You are on page 1of 17

sư• HỖN DUNG VftN HÓn CHĂM - VIỄT


QUR HIỂN TƯỢNG THỜ Nữ THỔN POINR NRGRR
Ở MlấN TRUNG V IÌT NRM

Sakaya (Trương Văn Món)*

1. Đăt vấn đề
Mấy năm gần đây tôi đã viết về nữ thần Po Ina Nagar - Thần mẹ xứ sờ
của người Chăm bao gồm tên gọi nữ thần, cơ sờ thờ tự, truyền thuyết, bài
thánh ca, lễ vật dâng cúng, hình thức thờ cúng ở Ninh Thuận và một số di
tích ờ miền Trung1. Trong quá trình nghiên cứu tôi nhận ra có sự hỗn dung
văn hóa giữa tục thờ nữ thần Po Ina Nagar của người Chăm Ahier (ảnh
hưởng Bàlamôn) với người Chăm Awal/ Bani (ảnh hường Hồi giáo), đặc
biệt là giữa người Chăm - Việt (Kinh) ở miền Trung. Sự hỗn dung trong
việc tôn thờ nữ thần ở đây không phải là sự hỗn dung về tôn giáo (religious
syncretism) mà có sự pha trộn giữa tín ngưỡng, vãn hóa thờ nữ thần và nam
thần người Chăm; giữa tín ngưỡng thờ mẫu của người Chăm và người Việt.
Một vấn đề đặt ra ờ đây (cũng là câu hỏi nghiên cứu) là: hiện tượng hỗn
dung này cỏ một ranh giới riêng, cùng tồn tại (co-exist) hay đã có sự pha
trộn với nhau (blending) hoặc đã hình thành một hiện tượng tôn giáo hoàn
toàn mới? Trong những năm gần đây có sự xuất hiện một số bài nghiên cứu
đã chấp nhận khái niệm hỗn dung để chứng minh tinh thần khoan dung đối
với văn hóa dị biệt. Mặt khác, cũng có những nghiên cứu về các trường hợp

* TS., Khoa Nhân học - Đại học K.HXH & NV Tp. HCM
1. Sakaya, Lễ hội cùa người Chăm, Nxb VHDT, Hà Nội, 2003; Sakaya, "Po Ina Nagar Chăm-
Thần mẹ xứ sở", trong sách Ngô Đức Thịnh (Chù biên). Đạo mẫu và hình thức Saman giáo
cùa các tộc người Việt Nam và Cháu Á. Nxb K.HXH, Hà Nội, 2004, tr. 196-219.
Sự hỗn dung văn hóa Chăm - Việt.. 621

phản hỗn dung (anti-syncretic) của những người muốn chối bỏ những yếu tố
ngoại lai để khẳng định tính chính thống của văn hóa trong hiện tượng thờ
nữ thần Po Ina Nagar. Tiếp cận khái niệm hỗn dung trong Nhân học, bài viết
này sẽ lần lượt trình bày, chủ yếu bóc tách những dấu ấn văn hóa Chăm -
Việt qua tục thờ nữ thần Po Ina Nagar ở một vài di tích tiêu biểu ở miền
Trung Việt Nam như điện Hòn Chén (Huế), lăng thờ Bà Thu Bồn (Quảng
Nam), tháp Bà (Nha Trang), đền Po Ina Nagar (Ninh Thuận) và c ổ miếu thờ
Thiên Y A Na (Bình Thuận). Qua đó sẽ thấy được sự hỗn dung văn hóa, tín
ngưỡng thờ mẫu (mẹ) cùa người Chăm - Việt trong quá trình giao lưu, tiếp
biến văn hóa ở miền Trung Việt Nam ngày nay.

2. Sự hỗn dung tín ngưỡng thờ mẫu Chăm - Việt

2.1. Vấn đề nghiên cứu thánh mẫu Po Ina Nagar: M ột số vấn đề cần
minh định

Tín ngưỡng thờ mẫu Po Ina Nagar là một tín ngưỡng nổi bật ở miền
Trung. Trong những năm gần đây, nhiều tác giả trong và ngoài nước quan
tâm nghiên cứu nhưng vấn đề tiếp cận tư liệu, cách viết tên, truyền thuyết,
bài tụng ca của nữ thần Po Ina Nagar không thống nhất, viết rất tùy tiện nên
rất khó khăn cho thế hệ sau tra cứu tư liệu. Ở đây không phải khác nhau ờ dị
bản mà sự khác nhau này phần lớn do các tác giả trích lại từ nhiều nguồn tư
liệu sai khác nhau, dẫn đến "tam sao thất bản". Vỉ vậy, ở đây trước khi vào
bài, chúng tôi xin minh định lại từng vấn đề cho rõ là điều cần thiết.
- Tên nữ thần:
Trong nhiều nguồn tư liệu nghiên cứu hiện nay có nhiềụ cách viết khác
nhau về tên gọi của nữ thần như: Thiên Y A Na, Poh Nagar, Po Inư Nưgar,
Pô Nư Kăr, Po Inơ Nơgar, Po Naga, Yang Po Inư Nưgar Taha, Yang Pu
N agưra...1.

Po/Pô: ngài, vua, thần; Ina/Inư: cái/mẹ; Nagar/Nưgar (Sanskrit:


nagara): xử sở, đất nước.
Từ Po Ina Nagar, Phan Thanh Giản dịch và phiên âm nửá Hán, nửa
Chăm là: Thiên Y A Na (Po/Pô/Pu: "thiên", Y A Na/Ina: "cái/ mẹ"; còn từ

1. Nguyễn Hữu Thông, Tín ngưỡng thờ mẫu ở miền Trung Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, 2001,
13, 16, 18, 137. 139, N gô Văn D oanh, Tháp cồ Chãmpa: Sự thật và Huyền thoại, N xb
VHTT, Hà Nội, 1994, tr. 143 - 165.
622 Văn hốa th ờ N ơ th án - MẪU ở V iệ t NAM vA CHẢU Á

Nagar: "xứ sờ, đất nước" không thấy Phan Thanh Giản dịch). Sau này Po
Ina Nagar Chăm còn được người Việt gọi là Diễn Bà Chúa Ngọc. Danh từ
này còn bị Hán hóa thành Diễn Phi Chúa Ngọc (Bà - Hán hóa thành Phi).
Tóm lại, vậy tên nữ thần Po Ina Nagar chi có ba cách viết đúng trong
người Chăm: Po Ina Nagar; Pô Inư Nưgar hoặc Po Inơ Nơgar. Mọi cách viết
khác đều không có ý nghĩa.
- về danh hiệu phong thần:
Theo thống kê trên bia kí trong vòng gần hơn 4 thế kỉ (774 - 1256 Tây
lịch), nữ thần Po Ina Nagar được Champa tấn phong 4 lần mang tên khác
nhau: Sri Satya Mukhalinga vào năm 696 (774 Tây lịch), Bhagavati
Kautharesvari vào năm 840 Saka (918 Tây lịch); Yang Pu Nagar vào năm
1105 Saka (1183 Tây lịch) và Bhagavati Martrilingesvara vào năm 1178
Saka (1256 Tây lịch)1.
- về câu truyện sáng thế, sự tích, truyền thuyết hay bài tụng ca?
Tác phẩm nào của nữ thần Po Ina Nagar là câu truyện sáng thế? Tác
phẩm nào là sự tích, truyện cổ, truyền thuyết? Tác phẩm nào là bài tụng ca?
Vấn đề này, nhiều tài liệu nghiên cứu công bố khá phức tạp, lẫn lộn nhau rất
khó hiểu.
- Câu truyện sáng thế hay truyền thuyết?
Câu truyện sáng thế cùa nữ thần Po Ịna Nagar với tên gọi đầy đủ được
ghi trong văn bản Chăm là ồakarai Po Ina Nagar. Ngoài ra, nữ thần này còn
xuất hiện trong câu truyện sáng thế của Chăm Bani gọi là Sakarai Po Kuk.
Nội dung của những truyện này dài khoảng1!10 -15 trang chép tay bằng chữ
Chăm, nói về công lao của Po Nagar và Po Kuk sáng tạo ra thế giới mới cho
người Chăm2... Do vậy, tác phẩm này là câu truyện sáng chế chứ không phải
là truyền thuyết. Tuy nhiên, có một số tác giả ghi truyện Sakarai Po Ina
Nagar và Po Kuk là truyền thuyết Po Ina Nagar3.

