You are on page 1of 60

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
BÀI TẬP HỌC KÌ
GIẢNG VIÊN: TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI

DANH SÁCH NHÓM 1

STT HỌ TÊN MSSV

1 Đỗ Minh Tường An 2253801090001

2 Trịnh Tuấn Anh 2253801090007

3 Trương Đình Thế Anh 2253801090008

4 Phạm Thị Thu Hằng 2253801090028

5 Võ Nguyễn Gia Hoà 2253801090030

6 Lê Hồ Nguyên Khang 2253801090036

7 Đặng Duy Luân 2253801090046

8 Dương Thanh Ngân 2253801090049

9 Bùi Thanh Nghi 2253801090054

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 BLDS Bộ luật Dân sự
2 UBND Ủy ban nhân dân
Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022
3 Quyết định số 09
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018
4 Quyết định số 44 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh
Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012
5 Quyết định số 182
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008
6 Quyết định số 377
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013
7 Quyết định số 08
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa
8 Bản án số 2493
án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh.
Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của
9 Quyết định số 26
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Quyết định số 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021
10 Quyết định số 533
của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
11 Quyết định số 619 Quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011.
12 Quyết định số 767 Quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011.
Quyết định số 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012
13 Quyết định số 194
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013
14 Quyết định số 363
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT...................................................................................i
BÀI TẬP 1................................................................................................................ 1
Vấn đề 1: Căn cứ xác lập đại diện..........................................................................1
1.1.1. Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện.........2
1.1.2. Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho Ngân hàng là đại diện theo
pháp luật hay đại diện theo ủy quyền? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời........................ 4
Vấn đề 2: Hoàn cảnh của người được đại diện......................................................5
1.2.1. Cho biết kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý trường hợp
đại diện không hợp lệ, nhất là việc khai thác lý thuyết “đại diện bề ngoài/apparent
agent”? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết......................................5
1.2.2. Trong Quyết định số 09, Hội đồng thẩm phán theo hướng Ngân hàng phải
chịu trách nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Trên cơ sở các quy
định về đại diện hiện nay, anh/chị cho biết hướng như vừa nêu của Hội đồng thẩm
phán có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................... 6
Vấn đề 3: Hoàn cảnh của người đại diện...............................................................6
1.3.1. Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có phải chịu trách nhiệm đối với
giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện không? Vì sao?..................6
1.3.2. Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, có cần thiết đưa ông H1
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?................................................7
1.3.3. Cho biết suy nghĩ của anh/chị đối với hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng
thẩm phán (về vai trò của người đại diện).................................................................8
Vấn đề 4: Quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện...........8
1.4.1. Trong pháp luật nước ngoài, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Nêu ít nhất một hệ
thống pháp luật mà anh/chị biết.................................................................................8
1.4.2. Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Vì sao?................9
1.4.3. Trong Quyết định số 44, theo Tòa giám đốc thẩm, người ủy quyền có được tự
xác lập giao dịch đã ủy quyền cho người khác không? Đoạn nào của Quyết định cho
câu trả lời?...............................................................................................................10
1.4.4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người được đại diện tự xác lập,
thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện (phân tích đối với đại
diện theo pháp luật và đối với đại diện theo ủy quyền)............................................11
BÀI TẬP 2..............................................................................................................12
Vấn đề 1: Hình thức sở hữu tài sản......................................................................12
2.1.1. Những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 về hình thức
sở hữu tài sản...........................................................................................................14
2.1.2. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là
Quyết định 377) cho câu trả lời?..............................................................................17
2.1.3. Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở hữu
riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?........................18
2.1.4. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung
của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết
định 377 cho câu trả lời?..........................................................................................18
2.1.5. Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao?.......................................................................................................................... 18
2.1.6. Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể di
chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời.............19
Vấn đề 2: Diện thừa kế..........................................................................................19
2.2.1. Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
không? Vì sao?........................................................................................................19
2.2.2. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi
trên có khác không? Vì sao?....................................................................................19
2.2.3. Trong vụ việc này, chị Hương có được chia phần di sản của ông Lưu không?
Vì sao?..................................................................................................................... 20
2.2.4. Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối
với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời...........................20
2.2.5. Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người
thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao?..............21
Vấn đề 3: Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.........................21
2.3.1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn
bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?..........................................................................21
2.3.2. Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?...........21
2.3.3. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?...............................................................................22
2.3.4. Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?....22
2.3.5. Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 đồng triệu thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?.............................................................................22
2.3.6. Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm
có được chấp nhận không? Vì sao?..........................................................................23
2.3.7. Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho
thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?.....................................23
2.3.8. Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?............23
2.3.9. Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên của
cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?..........................................24
2.3.10. Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc không ? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? 24
2.3.11. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án..........................25
2.3.12. Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao
động? Vì sao?..........................................................................................................26
2.3.13. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản........27
2.3.14. Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà,
trước khi chết, Ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu
thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không?...........29
2.3.15. Đối với hoàn cảnh như câu trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh thế nào? 30
2.3.16. Suy nghĩ của/anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả
hợp đồng tặng cho...................................................................................................30
Vấn đề 4: Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản..............................................31
2.4.1. Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.....................................................................................................31
2.4.2. Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................................................31
2.4.3. Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành không?...........................................................................................................32
2.4.4. Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi
còn nhỏ đến khi trưởng thành?................................................................................32
2.4.5. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải
trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi
dưỡng con chung không?.........................................................................................32
2.4.6. Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản,anh/chị
hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án..................................................................33
2.4.7. Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá
cố khi họ còn sống?.................................................................................................33
2.4.8. Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?.................................34
2.4.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối
quan hệ với các quy định về nghĩa vụ tài sản của người quá cố).............................34
2.4.10. Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ nào của
ông Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của ông
Định (ông Lĩnh và bà Thành)?.................................................................................34
2.4.11. Đoạn nào của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những người
thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ thuộc vào việc
những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa? Hướng như
vậy của Tòa án có thuyết phục không, vì sao?.........................................................35
2.4.12. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để
lại di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời................................................................................................36
2.4.13. Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã đến hạn
thực hiện chưa? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?.....................................37
2.4.14. Vì sao Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của
người quá cố vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ được
tiến hành năm 2019? Hướng của Tòa án như vậy có thuyết phục không, vì sao?....37
2.4.15. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào có quy định riêng về thời hiệu yêu
cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản như pháp
luật Việt Nam hiện nay không?...............................................................................39
2.4.16. Thông qua Quyết định năm 2021, suy nghĩ của anh/chị về tính thuyết phục
của quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người để lại di sản (có nên giữ lại hay không?).......................................................39
BÀI TẬP 3..............................................................................................................41
3.1.1. Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc
(về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ)..........................................43
3.1.2. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định
không? Vì sao?........................................................................................................44
3.1.3. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ hình
thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?.........................................44
3.1.4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03 quyết
định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.......................45
3.1.5. Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có
điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?...............................................45
3.1.6. Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở
Việt Nam?................................................................................................................ 45
3.1.7. Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng..46
3.1.8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên
luật hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?). 46
BÀI TẬP 4..............................................................................................................47
4.1.1. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân
chia di sản?..............................................................................................................47
4.1.2. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di
sản đã được Tòa án chấp nhận?...............................................................................47
4.1.3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản
trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và về
nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản...........................................................47
4.1.4. Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản.................48
4.1.5. Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa
thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?...................................48
4.1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Án lệ số 24/2018/AL...............................................................................................49
BÀI TẬP 5..............................................................................................................50
5.1.1. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ
phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?......................................50
5.1.2. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục
không? Vì sao?........................................................................................................50
5.1.3. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công
sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?...................................................50
Danh mục tài liệu tham khảo..................................................................................ii
BÀI TẬP 1
VẤN ĐỀ 1: CĂN CỨ XÁC LẬP ĐẠI DIỆN
Tóm tắt Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh” giữa nguyên đơn là bà Đinh Thị T
khởi kiện bị đơn là Ngân hàng A.
Ngày 20/7/2011, bà T ký kết hợp đồng cho Công ty M.N vay tiền dưới sự bảo
lãnh của ngân hàng A. Hết thời hạn vay, Công ty M.N không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán như thỏa thuận nên bà T đã yêu cầu Ngân hàng A trả nợ thay. Tuy nhiên,
bà không nhận được bất kỳ khoản tiền nào nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc
Ngân hàng A phải thực hiện nghĩa vụ. Bị đơn cho rằng không biết về Thư bảo lãnh
nêu trên và cho rằng Thư bảo lãnh này đã được phát hành trái thẩm quyền và trái
pháp luật, do đó bị đơn từ chối thực hiện trách nhiệm bảo lãnh, đề nghị tòa án đưa
ông H1 (nguyên giám đốc chi nhánh T.H) buộc ông thực hiện nghĩa vụ đối với bà
T.
Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của bà T, buộc ngân hàng A thanh toán số tiền cho bà T. Ngân hàng A kháng
cáo bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm. Tòa cấp cao quyết định hủy bản án sơ
thẩm và bản án phúc thẩm, giao lại hồ sơ vụ án xét xử lại sơ thẩm theo quy định. Bà
T kháng nghị đòi xem xét lại quyết định giám đốc thẩm. Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao kháng nghị đề nghị hủy bản án giám đốc thẩm nếu trên và giữ nguyên bản
án phúc thẩm. Tòa án quyết định hủy bản ăn giảm đốc thẩm và giữ nguyên bản án
phúc thẩm.

Tóm tắt Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam - Chi
nhánh Đồng Nai khởi kiện bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn N – Đ – C.
Nguyên đơn và bị đơn có ký một hợp đồng tín dụng có nội dung chính bao
gồm việc nguyên đơn cho bị đơn vay một khoản tiền, mục đích vay, thời hạn, lãi
suất và tài sản thế chấp. Sau khi nguyên đơn thực hiện thỏa thuận thì sau này bên bị
đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Bên nguyên đơn yêu cầu thanh toán, nếu
không thể thanh toán thì yêu cầu dùng các tài sản thế chấp. Bị đơn không có ý kiến,
đồng ý thanh toán tiền cho nguyên đơn. Nhưng trong phần tài sản thế chấp thì có
một phần đất không có sự đồng ý của những người có quyền, nghĩa vụ liên quan
nên không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn muốn dùng phần tài sản đó để thế

1
chấp. Tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều đồng ý với yêu cầu của những người có quyền,
nghĩa vụ liên quan mà không xem xét, điều tra đến việc tài sản này không phải tài
sản chung mà là phần tài sản của bà T, người đã ký vào hợp đồng thế chấp bảo lãnh,
nên bà hoàn toàn có quyền đối với phần tài sản này.
Tòa án chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hủy một phần Bản án phúc thẩm của
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và một phần bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân
huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Giao vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Trảng
Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử lại theo đúng quy định pháp luật.

Câu 1.1.1. Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại
diện.
BLDS năm 2015 BLDS năm 2005
Cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác (khoản 2 Điều 139).
Chủ thể BLDS năm 2005 có “chủ thể
Cá nhân, pháp nhân (khoản 2 Điều
quan hệ khác” vì BLDS năm 2015
134).
đại diện không ghi nhận tổ hợp tác và
hộ gia đình với tư cách chủ
thể như BLDS năm 2005.
Đại diện là việc một người
(sau đây được gọi là người đại
diện) nhân danh và vì lợi ích
Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân
của người khác (sau đây gọi là
(sau đây gọi chung là người đại diện)
người được đại diện) xác lập,
nhân danh và vì lợi ích của cá nhân
thực hiện giao dịch dân sự
Pháp hoặc pháp nhân khác (sau đây được
trong phạm vi đại diện.
nhân gọi chung là người được đại diện) xác
Người đại diện phải có năng
đại diện lập, thực hiện giao dịch dân sự (Điều
lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
134).
trường hợp quy định tại khoản
Pháp nhân có thể đại diện cho cá nhân
2 Điều 143 của Bộ luật này.
và pháp nhân khác.
Không thừa nhận khả năng
đại diện của pháp nhân (Điều
139).
Số Một người hay nhiều người cùng đại Một người (Điều 139).
người diện.

2
đại diện
Trường hợp pháp luật quy định thì Người người đại diện phải có
Năng
người đại diện phải có năng lực pháp năng lực hành vi dân sự đầy
lực của
luật dân sự, năng lực hành vi dân sự đủ, trừ trường hợp quy định
người
phù hợp với giao dịch dân sự được tại khoản 2 Điều 143, khoản 5
đại diện
xác lập, thực hiện (khoản 3 Điều 134). Điều 139.
Phân loại dựa vào cả căn cứ xác lập
Phân loại dựa vào tiêu chí căn
quyền và chủ thể đại diện:
Phân cứ xác lập quyền (theo pháp
 Đại diện theo pháp luật của cá nhân
loại đại luật hay theo ủy quyền):
 Đại diện theo pháp luật của pháp
diện  Đại diện theo pháp luật
nhân
 Đại diện theo ủy quyền
 Đại diện theo ủy quyền
Bỏ qua quy định về hình thức (vì nếu Hình thức ủy quyền do các
Hình có quy định buộc ủy quyền theo một bên thỏa thuận, trừ trường
thức ủy hình thức nhất định thì các quy định hợp pháp luật quy định việc
quyền chung về giao dịch dân sự đã buộc ủy quyền phải lập thành văn
phải tuân thủ). bản (khoản 2 Điều 142).
Giao dịch dân sự do người đại diện
xác lập, thực hiện với người thứ ba
phù hợp với phạm vi đại diện làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ đối với người
được đại diện.
Người đại diện có quyền xác lập, thực
Hậu
hiện hành vi cần thiết để đạt được mục Người được đại diện có
quả
đích của việc đại diện. quyền, nghĩa vụ phát sinh từ
pháp lý
Trường hợp người đại diện biết hoặc giao dịch dân sự do người đại
của
phải biết việc xác lập hành vi đại diện diện xác lập
hành vi
là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe (khoản 4 Điều 139).
đại diện
dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực
hiện hành vi thì không làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ đối với người được
đại diện, trừ trường hợp người được
đại diện biết hoặc phải biết về việc
này mà không phản đối.
Thời Thời hạn đại diện được xác định theo Quy định thời hạn 01 năm chỉ
hạn đại văn bản ủy quyền, theo quyết định của đối với đại diện theo ủy

3
cơ quan có thẩm quyền, theo lệ của
diện và pháp nhân hoặc theo quy định của
hành vi pháp luật. quyền.
đại diện Đại diện theo ủy quyền cũng như đại
diện theo pháp luật.
Không nhập hai trường hợp vào trong
Không một điều luật
có Không có quyền đại diện: Điều 142 Không có quyền đại diện
quyền của BLDS năm 2015 đã sửa từ “đồng (Điều 142 BLDS năm 2005).
đại diện ý” thành cụm từ “công nhận giao
dịch” và bổ sung thêm hai trường hợp.
Vượt quá phạm vi đại diện (Điều 143)
Quy định thêm trường hợp: người
Vượt Vượt quá phạm vi đại diện.
được đại diện có lỗi dẫn đến việc
quá Chỉ quy định hai trường hợp
người đã giao dịch không biết hoặc
phạm vi ngoại lệ để công nhận phần
không thể biết về việc người đã xác
đại diện vượt quá phạm vi đại diện.
lập, thực hiện giao dịch dân sự với
mình vượt quá phạm vi đại diện

Câu 1.1.2. Trong Quyết định số 09, việc ông H1 đại diện cho Ngân hàng là đại
diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Ông H1 đại diện cho Ngân hàng A là đại diện theo ủy quyền.
BLDS năm 2015 quy định như sau về việc cá nhân đại diện cho pháp nhân:
Điều 137. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
1. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:
a) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
b) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
2. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi
người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều
141 của Bộ luật này.

