You are on page 1of 5

KIỂM TOÁN: TẠP CHÍ THỰC

TIỄN & LÝ THUYẾT


Kỳ 35, số 2 Tháng 5 năm 2016
tr. 97–120

Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ DOI:


10.2308/ ajpt-51292
Quyết định chấp nhận khách hàng của các công ty kiểm toán:
Trình độ chuyên môn trong lĩnh vực đối tác có quan trọng
không?
Yu-Ting Hsieh
Đại học Quốc gia Cheng Kung
Chan-Jane Lin
Đại học Quốc gia Đài Loan

TÓM TẮT: Nghiên cứu này đánh giá xem liệu kiến thức chuyên môn trong ngành kiểm
toán viên có ảnh hưởng đến quyết định chấp nhận khách hàng của các công ty hay
không.
Phân tích các công ty niêm yết ở Đài Loan, nơi chữ ký của các audit partner được tiết lộ
trên báo cáo kiểm toán, chúng tôi thấy rằng các chuyên gia có chuyên môn trong ngành
ở cấp đối tác - thay vì các chuyên gia có chuyên môn ngành cấp công ty, thường ít có
khả năng chấp nhận khách hàng có rủi ro kiểm toán cao hơn. Có bằng chứng cho thấy
các chuyên gia trong ngành ở cấp độ đối tác ít có khả năng chấp nhận khách hàng có rủi
ro tài chính vượt trội. Điều này phù hợp với quan niệm rằng các chuyên gia trong ngành
cấp đối tác có động cơ thúc đẩy họ phải bảo vệ danh tiếng của bản thân khi đưa ra quyết
định chấp nhận khách hàng. Năm 2002, theo tinh thần của Đạo luật Sarbanes-Oxley
(SOX), Ủy ban Hợp đồng tương lai và Chứng khoán Đài Loan (SFB), đã thông qua một
loạt các quy tắc mới để cải thiện chất lượng kiểm toán.
Chúng tôi phân tích tác động của SOX đối với các quyết định chấp nhận của khách hàng
và kết quả chỉ ra rằng các Chuyên gia Cấp Đối Tác Trong Ngành quản lý rủi ro bằng
cách chấp nhận các khách hàng có ít rủi ro kiểm toán hơn, do rủi ro kiện tụng tăng lên
sau SOX.

Các từ khóa: Sự chuyên môn hóa cấp đối tác; Quyết định chấp nhận khách hàng; Kiểm
toán viên Big N.

GIỚI THIỆU
Các nghiên cứu chủ yếu kiểm tra xem kiểm toán viên có đánh giá các đặc điểm rủi ro
của khách hàng khi tiến hành quản lý danh mục đầu tư của khách hàng hay không, và
liệu kiểm toán viên có thay đổi cách quản lý danh mục đầu tư của họ để đáp ứng với
những thay đổi về trách nhiệm pháp lý hay không (Francis và Krishnan 2002; Choi,
Doogar và Ganguly 2004).
Trong những năm gần đây, các công ty kiểm toán đã và đang chú ý nhiều hơn đến các
quyết định chấp thuận khách hàng, nguyên do là vì sự gia tăng các rủi ro kiện tụng. Tuy
nhiên, có rất ít nghiên cứu xem xét đến tác động từ các đặc điểm của kiểm toán viên, so
với số nghiên cứu xem xét tới quy mô công ty kế toán.

