You are on page 1of 42

LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

MỤC LỤC

Câu 1: Trình bày tiến trình phát triển của lịch sử văn minh thế giới? Khái quát
những thành tựu văn minh tiêu biểu trong các thời đại văn minh?
Câu 2: Trình bày thành tựu nghệ thuật của Ai Cập cổ đại? Nêu sơ lược về kim
tự tháp?
Câu 3: Trình bày nội dung bộ luật Hammurabi? Đánh giá về ưu điểm và hạn
chế của bộ luật này?
Câu 4: Tìm hiểu về một tôn giáo tiêu biểu của Ấn Độ và phân tích ảnh hưởng
của tôn giáo này với thế giới?
Câu 5: Trình bày thành tựu nghệ thuật của nền văn minh Trung Quốc cổ
trung đại? Nêu hiểu biết về TỬ CẤM THÀNH và Vạn lý trường thành
Câu 7: Trình bày thành tựu triết học và khoa học tự nhiên của nền văn minh
Hi Lạp và La Mã cổ đại?
Câu 8: Trình bày thành tựu nghệ thuật của nền văn minh Hi Lạp và La Mã cổ
đại?
Câu 9: Tìm hiểu về 1 trong các kì quan thế giới? Đánh giá ý nghĩa đóng góp
của nó?
Câu 10: Trình bày nguyên nhân hình thành, sự phát triển của thành thị tự do
trung đại? Phân tích vai trò, ý nghĩa của thành thị tự do đối với sự phát triển văn
minh Tây Âu trên các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, kiến trúc?

Câu 11: Trình bày về phong trào phát kiến địa lý thế kỷ XV – XVI? Nguyên
nhân các cuộc phát kiến địa lý lớn? Đánh giá ảnh hưởng của phong trào phát kiến
địa lý đối với sự phát triển văn minh thế giới?

Câu 12: Trình bày về phong trào văn hóa Phục Hưng? Đánh giá những đóng
góp của phong trào văn hóa Phục Hưng với nền văn minh thế giới?
Câu 13: Nêu những chuyển biến kinh tế - xã hội trong thời đại văn minh công
nghiệp?
Câu 14: Trình bày khái quát những thành tựu văn học, nghệ thuật, khoa học
kĩ thuật, tư tưởng của châu Âu thế kỷ XVIII – XIX?

Câu 15: Trình bày những thành tựu chính của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật, công nghệ mới ở thế kỷ XX? Phân tích vai trò, ảnh hưởng của các lĩnh vực
công nghệ hiện đại đối với nền văn minh thế giới?

Câu 16. Trình bày về Kitô giáo và vai trò của Kitô giáo với văn minh phương Tây?

1
Câu 1: Trình bày tiến trình phát triển của lịch sử văn minh thế giới? Khái quát
những thành tựu văn minh tiêu biểu trong các thời đại văn minh?
- Tiến trình phát triển của lịch sử văn minh thế giới:
Loài người xuất hiện cách đây hàng triệu năm và ngay từ lúc đó con người đã tạo ra
nhiều giá trị vật chất cũng như tinh thần nhưng xã hội nguyên thuỷ lúc đó nói chung vẫn
còn ở trong tình trạng mông muội.
Tới cuối thiên niên kỉ IV, đầu thiên niên kỉ III TCN, ở một số nơi có điều kiện tự
nhiên thuận lợi hơn các nơi khác, con người tập trung sinh sống ở những nơi đó đông
hơn. Hạ lưu các con sông lớn ở châu Á và châu Phi đã hình thành ra bốn trung tâm văn
minh sớm nhất của nhân loại đó là trung tâm văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung
Hoa. Một điểm giống nhau là cả bốn trung tâm văn minh này đều dựa vào các con sông
lớn: Ai Cập nhờ có sông Nin (Nile), Lưỡng Hà nhờ có sông Ơphrat (Euphrates), Tigrơ
(Tigris), Ấn Độ nhờ có sông Ấn và sông Hằng, Trung Hoa nhờ có Hoàng Hà và Trường
Giang. Hạ lưu của các con sông này đất rất màu mỡ, thuận lợi cho việc phát triển nông
nghiệp, tạo điều kiện cho cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh.
Ở phương Tây, có hai trung tâm văn minh xuất hiện muộn hơn, đó là văn minh Hy
Lạp và La Mã (khoảng cuối thiên niên kỉ III đến đầu thiên niên kỉ II TCN). Tuy xuất hiện
muộn hơn các trung tâm văn minh ở phương Đông, nhưng nhờ kế thừa các thành tựu văn
minh của phương Đông rồi sau đó phát triển lên nên văn minh Hy-La cũng để lại cho
nhân loại nhiều giá trị quan trọng.
Thời trung đại, toàn bộ Tây Á và Bắc Phi nằm trong lãnh thổ đế quốc Arập. Phương
Đông hình thành ba trung tâm văn minh lớn là Arập, Ấn Độ, Trung Hoa. Trong ba trung
tâm văn minh đó, Ấn Độ và Trung Hoa có sự phát triển liên tục từ thời cổ đại tới thời
trung đại. Ở phương Tây, thời trung đại chỉ nằm trong một trung tâm văn minh là văn
minh Tây Âu.
Ngoài những trung tâm văn minh lớn, thời cổ-trung đại trên thế giới còn hình thành
những trung tâm văn minh nhỏ hơn như văn minh của một số người dân da đỏ ở Châu
Mĩ, văn minh ở một số vùng thuộc Đông Nam Á.
Ngay từ thời cổ-trung đại, những nền văn minh trên thế giới không phải phát triển
hoàn toàn biệt lập với nhau. Con người giữa các trung tâm văn minh khác nhau đã có sự
tiếp xúc với nhau qua buôn bán, du lịch, chiến tranh, hay truyền giáo. Vì vậy chắc chắn
những giá trị vật chất cũng như tinh thần giữa các trung tâm văn minh ấy cũng đã có ảnh
hưởng lẫn nhau.
Tới thời cận đại, các nước phương Tây nhờ sự phát triển nhanh chóng về khoa học
kĩ thuật đã trở thành các quốc gia phát triển về kinh tế, hùng mạnh về quân sự. Cùng với
quá trình thực dân hoá, các nước phương Tây đã lôi cuốn các vùng còn lại của thế giới
vào luồng phát triển của văn minh chung thời cận đại. Trên cơ sở của văn minh thế giới

2
thời cổ-trung đại mà loài người thời cận đại và hiện đại đã tạo nên được những thành tựu
to lớn trên tất cả các lĩnh vực như chúng ta đã thấy ngày nay.
- Những thành tựu văn minh tiêu biểu:
+ Văn minh Bắc Phi và Tây Á: Chia ra thành 3 nhánh:
 Văn minh Ai Cập cổ đại
 Văn minh Lưỡng Hà cổ đại
 Văn minh Ả Rập
+ Văn minh Ấn Độ
+ Văn minh Trung Quốc
+ Văn minh Hy Lạp cổ đại
+ Văn minh La Mã cổ đại
+ Văn minh Tây Âu thời trung đại
+ Văn minh công nghiệp
+ Văn minh hiện đại
Câu 2: Trình bày thành tựu nghệ thuật của Ai Cập cổ đại? Nêu sơ lược về kim
tự tháp?
* Thành tựu nghệ thuật:
- Chữ viết, văn học:
Về chữ viết: Khoảng hơn 3000 năm TCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ
tượng hình. Muốn chỉ một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả
những khái niệm trừu tượng thì họ mượn ý. Thí dụ để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba
làn sóng nước và cái đầu bò đang cúi xuống; để nói lên sự công bằng thì họ vẽ lông chim
đà điểu (vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau). Từ chữ tượng hình, sau này người Ai
Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái. Vào thiên niên kỉ II TCN, người
Híchxốt đã học cách viết của người Ai Cập để ghi lại các ngôn ngữ của mình. Về sau
này, loại chữ viết ấy lại ít nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người Phênixi đã sáng
tạo ra vần chữ cái A, B... Những chữ tượng hình của người Ai Cập được khắc trên đá,
viết trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây sậy papyrus. Đây là một loại
“giấy” cổ xưa nhất, do vậy ngôn ngữ nhiều nước trên thế giới, giấy được gọi là papes,
papier. Năm 1822, một nhà ngôn ngữ học người Pháp Sampôliông (Champollion) đã tìm
cách đọc được thứ chữ này.
Về văn học: những tác phẩm tiêu biểu còn lại như: Truyện hai anh em, Nói Thật và
Nói Láo, Đối thoại của một người thất vọng với linh hồn của mình, Người nông phu biết
nói những điều hay...
- Tôn giáo:
Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi vùng
thờ mỗi vị thần riêng của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến thời kì thống nhất
quốc gia, bên cạnh những vị thần riêng của mỗi địa phương còn có các vị thần chung như
thần Mặt trời (Ra), thần sông Nin (Osiris).