1. H. Parmentier, Le sancturare de Po - Nagar à Nhatrang, Bulletin de EFEO, 1902, TR. 42-


48 và Ngô Văn Doanh, 1994, tr. 164-165.
2. Văn bản Chăm (VMST. 15). Ni nâm mâk Po ìna Nagar Taha (Sự tích Po Ina Ngar), tr. 20-
30; Krân ka Po Kuk (tìm hiểu về Po Kuk) 48-56 (Tư liệu Văn Món sưu tầm (VMST) từ
cổ Cả sư Hải Quý, Ninh Thuận, 1998 và Trượng Văn Ngọt, 75 tuồi ở Ninh Thuận).
3. Nguyễn Đình Tư, Non Nước Ninh Thuận, Nxb sống Mới, 1967 dịch là truyền truyền, được
Nguyễn Hừu Thông trích lại cung gọi là truyền thuyết (Nguyễn Hừu Thông, 2001, 18- 20).
S ự hỗn dung văn hóa Chăm - Việt... 623

- Sự tích hay truyền thuyết?


N h iề u tá c g iả , khi v iết v ề nữ thần Po Ina N ag ar th ư ờ n g hay trích dẫn
câu truyện của Po Ina Nagar với nội dung như sau:

"Ngày xưa có hai ông bà nghèo trồng dưa ở Núi Đại An - Khánh Hòa
không có con (...) • M ột hôm, trong đêm trăng sáng có cô gái xuất hiện (...).
Sau đó, cô gái nhận làm con nuôi hai ỏng bà nghèo (...)• Một thời gian sau
nhập thân trầm trôi ra biển, lấy chồng Trung Hoa (...). Sau đó, trờ về xứ
Chăm dạy dân Chăm làm nông, dệt vải, thờ cúng thần (...). Cuối cùng biến
về trời, hiển linh”1.

Nhiều tác giả cho đó là truyền thuyết của Po Ina Nagar nhưng thực
chất ừong văn bản Chăm ghi là "sự tích" (nâm mâk Po Ina Nagar), chứ
không phải là truyền thuyết (idamnây).

- Bài tụng ca (adaohyang) hay truyền thuyết (damnây)?


Hiện nay, người Chăm còn lưu giữ và hát bài tụng ca về nữ thần Po
Ina Nagar trong mỗi dịp cúng tế như trong lễ Ca-mbur, lễ Katé, lễ nhập
Kut dài gần 100 câu thơ mà Sakaya đã dịch công bố vào năm 2003 - 20042.
Trước đó, những bài thơ này cũng được A. Cabaton (1901), trích và dịch
vài đoạn làm ví dụ trong cuốn sách nghiên cứu tôn giáo người Chăm cùa
ông3. Sau này, từ tác phẩm A. Cabaton bằng tiếng Pháp, nhiều tác giả trích
lại và cho rằng là truyền thuyết. Ví dụ một đoạn bài kinh hát lễ về nữ thần
này như sau:
Ngài là nữ thần mẹ của vương quốc/Ngài tạo dựng nên vùng đất cho
cây cối và rừng gỗ quý sinh sôi/ Ngài gây giống lúa và dạy dân trồng
lúa/Pô Yan Inư Nưgar mới đưa lên bầu trời một hạt lúa có cánh trắng như
đám m ây...4.

1. Câu truyện chỉ lược dịch tóm tát. Xem cụ thể ờ Văn bản Chăm (VMST. 15, sđd)
2. Sakaya, L ễ hội của người Chăm, Nxb VHDT, Hà Nội, 2003; Sakaya, "Po Ina Nagar Chăm
- Thần mẹ xứ sở", trong sách Ngô Đức Thịnh (Chủ biên), Đạo mẫu và hình thức Saman
giảo của các tộc người Việt Nam và Châu Ả, Nxb KHXH, Hà Nội, 2004, tr. 196-219.
3. A. Cabaton, Nouvelles Rechercher sur les Cham, Paris, 1901, tr. 109 -110.
4. Văn Đỉnh Hy, "Từ Thần-thoại Pô Inư Nưgar đến Thiên Y A Na”, trong Những vấn đề Dân
tộc học ở miền Nam Việt Nam, Tập 2, Q. 2.Viện KHXH tại Tp. HCM, tr. 143 - 172;
Nguyền Duy Hinh, "Truyền thuyết Pô Nagar", Tạp chí Dân tộc học, số 02/1978, tr. 48-54;
Ngô Văn Doanh, 1994, sđd; Nguyền Hữu Thông, 2001, tr. 21-22 ...
624 Van hóa thờ Nữthẩn - MẪU ở VlỆT NAM VẢ CHẢU Á

Sự thật đoạn thơ trên là bài tụng ca bằng tiếng Chăm, gốc của nó tên là
adaohyang Po Ina Nagar, chứ không phải là truyền thuyết hay truyện cổ gì.
- Lễ cúng tế Po Ina Nagar (lễ Ca-mbur) và lễ Rija/Raja Nagar có liên
quan gì?
Hiện nay, trong dân gian Chăm ở tỉnh Ninh Thuận chi có một lễ duy
nhất chính thức cúng cho Po Ina Nagar mỗi năm một lần gọi là lễ Ca-mbur
vào tháng 9 lịch Chăm ở các đền tháp như đền Po Ina Nagar (Hữu Đức -
Ninh Phước), đền Po Ina Nagar Hamu Kut (Bỉnh Nghĩa - Thuận Nam),
tháp Po Klaong Garái (Đô Vinh - Tháp Chàm), tháp Po Romé (Hậu Sanh -
Ninh Phước)1. Còn lễ Rija/Raja Nagar diễn ra vào tháng giêng lịch Chăm
là để cầu cúng chung cho tất cả vị thần linh Chăm, xua đi những xấu xa
xui xẻo của năm cũ và đón những điều tốt lành ở năm mới về làng Chăm,
chứ không phải lễ cúng riêiig, chính thức cho nữ thần Po Ina Nagar như
một số tác giả viết2.
Hậu quả của sự lẫn Ịộn trong những vấn đề trên đã dẫn đến cách hiểu
sai ờ thể hệ sau. Chẳng hạn trong bài Đoàn Lê Giang viết "Bà Chúa Ngọc là
ai?". Trong bài này do tác giả chi căn cứ vào những "bài tụng ca" (adaoh
yang) của Po Ina Nagar Chăm mà các giả nghiên cứu trước đó viết cho là
"ừuyền thuyết" (damnây), đem đi so sánh với "truyền thuyết" của Thiên Y A
Na mà Phan Thanh Giản viết trên bia kí tháp Bà nên thấy sai lệch rất lớn về
nội dung. Từ đó tác giả có nhận định chưa chuẩn xác về mối quan hệ giữa
Po Ina Nagar Chăm và Thiên Y A Na của người Việt3.
2.2. Sự hỗn dung văn hóa trong tín ngưỡng thờ mẫu Po Ina Nagar
2.2.1. Sự hỗn dung tín ngưỡng thờ mẫu giữa người Chăm Ahier (ảnh hưởng
Bàlamôn) và người Chăm Awal/Bani ( ảnh hưởng Hồi giáo).
Nguồn gốc nữ thần Po Ina Nagar của người Chăm
Trong những năm vàng son của nền vân minh Ẩn Độ giáo kể từ thế kỷ
thứ 2 đến thế kỷ thứ 15 tam thần giáo: Siva, Vishnu và Brahma đều được
sùng bái ở vướng quốc Champa. Cùng với 3 vị thần này, người ta có thấy