Điều 138. Đại diện theo ủy quyền


1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2. Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền

4
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên
hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
3. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người
đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do
người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.
Ông H1 là Giám đốc Ngân hàng A - Chi nhánh T.H. Như vậy, theo cơ sở pháp
lý trên và theo Quyết định số 09, ông H1 được Ngân hàng A ủy quyền và từ đó trở
thành đại diện theo ủy quyền của Ngân hành A tại Chi nhánh T.H.

VẤN ĐỀ 2: HOÀN CẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC ĐẠI DIỆN


Tóm tắt Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
Vụ án tranh chấp tài sản gắn liền quyền sử dụng đất của nguyên đơn là bà Nga
khởi kiện bị đơn là ông Tùng về nguồn gốc 3127m2 đất và tài sản trên đất của cụ
Dung và cụ Cầu (cha mẹ bà Nga) để lại. Năm 1972, cụ Dung chết. Năm 1976, cụ
Cầu chết. Cả hai đều không để lại di chúc. Khối tài sản trên do ông Tùng là người
bà con trong họ quản lý. Bà Nga khởi kiện ông Tùng phải trả lại đất cho bà. Tại
phiên tòa sơ thẩm, Tòa án không nhận nền móng nhà và tài sản gắn liền trên
3127m2 đất là của bà Nga, chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nga về đòi hiện vật,
buộc vợ chồng ông Tùng phải trả cho bà Nga nền móng nhà gắn liền với diện tích
đất 2108m2. Tại phiên tòa phúc thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà
Nga, công nhận diện tích 3127m2 đất và tài sản gắn liền trên đất của bà Nga, buộc
ông Tùng phải trả lại giá trị giếng nước và giá trị đất. Quyết định của Hội đồng
giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao: hủy bản án dân sự phúc thẩm
và bản án dân sự sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Câu 1.2.1. Cho biết kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý
trường hợp đại diện không hợp lệ, nhất là việc khai thác lý thuyết “đại diện bề
ngoài/apparent agent”? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
BLDS Nhật Bản Quốc quy định như sau trong việc xử lý trường hợp đại diện
không hợp lệ:
(Ủy quyền bề ngoài do thể hiện việc cấp ủy quyền)
Điều 109. Một người đã biểu hiện cho bên thứ ba rằng anh ta/cô ta đã
cấp cho người khác một số quyền đại diện nhất định sẽ chịu trách nhiệm cho bất kỳ
hành động nào do người khác đó thực hiện với bên thứ ba trong phạm vi quyền đó,
trừ khi bên thứ ba biết hoặc phải biết rằng người đó không được cấp quyền đại
diện. (Quyền hành động vượt quá quyền hạn)

5
(Ủy quyền bề ngoài liên quan tới những hành vi vượt quá phạm vi ủy
quyền)
Điều 110. Quy định tại Điều 109 sẽ áp dụng tương tự trong trường hợp
người được cấp quyền đại diện thực hiện bất kỳ hành vi vượt quá phạm vi ủy quyền
của mình và bên thứ ba có lý do chính đáng để tin rằng người này đang thực hiện
hành vi trong phạm vi được ủy quyền.
Có thể thấy, BLDS Nhật Bản đã quy định trong trường hợp bên thứ ba có lý
do chính đáng để tin rằng người đại diện có thẩm quyền thì bên ủy quyền sẽ vẫn
phải chịu trách nhiệm đối với mọi hành vi của người đại diện, dù cho người đó thực
hiện hành vi trong hay ngoài phạm vi được ủy quyền.

Câu 1.2.2. Trong Quyết định số 09, Hội đồng thẩm phán theo hướng Ngân
hàng phải chịu trách nhiệm đối với bảo lãnh do ông H1 đại diện xác lập. Trên
cơ sở các quy định về đại diện hiện nay, anh/chị cho biết hướng như vừa nêu
của Hội đồng thẩm phán có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trên cơ sở các quy định về đại diện hiện nay, hướng như vừa nêu của Hội
đồng thẩm phán là thuyết phục
Cơ sở pháp lý: khoản 3 Điều 139 BLDS năm 2015:
“Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là
do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp
người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối”.
Trong trường hợp này, Ngân hàng A - Chi nhánh T.H đã xác nhận thư bảo
lãnh của bà T, từ đó biết hoặc phải biết về việc xác lập xác lập hành vi bảo lãnh của
ông H1. Ngân hàng A không hề phản đối việc này. Do đó Ngân hàng phải chịu
trách nhiệm đối với hành vi của ông H1.

VẤN ĐỀ 3: HOÀN CẢNH CỦA NGƯỜI ĐẠI DIỆN


Câu 1.3.1. Trong pháp luật hiện hành, người đại diện có phải chịu trách nhiệm
đối với giao dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện không? Vì sao?
Trong pháp luật hiện hành, người đại diện phải chịu trách nhiệm đối với giao
dịch do mình xác lập với tư cách là người đại diện trong trường hợp giao dịch dân
sự do người đại diện xác lập, thực hiện quá phạm vi đại diện.
Bởi vì giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện thực chất là để
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trên cơ sở nhân danh và
vì lợi ích của người được đại diện trong quá trình xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự theo quy định của pháp luật tại Điều 134 BLDS năm 2015. Do đó, về mặt

6
nguyên tắc, giao dịch dân sự được thực hiện bởi người đại diện chỉ có hiện lực nếu
giao dịch được thực hiện trong phạm vi đại diện. Nếu giao dịch vượt quá phạm vi
đại diện thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện mà đồng
thời buộc người đại diện phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ với người đã giao
dịch nhằm bảo vệ quyền lợi của người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt
quá phạm vi đại diện. Trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc
vượt quá phạm vi mà vẫn giao dịch, được quy định tại khoản 2 Điều 143 BLDS
năm 2015:
2. Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện
vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại
diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì
người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần
giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc
phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Mặt khác, trong trường hợp người đại diện cố ý thông đồng với người thứ ba để xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho
người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được đại diện, được quy định tại khoản 4
Điều 143 BLDS năm 2015:
4. Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho
người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.

Câu 1.3.2. Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, có cần thiết đưa
ông H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định số 09, theo Hội đồng thẩm phán, không cần thiết đưa ông
H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
vụ án. Đoạn của Quyết định có câu trả lời là:
Thư bảo lãnh do ông H ký với tư cách là Giám đốc Ngân hàng A - Chi
nhánh T.H, có đóng dấu của Ngân hàng A – Chi nhánh T.H nên Thư bảo lãnh là
văn bản do Ngân hàng A phát hành, trong đó ông H1 chỉ ký với tư cách là người
đại diện của Ngân hàng A. Do đó, Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định việc giải
quyết yêu cầu khởi kiện của bà T có liên quan đến trách nhiệm của ông H1 trong
việc ký thư bảo lãnh nên cần thiết đưa ông H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không phù hợp với các quy
định của pháp luật.

7
Câu 1.3.3. Cho biết suy nghĩ của anh/chị đối với hướng giải quyết nêu trên của
Hội đồng thẩm phán (về vai trò của người đại diện).
Hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán là chính xác. Trong trường
hợp này, Luật Doanh nghiệp năm 2020 có quy định như sau về vai trò của người đại
diện:
Điều 15. Trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền của chủ sở hữu,
thành viên, cổ đông công ty là tổ chức
1. Người đại diện theo ủy quyền nhân danh chủ sở hữu, thành viên, cổ
đông công ty thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông tại
Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông theo quy định của Luật này. Mọi hạn
chế của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông đối với người đại diện theo ủy quyền trong
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông công ty tương
ứng tại Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông đều không có hiệu lực đối với
bên thứ ba.
2. Người đại diện theo ủy quyền có trách nhiệm tham dự đầy đủ cuộc
họp Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông; thực hiện quyền và nghĩa vụ được
ủy quyền một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất, bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ
sở hữu, thành viên, cổ đông cử đại diện.
3. Người đại diện theo ủy quyền chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu,
thành viên, cổ đông cử đại diện do vi phạm trách nhiệm quy định tại Điều này. Chủ
sở hữu, thành viên, cổ đông cử đại diện chịu trách nhiệm trước bên thứ ba đối với
trách nhiệm phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ được thực hiện thông qua
người đại diện theo ủy quyền.
Ở khoản 1 điều trên đã nêu: “Mọi hạn chế của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông
đối với người đại diện theo ủy quyền trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ
sở hữu, thành viên, cổ đông công ty tương ứng tại Hội đồng thành viên, Đại hội
đồng cổ đông đều không có hiệu lực đối với bên thứ ba”. Có thể thấy ở đây bên thứ
ba là bà T không thể yêu cầu Tòa đưa ông H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và hướng xử lý của Tòa là hợp lý.

VẤN ĐỀ 4: QUYỀN TỰ XÁC LẬP, THỰC HIỆN GIAO DỊCH THUỘC


PHẠM VI ĐẠI DIỆN
Câu 1.4.1. Trong pháp luật nước ngoài, người được đại diện có quyền tự xác
lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Nêu
ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
Việc người được đại diện có quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi
đại diện của người đại diện hay không được quy định trong BLDS Cộng hòa Pháp.

8
Điều 1159 Trong trường hợp thẩm quyền đại diện được xác lập theo quy
định của pháp luật hoặc theo quyết định của tòa án thì trong thời hạn đại diện,
người được đại diện không có các quyền hạn đã được trao cho người đại diện.
Hệ thống pháp luật Pháp quy định ba trường hợp đại diện là đại diện theo luật,
đại diện tư pháp và đại diện theo thỏa thuận tại Điều 1153. Như vậy Điều 1159 sẽ
áp dụng trong trường hợp đại diện theo pháp luật và đại diện tư pháp và khi đó
người được đại diện không có quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi
đại diện của người đại diện1.

Câu 1.4.2. Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có quyền tự xác
lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện không? Vì
sao?
Trong pháp luật hiện hành, người được đại diện có còn quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch hay không thì văn bản ở nước ta chưa rõ ràng và thực tiễn thể hiện sự
lúng túng. Nhưng căn cứ dựa trên mục đích ra đời của hai loại chế định đại diện,
theo tìm hiểu của nhóm chúng tôi2, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện. Dựa vào những lý do sau:
Thứ nhất, chế định đại diện theo pháp luật ra đời vì có những trường hợp
người được đại diện không thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự;
không có khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Cơ sở pháp lý:
Điều 136. Đại diện theo pháp luật của cá nhân
1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu
được Tòa án chỉ định.
3. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được
người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự.

Điều 137. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
1. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:
a) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;

1
Đỗ Văn Đại (2023), “Quyền của người được đại diện trong việc xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi
của người đại diện”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
2
Đỗ Văn Đại (2023), tlđd (chú thích số 1).

9
b) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
2. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi
người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều
141 của Bộ luật này.
Thứ hai, chế định đại diện theo uỷ quyền được xác lập trên cơ sở ý chí của
người được đại diện và người đại diện. (Điều 138 BLDS năm 2015). Cũng giống
như đại diện theo pháp luật, trong trường hợp này, người đại diện nhân danh và vì
lợi ích của người được đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Nhưng
chế định đại diện theo uỷ quyền ra đời dựa trên cơ sở: Vì một lý do nào đó mà các
pháp nhân, cá nhân không thể tự mình tham gia các giao dịch dân sự hoặc những cá
nhân, tổ chức này không muốn tự mình tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự. Tức là, trong phạm vi đại diện của người đại diện có thể có những giao dịch
mà người được đại diện tự làm, nhưng họ vẫn có quyền uỷ quyền cho người khác
xác lập, thực hiện. Do vậy, người được đại diện có quyền tự xác lập, thực hiện giao
dịch thuộc phạm vị đại diện của người đại diện theo uỷ quyền. Ở Việt Nam, BLDS
năm 2015 quy định theo hướng “Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa
người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền)”
(Điều 135 BLDS năm 2015) nên đại diện theo ủy quyền khác với đại diện theo pháp
luật ở việc đại diện theo ủy quyền được hình thành trên cơ sở ý chí của người được
đại diện và, để đại diện có thể được thực hiện, việc ủy quyền này phải được người
đại diện đồng ý. Do đó, đại diện theo ủy quyền ở Việt Nam thực chất là đại diện
được hình thành trên cơ sở thỏa thuận.