3
Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi con người chết đi,
linh hồn thoát ra ngoài nhưng có thể một lúc nào đó lại tìm về nơi xác (Họ tin rằng như
khi bị ngất, hồn thoát ra ngoài tạm thời). Vì vậy những người giàu có tìm mọi cách để giữ
gìn thể xác. Kĩ thuật ướp xác vì vậy cũng rất phát triển.
- Kiến trúc điêu khắc:
Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất
phải kể đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên
để làm nơi yên nghỉ cho các pharaon là Imhotép. Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim
tự tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo.
Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp (Kheops) cao tới 146m, đáy hinh vuông, mỗi cạnh tới
230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người
Ai Cập có câu “Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình
trước Kim tự tháp”.
Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời sau
qua các công trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx) hùng vĩ ở gần
Kim tự tháp Khephren. Bức tượng mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này
có lẽ muốn thể hiện Khephren là chúa tể với trí khôn của con người và sức mạnh của sư
tử.
- Khoa học tự nhiên:
Về thiên văn: người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung
hoàng đạo và sao Thuỷ, Kim, Hoả, Mộc, Thổ. Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự
quan sát sao Lang (Sirius). Một năm của họ có 365 ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần
họ thấy sao Lang xuất hiện đúng đường chân trời. Họ chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa
có 4 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Năm ngày còn lại được xếp vào cuối năm làm ngày lễ.
Để chia thời gian trong ngày, họ đã chế ra đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước.
Về toán học: do yêu cầu làm thuỷ lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người
Ai Cập cổ cũng sớm được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo
các phép tính cộng trừ, còn khi cần nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều
lần.
Về hình học: họ đã tính được diện tích của các hình hình học đơn giản; đã biết trong
một tam giác vuông thì bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc
vuông. Pi của họ tính = 3,14.
Về Y học: người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại, mắt,
răng, dạ dày... Họ đã biết giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.
* Sơ lược về kim tự tháp Ai Cập:
Kim tự tháp là những ngôi mộ của các vua Ai Cập thuộc vương triều III và vương
triều IV thời Cổ vương quốc. Các ngôi mộ ấy được xây ở vùng sa mạc ở Tây Nam Cairô
ngày nay.
Kim tự tháp được bắt đầu xây dựng từ thời vua Giêde (Djeser), vua đầu tiên của
vương triều III, vương triều đầu tiên của thời Cổ vương quốc. Đây là một ngôi tháp có
4
bậc cao 60m, đáy là một hình chữ nhật dài 120m, rộng 106m. Xung quanh tháp Giêde có
đền thờ và mộ những thành viên trong gia đình và những người thân cận. Toàn bộ khu
lăng này được bao bọc bởi một vòng tường xây bằng đá vôi. Thời kì Kim tự tháp được
xây dựng nhiều nhất và đồ sộ nhất là thời vương triều IV. Vua đầu tiên của vương triều
này là Xnêphru, đã xây cho mình hai Kim tự tháp, cái thứ nhất cao 36,5m; cái thứ hai cao
99m. Các vua kế tiếp như Kêốp, Kêphren, Mikêrin đều xây dựng những Kim tự tháp rất
lớn: Kim tự tháp Kêốp (tên Ai Cập) là Hufu cao 146,5m; Kim tự tháp Kêphren cao
137m; Kim tự tháp Mikêrin cao 66m.
Trong số các Kim tự tháp ở Ai Cập cao lớn nhất, tiêu biểu nhất là Kim tự tháp của
Kêốp, con của Xnêphru. Kim tự tháp Kêốp xây thành hình thấp chóp, đáy là một hình
vuông mỗi cạnh 230m, bốn mặt là những hình tam giác ngoảnh về bốn hướng đông, tây,
nam, bắc. Toàn bộ Kim tự tháp được xây bằng những tảng đá vôi mài nhẵn, mỗi tảng
nặng 2,5 tấn và có tảng nặng 30 tấn. Để xây Kim tự tháp này, người ta đã dùng đến
2300000 tảng đá với một khối lượng là 2408000m3. Phương pháp xây Kim tự tháp là
ghép các tảng đá được mài nhẵn với nhau chứ không dùng vữa,
thế mà các mạch ghép kín đến mức một lá kim loại mỏng cũng không thể lách qua được.
Ở mặt phía Bắc của Kim tự tháp Kêốp, cách mặt đất hơn 13m, có một cái cửa thông với
hầm mộ, Kim tự tháp Kêốp có hai hầm mộ: một hầm mộ nằm ở sâu 30m dưới lòng đất và
một hầm mộ ở giữa Kim tự tháp cách mặt đất 40m. Người ta cho rằng theo thiết kế ban
đầu, hầm mộ ở sâu dưới đất, nhưng khi đã làm xong thì Kêốp thay đổi ý kiến, bắt phải
xây ở trên cao. Hơn 2000 năm sau, nhà sử học Hy Lạp Hêrôđôt đến Ai Cập còn được
nghe cư dân ở đây kể lại quá trình xây Kim tự tháp. Hêrôdôt cho biết, sau khi quyết định
xây Kim tự tháp, Kêốp đã huy động toàn thể nhân dân lao động trong nước đến công
trường làm việc. Họ được tổ chức thành từng đội gần 100000 người, cứ 3 tháng thì thay
phiên một lần. Kim tự tháp được xây ở tả ngạn sông Nin, nhưng nơi khai thác đá lại ở
hữu ngạn. Vì vậy, người ta phải dùng thuyền chở đá từ nơi khai thác đến xây Kim tự
tháp. Từ bến đá đến khu lồng mộ, người ta phải xây một con đường bằng những tảng đá
mài nhẵn, dài hơn 900m, rộng 18m và chỗ cao nhất là 15m. Chỉ riêng việc xây con
đường này đã mất 10 năm. Từ đây, người ta để đá lên xe trượt rồi dùng người hoặc bò
kéo để chở đá đến công trường. Không kể thời gian làm đường và hầm mộ dưới đất, việc
xây Kim tự tháp đã kéo dài 20 năm mới hoàn thành.
Việc xây dựng Kim tự tháp, như Hêrôđôt nói, "đã đem lại cho nhân dân Ai Cập cổ
đại không biết bao nhiêu tai họa". Nhưng nhân dân Ai Cập cổ đại, bằng bàn tay và khối
óc của mình, đã để lại cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá.
Trải qua gần 5000 năm, các Kim tự tháp hùng vĩ vẫn vững ở vùng sa mạc Ai Cập
bất chấp thời gian và mưa nắng. Và cũng chính vì vậy, từ thời cổ đại, người ta đã xếp
Kim tự tháp Kêốp là kì quan số một trong bảy kì quan thế giới. Đến nay, trong bảy kì
quan ấy, cũng chỉ còn lại mỗi Kim tự tháp mà thôi.
Câu 3: Trình bày nội dung bộ luật Hammurabi? Đánh giá về ưu điểm và hạn
chế của bộ luật này?
5
* Nội dung chính:
Về cơ cấu, bộ luật Hammurabi bao gồm gần 300 phần được cấu kết kỹ càng hơn bất
kỳ bộ luật nào trước đó mà chúng ta được biết, bao gồm ba phần chính: phần mở đầu,
phần nội dung và phần kết luận.
+ Phần mở đầu của bộ luật khẳng định rằng đất nước Babilon là một vương quốc do
các thần linh tạo ra. Và chính các thần linh này đã trao đất nước cho vua Hammurabi để
thống trị, làm cho đất nước giàu có, nhân dân no đủ. Hammurabi kể công lao của mình
đối với đất nước: “vì hạnh phúc của loài người, thần Anu (thần Trời) và thần Enlin
(thần Đất) đã ra lệnh cho trẫm, Hammurabi một vị vua quang minh và ngoan đạo, phát
huy chính nghĩa ở đời, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ
mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho trẫm giống như thần Samát (thần Mặt Trời, ánh
sáng và xét xử), soi đến dân đen, tỏ ánh sáng khắp mặt đất”. Vượt ra khỏi hạn chế lịch sử,
giá trị xã hội của bộ luật được thể hiện ngay ở mục đích ban hành luật “để cho người
mạnh không hà hiếp kẻ yếu, để cho những người cô quả có chỗ nương tựa ở thành
Babilon, nơi mà thủ lĩnh của nó được thần Anu và thần Enlin khen ngợi, ở đền Exajin mà
nền móng của nó lâu bền cùng với trời đất, để cho tòa án trong nước tiện việc xét xử, để
cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định, để cho những kẻ bị thiệt thòi được trình
bày chính nghĩa, trẫm khắc những lời vàng ngọc của trẫm lên cột đá của trẫm trước bức
tượng của trẫm cũng tức là bức tượng của một vị vua công bằng”. Đây là giá trị nhân văn
cao cả của bộ luật mà không phải tất cả các bộ luật thời cổ đại ở phương Đông đều có
được.
+ Phần nội dung chứa đựng 282 điều luật – đây là phần chủ yếu của bộ luật. Nội
dung của bộ luật chưa phân chia thành từng ngành luật riêng biệt, nhưng tác giả của bộ
luật đã có ý thức sắp xếp các điều khoản ra từng nhóm riêng theo nội dung của chúng.
Phần nội dung, bộ luật tập trung điều chỉnh bốn lĩnh vực chủ yếu là dân sự, hình sự, hôn
nhân gia đình và tố tụng nhưng không có sự tách rời giữa các lĩnh vực. Các qui phạm của
luật Hammurabi cũng giống như các bộ luật khác ở phương Đông là mang tính hàm hỗn,
các điều luật đều kèm theo chế tài. Ở mỗi nội dung của điều luật đều chứa đựng những
điểm tiến bộ và hạn chế so với luật pháp của các quốc gia cổ đại khác.
+ Trong phần kết luận, Hammurabi đề cao công lao của mình trước nhân dân, kêu
gọi những ông vua kế tục đền ơn và thực hiện những điều luật của Hammurabi: “Đây là
pháp luật do đức vua Hammurabi bách thắng đặt ra để đem lại hạnh phúc cho chân chính
và đặt nền thống trị nhân từ trong nước”. “Từ nay đến ngàn đời sau, các vua trong nước
phải tuân theo những lời chính nghĩa của trẫm đã khắc trên cột đá của trẫm, không được
thay đổi việc xét xử do trẫm đã quyết định”. Đồng thời, Hammurabi tuyên bố sẽ trừng trị
tất cả những ai xem thường và có ý định hủy bỏ bộ luật. Điều đó phần nào chứng tỏ vai
trò to lớn của bộ luật này đối với sự phát triển toàn thịnh của đất nước Lưỡng Hà thời
Babylonia.
* Đánh giá về bộ luật:
- Ưu điểm:
6
+ Về dân sự:
Những điểm tiến bộ, đặc sắc nhất của Bộ luật này chính là các quy định về dân sự.
Bộ luật đã đặc biệt chú ý điều chỉnh quan hệ hợp đồng, vì đây là quan hệ phổ biến ở xã
hội Lưỡng Hà cổ đại, có nhiều quy định không những tiến bộ về nội dung, mà còn chặt
chẽ về kĩ thuật lập pháp. Về chế định hợp đồng, Luật quy định ba điều kiện bắt buộc đối
với hợp đồng mua bán:
 Thứ nhất, người bán phải là chủ thực sự,
 Thứ hai, tài sản phải có giá trị sử dụng,
 Thứ ba, phải có người làm chứng.
Bộ luật cũng quy định các điều khoản lĩnh canh ruộng đất. Đối với ruộng, người
lĩnh canh nhận mỗi mùa từ 1/3 - 1/2 số sản phẩm thu hoạch. Đối với vườn được nhận 2/3
số sản phẩm thu hoạch. Điểm tiến bộ hơn nữa là luật đã quy định mức lãi suất đối với
hợp đồng vay nợ. Cụ thể luật quy định mức lãi suất đối với tiền là 1/5, vay thóc là 1/3.
Về chế định thừa kế tài sản, Luật Hammurabi phân làm hai loại thừa kế: thừa kế
theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.
Thừa kế theo pháp luật: Nếu người cho thừa kế không để lại di chúc thì tài sản được
chuyển đến cho những người có quyền đối với tài sản đó theo luật định. Thời gian đầu tài
sản tập trung ở dòng họ và dần dần được chuyển về gia đình có quyền thừa kế và thành
tài sản chung của gia đình. Đó là cách thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc: Bộ luật đã hạn chế quyền tự do của người viết di chúc như
quy định người cha không được tước quyền thừa kế của con trai nếu người con mới phạm
lỗi lần đầu và lỗi không nghiêm trọng. Con trai, con gái đều được hưởng quyền thừa kế
ngang nhau.
+ Về hôn nhân gia đình:
Theo xu hướng củng cố địa vị của người chồng, người cha nên trách nhiệm và nghĩa
vụ thuộc về người vợ và con cái. Nếu không có con, người chồng có quyền ly dị, bán vợ
hoặc lấy vợ lẽ. Nếu bắt được vợ ngoại tình thì chồng có quyền trói vợ và nhân tình của vợ
ném xuống sông cho chết. Ngược lại nếu vợ bắt được chồng ngoại tình, chỉ có quyền ly
dị mà thôi. Điểm tiến bộ là đã có quy định kết hôn phải có giấy tờ, ở mức độ nào đó có
quy định bảo vệ người phụ nữ (người vợ có quyền ly hôn khi người chồng đi khỏi nhà
không có lý do, chồng có quan hệ ngoại tình hay vu cáo vợ ngoại tình). Có một quy định
rất nhân đạo nếu đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ là: "Người chồng không được bỏ vợ khi
biết người vợ mắc bệnh phong hủi."
+ Về hình sự:
Lĩnh vực Hình sự là lĩnh vực thể hiện rõ nhất tính giai cấp và sự bất bình đẳng. Tàn
dư của xã hội nguyên thủy rất rõ là nguyên tắc trả thù ngang bằng, thậm chí còn cho phép
trừng trị cả những người không liên quan đến tội phạm. Nguyên tắc này chỉ căn cứ vào
hậu quả xảy ra trên thực tế để áp dụng trách nhiệm pháp lý, chứ không xét trên phương
diện mức độ lỗi và chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Thí dụ, Điều 38 quy định: " Nếu
thợ xây nhà mà xây không đảm bảo, nhà đổ, chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết." hoặc
7
Điều 39: "Nếu nhà đổ, con của người chủ nhà chết thì con của người thợ xây cũng phải
chết ".
+ Về tố tụng:
Tố tụng là thủ tục giải quyết các vụ án. Bộ luật đã có nhiều quy định về thủ tục bắt
giữ, giam cầm, quy định những nguyên tắc khi xét xử như xét xử phải công khai, phải coi
trọng chứng cứ, phán quyết phải được thi hành nghiêm minh... Có hai quy định rất đặc
thù về tố tụng của Bộ luật này:
 Về trách nhiệm của thẩm phán: "Nếu thẩm phán xử một vụ kiện mà ra phán quyết
bằng văn bản, nếu sau đó phát hiện lỗi trong văn bản là do lỗi của thẩm phán, thẩm phán
sẽ phải trả 12 lần giá trị tiền phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện, đồng
thời ông ta sẽ bị buộc phải rời khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn và không bao giờ có thể trở
thành thẩm phán lần nữa". Quy định về trách nhiệm của thẩm phán trong việc xét xử như
quy định trên trong một xã hội thể hiện tính giai cấp sâu sắc quả thật là một sự tiến bộ.
Qua đó cho thấy, thời kỳ này rất coi trọng công tác xét xử, rất coi trọng trách nhiệm xét
xử công bằng của thẩm phán. Sử sách đã ca ngợi rằng ở Lưỡng Hà cổ đại, tinh thần
thượng tôn luật pháp và thói quen cầu viện công lý đã ăn sâu vào tác phong sinh hoạt của
người dân nơi đây.
 Về hình thức xét xử: Nếu một người kiện một người khác, bị đơn sẽ phải đi đến
một dòng sông và nhảy xuống, nếu anh ta chìm, bị dòng nước cuốn đi, nguyên đơn sẽ sở
hữu nhà của bị đơn. Nhưng ngược lại, nếu dòng sông chứng minh rằng bị đơn là không
có tội, tức là anh ta còn sống sót, thì nguyên đơn sẽ bị giết chết, và bị đơn sẽ sở hữu nhà
của nguyên đơn".
- Nhược điểm:
Bên cạnh những tiến bộ, đúng đắn, về hình thức bộ luật còn có một số hạn chế nhất
định như: Luật chưa có tính khái quát cao, các quy định của luật chỉ là sự mô tả các hành
vi cụ thể; Các điều khoản thường được quy định dài dòng, các câu chữ trùng lặp với
nhau; Đa số các điều khoản của bộ luật đều liên quan đến hình luật, rất ít điều khoản quy
định về các quan hệ dân sự hoặc nếu có thì cũng bị hình sự hóa. Trong bộ luật này, chúng
ta thấy hầu hết các tội đều quy về tội tử hình, chưa tạo điều kiện cho những người phạm
tội có cơ hội sửa chữa sai lầm và trở lại hoàn lương.
Câu 4: Tìm hiểu về một tôn giáo tiêu biểu của Ấn Độ và phân tích ảnh hưởng
của tôn giáo này với thế giới?
Vào giữa thiên kỉ I TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện một số dòng tư tưởng chống đạo
Bàlamôn. Đạo Phật là một trong những dòng tư tưởng ấy.
“Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Phật là Xitđácta (Thích ca Mâuni), con
vua Tịnh Phạn ở chân núi Hymalaya, miền đất bao gồm một phần miền Nam nước Nepal
và một phần của Ấn Độ ngày nay.
Năm 29 tuổi, hoàng tử Xitđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt những
nỗi khổ của loài người. Đến năm 35 tuổi, Xitđácta đã nghĩ ra được cách giải thích bản
chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do dó cho rằng đã tìm được con đường cứu
8
vớt. Từ đó, ông được gọi là Buddha, ta quen gọi là Phật hoặc Bụt, nghĩa là "người đã
giác ngộ", "người đã hiểu được chân lí". Về niên đại của Phật, hiện nay đang có những ý
kiến khác nhau. Có một số người cho rằng Phật sinh năm 563 và mất năm 483 TCN; một
số người khác thì cho rằng Phật sinh năm 624 và mất năm 544 TCN. Tín đồ Phật giáo
lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỉ nguyên Phật giáo”.
Học thuyết Phật giáo: Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được tóm tắt
trong câu nói sau đây của Phật Thích ca: "Trước đây và ngày nay ta chỉ lí giải và nêu ra
cái chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ". Đó là: khổ đế, tập đế, diệt
đế, đạo đế.
+ Khổ đế là chân lí về các nỗi khổ. Theo Phật, con người có tám nỗi khổ (bát khổ):
sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ mình không ưa, xa người mình yêu, cầu mà không được, giữ
lấy 5 uẩn (thủ ngũ uẩn). "Uẩn (skandha) là tập hợp, tích tụ. Đạo Phật cho rằng con người
không có thực thể tự nó (vô ngã) mà chỉ là sự tập hợp 5 thứ: sắc (vật chất tạo thành thân
thể), thụ (cảm giác), tưởng (quan niệm), hành (hành động), thức (nhận thức). Vì con
người chỉ là sự tập hợp của 5 thứ đó, nên đó cũng là một nỗi khổ. Như vậy, đối với con
người, ngoài khổ đau vô tận, không có cái gì khác.
+ Tập đế là chân lí về nguyên nhân của các nỗi khổ. Nguyên nhân chủ yếu là luân
hồi, mà nguyên nhân của luân hồi là nghiệp, sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn như
ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang... Ham muốn không dứt thì nghiệp không dứt,
nghiệp không dứt thì luân hồi mãi mãi.
+ Diệt đế là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ. Nguyên nhân của khổ đau là luân
hồi, vì vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi thì phải
dứt nghiệp. Đó là một món nợ truyền từ kiếp này sang kiếp khác do lòng ham muốn tạo
nên, do đó nói vắn tắt muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết mọi ham muốn. Một
khi đã chấm dứt được luân hồi thì sẽ được yên tĩnh, thanh thản, sáng suốt và như vậy đã
đạt tới cảnh giới Niết bàn.
+ Đạo đế là chân lí về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện việc diệt
khổ. Con đường đó gọi là "bát chính đạo" (8 con đường đúng đắn), gồm: chính kiến,
chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính
định. => Chung quy "bát chính đạo" là suy nghĩ, nói năng và hành động đúng đắn.
Về giới luật, tín đồ Phật giáo chủ yếu phải kiêng 5 thứ (ngũ giới): không sát sinh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Như vậy, mọi vật đều
do nhân duyên hòa hợp mà thành.
Bên cạnh thuyết "vô tạo giả", đạo Phật còn nêu ra các thuyết "vô ngã", "vô thường".
+ Vô ngã là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người
cũng chỉ là sự tập hợp của 5 uẩn sắc, thụ, tưởng, hành, thức chứ không phải là một thực
thể tồn tại lâu dài. Đây là nội dung thứ hai mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn,
vì đạo Bàlamôn chủ trương có bản ngã.
+ Vô thường là mọi sự vật đầu ở trong quá trình sinh ra, biến đổi, tiêu diệt chứ
không bao giờ được ổn định.
9
Như vậy, về thế giới quan, tuy đạo Phật ban đầu chủ trƣơng vô thần (vô tạo giả)
nhưng chung quy vẫn là duy tâm chủ quan.
Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp, vì đạo Phật cho rằng
nguồn gốc xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để được cứu vớt. Mọi người,
dù thuộc
đẳng cấp nào một khi đã tu hành theo học thuyết của Phật thì đều trở thành những thành
viên bình đẳng của một Tăng đoàn. Đồng thời đạo Phật mong muốn có một xã hội trong
đó vua thì có đạo đức và phải dựa vào pháp luật để trị nước, không được chuyên quyền
độc đoán, còn nhân dân thì được an cư lạc nghiệp.
=> Như vậy, đạo Phật ban đầu là một học thuyết khuyên người ta phải từ bỏ ham
muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt chứ không thừa nhận thượng đế và
các vị thần bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái và cũng không có tầng lớp thầy
cúng. Về sau nó phát triển rộng khắp các nước Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á theo 3
nhánh chính: Bắc Tông, Nam Tông và Mật Tông. Các nhánh này làm tôn giáo đa dạng
theo từng quốc gia với ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Con người cũng
tin tưởng vào đạo Phật.
Câu 5: Trình bày thành tựu nghệ thuật của nền văn minh Trung Quốc cổ
trung đại?
Trung Quốc là một trong những nơi xuất hiện nền văn minh sớm thời cổ - trung đại.
Văn minh Trung Hoa thời cổ - trung đại có ảnh hưởng rất lớn tới các nước phương Đông.
- Chữ viết, văn học, sử học:
Chữ viết: Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên
mai rùa, xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn
hình thành nên Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc,
chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện.
Văn học: Kinh thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời
Xuân-Thu, được Khổng tử sưu tập và chỉnh lí. Kinh thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã,
Tụng. Thơ Đường là thời kì đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác
giả nổi bật lên ba nhà thơ lớn đó là Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. Tới thời Minh-Thanh,
tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc chí diễn nghĩa của
La Quán Trung, Thuỷ hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Nho lâm ngoại
sử của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần... trong đó Hồng lâu mộng
được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.
Sử học: Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời
Xuân-Thu đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên
soạn ra sách Xuân Thu. Tới thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại tác
Phẩm Sử kí, chép lại lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán
Vũ Đế. Tới thời Đông Hán, có các tác phẩm Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của Trần
Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp. Tới thời Minh - Thanh, các bộ sử như Minh sử, Tứ
khố toàn thư là những di sản văn hoá đồ sộ của Trung Quốc.
10
- Khoa học tự nhiên và kĩ thuật:
Toán học: Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây
Hán đã xuất hiện cuốn Chu bễ toán kinh, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số,
về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông. Thời Đông Hán, đã có cuốn Cửu
chương toán thuật, trong sách này đã nói đến khai căn bậc 2, căn bậc 3, phương trình bậc
nhất, đã có cả khái niệm số âm, số dương. Thời Nam - Bắc triều có một nhà toán học nổi
tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265 – đây là một con số cực kì
chính xác so với thế giới hồi đó.
Thiên văn học: Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới
800
vì sao. Họ đã xác định được chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra
lịch Can Chi. Thế kỉ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt trời.
Thế kỉ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất. Năm 1230, Quách Thủ
Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn Thụ thời lịch, xác định một năm có 365,2425 ngày.
Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII.
Y dược học: Thời Chiến Quốc đã có sách Hoàng đế nội kinh được coi là bộ sách
kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời Minh có cuốn Bản thảo cương mục của
Lí Thời Trân. Cuốn sách này được dịch ra chữ Latinh và được Darwin coi đây là bộ bách
khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành
tựu độc đáo của y học Trung Quốc.
Kĩ thuật: Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng
góp cho nhân loại, đó là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào
khoảng năm 105 do Thái Luân. Nghề in bằng những chữ rời đã được Tất Thăng sáng tạo
vào đời Tuỳ. Đồ sứ cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Từ thế kỉ VI, họ đã chế ra diêm
quẹt để tạo ra lửa cho tiện dụng.
- Hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc:
Hội hoạ: Hội hoạ Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch
hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới
các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm
hội hoạ từ đời Hán đến đời Tuỳ. Điêu khắc ở Trung Quốc cũng phân thành các ngành
riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng
Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới),
tượng Phật nghìn mắt nghìn tay.
Kiến trúc, điêu khắc: Cũng có những công trình rất nổi tiếng như Vạn lí trường
thành (tới 6700 km), Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.
- Triết học, tư tưởng:
Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành, Âm dương gia: Âm dương, bát quái, ngũ
hành, là những thuyết mà người Trung Quốc đã nêu ra từ thời cổ đại để giải thích thế
giới. Họ cho rằng trong vũ trụ luôn tồn tại hai loại khí không nhìn thấy được xâm nhập
vào trong mọi vật là âm và dương (lưỡng nghi). Bát quái là 8 yếu tố tạo thành thế giới:
11
Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm), Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài
(hồ). Trong Bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất.
Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Đó là 5 nguyên tố tạo thành vạn vật. Các
vật khác nhau là do sự pha trộn, tỉ lệ khác nhau do tạo hoá sinh ra. Sau này, những người
theo thuyết Âm dương gia đã kết hợp thuyết Âm dương với Ngũ hành rồi vận dụng nó để
giả thích các biến động của lịch sử xã hội.
Về tư tưởng:
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện rất nhiều những nhà tư
tưởng đưa ra những lí thuyết để tổ chức xã hội và giải thích các vấn đề của cuộc sống
(Bách gia tranh minh).
+ Nho gia: Đại biểu cho phái Nho gia là Khổng Tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ
trương lễ trị, phản đối pháp trị. Nho gia đề cao Tam cương, Ngũ thường cùng với tư
tưởng Chính danh định phận và đề cao tư tưởng Thiên mệnh. Giá trị quan trọng nhất
trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi
người. Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán
Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho gia đã được đề cao một
cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo.
+ Đạo gia: Đại biểu cho phái Đạo gia là Lão Tử và Trang Tử. Hai ông đã thể hiện
tư tưởng của mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Theo Lão Tử,
“Đạo” là cơ sở đầu tiên của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Qui luật biến
hoá tự thân của mỗi sự vật ông gọi là “Đức”. Lão Tử cho rằng mọi vật sinh thành, phát
triển và suy vong đều có mối liên hệ với nhau. Tới thời Trang Tử, tư tưởng của phái Đạo
gia mang nặng tính buông xuôi, xa lánh cuộc đời. Họ cho rằng mọi hoạt động của con
người đều không thể cưỡng lại “đạo trời”, từ đó sinh tư tưởng an phận, lánh đời. Phái
Đạo giáo sinh ra sau này khác hẳn Đạo gia, mặc dù có phái trong Đạo giáo tôn Lão Tử
làm “Thái thượng lão quân”. Hạt nhân cơ bản của Đạo giáo là tư tưởng thần tiên. Đạo
giáo cho rằng sống là một việc sung sướng nên họ trọng sinh, lạc sinh.
+ Pháp gia: Ngược hẳn với phái Nho gia, phái Pháp gia chủ trương “pháp trị”, coi
nhẹ “lễ trị”. Tiêu biểu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, một kẻ sĩ thời Tần Thuỷ Hoàng.
Theo Hàn Phi Tử, trị nước chỉ cần pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu với mọi
người, không cần lễ nghĩa. Ông cho rằng trị nước cần nhất 3 điều:
• Pháp: đó là phải định ra được pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu, công bằng
với mọi người, không phân biệt đó là quí tộc hay dân đen.
• Thế: Muốn thực thi pháp luật thì các bậc quân vương phải nắm vững quyền thế,
không chia xẻ cho kẻ khác.
• Thuật: đó là thuật dùng người. Thuật có 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng
phạt. Thuật bổ nhiệm là khi chọn quan lại chỉ căn cứ vào tài năng và lòng trung thành,
không cần dòng dõi, đức hạnh. Khảo hạch là phải kiểm tra công việc thường xuyên.
Thưởng phạt thì chủ trương “ai có công thì thưởng, ai có tội thì trừng phạt thật nặng, bất
kể là quí tộc hay dân đen”, trọng thưởng, trọng phạt.
12
+ Mặc gia: Người đề xướng là Mặc Tử (Khoảng giữa thế kỉ V TCN đến giữa thế kỉ
IV TCN). Hạt nhân tư tưởng triết học của Mặc gia là nhân và nghĩa. Mặc Tử còn là
người chủ trương “ thủ thực hư danh” (lấy thực đặt tên). Tư tưởng của phái Mặc gia đầy
thiện chí nhưng cũng không ít ảo tưởng. Từ đời Tần, Hán trở về sau, ảnh hưởng của phái
Mặc gia hầu như không còn đáng kể.
Vạn Lý Trường Thành được xây dựng như thế nào?

