You are on page 1of 19

TÍN NGƯỠNG THỜ Mâu cùn NGƯỜI HOA

Ở THÀNH PHỐ HỔ CHÍ MINH - TIi'p CÂN từ IV THUVlý


CHỨC NáNG

Trần Hạnh Minh Phương*

ín ngưỡng thờ Mầu là tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mầu (Mẹ) làm
thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chờ cho
con người. Đối tượng của tín ngưỡng này được giới tính hoá mang khuôn
hình của người Mẹ. Không riêng người Việt, tín ngưỡng thờ Mau cũng có
vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng người Hoa ở
Thành phố Hồ Chí Minh.
Bài viết đề cập đến hai vần đề chính: khái quát các hình thức thờ Mẩu
của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh và phân tích chức năng (theo
hướng tiếp cận chức năng của Radcliữìe - Brown, Bronislaw Malinowski)
của tín ngưỡng này đối với đời sống cá nhân và cộng đồng người Hoa.

1. Biểu hiện thờ Mẩu của người Hoa ở Tbành phố Hồ Chí Minh
Tín ngưỡng thờ Mầu của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh được
biểu hiện khá phong phú qua hình thức thờ: Thiên Hậu Thành Mầu, Long
Mầu Nương Nương, Quan Âm Nam Hải, Trân Châu Nương Nương, Tây
Virơìĩg Mầu, Kìm Huê Niecmg Nương (Mẹ Thai Sinh, Chúa Sinh Nương
Nương), Cửu Thiên Huyền Nữ, Thất Tinh Nương Nương, Lâm Thủy Phu
Nhân, Thánh Anh La Sát, Nữ Oa, Địa Mầu, Đẩu Mầu, Ngũ Hành Nưomg
Ntỉơng, Thủy Mầu Nương Nương, Hỏa Đức Nương Nương, Điện Mau, Tam
Thập Tam Thiên Lão Thải Hậu, Ỷ Mỹ Nương Nương, Thủy Vĩ, Ỷ Mỹ, Bà
Chúa Xứ.

* Ths., Trường Đại học Thủ Dầu Một


T ín ngư ỡng thờ M âu của người Hoa.. 499

Đối với người Hoa, trong số các nữ thần, quan trọng nhất là Thiên Hậu
Thánh Mẩu, được thờ ở Tuệ Thành Hội Quán (chùa Bà Chợ Lớn), Ôn Lăng
Hội quán, Hà Chương Hội quán, Quỳnh Phủ Hội quán, Tam Sơn Hội quán -
quận 5, Quần Tân Hội quán - Gò vấp, miếu Thiên Hậu - quận 3, miếu Xóm
Chiếu - quận 4, Thiên Thành Tự - quận 1, Thiên Hậu Cung - quận 4, Thiên
Ý Đàn - quận 6, Thất Phủ Thiên Hậu - Gò vấp, miếu Thiên Hậu Chợ Quán-
quận 5, miếu Thiên Hậu -Bình Thạnh, miếu Thiên Hậu - cần Thạnh, cần
Giờ, chùa Bà Thiên Hậu Trung Đông - Thới Tam Thôn, Hóc Môn1.
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mầu có nguồn gốc từ Phúc Kiến vào
thòi Tống. Bà tên thật là Lâm Mặc (Lin Mo) thường được gọi là Lâm Mặc
Nương, sinh ngày 23 tháng 3 năm 960, là một shaman nổi tiếng (Mã Thư
Điền, Mã Thư Hiệp 2006:8-10). Bà vốn là người Đản Dân (DarTmin, còn
gọi là Long nhân (người Rồng), Giao nhân) - một nhánh hậu duệ người Mân
Việt cổ chuyên sống bằng nghề cá và trao đổi hàng hóa trên sông, biển2. Tín
ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mầu xuất phát ở Phúc Kiến (thế kỷ XI), từ các
thủy thủ đều mang hình bà trên hầu hết các con tàu, đặt ừong một cái khám
nhỏ ở phía bên trái, và sáng chiều nào cũng cúng hương. Trước khi rời bờ để
lên đường, họ đem lễ vật để cúng bà ở trên bờ, đoàn thủy thủ và hành khách
thường đến chùa và đốt hương tôn kính bà. Những thương nhân xuất khẩu
hay nhập khẩu, những nhà thầu vận tải đường biển, những người di cư đều
cúng lễ bà3. Theo Henri Maspéro “Năm 1155, vì một lý do chưa rõ, nữ thần
được phong tặng tước hiệu chính thức là Linh Huệ phu nhân, từ đó bà không
ngớt được phong tặng chính thức. Bà tỏ ra đặc biệt hữu hiệu trong việc cứu
thoát dân khỏi những trận hạn hán năm 1187 và 1190, và mặt khác, bà đã
nhiều lần giúp vào việc bắt bọn cướp biển, do đó năm 1192 bà được thăng
bậc, tước phu nhân (công chúa) được đổi thành tước phi (hoàng hậu), và vài
năm sau, thành thảnh phi. Năm 1278, hoàng đế Mông c ổ Hốt Tất Liệt
(Khoukilaikhan) phong cho bà tước Thiên Hậu kèm theo muời hai chữ tôn
vinh; tước Thiên phi này vẫn được giữ lại dưới triều đại nhà Minh và đầu
triều đại Mãn Châu, và được thay thế bằng tước Thiên Hậu bởi hoàng đế

1. Nguyễn Ngọc Thơ (2012), “Văn hóa tâm linh và phát triển: Tfn ngưỡng Thiên Hậu tại Nam
Bộ Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nằng, tháng 6 /2012, tr.4; và Võ
Thanh Bằng (chủ biên) (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành ph ổ Hồ Chí Minh, Nxb Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 282-288.
2. Nguyễn Ngọc Thơ (2012), Sđd, tr.l.

3. Henri Maspero, Lê Diễn dịch (2000), Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, tr.257.
500 Van hóa th ờ N ữthAn - MẪU ở V iệ t nam và châu á

Càn Long năm 1737”1. Cuốn Ma Tồ Cung Tập Thành ghi chép tại Trung
Quốc có hơn 450 huyện thị, thành phố có miếu Thiên Hậu2. Theo thống kê
chưa đầy đù, hiện nay trên toàn thế giới có 1500 miếu ngôi miếu thờ Bà, có
ba ngôi miếu lớn nhất là: Ngôi Miếu Tổ Thiên Hậu ờ Eo My Châu, tỉnh Phúc
Kiến, Trung Quốc, ngôi Miếu Má Tổ ờ Bắc Cảng Đài Loan và Miếu Thiên
Hậu ở Thiên Tân Trung Quốc, riêng Đài Loan có 800 ngôi, tín đồ khoảng 14
triệu người, cả thế giới có khoảng 200 triệu tín đồ. Trung Quốc có thành lập
trung tâm nghiên cứu nền văn hóa Thiên Hậu3. Trên khắp mọi nơi, ở đâu có
người Hoa, ở đó có miếu Thiên Hậu.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mầu
gắn liền với quá trình di dân và định cư của người Hoa vào cuối thế kỷ
XVIII: Miếu Thiên Hậu (Tuệ Thành Hội Quán) được xây dựng năm 1760,
miếu khác (Hà Chương Hội quán) không rõ năm xây, nhưng một cặp liễn cổ
của Miếu đã ghi lại năm trùng tu “Gia Khánh Kỷ Tỵ niên” (1809), vậy miếu
được xây dựng trước năm 18094, các miếu thờ Thiên Hậu khác có niên đại
muộn hơn.
Nếu ờ Trung Quốc, Thiên Hậu được thờ dưới dạng tranh vẽ “một
người đàn bà ngồi trên sóng hay ữên mây, hoặc chỉ có khi ngồi trên ngai”5
thì ở Thành phố Hồ Chí Minh người Hoa thờ tượng Thiên Hậu, được đặt
trang trọng ở chính điện, nơi dành riêng thờ Bà “Thiên Hậu Cung”. Bà được
tôn là một ữong những đệ nhất thần cùa cộng đồng “Thiên Hậu được khoác
áo bào màu thẫm, thêu kim tuyến, trang phục của hàng vương công”6.
Ngoài những cơ sờ Thiên Hậu Thánh Mẩu là chính thần, người Hoa
còn tùng tự Thiên Hậu tại các miếu thờ Quan Thánh Đế Quân (chùa Ông -
Nghĩa An Hội quản, chùa Ông Lăng - Ôn Lăng Hội quán). Không chi thờ ở
ngôi miếu chung của cộng đồng, Thiên Hậu Thánh mẫu còn được thờ tại nhà
cùng với các vị thần khác.