Câu 1.4.3. Trong Quyết định số 44, theo Tòa giám đốc thẩm, người ủy quyền
có được tự xác lập giao dịch đã ủy quyền cho người khác không? Đoạn nào của
Quyết định cho câu trả lời?
Trong quyết định số 44, theo Tòa giám đốc thẩm, người ủy quyền vẫn có
quyền được tự xác lập giao dịch đã ủy quyền cho người khác dựa theo đoạn sau:
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm còn nhận định rằng vào
ngày 09/9/2010, cụ Nguyễn Thị T đã lập hợp đồng ủy quyền cho ông T2 toàn quyền
sử dụng nhà đất với thời hạn 05 năm, trong khi hợp đồng ủy quyền chưa chấm dứt
thì cụ Nguyễn Thị T đã ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh là không đúng với Điều 122
Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Do cụ Nguyễn Thị T là chủ sở hữu nhà đất nêu trên nên dù cụ T có ủy quyền cho
ông T2 toàn quyền sử dụng thì cũng không làm hạn chế hoặc làm mất đi quyền về
tài sản theo quy định của pháp luật của cụ T.

10
Câu 1.4.4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người được đại diện tự
xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện (phân
tích đối với đại diện theo pháp luật và đối với đại diện theo ủy quyền).
Đối với chế định đại diện theo pháp luật, theo nhóm chúng tôi, gần như không
có khả năng cho những chủ thể được đại diện tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc
phạm vi đại diện của người người đại diện. Vì người được đại diện theo pháp luật là
nhóm chủ thể yếu thế hoặc họ không được hoặc không thể tự tham gia vào các giao
dịch. Khi đó họ cần có người đại diện khi muốn hoặc cần phải thực hiện một giao
dịch nào đó mà pháp luật không cho họ quyền được tự tham gia, thực hiện. Như vậy
sẽ đảm bảo được quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người được đại diện, tránh
những hậu quả pháp lý bất lợi cho họ. Đối với pháp nhân sẽ đảm bảo được việc vận
hành xuyên suốt và phục vụ cho hoạt động hằng ngày của pháp nhân. Về ngoại lệ là
trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 24 BLDS năm 2015 có thể được lí giải
bởi dựa vào điều kiện để Tòa án ra quyết định tuyên bố thì hạn chế năng lực hành vi
dân sự là mức độ nhẹ nhất đối với người có vấn đề về năng lực hành vi dân sự (so
với người mất năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi). Vì thế, việc không cho người được đại diện khả năng tự xác lập, thực
hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật là hoàn toàn
thuyết phục.
Đối với chế định đại diện theo ủy quyền, đây là đại diện được xác lập trên cơ
sở sự ủy quyền đối với người đại diện và người được đại diện theo ý chí của hai
bên. Việc không muốn tự tham gia vào các giao dịch dân sự là hoàn toàn phụ thuộc
vào ý chí của người được đại diện. Đối với các tổ chức không có tư cách pháp nhân,
một hộ gia đình hoặc một tổ hợp tác có nhiều thành viên, tổ viên do đó sẽ là bất khả
thi nếu như toàn thể những thành viên của hộ gia đình hay tổ hợp tác đều phải tham
gia vào tất cả các giao dịch dân sự nhằm mục đích sản xuất kinh doanh của hộ gia
đình hay tổ hợp tác đó. Ngoài ra người đại diện theo ủy quyền không bắt buộc phải
là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, quy định tại khoản 3 Điều 138 BLDS
năm 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người
đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do
người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện”. vì thông thường người được
đại diện là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (ngoại lệ là người đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi). Do vậy, về bản chất những người được đại diện vẫn có khả
năng tự xác lập, thực hiện giao dịch thuộc phạm vi đại diện của người đại diện theo
ủy quyền. Những quy định như trên cho thấy sự thỏa đáng trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người được đại diện.

11
BÀI TẬP 2
VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN
Tóm tắt Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
Vụ án “tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là bà Cao Thị Xê khởi
kiện bị đơn là chị Võ Thị Thu Hương và anh Nguyễn Quốc Chinh.
Ông Võ Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết hôn ngày 26/10/1964 và có 1
con là chị Võ Thị Thu Hương. Sau ngày giải phóng miền Nam, ông vào miền Nam
sinh sống, còn mẹ con bà Thẩm vẫn ở lại Phú Thọ. Ngày 07/10/1994, ông nhận
chuyển nhượng 110m2 đất và cất nhà ở. Ngày 21/10/1996, ông làm thủ tục đăng ký
kết hôn với bà Cao Thị Xê và chung sống với bà tới trước khi ông chết (năm 2003).
Trước khi chết, ông Lưu để lại di chúc cho bà Xê hưởng toàn bộ tài sản gồm căn
nhà và các vật dụng khác bên trong. Bị đơn không đồng ý với bản di chúc, và yêu
cầu tòa phân chia tài sản thừa kế theo pháp luật.
Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Xê,
quyết định bà Xê được hưởng toàn bộ tài sản có trong di chúc. Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao nhận định rằng quyết định của Tòa không đảm bảo quyền lợi cho
bà Thẩm (vợ hợp pháp của ông Lưu), qua đó kháng nghị đề nghị xét xử giám đốc
thẩm hủy bản án phúc thẩm nêu trên. Tòa án quyết định hủy bản án phúc thẩm và sơ
thẩm.

Tóm tắt Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn là bà Phạm Thị Ơn khởi kiện bị đơn là bị đơn là bà Lý Thị Chắc.
Cụ Huệ có tạo lập một căn nhà là 48,8m2 trên diện tích 921,4m2 đất, có giấy
chứng nhận do Sở xây dựng tỉnh Tiền Giang cấp. Trước khi chết, cụ Huệ để lại di
chúc cho ông Hà (con cụ Huệ). Ông Hà chết, không để lại di chúc. Theo thỏa thuận,
bà Ơn (vợ ông Hà) được thừa kế toàn bộ tài sản này. Nhưng thực tế, bà Chắc được
cụ Thiệu (mẹ đẻ cụ Huệ) cho ở nhờ rất lâu trong ngôi nhà này nên bà Chắc không
đồng ý trả lại nhà đất cho bà Ơn và yêu cầu được công nhận đây là tài sản của bà.
Bà Ơn yêu cầu bà Chắc dọn đi nơi khác và trả lại nhà. Tòa án sơ thẩm - phúc thẩm
không chấp nhận yêu cầu của bà Chắc.Viện kiểm sát kháng nghị, chỉ rõ những sai
sót của Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm. Đồng thời xem xét lại về quyền lợi của bà
Chắc trong công sức quản lí và bảo vệ nhà đất. Tại Quyết định của Tòa án nhân dân
tối cao: Hủy bản án sơ thẩm - phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân
huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử.

12
Tóm tắt Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp.
Hồ Chí Minh.
Bản án tranh chấp giữa phía nguyên đơn gồm bà Nguyễn Thị Khót, ông An
Văn Tâm và bị đơn là ông Nguyễn Tài Nhật.
Cụ Khánh có 3 người con là bà Khót, ông Tâm và ông Nhật. Di sản cụ để lại
là căn nhà nằm trong phạm vi giải toả nên được bồi thường 1.847.491.000 đồng,
trong đó có 36.615.000 đồng tiền bồi thường và hỗ trợ vật chất kiến trúc. Nhưng bà
Khót tự nguyện xác định ông Nhật đã xây dựng nhà với giá trị 47.491.000 đồng. Vì
vậy di sản cụ Khánh để lại là số tiền 1,8 tỷ đồng.
Theo di chúc, toàn bộ căn nhà cụ để lại cho ông Nhật. Nhưng vì thời điểm mở
thừa kế, bà Khót (71 tuổi) và ông Tâm (61 tuổi và là thương binh 2/4) cho rằng bản
thân không còn khả năng lao động nên yêu cầu hưởng thừa kế theo quy định của
pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cụ thể là 400
triệu đồng mỗi người. Còn ông Nhật cho biết ông mua căn nhà, để cho cụ Khánh
đứng tên và không đồng ý với yêu cầu của các nguyên đơn.
Toà nhận định căn nhà do cụ Khánh mua là tài sản riêng của cụ. Việc ông
Nhật cho rằng ông và cụ Khánh hùn tiền mua là không có cơ sở bởi trong giấy bán
nhà, tờ uỷ quyền nhà và di chúc của cụ đều không đề cập. Ngoài ra, theo tờ uỷ
quyền nhà của cụ Khánh thì ông Nhật chỉ là được trọn quyền sử dụng căn nhà chứ
không có quyền định đoạt nên vẫn thuộc sở hữu của cụ Khánh. Còn về yêu cầu của
ông Tâm, bà Khót, toà nhận định không có khả năng lao động là không có căn cứ.
Hơn nữa, từ trước đến nay, ông Tâm và bà Khót có đời sống kinh tế độc lập.
Toà xác định di sản của cụ Khánh là giá trị quyền sử dụng đất căn nhà quận 2,
TP.HCM bằng 1,8 tỷ đồng và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của phía nguyên
đơn.

Tóm tắt Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn gồm ông Nguyễn Hoàng Vũ, bà Nguyễn Thị Kim Oanh và bà
Nguyễn Thị Kim Dung khởi kiện bị đơn là ông Nguyễn Hồng Vân
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được chia tài sản do cụ Phúc và cụ Thịnh để lại
sau khi hai cụ chết gồm nhà và đất số 708 Ngô Gia Tự do vợ chồng ông Vân đang
quản lý. Cụ Phúc không để lại di chúc nhưng có nguyện vọng chia đều tài sản cho
các con. Ngày 8/5/2006 cụ Thịnh vẫn tỉnh táo và có viết tay bản di chúc có xác nhận
của UBND phường Ninh Xá, di chúc cho ông Vân thừa kế 1/2 căn nhà, đất số 708
Ngô Gia Tự và phần tài sản cụ Thịnh được hưởng từ cụ Phúc. Ông Vân chỉ đồng ý
trả tiền cho ông Vi và ông Vũ còn phần của bà Oanh, bà Dung, bà Thu thì không trả

13
với lý do ông đã trả cho các bà rồi. Xét thấy sự sai sót trong việc giải quyết nên Tòa
giám đốc thẩm quyết định hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm, giao lại hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc ninh xét xử lại.

Tóm tắt Quyết định số 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân
dân TP. Hồ Chí Minh.
Ông Nguyễn Văn Hởi, bà Nguyễn Thị Hồng Vân, ông Huỳnh Công Lĩnh và
bà Trần Thị Bông Thành là người yêu cầu người có quyền và lợi ích liên quan: Yue
Limited, người đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị Đ. Những người yêu cầu yêu
cầu hủy Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 101/19 HCM của Hội đồng Trọng tài
thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam lập ngày 02/12/2020. Bởi vì họ bị liên
đới phải thanh toán một khoản tiền, nên họ gửi đơn kiện yêu cầu hủy bỏ. Nhưng
những lập luận mà họ đưa ra, Tòa án không chấp nhận vì cho rằng nó không phù
hợp với quy định của pháp luật. Tòa ra Quyết định không hủy Phán quyết Trọng tài.

Câu 2.1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở
hữu tài sản.
Về số lượng hình thức sở hữu tài sản:
BLDS năm 2005 có 6 hình thức sở hữu tài sản: sở hữu nhà nước; sở hữu tập
thể; sở hữu tư nhân; sở hữu chung; sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội; sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp.
BLDS năm 2015 rút lại chỉ còn 3 hình thức sở hữu tài sản: sở hữu toàn dân; sở
hữu riêng; sở hữu chung.

Hình thức sở hữu toàn dân:


Hình thức “sở hữu nhà nước” trong BLDS năm 2005 được thay đổi thành hình
thức “sở hữu toàn dân” trong BLDS năm 2015, nhấn mạnh yếu tố “thuộc sở hữu
toàn dân” theo đúng tinh thần của Hiến pháp 2013.
Định nghĩa của “sở hữu toàn dân” được rút ngắn đáng kể ở BLDS năm 2015.
Điều 200 BLDS năm 2005 quy định:
Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự
nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước,
tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng
trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc
các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc
phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định.

14
Điều 197 BLDS năm 2015 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài
sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.”
Quy định tại Điều 203 BLDS năm 2005 giới hạn phạm vi thực hiện quyền sở
hữu của Nhà nước là chỉ đối với tài sản được đầu tư vào “doanh nghiệp nhà nước”.
Tuy nhiên, quy định tại Điều 200 BLDS năm 2015 đã mở rộng phạm vi này đối với
tài sản được đầu tư vào “doanh nghiệp” nói chung.
Khoản 1 Điều 203 BLDS năm 2005 quy định: “Khi tài sản thuộc hình thức sở
hữu nhà nước được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước thì Nhà nước thực hiện
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp.”
Khoản 1 Điều 200 BLDS năm 2015 quy định: “Khi tài sản thuộc sở hữu toàn
dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu
đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, quản lý, sử dụng
vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và quy định khác
của pháp luật có liên quan”.
Điều 203 BLDS năm 2015 đã bỏ đi điều kiện “trong trường hợp pháp luật có
quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” của Điều 206 BLDS
năm 2005. Ngoài ra cũng thay đổi đối tượng “doanh nghiệp, hộ gia đình, tổ hợp tác”
trong BLDS năm 2005 thành “pháp nhân”.
Điều 206 BLDS năm 2005 quy định:
Trong trường hợp pháp luật có quy định và được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép, doanh nghiệp, hộ gia đình, tổ hợp tác và cá nhân được sử
dụng đất, khai thác nguồn lợi thủy sản và tài nguyên khác thuộc hình thức sở hữu
nhà nước và phải sử dụng, khai thác đúng mục đích, có hiệu quả, thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Điều 203 BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân được sử dụng đất,
khai thác nguồn lợi thủy sản, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản khác thuộc sở
hữu toàn dân đúng mục đích, có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà
nước theo quy định của pháp luật.”

Hình thức sở hữu riêng:


Hình thức “sở hữu tư nhân” trong BLDS năm 2005 được thay đổi thành hình
thức “sở hữu riêng” trong BLDS năm 2015. Điều 211 về sở hữu tư nhân và Điều
212 về tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân của BLDS năm 2005 được gộp thành
Điều 205 của BLDS năm 2015 về sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng.

15
Điều 212 BLDS năm 2005 liệt kê cụ thể những tài sản thuộc hình thức sở hữu
tư nhân, trong khi Điều 205 BLDS năm 2015 đã bỏ qua yếu tố này.

