Professional Documents
Culture Documents
Trước thế kỉ XV, có lẽ ở nông thôn các làng xã vẫn thờ các
Thổ thần là chính. Tuy nhiên,ta cũng còn có các tư liệu về thờ
phụng Thành hoàng ở những làng xã từ những thế kỉ trước
đó.Với tư liệu biết được đến nay tấm bia có ghi 2 chữ “Thành
hoàng“ đầu tiên tại làng xã Trường Sơn, huyện Thủy Nguyên,
Kiến An, ghi ông tù trưởng họ lại, húy Bốn, vợ họ Đào, sinh
con trai ;là tướng tài trong cuộc kháng chiến chống Nguyên
Mông, diệt Ô Mã Nhi, sau được phong làm Đương Cảnh
Thành Hoàng Trần Triều Phò mã để cúng Thượng phàm đại
liệu ban, quan Nội hầu, nội Quốc công, Thượng đẳng Phúc
Đại vương. Tuy nhiên, tấm bia này lại dựng vào thế kỉ XIX
theo bài soạn của Nguyễn Bính vào năm 1572. Một tấm bia
khác do Nguyễn Đình Tuấn, tiến sĩ năm 1481, dựng vào năm
1487 ở Gia Lương, Bắc Ninh về ngôi đền Trăng Tân, nói rõ
thể thức rước thần trong hội làng.
Diện mạo Thành hoàng vào thời nhà Lê ít nhất gồm ba loại
chính, đó là: một là các thần sông nước ( thần rắn, thần sông,
thần biển), hai là ( thần đá, thần đất, thần núi), ba là ( thần có
gốc gác thần nước, thần núi nhưng được lịch sử hoá, nhập vào
hệ thống thần thờ Hùng Vương, An Dương Vương, Hai Bà
Trưng. Sách Bách thần thời Lê đã thống kê có 1026 đình, đền
ở 944 làng xã thờ Hùng Vương và các thần nhân, tướng lĩnh
của Vua hùng.
Như vậy, con đường tiếp thu và du nhập cái tên “Thành
hoàng” của các thần bảo hộ các thành trì, đô thị ở Trung Quốc
có lẽ là qua việc các quan cai trị nhà Đường dựng ông thần
bản địa Tô Lịch trở thành Thành hoàng làng cưa Đại La -
Thăng Long và sau này vẫn được các triều đại phong kiến tự
chủ tiếp tục phong tặng và thờ phụng. Từ Đai La - Thăng
Long, nó được đưa về các làng xã và trở thành tước hiệu của
các vị thần bảo hộ cho mỗi làng - Thành hoàng làng, một hiện
tượng tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng làng, trong khi đó ở
Trung Quốc các thôn xã vẫn chỉ thờ các Thổ thần.
Ở làng Việt Nam, từ các vị Thổ thần trở thành Hoàng làng
đã trải qua nhiều biến đổi, vừa do sự phát triển nội tại của bản
thân làng xã, do giao lưu ảnh hưởng và nhất là do tác động của
nhà nước phong kiến trung ương tập quyền theo hướng phong
kiến hoá, nho giáo hoá thờ cúng Thành hoàng ở các làng với
ước muốn ngày một can thiệp và nắm lấy hệ thống thần linh
và tín ngưỡng này để thao túng cấp hành chính cơ sở là làng
xã. Điều này thể hiện rõ rệt hơn cả từ thời Lê mạt và nhất là từ
thời Nguyễn , qua việc hàng năm vua phong thần cho các
Thành hoàng ở làng xã, quy định các thể thức tế tự, nghi lễ...
Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi hình thành tộc Việt, Nhà nước
cổ đại văn lang - Âu Lạc, và văn hoá cổ truyền Việt Nam.
Qua diện mạo Thành hoàng ở đồng bằng Bắc Bộ, ta cũng có
thể hình dung được diện mạo chung của tục thờ phụng này ở
nước ta.
Việc thờ phụng các Thiên thần với tư cách là các vị Thành
hoàng - vị thần bảo hộ cho cộng đồng làng xã- là hoàn toàn dễ
hiểu vì trong xã hội cổ truyền của người nông dân là trông
trời, trông đất, trông mây, trông mưa, trông nắng, trông ngày,
trông đêm.