1. Xem Sakaya,, 2003, sđd.


2. Xem Lễ Rija Nưgar với lễ cúng Po Ina Nagar trong sách Ngô Vãn Doanh, 1994, sđd, tr,
144 và Nguyễn Hừu Thông, 2001, sđđ, tr. 16.
3. Đoàn Lê Giang, "Bà Chúa Ngọc là ai?", trong Kiến thức ngày nay, số 123, ra ngày
15/11/1993, tr.33 - 36.
S ự hỗn dung văn hóa Chăm - Việt... 625

người Chăm còn thờ nữ thần Bhagavati là vợ của Siva mà dân gian thường
tôn sùng và gọi là nữ thần mẹ xứ sờ Yang Po Ina Nagar1. Sau thế kỷ thứ 15,
thế kỷ đánh dấu sự suy vong của vương quốc Champa ở Vijaya (Bình Định)
và cũng là sự suy tàn nền văn minh Ẩn Độ giáo. Lịch sử Champa bước sang
nẻo rẽ khác. Thời điểm này người Việt cũng đã đến, đặc biệt là sự xâm nhập
Hồi giáo, từ đó làm cho hiện tượng thờ những vị thần Ấn Độ phai dần.
Thánh mẫu Po Ina Nagar bắt đầu biến chuyển và hỗn dung với những nền
văn hóa mới, sáng tạo ra một triết lí mới, câu truyện sáng thế mới, truyền
thuyết mới, nghi thức thờ tự mới... pha lẫn nền văn minh bản địa Champa,
cộng với văn minh Ẩn giáo, Hồi giáo và sau này cả văn minh Việt (Trung
Hoa). Những tư liệu sau đây là bằng chứng:
Văn bản Chăm về câu truyện sảng thế kỳ của Po Ina Nagar
(Sakkarai Po Ina Nagar):
Văn bản Chăm viết về câu truyện sáng thế của Po Ina Nagar gắn với việc
thờ nữ thần Po Ina Nagar ở Hữu Đức - Ninh Thuận và tháp Bà ở Nha Trang2.
Hiện nay, trong dân gian Chăm còn lưu lại nhiều tư liệu viết tay,
truyện kể về nữ thần như truyện sáng thế, truyền thuyết, bài tụng ca trong
dịp lễ hội... Riêng truyện sáng thế được người Chăm viết khoảng 10 trang.
Căn cứu theo văn bản cho biết, Po Ina Nagar được người Chăm gọi là ‘To
Patao Kumei” (vị vua đàn bà) hoặc "Muk Juk" (Bà đen). Vị nữ thần này,
mặc dù là nhân vật huyền thoại từ cõi trời giáng thế xuống trần gian (patao
engkat) nhưng có đến “97 người chồng và 36 người con tượng trưng cho 37
màu máu, 37 màu máu biến thành 37 loại giống cây trồng, vật nuôi và các

1. Đề nhớ đến công lao và quyền uy của nữ thần này, vua chúa Champa đã xây cất một thánh
địa riêng để thờ phượng bà ở Kauthara (Nha Trang). Tuy nhiên, cho đến hôm nay, không ai
biết thánh địa, những ngôi tháp bà ở Nha Trang bắt đầu xây vào năm nào. Những bia đá
còn lưu lại chỉ cho biết rằng thánh địa Nha Trang đã bị cháy vào năm 696 Saka (774 Tây
lịch). Sau đó, vua Champa cho xây một tượng thờ Sri Satya Mukhalìnga vào năm 709
(787 Tây lịch). Đến năm 840 Saka (918 Tây lịch), hoàng gia Champa đã đúc một tượng
của nữ thần Bhagavatỉ bằng vàng để thờ phượng trong khu vực thánh địa này. Năm 739
Saka (817 Tây lịch), tượng vàng này bị Campuchia đánh cắp. Chính vì thế, vua Jaya
Indravarma cho lệnh tạc một tượng mới của nữ thần Bhagavati bằng đá đề thay thế tượng
bằng vàng. Năm 1105 Saka (1183 Tây lịch), có một bia trụ cửa tháp Nam khắc ca tụng
Yang Pu Nagar và cuối cùng vào năm 1178 Saka (1256 Tây lịch) có bia trụ ở tháp chính
được khắc nói về việc dựng một đền thờ Bhagavati Martriligesvara (H. Parmentier,
1902, sđd. Ngô Văn Doanh, 1994, sđd).
2. Xem Sakaya, 2003, 2004, sđd.
626 V an h ó a th ờ N ữ t h á n - MẴU ở VlỆT NAM VÀ CHẢU Á

loại tục lễ cúng thần khác...”1. Mỗi bộ phận trên cơ thể của Nữ thần còn là
tượng trưng cho từng bộ phận cùa vũ trụ. Ngoài việc giải thích vũ trụ bằng
những bộ thân thể của nữ thần, tư liệu còn viết: Nữ thần có 8 cái bùa phép
(idalapan takai sarak). Mỗi cái bùa lập ra trời đất, mặt trời, mặt trăng (yang
harei, yang bilarì), thân thể con người; tạo thành Chăm Ahier và Chăm
Awal/Bani. Nữ thần còn tạo ra lịch pháp, dạy người Chăm biết sử dụng ngày
tháng năm {ba harei baỉan ka anak adam). Nữ thần còn tạo ra xứ “Bal Huk”
(Củ Hũ - Mỹ Tường - Ninh Thuận). Nữ thần trao cho Po Yang Ama (thần
cha) cai quản, xứ “Bal Lai” (Ba Tháp - Ninh Thuận), Po Debata Thuer cai
quản và xứ “Padarang” (Phan Rang)... Tư liệu trên còn viết, Po Ina Nagar là
vị thần đầu tiên giáng thế xuống trần gian. Tư liệu Chăm còn viết đến sự đấu
tài giữa nữ thần Po Ina Nagar (thần mẹ) và Po Yang Ama (thần Cha) trong
việc tạo dựng vũ trụ. Nữ thần thắng thế, rồi cuối cùng nữ thần tự sinh ra thần
Po Yang Ama có nghĩa là thần Siva (ong sibayong) và sinh ra 9 vị thần khác
và cả các vị vua Chăm để cai quản đất nước (Po Ina Nagar trun salipan
yang ginreh padang nagar paleiý.
Qua tư liệu Chăm vừa trình bày trên cho ta thấy Po Ina Nagar như một
vị thần sáng thế. Từ hoang sơ, nữ thần đã tạo ra trời đất, các vì sao, mây
mưa, sấm chóp, con người, vật nuôi, cây trồng. Po Ina Nagar tạo ra các vị
thần, sinh ra các vua Chăm để cai quản đất nước; dạy người Chăm biết làm
lịch pháp, tính ngày tháng, xây dựng đền tháp, thờ thần, dạy người Chăm
biết cày, biết cuốc, biết dệt, biết thêu...Vì vậy, Po Ina Nagar được người
Chăm suy tôn thành thần mẹ xứ sờ vĩ đại che chở cho muôn dân. Tuy nhiên,
đến thế ki 10, Hồi giậo xuất hiện ở Champa, vị trí của nữ thần đã bị vị Po
Kuk, Po Allah Huk (AUah), thượng đế của Hồi giáo thay thế nhưng không
loại bỏ, mà tạo nên sự hỗn dung trong nền văn hóa Chăm Bàlamôn và
Chăm Hồi giáo Bani trong tín ngưỡng thờ mẫu Po Ina Nagar.
Hồi giáo du nhập, Po Kuk thay vai ừò nữ thần Po Ina Nagar làm vị
thần sảng thế kỳ (Sakkarai Po Kuk):
Theo tư liệu Trung Quốc ghi lại cho ta biết thế kỷ 10 Hồi giáo bắt đầu
xuất hiện ở Champa3 nhưng mãi đến thế kỷ thứ 16 thì Hồi giáo mới nở rộ và