1. Henri Maspero, Lê Diễn dịch (2000), Sđd, Ứ.259.


2. Nguyễn N gọc Thơ (2012), Sđd, tr.2.
3. Lê Văn Cành (chủ biên) (2000), Miếu Thiên Hậu - Tuệ Thành Hội quản, Nxb Trẻ, Thành
phố HỒ Chí Minh, tr.10.
4. Trần Hồng Liên (1998), “Góp phần tìm hiểu quá trình hình thành miếu cồ của người Hoa ở
Chợ Lớn” trong “Góp phần tìm hiểu lịch sừ-văn hỏa 300 năm Sài Gòn-Thành phổ Hồ Chỉ
M in K \ Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, tr.462.
5. Henri Maspero, Lê Diễn địch (2000), Sđd, tr. 260.
6. Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh (1990), Chùa Hoa Thành phố Hồ Chỉ
Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.18.
T ín ngưỡng thờ Mẫu của người Hoa... 501

Qua hệ thống miếu thờ của cộng đồng và sự hiện diện của Thánh Mẩu ở
mồi gia đình cho thấy tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mầu có vị trí quan trọng
trong đời sống tâm linh cùa cộng đồng người Hoa “là vị thần chiếm vị trí trung
tâm, ờ vị trí đẳng trật cao nhất” 1, tín ngưỡng đã tồn tại hơn 1000 năm, không
bị mai một mà có sức sống bền bỉ, có ảnh hưởng đến cả người Việt.
Đi cùng với Thiên Hậu Thánh Mầu, phía trái Bà là tượng Long Mầu
Nương Nương-, cai quản biển Đông, vợ của Nam Hải Long Vương có con là
Long Nữ (công chúa Thủy Tề) được thờ ờ điện Ngọc Hoàng - quận 1, Tuệ
Thành Hội Quán - quận 5, Tam Sơn Hội quán - quận 5, Thiên Ý - quận 6.
Long Mầu tên thật là Ôn Long Cơ, người gốc Âu Việt, quê quán Đằng
Huyện, Quảng Tây. Bố mẹ chẳng may bị lũ cuốn trôi, duy chỉ có Long Mầu
được lão đánh cá vùng Duyệt Thành (Triệu Khánh, Quảng Đông) tên là
Lương Tam Công cứu sống từ một chiếc thuyền thúng trôi giữa dòng sông.
Long Cơ sắc sảo thông minh, nhờ nuôi năm con rồng con nên được gọi là
Long Mau. v ề sau, bà hợp nhất năm bộ lạc Âu Việt vùng trung và thượng
lưu sông Tây Giang chống quân Tần. Sau khi qua đời, bà được suy tôn thành
nữ thần cai quản dòng Tây Giang và vùng đất rộng lớn thuộc thượng và
trung lưu sông Tây Giang. Cũng có thuyết cho rằng Long Mầu là hình ảnh
vua Dịch Hu Tống - lãnh tụ chống quân Tần thất bại năm 218 TCN, đã “nữ
thần hóa” theo truyền thống Âu Việt (Trần Thiệu Cơ 2004; Trần Trạch
Hoằng 2007:379-388; Hoàng v r Tông 2004: 10-11)”2
Quan Thế Âm Bồ Tát của Phật giáo còn được người Hoa “dân gian
hóa” thành Quan Âm Nam Hài - giúp người vượt biển an toàn, tùng tự chung
với các nữ thần tại các cơ sở tín ngưỡng. Như tại Thiên Hậu cung (Tuệ
Thành Hội quán) Tích Thiên Đường-quận 11, Ôn Lãng Hội quán-quận 5,
Hộ Quốc Miếu - Tân Bỉnh bên cạnh vị thần chính của miếu là Thiên Hậu
Thánh Mầu hay Quan Thánh Đế Quân, Ông Bổn người Hoa còn thờ Quav
Âm Nam Hải với ước nguyện được Ngài “cứu nạn phò nguy độ trì”3. Người
Triều Châu thuờng thờ tập thể hình tượng Quan Âm bao gồm Quan Âm
Thiên Thủ Thiên Nhãn, Quan Âm Bạch Y, Quan Âm Bồ Tát, Quan Âm Nam
Hải, Quan Âm Tống Tử, Quan Âm Tọa Sen, Quan Âm Đại Sĩ. Có sách nói
Quan Âm có 55 dạng “Ngũ Thập Ngũ Danh”.

1. Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mau ờ Việt bỉam, Nxb Tôn giáo, Hà N ội, tr 361.
2. Nguyễn Ngọc Thơ (2012), Sđd, tr. 6.
3. Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh (1990), Chùa Hoa Thành p h ố Hồ Chỉ
Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 159.
502 Van Hó a t h ờ N ữ t h ấ n - MẪU ở V lỆ T NAM VẢ CHÁU Á

Trân Châu Nương Nương (miếu Trân Châu Nương Nương - quận 11)
theo truyền thuyết là em gái út của Thiên Hậu,(?) cũng là một dạng thần
biển1. Người Hoa Hải Nam còn thờ Ỷ Mỹ Nương Nương, Thủy Vĩ, Ý Mỹ là
những vị thần phù trợ cho vượt qua sóng gió trên đường di cư từ miền Nam
Trung Quốc đến Việt Nam.
Ở Khánh Đường (quận 10), người Hoa hiện vẫn còn thờ Diều Trì Kim
Mầu (Tây Vương Mầu, Phật Mẩu vợ Ngọc Hoàng) - vị thần xuất hiện từ thời
cổ nhưng hiện nay hoàn toàn biến mất ờ Trung Quốc. Phụ nữ Hoa ở Thành
phố Hồ Chí Minh tin rằng bà có thể giúp họ giữ gìn giũ sắc đẹp và có nhiều
con cái2 và Bà được thờ dưới dạng tranh, được vẽ như một người con gái
đẹp, mặc triều phục, đội mũ lông cò bạch, có một con công đi theo. Theo
Henri Maspéro “Tây Vương Mầu là vị thần khá cổ: lúc đầu đó là nữ thần các
bệnh dịch cư ngụ ở phía tây thế giới và chì huy lũ dịch hạch. Từ thời Hán, bà
trở thành nữ thần che chờ cho người ta khỏi các bệnh dịch và chữa trị
chúng”3. Tây Vương Mầu cũng đã trờ thành nữ thần ban tuổi thọ (trong
Truyện thiên từ Mộc), là nữ thần trồng và canh giữ những cây Đào Tiên
trong vườn Thượng đế (trong Cuộc đời bí ẩn cùa Vũ Đế nhà Hán).
Mẹ Sinh Mẹ Đậu (Kim Huê Nương Nương, Chúa Sanh Nương Nương
còn gọi là Kim Huê Phổ Chủ Huệ Đức Phu Nhân,) được thờ tại Tuệ Thành
Hội quán, điện Ngọc Hoàng, Nhị Phù Miếu là vị thần chù trì việc sinh nở.
Tùng tự với Kim Huê Nương còn có 12 Bà mẹ hiện thân của 12 giai đoạn từ
thai nhi đến đứa trẻ hinh thành (12 Mụ Bà) (Điện Ngọc Hoàng, Minh Hương
Gia Thạnh), Nhũ Mầu bồng em bé. Tại gia đình, khi có phụ nữ mới sinh
nguời ta thường thờ tượng Kim Huê Nương Nương ừong phòng của sản phụ
với mong muốn được bà phù hộ cho người mẹ và đứa bé được khỏe mạnh.
Kim Huê Nương Nương là đối tượng thờ cúng chính trong lễ đầy tháng.
Bên cạnh Kim Huê Nương Nương, Thất Tinh Nương 'Nương, Lâm
Thủy Phu Nhân là những vị thần phù hộ sinh đẻ và trẻ em cũng được người
Hoa thờ tại Thiên Ý- quận 6.
Cừu Thiên Huyền M?còn gọi là Cửu Thiên Nương Nương , Cửu Thiên
Huyền Nữ Nương Nương, hay Oa Huỳnh, Huyền Nữ, là một vị nữ thần được