Kiểm toán: Tạp chí Thực hành & Lý


thuyết Tập 35, Số 2, 2016
Cụ thể, các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng kiểm toán viên sử dụng kiến thức chuyên
môn trong ngành như một chiến lược quản lý rủi ro, nhằm mục đích giảm thiểu tác động
của rủi ro lên các quyết định quản lý danh mục đầu tư của khách hàng, bởi vì các chuyên
gia trong ngành cung cấp dịch vụ kiểm toán chất lượng cao, do đó giảm rủi ro kiện tụng
và phản ánh được mối quan hệ tốt giữa khách hàng và kiểm toán viên (Johnstone và
Bedard 2003; Cenker và Nagy 2008). Tuy nhiên, các công ty kiểm toán lại đầu tư rất
nhiều vào các lĩnh vực đặc thù, vì vậy các kiểm toán viên chuyên nghiệp có động cơ loại
bỏ bớt các khách hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro để tránh rủi ro kiện tụng và bảo vệ danh tiếng
của họ (Lee, Mande và Ortman 2004; Hertz 2006; Hsieh, Lin và Chang 2013). Chính vì
vậy, vấn đề cần thực nghiệm ở đây là liệu các công ty kiểm toán có sử dụng kiến thức
chuyên môn trong ngành như một chiến lược quản lý rủi ro để giảm thiểu tác động của
rủi ro hay không, và cần khám phá xem liệu chuyên môn hóa ngành có ảnh hưởng đến
mối liên hệ đến quyết định chấp nhận khách hàng hay không.
Tài liệu tập trung vào mối quan hệ giữa chuyên môn ngành -cấp công ty, -cấp thành phố
đối với các quyết định quản lý danh mục đầu tư của khách hàng (Cenker và Nagy 2008;
Hsieh et al. 2013). Trên thực tế, đối tác kiểm toán lập kế hoạch, tiến hành kiểm toán và
cuối cùng xác định loại báo cáo kiểm toán sẽ phát hành cho khách hàng. Bằng việc tiết
lộ tên của họ, các đối tác ký kết nhận thấy họ phải đối mặt với rủi ro cao hơn về tổn hại
danh tiếng và tổn thất tài chính. Danh tiếng của họ càng gặp rủi ro kể từ Đạo luật
Sarbanes-Oxley (SOX), do các quy định mới và việc tăng cường giám sát các đối tác ở
Đài Loan. Do đó, chúng tôi đề xuất rằng chuyên môn hóa ngành cấp đối tác là một đơn
vị phân tích phù hợp hơn so với chuyên môn hóa ngành cấp thành phố hoặc công ty
trong môi trường của chúng tôi.

Chúng tôi cảm ơn những người tham gia “Hội nghị thường niên năm 2012 của Hiệp hội kế toán hàn lâm
châu Á” tại Kyoto, Nhật Bản và “Hội nghị châu Á Thái Bình Dương lần thứ 25 năm 2013 về các vấn đề
kế toán quốc tế” tại Bali, Indonesia vì những nhận xét hữu ích.
Ghi chú của biên tập viên: Được chấp nhận bởi Debra C. Jeter, dưới quyền biên tập cấp cao của W. Robert
Knechel.
Nộp: Tháng 7 năm 2013
Chấp nhận: tháng 9 năm 2015
Xuất bản trực tuyến: Tháng 9 năm 2015
97

Kiểm toán: Tạp chí Thực hành & Lý


thuyết Tập 35, Số 2, 2016
98 Hsieh và Lin

Với bối cảnh là tại Đài Loan, nơi các báo cáo kiểm toán sẽ trích dẫn tên của hai đối tác
kiểm toán (Lead audit partner và Concurring audit partner) cùng tên của công ty, nghiên
cứu này điều tra xem liệu tác động của chuyên môn hóa ngành ở cấp đối tác có khác với
tác động của chuyên môn hóa ngành ở cấp công ty khi xem xét rủi ro trong các quyết
định chấp nhận khách hàng.
1 Chúng tôi mô hình hóa các quyết định chấp nhận của khách hàng như là một function
của các yếu tố rủi ro kiểm toán và tài chính cụ thể của khách hàng, kiến thức chuyên
môn về ngành kiểm toán viên và các biện pháp kiểm soát khác nhau. Phân tích các
khách hàng Đài Loan đã niêm yết của các công ty kiểm toán Big N từ năm 1999 đến
2010,
2 chúng tôi nhận thấy rằng các chuyên gia trong ngành cấp đối tác ít có khả năng chấp
nhận các khách hàng có rủi ro kiểm toán cao, hơn là các chuyên gia trong ngành cấp
công ty