1. Văn bản Chăm (VMST. 16). "Po ỉna Nagar klau pluh tqịuh bar darah, darah ni tabiak
kỉau pluh tạịuh bar mata...)". Theo Tư Liệu cồ chữ Chăm viết về câu truyện Sáng thế
(Panuec aỉangkar Po ỉna Nagar). Tư liệu của cố ông Đàng Mào (đã mất), thôn Vĩnh
Thuận - Ninh Thuận.
2. Văn bản Chăm (VMST. 15), sđd.
3. G. Maspero, Le Royaume De Champa, Pari, 1928, tr. 13 ( Xem bản dịch của Lê Tư Lành)
S ự hôn dung văn hóa Chăm - Việt.. 627

phổ biến trong cung đình1. Cũng từ đó, vai trò của Po Ina Nagar trong câu
truyện sáng thế bị thay thế bằng vị thần Hồi giáo - Bani là Po Kuk. Dựa vào
văn bản Chăm có tựa đề “Sakkarai Atmahakat” cho biết rằng: Vũ trụ xưa
kia còn tối tăm bồng bềnh được hình thành từ khoảng không ( elak). Po Kuk
sai vị Atmahakat xuống tạo dựng vũ trụ và đưa ánh sáng cho muôn loài.
Bằng tài phép của mình Po Atmahakat tạo ra 12 mặt trời và 12 mặt trăng. Do
quá nhiều mặt trời và mặt trăng nên trái đất quá nóng. Vị thần Ong
Sibaiyong (thần Siva) phải dùng cây cung bắn rơi hết mặt trời, mặt trăng làm
cho trái đất trở lại thời hoang sơ, tối tăm, mù mịt. Từ đó, Po Kuk, Po Auluah
huh (Allah) phải ra tay giáng thế xuống trần gian sai Mohamat và cùng với 9
vị thiên sứ khác cùa Hồi giáo (salipan nabi) đến giúp sức làm cho mặt trời
chiếu sáng lại trên hành tinh. Từ đó, vạn vật tiếp tục sinh sôi. Sau đó, Po
Kuk trờ về trời sai những vị con đầu của mình là Po Auluah, Po Ina Nagar,
Po Yang Ama, Po Debata Thuer xuống trần gian cai quản muôn loài. Đen
ngày thứ hai, vào năm con Chuột (tikuh), Po Kuk truyền lệnh cho Po Ina
Nagar chính thức giáng thế xuống trần gian, nơi đầu tiên bà giáng thế là “Bal
Lai” (Mỹ Tường - Ninh Thuận). Ở .đây, Po Ina Nagar lập ra xóm làng Sari
Rawan. Từ đó, Po Ina Nagar lập ra nước Chăm, rồi đi lấy chồng Trung Hoa
sinh ra con và các đời vua Chăm để trị nước rồi bà hóa thân lên trời (patao
engkat nao mang rupý.
Như vậy, Po Kuk đại diện cho thần linh Hổi giáo thay thế Po Ina Nagar
Chăm để lập ra thế giói mới cho người Chăm. Từ đó, người Chăm có đến hai
câu truyện sáng thế (câu truyện Sakkarai Po Ina Nagar và Sakkarai Po Kuk).
Hai câu ữuyện này không chì dừng lại ở truyện kể, tư liệu viết mà nó còn tạo
cái tích, cái trò đi vào một số lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm Ahier và
Chăm Awal/Bani.
Qua hai câu truyện Po Ina Nagar và Po Kuk và cũng qua nghi lễ Raja
Nagar cho thấy hai tôn giáo Bàlamôn và Hồi giáo đã cố gắng lách mình
thông qua câu truyện sáng thế mang yếu tố huyền thoại để tạo nên thần tích,
triết lý cho riêng mình trong nền văn hóa Chăm. Thực chất hai câu truyện
sáng thế này đều có nội dung cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau về nhân vật
chính (Po Ina Nagar và Po Kuk). Vì vậy, trong truyện kể, trong tư liệu viết

1. P-Y Manguin,, “L'introduction de rislam au Campa” (Translated in English by Robert


Nicholl), BEFEO. Vol. LXVI, 1979, pp. 255- 287
2. Văn bản Chăm (VMST.55), Tư liệu chữ Chăm của Imam Mốc, 52 tuổi, tu sĩ người Chăm
Bani thôn Phước Nhơn - Ninh Thuận. Xem thêm Phạm Xuân Thông (Cùng nhóm tác
giả), "Sự tích gà gáy sáng "trong Truyện cỗ Chăm, Nxb VHDT, Hà Nội, 1978, tr. 7.
628 Vản hóa th ờ N ữ thắn - MẪU ở V iệ t nam và châu á

tay, người Chăm thường xem hai truyện này là một. Người Chăm thường
nói: Po Ina Nagar chính là Po Kuk và Po Kuk cũng chính là Po Ina Nagar.
Có khi họ cũng nói Po Ina Nagar sinh ra Po Kuk và ngược lại. Vì người
Chăm, mặc dù có hai nhóm tôn giáo nhưng chỉ là một. Nhóm Chăm Ahier
tượng trưng cho dương (đàn ông) và Chăm Awal/Bani tượng cho âm (đàn
bà). Hai tôn giáo này kết hợp với nhau để cùng tồn tại, không thể tách rời mà
chuyển hóa, bổ sung lẫn nhau trên mọi phương diện, trong đó có thần thoại,
thần tích, hệ thống thần linh, tu sĩ, trang phục, lịch pháp.... Từ đây, chúng ta
thấy sự hỗn dung văn hóa, tín ngưỡng thờ mẫu của người Chăm không có
ranh giới rõ ràng. Tuy hai nhưng lại là một, chuyển hóa, hội nhập lẫn nhau
như âm với dương, như vợ với chồng để cấu thành nền văn hóa và tín
ngưỡng thờ mẫu của người Chăm từ xưa đến nay.
2.2. Sự hỗn dung vãn hóa trong tín ngưỡng thờ mẫu Chăm - Việt
2.2.1. Po Ina Nagar Chăm ở tháp Bà - Nha Trang
Tháp Bà Po Ina Nagar không ai biết xây dựng năm nào, chi biết niên
đại sớm nhất củá khu di tích này là ghi năm 781 Saka (869 Tây lịch), muộn
nhất là 965 Saka (1043 Tây lịch). Tháp Bà là một quần thể gồm có 4 ngôi
tháp nằm trên ngọn đồi làng Cù Lao, Nha Trang, Khánh Hòa. Tháp thờ
chính cao 25m bên trong thờ nữ thần Po Ina Nagar ...1.
Tượng Po Ina Nagar nguyên gốc cao 1, 20m, ngồi xếp bằng hình chữ
u . N ữ thần có 4 tên gọi khác nhau ghi trên bia kí bao gồm cả tên Phạn như
Bhagavati và tên Chăm là Yang Pu/Po Ina Nagar. Tượng chì mặc chiếc váy
(khắc dính vào thân tượng), ở ứần phô ra bộ vú hơi to, xệ, ở bụng có những
nếp nhăn lớn. Nữ thần cộ mười tay, hai tay chính đặt trên đầu gối, các tay
còn lại cầm những vật, đoãn kiếm, mũi tên. Dựa vào phong cách tác tượng,
đặc biệt là những vật cầm tay những nhà nghiên cứu xác định tượng này loại
tượng Mahisamardini (nữ thần diệt trừ quỷ, ác Druga - Sakti- Uma hay vợ
Siva), thuộc thế kì 102. v ề sau không biết nguyên do gì tượng này bị mất
đầu. Người Chăm nghĩ rằng, đầu tượng này có thể bị người Pháp, kẻ cắp nào
đó đã lấy đi hoặc do người Việt đập phá trong chiến tranh với người Chăm?
Qua bia kí ở tháp cho biết, trước thế kỉ 15, tháp bà là thánh địa lớn phía
Nam Champa. Đến thế kỉ 17 (1653), phần đất Khauthara (Phú Yên- Nha