1. v s Thanh Bẳng (2005), Sđd, tr. 41.


2. Võ Thanh Bằng (2005), Tin ngưỡng dân gian của người Hoa ở Nam Bộ, Luận án Tiến sĩ,
chuyên ngành Dân tộc học, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, tr.34.
3. Henri Maspero, Lê Diễn dịch (2000), Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, tr.346.
T ín ngưỡng thờ M âu của người Hoa.. 503

truyền tụng trong những thần thoại của Trung Quốc từ thời nhà Thương về
sau được Đạo Giáo tin tưởng trở thành một vị nổi danh trong hàng nữ tiên
nhưng bà được dưới hình tượng một quái vật đầu người mình chim gọi là
“Huyền Điểu”. Đến đời Tống, trong “Vân cấp Thất Thiêm” Cửu Thiên
Huyền Nữ đã hoàn toàn được “nhân thần hóa”, xóa bỏ tất cả dấu vết động
vật trong hình tượng. Trong quyển sách đặc biệt tên “ Cửu Thiên Huyền Nữ
truyện” đã diễn tả bà cỡi chim phượng, trên đám mây ngũ sắc, mặc áo chín
sắc “Thái Thúy Hoa”. Ngài là vị chuyên môn phù trì cứu giúp anh hùng, dạy
thiên thư binh pháp cho các nữ tiên trên trời và chính thức trở thành “ Cửu
Thiên Huyền Nữ Nương Nương Nhân vật Cửu Thiên Huyền Nữ đã xuất
hiện rất nhiều trong các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, tạo ra ảnh hưởng rất
lớn về niềm tin của quần chúng. Nhiều đời đã qua, mỗi thời đề cao thêm
một chút thành ra ngày nay Bà trở thành một vị Nữ Thần tối cao, có khả
năng “Ban bố phước lộc, ban bố con trai” cho tất cả những ai thành kính tin
tường Bà. Những phụ nữ Hoa đến thờ cúng, cầu xin Bà ban cho con trai.
Thánh Anh La Sát được người Hoa thờ ở Thiên Ý Đàn dưới dạng
tượng tròn. Bao quanh Bà là nhiều tượng nhỏ trẻ em, giày giấy và nhiều lễ
vật khác do những phụ nữ khó nuôi con mang đến tạ ơn. Thánh Anh La Sát
gốc là nữ tướng thời nhà Ngụy, có tên là “Thánh Anh La Sát” (Bà La Sát)
phối tự với chồng là Ngưu Ma Vương. Trong truyện Tây Du Ký của Trung
Quốc, Bà La Sát tức ác thần La Sát Thiết Phiến công chúa, mẹ của Hồng Hài
Nhi, có 26 con, hay quấy phá ừẻ sơ sinh và giết người, nhưng cũng biết
hướng thiện, không bao giờ để con đói. Dân gian thờ dưới dạng ià thần hết
lòng phù hộ trẻ em và thôn xóm. Ngày nay phụ nữ Hoa nóng tính hay cầu Bà
để sửa tính nết nóng này lại cho thùy mị, hiền hoà, biết thương nguời1.
Đối với những nam thanh nữ tú chưa có ý trung nhân thường cầu Hoa
Phẩn phu nhãn để được ban ơn lành, được thần mang đến cho tình yêu.
Nữ Oa được thờ ở Thiên Ý Đàn - quận 6 nhằm “bồi dưỡng cho mình
tỉnh cảm cám ơn đối với mẹ, đất nước, môi trường, cầu được có con cái”2.
Người Trung Hoa có nhiều ừuyền thuyết khác nhau về Nữ Oa. Có truyền
thuyết nói rằng Nữ Oa là em ruột và cũng là vợ của Phục Hy. Hai người sinh
ra loài người. Nữ Oa là người lập ra thể chế hôn nhân, là bà mối và hướng
dẫn, dậy bảo, chăm lo về tính phái, tình dục, luyến ái. Bà thường được mô tả

1. Bằng Võ Thanh Bằng (2005), Tín ngưỡng dân gian của người Hoa ở Nam Bộ, Luận án
Tiến sĩ, chuyên ngành Dân tộc học, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, tr.98.
2. Võ Thanh Bằng (2005), Sđd, tr 33.
504 Van Hóa th ờ Nữthẩn - MẪU ở VlỆTNAM VÀ CHẨU Á

là người có đầu người mình rắn hay cá. Nữ Oa tạo ra con người bằng cách
nặn những hình người nam nữ bằng đất sét. Làm nhiều quá hóa nản bà lấy
sợi dây nhúng vào đất sét lỏng kéo lết cho những vệt đất tạo thành người.
Những người do Nữ Oa nặn ra đẹp đẽ thành những kẻ quí phái, còn những
giọt đất sét kéo lết trờ thành những người thường dân và cùng đinh (Richard
Cavendisd, An Illustrated Encyclopedia ot Mythology, tr. 64). Nữ Oa đã sửa
chữa lại Trụ Trời và các góc trời bị lở sụp do Thần Nuớc Cung Công (Kung
Kung, Gonggong) tức giận đánh nhau với Thần Lửa (Zhurong) gây ra. Để
chống trụ trời cho vững lại, Nữ Oa đã dùng bốn chân rùa và để vá trời bà đã
nấu chảy đá ngũ sắc. Truyền thuyết khác cho rằng, Nữ Oa đã khống chế
được Ngưu Vương (King of Oxen). Con quái vật này thường đe dọa hãm hại
bằng hai cái sừng và hai tai khổng lồ. Nữ Oa khống chế bằng cách sỏ một
sợi giây phép vào mũi Ngưu Vương. Lại có truyền thuyết cho Nữ và Oa là
hai người đầu tiên, là hai anh em, hiện ra khi núi Côn Lôn thành hình. Họ đã
dâng đồ tế để xin đấng tạo hóa cho phép họ là hai anh em được lấy nhau
thành chồng vợ. Sự phối hợp này được chấp nhận khi khói đốt từ lễ vật vẫn
giữ nguyên dạng quện vào nhau. Truyền thuyết cho rằng Nữ Oa đã xây một
lâu đài tráng lệ, là khuôn mẫu cho các cung điện có thành quách bao quanh
của vua chúa Trung Hoa sau này. Những vật liệu xây cất lâu đài cùa Nữ Oa
được các Thần Nủi hoàn tất chỉ ừong một đêm (Encyclopedia Britanica).
Địa Mẩu hiện được thờ ở Liên Đàn Địa Mẩu - quận 11 vốn là thần cai
quản toàn cõi đất, xuất hiện ở Trung Quốc giữa thế kỷ XIX. Theo thuyết cứu
thế: Lúc tận thế dầu sôi lửa bỏng, cọp beo ra đường, Địa Mau xuất hiện cứu
người. Bà được hình tượng hóa là một phụ nữ mặc áo đen đứng trên quả đất,
dáng cứu độ'. Vị nữ thần này được người Hoa thờ củng rộng rãi từ sau nãm
1960, với hy vọng cứu được chúng sinh qua com loạn lạc. Thần ban phước
cho dân gian, giúp mùa màng tốt tươi, sản vật đồi dào.
Đẩu Mầu được thờ ở Thiên Ý Đàn - quận 6 “là nữ thần cai quản các số
Sinh và Tử, tước hiệu đầy đủ “Đại Thánh Mâu của quần tinh Đẩu” “Trên
cao, bà sắp xếp các danh mục ở Cửu Thiên; ở giữa, bà thu thập danh sách
các thần, bên dưới, bà hướng dẫn các sổ sách về số phận người ta”2. Ban
đầu, người ta thờ cúng bà bằng việc nhịn ăn ngày 3 và ngày 27 mỗi tháng
(hiện nay không còn tục này) để xin bà sống toàn vẹn thời hạn được ban cho
theo số tử vi (không bị rút ngắn). Ngoài ra, khi bị bệnh hiểm nghèo, người ta

