt hay điềm xấu, các thức văn hóa phi vật thế mang tính độc đáo
chuyện yêu ma và những điều cấm kị” và biểu hiện khá rõ được đời sống vật chất,
[Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (chủ tinh thần của con người, nhất là trong hoàn
biên), 2005:273]. Việt Nam là một quốc cảnh riêng của văn hóa và con người Việt

36
Nam. Ngoài ra, tín ngưỡng còn đóng góp trong thực tiễn và các ứng xử thực tế. Xin
vào việc hình thành nên các giá trị truyền nhắc lại, văn hoá dân gian không chỉ là sự
thống của văn hoá và tính cách dân tộc, kết phản ánh một thế giới quan văn hoá trừu
nối cả cộng đồng lại với nhau. tượng, mà nó còn tồn tại trong cuộc sống
- Thứ hai, tín ngưỡng còn là hệ thống hằng ngày như là một phương tiện sáng tạo
những niềm tin và cách thức thể hiện văn hoá” [Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan
những niềm tin ấy bằng những hành động (chủ biên), 2005: 280]. Nhà nghiên cứu văn
cụ thể của con người đối với một hiện tượng hóa Ngô Đức Thịnh lại có cách nhìn cụ thể
siêu nhiên, xã hội, thậm chí là một sự vật hơn: Bản thân các tôn giáo tín ngưỡng đã là
nào đó, hoặc cá nhân có liên quan đến cuộc một hình thức văn hoá đặc thù, đấy là chưa
sống thực tại của họ đã được thiêng hóa để kể, trong quá trình hình thành và phát triển,
cầu mong sự che chở, giúp đỡ. mỗi tôn giáo tín ngưỡng bao giờ cũng sản
- Thứ ba, xuất phát từ quan điểm của sinh, tích hợp trong nó những hiện tượng,
trường phái Tương đối luận văn hóa, cho những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật [Ngô
rằng mỗi nền văn hóa đều có tính độc đáo Đức Thịnh, 2006: 28]. Thực chất, tín
riêng, không phân biệt cao, thấp, cho nên ngưỡng thực ra còn là môi trường sản sinh,
tín ngưỡng cũng như việc thực hành tín tích hợp và bảo tồn nhiều sinh hoạt văn hoá
ngưỡng phụ thuộc vào những bối cảnh lịch dân gian. Con người muốn chuyển đạt
sử, địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng nguyện vọng cuả mình lên thần linh thì phải
như trình độ nhận thức của chủ thể sáng cần có các công cụ, phương tiện như: Múa
tạo ra các nền văn hóa đó. Ở một phương hát, tượng thờ, nghi lễ, phẩm vật, nơi thờ
diện khác, cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, cúng… Đặc biệt, một ví dụ hết sức xác
qua việc nghiên cứu tín ngưỡng sẽ giúp thực, điển hình mà Ngô Đức Thịnh đã đưa
cho nhận diện rõ được trình độ nhận thức, ra là: “Từ nhân lõi tôn giáo tín ngưỡng này,
không gian và thời gian, phương thức sống, đạo Mẫu đã sản sinh và tích hợp nhiều yếu
chiều sâu của một nền văn hóa mà cá nhân tố, giá trị văn hoá: Văn học đạo Mẫu, diễn
và cộng đồng đó đang tồn tại. Ngô Đức xướng đạo Mẫu (âm nhạc, múa, hát chầu
Thịnh đã có một nhận xét tương tự: “Tất cả văn, sân khấu), kiến trúc và nghệ thuật
những niềm tin, thực hành và tình cảm tôn trang trí, lễ hội và sinh hoạt cộng đồng gắn
giáo tín ngưỡng trên đều sản sinh và tồn với đạo Mẫu” [Ngô Đức Thịnh (chủ biên),
tại trong một môi trường tự nhiên, xã hội 2001: 765]
và văn hóa mà con người đang sống, theo - Thứ năm, bên cạnh sự giống nhau,
cách suy nghĩ và cảm nhận của nền văn đó là niềm tin vào cái thiêng của con
hóa đang chi phối họ”[Ngô Đức Thịnh, người, tín ngưỡng và tôn giáo còn có sự
2007: 14] khác biệt ở các yếu tố thuộc về tôn giáo
- Thứ tư, tín ngưỡng không tồn tại một như: Giáo chủ, giáo lý, giáo qui và giáo hội
cách đơn lẻ mà còn là một tích hợp với mà tín ngưỡng không có. Ngoài ra, ở Việt
nhiều hình thức văn hóa khác nhau để thể Nam, tín ngưỡng và tôn giáo còn có sự
hiện niềm tin của con người bằng các hành giao thoa lẫn nhau, do đặc tính dung hợp-
vi cụ thể như Patrick B.Mullen đã nhận một đặc điểm truyền thống của văn hóa
định: “Tín ngưỡng dân gian không chỉ tồn dân tộc. Vì vậy, không thể không quan tâm
tại ở dạng trừu tượng mà nó còn tồn tại tìm hiểu đến sự hiện diện của các yếu tố