1. Ngô Văn Doanh, 1994,Sđd, tr. 161-165.


2. H. Parmentier Le sancturare de Poh Nagar à Nha Trang, Bulletin de EFEO, 1902, Ngô
Văn Doanh, 19994, sđd.
Sự hỗn dung văn hóa Chăm - Việt.. 629

Trang) thuộc Đại Việt1. Từ đó tháp bà Po Nagar không còn người Chăm
đến thờ cúng nữa và chuyển cho người Việt. Kể từ đó diễn ra sự hỗn dung
văn hóa, pha trộn giữa tín ngưỡng thờ mẫu của Chăm - Việt ở đây.
Lần đầu tiên khi tiếp thu phần đất Champa, đứng trước vùng đất mới.
Ngoài việc cầu cúng thần linh của mình, người Việt cũng hướng đến cầu
cúng nữ thần Po Ina Nagar - thần linh bản địa. Người Việt đã sửa sang lại
đền thờ, đúc lại đầu tượng nữ thần Po Ina Nagar theo kiểu người Kinh, mang
nhân chủng Việt, không phải là Chăm. Chính xác đầu tượng này rất giống
đầu một tượng Phật Bà Quan âm như khuôn mặt tròn trịa, cằm và dái tai dài,
mắt nhắm hờ. Tượng được người Kinh sơn son thếp vàng (Chăm không sơn
tượng, chi để màu đá tự nhiên); tượng còn được người Kinh mặc trang phục
suốt ngày (tượng Chám chỉ mặc trang phụng trong ngày cúng lễ); người
Kinh thường thắp nhang để cúng tế nữ thần (Chăm chỉ đốt trầm hương và
thắp nén bằng sáp ong).'Cách thờ tự này của người Việt đã tạo ra những
điểm khác biệt trong tín ngưỡng thờ mẫu Po Ina Nagar của người Chăm. Tuy
nhiên, nếu nhìn tổng thể, tượng thờ Po Ina Nagar tái tháp Bà ngày nay
không phải là tượng thờ Chăm mà cũng không phải là tượng thờ Việt mà nó
là sự hỗn dung cùa một tượng thờ nửa Chăm, nửa Việt (tượng có đầu Việt,
mình Chăm). Đây là sự hỗn dung lớn nhất giữa Chăm - Việt trong tín
ngưỡng thờ mẫu Po Ina Nagar ờ Nha Trang mà chúng ta dễ dàng nhận thấy.
Bên cạnh đó, khi tiếp nhận tín ngưỡng thờ mẫu ở tháp Bà, người Việt
thực chất là tiếp thu nguyên sự tích Po Ina Nagar của người Chăm, rồi dịch
sang tiếng Việt. Chúng tôi đã so sánh nội dung sự tích Po Ina Nagar còn lưu
lại trong văn bản Chăm với truyền thuyết Thiên Y A Na mà Phan Thanh
Giản soạn thảo được khắc trên bia kí ở tháp Bà vào năm Tự Đức thứ 9-
1855. Cả hai cốt truyện là một, chỉ có một vài chi tiết khác nhau không đáng
kể. Từ đó về sau, truyền thuyết Thiên Y A Na được người Việt và một số
nhà nghiên cứu thêu dệt thêm và ghi chép lại ở nguồn tư liệu khác nhau.
Chẳng hạn như, truyền thuyết Thiên Y A Na trong Đại Nam Nhất Thống
Chí; "Xứ trầm hương” của Quách Tấn, "Từ Thần thoại Pô Inư Nưgar đến
Thiên Y A Na" cùa Văn Đình Hy, "Truyền thuyết Pô Nagar" của Nguyễn
Duy Hinh -

1. Đại Nam Nhất Thống Chí, Quyến X (tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa), Bộ Quốc gia Giáo dục,
Sài Gòn, 1964.
2. Quách Tấn, X ứ Trầm Hương, Nxb lá Bối, Sài Gòn, 1970; Đại Nam Nhắt thống chỉ, sđd,
Văn Đình Hy, sđd, Nguyền Duy Hinh, sđd.
630 Van hóa thờ N ữ th ần - MẪU ở V iệ t nam và châu á

Từ đó, nữ thần Po Ina Nagar - Nha Trang khoác áo tín ngưỡng Việt lan
tỏa khắp các lăng, điện, am, miếu thờ của người Việt ở miền Trung. Hàng
năm, tại tháp Bà, người Việt thường tổ chức lễ Vía Bà (hay còn gọi là lễ hội
tháp Bà) từ ngày 14- 16/3 ÂL với qui mô lớn theo nghi thức lễ của người Kinh
như: tắm tượng, múa quạt, múa đèn, hát bóng và xin xăm, bói toán.
Trải qua thời gian dài gần 3 thế kỉ từ thế kỉ XVII - XX, thánh địa Po
Ina Nagar thuộc về người Việt. Đến cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, đặc
biệt từ sau năm 2000, đất nước Việt Nam phát triển, việc đi lại dễ dàng
nên người Chăm ở Ninh Thuận - Bình Thuận tiếp tục hành hương trở lại
tháp Po Ina Nagar - Nha Trang để cúng tế. Nhận thấy nhu cầu tâm linh của
người Chăm ngày phát triển, hiện nay hàng năm cứ đến ngày lễ hội, Ban tổ
chức lễ của tháp Bà Nha Trang đều bỏ kinh phí mời một số palei Chăm ở
Ninh Thuận đến cùng cúng và tổ chức lễ hội, múa hát tại tháp Bà. Ở đây,
lại diễn ra hai lễ cúng khác nhau, người Kinh cúng theo kiểu người Kinh và
người Chăm cúng theo kiểu người Chăm, nhưng họ vẫn hòa đồng chung tín
ngưỡng, không bài xích lẫn nhau. Như vậy, ở đây một lần nữa đang diễn ra
sự liên kết và hỗn dung giữa tín ngưỡng Chăm - Việt trong việc thờ cúng
nữ thần Po Ina Nagar.
2.2.2. Po Ina Nagar. và tục thờ Bà ở điện Hòn Chén - H uế1
Đầu thế kì 14, năm Bính Ngọ (1303), mở đầu sự kiện vua Champa,
Jaya Simhavarman III (Chế Mân) cắt hai châu Ô, Rí (Thuận Hóa) làm quà
sính lễ cưới Huyền Trân công chúa nhà Trần. Sự cắt đất nhường dân kéo
theo sự chuyển giao toàn bộ những di tích, di vật thuộc văn hóa tín ngưỡng
tinh thần cùa người Chăm sang người Việt. Vì thé, ở Huế chúng ta có thể bắt
gặp nhiều di tích Chăm mà dân gian thường gọi là tháp Hời, tháp Lồi, miều
Lồi, tượng Lồi, Lùm Giàng (yang)... nổi Jbật nhất là điện Hòn Chén (Điện
Huệ Nam), nơi thờ thánh mẫu Po Ina Nagar.
Điện Hòn Chén được xây trên núi Hương Uyển, nằm trên bờ bắc sông
Hương, cách trung tâm Tp. Huế 2km về phía tây. về mặt kiến trúc, ngôi điện
này trải qua nhiều lần trùng tu và thay đổi hỉnh dạng, lần cuối cùng trùng tu
dưới triều Đồng Khánh (1885-1888). Cũng như kiến trúc Huế, điện Hòn
Chén là kiểu nhà rường 3 gian loại lớn chia làm hai: phần Nội cung (nội
điện) và Ngoại cảnh (ngoại càn). Nơi cao nhất của Cung Đệ Nhất là thờ
Thánh mẫu Thiên Y A Na. Bên cạnh còn thờ Tam vị Thánh mẫu Vân Hương