1. Võ Thanh Bằng (chủ biên) (2008), Sđd, tr.286.


2. Henri Maspero, Lê Diền dịch (2000), Sđd, tr.278.
T ín ngưỡng thờ Mâu của người Hoa. 505

cúng bà, cầu cho khỏi bệnh. Đẩu Mầu được vẽ ngồi trên một bông sen với
mũ Bồ tát, có ba mắt (mắt chính ở giữa nằm dọc giữa trán là con mắt nhìn
siêu nhiên ở Phật giáo, cho phép ngày đêm nhìn thấy những gi xảy ra trong
tất cả các thế giới), và tám cánh tay có những năng lực khác nhau.
Tam Thập Tam Thiên Lão Thái Hậu (mẹ của 33 tầng trời tức mẹ của
Ngọc Hoàng) (Thiên Ý - quận 6)
Hình thức thờ Ngũ Hành Nương Nương gồm nãm cốt tượng phụ nữ:
thần Hỏa mặc áo đỏ, thần Mộc áo xanh, thần Kim màu trắng, thần Thủy màu
đen, và thần Thổ màu vàng tại Phước An Hội quán, Phù Châu miếu. Tín
ngưỡng này bắt nguồn tư duy nguyên thủy của người Trung Quốc về nguồn
gốc cấu thành vũ trụ. Năm vị thần tượng trưng cho năm yếu tố cơ bản hình
thành nên vũ trụ. Theo truyền thuyết Trung Hoa cổ Kim Đức Thánh Phi ngồi
ở hướng Tây, đồng nhất với thần Nậu Thu, tiêu biểu cho tài lộc; Mộc Đức
Thánh Phi ngồi ở hướng Đông, đồng nhất với thần Câu Mang, tượng trưng
cho cây cối và ổức mạnh của mùa Xuân vươn lên, phát triển; Thủy Đức
Thánh Phi ngồi ở hướng Bắc, đồng nhất với thần Huyền Minh, tượng trưng
cho nước, nguồn gốc của sự sống; Hỏa Đức Thánh Phi ngồi ở hướng Nam,
đồng nhất với thần Chúc Dung, tượng trưng cho sự thông minh; Thổ Đức
Thánh Phi ngồi ở vị trí trung ương, đồng nhất với thần Hậu Thổ (Thần Đất),
tượng trưng cho sự sinh sôi1. Tuy nhiên, ngày nay người Hoa thờ Ngũ Hành
theo quan niệm các vị thần có liên quan đến mọi mặt đời sống của con
người, không kể người làm những nghể nghiệp khác nhau như ngư nghiệp,
nông nghiệp, thủ công nghiệp, buôn bán2. Người Hoa tín ngưỡng Ngũ Hành
cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, làm ăn yên ổn, phát triển, tiến bộ.
Thủy Mấu Nương Nương (Thủy Mầu Nương Nương Cung, Bình
Khánh Miếu - quận 6) là thần giếng nước, rạch ao, hồ, sông. Thủy Mầu
Nương Nương có viên ngọc trị thủy họa, được đồng nhất với Vô Tri Kỳ, một
thủy quái ở sông Hoài thành Tứ Châu. Thủy Mẩu Nương Nương là thần
giếng nước của người Hoa ở những nơi khô hạn và là vị thần phù hộ cho họ
vượt sông biển, đi tàu, ghe, xuồng an toàn.
Người Hoa Nùng ở phường 13, quận 6 trước đây có nghề đúc đồng
nên thờ Hỏa Đức Nương Nương để cầu bà gỉn giữ lửa, không để xảy ra
hỏa hoạn.

1. Vồ Thanh Băng (2005), Sđd, tr.35.


2. Ngô Đức Thịnh (2010), Sđd. tr.308.
506 V a n hóa th ờ Nữ th ẩ n - MẪU ở V iệ t NAM VÀ CHÂU A

Điện Mầu (Mẹ chóp) vị thần tạo chớp được thờ ờ Thiên Ỷ - quận 6 vốn
là tín ngưỡng nông nghiệp cùa người Hoa, cầu mưa thuận gió hòa. Nữ thần
Chớp được vẽ đứng trên một đám mây, giơ hai tấm kính soi lên đầu mình.
Trong quá trình giao lưu văn hóa với người Việt, người Hoa còn tiếp
thu thêm Bà Chúa Xứ của người Việt (miếu thờ Thiên Hậu- quận 3), miếu
Chúa Xứ Thánh Mau (Bửu Quang Tịnh Xá-quận 6). Trong cơ sở tín ngưỡng
của người Hoa, vị trí Bà Chúa Xứ không kém nhiều so với Thiên Hậu Thánh
Mẩu, 88 % người Hoa đến miếu Thiên Hậu - quận 3, biết và tin Bà Chúa
Xứ1 [Kết quả khảo sát của tác giả năm 2003]. Có thể nói, đây là vị thần của
người Việt được người Hoa sùng kính nhiều nhất so với các vị thần khác.
Theo Phan Thị Yến Tuyết “yếu tố Việt hóa trong các cơ sở tín ngưỡng dân
gian người Hoa cũng không ít, điển hình nhất là tín ngưỡng Bà Chúa Xứ ở
Châu Đốc. Tín ngưỡng này thâm nhập mạnh mẽ vào hệ thống thần điện của
nhiều đền, miếu người Hoa. Hiện nay, ở đâu cỏ tín ngưỡng này thì nơi đó
người dân đến cúng bái rất đông. Việc thờ thêm Bà Chúa Xứ Châu đốc rõ
ràng là một nhu cầu của cư dân người Hoa”2. Người Hoa không quan tâm
nhiều về nguồn gốc của vị thần là của dân tộc nào, chỉ tin rằng Bà rất hiến
linh, luôn mang ơn lành đến cho những ai biết tôn kính Bà. Tại miếu Thiên
Hậu (đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3), nếu như gian giữa của chính
điện thờ Thiên Hậu Thánh Mẩu, thì gian trung tâm của hậu điện dành thờ Bà
Chúa Xứ, không kém phần trang nghiêm. Việc thờ Bà Chúa Xứ trong miếu
Thiên Hậu ở thành phố Hồ Chí Minh xuất phát từ nhu cầu của lớp người
Hoa lớn tuổi, không có điều kiện đi hành hương ở Châu Đốc như trước đây.
Để tạo một niềm tin tuyệt đối ứong dân gian, người Hoa còn tạo nên truyền
thuyết Bà Chúa Xứ được thờ ở thành phố Hồ Chí Minh là em của Bà Chúa
Xứ Châu Đốc. Theo kết quả khảo sát năm 2010 có 52,9% người Hoa thờ Bà
Chúa Xứ Châu Đốc3.