Những điều này gợi ý rằng các chuyên gia trong ngành cấp đối tác có động cơ để bảo vệ
danh tiếng của họ. Phát hiện của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu trước đây (ví dụ:
Chin và Chi 2009; Chi và Chin 2011), chỉ ra rằng chuyên môn hóa ngành là một hiện
tượng ở cấp độ đối tác. Những phát hiện như vậy cũng có ý nghĩa đối với các nhà quản
lý luật pháp. Trong khi tiến hành điều tra, các cơ quan quản lý có thể chú ý nhiều hơn
đến các cam kết kiểm toán từng được thực hiện bởi những đối tượng “chuyên gia trong
ngành không phải đối tác” vì khách hàng mới có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn.
Chúng tôi kiểm tra thêm tác động của SOX và nhận thấy rằng các chuyên gia cấp đối tác
trong ngành ít có khả năng chấp nhận khách hàng có rủi ro kiểm toán cao hơn do rủi ro
kiện tụng đã tăng lên kể từ SOX, cho thấy rằng rủi ro kiện tụng là một yếu tố quan trọng
trong quyết định chấp nhận khách hàng của các chuyên gia cấp đối tác trong ngành.
Chúng tôi cũng xem xét tác động của việc tái cấu trúc Ernst & Young (EY) tại Đài Loan
vào năm 2007, dẫn đến một cuộc cạnh tranh kinh hoàng đối với một số lượng lớn khách
hàng đã chuyển đổi kiểm toán viên cùng một lúc, đối với các quyết định chấp nhận của
khách hàng.3 Chúng tôi thấy rằng đối tác - các chuyên gia cấp ngành ít có khả năng chấp
nhận các khách hàng rủi ro trong giai đoạn trước tái cấu trúc (2002–2006) và sau tái cấu
trúc (2007–2010).
Nghiên cứu của chúng tôi đóng góp vào tài liệu về kiến thức chuyên môn trong ngành
kiểm toán viên theo những cách sau.
Đầu tiên, chúng tôi mở rộng các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào mối liên hệ
giữa chuyên môn trong ngành kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán (Balsam,
Krishnan, và Yang 2003; Krishnan 2003; Chin và Chi 2009; Reichelt và Wang 2010;
Chi và Chin 2011) để xem xét liệu ngành các chuyên gia thể hiện các sở thích rủi ro
khác nhau trong các quyết định chấp nhận của khách hàng. Ngoài ra, phát hiện của
chúng tôi rằng các chuyên gia trong ngành cấp đối tác có nhiều khả năng chấp nhận các

Kiểm toán: Tạp chí Thực hành & Lý


thuyết Tập 35, Số 2, 2016
khách hàng ít rủi ro hơn có thể giải thích một phần kết quả trước đó rằng các chuyên gia
trong ngành có khách hàng chất lượng hơn (Minutti-Meza 2013). Thứ hai, sử dụng mẫu
các công ty niêm yết ở Đài Loan - nơi có thể xác định được các đối tác kiểm toán, chúng
tôi điều tra xem liệu các cấp chuyên gia trong ngành khác nhau (cấp công ty và cấp đối
tác) có hành động khác nhau trong các quyết định chấp nhận của khách hàng hay không.
Cuối cùng, nghiên cứu này bổ sung thêm tính nhân văn bằng cách điều tra tác động của
rủi ro kiện tụng trong bối cảnh trách nhiệm pháp lý thấp hơn ở Hoa Kỳ. 4 Chúng tôi thấy
rằng các chuyên gia trong ngành cấp đối tác trở nên thận trọng hơn khi rủi ro kiện tụng
tăng lên, thậm chí ở khi ở trong một chế độ tố tụng thấp hơn.
Phần còn lại của nghiên cứu này tiến hành như sau. Trong phần thứ hai, chúng tôi tiến
hành Tổng quan lý thuyết và phát triển các giả thuyết của chúng tôi. Trong phần thứ ba,
chúng tôi mô tả thiết kế thực nghiệm của chúng tôi. Trong phần thứ tư, chúng tôi trình
bày các kết quả thực nghiệm và phân tích độ nhạy. Trong phần thứ năm, chúng tôi đưa
ra kết luận và thảo luận về những hạn chế.

Kiểm toán: Tạp chí Thực hành & Lý


thuyết Tập 35, Số 2, 2016

You might also like