 Vạn Lý Trường Thành  được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới
thế kỷ 16,
 Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây từ năm 220
TCN và 200 TCN. Bức tường này không được xây dựng bởi nỗ lực của một
nhóm mà là việc ghép nối nhiều đoạn tường thành của các vùng, từng được xây
dựng ở thời Chiến Quốc.
 Bức tường được nối vào nhau ở thời gian đó làm bằng đất nện với những tháp
canh được xây ở các khoảng cách đều nhau.
 Nó nằm xa hơn về phía bắc so với Vạn lý trường thành hiện tại với điểm cực
đông nằm ở Bắc Triều Tiên hiện nay chỉ còn ít phần của nó còn sót lại các bức
ảnh cho thấy những ụ đất thấp, dài.
 Một số đoạn tường thành được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 TCN, , nằm ở phía bắc
xa hơn phần Vạn Lý Trường Thành hiện nay của Trung Quốc xây dưới thời nhà
Minh, và hiện chỉ còn sót lại ít di tích.
 Bức tường dài tiếp theo được nhà Hán, nhà Tùy, và giai đoạn Thập Quốc xây
dựng tiếp với cùng kiểu thiết kế. Nó được làm bằng đất nện với nhiều tháp canh
nhiều tầng được xây cách nhau vài dặm.
 Vạn Lý Trường Thành ngày nay được xây ở thời nhà Minh, bắt đầu khoảng
năm 1368 và kết thúc khoảng năm 1640.
 Ước tính có khoảng 25.000 tháp canh đã được xây dựng dọc theo bức tường.
Có năm đoạn thành chính:

1. 208 TCN (nhà Tần)


2. thế kỷ thứ 1 TCN (nhà Hán)
3. thế kỷ thứ 7 (nhà Tùy)
4. 1138 – 1198 (Thời Nam Tống)
5. 1368 – 1640 (từ vua Hồng Vũ đến vua Vạn Lịch của nhà Minh)
Ý nghĩa của Vạn Lý Trường Thành: Mục đích Xây

 Để bảo vệ  Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông
Cổ, người Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc
Mông Cổ và Mãn Châu.
 Các mục đích khác của Vạn Lý Trường Thành bao gồm kiểm soát biên giới,
cho phép áp đặt thuế đối với hàng hóa vận chuyển theo con đường tơ lụa, quy
định hoặc khuyến khích thương mại và kiểm soát xuất nhập cảnh.

13
 Hơn nữa, đặc điểm phòng thủ của Vạn Lý Trường Thành đã được tăng cường
bằng việc xây dựng các tháp canh, doanh trại quân đội, trạm đóng quân, báo
hiệu có giặc thông qua các phương tiện khói hoặc lửa, và thực tế là con đường
của Vạn Lý Trường Thành cũng phục vụ như là một hành lang giao thông vận
tải.
 Lý do để Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành bắt nguồn từ một câu
“sấm”: “Vong Tần giả, Hồ dã” (Tần mất là do Hồ). Tần Thủy Hoàng tưởng chữ
“Hồ” là chỉ giặc Hồ phương Bắc. Dù người làm mất nhà Tần hóa ra là Thái tử
“Hồ” Hợi, di sản mà hoàng đế thống nhất Trung Quốc để lại cũng đã đặt nền
móng cho Vạn Lý Trường Thành sau này.
 Về mặt quân sự, những bức tường này có ý nghĩa về mặt phân chia ranh giới
hơn là công sự bảo vệ có giá trị. Chắc chắn rằng chiến lược quân sự của Trung
Quốc không diễn ra quanh việc giữ vững bức tường thành.
1. Tử Cấm Thành được xây dựng từ năm 1406 tới năm 1420, gồm 980 tòa nhà trên diện
tích 720.000 m2.

3. Tử Cấm Thành được xây dựng trong 14 năm với những vật liệu cao cấp như gạch Tô
Châu, ngói men ngọc An Huy, đá quý Phòng Sơn, gỗ quí Phương Nam.

4. Đây là nơi ở của 24 vị hoàng đế, 14 hoàng đế triều Minh và 10 hoàng đế triều Thanh.

5. Đa số mái của các cung điện đều lợp ngói hoàng lưu li màu vàng, màu tượng trưng cho
triều đình Trung Quốc. Màu vàng trong thuyết ngũ hành là thổ, gốc của vạn vật, cho nên
xưa nay màu vàng được giới thống trị xem là màu tôn quý nhất.

6. Tường cung điện được sơn màu đỏ tươi, tượng trưng cho sự trang nghiêm, hạnh phúc,
may mắn. Thời xưa, trừ hoàng cung ra, chỉ có phủ thân vương và những đền miếu quan
trọng mới được dùng màu đỏ.

7. Tử Cấm Thành là một khu tổ hợp các công trình cổ, với nhiều hiện vật quý từ gốm và
ngọc bích. Tổng cộng tòa thành này có 9.999 căn phòng.

8. Mỗi phòng trong số 9.999 phòng đều được trang trí bởi các bức tượng. Phòng càng
quan trọng thì càng có nhiều tượng. Phòng quan trọng nhất có tới 10 bức tượng.

11. Tòa thành có tên Tử Cấm Thành một phần là vì bất kể ai ra vào đây đều phải được
cho phép, thường dân không được vào, nếu cố tình vi phạm sẽ bị xử tử.

12. Số 9 (cửu) được coi là con số tượng trưng cho hoàng đế, vì vậy có 9 cửa dẫn vào nội
đình (hậu cung). Các cửa này đều là những tòa lầu được trang trí lộng lẫy.

14
13. Hai tượng sư tử đồng đặt trên bệ đá ở cửa nội đình gồm một con đực và một con cái.
Con đực giữ một quả bóng lụa dưới chân, tượng trưng cho quyền lực. Con cái giữ một
con sư tử con, tượng trưng cho sự sống.

14. Phần móng của Tử Cấm Thành được lát các phiến đá dày 3 m để tránh có kẻ xâm
nhập từ phía dưới.

15. Để thể hiện sức mạnh của “Thiên tử” tức “con trời”, nơi hoàng đế sống phải là trung
tâm của thế giới. Do đó tất cả các cánh cổng, điện và các công trình của Tử Cấm Thành
đều được sắp xếp quanh tâm trục Bắc – Nam của Bắc Kinh thời cổ. Trung tâm Tử Cấm
Thành là Hoàng thành; trung tâm Hoàng thành là Cung thành, trung tâm Cung thành là
Thái Hòa điện, trung tâm của Thái Hòa điện là Tu Mi Sơn, tượng trưng cho trung tâm của
vũ trụ. Tầng tầng lớp lớp kiến trúc ấy xoay quanh trục chính, hướng vào trung tâm và tôn
quý trung tâm.

Câu 6: Trình bày 4 thành tựu khoa học tự nhiên lớn của người Trung Quốc?
Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho
nhân loại, đó là: giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in.

. Giấy-Phát minh làm thay đổi mọi mặt của cuộc sống
- Giấy do người Trung Quốc phát minh ra vào năm 105 TCN.
-Trước khi có giấy, con người thường ghi ghép các văn kiện quan trọng bằng hình vẽ trên
đá, trên các tấm bia bằng đất sét và sau đó nữa là người ta dùng da để lưu trữ các tư
liệu.Ý tưởng về giấy xuất hiện vào năm 100 TCN .Từ nhà Hán , giấy bông tơ đã xuất
hiện .Nhưng công nghệ làm giấy quá phức tạp lại có thành rất đắt.Sau đó 1 vị hoạn quan
đã xuất hiện và thay đổi cục diện bấy giờ. Ông tên là Thái Luân còn gọi là Sái Luân -Thái
giám của Hán Hoà Đế.Ông sinh năm 61 , xuất thân trong một gia đình nông dân . Năm
15 tuổi ông được chọn làm tuỳ tùng của vua,trở thành quan văn cao cấp trongthời gian
dài.Lúc đó Thái Luân thấy mọi người viết chữ không tiện lắm , thẻ tre và ván quá
nặng ,tơ lụa quá đắt,giấy bông tơ lại không thể sản xuất nhiều ,ông bắt đầu nghiên cứu
biệnpháp cải tiến kỹ thuật làm giấy. Do công lao ấy,năm 114, Thái Luân đ uợc vua
ĐôngHán ƣphong tước "Long Đình hầu". Nhân dân thì gọi giấy do ông chế tạo là "Giấy
Thái hầu" và tôn ông làm tổ sư của nghề làm giấy.Hoạn quan Thái Luân chế giấy bằng
cách lấy ruột cây dâu tằm và xơ của cây tre đem trộn với nước rồi giã nát , đổ hỗn hợp
lên tấm vải căng phảng và trải mảng rồi để ráo nước.Khi hỗn hợp đã khô,mọi người có
thể viết chữ một cách dễ dàng mà lại nhẹ nhàng không phải tốn sức khắc đục như
trước .Trước đó làm giấy từ tơ lụa, chủ yếu làm từ sợi bên trong của vỏ cây dâu tằm,
cũng đã có giấy làm từ cây gai dầu (Cannabis), còn được gọi là cây cần sa ,từ lụa,Thái
Luân cũng đã thử qua,thậm chí là lưới đánh cá nhưng các công thức chính xác thì đã bị
thất
truyền. Thái Luân từng phụ trách công tác hiệu đính sách trong hoàng cung, hiệu đính
xong phải chép bản sao cho các quan chức địa phương và công việc này cần rất nhiều

15
giấy ,ông đã ra sức thúc đẩy để kỹ thuật làm giấy của TQ ngày càng phát triển hơn .Sau
này thì kỹ thuật đótheo chân các nhà sư ,phật giáo đi theo hai hướng :- Một là qua Trung
Á theo con đường tơ lụa.- Hai là đến Hàn Quốc , sau đó đến Nhật Bản.Để giấy phát triển
mạnh mẽ hơn nữa sau khi người Ả Rập kế thừa quy trình làm giấy của người TQ. Đến
năm 751, kỹ thuật làmgiấy được lan truyền mạnh mẽ sang phương Tây sau trận Đát La
Tư,một cuộc xung đột triều đại Hồi giáo Abbas và nhà Đường TQ nhằm giành quyền
kiểm soát Syr Darya. Nhà abbas đã bắt các tù binh người TQ và có khả năng chính những
tù binh này đã hé lộ kỷ thuật làm giấy . Đến thời Đường, kĩ thuật làm giấy đã hoàn chỉnh,
người ta pha thêm hồ bột với nhựa cây, tạo ra giấy chắc hơn và dễ thấm mực.Mãi cho đến
năm thế kỷ XII kỹ thuật sản xuất giấy mới lan truyền đến châu Âu qua các giao lưu văn
hóa giữa phương Tây Thiên chúa giáo và phương Đông Ả Rập cũng như qua nước Tây
Ban Nha thời kỳ Hồi giáo. Sau khi nghề làm giấy được truyền bá rộng rãi, các chất liệu
dùng để viết trước kia như lá cây ở Ấn Độ, giấy papirut ở Ai Cập, da cừu ở châu Âu...
đều bị giấy thay thế.Vai trò của giấy là không thể phủ nhận được,nó cho phép chúng ta
truyền thông tin ,làm thay đổi mối quan hệ của ta với tiền bạc,cải thiện về vấn đề vệ sinh
và giúp cho các thành phố được phát triển và thậm chí có những lĩnh vực không thể tồn
tại nếu thiếu giấy .Công nghệ kỹ thuật số đang phát triển với tốc độ chóng mặt nhưng
giấy vẫn khẳng định được tầm quan trọng của mình Các cuộc điều tra khảo cổ học cho
thấy thực tế giấy đã được phát minh từ khoảng 200 năm trước khi trước khi kĩ thuật của
Thái Luân ra đời .Những mảnh giấy cổ từ tàng tích huyền tuyền ở Đông Hoàng tỉnh Cam
Túc phía Tây Bắc của TQ có vẻ được làm từ thời Hán Vũ Đế trị vì từ năm 140 TCN-87
TCN. Cho nên Thái Luân chỉ được coi là người có công cải tiến kỹ thuật làm giấy ở
Trung Quốc.