Về hình thức sở hữu chung:


BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm Điều 212 về sở hữu chung của các thành
viên trong gia đình:
1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do
các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác
lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên
gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài
sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của
gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành
niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung
theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp
quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.
Quy định về sở hữu chung của vợ chồng tại Điều 213 BLDS năm 2015 cũng
thêm một khoản mới so với Điều 219 BLDS năm 2005: “Trường hợp vợ chồng lựa
chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.”
Quy định về định đoạt tài sản chung tại Điều 218 BLDS năm 2015 có vài điểm
thay đổi so với Điều 223 BLDS năm 2005:
Tại khoản 1 đã bỏ ý “theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật” đối
với quyền định đoạt của mỗi chủ sở hữu.
Tại khoản 3, Điều 218 BLDS năm 2015 đã thêm ý “Việc thông báo phải được
thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống
như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung”.
Điều 218 BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm 2 khoản so với Điều 223 BLDS
năm 2005:
5. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ
phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế
thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.
6. Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối
với tài sản chung thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định tại
Điều 228 của Bộ luật này.

16
Quy định về chia tài sản thuộc sở hữu chung trong BLDS năm 2015 đã thêm ý
“Trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác” so với BLDS năm 2005.
Khoản 1 Điều 224 BLDS năm 2005 quy định:
Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung
đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận
không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có
quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể
chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia.
Khoản 1 Điều 219 BLDS năm 2015 quy định:
Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có
quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì
trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định
của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết
thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu
chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp
các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.

Câu 2.1.2. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong
thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau
đây viết gọn là Quyết định 377) cho câu trả lời?
Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm. Trích trong phần nhận định của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao như sau: “Tuy căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và
bà Thẩm…”
Ngoài ra, trong phần “Xét thấy” có dẫn chứng sau: “Căn nhà số 150/6A Lý
Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập
trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm, nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào
miền Nam công tác và căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông”.

Câu 2.1.3. Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà
hay sở hữu riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
Theo bà Thẩm, căn nhà trên là thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà. Trích dẫn
trong Quyết định 377: “còn bà Thẩm cho rằng căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt
trên diện tích 101m2 đất là tài sản chung của vợ chồng bà nên không nhất trí theo
yêu cầu bà Xê”.

17
Câu 2.1.4. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở
hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn
nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu riêng của
ông Lưu. Trích dẫn trong nhận định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao như sau:
Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh
Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm.Thực tế, từ
năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác, nhưng giữa ông Lưu và bà
Thẩm có kinh tế riêng và ông Lưu đứng tên riêng đối với nhà đất trên do ông Lưu
tự tạo lập và là tài sản riêng của ông Lưu, cho thấy bà Thẩm không có đóng góp về
kinh tế cũng như công sức tạo lập nên ông Lưu có quyền định đoạt với căn nhà nêu
trên.

Câu 2.1.5. Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao?
Nhóm chúng tôi đồng tình với quyết định của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao, nhưng không đồng tình với hướng lập luận của Tòa để dẫn đến quyết định trên.
Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản
chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết
hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

Có thể thấy, căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà
Thẩm. Do đó, căn nhà là tài sản chung của 2 ông bà, và việc ông Lưu di chúc để lại
cho bà Xê toàn quyền sử dụng toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, đồ dùng trong căn nhà
là không hợp lý.
Lập luận của Tòa đã không chú ý đến khía cạnh tài sản chung, mà hướng đến
việc bà Thẩm thuộc diện thừa kế không thuộc nội dung di chúc và công sức nuôi
con chung của bà. Theo nhóm, sự thiếu sót về yếu tố tài sản chung sẽ làm giảm
những quyền lợi mà bà Thẩm xứng đáng được hưởng.

18
Câu 2.1.6. Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông
Lưu có thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý
khi trả lời.
Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu không
thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này. Căn cứ khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000:
1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung.
Theo đó, ông Lưu và bà Thẩm có quyền ngang nhau trong việc định đoạt căn
nhà. Do đó, ông Lưu không thể để lại duy chúc cho bà Xê tòa quyền sử dụng căn
nhà, mà ông chỉ có quyền định đoạt đối với ½ giá trị căn nhà đó.

VẤN ĐỀ 2: DIỆN THỪA KẾ


Câu 2.2.1. Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
ông Lưu không? Vì sao?
Bà Thẩm và chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu vì bà Thẩm
là vợ hợp pháp của ông, chị Hương là con của ông.
Bà Xê không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu vì bà không phải vợ
hợp pháp của ông Lưu, hôn nhân giữa bà Xê và ông Lưu là trái quy định của pháp
luật.

Câu 2.2.2. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời
cho câu hỏi trên có khác không? Vì sao?
Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì lúc này, bà Xê vẫn
được xem là vợ hợp pháp của ông và thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu theo
khoản a Điều 4 Nghị quyết số 02/HĐTP về việc Áp dụng một số quy định của pháp
lệnh thừa kế do Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành.
4. Về những người thừa kế theo pháp luật
a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 -
ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày
25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất
trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau
khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có
hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của
người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả
các người vợ.

19
Câu 2.2.3. Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu
không? Vì sao?
Trong vụ việc này, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu. Dù chị
Hương là con ông nhưng lại không được ông nhắc đến trong di chúc. Tuy khoản 1
Điều 644 BLDS năm 2015 đã bảo vệ quyền lợi những người không được nhắc đến
trong di chúc nhưng chị Hương lại không thuộc diện của Điều 644 BLDS năm
2015:
Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp
luật,trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ
cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

Câu 2.2.4. Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền
sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời.
Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm người để lại di chúc mất thì di chúc sẽ
được mở thừa kế và sau đó sẽ làm các thủ tục chuyển quyền sở hữu cho người được
hưởng thừa kế.
Căn cứ cơ sở pháp lý tại khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015 quy định về thời
điểm, địa điểm mở thừa kế:
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp
Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác
định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
Tuy nhiên, tại thời điểm mở thừa kế người thừa kế phải còn sống hoặc sinh ra
và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm người để
lại di sản chết. Căn cứ cơ sở pháp lý tại Điều 613 BLDS năm 2015:
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa
kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước
khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá
nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Câu 2.2.5. Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào
người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì
sao?

20
Tại Quyết định số 08, những người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu đất
tranh chấp tại thời điểm sau khi ông Hà chết 12/5/2008. Do sau khi người để lại di
sản (ông Hà) chết thì người thừa kế có quyền và nghĩa vụ đối với di sản đó theo quy
định tại Điều 613 BLDS năm 2015 về người thừa kế.

VẤN ĐỀ 3: THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI


CHÚC
Câu 2.3.1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di
chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?
Đoạn của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài
sản của ông Lưu cho bà Xê:
Bà Cao Thị Xê được hưởng thừa kế theo di chúc ngày 27/7/2002 do ông
Võ Văn Lưu viết gồm các tài sản nhà và đất tọa lạc tại số 150/6A Lý Thường Kiệt,
phường 6, thành phố Mỹ Tho đã được ghi nhận tại biên bản xác minh đo đạc ngày
26/5/2005 của Toà án nhân dân thành phố Mỹ Tho gồm: 01 căn nhà và đất có diện
tích 116,64m2 cấu trúc nhà mái tole, nền gạch men, vách tường (02 vách nhỏ),
không khu phụ, không trần, 01 bàn gỗ chữ Y có 04 ghế đai, 01 tủ áo 02 buồng bằng
thao lao(1m X 1,8m X 0,5m). Tổng trị giá nhà và đất và tài sản tủ bàn ghế
379.085.094 đồng.

Câu 2.3.2. Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không?
Vì sao?
Căn cứ theo Điều 669 BLDS năm 2005:
Thứ nhất, bà Xê đã được nêu rõ trong di chúc của ông Lưu rằng bà Xê sẽ được
hưởng toàn bộ di sản của ông Lưu. Đồng thời, hôn nhân của bà Xê với ông Lưu là
quan hệ hôn nhân bất hợp pháp cho nên bà Xê không thuộc diện được thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc được nêu trong quy định này.
Thứ hai, bà Thẩm thuộc diện được thừa kế không phụ thuộc không thuộc nội
dung di chúc. Vì quan hệ hôn nhân của bà Thẩm và ông Lưu vẫn là quan hệ hôn
nhân hợp pháp (hai người kết hôn năm 1964). Thứ ba, chị Hương ở thời điểm mở
thừa kế, chị là con đã thành niên và có khả năng lao động. Nên chị Hương không
thuộc diện được thừa kế không phụ thuộc không thuộc nội dung di chúc.
Câu 2.3.3. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của
ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

21
Theo Tòa dân sự Toà án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu vì bà Thẩm là
vợ hợp pháp của ông Lưu và không còn khả năng lao động.
Trích trong Quyết định ở đoạn: “Tuy nhiên, bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của
ông Lưu đã già yếu, không còn khả năng lao động, theo quy định tại Điều 669
BLDS năm 2005 thì bà Thẩm được thừa kế tài sản của ông Lưu mà không phụ
thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu”.

Câu 2.3.4. Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu?
Vì sao?
Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì vẫn được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu. Bởi tại Điều
669 BLDS năm 2005 chỉ quy định là vợ của người để lại di sản thì sẽ thuộc nhóm
người thừa kế không phụ thuộc nội dung của di chúc, không có quy định nào nhắc
đến yếu tố người vợ phải già yếu hoặc không có khả năng lao động.
Vì vậy, dù bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì bà vẫn là vợ hợp
pháp của ông Lưu do đó bà đủ điều kiện để được hưởng thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc.

Câu 2.3.5. Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 đồng triệu thì bà Thẩm sẽ
được hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
Do hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu có 2 người: chị Hương và bà Thẩm.
Nên giả sử chia thừa kế theo pháp luật thì một suất thừa kế là:
600.000.000 : 2 = 300.000.000 đồng.
Tuy nhiên vì chị Hương không nằm trong diện được hưởng theo nội dung di
chúc hay người thừa kế bắt buộc. Và chỉ bà Thẩm là người thừa kế bắt buộc nên
dựa theo Điều 669 BLDS năm 2005 bà Thẩm sẽ được hưởng:
300.000.000 x ⅔ = 200.000.000 đồng.
Do vậy, bà Thẩm thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc và bà được hưởng 200 triệu đồng.

Câu 2.3.6. Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của
bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?
Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm
vẫn được chấp nhận nếu di sản của ông Lưu có thể chia được bằng hiện vật. Tuy
Điều 669 BLDS năm 2005 không quy định rõ về vấn đề người thừa kế không phụ

22
thuộc di chúc có được hưởng thừa kế bằng hiện vật hay không, mà chỉ nêu: “Được
hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật”.
Thế nhưng ta vẫn có thể căn cứ vào khoản 2 Điều 685 BLDS năm 2005 về phân
chia di sản theo pháp luật: “Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản
bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể
thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thoả thuận về người nhận hiện vật; nếu
không thoả thuận được thì hiện vật được bán để chia”. Điều đó có nghĩa là khi di
sản có thể được chia bằng hiện vật thì người thừa kế được hưởng bằng hiện vật nếu
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc yêu cầu được nhận bằng
hiện vật.

Câu 2.3.7. Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của
bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
Trong Bản án có các đoạn sau cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con
của cụ Khánh:
Tại phần “Nhận thấy” có nêu:
Cụ Nguyễn Thị Khánh có 3 người con là bà Nguyễn Thị Khót sinh năm
1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1932 (bà Khót, ông Tâm là con của cụ Khánh và
cụ An Văn lâm chết năm 1938) và ông Nguyễn Tài Nhật chết năm 1980 (ông Nhật
là con của cụ Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt chết năm 1973).
Tại phần “Xét thấy” có nêu:
Mặc dù các đương sự không xuất trình được giấy khai sinh một cách đầy
đủ nhưng đều thống nhất xác nhận các con của cụ Khánh là bà Khót, ông Tâm và
ông Nhật đồng thời xác nhận cha mẹ của cụ Khánh chết trước cụ Khánh từ rất lâu.
Căn cứ điều 679 của BLDS 1995, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ
Khánh gồm: bà Khót, ông Tâm, ông Nhật.

Câu 2.3.8. Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
Ông Nguyễn Tài Nhật (con của cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ Nguyễn Tài
Ngọt) là người được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp.
Câu trả lời nằm trong phần “Xét thấy” của Bản án: “Ngày 30/5/1992 tại Phòng
công chứng nhà nước số 2, Thành phố Hồ Chí Minh cụ khánh lập di chúc cho ông
Nhật là người duy nhất được hưởng thừa kế căn nhà 83 Lương Định Của, phường
An Khánh, quận 2”.

Câu 2.3.9. Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã
thành niên của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

23
Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm là con đã thành niên của cụ
Khánh. Các đoạn của bản án cho câu trả lời:
“Bà Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929 ông An Văn Tâm Sinh năm 1932. Cụ
Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt có một con là ông Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930.
Năm 2000 cụ Khánh chết”;
“Tại thời điểm mở thừa kế thì bà Khót đã 71 tuổi còn ông Tâm đã 68 tuổi ...”
Cơ sở pháp lý cho câu trả lời Điều 18 BLDS năm 2005 (Điều 20 BLDS năm
2015) quy định về con đã thành niên: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người
thành niên”.

Câu 2.3.10. Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không ? Đoạn nào của bản án cho
câu trả lời?
Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Các đoạn của bản án cho câu trả lời là:
Tại phần “Xét thấy” có nêu:
Xét theo yêu cầu của ông Tâm, bà Khót về việc được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc do không có khả năng lao động vì tại
thời điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông Tâm đã 68 tuổi, tại Điều 140, 145
của Bộ luật lao động 1994 quy định độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15
đến 60 tuổi đối với nam và từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ. Như vậy, pháp luật không
giới hạn tuổi tối đa được tham gia các quan hệ lao động mà việc tham gia các quan
hệ lao động tùy thuộc vào thể lực, trí lực và tinh thần của từng người. Do đó độ
tuổi lao động là cơ sở xác định người hết độ tuổi lao động để hưởng các chế độ đãi
ngộ chứ không phải là căn cứ để xác định một người không còn khả năng lao động.
Các nguyên đơn cũng không xuất trình được chứng cứ chứng minh tại thời điểm mở
thừa kế họ là những người không còn khả năng lao động. Hơn nữa, ông Tâm và bà
Khót có đời sống kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót có gia
đình, có tài sản riêng, bản thân bà hàng tháng còn được hưởng chế độ chính sách
của Nhà nước; còn ông Tâm tuy là thương binh 2/4, bị suy giảm khả năng lao động
62% nhưng ông cũng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của Nhà nước hàng tháng
nên Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà Khót,
ông Tâm.
Tại phần “Quyết định” có nêu “2/ Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà
Nguyễn Thị Khót và ông An Văn Tâm”.