2. Chửc năng của tín ngưỡng thờ Mẩu đối với cộng đồng
người Hoa

Như trên đã đề cập có những nữ thần xuất hiện từ thời cổ đại ở Trung
Quốc đã được những lưu dân người Hoa mang theo trên bước đường di dân

1. Trần Hạnh Minh Phương (2003), Giao lưu vân hỏa Việt-Hoa qua các cơ sở tín ngưỉmg của
người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, tr 66.
2. Phan Thị Yến Tuyết (2002), “Một số vấn đề giảng dạy và nghiên cứu văn hóa dân 'ian đô
thị tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, năm 2002, Hà Nộ, tr.65.
3. Võ Thanh Bằng (2008), Sđd, tr.329.
Tín ngưỡng thờ Mâu của người Hoa. 507

và đến nay vẫn được cộng đồng thờ cúng khá phổ biến (dù những vị thần
này đã không còn được người Hoa ờ Trung Quốc thờ cúng). Để trả lời câu
hỏi “Vì sao tín ngưỡng thờ Mau của người Hoa có sức sống bền bỉ như thế”
chúng tôi đi tìm hiểu chức năng của tín ngưỡng này đối với cộng đồng.
Đạt Lai Lạt Ma đã phát biểu “Tôn giáo có khả năng to lớn trong việc
tạo lợi lạc cho nhân loại. Biết sử dụng đủng đắn, đó là một thứ công cụ hữu
hiệu tuyệt vời trong việc xây dựng hạnh phúc nhân sinh. Đặc biệt, tôn giáo
giữ vai trò hướng đạo trong việc khuyến tấn loài người phát huy một cảm
thức trách nhiệm đối với tha nhân và một nhu cầu cần giới luật theo đạo lý”1.
Theo Radcliffe - Brown, tôn giáo có chức năng: Tạo quy củ (áp đặt
quy cù), và những cảm giác tích cực (đối trọng lại những cảm giác tiêu cực
hay mất niềm tin), chức năng gắn kết (tăng cường đoàn kết) các thành viên
trong cộng đồng, tạo và tái tạo sức sống (vitalizing & revitalizing) di sản của
một nhóm người và truyền đạt giá trị cho một thế hệ tiếp theo2. Chúng tôi giả
định rằng tín ngưỡng thờ Mầu của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh
cũng có nhũng chức năng giống chức năng tôn giáo (như Radcliffe Brown
khẳng định) [chức năng tâm lý tạo niềm tin và cảm giác tích cực, nâng đỡ
tinh thần; chức năng cố kết cộng đồng và chức năng trao truyền văn hóa] và
đi tìm các dữ liệu chứng minh cho giả thuyết này.

2.1. Chức năng tâm lý:


Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, tín ngưỡng thờ những nữ thần
biển trờ nên phổ biến và đặc biệt phát triển vì quá trình di cư và định cư ở
vùng đất mới với muôn vàn khỏ khăn thừ thách không thể lường trước,
người Hoa có nhu cầu được trấn an, nâng đỡ tinh thần để vượt qua những bất
ổn của cuộc sống mới đầy bất ổn. Những nữ thần Thiên Hậu Thánh Mầu,
Long Mau Nương Nương, Long Nữ, Quan Âm Nam Hải, Ỷ Mỹ Nương
Nương, Thủy Vì... đã che chờ những con thuyền di dân trên biển khỏi những
bất trắc của sóng to, gió lớn đến bến bờ bình yên. Trong các miều thờ Thiên
Hậu, để tường nhớ công ơn che chờ của Bà người Hoa còn thờ cả hình tượng
thuyền Bát nhã. Qua nội dung của những bức liễn được đặt ở Tuệ Thành Hội
quán cho thấy vì nhờ ơn đức, sự giúp sức của Bà mà con đường biển cả

1. Dận theo Trần Hồng Liên (2010), Tim hiểu chức năng xã hội cùa Phật giáo Việt Nam, Nxb
Tồng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.35.
2. Radcliffe Brown (1952), Structure and Function in Primitive Society, The Free Press
Glencoe Illinois, pp. 153.
508 Van hóa thờ Nữthản - MẪU ở VlỆTNAM VÀ CHẨU Á

mênh mông từ miền Nam đến Việt Nam được rút ngắn, những điều "dữmđều
được hóa "lành”:
Hậu đức dữ thiên sùng điện các
Thánh ân tùy địa tịnh phong trào
(Đức Bà cao vọi từng không, mãi mãi đền đài bển vững
ơn Thánh trái ra khắp chốn, nơi nơi sóng lặng gió yên)
Hay
Hải quốc thiên từ hàng, thủy đức tham thiên, hoành lãm Mân vân liên
Việt tung
Mi châu vun ỷ phạm, khôn nghi phối địa, vĩnh lưu Việt đào hộ Hoa kiều
(Biển cả sẳn thuyền lành, đức Bà vọng trời cao, đưa đẩy mây Mân liền
núi Việt
Mi châu vun ỷ phạm, nghĩa Bà phối đất rộngt giữ yên nước Việt hộ
Hoa kiều)1
Trong văn bia Trùng tu Tuệ Thành Hội quán năm Dạo Quang thứ 10
(1830) ghi « Trước đây, đoàn thuyền đi từ Bắc xuống Nam, thuận buồm xuôi
gió, chóp mắt đã tới nơi »2
Thời gian hơn ba thế kỷ trôi qua, cuộc sống của người Hoa nơi vùng
đất mới đã dần được ổn định, nhu cầu che chở bảo trợ trên biển được thay
bằng mong muốn được phù hộ cho cộng đồng ngày càng phát triển. Hiện
nay, cũng chính những vị thần ấy chúc phúc cho người Hoa trong công việc
kinh doanh, sức khỏe, sự bình an và hạnh phúc. Các hình thức lì xì, vay tiền,
nghi thức khai ấ n 3 là “một phương pháp khá hữu hiệu để tạo đựng và củng
cố niềm tin vào một sự trợ giúp của đấng tối cao nào đó trong công việc làm

1. Lê Văn Cảnh (chủ biên) (2000), Miếu Thiên Hậu - Tuệ Thành Hội quản, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh, tr.52.
2. Lê Văn Cảnh (chủ biên) (2000), Sđd, tr.46.
3. Sau nghi lễ vía Bà ngày (23-3), Ban quản trị (Hội quán) “thay mặt Bà” gửi lì xì cho thiện
tín đến cúng vì theo quan niệm cùa người Hoa, lì xì của Bà có ý nghĩa như phúc lộc do Bà
ban cho, được Bà phù hộ trong mọi việc, may mán cả năm. Ngoài ra, người Hoa còn “vay
tiền” bà Thiên Hậu vào rằm tháng Giêng (Tết Nguyên Tiêu của người Hoa) để làm ãn
được may mắn, phát đạt và sẽ đến cúng và tạ ơn Thánh Mầu vào các tháng cuối năm. Hàng
năm, ngày 28 tháng chạp, tại miếu thờ Bà (Tuệ Thành Hội quán -quận 5) còn có lễ khai ân,
phát ấn cho dân để cầu mong “quốc thái dân an”, “như ý cát tường”, “hợp gia bình an”.
Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Hoa. 509