37
tôn giáo trong sinh hoạt tín ngưỡng và đến cộng đồng. Trong bối cảnh văn hóa
ngược lại. Mặt khác, trong thực tiễn, các truyền thống Việt Nam, tín ngưỡng hoàn
tín ngưỡng dân gian và tôn giáo lại có sự toàn khác với tôn giáo và bản thân có nhiều
lồng ghép với nhau trên một số nguyên lý, nội hàm riêng, vốn xuất phát từ các đặc
từ đó, thống nhất về mặt lịch sử các niềm điểm của văn hóa dân tộc. Vì vậy, đây là cơ
tin của người dân, tránh những xung đột, sở cho việc tìm hiểu tín ngưỡng Việt Nam
tạo ra những sức mạnh cố kết cộng đồng vốn rất phong phú, đa dạng và thể hiện rõ
mới, có tính hiệu quả mạnh mẽ [Tô Duy nhiều giá trị của văn hóa nước ta, cũng như
Hợp, Lương Hồng Quang, 2000: 32]. Đây nhân sinh quan và thế giới quan của con
là chức năng quan trọng của tín ngưỡng người Việt Nam, xưa cũng như nay.
trong đời sống cộng đồng mà không thể
không nhắc đến khi nghiên cứu về sự ảnh TÀI LIỆU THAM KHẢO
hưởng, tác động của nó đối với cuộc sống
1. Ban Tôn giáo chính phủ (2007), Văn bản
con người.
pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo,
- Thứ sáu, giao lưu và hội nhập với Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
nhiều nền văn hóa trên thế giới là một đặc
2. Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán- Việt,
trưng quan trọng của văn hóa Việt Nam Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
qua hàng ngàn năm lịch sử. Cho nên, trong
3. Vũ Minh Chi (2004), Nhân học văn hóa
nghiên cứu tín ngưỡng thì cần chú ý đến con người với thiên nhiên, xã hội và thế giới
hình thức tín ngưỡng bản địa và tín ngưỡng siêu nhiên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
ngoại nhập. Tín ngưỡng bản địa là tín
4. Phan Hữu Dật (1999), Một số vấn đề về Dân
ngưỡng được hình thành bởi cư dân bản tộc học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà
địa ở một quốc gia hay vùng đất, địa Nội, Hà Nội.
phương nào đó. Chẳng hạn, tín ngưỡng thờ 5. Geogre Jame Frazer (2007), Cành vàng,
Tam phủ, Tứ phủ, Tứ bất tử, Thành Hoàng Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
bổn cảnh là các loại hình tín ngưỡng bản
6. Lê Như Hoa (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng
địa, riêng có của người Việt Nam. Khác với dân gian ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông
loại tín ngưỡng này, tín ngưỡng ngoại nhập tin, Hà Nội.
là các hình thức tín ngưỡng được du nhập từ 7. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000),
bên ngoài qua quá trình di cư của tộc người, Phát triển cộng đồng lý thuyết và vận dụng,
sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá lẫn nhau. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Chẳng hạn, tín ngưỡng thờ Quan Công và 8. Văn Tân (chủ biên) (1991), Từ điển Tiếng
Thiên Hậu ở Việt Nam thuộc loại hình tín Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
ngưỡng ngoại nhập, do cộng đồng người 9. X.A. Tôcarev (1994), Các hình thức tôn
Hoa di dân từ vùng Hoa Nam Trung Quốc giáo sơ khai và sự phát triển của chúng,
mang đến và đã được người Việt tiếp thu. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Kết luận 10. E.B.Tylor (2001), Văn hóa nguyên thủy,
Khái niệm tín ngưỡng nhận được sự Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
quan tâm của các học giả trong và nước là 11. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2001), Tín
vì tính quan trọng cùng sự phổ biến của nó ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng Việt Nam,
ở nhiều nền văn hóa trên thế giới, được Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
thực hành rộng rãi ở cấp độ từ cá nhân cho

38
12. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa văn hóa 15. Đặng Nghiêm Vạn (2005), Lý luận về tôn
tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb
học Xã hội, Hà Nội. Chính trị quốc gia,Hà Nội.
13. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng lễ hội 16. Thomas Barfield (1997), Từ điển Nhân học
cổ truyền, Viện Văn hóa-Nxb.Văn hóa (The Dictionary of Anthropology) (Bản dịch
thông tin, Hà Nội. của Viện Dân tộc học), Nxb BlackWell,
London.
14. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (chủ biên)
(2005), Folklore - một số thuật ngữ đương
đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Ngày nhận bài: 09/10/2015 Biên tập xong: 15/02/2016 Duyệt đăng: 20/02/2016

39

You might also like