24
Câu 2.3.11. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo nhóm chúng tôi, hướng giải quyết trên của Tòa án còn vấn đề khúc mắc,
cụ thể là đối với yêu cầu của nguyên đơn là bà Khót:
Trước hết, theo Điều 669 BLDS năm 2005 (khoản 1 Điều 644 BLDS năm
2015) quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc:
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật,
trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho
hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối
nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền
hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Trong Bản án này, thì bà Khót và ông Tâm là con đã thành niên của cụ Khót
như đã xác định của cụ Khánh. Nhưng bà Khót và ông Tâm có rơi vào trường hợp
“không có khả năng lao động” để được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc không? “Hiện nay theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chưa có
khái niệm nào quy định về việc mất khả năng lao động. Nhưng ở đây ta có thể hiểu
được mất khả năng lao động là tình trạng người lao động không còn đủ điều kiện về
sức khoẻ để tiếp tục tham gia quan hệ lao động theo quy định của pháp luật.” 3
Về bà Khót, Toà án đã lập luận
...độ tuổi lao động là cơ sở xác định người hết tuổi lao động để được
hưởng các chế độ đãi ngộ chứ không phải là căn cứ để xác định một người không
còn khả năng lao động” và “Các nguyên đơn cũng không xuất trình được chứng cứ
chúng minh tại thời điểm mở thừa kế họ là những người không có khả năng lao
động. Hơn nữa, từ trước đến nay ông Tâm, bà Khót có đời sống kinh tế độc lập
không phụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót có gia đình, có tài sản riêng, bản thân bà
hàng tháng còn được hưởng chế độ chính sách của nhà nước theo diện người có
công với cách mạng khoảng 400.000 đồng.
Tuy nhiên nếu như luật sư của bà Khót phát biểu đúng sự thật rằng: “tại thời
điểm mở thừa kế thì bà Khót đã 71 tuổi lại mang nhiều bệnh tật trong người như
huyết áp, tiểu đường, năm 2006 bà bị té và nằm liệt cho đến nay, không có khả năng
lao động” thì nhóm chúng tôi không đồng ý với hướng giải quyết của Toà, lập luận
này chưa thực sự thuyết phục, chưa đảm bảo quyền lợi cho bà Khót. Xét về lý, pháp
luật không có quy định rõ ràng nên việc công nhận bà Khót mất đi khả năng lao
3
Lê Thị Hằng, “Mất khả năng lao động là gì? Quy định pháp luật về mất, giảm khả năng lao động”,
https://luatminhkhue.vn/mat-kha-nang-lao-dong-la-gi---quy-dinh-ve-mat-kha-nang-lao-dong.aspx

25
động sẽ không có cơ sở. Nhưng xét về tình, bà hoàn toàn không đi lại được và mất
đi một nguồn thu nhập cho gia đình của bà. Hơn nữa mỗi tháng bà chỉ nhận được
400.000 đồng thì liệu rằng số tiền có đủ để trang trải cuộc sống hằng ngày trong khi
bà đã tuổi cao, còn bị liệt người. Làm sao bà có thể lao động để có thu nhập? Vậy
nên, theo nhóm thì Toà nên công nhận cho bà Khót đã mất khả năng lao động để bà
được hưởng thừa kế của cụ Khánh không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì mới
thuyết phục.
Còn ông Tâm thì chỉ mất đi 62% sức lao động nhưng ông cũng đã được hưởng
chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng ông lãnh hơn 2.000.000 đồng. Theo
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao không định nghĩa nhưng đưa ra một số trường hợp được coi là “mất khả năng
lao động”. Đó là trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại do bị liệt cột sống,
mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở
lên. Vì vậy, Toà án không công nhận cho ông Tâm là người mất khả năng lao động,
từ đó không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu về người được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc. Theo nhóm chúng tôi, quan điểm này là hoàn toàn
thuyết phục.

Câu 2.3.12. Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85%
sức lao động? Vì sao?
Hướng giải quyết sẽ khác khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động.
Trong trường hợp này ông Tâm sẽ được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào di
chúc.
Cơ sở pháp lý:
Điều 669 BLDS năm 2005 (Điều 644 BLDS năm 2015) quy định người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc:
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật,
trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho
hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối
nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền
hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Tiểu mục 1.4 mục 1 phần II của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì để được
xác định là “người không có khả năng lao động” thì: (1) Họ phải rơi vào các trường

26
hợp bị: “liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp
khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động
vĩnh viễn từ 81% trở lên (2) Và cần có người thường xuyên chăm sóc”.
Theo giả định trên, ông Tâm bị suy giảm khả năng lao động đến 85% nên ông
thuộc vào trường hợp do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm
khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên được quy định trong Nghị quyết 03.
Bên cạnh đó, từ thời điểm mở thừa kế ông Tâm đã 68 tuổi, là con đã thành niên mà
không còn khả năng lao động. Ông Tâm sẽ được hưởng phần di sản bằng hai phần
ba suất của một người thừa kế theo pháp luật tức 400 triệu đồng theo quy định của
khoản 2 Điều 669 BLDS năm 2005 (điểm b khoản 1 Điều 644 BLDS năm 2015).

Câu 2.3.13. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài
sản.
Điểm giống nhau:
 Thể hiện ý chí tự do định đoạt của chủ sở hữu;
 Đều là việc bên này chuyển giao tài sản hoặc quyền sở hữu tài sản cho bên
kia mà không cần phải yêu cầu đền bù.
Điểm khác nhau:
Tiêu chí Di chúc Tặng cho tài sản
Chủ thể Cá nhân Cá nhân, pháp nhân
“Là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên tặng cho tài sản
“Là sự thể hiện ý chí của cá nhân
của mình và chuyển quyền sở
Khái nhằm chuyển tài sản của mình cho
hữu cho bên được tặng cho mà
niệm người khác sau khi chết” (Điều 624
không yêu cầu đền bù, bên
BLDS 2015).
được tặng cho không đồng ý
nhận.” (Điều 457 BLDS 2015).
Phương
Thể hiện qua hợp đồng tặng
thức thể Ghi nhận bằng di chúc hợp pháp
cho tài sản
hiện
Đặc điểm Là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí
Thể hiện ý chí đơn phương của một song phương giữa người cho và
người định đoạt tài sản của cá nhân người được tặng và họ phải còn
của mình cho những người thừa kế. sống tại thời điểm cho – nhận
tài sản.
Người thừa kế thường là người thân Người được tặng cho thường là

27
của người lập di chúc. một người không thân thích.
Những người được thừa kế không Những người thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung di chúc vẫn phụ thuộc vào nội dung của di
được hưởng 2/3 của 1 suất thừa kế chúc không được phép đòi chia
theo pháp luật. di sản đã được tặng cho.
Tài sản hiện có, đang tồn tại
Tài sản hiện có hoặc tài sản được
Tài sản chứ không phải tài sản được
hình thành trong tương lai.
hình thành trong tương lai.
Hợp đồng tặng cho có thể là
tặng cho động sản (Điều 458
Di chúc được tạo lập có thể là di BLDS năm 2015) hoặc tặng
chúc bằng văn bản (Điều 628 cho bất động sản (Điều 459
BLDS năm 2015) và di chúc miệng BLDS năm 2015). Việc tặng
Hình
(Điều 629 BLDS năm 2015). Ngoài cho bất động sản phải được lập
thức
ra, di chúc còn cần phải được công thành văn bản có công chứng,
nhận là hợp pháp qua các yêu cầu chứng thực hoặc phải đăng ký,
trong Điều 630 BLDS năm 2015. nếu bất động sản phải đăng ký
quyền sở hữu theo quy định
của luật.
Nếu hợp đồng tặng cho là động
sản: Có hiệu lực kể từ thời
điểm bên được tặng cho nhận
được tài sản (Khoản 2 Điều
458 BLDS năm 2015);
Nếu hợp đồng tặng cho là bất
Người thừa kế chỉ được nhận di sản động sản: Phải lập thành văn
Thời
sau khi người lập di chúc bản có công chứng, chứng thực
điểm có
chết. hoặc phải đăng ký và có hiệu
hiệu lực
lực kể từ thời điểm đăng ký,
nếu bất động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu thì hợp
đồng tặng cho có hiệu lực kể từ
thời điểm chuyển giao tài sản
(khoản 2 Điều 459 BLDS năm
2015). 
Quyền Người lập di chúc có thể tự mình Việc tặng cho không thể tùy

28
tiện sửa đổi, trừ trường hợp
của người được tặng cho không
người sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc bất thực hiện đúng những nghĩa vụ
chuyển cứ lúc nào. của người tặng cho giao phó thì
giao tài bên tặng cho có quyền đòi lại
sản tài sản và yêu cầu bồi thường
thiệt hại.
Người được tặng cho không
Những người hưởng thừa kế có
phải hoàn trả một lợi ích hay
Thực trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài
thực hiện một nghĩa vụ tài sản
hiện sản trong phạm vi di sản do người
nào trừ trường hợp hợp đồng
nghĩa vụ chết để lại, trừ trường hợp có thỏa
tặng cho là hợp đồng tặng cho
tài sản thuận khác (khoản 1 Điều 615
tài sản có điều kiện (Điều 462
BLDS năm 2015).
BLDS năm 2015).

Câu 2.3.14. Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di
chúc mà, trước khi chết, Ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản
của ông Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như
trên không?
Theo Điều 612 BLDS năm 2015, “di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”, khi ông Lưu làm
hợp đồng tặng cho bà Xê tài sản của mình thì phần tài sản đó sẽ không còn thuộc
quyền sở hữu của ông.
Căn cứ Điều 612 nói trên, khi ông chết, tài sản đó sẽ không được xem là di
sản. Do đó, trong trường hợp ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản
của ông trước khi chết và bà Xê đồng ý nhận tài sản thì bà Thẩm sẽ không được
hưởng một phần di sản của ông Lưu.
Vì theo BLDS năm 2015, nếu ông Lưu định đoạt tài sản của ông cho bà Xê
bằng di chúc trước khi chết thì bà Thẩm vẫn có thể vận dụng Điều 644 BLDS năm
2015 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, để được
hưởng một phần di sản của ông Lưu. Tuy nhiên do ông làm hợp đồng tặng cho bà
Xê mà BLDS năm 2015 lại không có quy định nào đề cập tới vấn đề tương tự như
Điều 644, bà Thẩm sẽ không được hưởng một phần di sản của ông Lưu.

Câu 2.3.15. Đối với hoàn cảnh như câu trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh
như thế nào?

29
Một số hệ thống pháp luật ở nước ngoài đã phòng hờ trường hợp này như Bỉ, Pháp,
Tây Ban Nha. Ở hệ thống này, lưu sản “được thể hiện như một giới hạn đối với tự
do định đoạt bằng di chúc hay tặng cho”.
Khi có người thừa kế bắt buộc, những tặng cho và di chúc sẽ có hiệu lực
khi việc bảo lưu được tôn trọng. Thừa kế bắt buộc có quyền giảm những định đoạt
được thực hiện khi người để lại di sản còn sống cũng như những định đoạt trong di
chúc nếu việc định đoạt vượt quá mức cho phép.
Tương tự như vậy trong pháp luật Ba Lan, pháp luật Italia: Lưu sản (hay thừa
kế bắt buộc) áp dụng cả tặng cho (cần tập hợp tất cả tài sản thuộc sở hữu của người
quá cố ở thời điểm mở thừa kế và tài sản đã được tặng cho khi người quá cố còn
sống)4.
Còn với BLDS Quebec (Canada), tại Điều 1440 có quy định rằng: “Hợp đồng
chỉ có hiệu lực giữa các bên kết ước; nó không ảnh hưởng tới người thứ ba, trừ khi
luật có quy định”. Như vậy hợp đồng cho tặng cho của ông Lưu đối với bà Xê phải
đảm bảo rằng nó không ảnh hưởng đến quyền lợi thừa kế di sản của bà Thẩm thì
hợp đồng tặng cho đó mới có hiệu lực.

Câu 2.3.16. Suy nghĩ của/anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên
cứu cho cả hợp đồng tặng cho.
Việc tặng cho di sản xuất phát từ ý chí chủ quan của người sở hữu tài sản,
người được tặng cho có thể hoặc không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần
tài sản tặng cho (quy định tại khoản 1 Điều 470 BLDS năm 2005: “Bên tặng cho có
thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc
sau khi tặng cho”).
Nếu người có tài sản định đoạt tài sản của mình cho người khác không theo
cách thức của di chúc mà tặng cho di sản thì không có quy định để bảo vệ những
người thừa kế.
Nên theo nhóm chúng tôi, thì khả năng này rất khó. Vì nếu mở rộng chế định
nghiên cứu này cho cả hợp đồng tặng cho thì sẽ ảnh hưởng khá nhiều đến quyền cá
nhân đối với tài sản mà BLDS bấy lâu nay bảo vệ.

VẤN ĐỀ 4: NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN


Câu 2.4.1. Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm
dứt và những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
4
Đỗ Văn Đại (2016), “Bản án số 48-51”, Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 434-435.

30
Theo BLDS hiện hành, nghĩa vụ của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt
khi:
Cơ sở pháp lý: khoản 8, 9 Điều 372 BLDS năm 2015:
8. Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại
mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;
9. Bên có quyền là cá nhân chết mà quyền yêu cầu không thuộc di sản
thừa kế hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà quyền yêu cầu không được chuyển
giao cho pháp nhân khác.
Nghĩa vụ của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt là nghĩa vụ tài
sản. Nghĩa vụ tài sản của người quá cố là các nghĩa vụ mà người quá cố để lại sau
khi qua đời, bao gồm việc thanh toán các khoản nợ, chi trả các khoản phí và các
nghĩa vụ khác.
Căn cứ tại Điều 615 BLDS năm 2015:
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa
kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản
mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di
chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa
kế là cá nhân.

Câu 2.4.2. Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
quá cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo BLDS, người thừa kế di sản là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản
của người quá cố.
Cơ sở pháp lý: Điều 614 BLDS năm 2015: “Kể từ thời điểm mở thừa kế,
những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”.
Điều 615 BLDS năm 2015:
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa
kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.