Thành hoàng là các nhân vật lịch sử: phần lớn là những
người có thật như lịch sử như Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần
Hưng Đạo…, nhưng cũng có vị là những nhân vật nửa thật
nửa huyền thoại như Vua Hùng, An Dương Vương, Cao Lỗ…,
thậm chí có những vị gốc không phải là nhân thần , hay nhân
vật lịch sử mà sau này được lịch sử hoá, nhân vật hoá. Thành
hoàng là các nhân vậy lịch sừ chiếm số lượng đông nhất trong
các thành hoàng là Nhân Thần và được thờ cúng nhiều nhất ở
đồng bằng Bắc Bộ. Các Thành hoàng là nhân vật lịch sử trải
dài suốt các thời đại, từ thời lập nước đến các triều đại phong
kiến sau này.
Cư dân Vân Đồn có kho tàng văn hóa dân gian vô cùng
phong phú, trong đó có thể thấy các giá trị văn hóa huyện đảo
Vân Đồn mang đậm tính chất biển đảo, yếu tố này được hình
thành và phát triển một cách liên tục và trở thành một trong
những nét đặc trưng của văn hóa dân tộc - văn hóa biển.
Do điều kiện sống, lao động của ngư dân trong môi trường
biển cả mênh mông đầy những hiểm nguy nên tôn giáo tín
ngưỡng tạo cho họ niềm tin trước sự bao la hùng vĩ của thiên
nhiên. Trong tín ngưỡng dân gian, phổ biến nhất là thờ Thành
hoàng, việc thờ cúng các vị tiền hiền, những người có công
trong việc tìm đất định cư, khai phá đất đai, mở mang nghề
nghiệp. Bên cạnh đó là việc thờ các nhân vật lịch sử, như vùng
biển Vân Đồn thờ vua Lý Anh Tông, Trần Khánh Dư,... •
Đình Quan Lạn xưa nằm ở trung tâm của đảo, đầu tiên được
xây dựng ở gần bến Cái Làng. Sau được di chuyển hai lần.
Ngôi đình ngày nay được xây dựng vào quãng năm 1890-
1900 theo phong cách kiến trúc đình làng ở đồng bằng Bắc
Bộ. Đình được xây dựng ở vị trí đắc địa phía trước nhìn ra
vùng biển rất thoáng giống như thế “nhìn sông tựa núi” của
đình làng Việt thông thường. Cửa đình hướng về phía đất liền.
Đình Quan Lạn thờ Thành hoàng, các vị có công lập ấp làng.
Trong sách chép về các thần của Quan Lạn có ghi “Thần thổ
địa là thần có công khai phá đất đai dựng lên xã này, cũng là
vị dũng mãnh chết trong chiến trận”. Đáng tiếc là hiện nay
không còn lưu tích gì để định vị Thành hoàng đầu tiên của
làng.
Đình Quan Lạn ngôi đình cổ trên một hòn đảo xa đất liền,
song nó lại là ngôi đình duy nhất ở Việt Nam thờ tượng Vua
Lê Anh Tông - người có công thành lập ra trang, trấn Vân Đồn
vào năm 1149 và vị tướng tài ba Trần Khánh Dư trấn ải Vân
Đồn. Ngoài ra Đình còn thờ Dương Không Lộ và “Tứ vị thánh
nương” là những vị thần được cư dân trên đảo truyền tụng
thường chở che cho những người làm nghề biển. Như vậy, với
lối phối thờ nhiều thành phần trong đình làng khá hiếm gặp
như trường hợp đình Quan Lạn. Với quan niệm, Thành hoàng
là những người có công với nước với dân, có quan hệ mật thiết
với địa danh được phụng thờ và vì một “lý do lịch sử” đem cả
những vị thần có nguồn gốc nội đồng như Dương Không Lộ
hay có nguồn gốc ngoại quốc như “Tứ vị thánh nương” trở
thành Thành hoàng.
-Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi tuổi già, có thời gian Trần
Khánh Dư về sống tại Vân Đồn. Theo sử chép, thời gian Trần
Khánh Dư sống ở Vân Đồn, vua Trần Minh Tông đã xuống
tận nơi thăm hỏi. Sau khi ông mất, tại mảnh đất Vân Đồn địa
linh nhân kiệt nơi gắn với những chiến công hiển hách của
lịch sử dân tộc, cũng như cuộc đời Trần Khánh Dư, người dân
đã lập nhiều di tích thờ ông. Ngày nay tại huyện đảo Vân Đồn
có nhiều đền, miếu, nghè thờ Trần Khánh Dư như nghè thờ
ông tại xã Quan Lạn, trong đó đền thờ tại xã Hạ Long là một
công trình tâm linh tọa lạc tại vị trí phong thủy tốt, uy nghiêm
bề thế và linh thiêng.