ăn. Từ đó tạo cho người Hoa một tâm lý tự tin và sự kiên trì và điều này
có thể là một trong những yếu tố giúp cộng đồng người Hoa rất thành công
trong công việc kinh doanh. Trong một văn bia trùng tu miếu diễn tả sự lạc
quan của cộng đồng vì được hường ơn đức của Bà “mọi người đều được
hường sự linh thiêng và ơn phù hộ của Thánh Mầu, ban rộng đức dày trùm
khắp mọi người, bảo hộ đất nước, che chở nhân dân, tiếng thơm hiển hách
mà sóng yên mãi mãi, người vượt sóng được thuận lợi, sự linh ứng mãi mãi
sáng ngời, thuyền bè đi buôn bán, mãi mang ơn thủy lục bình an mà chở bỏ,
kho đầy, hiệu buôn, vừa phát tài phát phúc để bền vững đời đời. Đi lại yên
như chân vạc, lá ra vào vững tợ cột to .. ,”2
Riêng với nữ giới, các nữ thần (Kim Huê Nương Nương, Thảnh Anh
La Sát, Cừu Thiên Huyền Nữ) mang đến cho họ sự tự tin hơn về bản thân
mình với sắc đẹp, sự thùy mị, hiền hòa và khả năng sinh và nuôi dưỡng
những đứa con nối dõi tông đường. Bằng sự tự tin đó, người phụ nữ có niềm
tin vào cuộc sống, họ sống một cách tích cực và đầy hạnh phúc, giúp vai trò
của họ được nâng lên làm cho quan niệm “trọng nam khinh nữ” theo truyền
thống Nho giáo dần dần bị phai nhạt, góp phần hình thành một cộng đồng đề
cao bình đẳng giới. Ở khía cạnh nào đó, chính hình thức thờ Mầu vốn đã
khẳng định vị thế của người phụ nữ trong một cấu trúc xã hội phụ quyền. Tín
ngưỡng thờ Mầu thường được phụ nữ thờ vọng nhiều hơn nam giới vì giới
nữ tin rằng, nữ thần có nhiều “ưu ái” cho họ hơn nam thần. Như Nguyễn
Ngọc Thơ (2011) viết “Ở phương diện nào đó, người Nam Trung Hoa dùng
tín ngưỡng Thiên Hậu cùng với tín ngưỡng thờ Mẩu khác làm đối trọng với
kiểu văn hóa quan phương “nam tôn nữ ti” phương Bắc”3.
Tín ngưỡng thờ Mâu (cũng như tôn giáo) còn mang đến cho cộng đồng
phương tiện để vượt qua sự sợ hãi lớn nhất của con người: bệnh tật và cái
chết. Một người bệnh nặng khi đến cúng bái, cầu xin Đẩu Mầu sẽ cảm thấy
trở nên khỏe hơn và không lo lắng về cái chết vì tin rằng nữ thần đã ban
phép chữa lành.
Di dân người Hoa đến Việt Nam phần lớn thuộc tầng lớp nghèo khổ,
những binh lính, quan lại nhà Minh chạy khỏi sự cai trị của nhà Thanh, hành
trang mang theo của họ không có nhiều của cải vật chất mà chỉ có niềm tin

1. Nguyễn Thị Hoa Xinh (1997), Tín ngưỡng và tôn giáo của người Hoa ờ Quàng Đông ờ
Thành ph ố Hồ Chí Minh, Luận án Phó Tiến sĩ Lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 136.
2. Lê Văn Cảnh (chủ biên) (2000), Sđd, tr.47.
3. Nguyễn Ngọc Thơ (2012), Sđd, tr.2.
Õ10 Van hóa th ờ N ữ th ấn - MẪU ở VlỆT NAM VÀ CHÂU A

vào một tương lai tốt đẹp hơn ờ nơi đất khách quê người nhờ sự tin tưởng CÓ
được các nữ thần phù hộ, độ trì. Điều này giải thích vì sao tín ngưỡng thờ
Mau có sức sống mãnh liệt trong cộng đồng người Hoa ở hải ngoại nói
chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng hon tại chính quốc.
Hệ thống nữ thần đã có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển của
cộng đồng người Hoa bằng cách mang đến cho cộng đồng một niềm tin
vững chắc rằng họ luôn được thần linh phù trợ để vượt qua tất cả mọi khó
khăn, sẽ có một cuộc tốt đẹp trong tương lai. Được nâng đỡ về mặt tinh thần,
con người sẽ tin tưởng nhau, tin tưởng vào cộng đồng và tương lai của cộng
đồng khiến mọi cá nhân hành động tích cực cùng hướng đến việc xây dựng
một cộng đồng phát triển bền vững.
2.2.Chức năng cố kết cộng đồng
Các cơ sờ thờ Mau cũng là các Hội quán của cộng đồng, nên sinh hoạt
tín ngưỡng đã tạo nên sự cố kết, gắn bó của cộng đồng (mỗi nhóm địa phương
người Hoa đều có các miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mầu). Mỗi hội quán đều có
nội quy, tổ chức, hoạt động chung cho cả cộng đồng, mọi người đến Hội quán
đều cảm nhận đó là “ngôi nhà chung” của cộng đồng và mỗi thành viên đều có
nghĩa vụ và quyền lợi gắn với hội quán. Khi cơ sở thờ tự bị hư hại do thời
gian, các thành viên trong cộng đồng đều thấy mình cần phải có trách nhiệm
góp công, góp cùa để trùng tu, mờ rộng hội quán. Nội dung văn được lập năm
Canh Dần niên hiệu Đạo Quang thứ 10 (1830) nhân dịp trùng tù miếu thờ
Thiên Hậu cùa bang Quảng Đông (Tuệ Thành Hội quán) đã viết “(•••) nay
toàn thể những người cùng phủ, thành tâm vui lòng giúp đỡ, cùng làm việc tốt
đẹp mua ngay miếng đất (để mở rộng cơ sở thờ tự).. .”1.
Trong buổi đầu, các hội quán vừa là nơi thờ cúng Thiên Hậu Thánh
Mau vừa là nơi đón tiếp, giúp đỡ cho những người mới nhập cư, để hộ sớm
ổn định cuộc sống nơi vùng đất mới và thật sự trở thành công dân của quê
hương mới.

Cùng thờ vọng một vị thần, các thành viên trong cộng đồng sẽ có tinh
thần yêu thương, tương trợ, chung tay góp sức cho cộng đồng ngày càng
phát triển. Điều này lý giải vì sao bên cạnh ngôi miếu thờ Thánh Mầu chung,
từng nhóm cộng đồng ngôn ngữ Hoa đều có trường học,-bệnh viện, nhà tang
lễ, nghĩa trang chung. Những người giàu có sẽ tự nguyện đỏng góp xây dựng