31
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản
mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di
chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa
kế là cá nhân.

Câu 2.4.3. Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi
trưởng thành không?
Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành. Vì theo khoản 2 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về quyền và nghĩa
vụ của cha mẹ: “Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”

Câu 2.4.4. Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị
Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?
Đoạn của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn
nhỏ đến khi trưởng thành:
Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác,
bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi
trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi dưỡng con
chung của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức
nuôi con chung cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu).

Câu 2.4.5. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì
có phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp
công sức nuôi dưỡng con chung không?
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì phải trích
cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng
con chung.
Trích từ phần Xét thấy của Quyết định cho thấy điều này:
Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác,
bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi
trưởng thành, khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của
bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con
cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu).

32
Câu 2.4.6. Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản,
anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, bởi vì:
Nghĩa vụ nuôi con đã được quy định cụ thể trong BLDS năm 2015 và đồng
thời, trách nhiệm nuôi dạy con cái cũng phù hợp với đạo lý của người Việt Nam.
Việc Toà án cho rằng ông Lưu có nghĩa vụ bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung
là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 658 BLDS năm 2015. Tuy nhiên, Toà án
chỉ yêu cầu thanh toán nghĩa vụ này trong trường hợp bà Thẩm có yêu cầu. BLDS
năm 2015 không quy định cụ thể đâu là đối tượng cần được nhận tiền cấp dưỡng từ
người đã chết nên không có căn cứ để khẳng định việc này.
Tuy nhiên, theo lập luận thông thường, việc con cái phụ thuộc vào cha mẹ để
được chăm sóc, nuôi dưỡng là điều dễ hiểu. Nếu bà Thẩm cho rằng khoảng thời
gian nuôi con không có sự đóng góp công sức của ông Lưu là quá khó khăn và cần
được bù đắp thì việc thanh toán nghĩa vụ này là hợp lý. Ngược lại, nếu bà không có
yêu cầu thì cũng không có cơ sở để Tòa khẳng định chị Hương là người phụ thuộc
vào ông Lưu, không có ông thì việc nuôi dưỡng là khó khăn nên cần được thanh
toán tiền cấp dưỡng còn thiếu. Vì lẽ đó, Tòa có cân nhắc đến nghĩa vụ thanh toán
tiền cấp dưỡng trong trường hợp có yêu cầu từ phía bàThẩm là hợp tình, hợp lý.

Câu 2.4.7. Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng
người quá cố khi họ còn sống?
Theo Quyết định số 26 có trình bày:
“Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông Vân có công chăm sóc cha
mẹ và công quản lí di sản, ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông
Vi là người gửi tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà)”
Như vậy, Tòa án xác định được ông Vân có công chăm sóc người quá cố và
ông Vi có công nuôi dưỡng người quá khi họ còn sống.

Câu 2.4.8. Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
Trong Quyết định số 26, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi chưa được xử lý rõ ràng, hợp lý vì Tòa án cấp
phúc thẩm không xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản mà ông
Vân, ông Vi là bao nhiêu để đối trừ, nhằm chia thừa kế sao cho công bằng với các
đồng thừa kế.

33
Câu 2.4.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm
(trong mối quan hệ với các quy định về nghĩa vụ tài sản của người quá cố).
Hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối quan hệ với các quy định
về nghĩa vụ tài sản của người quá cố) là hợp tình hợp lý vì:
Thứ nhất, trong Quyết định có đoạn:
Trên đất tranh chấp có 02 ngôi nhà hai tầng và 01 nhà trần làm công
trình phụ, các đương sự khai không thống nhất phần diện tích nhà nào của cụ
Phúc, cụ Thịnh để lại, phần diện tích nhà nào do vợ chồng ông Vân làm, Tòa án
cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ, nhưng lại xác định 02 ngôi nhà
một tầng là tài sản của cụ Phúc, cụ Thịnh là chưa đủ cơ sở vững chắc.
Do chưa có sự rõ ràng trong việc xác định phần tài sản tranh chấp nên có thể
sẽ vi phạm, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.
Thứ hai, công sức chăm sóc cha mẹ, quản lý di sản của ông Vân và công nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vi chưa được xác minh rõ để đổi trừ và số tiền còn lại chia
cho các đồng thừa kế. Do vậy, việc phân chia công cán chưa được minh bạch rõ
ràng, thỏa đáng.
Vì những lý do trên, Tòa giám đốc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm,
yêu cầu xét xử lại là đúng quy định pháp luật và đảm bảo quyền lợi của các bên.

Câu 2.4.10. Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ
nào của ông Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế
của ông Định (ông Lĩnh và bà Thành)?
Trong vụ việc liên quan đến ông Định (chết năm 2015), nghĩa vụ về tài sản
của ông Định được Tòa án xác định chuyển sang cho những người thừa kế của ông
Định là ông Lĩnh và bà Thành. Điều đó được thể hiện trong phần Nhận định của
Quyết định:
Xét, theo quy định tại Khoản 3 Điều 623 BLDS năm 2015, thì “Thời hiệu
yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03
năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Người yêu cầu dựa vào quy định này để cho
rằng thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế là ông Lĩnh, bà Thành thực hiện
nghĩa vụ của người chết (ông Định) để lại đã hết do ông Định chết vào ngày
12/6/2015 và ngày nguyên đơn nộp Đơn khởi kiện đề ngày 17/5/2019 (thực tế VIAC
nhận đơn ngày 29/5/2019).

Câu 2.4.11. Đoạn nào của Quyết định (năm 2021) cho thấy Tòa án buộc những
người thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không lệ thuộc

34
vào việc những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa?
Hướng như vậy của Tòa án có thuyết phục không, vì sao?
Tại phần Nhận định của Tòa án trong Quyết định (năm 2021) đã cho thấy Tòa
án buộc những người thừa kế (của ông Định) thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà
không lệ thuộc vào việc những người thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản
hay chưa:
Về lý do ‘Chưa đủ điều kiện để Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp
theo yêu cầu của nguyên đơn’: Hội đồng xét đơn xét thấy: Người yêu cầu dựa vào
quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại để cho rằng ông Lĩnh, bà
Thành chưa thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế nên chưa đủ điều kiện để
HĐTT giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của nguyên đơn. Xét, lời trình bày này là
không có căn cứ để chấp nhận vì pháp luật không có quy định người thừa kế phải
thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế thì Hội đồng trọng tài mới được giải
quyết tranh chấp.
Hướng của Tòa án như vậy là hợp lý, bởi vì căn cứ theo Điều 614 BLDS năm
2015 quy định về Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế như
sau: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại”.
Đồng thời, thời điểm mở thừa kế đã được quy định tại khoản 1 Điều 611
BLDS năm 2015: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường
hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được
xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”.
Do đó, có thể thấy rõ nghĩa vụ của người để lại di sản do người thừa kế tiếp
nhận phát sinh từ thời điểm mở thừa kế mà không lệ thuộc vào việc những người
thừa kế đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản hay chưa. Vì vậy, hướng của Tòa án là
thuyết phục.

Câu 2.4.12. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người để lại di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại
di sản có lệ thuộc vào thời điểm nghĩa vụ đã đến hạn thực hiện. Tại khoản 3 Điều
623 BLDS năm 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau: “3. Thời hiệu yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ
thời điểm mở thừa kế”. Cho thấy, nếu người để lại di sản có mượn khoản nợ trước
khi mất, thì người cho vay mượn nợ có thể yêu cầu người thừa kế di sản trả nợ cho
mình trong thời hiệu là 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu người cho mượn nợ

35
đã biết người để lại di sản đã mất nhưng không đòi lại khoản nợ đã cho vay trong
vòng 3 năm thì không có quyền đòi lại khoản cho vay đó nữa.Tuy nhiên, để bảo vệ
cho những tình huống ngay tình thì ở mặt khác, pháp luật Việt Nam cũng có quy
định về việc thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
để lại di sản không lệ thuộc vào thời hiệu.
Theo Điều 156 BLDS năm 2015 quy định về thời gian không tính vào thời
hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời
gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:
1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có
quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời
hiệu. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường
trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh
khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về
việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được
quyền, nghĩa vụ dân sự của mình;
2. Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện,
người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự;
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây: a) Người đại
diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân; b) Người đại diện vì
lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
Theo Điều 156 BLDS năm 2015 cho thấy, ở tình huống ngay tình, ví dụ người
cho vay mượn nợ phải di chuyển đi xa ở một vùng khác, hoặc một đất nước khác và
bị mất liên lạc với người mượn nợ nên không biết được người mượn nợ đã mất.
Trong trường hợp này, nếu người cho mượn nợ còn giữ giấy tờ ghi nợ và đi đòi nợ
vào đúng thời hạn đã thỏa hiệp trước đó với người vay nợ, thì người cho mượn nợ
có quyền yêu cầu người thừa kế di sản phải trả nợ cho mình mà không phải phụ
thuộc vào thời hiệu 3 năm ở Điều 623 BLDS năm 2015.

Câu 2.4.13. Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định đã
đến hạn thực hiện chưa? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Ở thời điểm ông Định chết (năm 2015), nghĩa vụ của ông Định chưa đến hạn
thực hiện. Đoạn của quyết định cho câu trả lời là:

36
Người yêu cầu dựa vào quy định này để cho rằng thời hiệu khởi kiện để
yêu cầu người thừa kế là ông Lĩnh, bà Thành thực hiện nghĩa vụ của người chết
(ông Định) để lại đã hết do ông Định chết vào ngày 12/6/2015 và ngày nguyên Đơn
khởi kiện đề ngày 17/5/2019 (thực tế VIAC nhận đơn ngày 29/5/2019). Tuy nhiên,
do giữa nguyên đơn với bà Soan và Công ty Sao Mai đã gia hạn nghĩa vụ thanh
toán nợ đến ngày 31/5/2017 và một số đợt thanh toán sau đó nên thời điểm các bị
đơn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình theo thỏa thuận của các bên theo
Hợp đồng bảo đảm bằng cổ phần là ngày 01/6/2017. Do đó, mặc dù ông Định đã
chết vào ngày 12/6/2015 nhưng nguyên đơn chưa thể khởi kiện các bị đơn trong
thời gian từ ngày 12/6/2015 đến ngày 31/5/2017 (vì chưa đến hạn thực hiện nghĩa
vụ của các bị đơn).

Câu 2.4.14. Vì sao Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản
của người quá cố vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ
được tiến hành năm 2019? Hướng của Tòa án như vậy có thuyết phục không,
vì sao?
Tòa án xác định thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người quá cố
vẫn còn mặc dù ông Định chết năm 2015 và việc khởi kiện chỉ được tiến hành năm
2019 vì:
Theo khoản 3 Điều 623 BLDS năm 2015 thì: “Thời hiệu yêu cầu người thừa
kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở
thừa kế”, mặc dù ông Định chết ngày 12/6/2015 nhưng do giữa nguyên đơn với bà
Soan và Công ty Sao Mai đã gia hạn nghĩa vụ thanh toán nợ đến ngày 31/5/2017 và
một số đợt thanh toán sau đó nên thời điểm các bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh của mình theo thỏa thuận của các bên theo Hợp đồng bảo đảm bằng cổ phần là
ngày 01/6/2017, vì thế nguyên đơn chưa thể khởi kiện các bị đơn trong thời gian từ
ngày 12/6/2015 đến ngày 31/5/2017. Theo quy định tại Khoản Điều 156 BLDS năm
2015 thì khoảng thời gian này được coi là thời hạn gặp trở ngại khách quan không
tính vào thời hiệu khởi kiện, nếu trừ khoảng thời gian từ ngày 12/6/2015 đến ngày
31/5/2017 thì chưa quá 03 năm nên chưa hết thời hiệu khởi kiện. Ngoài ra, thời gian
người đi kiện không biết và không thể biết về việc mở thừa kế được coi là trở ngại
khách quan.
Mặc dù căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì:
Trở ngại khách quan là trường hợp đương sự không nhận được bản án,
quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải
đảo mà không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn; tai nạn, ốm nặng đến mức mất
khả năng nhận thức hoặc đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ

37
chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, cổ phần hóa mà chưa xác định được
tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật
hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan, cá nhân khác
dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.
Theo đó, việc giữa nguyên đơn với bà Soan và Công ty Sao Mai đã gia hạn
nghĩa vụ thanh toán nợ đến ngày 31/5/2017 và một số đợt thanh toán sau đó khi ông
Định chết vào ngày 12/6/2015 không được xem là khoảng thời gian trở ngại khách
quan, vì sự việc gia hạn nghĩa vụ thanh toán và một số đợt thanh toán sau đó đã kéo
dài một khoảng thời gian như thế là do xuất phát từ ý chí chủ quan giữa các đương
sự chứ không phải xuất phát từ một nguyên nhân khách quan hay hoàn cảnh khách
quan nào khác nên sự việc phát sinh là lỗi của các bên đương sự. Do đó, sự việc này
không được xem là trở ngại khách quan vì không đáp ứng được điều kiện tại điểm b
khoản 3 Điều 4 Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thi hành án dân sự
Tuy nhiên, Tòa án nhận định thời gian người đi kiện không biết và không thể
biết việc mở thừa kế là trở ngại khách quan là hợp lý, mặc dù trong quyết định Tòa
án không nhắc đến hoàn cảnh khách quan làm cho người đi kiện không biết việc mở
thừa kế, nhưng ta ngầm hiểu để đưa ra nhận định này thì Tòa án cũng đã điều tra và
xem xét một cách thực tế và thấu đáo nhất. Ngoài ra, trên thực tế, không phải ai
cũng 42 biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nên không thể thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình, việc Tòa án đưa ra nhận định như vậy cũng
là thấu tình đạt lý, thỏa mãn điều kiện tại khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015.
Vì lẽ trên, thời gian người đi kiện không được tính là thời hiệu nên vẫn còn
thời hiệu khởi kiện, phù hợp với khoản 3 Điều 623 BLDS năm 2015: “Thời hiệu
yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm,
kể từ thời điểm mở thừa kế”. Như vậy, hướng của Tòa án như vậy là thuyết phục.