2. Kỹ thuật in-Khởi đầu của việc phổ biến sách

.Khởi nguồn của nghề in trước hết phải cần nhắc đến con dấu hoặc bia khắc .Chúng xuất
hiện sớm nhất vào thời Xuân-Thu Chiến Quốc.Theo lịch sử ghi chép, sau khi Tần thuỷ
hoàng thống nhất giang sơn . Ông muốn ghi lại công lao hiển hách của mình đến muôn
đời nên đã cho khắc chiến công của mình lên những bia đá ở nhiều nơi.Năm 175 theo đề
nghị của nhà học giả Sái Ung , Tần Thuỷ Hoàng đã sai khắc vũ kinh của đạo Nho vào bia
đá để mọi người biết thêm .Việc sử dụng con dấu và đá khắc lâu dàiđã tạo điều kiện cho
nghề in ra đời.Người Trung Quốc khi sử dụng con dấu phải bôi lên nền mặt của nó một
lớp bùn in mỏng gọi là phong nê.Khoảng thời nhà Tuỳ, kỹ thuật in khắc xuất hiện . Lúc
16
đầu là khăc và in tượng Phật, kinh Phật ,sau đó mới khắc in các loại sách khác
nhau.Người ta khắc những trang sách lên tấm gỗ giống như khắc những con dấu kế đó
quét mực in và ép tấm gỗ trên mặt giấy, bản in cổ nhất đến hiện nay là cuốn in "Kinh
Kim Cương" vào năm thứ 9 Đường Duy Tông năm 868. Kỹ thuật in khắc bản đã đưa
nghề in tiến bộ thêm 1 bước lớn. Tuy nhiên việc in một cuốn sách vẫn mất rất nhiều thời
gian . Đến thời nhà Tống, một dân thường tên là Tất Thăng đã phát minh ra kỹ thuật in
chữ rời bằng đất sét nung .Ông đã lấy các mẫu đất sét chia thành các mẫu bằng nhau
khắc chữ ngược lên bề mặt rồi bỏ vào lo nung cho cứng lại ,tạo ra các chữ rời. Sau đó
người quét lên một lớp sáp và nhựa thông lên khung ván bằng sắt, xếp chữ rời thành một
văn bản hoàn chỉnh ,khi hơ lên lửa sáp và nhựa thông sẽ chảy ra người ta lấy mặt ván
phẳng ép lên , sáp và nhựa thông sẽ đông cứng lại ,chữ rời sẽ bám chặt vào ván sắt.Phát
minh của Tất Thăng tuy là một bước nhảyvọt của nghề in nhưng mà vẫn còn một số
nhược điểm :Chữ hay mòn , khó tô mực , ko sắc nét.Đầu TK 14 những nhược điểm được
khắc phục dần,Thẩm Quát đã thử dùng chữ gỗ thay chữ đất sét nung nhưng chưa có kết
quả ,kỹ thuật in tiếp tục được cải tiến với đút chữ rời bằng thiết ở thời Nguyên, bằng
đồng ,chì ở thời Minh .Từ thời Đường thì kỹ thuật in của TQ được truyền sang Nhật Bản,
Triều Tiên,Ba Tư ,Ả Rập và Châu Âu.Ở Châu Âu, sự ra đời kỹ thuật in bằng kim loại có
thể dịch chuyển được đã giúp cho việc in ấn trở nên đơn giản hơn rất nhiều,có thể nói kỹ
thuật in của TQ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển văn hoá trên toàn thế giới.

La bàn-Kim chỉ nam

Từ xưa con người đã ý thức được tầm quan trọng của việc xác định phương hướng,đúc
kết phương pháp nhận biết phương hướng như :quan sát địa hình,mặt trời,địa vật nhưng
những cách này không hiệu quả. Theo truyền thuyết thời Hiên Viên hoàng đế (2711
TCN- 2599TCN) có một dụng cụ gọi là “chỉ nam xa”- Trên chiếc xe hai bánh có một hình
nhân luôn chỉ về hướng Nam bất kể xe đang di chuyển theo hướng nào ,có khả năng đây
là phát hiện sớm nhất về la bàn. Mặc dù nổi danh là 1 thiết bị cơ khí có khả năng hoạt
động như một la bàn phi từ tính nhưng lai lịch và nguồn gốc của “chỉ nam xa” vẫn còn
gây nhiều tranh luận.Vào khoảng thời Xuân Thu-Chiến Quốc, người TQ phát hiện ra từ
thạch(đá nam châm)với hai đặc tính : một là hút sắt, hai là tính chỉ cực.Đặc tính hút sắt
của từ thạch vốn đã được người cổ Hy Lạp phát hiện nhưng tính chỉ cực thì người Châu
Âu biết muộn hơn người TQ rất nhiều .Sau khi phát hiện đặc tính chỉ cực của từ
thạch ,người TQ đã tận dụng nó để tạo ra một dụng cụ cókhả năng chỉ về hướng nam gọi
17
là “Kim chỉ nam” vì TQ xem hướng nam là hướng của vua chúa . Căn cứ vào văn tự và
các hiện vật khảo cổ, người ta đã phục chế thành công”Kim chỉ nam” theo các nguyên lý
trước đây.Nó có hình dáng một cái muỗng cắt ra từ một miếng nam châm thiên nhiên
được đặt trên một cái đế bằng đồng đã mài láng để giảm ma sát .Phần đế tròn láng để
chính giữ đế đồng làm trọng tâm,cán muỗng có thể quay xung quanh ,sau khi đứng im
cán của nó luôn chỉ về hướng Nam .Vào thời Bắc Tống, người Trung Quốc bắt đầu làm
ra”chỉ nam ngư”, đầu nó luôn chỉ về hướng Nam với phương pháp đơn giản : Tán 1 tấm
ván thành hình dạng con cá ,nung đỏ trên bếp lò ,tạo hình đầu đuôi rồi thả vào nước
lạnh,đây chính là công nghệ làm nhiễm từ sắt bằng cách tôi luyện và xử lý nhiệt.Đưa
miếng sắt đã bị nhiễm từ lên mẫu gỗ đặt trong bát nước nhỏ ,đầu nó sẽ chỉ về hướng nam.
Dần dần thì người ta thay con cá bằng một cây kim sắt đã chà sát trên một nam chân
thiên nhiên.Khi kim đã được độ từ hoá cần thiết đặt nó lên một miếng gỗ nhỏ hay một
cộng sậy nó sẽ luôn chỉ hướng nam.Sau này kim từ hoá thường gắn vào một cái chén có
ghi phương hướng.TQ không chỉ là quê hương của la bàn mà còn là nước sớm nhất biết
dùng phương pháp cảm ứng từ để chế tạo ra nam châm và sử dụng la bàn trong khi đi
biển.Điều này có ý nghĩa quyết định Văn minh nhân loại .Ngày nay la bàn từ tính vẫn
được sử dụng rộng rãi vì nó không cần nguồn năng lượng bên ngoài có thể dùng bất cứ
lúc nào, nhất là trường hợp khẩn cấp như lạc đường , mất điện,..

Thuốc súng- Phát minh nổi tiếng nhất của người Trung hoa
Thuốc súng ,thuốc nổ đen hay đạn dược có lẽ là phát minh mổi tiếng nhất của văn minh
Trunghoa cổ đại .Ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của toàn nhân loại , nó bắt
nguồn từ các nhà giả kim thuật thời đó gọi là nhà luyện đan .Họ tìm tòi ,nghiên cứu mong
tìm ra phương thuốc "Trường sinh bất tử" và dâng lên hoàng đế., các nhà luyện đan vô
tình tạo ra một dạng bột dễ cháy đó chính là hỗn hợp :Lưu huỳnh,diêm tiêu và than
củi .Trong thời gian đầu người Trung Quốc không thể tìm ra cách chế tạo thứ bột có thể
phát nổ này.Đến đầu thời nhà Đường,người ta đã tìm ra tỉ lệ diêm tiêu, lưu huỳnh,than gỗ
cần thiết để tạo ra thuốc nổ đen.Vào cuối thời nhà Đường,người ta đã biết dùng loại thuốc
này vào mục đích quân sự , thành phần của nó cũng được xác định chính xác gồm diêm
tiêu 75%, bột than 15%, lưu huỳnh 10%.Đến đời nhà Tống, thuốc nổ đen được sản xuất
trên quy mô lớn khi triều dình mở các binh xưởng. Ngoài diêm tiêu,lưu huỳnh,than gỗ
ngta còn cho thêm axit sunforic ,nhựa thông ,sáp ong,sơn cùng các loại chất dễ cháy khác
.Việc chế tạo thuốc nổ đen du nhập vào nhân gian khoảng đầu vào năm Tống .Người ta

18
nhồi vào ống tre để phóng lửa hay pháo thăng thiên .Song song với việc tìm ra công
thức ,người TQ bắt đầu tìm công thức tạo ra pháo hoa bắn trong các nghi lễ và chống lại
quân xâm lược Mông cổ ,họ sử dụng một loại vũ khí tựa như tên lửa ,một đầu có gắn ống
thuốc súng nhỏ , phóng về phía địch và rất có thể là người Mông cổ đã lan truyền thứ vũ
khí này ra toàn thế giới.sau này các nước đã học đc cách chế tạothuốc súng của TQ và
mang chúng đến Ba Tư,Ấn Độ,cuối cùng là Châu Âu.Từ đây thuốc súng chính thức được
đưa vào chiến tranh quân sự như một con át chủ bài.Một trong những

điều lớn nhất mà thuốc súng đã làm là định hình lại chiến tranh , những cuộc chiến cự ly
gần
không còn được áp dụng.
Ý nghĩa bốn phát minh lớn :
-Đối với trung quốc bốn phát minh trên ra đời không chỉ trực tiếp giúp cải thiện đời sống
vật
chất và tinh thần của con người Trung Quốc, mà đó còn là những đóng góp không nhỏ
của
một nền văn minh cho toàn nhân loại.
-Đối với thế giới sự ra đời của kĩ thuật làm giấy, kĩ thuật in, thuốc súng và kim chỉ nam
đã
nâng cao được vị thế của loài người, đưa nhân loại tiến lên một bước trong quá trình
chinh
phục tự nhiên và tranh đấu với tự nhiên với chính con người để sinh tồn và phát triển.
-Thời trung cổ, ở châu Âu người ta từng nói phải mất hơn 300 tấm da cừu mới chép được
một
quyển "Kinh thánh", việc truyền bá thông tin văn hóa bị hạn chế do giới hạn của các loại
vật
liệu, nên phạm vi nhỏ hẹp. Chính việc phát minh ra giấy đã tạo điều kiện cực kì thuận lợi
cho
các hoạt động giáo dục, chính trị và thương mại đang bùng nổ ở châu Âu vào thời điểm
đó.
-Nghề in truyền tới châu Âu, sau đó đã làm thay đổi tình trạng chỉ có mục sư mới đọc
được
sách và thụ hưởng chế độ giáo dục cao thời bấy giờ. Đã cung cấp một điều kiện vật chất
quan trọng cho sự phát triển nhanh chóng của khoa học châu Âu sau đêm dài thời trung
cổ và sự xuất hiện của cuộc vận động văn hóa Phục hưng .- Súng còn đóng vai trò quan
trọng trong việc người dân châu Âu đấu tranh phản đối chế độ quân chủ chuyên chế. Việc
phát minh ra thuốc súng đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển của lịch sử và là một
trong những trụ cột quan trọng của thời Phục hưng châu Âu.-Việc sử dụng la bàn trong
việc chỉ đường đã thúc đẩy Columbo tìm ra lục địa mới là châu Mỹvà Magellan thực hiện
chuyến du hành vòng quanh thế giới. Điều này đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển
của kinh tế thế giớI