1. Phần này chúng tôi chù yếu sử dụng tư liệu trong cuốn sách của Nguyễn Hữu Thông, 2001.
Chúng tôi xin chân thành càm ơn tác già.
Sự hỗn dung văn hóa Chăm - Việt. 631

(Liễu Hạnh, Quế Hoa, Thụy Hoa). Hàng năm vào ngày tốt của thượng tuần
tháng 07 Âm lịch các am điện từ Huế và các vùng lân cận đến làm vía
mẹ/mẫu rất lớn. Ngày vía mẹ là ngày quan trọng của dân Huế, trong ngày lễ
này có lễ cúng cáo yết, tam sinh. Nữ thần Thiên y A Na được đón rước long
trọng như vị thần linh tối cao, như bà lớn của cộng đồng.
Trong tín ngưỡng thờ Mầu ở Huế, cho thấy phúc thần chiếm đa số.
Theo quan điểm tín đồ, đối tượng này chia làm 3 đẳng: Thượng đẳng thần,
Trung đẳng thần, Đẳng thần. Thượng đẳng thần gồm sơn thần, các bậc thiên
thần như Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng tử... Trong tín ngưỡng thờ
mẫu có Thiên Y A Na, Ngũ vị Thánh bà ... Đó là các vị thánh thần có sự
tích linh dị, biến hóa ẩn hiện không lường. Các tín đồ tin ràng họ hay giáng
thế nhập đồng để bảo bọc, cứu giúp dân khắp nơi. Ngoài điện Hòn Chén,
Thánh mẫu Thiên Y A Na còn thờ ở một số am điện khác ở Huế như ở Huệ
Phước Điện (14/1 Nguyễn Thiện Thuật, Tp. Huế), ở Tiên Cảnh Điện (52
Điện Biên Phủ, Tp. Huế); ở Trương tiên Điện (Đập Đá - Huế), ở Phước
Quan Điện (18 Nguyển Thiện Thuật, Tp Huế) ... Tất cả am điện này mặc dù
có thờ xen Mầu Thượng Ngàn và Mầu Thủy Cung (Mầu Thoải) hay Ngọc
Hoàng Thượng đế, thì Thánh mẫu Thiên Y A Na vẫn luôn được thờ ở vị trí
trang nghiêm nhất.
Nếu trên địa bàn miền Bắc hay nói chính xác hơn là từ phía bắc Đèo
Ngang trở vào, người Việt tôn thờ Mầu Liễu Hạnh với vai trò trừ ác, ban lộc
cứu giúp con người trong lúc khó khăn cuộc sống đời thường thì vị ửí này
đến miền Trung và Nam Trung Bộ Việt Nam đã thay thế bằng nữ thần Thiên
Y A Na với nguồn gốc và thần tích hoàn toàn khác với Thánh Mẩu Liễu
Hạnh. Đây là kết quả của sự hỗn dung mạnh mẽ giữa tín ngưỡng thờ mẫu có
nguồn gốc Đạo giáo và tín ngưỡng thờ mẫu Po Ina Nagar cùa người Chăm
để trở thành cái danh xưng mới là Thiên Y A Na Chúa Ngọc Diễn Phi. Kết
quả của sự hỗn dung này cho thấy tín ngưỡng Po Ina Nagar Chăm vẫn là yếu
tố trội, đậm nét mặc dù từ lâu vùng Huế đã vắng mặt cư dân Chăm.
2.2.3. Po Ina Nagar Chăm và Bà Thu Bồn ở Quảng Nam1
Lăng thờ Bà Thu Bồn thuộc làng Thu Bồn, xã Duy Tân, huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thị trấn Nam Phước 20km về hướng tây.

1 Phần này viết tóm tại lại từ tư liệu của bài "Lễ hội bà Thu Bồn - Một tín ngường thờ mẫu
của Việt - Chăm ở Quàng Nam", trong sách Sakaya, Văn hỏa Châm: Nghiên cứu và Phê
bình, Tập. I, Nxb Phụ Nừ, Hà Nội, 2011, tr. 331-356. Di tích và tục cúng này chưa có tác
già nào nghiên cứu chuyên sâu, sẵn dịp hội nghị này tôi giới thiệu sơ qua di tích thờ cúng
này nhẳm góp tư liệu trong việc nghiên cứu tín ngưỡng thờ mẫu ở miền Trung.
632 Van hóa th ờ N ử th ấn - MẪU ở VlỆT NAM VÀ CHẢU Á

Cũng như ở Huế, cư dân Thu Bồn cũng từ Thuận Hóa vào sinh sống trên đất
Champa1. Vì thế dân ở đây cũng tiếp thu nhiều nền văn hóa Chăm, trong đó
có tục thờ Bà Thu Bồn, tương truyền rằng có nguồn gốc từ Thánh Mầu Po
Ina Nagar.
Lăng Bà Thu Bồn nằm ở phía tây bắc của làng Thu Bồn và cách bờ
sông Thu Bồn khoảng 200m. Theo lời kể dân làng cho biết, lăng Thu Bồn
có từ thời Lê (1428-1527), con cháu di cư vào đây, thấy vùng đất linh thiêng
nên lập lăng thờ Bà. Lăng Bà ban đầu chi là một phiến đá thờ nằm trên mô
đất, có rừng cây um tùm, cỏ nhiều cây già cổ thụ. Sau này, do linh thiêng,
thường nhập đồng với phần tử con nhan, chữa được bệnh ốm đau, cầu được
tài lộc, cho nên được dân làng ủng hộ, đóng góp xây lại lăng bằng tường
gạch, mái ngói, chung quanh cộ hai vòng thành (nội, ngoại) ra vào, cửa
chính mở hướng đông - hướng cửa chính của đền tháp Chăm2. Trước lăng có
một bia kí Chăm, c ỏ thể đoán, lăng Bà Thu Bồn được xây dựng trên nền di
tích Chăm sẵn có.