Câu 2.4.15. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào có quy định riêng về thời
hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di
sản như pháp luật Việt Nam hiện nay không?
BLDS Cộng hòa Pháp quy định như sau về thời hiệu yêu cầu người thừa kế
thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản:
“Điều 1032 Nhiệm vụ của người thực hiện di chúc kết thúc chậm nhất là hai
năm sau ngày mở thừa kế, trừ khi có quyết định kéo dài của thẩm phán”.
Có thể thấy Pháp cũng có quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực
hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản, đồng thời còn mở rộng cho phép
thẩm phán kéo dài thời hiệu trên nhằm đảm bảo thực hiện yêu cầu cùa người thừa
kế.

38
BLDS Pháp còn quy định chi tiết hơn như sau:
Điều 1033 Người thực hiện di chúc lập báo cáo trong vòng sáu tháng kể
từ khi kết thúc nhiệm vụ.
Nếu việc thực hiện di chúc kết thúc vì người thực hiện di chúc chết,
nghĩa vụ báo cáo thuộc về những người thừa kế của người này.
Người thực hiện di chúc thực hiện trách nhiệm của một người nhận ủy
quyền miễn phí.
Như vậy thời hiệu trên không bị gián đoạn trong trường hợp người thực hiện
di chúc chết và khi kết thúc thời hiệu phải báo cáo khi hoàn thành nghĩa vụ.

Câu 2.4.16. Thông qua Quyết định năm 2021, suy nghĩ của anh/chị về tính
thuyết phục của quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa
vụ về tài sản của người để lại di sản (có nên giữ lại hay không?).
Thông qua Quyết định năm 2021, chúng em thấy quy định về thời hiệu yêu
cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản là có tính
thuyết phục. Căn cứ vào khoản 3 Điều 623 BLDS năm 2015: “Thời hiệu yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ
thời điểm mở thừa kế”. Vì:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam đưa ra điều kiện như vậy là để dễ quản lý và để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được hưởng thừa kế khi thực hiện
nghĩa vụ về tài sản của người để lại di sản trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, việc đưa ra thời gian 03 năm là để dựa vào đó mà Tòa án xác định
người được hưởng quyền lợi có còn được pháp luật bảo vệ hay không, có quyền
khởi kiện khi quyền lợi của người đó bị xâm phạm, có trách nhiệm thực hiện nghĩa
vụ về tài sản của người để lại di sản trong khoảng thời gian 3 năm kể từ thời điểm
người để lại di sản chết.
Thứ ba, căn cứ vào khoản 1 Điều 615 BLDS năm 2015 quy định về thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác”. Theo đó, nếu như trước khi người chết để lại di sản mà có
khoản nợ với người khác thì người được hưởng thừa kế có trách nhiệm trả khoản nợ
đó, nhưng nếu người thừa kế không trả nợ thì người bị nợ có quyền khởi kiện trong
thời hạn 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2015.
Như vậy sẽ mang lại công bằng và đảm bảo quyền lợi của người bị nợ.
Do đó, quy định về thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài
sản của người để lại di sản là thuyết phục, nên được giữ lại để áp dụng vào một số
trường hợp trong thực tế để đảm bảo quyền lợi giữa các bên.

39
40
BÀI TẬP 3
Tóm tắt Quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011.
Vụ việc chia thừa kế theo di chúc giữa nguyên đơn là anh Lê Quốc Toản và bị
đơn là chị Lê Thị Thu, anh Lê Quốc Tuấn.
Ông Lê Gia Minh có hai người vợ là bà Lê Thị Bằng và bà Nguyễn Thị Lan.
Ông Minh và bà Bằng có hai người con chung. Ông Minh và bà Lan có năm người
con chung, trong đó có anh Toản, chị Thu và anh Tuấn. Trước khi chết, ông Minh
có để lại một bản di chúc. Sau khi ông Minh chết, bà Lan chuyển nhượng 55m2 đất
và chia theo di chúc của ông Minh. Ngày 8/10/1998, bà Lan lập một bản di chúc
nhưng đến ngày 18/4/2005, bà lan lại làm “Đơn xin hủy di chúc”. Anh Toản không
công nhận văn bản hủy di chúc. Chị Thu, anh Tuấn đề nghị Tòa xem xét “Đơn xin
hủy di chúc” của bà Lan có hiệu lực.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm và Bản án dân dân sự phúc thẩm, Tòa quyết định
bác yêu cầu xin chia thừa kế theo di chúc của anh Lê Quốc Toản với chị Lê Thị Thu
và anh Lê Quốc Tuấn. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Tòa cho rằng chưa có đủ căn
cứ xác định “Đơn xin hủy bỏ di chúc” có đúng ý chí của bà Lan hay không. Tòa án
quyết định hủy bỏ Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ
vụ án để xét xử sơ thẩm lại.

Tóm tắt Quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011.


Vụ việc tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là anh Dương
Văn Đang và bị đơn là ông Dương Văn Sáu.
Ngày 01/3/1979, cụ Dương Văn Trượng nhờ ông Nguyễn Văn Tam lập “Tờ
ủy quyền để lại thay lời chúc ngôn” có nội dung cho anh Đang 3000m2 đất. Anh
Đang cho vợ chồng ông Dương Văn Sáu 530m2 đất để canh tác. Nhưng hiện tại vợ
chồng ông Sáu đang canh tác 1500m2 đất và cho rằng cụ trượng viết di chúc năm
1999 để lại cho vợ chồng ông Sáu diện tích đất này. Anh Đang không chấp nhận di
chúc năm 1999 và yêu cầu vợ chồng ông Sáu trả cho anh 1500m2 đất nêu trên.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm và Bản án dân sự phúc thẩm: Chấp nhận yêu cầu
của anh Dương Văn Đang về việc đòi quyền sử dụng đất.Tại phiên tòa giám đốc
thẩm: Tòa cho rằng cần xác định tờ cam kết nêu trên có phải do cụ Trương lập
không. Tòa quyết định hủy bỏ Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm,
giao hồ sơ vụ án để xét xử sơ thẩm lại.

Tóm tắt Quyết định số 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.

41
Nguyên đơn là Bùi Văn Nhiên khởi kiện bị đơn là Bùi Văn Mạnh.
Cụ Môn và cụ Giảng có 5 người con là My, Đức, Nhiên, Lương và Mạnh.
Ngày 15/5/1998, cụ Môn lập di chúc được UBND xã Đức Thắng chứng thực với
nội dung là cho ông Đức 04m đất theo hướng từ Đông sang Tây kéo dọc hết chiều
dài thửa đất, phần đất còn lại để làm nhà thờ cúng gia tiên giao cho ông Mạnh trông
nom. Bản di chúc này không có chữ ký của cụ Giảng. Ngày 11/4/2000, cụ Môn tổ
chức họp gia đình thống nhất lại nội dung của bản di chúc. Ngày 01/11/1003 (âm
lịch), ông Đức bị tai nạn chết, sau đó, cụ Môn chết cùng ngày. Theo lời khai của
nguyên đơn, do di chúc cụ Môn để lại không rõ ràng, không hợp pháp nên ông
Mạnh đã lấn chiếm sang phần đất còn lại nên ông Nhiên yêu cầu chia thừa kế theo
pháp luật. Theo lời khai của bị đơn, do ông Nhiên không muốn thực hiện theo di
chúc mà bàn với ông chia đôi thửa đất để sử dụng riêng nhưng ông Mạnh không
đồng ý, không nhất trí với yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật của ông Nhiên.
Bản án sơ thẩm xác định di chúc của cụ Môn có hiệu lực một phần về nửa đất
thuộc quyền định đoạt của cụ Môn và không có hiệu lực pháp luật đối với phần đất
thuộc quyền định đoạt của cụ Giảng và phần đất cụ Môn cho ông Bùi Văn Đức. Bản
án phúc thẩm sửa lại bản án dân sự sơ thẩm. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm và bản án
dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng
Yên xét xử sơ thẩm lại.

Tóm tắt Quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn là Nguyễn Thị Chim, Nguyễn Thị Bay khởi kiện bị đơn là
Nguyễn Thị Lên, Nguyễn Thị Sáu.
Về phía nguyên đơn, hai bà khai rằng sau khi cụ Nhà chết, bà Sáu và bà Lên
dỡ nhà cũ của cụ Nhà và dựng nhà mới trên đất tại xã Mỹ Lộc, còn diện tích đất tại
xã Long Thượng hiện do anh Nguyễn Anh Tuấn, con trai bà Sáu quản lý, sử dụng,
trên đất có nhà của anh và của người khác đang ở trên phần đất mà anh Tuấn đã
bán. Bà Chim và bà Bay yêu cầu được chia thừa kế đối với hai phần diện tích này
và không công nhận Tờ di chúc lập ngày 26/7/2000 của cụ Nhà vì hai bà cho rằng
lúc đó cụ Nhà đã 80 tuổi và không còn minh mẫn, đồng thời yêu cầu được chia phần
đất trên chưa xây dựng nhà cửa . Về phía bị đơn, bà Nguyễn Thị Lên và ông
Nguyễn Văn Cu cùng sử dụng thửa đất số 10 ở xã Mỹ Lộc do cụ Nhà đứng tên,
đồng thời cho rằng vào năm 2000, cụ Nhà còn minh mẫn nên đã lập di chúc cho bà
và bà Lên diện tích đất tại xã Mỹ Lộc, bà cũng không đồng ý với yêu cầu chia thừa
kế của bà Chim và bà Bay.

42
Bản án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu chia thừa kế của bà Bay và bà
Chim. Bản án phúc thẩm bác yêu cầu của bà Chim và bà Bay về việc yêu cầu bà
Sáu và bà Lên chia thừa kế quyền sử dụng đất của ông Nhà đối với thửa đất số 10 ở
xã Mỹ Lộc. Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao ủy bán án
dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện
Cần Giuộc, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại.

Câu 3.1.1. Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy
bỏ di chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).
Căn cứ cơ sở pháp lý tại Điều 640 BLDS năm 2015; khoản 5 Điều 643 BLDS
năm 2015.
Về thời điểm thay đổi, hủy bỏ di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ
di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Căn cứ khoản 1 Điều 640 BLDS năm 2015:
“Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất
cứ lúc nào”.
Về cách thức thay đổi, hủy bỏ di chúc căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 640
BLDS 2015:
2. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và
phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và
phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di
chúc trước bị hủy bỏ.
Về hình thức thay đổi, hủy bỏ di chúc căn cứ tại khoản 5 Điều 643 BLDS
2015: “Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di
chúc sau cùng có hiệu lực”.
Nếu thuộc trường hợp bắt buộc phải công chứng thì chỉ khi được công chứng
thì di chúc mới có hiệu lực căn cứ khoản 3 Điều 56 Luật công chứng 2014:
Di chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửa
đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể yêu cầu bất
kỳ công chứng viên nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ đó.
Trường hợp di chúc trước đó đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề công
chứng thì người lập di chúc phải thông báo cho tổ chức hành nghề công chứng
đang lưu giữ di chúc biết việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hủy bỏ di chúc đó.

Câu 3.1.2. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm
định (tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc)
không? Vì sao?

43
Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức
người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc) thông qua hai
hình thức. Một là hủy bỏ di chúc cũ bằng việc lập một di chúc khác, hai là hủy bỏ di
chúc bằng giao dịch khác di chúc. Bởi vì cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt tài
sản cho người thừa kế đó nữa nên họ muốn định đoạt lại tài sản của mình bằng di
chúc khác hoặc bằng giao dịch khác.
Trên thực tế, trong trường hợp người lập di chúc định đoạt tài sản bằng một di
chúc, nhưng sau đó lại định đoạt đối với tài sản bằng môt hành vi pháp lý khác, ví
dụ như tặng cho, mua bán, cầm cố, thế chấp hay dùng tài sản đó bảo lãnh cho một
nghĩa vụ mà sau đó tài sản này đã bị xử lý để trả nợ thì hệ quả đối với di chúc cũ
cũng tương tự như trường hợp thay đổi hay hủy bỏ di chúc trước bằng di chúc mới
vì bản chất đều là định đoạt tài sản đã nêu trong di chúc trước 5.

Câu 3.1.3. Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải
tuân thủ hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc không phải tuân theo
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ.
Thứ nhất, trong BLDS năm 2015, không có điều luật nào quy định về việc
thay đổi hay hủy bỏ di chúc phải tuân thủ hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy
bỏ.
Thứ hai, trong vụ việc tại Bản án số 61/2009/DS-ST ngày 9-1-2009 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, vào ngày 9-11-1998, bà Nượu có lập di chúc
tại Phòng công chứng. Ngày 7-9-1999, bà Nượu lập di chúc tại UBND phường.
Như vậy, di chúc sau không có hình thức như di chúc trước nhưng Tòa án vẫn
công nhận.
Theo nhóm chúng tôi, “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển
tài sản của mình cho người khác sau khi chết” nên nếu tinh thần của người lập di
chúc minh mẫn, không bị cưỡng ép hay lừa dối thì việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc
không phải tuân theo hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ.

Câu 3.1.4. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong
03 quyết định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.
Theo quan điểm của nhóm chúng tôi, hướng giải quyết của Tòa án trong 03
quyết định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc là thuyết

5
Đỗ Văn Đại, Bản án số 77-80, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, 2019, (xuất bản lần thứ tư), tr. 97-99.

44
phục, đảm bảo được quyền lợi của các người thừa kế và theo đúng ý chí của người
để lại di sản.
Đối với Quyết định số 619, đơn xin hủy di chúc không phải do bà Lan viết mà
lại do cháu viết hộ. Vì vậy, Tòa án đã yêu cầu xem xét lại bà Lan có biết chữ không,
nếu bà Lan biết chữ thì tại sao lại nhờ cháu viết hộ và liệu đơn xin hủy di chúc có
thực sự đúng với ý chí của bà Lan hay không.
Đối với Quyết định số 767: Tòa án yêu cầu xác định di chúc lập ngày 7/3/1999
có thể hiện đúng ý chí của ông Trượng, bà Tào không. Nếu có thì cần làm rõ việc
hai cụ đã thay đổi di chúc lập ngày 1/3/1979 bằng di chúc lập ngày 7/3/1999.
Đối với Quyết định số 194: Thừa nhận di chúc do ông Môn lập ngày
15/5/1998 có hiệu lực một phần với tài sản của ông và đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm nên căn cứ vào Biên bản cuộc họp của gia đình cụ Môn để xem xét phần
di sản của bà Giang nên chia thế nào.