Câu 7: Trình bày thành tựu triết học và khoa học tự nhiên của nền văn minh
Hi Lạp và La Mã cổ đại?
1. Nền văn minh Hi Lạp cổ đại:
19
- Khoa học tự nhiên: Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều
nhà bác học mà đóng góp của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Ơclit (Euclide), người đưa
ra các tiên đề hình học đặt cơ sở cho môn hình học sơ cấp. Pitago ( Pythagoras), ông đã
chứng minh định lí mang tên ông và ngay từ thế kỉ V TCN ông đã đưa ra giả thuyết trái
đất hình cầu. Talét (Thales), người đã đưa ra Tỉ lệ thức (Định lí Talét). Đặc biệt là
Acsimet (Archimede), người đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn
đá và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu vật đó trong lòng chất lỏng (lực đẩy
Acsimet).
- Triết học: Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai
trường phái triết học duy vật và duy tâm. Đại diện cho trường phái duy vật là các nhà triết
học nổi tiếng như: Talét (Thales), Hêraclit (Heracleitus), Đêmôcrit (Democritus)... Đại
diện cho trường phái duy tâm là các nhà triết học: Platôn, Arixtôt.
2. Nền văn minh La Mã cổ đại:
- Triết học: Các nhà triết học La Mã cũng đã kế thừa truyền thống của triết học Hy
Lạp, kế thừa những tư tưởng duy vật của Đêmôcrit. Những nhà triết học tiêu biểu thời kì
đó như: Lucretius, Ciceron.
- Khoa học tự nhiên: Các nhà khoa học người La Mã cũng có công sưu tập, tổng
hợp những kiến thức khoa học khắp vùng Địa Trung Hải. Những nhà khoa học nổi tiếng
thời đó như Plinius, Ptôlêmê, Hêrôn.
Câu 8: Trình bày thành tựu nghệ thuật của nền văn minh Hi Lạp và La Mã cổ
đại?
1. Nền văn minh Hi Lạp cổ đại:
Tuy xuất hiện muộn hơn nền văn minh Ai Cập nhưng nhờ tiếp thu được nhiều giá
trị từ Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại và phát triển lên, nâng lên tầm khái quát, nên nền văn
minh Hy Lạp cổ đại đã có rất nhiều đóng góp giá trị.
- Chữ viết, văn học:
Về chữ viết: người Hy Lạp cổ đại đã dựa trên hệ thống chữ viết của người Phênixi
(Phoenicia) rồi cải tiến, bổ xung thành một hệ thống chữ cái mới gồm 24 chữ cái. Từ chữ
Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ. Đó là cơ sở chữ viết mà
nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng.
Về văn học: Văn học Hy Lạp cổ đại có thể chia ra làm ba bộ phận chủ yếu có liên
quan với nhau, đó là thần thoại, kịch, thơ. Người Hy Lạp có một hệ thống thần thoại rất
phong phú để mô tả thế giới tự nhiên, nói lên kinh nghiệm cuộc sống và cả tâm tư sâu kín
của con người. Hầu như trong cuộc sống thời đó có việc gì thì đều có thần bảo trợ, lo về
công việc đó. Kho tàng thần thoại Hy Lạp mãi tới ngày nay còn được nhiều môn nghệ
thuật ở các nước trên thế giới khai thác. Đây là một dân tộc có một kho tàng thần thoại
mà nhiều dân tộc lớn trên thế giới phải ghen tị. Về sau, khi có chữ viết, kho tàng thần
thoại này được Hêdiốt (nhà thơ Hy Lạp sống vào thế kỉ VIII TCN) hệ thống lại trong tác
phẩm Gia phả các thần. Thơ ca là thể loại văn học rất phát triển, đặc biệt nó có thế mạnh
khi chưa có chữ viết. Tiêu biểu nhất phải kể đến tác phẩm Iliat và Ôđixê của Homer (thế
20
kỉ IX TCN). Tới thế kỉ VII-VI TCN xuất hiện nhiều nhà thơ được công chúng ưa thích
như Acsilôcút, Xôlông, Xaphô, Anacrêông... Hy Lạp là quê hương của kịch nói phương
Tây. Ở đây có cả bi kịch lẫn hài kịch. Những nhà viết kịch nổi tiếng thời đó như Etsin,
Sôphôclơ, Ơripit...
- Sử học:
Từ thế kỉ VIII-VI TCN, lịch sử Hy Lạp chỉ được truyền lại bằng truyền thuyết và sử
thi. Đến thế kỉ V TCN lịch sử ở Hy Lạp mới trở thành một bộ môn riêng biệt. Các nhà
viết sử tiêu biểu của Hy Lạp thời đó là Hêrôđôt (Herodotus) với cuốn Lịch sử chiến tranh
Hy-Ba, Tuyxiđit (Thuycudides) cuốn Lịch sử chiến tranh Plôpônedơ.
- Kiến trúc, điêu khắc:
Những công trình kiến trúc của Hy Lạp cổ đại không hùng vĩ như của Ai Cập cổ đại
nhưng nó lại nổi bật ở sự thanh thoát, hài hoà. Các công trình kiến trúc ở Hy Lạp cổ đại
thường được xây dựng trên những nền móng hình chữ nhật với những dãy cột đá tròn ở
bốn mặt. Qua nhiều thế kỉ, người Hy Lạp cổ đại đã hình thành ra ba kiểu cột mà ngày nay
người ta vẫn thể hiện trong trường phái “cổ điển”. Kiểu Đôric (thế kỉ VII TCN), trên
cùng là những phiến đá vuông giản dị không có trang trí; kiểu Lônic (TK. V TCN) cột đá
tròn thon hơn, có đường cong ở bốn góc phiến đá hình vuông như hai lọn tọc uốn; kiểu
Côranh (thế kỉ IV TCn) có những cành lá dưới những đường cong, thường cao hơn và bệ
đỡ cầu kì hơn. Các công trình kiến trúc tiêu biểu thời bấy giờ là đền Pactơnông
(Parthenon) ở Aten, đền thờ thần Dớt (Zeus) ở núi Olempia, đền thờ nữ thần Atena
(Athena).
Các nhà điêu khắc ở Hy Lạp cổ đại cũng để lại nhiều tác phẩm tới bây giờ vẫn xứng
đáng là mẫu mực cho điêu khắc như các pho tượng Vệ nữ ở Milô, tượng Lực sĩ ném đĩa,
tượng nữ thần Atena, tượng thần Hecmet... Những nhà điêu khắc tiêu biểu thời đó như
Phiđat (Phidias), Mirông (Miron), Pêliklêt, (Polykleitos)...
- Khoa học tự nhiên:
Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều nhà bác học mà đóng góp
của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Ơclit (Euclide), người đưa ra các tiên đề hình học đặt
cơ sở cho môn hình học sơ cấp. Pitago (Pythagoras), ông đã chứng minh định lí mang tên
ông và ngay từ thế kỉ V TCN ông đã đưa ra giả thuyết trái đất hình cầu. Talét (Thales),
người đã đưa ra tỉ lệ thức (Định lí Talét). Đặc biệt là Acsimet (Archimede), người đã đề
ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy tác động
lên một vật nếu vật đó trong lòng chất lỏng (lực đẩy Acsimet).
- Triết học:
Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai trường phái
triết học duy vật và duy tâm. Đại diện cho trường phái duy vật là các nhà triết học nổi
tiếng như: Talét (Thales), Hêraclit (Heracleitus), Đêmôcrit (Democritus)... Đại diện cho
trường phái duy tâm là các nhà triết học: Platôn, Arixtôt.
- Luật pháp và tổ chức nhà nước:

21
Các quốc gia ở phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều về hệ thống pháp luật và cách tổ
chức nhà nước từ Hy Lạp cổ đại. Nhà nước ở Hy Lạp cổ đại hình thành trên cơ sở sự tan
rã của xã hội thị tộc. Nhà nước dân chủ chủ nô ở Hy Lạp ngày càng được hoàn thiện qua
những cải cách của Xôlông (Solon), Clisten (Clisthenes) và Pêliclêt (Pericles).
Về luật pháp, bộ luật cổ nhất của Hy Lạp là bộ luật Đracông (Dracon), bộ luật này
có những hình phạt rất khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử. Sau này, nhờ những
cải cách của Xôlông, Clisten, luật pháp Hy Lạp ngày càng mang tính dân chủ hơn (nhưng
cũng chỉ công dân tự do mới được hưởng, nô lệ thì không).
2. Nền văn minh La Mã cổ đại:
Người La Mã không chỉ kế thừa nền văn minh của người Hy Lạp thời cổ đại mà còn
có những đóng góp đáng kể, tạo thành nền văn minh Hy-La, cơ sở của văn minh Tây Âu
sau này.
- Chữ viết, văn học:
Từ chữ Hy Lạp cổ, người La Mã đã đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay
ta quen gọi là chữ Latinh. Đây là một thứ chữ viết đơn giản, thuận tiện nên đã được sử
dụng rộng rãi trong toàn bộ đế quốc và sau này đã trở thành chữ viết của nhiều quốc gia
trên thế giới. Văn học La Mã cổ đại cũng có nhiều thể loại như thơ, kịch, sử thi với các
tác giả nổi tiếng như Xixêrông (Xixeron), Viêcghin (Vergil), Hôratiut (Horatius).
- Sử học:
Từ thế kỉ III TCN, người La Mã đã có viết sử nhưng họ viết bằng chữ Hy Lạp.
Người đầu tiên viết sử La Mã bằng chữ Hy Lạp là Phabiut. Người viết sử La Mã bằng
chữ Latinh đầu tiên là Cato (234-149 TCN). Sau đó còn nhiều người khác như Plutac,
Tacitus.
- Triết học:
Các nhà triết học La Mã cũng đã kế thừa truyền thống của triết học Hy Lạp, kế thừa
những tư tưởng duy vật của Đêmôcrit. Những nhà triết học tiêu biểu thời kì đó như:
Lucretius, Ciceron.
- Luật pháp:
Bộ luật thành văn cổ nhất ở La Mã là bộ Luật 12 bảng. Nó được gọi như vậy vì
được khắc vào 12 bảng đá vào năm 452 TCN.
- Khoa học tự nhiên:
Các nhà khoa học người La Mã cũng có công sưu tập, tổng hợp những kiến thức
khoa học khắp vùng Địa Trung Hải. Những nhà khoa học nổi tiếng thời đó như Plinius,
Ptôlêmê, Hêrôn .
- Y học:
Ông tổ của Y học phương Tây là Hipôcrat (Hippocrates). Ông đặc biệt được đời sau
luôn nhớ tới bởi lời thề Hypôcrat khi nhắc những người bước chân vào ngành y. Cuốn
Phương pháp chữa bệnh của Ông để lại đã được dùng làm sách giáo khoa cho nhiều
trường đại học ở châu Âu mãi tới thời cận đại.
- Kiến trúc, điêu khắc:
22
Một trong những giá trị kiến trúc của người La Mã thể hiện qua các cầu vòm bằng
đá. Nhờ những chiếc cầu này mà hệ thống giao thông nối liền các vùng của đế chế La Mã
trở nên thuận lợi. Công trình kiến trúc La Mã nổi tiếng hay được nhắc đến là đền
Pactơnông, đấu trường Côlidê và Khải hoàn môn. Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng thời đó là
Vitorius.
Điêu khắc La Mã có cùng phong cách với điêu khắc Hy Lạp. Những bức tượng còn
lại ở thành Rôma và những phù điêu trên Khải hoàn môn là hiện vật tiêu biểu cho điêu
khắc La Mã.
- Tôn giáo:
Nói đến tôn giáo ở đế quốc La Mã phải nói đến đạo Kitô, mặc dù đạo Kitô không
phải ra đời tại La Mã. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là Jesus Crit, con
của chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria. Jesus Crit ra đời vào khoảng
thế kỉ IV TCN tại Béthleem (Palestin ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus Crit bắt đầu đi
truyền đạo. Đạo Kitô khuyên con người nhẫn nhục chịu đựng đau khổ nơi trần gian để
khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng. Chúa Trời sáng tạo ra thế giới này.
Chúa Trời, chúa Jesus, thành thần tuy ba mà là một (tam vị
nhất thể). Đạo Kitô cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên thần, ma quỉ... Giáo
lí của đạo Kitô gồm có Kinh cựu ước (tiếp nhận của đạo Do Thái) và Kinh tân ước (kể từ
khi chúa Jesus ra đời). Luật lệ của đạo Kitô thể hiện trong 10 điều răn.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính
chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần
phát triển thành Giáo hội. Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và bọn quí tộc
địa phương đàn áp rất tàn bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ đàn áp vào năm 64, dưới
thời hoàng đế Nêrông, máu của biết bao nhiêu tín đồ đã đổ. Nhưng số người theo đạo
Kitô không những không giảm mà ngày càng tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc
“vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn giáo không dính
dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có tác dụng, các hoàng đế La Mã nghĩ tới
biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đồ
Kitô. Năm 313, đạo Kitô được hoàng đế La Mã công nhận là hợp pháp. Năm 337, một
hoàng đế La Mã lúc đó là Cônxtantinut đã gia nhập đạo Kitô. Hoàng đế theo đạo Kitô thì
đương nhiên các quan lại đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để
đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp trong vùng đất quanh Địa
Trung Hải. Sau này, khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã ăn sâu, lan rộng khắp châu
Âu.
Câu 9: Tìm hiểu về 1 trong các kì quan thế giới? Đánh giá ý nghĩa đóng góp
của nó?
Vườn Treo Babylon là một trong 7 kỳ quan thế giới cố đại được nhắc đến trong văn
hóa Hy Lạp cổ đại. Nó được ca ngợi là một thành tựu nổi bật về kỹ thuật xây dựng với
một chuỗi vườn bậc thang, có đủ các loại cây, cây bụi và cây leo đa dạng, tạo nên một
ngọn núi xanh lớn được đắp bởi gạch bùn. Vườn treo được cho là được xây dựng tại
23
thành phố cổ đại Babylon, gần thành phố Hillah tỉnh Babil, Iraq ngày nay. Tên của nó
được lấy nguồn gốc từ chữ Hy Lạp  dùng để chỉ những cây cối được trồng trên một cấu
trúc trên cao như là ban công hay sân thượng.
Vườn treo là công trình duy nhất trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại mà vị trí vẫn
chưa được xác định chính xác. Có ba giả thuyết được đưa ra để giải thích cho vấn đề này.
Thứ nhất, công trình chỉ là một huyền thoại, và các mô tả được nhắc đến trong ghi chép
của các tác giả Hy Lạp và La Mã cổ đại như Strabo, Diodorus Siculus và Quintus Curtius
Rufus đã tô vẽ một hình ảnh lý tưởng hóa về một khu vườn phương Đông. Thứ hai, Vườn
treo đã từng tồn tại tại Babylon, nhưng đã bị phá hủy hoàn toàn trong khoảng thời gian
thế kỷ 1 TCN. Thứ ba, khu vườn được nhắc đến trong truyền thuyết thực chất là khu
vườn treo do vua Sennacherib của Assyria (704–681 TCN) xây dựng tại thủ
đô Nineveh bên bờ sông Tigris, gần thành phố Mosul thời hiện đại
Có một giả thuyết cho rằng khu vườn treo Babylon thật ra được xây dựng bởi vua
Sennacherib của Assyria (trị vì 704 – 681 TCN) trong cung điện tại Nineveh. Stephanie
Dalley chỉ ra rằng trong những thế kỷ sau này, hai địa điểm đã bị nhầm lẫn, và những khu
vườn rộng lớn ở cung điện Sennacherib đã bị gán cho Nebuchadnezzar II của
Babylon. Các cuộc khai quật khảo cổ cho thấy dấu tích của một hệ thống dẫn nước rộng
lớn được cho là dưới thời Sennacherib, theo như những dòng chữ được tìm thấy. Dalley
cho rằng khu vườn là một phần của hệ thống kênh, đập, và ống dẫn nước dài 80 km dùng
để đưa nước tới Nineveh, và nước được đưa lên các tầng cao khu vườn bằng bơm đinh
vít.
=> Trải qua hàng thiên niên kỷ, vườn treo Babylon vẫn là biểu tượng của thế giới và
là nguồn cảm hứng cho các công trình xây dựng hiện đại sau này. Đó không chỉ là hiện
thân cho cái đẹp, cho đỉnh cao về kỹ thuật xây dựng mà chính là khát vọng xanh hóa các
vùng đất bằng bàn tay và trí tuệ của con người.
Câu 10: Trình bày nguyên nhân hình thành, sự phát triển của thành thị tự do
trung đại? Phân tích vai trò, ý nghĩa của thành thị tự do đối với sự phát triển văn
minh Tây Âu trên các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, kiến trúc?
- Sự ra đời của thành thị tự do trung đại:
Từ thế kỉ XI, kinh tế nông nghiệp ở Tây Âu phát triển hẳn lên. Nông nghiệp phát
triển tạo điều kiện cho thủ công nghiệp phát triển. Nhiều thợ thủ công khéo tay và các
thương nhân đã tìm tới ngã ba đường, ngã ba sông để mở quán làm ăn. Những nơi thuận
lợi, các cửa hàng, công xưởng ngày càng phát triển, dần dần hình thành nên các thành thị
trung đại.
Sự ra đời của các thành thị trung đại, là biểu hiện cụ thể của nền kinh tế hàng hoá,
nó báo nền kinh tế tự nhiên đang bị tấn công. Nền kinh tế hàng hoá ngày càng đòi hỏi
một thị trường rộng lớn, nó tạo ra sự giao lưu thường xuyên giữa các địa phương. Chế độ
phong kiến phân tán được tạo ra bởi nền kinh tế tự nhiên sắp bị thay thế bởi một chế độ
trung ương tập quyền do đòi hỏi của nền kinh tế hàng hoá.

24
- Vai trò, ý nghĩa của thành thị tự do đối với sự phát triển văn minh Tây Âu trên các
lĩnh vực kinh tế, giáo dục, kiến trúc
Sự thành lập các trường đại học
+ Do sự phát triển của nền kinh tế, các thành thị ra đời, đồng thời tầng lớp thị dân
cũng xuất hiện. Tầng lớp này có nhu cầu rất lớn về tri thức để mở rộng tầm hiểu biết của
mình. Xuất phát từ nhu cầu đó, các trường học đã ra đời, ban đầu là các trường phổ
thông, sau đó là các trường đại học.
Trường đại học đầu tiên là Bôlôna (Ý), sau đến các trường như Paris, Ooclêăng
(Pháp), Oxford, Cambridge (Anh), Xalamanca (Tây Ban Nha), Palecmo (Ý)...Cuối thế kỉ
XIV ở Châu Âu có 40 trường đại học. Học sinh đủ mọi thành phần, từ con em quý tộc,
tăng lữ đến thị dân, nông dân.
+ Nội dung và phương pháp học tập: Ngôn ngữ dùng để giảng dạy trong các trường
học là tiếng Latinh. Tiếng Latinh là ngôn ngữ chết (tử ngữ), có nghĩa là dân chúng không
nói tiếng này. Vì thế đầu tiên, học sinh phải học đọc và viết tiếng Latinh. Khi đó, sách vở
rất hiếm và rất đắt (sách vở làm bằng da cừu hoặc da dê dát mỏng, viết bằng bút lông
ngỗng), cho nên chỉ thầy giáo (đều là thầy tu) mới có một quyển sách để dạy học, còn
học trò học thuộc lòng những chữ và những câu do thầy đọc. Học trò tập viết vào một
tấm bảng con xoa sáp, sau khi viết xong lại xóa đi và viết chữ khác. Vì tiếng Latinh rất
khó đọc, khó viết nên thời gian học đọc, học viết này kéo dài 3 năm. Do việc học tiếng
Latinh không có chút hào hứng nào đối với học sinh, nên cách dạy chủ yếu là bắt trẻ con
phải học và đánh đập, học trò đi học luôn trong tình trạng “sống dưới roi vọt„.
Sau khi học sinh đã đọc thông, viết thạo tiếng Latinh, học sinh phải học tiếp “bảy
nghệ thuật tự do”: văn phạm (hay ngữ pháp), tu từ học (nghệ thuật nói), biện chứng pháp
(nghệ thuật tranh cãi), số học, hình học, thiên văn học và âm nhạc. Nhìn chung, các môn
khoa học thời kì này đều bị giáo hội lợi dụng, lừa dối, xuyên tạc nhằm phục vụ lợi ích
của giáo hội. Ví dụ, trong môn hình học, có cả những kiến thức địa lý, nhưng hết sức sai
lầm và vô lý. Người ta dạy trái đất như một cái đĩa nổi trên mặt đất, giữa cái đĩa là cái rốn
của vũ trụ, là thành phố Giêrudalem. Bản đồ thời bấy giờ chỉ vẽ 3 châu lục: châu Âu,
châu Á và châu Phi, nhưng còn hết sức đơn giản và nhiều sai sót. Trong môn thiên văn
học, người ta dạy trái đất đứng im một chỗ, còn tất cả các hành tinh khác (kể cả mặt trời)
đều xoanh quanh trái đất.
Sau khi học xong “bảy nghệ thuật tự do” trong 5 hoặc 7 năm, học sinh có thể xin
vào học tại trường đại học. Trường đại học thời đó thường chỉ có 3 khoa: Thần học, Luật
học và Y học. Có một số trường chỉ dạy một khoa nhất định như trường Đại học
Xoocbon ở Paris chủ yếu giảng dạy môn Thần học, trường Đại học Bôlônha ở Italia chủ
yếu giảng dạy luật Rôma…Môn luật học Rôma được đề cao từ khi kinh tế hàng hóa –
tiền tệ phát triển và chính quyền quân chủ tập quyền được thiết lập. Bộ luật Rôma trước
kia đề cao quyền lực vô hạn của hoàng đế Rôma, thì nay giúp cho việc tăng cường uy
quyền của nhà vua dưới chế độ quân chủ tập quyền. Muốn làm thẩm phán, luật sư, chánh
án…phải tốt nghiệp khoa Luật các trường đại học.
25
Các trường đại học thời trung đại thường được xây dựng ở các thành thị sầm uất,
mượn một số trong tu viện hay nhà thờ làm giảng đường. Các giáo sư giảng dạy ở các
trường đại học phần đông là các giám mục và một số học giả. Thiết bị của nhà trường rất
sơ sài, sinh viên ngồi trên những mảnh ván, mùa đông thì trải đệm cỏ lên ván cho ấm để
nghe giáo sư giảng bài.
+ Tuy nhiên, giáo hội vẫn tìm mọi cách để chi phối, khống chế các trường đại học
(đuổi nhiều giáo sư tiến bộ, thay bằng các giáo sĩ), triết học kinh viện chiếm vị trí quan
trọng nhất trong trường đại học.
Triết học kinh viện
Đây là môn học rất được chú trọng trong các trường đại học. Triết học kinh viện là
một thuật ngữ dịch từ chữ scolasticus trong tiếng Latinh có nghĩa là triết học nhà trường.
+ Nội dung – đặc điểm: Áp dụng những phương pháp biện luận cực kì rắc rối, chú
trọng lôgic hình thức. Các nhà triết học kinh viện cho rằng đối với các hiện tượng tự
nhiên không cần phải quan sát, thí nghiệm mà chỉ cần dùng phương pháp tư duy trừu
tượng thì cũng có thể đạt tới chân lý.
+ Trong khi nghiên cứu vấn đề khái niệm chung, triết học kinh viện đã chia làm hai
phái:
Phái duy thực: khái niệm có trước sự vật. Là chủ nghĩa duy tâm hoàn toàn.
Phái duy danh: sự vật có trước, khái niệm có sau. Là trường phái có nhân tố của
chủ nghĩa duy vật. Chính vì thế, tuy vẫn tin ở Chúa những các nhà duy danh thường bị
giáo hội ngược đãi và rút phép thông công, trái lại những người duy thực rất được đề cao.
+ Sang thế kỉ XIV, triết học kinh viện bắt đầu suy thoái. Từ đây các nhà triết học
kinh viện không nghiên cứu khoa học tự nhiên và các tác phẩm cổ điển nữa mà chỉ làm
công việc biện hộ cho giáo lý của đạo Thiên chúa, đồng thời họ đấu tranh mạnh mẽ với
những nhà khoa học của giai cấp tư sản mới ra đời tức là những người theo chủ nghĩa
nhân văn.
Văn học
Bao gồm có văn học dân gian, văn học Latinh, văn học kị sĩ và văn học thành thị.
+ Văn học kị sĩ: là các câu chuyện, bài thơ ca ngợi những con người mang đầy đủ
các tính cách của giới kị sĩ, đó là trung thành với lãnh chúa, ngoan đạo, tôn thờ người đẹp
và dũng cảm trong chiến đấu. Được chia làm hai loại: anh hùng ca và trữ tình
Tác phẩm tiêu biểu: Bài ca Rôlăng, Bài ca Xit, Bài ca Nibêlunghen, Tơrixtăng và
Ydơ...
+ Văn học thành thị: là tiếng nói của thị dân nhằm đả kích giai cấp phong kiến vạch
trần sự tham lam và những hành vi xấu xa của tầng lớp giáo sĩ, đồng thời miêu tả sự
thông minh, tháo vát của nhân dân.
Hình thức phong phú: Kịch, thơ, truyện ngắn...
Tác phẩm tiêu biểu: Di chúc của con lừa, Thầy lang vườn...
Nghệ thuật kiến trúc