1. Lê Văn Cảnh (chủ biên) (2000), Sđd, tr.47.


T ín ngưỡng thờ M ẫu của người Hoa... 511

nhũng cơ sở vật chất chung cho cộng động. “Năm 1910, ông Lý Phát Đông
tài trợ xây trường Quảng Đông' . Năm 1958 lại xây một trường tiểu học tại
khu lao động quận 11 (Ngày nay thuộc khu Lãnh Binh Thăng).. Năm 1907,
bang Quảng Đông xây dựng một bệnh viện miễn phí để chữa bệnh cho người
người nghèo... Năm 1967 Ban quản trị quyên góp xây dựng một Khoa sản
cho bệnh viện Quảng Đông (Nay là Bệnh viện Nguyễn Tri Phương)2.
Hiện nay, các Hội quán của người Hoa nói chung, những Hội quán thờ
Thiên Hậu nói riêng đều có nhiều hoạt động gây quỹ (đấu thầu đèn thánh,
kẽu gọi sự đóng góp của những mạnh thưòng quân) để phát học bổng
khuyến khích học sinh - sinh viên trong cộng đồng, trợ cấp người già nghèo
neo đơn, những người đồng hương nghèo, xây nhà tình thương, phát gạo cho
người nghèo, cứu trợ đồng bào bị thiên tai, đóng góp các quỹ từ thiện - xã
hội do các tổ chức đoàn thể quyên góp. Theo Võ Thanh Bằng “Năm 1998,
riêng Tuệ Thành Hội quán (miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mầu) đã làm công
tác từ thiện 594 triệu đồng”3. Xét trên bình diện này, các cơ sở tín ngưỡng
thờ Mầu có đóng góp lớn, cùng với chính quyền giải quyết những khó khăn
của những người nghèo trong các vấn đề giáo dục, đời sống, y tế. v ề mặt
nào đó, các cơ sở tín ngưỡng thờ Mầu đã góp phần ổn định anh sinh xã hội.
Bằng những việc cụ thể trên, các miếu thờ Mau có sức hút rất lớn đối với
cộng đồng (không riêng người Hoa), mọi người đến đây đều mong muốn vơi
bót khồ đau, buồn chán, thất vọng và bi quan.
ị-

Cùng cầu nguyện, tín ngưõng nhữqg nữ thần, các thành viên trong
cộng đồng cùng đến sinh hoạt chung ở một cơ sở tín ngưỡng, có điều kiện
giao tiếp, cùng chia sẻ những điểm chung. Lễ nghi gắn với các nữ thần tạo
bối cảnh để các thành viên cùng đến với nhau, cùng đoàn kết, chia sẻ, giúp
đỡ nhau tăng cường sự cổ kết của cộng đồng. Đôi khi, mạng lưới xã hội
của cá nhấn còn được mở rộng và củng cố thông qua việc tham gia sinh
hoạt tín ngưỡng.
Hình thức thờ Mau góp phần kiến tạo những chuẩn tắc cùa cộng đồng,
đặc biệt là giới nữ. Những chuẩn mực mà cộng đồng mong muốn có được
nơi phụ nữ là có khả năng sinh và nuôi dạy những đứa con nối dõi tông
đường, đức hy sinh, lòng vị tha, sự tận tụy và hiếu thảo với cha mẹ, đó là

1. Người Hoa tại Việt Nam, Paris, trô 84.


2. Nguyễn Văn Huy (1993), tr.386.
3. Vồ Thanh Bằng (2008), Sđd, tr. 325.
/

512 Van hóa th ờ N ữ th ấn - MẪU ở VlỆT NAM VA CHÂU A

tam tòng, tứ đức thông qua thần tích của các vị nữ thần. Cộng đồng thần
tượng hóa, biểu tượng hóa các vị thần mình thờ cúng để nhằm giáo đục cho
các thành viên cộng đồng có được những đức tính như các vị thần. Quyền
năng và đức độ của các nữ thần còn là tấm gương cho thế hệ trẻ noi theo.
Các hành vi thắp hương, dâng lễ cầu nguyện, phóng sinh, bố thí, góp
tiền vào việc công ích khi đến cơ sờ tín ngưỡng hình thành nên tính thiện nơi
mỗi người, từng bước phát triển trong cộng đồng, giảm các tệ nạn xã hội,
cộng đồng phát triển lành mạnh.
2.3. Chức năng trao truyền vẫn hóa
Không đơn thuần là cơ sờ thờ nữ thần, các miếu Hoa còn là nơi quy tụ
các hoạt động văn hóa của cộng đồng, gắn với các lễ hội vía Thiên Hậu (23-
3 Al), lễ hội Quan Âm (26-1 Al), vía Bà Kim Huê (17-04A1), vía Long Mau
Nương Nương (08-05), Ngũ Hành Nương Nương (18-8A1) là dịp cộng đồng
“trình diễn” các nghi thức, loại hình nghệ thuật truyền thống: múa Lân, Sư,
Rồng. Thông qua lễ hội, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của cộng đồng
được đáp ứng, các yếu tố văn hóa truyền thống tộc người được bảo tồn và
trao truyền cho thế hệ trẻ. Hiện nay, lễ hội chùa Bà (rằm tháng Giêng-
15/1A1) vẫn được Tuệ Thành' Hội quán tổ chức long trọng với rất nhiều nghi
thức trong đó có nghi thức rước kiệu Bà. Tượng Bà được đặt lên kiệu sơn
son thếp vàng, với đội ngũ rước thần trang phục chinh tề, rước các di tượng
đi vòng nhiều phố lớn. Rất nhiều người đi theo cổ vũ đám rước, trên đường
đi xen kẽ là các điệu múa lân, múa rồng, thi đấu võ thuật, diễn xướng dân
gian, hát Quảng, hát Tiều, biểu diễn Côn Khúc. Lễ hội thu hút rất nhiều
người tham gia, qua đó văn hóa truyền thống của cộng đồng được ừình diễn
và được trao truyền.
Hầu hết các cơ sở thờ Mầu là các công trình kiến trúc cổ được xây
dụng từ cuối thế kỷ XVIII với hệ thống tượng cổ, phù điêu trang trí, hoành
phi, câu đối, nhiều di vật (cKuông đồng, khanh đá) không chi là những có giá
trị vật chất mà còn là dấu ấn văn hóa tinh thần của thế hệ người Hoa thời kỳ
đó. Tiêu biểu, theo thống kê của miếu Thiên Hậu quận 5 (Tuệ Thành Hội
quán) “bản quán có gần 300 đồ cổ gồm 7 tượng thần, 9 tượng đá, 9 bia đá,
10 biển, hoành phi, 23 câu đ ố i, 2 phù điêu “thuyền bát nhã” 41 tranh nổi, 10
họa tiết gốm nóc mái, 10 tranh vẽ chữ, 34 tranh tường, 1 chuông lớn, 2
chuông nhỏ, 24 tranh chạm gỗ, 1 đỉnh đồng lớn, 4 bộ ngũ sự lớn nhỏ, 4 lư
đồng, 1 lư hương đá, 8 tranh họa chữ treo, 2 bộ bát bửu, 16 đao thương bát
T ú i ngưỡng thờ Mâu của người Hoa. 513

bửu, 32 bản gỗ khắc chữ ngân cao, 1 tửu đỉnh đá...”'.Trước quá trình đô thi
hóa và hiện đại hóa, văn hóa truyền thống của các tộc người đang ngày càng
bị mai một, chính các cơ sở tín ngưỡng thờ mẫu này là nơi bảo lưu những
giá trị truyền thống tốt nhất. Như Ngô Đức Thịnh viết “(•••) những nơi thờ
cúng (của tín ngưỡng thờ Mau) đó là trung tâm tập hợp của các cộng đồng
người Hoa về đời sống tâm linh, nơi bảo tồn và thể hiện các giá trị văn hóa
mang bản sắc văn hóa của người Hoa”2. Nguyễn Ngọc Thơ đả nhận định
“Cộng đồng người Hoa mượn tục thờ Thiên Hậu để thực hiện chức năng
giáo dục truyền thống, định hướng cộng đồng mình về nhân cách, đạo đức
sống cao đẹp. Thông qua tín ngưỡng này, người Hoa gìn giữ đặc trưng văn
hóa tộc người mình, nhất là yếu tố thuần phong mỹ tục của đồng bào người
Hoa (...)• Thông qua các hoạt động tín ngưỡng, người Hoa còn gìn giữ nhiều
loại hình văn hóa phi vật thể như diễn xướng, ca múa dân gian, múa lân sư
rồng, múa hầu... Các cơ sờ tín ngưỡng như miếu, đình với phong cách kiến
trúc đặc sắc đã góp phần giáo dục các thế hệ trẻ nguồn gốc văn hóa tộc
người mình ”3. Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu được xem là “một trong những
hạt nhân phản ánh bản sắc văn hóa Hoa tộc trong đại gia đình văn hóa Nam
Bộ. Nhắc đến người Hoa người ta nhắc đến Bà Thiên Hậu, ngược lại khi
nhắc đến Bà Thiên Hậu người ta nói đến người Hoa”4.