Câu 3.1.5. Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di
chúc là có điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?
Trong đoạn số 3 của phần “Nhận thấy” của Quyết định số 363, Tòa án xác
định di chúc là có điều kiện. Điều kiện của di chúc này là cụ Nguyễn Văn Nhà cho
bà Nguyễn Thị Sáu và bà Nguyễn Thị lên trọn quyền sử dụng phần đất này, đồng
thời có trách nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên với điều kiện là không được quyền cầm
cố hoặc chuyển nhượng và phải nuôi dưỡng ông Nguyễn Văn Cu khi bị ốm đau,
bệnh hoạn hoặc tuổi già.

Câu 3.1.6. Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều
kiện ở Việt Nam?
Hiện này, pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Việt Nam đang có
một thực trạng là chưa có những quy phạm pháp luật hay văn bản quy phạm pháp
luật cụ thể nào quy định về việc xác lập và thực hiện di chúc có điều kiện. Tuy
nhiên, các điều khoản về thừa kế và di chúc trong BLDS năm 2015 cũng không phủ
nhận hiệu lực pháp lý của di chúc có điều kiện. Cụ thể là khái niệm về di chúc ở
Điều 624, các điều kiện của người lập di chúc ở Điều 625, các điều kiện để một di
chúc có hiệu lực pháp lý ở Điều 630. Đáng lưu ý hơn, khoản 2 Điều 631 quy định
về nội dung di chúc có nêu rõ rằng: “Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều
này, di chúc có thể có các nội dung khác”. Như vậy, người lập di chúc hoàn toàn có
thể đặt ra những điều kiện cho người nhận thừa kế của mình, và bản di chúc có điều
kiện hoàn toàn phù hợp với luật pháp và có hiệu lực pháp lý.

45
Câu 3.1.7. Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được
đáp ứng.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào quy
định về việc cá nhân, tổ chức sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lí nào nếu không đáp
ứng và thực hiện các điều kiện được đặt ra trong di chúc có điều kiện. Bên cạnh đó,
cũng không có văn bản quy phạm pháp luật nào đảm bảo tính pháp lý cho một bản
di chúc có điều kiện. Chính vì những lý do trên, người thừa kế vẫn có thể được nhận
phần thừa kế của mình ngay cả khi không thực hiện những điều kiện được đặt ra
trong di chúc, nếu việc thừa kế của người đó được xem là phù hợp với pháp luật.

Câu 3.1.8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có
nên luật hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung
nào?).
Trong thực tế, nhu cầu về một bản "di chúc có điều kiện" là khá lớn. Việc luật
hóa về di chúc có điều kiện cũng đang dần trở thành nhu cầu chung của xã hội.
Nhưng việc luật hóa di chúc có điều kiện cũng có những mặt "lợi" và "hại". Luật
hóa di chúc có điều kiện sẽ thỏa mãn được mong mỏi của nhiều người, đồng thời,
đây cũng là một bước tiến lớn trong kỹ thuật lập pháp của Việt Nam. Bởi, công
nhận di chúc có điều kiện tức là phải ban hành thêm nhiều quy định văn bản hướng
dẫn về vấn đề này. Và trong thực tế vì không có luật rõ ràng xác định về hệ quả của
việc không hoàn thành điều kiện nên ý chí của người để lại di sản bị ảnh hưởng rất
nhiều
Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung sau: Thời hạn thực hiện những điều
kiện đó là bao lâu thì hợp lý? Trường hợp người hưởng di sản không thực hiện được
điều kiện người để lại di sản đưa ra thì di sản đó sẽ được xử lý như thế nào?

46
BÀI TẬP 4

Câu 4.1.1. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận
phân chia di sản?
Trong mục 2 phần Nhận định của Tòa án trong Án lệ cho thấy đã có thỏa
thuận phân chia tài sản: “Cụ V quay về nhà đất này và ở tại đây cho đến khi qua đời
vào năm 1994. Sau khi về, cụ họp các con và đứng ra phân chia toàn bộ thửa đất
thành bốn phần riêng biệt cho các con, không ai có ý kiến gì và đều thống nhất thực
hiện việc phân chia này”.

Câu 4.1.2. Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân
chia di sản đã được Tòa án chấp nhận?
Trong mục 4 phần Nhận định của Tòa án trong Án lệ cho thấy thỏa thuận phân
chia di sản đã được Tòa án chấp nhận:
Với các chứng cứ trên, đủ cơ sở xác định nhà đất của cụ V, cụ H đã
được cụ V và các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia tài sản chung xong từ năm
1991 và đủ cơ sở xác định phần đất 110m2 trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là
44,4m2. Việc phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã được Điều chỉnh trên
sổ sách giấy tờ về đất đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất
cứ thừa kế nào, không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di
sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp
của cá nhân.

Câu 4.1.3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân
chia di sản trên ? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về
hình thức và về nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản.
Theo quan điểm của nhóm chúng tôi, việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân
chia di sản trên là thuyết phục.
Về chủ thể tham gia, Án lệ có ghi nhận rằng thỏa thuận phân chia không vi
phạm về quyền lợi của bất kỳ người thừa kế nào. 8 người thừa kế này đã thỏa thuận,
đảm bảo được quyền lợi của nhau, không có tranh chấp nào xảy ra nên đã đáp ứng
được điều kiện về chủ thể. Như vậy, về mặt nội dung là hợp pháp.
Về hình thức, việc phân chia di sản không được lập thành văn bản cũng như
không được công chứng hay chứng thực mặc dù tài sản là bất động sản. Thời điểm
diễn ra phân chia di sản là năm 1991, thời điểm Pháp lệnh về thừa kế đang có hiệu
lực. Tuy nhiên Pháp lệnh không quy định rõ về hình thức phân chia di sản, nên việc
Tòa án chấp nhận thỏa thuận trên là hợp lý.

47
Theo góc nhìn của PGS. TS. Đỗ Văn Đại
Thỏa thuận phân chia di sản là một giao dịch dân sự và ngày nay BLDS
năm 2015 quy định về Hình thức giao dịch dân sự với nội dung “trường hợp luật
quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng
thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó” (khoản 2 Điều 119). Ở quy định vừa
nêu, chúng ta không thấy đề cập tới hình thức “văn bản” mà chỉ nói đến “văn bản
có công chứng, chứng thực”. Thực ra, khi Luật áp đặt hình thức “văn bản” (không
phải công chứng, chứng thực), chúng ta có thể có hai khả năng: Đó có thể là Điều
kiện “có hiệu lực” hay đó chỉ là Điều kiện về chứng cứ. Xu hướng hiện nay đang
coi yêu cầu này là yêu cầu về chứng cứ (trừ khi Luật nêu rõ đó là Điều kiện có hiệu
lực). Trong vụ việc đang bình luận, chúng ta có thể thấy có thỏa thuận phân chia di
sản và thỏa thuận này không được thể hiện dưới văn bản. Điều này cũng cố phần
nào thêm quan điểm theo đó yêu cầu về hình thức nêu trên không là yêu cầu với vai
trò là Điều kiện có hiệu lực mà là yêu cầu về chứng cứ6.
Như vậy, yêu cầu về hình thức đối với thỏa thuận phân chia di sản trên cũng là
hợp lý.

Câu 4.1.4. Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản.
Tranh chấp tài sản là tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức về tài sản
Tranh chấp di sản là tranh chấp giữa những người thừa kế trong việc phân
chia, quản lý di sản (di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác). Bên cạnh đó, tranh chấp di sản phụ
thuộc vào thời điểm mở thừa kế để xác định di sản được người chết để lại bao gồm
những gì.

Câu 4.1.5. Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo
thỏa thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?
Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa
thuận là tranh chấp về tài sản. Điều này được thể hiện qua đoạn [4] của Án lệ:
Việc phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh
trên sổ sách giấy tờ về đất đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của
bất cứ thừa kế nào, không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn
là di sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp
pháp của các cá nhân. Vì vậy, bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại
44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di
6
Đỗ Văn Đại, Bản án số 157-160, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, 2019, (xuất bản lần thứ tư), tr. 552-553.

48
sản thừa kế của cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di
sản của cụ H, cụ V nữa.

Câu 4.1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối
cao trong Án lệ số 24/2018/AL.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Án lê số 24/2018/AL là
thuyết phục. Ba nguyên đơn là bà H, bà H1 và bà H2 đã nhận phần di sản thừa kế từ
cụ V là 44,4 m2 đất từ năm 1991 và giao cho ông H3 trông nom giúp, chứ không hề
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H3, cho nên ông H3 không có quyền sở
hữu phần đất 44,4 m2 này cũng như không thể chia cho hai con của mình. Bên cạnh
đó, từ lúc cụ V đứng ra chia di sản cho các con là năm 1991 cho đến năm 2004,
không có người thừa kế nào bày tỏ ý kiến phản đối về việc chia di sản của cụ V. Vì
vậy nên việc Tòa án nhân dân tối cao xác định rằng các bà H, bà H1 và bà H2 chỉ có
thể kiện đến Tòa để đòi lại phần đất 44,4 m2 mà ông H3 không chịu trả cho các bà,
chứ không thể kiện để đòi chia lại di sản của cụ V và cụ H.

49
BÀI TẬP 5

Câu 5.1.1. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng
1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng
là thuyết phục. Tuy rằng tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc phải được chia
đôi, nhưng vì cụ Hưng chết trước cụ Ngự, nên cụ Ngự cũng được hưởng 1 kỷ phần
trong ½ tài sản của cụ Hưng. Bên cạnh đó, khi chết hai cụ không để lại di chúc, nên
phải chia tài sản theo pháp luật. Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng bao gồm bảy
người và tài sản của cụ sẽ được chia đều cho cả bảy. Vì thế mà việc ông Trải được
hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng là hợp lý.

Câu 5.1.2. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải
được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có
thuyết phục không? Vì sao?
Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư là thuyết phục.
Trong lời khai của bị đơn là chị Nguyễn Thị Thúy Phượng của Án lệ, chị cho biết
bố mẹ chị (ông Trải và bà Tư) kết hôn năm 1955 nên áp dụng Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959 chứ không phải Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Do đó, phần
di sản mà ông Trải hưởng từ cụ Hưng được xem là tài sản chung của hai vợ chồng.

Câu 5.1.3. Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được
hưởng công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?
Trong Án lệ số 05/2016/Al, Tòa án theo hướng chị Phương được hưởng công
sức quản lý di sản là hoàn toàn thuyết phục.
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 616 BLDS năm 2015:
1. Người quản lý di sản là người chỉ định trong dic húc hoặc do những
người thừa kế thỏa thuận cử ra.
2. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và
những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản, thì người đang chiếm hữu,
sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế
cử được người quản lý di sản.
3. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa
có người quản lý, thì di sản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Theo nội dung của Án lệ số 05/2016/AL, trường hợp của chị Phương nằm ở
khoản 2 Điều 616 BLDS năm 2015. Chị Phương không phải người thừa kế thứ nhất

50
của cụ Hưng và cụ Ngự và trong các văn bản hiện nay, việc thừa kế chuyển tiếp
cũng chưa được quy định thực sự rõ ràng. Theo nội dung Án lệ, phần di sản đươc
chuyển giao không có thủ tục kê khai nào mặc dù tài sản trong trường hợp này là
bất động sản. Tòa án trong trường hợp này đã linh hoạt để bảo vệ quyền lợi của
người thừa kế.
Thứ hai, các văn bản pháp luật hiện nay mới chỉ đề cập đến chi phí của người
quản lý di sản bỏ ra khi họ đang quản lý di sản chứ chưa ghi nhận đến công sức của
họ. Đây là điểm thuyết phục đầu tiên khi đã bảo vệ được quyền lợi của người quản
lý di sản.
Thứ ba, nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu đòi tài sản thì phải giải quyết các nội
dung liên quan đến chi phí, công sức của người quản lý. Hiện nay, ở góc độ tố tụng
điều này chưa thực sự rõ nét. Hướng giải quyết cả chi phí và công sức của người
quản lý di sản được Án lệ làm rõ hơn, điều mà trong văn bản chưa thực sự quy định
rõ ràng. Nếu không giải quyết các vấn đề về chi phí, công sức quản lý di sản, người
quản lý di sản có thể sẽ khởi kiện một vụ án mới để bảo vệ quyền lời của bản thân.
Án lệ đã giải quyết tất cả trong cùng một vụ án, giúp tiết kiệm thời gian và công sức
của cơ quan tố tụng cũng như các bên đương sự.

51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
Tiếng Việt
1. Bộ luật Dân sự 2005.
2. Bộ luật Dân sự 2015.
3. Nghị quyết số 02/HĐTP về việc Áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế
do Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành.
4. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao.
5. Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thi hành án dân sự.
6. Luật Doanh nghiệp năm 2020
7. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
8. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
9. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
10. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
11. Luật Trọng tài thương mại 2010.
12. Luật Công chứng 2014.

Tiếng nước ngoài


1. BLDS Cộng hòa Pháp

II. Quyết định, Bản án, Án lệ


1. Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
2. Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
3. Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
4. Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
5. Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
6. Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí
Minh.
7. Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.

52
8. Quyết định số 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh.
9. Quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011.
10. Quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011.
11. Quyết định số 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
12. Quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
13. Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở
hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân.
14. Án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao;

III. Giáo trình, tài liệu chuyên khảo


1. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín).
2. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm).
3. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2013 (xuất bản lần thứ ba).
4. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư).
5. Lê Minh Hùng, Phạm Kim Anh, Chu Hải Thanh, Nguyễn Xuân Quang và Chế
Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018.
6. Nguyễn Hồ Bích Hằng, Giáo trình Những vấn đề chung về Luật dân sự của ĐH
Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức 2018.
7. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007.

IV. Website
1. http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/211606/Quyen-cua-nguoi-duoc-dai-dien-
trong-viec-xac-lap--thuc-hien-giao-dich-thuoc-pham-vi-cua-nguoi-dai-dien.html
2. https://luatminhkhue.vn/mat-kha-nang-lao-dong-la-gi---quy-dinh-ve-mat-kha-
nang-lao-dong.aspx

53

You might also like