Trong nghi thức thờ phụng Thành hoàng trong hội làng,
người ta thường chú ý tới nhiều các tục hèm, coi đó là yếu tố
tất yếu của thờ cúng Thành hoàng ở đình. Tuy nhiên, hèm chỉ
là một khía cạnh của ta bu - cấm kỵ, tồn tại dưới mọi hình
thức một nghi lễ hay phong tục trong thờ cúng thành hoàng,
nhằm nhớ lại, tái hiện những nét riêng, đặc trưng, thậm chí là
sở thích của vị thần linh được tôn thờ.
Có nhiều dạng hèm: Một là hèm - kiêng kỵ nhắc tới tên húy
của thần, hai là hèm liên quan tới sở thích của thần, một hành
động đặc biệt của thần, ba là hèm - nghi lễ một yếu tố bắt buộc
cấu thành nghi lễ thờ Thành hoàng.
Loại hèm - nghi lễ này rất phong phú và đa dạng, nên rất
khó nhận dạng và phân loại chúng, có thể có nhiều cách phân
loại khác nhau, cụ thể:
Hèm - nghi lễ liên quan tới chiến trận: Những tthành hoàng
làng vốn xưa là võ quan lập công trong chiến trận chiếm số
lượng khá đông. Bởi thế, trong nghi lễ thờ phụng, nhiều nơi
còn giữ lại các tục hèm để tưởng nhớ, tái hiện các chiến công
xưa. Tiêu biểu là nghi lễ Hội Trận trong lễ hội Gióng ở làng
Phù đổng vào mồng 8 tháng 4 âm lịch hằng năm tái hiện cuộc
chiến đấu giữa Thánh Gióng và giặc Ân thời Hùng Vương -
An Dương Vương.
Hèm phồn thực: đây là loại hèm- nghi lễ khá phổ biến
trong thờ cúng Thành hoàng, nhất là vào dịp lễ hội mùa xuân.
Nguồn cội lễ hội Việt Nam là lễ hội nông nghiệp , các vị thần
ít nhiều có gốc gác từ thần nông, vũ trụ luận Việt Nam và
phương đông là âm - dương tương khắc tương sinh. sự hòa
hợp âm - dương, đực - cái, theo quan niệm dân gian mang lại
phong đăng cho mùa màng và sức khỏe con người. Bởi thế,
việc thừo cúng Thanh hoàng ở làng gắn với nghi lễ nông
nghiệp, với quan niệm phồn thựuc là điều dễ hiểu và thường
đó là lớp văn hóa sớm nhất của thờ phụng Thành hoàng mà
một thời các triều đại phong kiến cho là dâm thần , hủ tục phải
xóa bỏ.
Tục hèm của người chết giờ thiêng và trở thành Thành
hoàng: một số làng ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có
thờ các thành hoàng vốn xưa là người ăn mày,ăn trộm, ăn
cướp... chết vào giờ thiêng, linh ứng và được thờ làm Thành
hoàng làng. Bởi vậy, trong nghi lễ hội làng thường phải thực
hiện các hèm tục này, mà thường làm vào ban đêm, người
ngoài làng không được tham dự, ví dụ: Hèm đi ăn mày và
cướp bị gậy của làng Đôn Điển ( quảng xương-Thanh Hóa) và
làng Xuân Ái ( Võ Giàng - Hà Bắc cũ). Thành hoàng của các
làng này xưa là người đi ăn mày. Hèm đuổi lượn trong lễ hội
Ngô Xá ( Gia Lâm, Hà Nội ), tái hiện việc người lái lợn xưa vì
đuổi lợn mà rơi xuống ao bị chết. Hèm thần ăn trộm, ăn cướp
còn quan sát thấy ở một số làng Cộng Khê (Thái Bình), Tích
Sơn ( Vĩnh Phúc)…, Hèm thần trẻ con chết nghẹt ở làng Đông
Thôn, vào dịp 12 tháng giêng, dâng thần bánh trôi và nhiều
món ăn khác.
Ở đình làng trong ngày hội không chỉ có tế lễ, rước và tục
hèm, mà còn có nhiều sinh hoạt văn hóa, các trò diễn mang
tính nghi lễ và phong tục. Trước hết phải kể tới các trò múa,
hát, sân khấu dân gian, ngoài ra còn rất nhiều trò diễn khác
như đánh phết ở hội làng Hiền Quang, rước vua sống ở hội
đền Cổ Loa, cờ lau tập trận ở Hội Hưng Yên. Các trog chơi
dân gian vừa mang tính đua tài vừa mang tính giải trí, góp vui:
thả diều, đốt pháo, thả chim, đua thuyền, vật võ, kéo co, chơi
đu... tạo nên không khí náo nhiệt, tưng bừng của hội làng.