Vì có công trạng nên Bà Thu Bồn được nhà Nguyễn phong sắc với nội
dung như sau: "Thiên Y A Na Diễn Phi Chúa Ngọc; Bô Bô thượng đẳng thần;
Thần hiệu là Bô Bô Phu nhân. Triều Nguyễn phong làm trung đẳng thần nhân
dân gọi là Bà Thu Bồn, có tiếng linh thiêng hay vật người cho đến chết giống
như thần Phường Chào có miếu thờ và mộ ở Gò Muồng (Đại Lộc) .. .”3.
Trong sắc phong đó Bà Thu Bồn đã lộ rõ nguyên hình là thần Chăm:
Hai từ Bô Bô có nguồn gốc từ Pô Pô [< Po ĩo ] của người Chăm, có nghĩ là
vua, thần, ngài. Thiên Y A Na như giài thích trên là xuất phát từ Po Ina
Nagar Chăm mà ra.
Vì có sắc phong nên tại lăng Bà hàng nám diễn ra lễ cúng chính thức
vào ngày 12 tháng 02 Âm lịch. Lễ này cỏ cúng thịt trâu tế sống nguyên con
(trâu cạo lông, không luộc chín, bôi huyết); heo quay, hoa quả, bánh tét đòn
dài hình linga (giống bánh tapẹi nung Chăm); kiểu đom cơm vun chén (giống

1. Theo Lê Quý Đôn, Phủ biên Tạp Lục, Tập III, tr. 31. Xêm thêm Phạm Trung Việt, Non
Nước Xứ Quàng (Tân Biên). Khai Trí Sài Gòn phát hành, năm 1969, tr.17-20.
2. Theo lời kề của cụ Trịnh Kim Trí, 75 tuồi, Ban tế Lề hội Bà Thu Bồn năm 2003, quê ở
làng Thu Bồn, xâ Duy Tân, huyện Duy Xuyên, tình Quàng Nam. Tư liệu Văn Món phỏng
vấn 2003.
3. Đại Nam Nhất thống chí, Q. 5, tính Quàng Nam - Đà Năng, Nxb Văn hóa, Sài Gòn, 1964,
tr. 55-56.
S ự hỗn dung văn hóa Chăm - Việt.. 633

kiểu đơm cơm lisei hop Chăm), bánh gừng hình ngón tay, bàn tay (bánh
ginaong raya Chăm).... Đó là những loại lễ vật có ảnh hưởng từ người Chăm.
Lễ cúng diễn ra theo nghi thức cúng đền, lăng, đình của người Việt.
Trong đó, đáng chú ý có 5 đoàn rước lễ, ban nhạc bát âm, hai đội múa lân sư
tử, đoàn thiếu nữ Kinh, Chăm, Kơtu với sắc phục truyền thống khác màu hộ
kiệu với cờ quạt, trống, chiêng. Đoàn rước kiệu đi từ lăng Bà đến sông Thu
Bồn, dùng một chiếc thuyền bơi ra dòng lấy nước về đặt trong kiệu Bà và
tiến về Lăng thờ.
Văn tế do ông chánh bái đọc ờ bàn tiền án, bàn hội đồng, khi đọc văn
tế thì hai vị chánh bái (chủ tế) và phó bái qul làm nghi thức nghinh thần. Văn
tế được viết bằng chữ Hán khoảng 2 trang khổ rộng, tất cả 43 câu, 489 từ.
Nội dung chủ yếu nói về công đức của vị thần, vị thần được vua Nhà
Nguyễn phong sắc, nhân dân tôn thờ, đoạn văn khấn như sau:
“Đại tôn thần sắc chi Bô Bô Phu nhân; Thiên Y A Na Diễn Phi
Chúa Ngọc ... Thượng đẳng thần vị tiền; nhân dân làng Thu Bồn dâng
lễ vật cầu mong vị thần phù hộ độ trì cho muôn dán ...”
Như vậy, qua lễ hội Bà Thu Bồn, từ truyền thuyết, di tích lịch sử, cách
thức thờ cúng, văn tế, sắc phong, chúng ta thấy lễ hội Bà Thu Bồn là sản
phẩm của sự hỗn dung tiếp biến, giao thoa văn hóa của hai dân tộc Việt -
Chăm. Qua sự kiện vua nhà Nguyễn phong sắc cho Bà Thu Bồn, chứng tỏ
xưa kia lễ hội này cũng đã có sự tham gia của chính quyền phong kiến với
quy mô lớn và là trung tâm dâng lễ, cúng bái của cư dân vùng này. Ngày
nay, kế tục truyền thống đó, nhà nước ta đã công nhận di tích lịch sử văn hóa
cấp tỉnh cho lăng Bà Thu Bồn, nhà nước đã cùng nhân dân đầu tư kinh phí
xây lăng, tổ chức lễ hội quy mô lớn, nhân dân hồ hởi tham gia. Mặc dù hiện
nay, nơi đó không còn người Chăm sinh sống nhưng khi tổ chức lễ hội, vẫn
có đoàn người Kinh đóng vai mặc sầc phục người Chăm tham gia. Điều này
cho thấy trong sự hỗn dung tín ngưỡng thờ mẫu Po Ina Nagar và Bà Thu
Bồn, giữa ranh giới tín ngưỡng Chăm và Việt chưa bị xóa nhòa, vẫn còn
hiện hữu đan xen, mang sắc thái Việt - Chăm ở Quảng Nam.
2.2.4. Po InaNagar và cổ miếu thờ Thiên YA Na ở Bắc Bình - tinh Bình Thuận .
Tại làng người Việt, mang tên Bình Thủy, xã Phan Rí Thành, huyện
Bắc Bình, tinh Bình Thuận có một c ổ miếu Thiên Y A Na. Đây là loại di

l. Phần này chúng tôi chủ yếu là sử dụng tư liệu khảo sát c ổ miếu Thiên Y A Na ở làng
Bình Thủy, Bình Thuận do Trung tâm Trưng bày văn hóa Chăm ở Bình Thuận thực hiện
năm 2011. Chúng tôi xin chân thành cám ơn.
634 Van hóa th ờ N ữ th ấ n - MẪU ở V iệ t nam và châu á

tích thờ mẫu của người Kinh có từ lâu đời. Dân gian kể rằng vào khoảng thế
kỷ 14-15 dân làng Bình Thũỷ tỉnh cờ vớt được khúc gỗ trầm từ dòng sông
Luỹ mang về thờ trong một cái chòi ở ngoài làng. Vào một đêm nọ, có một
ông lão người dân tộc vùng cao (không xác định được là tộc người nào)
mang gùi và xin dân làng cho ông ngủ nhờ tại chòi thờ khúc trầm này một
đêm. Sảng hôm sau dân làng thấy ông lão tạc xong tượng Bà Thiên Y A Na.
Từ đó, dân làng cất một cái miếu mới khang trang để thờ Bà đến bấy giờ.
Miếu được kiến tạo to đẹp, có cấu trúc theo hình chữ (T), đầu hồi bít
đốc, mái đình theo kiểu chéo đao, trên đinh bờ nóc có cặp lưỡng long chầu
nguyệt, góc đao cong có đắp nổi hình long chầu, phượng vũ. Trang ưí chạm
khắc với nhiều đường nét hoa văn. c ổ miếu chia làm hai giang chính: Tiền
hiền và Hậu hiền. Hậu hiền để thờ tượng thờ Thánh mẫu, Thiên Y A Na
bằng thạch cao, sơn son thếp vàng (cao 1, 25m ; ngang 0,5m). Ở phía dưới
bệ thờ Bà dân làng đặt hai hộp kính đựng các khúc gỗ trầm hương và tượng
thờ cô cậu, hai bên tả hữu của bà.
Cổ miếu trở thành nơi linh thiêng, hàng năm có diễn ra nhiều lễ cúng
do người Việt và Chăm thực hiện như sau:
- Lễ Thanh Minh 23/3 AL, tức là nhằm ngày 25/4 DL hàng năm do
người Kinh thực hiện.
- Lễ Yang wak pabah (cúng trả lễ, tạ ơn Po) vào tháng giêng lịch
Chăm, nhằm 27/4 DL do người Chăm thực hiện.
- Lê Cầu Huê vào ngày 15/10 AL, nhằm ngày 10/11 DL.
- Lễ Ca- mbur vào tháng 09 lịch Chăm nhằm ngày 11/11 DL.
Từ di tích, truyền thuyết, lễ hội cúng tế ở c ổ miếu Thiên Y A Na ở
làng Bình Thủy, chúng ta cũng nhận thấy làng người Việt từ miền ngoài vào
ở Bình Thuận, nằm ở cực cuối dải đất miền Trung cũng tiếp thu tín ngưỡng
thờ mẫu của người Chăm. Từ tên gọi vị thần gắn với khúc trầm hương, gắn
với tục thờ hai đứa con ở của Bà ở c ổ miếu Thiên Ya A Na là hiện thân
nguyên hình của tục thờ mẫu Po Ina Nagar Chăm. Có một điều độc đáo ở
đây đã diễn ra sự hỗn dung văn hóa Chăm - Việt. Đền thờ c ổ miếu Thiên Y
A Na xây theo kiểu kiến trúc đình miếu người Việt nhưng lại thờ tượng Po
Ina Nagar Chăm, c ổ miếu của người Kinh nhưng người Chăm đến cầu cúng.
Lễ hội cúng tế tại đây lại có sự đan xen giữa nghi thức cúng lễ của người
Việt và cả nghi thức cúng lễ của người Chăm. Hàng năm cỏ 4 lễ cúng tại c ổ
miếu này, nhưng có hai lễ cúng đo người Kinh chủ trì và hai lễ cúng khác do
S ự hỗn dung văn hóa Chăm - Việt. 635