Nhận xét

Sự hiện diện của các miếu thờ nữ thần đã góp phần thể hiện quá trình
tộc người cùa cộng đồng người Hoa từ nhũng kiều dân trở thành công dân
(qua quá trình giao lưu tiếp văn hóa). Phần lớn các miếu cồ thờ Mầu nằm ở
địa bàn quận 5 cho thấy nơi đây là địa bàn cu trú đầu tiên của người Hoa ở
Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh.
Những Nữ thần phù trợ cho bước đường đi cư chiếm một vị quan trọng
trong hệ thống thờ Mau của người Hoa. Tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mầu,
Long Mầu Vương, Quan Ấm Nam Hải bắt nguồn từ mong muốn vượt biển an
toàn, khỏe mạnh, có được cuộc sống bình an. Nhóm nữ thần ban cho phụ nữ

1. Lê Văn Cảnh (chủ biên) (2000), Miếu Thiên Hậu - Tuệ Thành Hội quản, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 19.
2. Ngồ Đức Thịnh (2010), Đạo Mầu ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, tr. 361.
3. Nguyễn Ngọc Thơ (2012), “Văn hóa tâm linh và phát triền: Tín ngường Thiên Hậu tại Nam
Bộ Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Kỉnh tế - X ã hội Đà Nằng, tháng 6 /2012, tr.9.
4. Nguyền Ngọc Thơ (2012), Sđd, tr.9.
514 Van hóa thờ Nữth ắn - MẪU ở Việt NAM VÀCHẢU Á

khả năng sinh và nuôi con, tuồi thọ, sắc đẹp, sự thùy mị, tình yêu như Tây
Vương Mầu, Kim Huê, Thất Tinh Nương Nương, Lâm Thủy Phu Nhân, Cừu
Thiên Huyền Nữ, Thánh Anh La Sát. Những nữ thần có công tạo dựng trời
đất, các hiện tượng tự nhiên, quyết định số phận con người, vận mệnh phát
triển của cộng đồng: Nữ Oa, Địa Mầu, Ngũ Hành Nương Nương, Điện Mầu.
Có những vị Nữ thần ra đời ờ Trung Quốc từ rất sớm không còn được
người Trung Hoa thờ cúng nhưng vẫn còn được người Hoa ở thành phố Hồ
Chí Minh tín ngưỡng (Đẩu Mầu, Diêu Trì Kim Mầu). Điều này cho thấy,
văn hóa của một tộc người thường có sức sống mãnh liệt ở hài ngoại hơn tại
quê hương nó được sản sinh. Tín ngưỡng thờ Mau của người Hoa là sự hòa
lẫn của tư tưởng Phật giáo và tư tưởng Đạo giáo, Nho giáo.
Tín ngưỡng thờ Mầu đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
cộng đồng người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh với chức năng tâm lý - nâng
đỡ tinh thần cộng đồng lúc đến định cư ờ vùng đất mới có niềm tin vào cuộc
sống ngày càng tốt đẹp làm ăn phát đạt; chức năng cố kết cộng đồng bằng các
hoạt động chung của cộng đồng được tổ chức tại các cơ sờ thờ Nữ thần; chức
năng trao truyền văn hóa thông qua các lễ hội (là những ngày Vía của nữ
thần), những công trình kiến ữúc, di vật được bảo tồn tại cơ sờ tín ngưỡng.
Hệ thống tín ngưỡng thờ Mau của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy thờ Mầu là tín ngưỡng phổ quát của nhiều tộc người khác
nhau ở Việt Nam. Từ tín ngưỡng thờ Mầu có thể khái quát hệ giá trị đạo đức
của người Hoa đề cao giá trị gia đình, quan trọng việc sinh những đứa con
nối dõi tông đường, rất trọng chữ Hiếu của con cái đối với bố mẹ, đề cao
tính cộng đồng. Trong quá trình cộng cư với người Việt người Hoa đã tiếp
thu văn hóa Việt làm phong phú văn hóa tộc người mình (hình thức thờ Bà
Chúa Xứ).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh, Hội quán Tuệ Thành tổ chức lễ
Vía Bà Thiên Hậu 23-3 AL (ngày 24/4/2012),
http://www.bandantoc.hochiminhcity.gov.vn, Truy cập ngày 10-9-2012.
2. Võ Thanh Bằng (2005), Tín ngưỡng dân gian cùa người Hoa ở Nam
Bộ, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Dân tộc học, Viện Khoa học Xã hội
vùng Nam Bộ.
T ín ngưỡng thờ Mâu của người Hoa... 515

3. Võ Thanh Bằng (chủ biên) (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố
Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Lê Văn Cảnh (chủ biên) (2000), Miếu Thiên Hậu - Tuệ Thành Hội
quán, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Henri Maspero, Lê Diễn dịch (2000), Đạo giáo và các tôn giáo Trung
Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Huy (1993), Người Hoa tại Việt Nam, Paris.
7. Trần Hồng Liên (1998), “Góp phần tìm hiểu quá trình hình thành miếu
cổ của người Hoa ở Chợ Lớn” trong “Góp phần tìm hiểu lịch sử-văn
hóa 300 năm Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Trẻ Thành phố
Hồ Chí Minh, tr.557-467.
8. Trần Hồng Liên (2005), “Tục thờ cúng và lễ hội truyền thống của Bà
Thiên Hậu ờ Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tể” , Tham luận
Hội thảo Folklore Châu Ả, Viện Văn hóa dân gian.
9. Trần Hồng Liên (2005), Văn hóa người Hoa ở Nam bộ, Nxb Khoa học
Xã hội, Ha Nội.
10. Trần Hồng Liên (2010), Tìm hiểu chức năng xã hội cùa Phật giáo Việt
Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Trần Hạnh Minh Phương (2003), Giao lưu văn hóa Việt-Hoa qua các cơ
sở tín ngưỡng cùa người Hoa ở Thành phố Hồ Chỉ Minh, Luận văn Thạc
sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
12. RadcliíTe Brovvn (1952), Structure and Function in Primitive Society,
The Free Press Glencoe Illinois.
13. Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mau ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
14. Nguyễn Ngọc Thơ (2012), “Văn hóa tâm linh và phát triển: Tín ngưỡng
Thiên Hậu tại Nam Bộ Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội
Đà Nằng, tháng 6 /2012.
15. Thomas Baríield (1997), The Dictionary of Anthropology, Blackwell
Publisher, UK.

16. Phan Thị Yến Tuyết (2002), “Một số vấn đề giảng dạy và nghiên cứu
văn hóa đân gian đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chỉ Văn hóa
dân gian, số 2, năm 2002, Hà Nội.
516 V an Hó a th ờ N ữ t h ắ n - MẪU ở VlỆT NAM VÀ CHAU Á

17. Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh (1990), Chùa Hoa
Thành phố Hồ Chỉ Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Thị Hoa Xinh (1997), Tín ngưỡng và tôn giáo cùa người Hoa
ở Quảng Đông ở Thành phố Hồ Chỉ Minh, Luận án Phó Tiến sĩ Lịch
sử, Thành phố Hồ Chí Minh.

You might also like