Đình là nơi thờ thành hoàng làng, được coi là trung tâm
sinh hoạt văn hóa gắn bó với cộng đồng dân cư, là nơi hội
họp, bàn việc dân. Bàn thờ nói chung và bàn thờ thành hoàng
làng được thờ tự trong các ngôi đình làng nói riêng đều có vai
trò hết sức thiêng liêng và quan trọng.
Bàn thờ thành hoàng làng thường thờ trong đình được đặt ở
gian chính điện, ở ngay chính giữa.
Ngoài ra còn có bộ bát bửu, sát đầu ngoài của hai bộ bát bửu
thường có bộ quán tẩy để phục vụ cho tế lễ.
Trước bàn thờ thường có những mảng chạm của người xưa
không chỉ để làm đẹp mà còn là ước vọng cầu mưa thuận gió
hòa, ngũ phúc lâm môn… Sát gian giữa, ở phía ngoài thường
đặt chiêng ở bên trái và trống ở bên phải. Sát tường hậu của
hai gian bên thường có ngựa hồng bên trái và ngựa bạch bên
phải, đứng theo thế chầu vào, yên của chúng phổ biến là hình
tượng phượng hoàng.
Bàn thờ thành hoàng làng trong các ngôi đình thường được
sử dụng là kiểu bàn thờ đứng, án gian thờ, sập thờ hoặc bàn
thờ ô xa… mang phong cách truyền thống với những hoa tiết
được chạm khắc tinh tế và tỉ mỉ. Các họa tiết được trang trí
tinh xảo trên bàn thờ thành hoàng làng trong ngôi đình thường
thấy là họa tiết tứ quý, tứ linh, tam đa… Ta có thể thấy Không
gian thờ Thành hoàng vô cùng trang trọng, nơi thờ thành
hoàng làng rất thiêng liêng, mang đậm dấu ấn tâm linh và thể
hiện quan niệm “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam
ta.
Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt, thờ phụng Thành
hoàng giữ vai trò then chốt trong đời sống tâm linh của cộng
đồng. Thành hoàng là vị thần phù hộ cho cả cộng đồng, một
loại hình tín ngưỡng của công xã nông thôn của xã hội thời
nguyên thủy chuyển biến xã hội có giai cấp. Tuy nhiên, từ lớp
tín ngưỡng thuở xưa ấy, thờ cúng Thành hoàng của người Việt
đã bị “phong kiến hóa”, tiếp thu những ảnh hưởng của nho
giáo và các tôn giáo khác. Sau một thời gian dài mấy thập kỉ,
tín ngưỡng Thành hoàng bị hạn chế, thậm chí bị phá bỏ, nay tế
bào gia đình và dòng họ được phục hồi, thì tín ngưỡng thờ
Thành hoàng lại có cơ hội trỗi dậy và tiếp tục tồn tại. Từ cái
nền tín ngưỡng Thành hoàng này đã sản sinh và tích hợp nhiều
sinh hoạt văn hoá cộng đồng, tạo nên bộ mặt văn hóa tiêu biểu
và độc đáo của làng xã Việt Nam cổ truyền. Đó là ngôi đình
làng - trung tâm sinh hoạt cộng đồng của làng xã , là các lễ
nghi, phong tục, nhất là tục hèm, các sinh hoạt văn hóa mang
tính đua tài và vui chơi giải trí. Hội đình đã thực sự là trung
tâm quy tụ, sản sinh, tấm gương phản chiếu văn hóa cổ truyền
của người nông dân Việt Nam.
4. http://www.baotangquangninh.vn/Chuyen-de/nghe-tho-tran-
khanh-du-tren-xa-dao-quan-lan-huyen-van-don-1006.htm
5. https://vietnamarch.com.vn/ban-tho-than-thanh-hoang-lang-
thuong-duoc-bo-tri-tho-tu-o-khong-gian-nao-trong-ngoi-dinh/
Đền thờ thần cao sơn tại đền Cạp Tiên – Vân Đồn
Đền Thờ Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, Quan Lạn, Vân Đồn
Miếu thờ Tứ Vị Thánh Nương, xã Quan Lạn, Vân Đồn
Ban Thờ Thành Hoàng Trần Quốc Tuấn, Đền Trần Khánh Dư,
Vân Đồn
Ban Thờ Trần Khánh Dư, Tại Đền Trần Khánh Dư, Xã Hạ Long,
Vân Đồn
Tác Gỉa Khảo Sát Tại Đền Cạp Tiên, Đông Xá, Vân Đồn
Tác Gỉa Khảo Sát Tại Đền Trần Khánh Dư, Xã Hạ Long, Vân
Đồn
Tác Gỉa Khảo Sát Thực Tế Tại Đền Trần Khánh Dư, Hạ Long,
Vân Đồn