người Chăm chủ trì. Mặc dù nghi thức cúng tế khác nhau, nhưng họ không
đối chọi nhau, chấp nhận sự đan xen, hòa đồng như một sự hỗn dung. Khi
có lễ cúng của người Kinh tại c ổ miếu thì người Chăm cùng đến dự và
ngược lại. Trong lúc cúng tế, người Kinh - Chăm cùng ngồi xen kẻ nhau,
không phân biệt bỉ thử, họ cầu nguyện hướng về thánh mẫu Po Ina Nagar/
Thiên Y A Na là chính. Hiện tượng này thoạt đàu tiên người ta nghĩ sự cúng
tế của người Kinh - Chăm tại c ổ miếu Thiên Y A Na là có biên giới rõ ràng,
phần người Chăm người Chăm cúng; phần người Kinh người Kinh cúng.
Tuy nhiên nhìn một cách tổng thể, tín ngưỡng thờ Po Inagar ờ c ổ miếu
Thiên Y A Na là không có ranh giới. Bởi vì, cả hai dân tộc Chăm - Kinh đều
chỉ cúng một vị thần Po Ina Nagar trong một c ổ miếu duy nhất1.

3. Kết luận

Trong quá trình mờ cõi về phương Nam, người Việt (Kinh) di dân từ
phương Bắc vào, trước những vùng đất mới xa lạ, khác biệt với nền văn hóa,
tín ngưỡng, thần thánh người Chăm, buộc ngựời Kinh phải thích ứng dung
hòa. Từ đó, đã xảy ra sự hỗn dung văn hóa giữa Chăm và Việt, mà nổi bật
nhất là tín ngưỡng thờ mẫu Po Ina Nagar ờ miền Trung.
Qua 5 di tích thờ Mẩu Po Ina Nagar/ Thiên Y A Na tiêu biểu ở miền
Trung như: đền Po Nagar Chăm - Ninh Thuận, điện Hòn Chén- Huế, lăng Bà
Thu Bồn - Quảng Nam, tháp Bà - Nha Trang, cổ Miếu Thiên Y A Na - Bỉnh
Thuận đã được đưa ra khảo sát và phân tích cho thấy, tín ngưỡng thờ mẫu ở
miền Trung có sự hỗn dung văn hóa - tín ngưỡng rất lớn.
Ở đây, cái mới nhất cho chủng ta thấy, không phải chỉ có sự hỗn dung
giữà người Chăm - Việt trong tín thờ mẫu Po Ina Nagar mà ở đây còn diễn ra
sự hỗn dung trong tín thờ mẫu giữa người Chăm Ahier (ảnh hưởng
Bàlamôn) và Chăm Bani (ảnh hưởng Hồi giáo) trước khi diễn ra sự hỗn dung
tín ngưỡng thờ mẫu giữa người Chăm -Việt ở miền Trung.
Riêng sự hỗn dung tín ngưỡng thờ mẫu của Chăm - Việt miền Trung
qua tư liệu trên cho thấy, hình tượng Po Ina Nagar Chăm là hình tượng trung
tâm trong tín ngưỡng thờ mẫu. Người Việt ở miền Trung, đa số thường tạo
ra ngôi nhà kiểu Việt như đỉnh, chùa, am, miếu với kiểu kiến trúc lưỡng long

1. Phần này chúng tôi chủ yếu là sử dụng tư liệu khảo sát c ổ miếu Thiên Y A Na ở làng
Bình Thủy, Bình Thuận do Trung tâm Trưng bày văn hóa Chăm ở Bình Thuận thực hiện
năm 2011. Chúng tôi xin chân thành cám ơn.
636 V ă n hóa th ờ Nữthắn - MẪU ở VlỆTNAM VÀ CHÂU A

chầu nguyện, với kiểu thờ Tiền hiền và Hậu hiền rồi đưa tượng thánh mẫu
Chăm Po Ina Nagar vào thờ ờ vị trí trung tâm. Còn lại những thần linh Việt
chỉ là vị thần phụ, cư ngụ bên cạnh tượng Po Ina Nagar, bị ánh hào quang
của Po Ina Nagar bao phủ.
Kết quả của tục thờ đó đã tạo ra sự hỗn dung văn hóa - tín ngưỡng thờ
mẫu giữa Chăm và Việt. Sự hỗn dung này, khó có thể phân biệt ranh giới
rạch ròi, vì nó hội nhập chuyển hóa lẫn nhau. Tuy nhiên, một điều dễ nhận
thấy rằng, kết quả của sự hỗn dung này, một phần làm mất đi bản sắc của tín
ngưỡng thờ mẫu Chăm khi người Việt tiếp thu. Chẳng hạn, hiện tượng đồng
bóng của Pajau/pơjau của người Chăm không còn ở điện Hòn Chén (Huế),
tháp Bà (Nha Trang), lăng Thu Bồn (Quảng Nam) nữa và thay vào đó là
những buổi hầu đồng đông đảo của người Kinh. Ngược lại, sự hỗn dung này
đã làm tăng thêm sức tỏa sáng của thánh mẫu Po Ina Nagar Chăm ở diện
rộng, đã làm mờ nhạt hình ảnh Mau Thượng Thiên, Mau Thượng Ngàn, Mầu
Thoải, Liễu Hạnh Công chúa, kể cả Ngọc Hoàng Thượng đế ... trong tâm
thức cùa cư dân Việt ở miền Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ trong tín
ngưỡng thờ mẫu. Mặt khác, kết quả của sự hỗn dung này, cuối cùng đã tạo ra
một sản phẩm chung cùng tồn tại, mang sắc thái mới cho cả hai dân tộc
Chăm - Việt mà tượng thờ nữ thần Po Ina Nagar ở Nha Trang hiện nay là
một thí dụ điển hình.
Cuối cùng, chúng ta thấy, sự hỗn dung trong tín ngưỡng thờ mẫu Po
Ina Nagar giữa người Chăm và Việt dễ dàng gặp nhau trên là do xuất phát từ
cơ tầng chung của nền văn hóa - tín ngưỡng thờ mẹ, thờ lúa của cư dân nông
nghiệp Đông Nam Á, chứ không phải sự hỗn dung ấy là diễn ra giữa văn hóa
Trung Hoa và Ẩn Độ giáo. Tuy nhiên, xét về tổng thể, kết quả của sự hỗn
dung này là hàm chứa không những chi có văn hóa bản địa Đông Nam Á mà
còn có yếu tố văn hóa Ấn Độ, Hồi giáo qua người Chăm và văn hóa Trung
Hoa qua hình thức thờ đạo Mầu, Tam giáo của người Việt. Chính những
nhân tố này đã làm phong phú, tạo nên một bản sắc văn hóa riêng trong tục
thờ Mầu ở miền Trung.

You might also like