26
Nghệ thuật kiến trúc Tây Âu thời kì này bị suy thoái. Kiến trúc Rôman thô kệch,
những nhà thờ xây bằng đá, tường dày, cửa sổ nhỏ, mái tròn, cột to và thấp, nơi cửa ra
vào có tháp chuông nhọn và đồ sộ.
Nửa sau thế kỉ XII, kiến trúc Gôtich xuất hiện ở miền Bắc nước Pháp: vòm cửa
nhọn, nóc nhà nhọn, bên ngoài có tháp cao vút, tường mỏng, cửa sổ lớn, được trang trí
bằng nhiều kính màu làm cho trong nhà có đầy đủ ánh sáng.
Câu 11: Trình bày về phong trào phát kiến địa lý thế kỷ XV – XVI? Nguyên
nhân các cuộc phát kiến địa lý lớn? Đánh giá ảnh hưởng của phong trào phát kiến
địa lý đối với sự phát triển văn minh thế giới?
- Phong trào phát kiến địa lý:
Nguyên nhân: Thế kỉ XV, kinh tế hàng hoá ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về
thị trường tăng cao. Giai cấp tư sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông,
mơ ước tới những nguồn vàng bạc từ phương Đông. Tại Tây Âu, tầng lớp giàu có cũng
tăng lên do đó nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông
như tiêu, quế, trầm
hương, lụa tơ tằm, ngà voi... tăng vọt hẳn lên. Trong khi đó, con đường tơ lụa mà người
phương Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị đế quốc Thổ Nhĩ Kì theo đạo Hồi
chiếm giữ, đi qua chỉ có mất mạng, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên
biển. Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ
cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại
dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm
cho những thuỷ thủ dũng cảm.
Những cuộc phát kiến địa lí lớn thế kỉ XV-XVI: Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là
hai nước đi đầu trong phong trào phát kiến địa lí. Năm 1415 một trường hàng hải do
hoàng tử Henri của Bồ Đào Nha sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ Đào Nha
tổ chức những cuộc thám hiểm men theo bờ biển phía tây Châu Phi. Năm 1486, đoàn
thám hiểm Bồ Đào Nha do B. Dias chỉ huy đã tới được cực nam Châu Phi, họ đặt tên mũi
đất này là mũi Hy Vọng. Năm 1497, Vascô đơ Gama (Vasco de Gama ) đã cầm đầu đoàn
thám hiểm Bồ Đào Nha tới được Ấn Độ. Người Tây Ban Nha lại đi tìm Ấn Độ theo
hướng Mặt trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do C. Côlông (C. Colombus) chỉ
huy đã tới được quần đảo miền trung Châu Mĩ, nhưng ông lại tưởng là đã tới được Ấn
Độ. Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà hàng hải
người Ý là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Côlông không phải là Ấn Độ
mà là một vùng đất hoàn toàn mới đối với người Châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn
sách để chứng minh điều đó. Vùng đất mới đó sau này mang tên America. Thật đáng tiếc
cho C. Côlông. Năm 1519 - 1522, F. Magienlan đã cầm đầu đoàn thám hiểm Tây Ban
Nha lần đầu tiên đi vòng quanh thế giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt
Đại Tây Dương tới bờ biển phía đông của Nam Mĩ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần
cực nam Châu Mĩ và sang được một đại dương
mênh mông ở phía bên kia. Suốt quá trình vượt đại dương mênh mông đó, đoàn tàu buồm
27
của Magienlan hầu như không gặp một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương
mới đó là Thái Bình Dương. F.Magienlan đã bỏ mạng ở Philippin do trúng tên độc của
thổ dân. Đoàn thám hiểm của ông cũng chỉ có 18 người sống sót trở về được tới quê
hương. 247 người bỏ mạng trên tất cả các vùng biển và các hòn đảo trên thế giới vì
những nguyên nhân khác nhau. Nhưng thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần
đầu tiên con người đã đi vòng quanh thế giới.
- Ảnh hưởng đến văn minh thế giới:
Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng
minh cho giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều
hiểu biết mới về địa lí, thiên văn, hàng hải, sinh vật học...
Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá trên thế giới
diễn ra do các cá nhân có nguôn gốc văn hoá khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những
người khai phá vùng đất mới, những quân nhân...
Một làn sóng di chuyển dân cư lớn trên thế giới trong thế kỉ XVI-XVIII với những
dòng người Châu Âu di chuyển sang Châu Mĩ, Châu Úc. Nhiều nô lệ da đen cũng bị
cưỡng bức rời khỏi quê hương xứ sở sang Châu Mĩ .
Hoạt đông buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ti buôn bán tầm cỡ
quốc tế được thành lập.
Những cuộc phát kiến địa lí này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn
cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.

Câu 12: Trình bày về phong trào văn hóa Phục Hưng? Đánh giá những đóng
góp của phong trào văn hóa Phục Hưng với nền văn minh thế giới?
- Nội dung chính của phong trào văn hóa Phục Hưng:
* Hoàn cảnh ra đời:
Văn hoá Tây Âu thế kỉ V - X dựa trên nền tảng nền kinh tế tự cung tự cấp, sự giao
lưu trao đổi rất hạn chế, văn hoá vì vậy cũng phát triển không đáng kể.
Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh tế công thương ở các thành thị, quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Các nhà tư tưởng của
giai cấp tư sản không còn chịu chấp nhận những giáo lí phong kiến lỗi thời, họ vận động
khôi phục lại sự huy hoàng của văn hoá Tây Âu thời cổ đại. Họ tìm thấy trong nền văn
hoá cổ đại những yếu tố
phù hợp với mình, có lợi cho mình để đấu tranh chống lại những trói buộc của nền văn
hoá trung cổ.
Phong trào Văn hoá Phục hưng xuất hiện đầu tiên ở Ý, vì ở đây thế kỉ XIV đã xuất
hiện các thành thị tự do như những quốc gia nhỏ. Quan hệ sản xuất tư bản đã chiếm địa vị
chi phối đời sống văn hoá. Ý lại là trung tâm của đế quốc Rôma cổ đại, vì vậy ở đây còn
giữ lại nhiều di sản văn hoá cổ đại của Hy Lạp - Rôma. Hơn ai hết, các nhà văn hoá Ý có
điều kiện khôi phục lại nền văn hoá trước tiên khi có điều kiện. Từ Ý, phong trào lan
sang Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức...
28
Tầng lớp giàu có ở các thành thị muốn thể hiện sự giàu sang của mình qua các dinh
thự và các tác phẩm nghệ thuật, điều đó cũng tạo điều kiện cho các nhà văn hoá thể hiện
tài năng
* Những thành tựu nổi bật:
- Về văn học:
Cả ba thể loại, thơ, kịch, tiểu thuyết trong nền văn học Phục hưng đều có những
thành tựu quan trọng.
Về thơ, có hai đại biểu là Đantê (1265-1324) và Pêtracca (1304 - 1374). Đantê là
người mở đầu phong trào Văn hoá Phục hưng ở Ý. Ông xuất thân trong một gia đình kị sĩ
suy tàn ở Plorencia. Ông đả kích các thầy tu lúc đó và cổ vũ cho sự thống nhất của đất
nước Ý. Tác phẩm tiêu biểu của ông là: Thần khúc và Cuộc đời mới. Pêtracca là một nhà
thơ trữ tình Ý. Trong tác phẩm của mình, ông ca ngợi tình yêu lí tưởng, ca ngợi sắc đẹp,
ca ngợi sự tự do tư tưởng và chống lại sự gò bó kinh điển.
Về tiểu thuyết, có hai nhà văn nổi bật là Bôcaxiô (Boccacio), Rabơle (F. Rabelais)
và Xecvantec (Cervantes). Boccacio là một nhà văn Ý, tác phẩm nổi tiếng của ông là tập
truyện Mười ngày. Qua tác phẩm Mười ngày, ông chế diễu thói đạo đức giả, công kích
cuộc sống khổ hạnh, cấm dục vì cho đó là trái tự nhiên. Ông cổ vũ cho cuộc sống vui vẻ,
biết tận hưởng mọi lạc thú của cuộc sống. F. Rabơle là một nhà văn Pháp, ông có hiểu
biết rộng rãi cả về khoa học
tự nhiên, văn học, triết học và luật pháp. Tác phẩm trào phúng nổi tiếng của ông là cuộc
đời không giá trị của Gargantua và Pantagruen. Migel de Cervantes là một nhà văn lớn
của Tây Ban Nha. Tác phẩm nổi tiếng của ông là Don Quyjote. Thông qua hình ảnh
chàng hiệp sĩ lỗi thời Don
Quyjote, Cervantes ám chỉ tấng lớp quí tộc Tây Ban Nha với những quan niệm danh dự
cổ hủ và vẽ nên bức tranh một nước Tây Ban Nha quân chủ đang bị chìm đắm trong vũng
lầy phong kiến lạc hậu.
Về kịch, Nhà viết kịch vĩ đại thời phục hưng là một người Anh có tên là W.
Sếchpia. (William Shakespeare). Ông đã viết tới 36 vở bi, hài kịch. Những vở kịch nổi
tiếng ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới như Rômêô và Giuyliet, Hamlet, Vua Lia,
Ôtenlô...
- Hội hoạ, điêu khắc:
Nhà danh hoạ khổng lồ thời Phục hưng là Lêôna đơ Vanhxi (Leonardo da Vinci),
ông là một người Ý. Ông không những là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người
thông thái trên nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối
cùng, Nàng Giôcôngđơ (La Joconde), Đức mẹ đồng trinh trong hang đá. Từ thế kỉ XV,
ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra
nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù thoát hiểm... nhưng những kĩ thuật hồi
đó không cho phép ông thực hiện những ý tưởng của mình. Mikenlăngiơ (Michelangelo)
ra đời ở Ý (1475-1564). Ông là một danh hoạ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn
là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Tác phẩm tiêu biểu của ông là bức hoạ Sáng tạo thế giới
29
vẽ trên trần nhà thờ Xixtin gồm có 343 nhân vật. Còn bức Cuộc phán xét cuối cùng thì
được vẽ trên tường nhà thờ Xixtin. Về điêu khắc, ông để lại nhiều bức tượng tiêu biểu
như pho tượng Môidơ, Ngưòi nô lệ bị trói, đặc biệt là pho tượng Đavid. Pho tượng Đavid
của Mikenlăngiơ được tạc trên đá cẩm thạch cao tới 5,3 mét. Đavid ở đây không phải là
chú bé chăn cừu mà là chàng thanh niên đang độ tuổi mười tám đôi mươi, đang độ tuổi
sung sức, với cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương
đầu với mọi khó khăn thử thách. Mượn hình tượng Đavid, Mikenlăngiơ thể hiện sức sống
đang lên của một lớp người đại diện cho một thời đại mới, thời đại cần những con người
khổng lồ và đã sản sinh ra những con người khổng lồ.
Nghệ thuật thời Phục hưng còn có sự đóng góp của những nghệ sĩ nổi tiếng khác
như Raphaen (Raffaello), Giôtô (Giott), Bôtixeli (Botticelli)...
- Khoa học tự nhiên:
Thời Phục hưng còn có sự đóng góp của nhiều nhà khoa học dũng cảm, dám chống
lại những suy nghĩ sai lầm nghìn đời đã được giới quyền lực đảm bảo, thừa nhận. N.
Côpecnic (Nikolai Kopernik, 1473 - 1543) là một giáo sĩ người Ba Lan. Qua nhiều năm
nghiên cứu, ông đã đi tới một kết luận đáng sợ hồi đó là: Trái đất quay xung quanh Mặt
trời chứ không phải là Mặt trời quay xung quanh Trái đất. Thuyết Mặt trời là trung tâm
đó của ông vậy là trái hẳn với thuyết Trái đất là trung tâm đã được nhà thờ công nhận
hàng nghìn năm. Điều phát hiện này được ông trình bày trong tác phẩm Bàn về sự vận
hành của các thiên thể. Nhưng sợ bị kết tội, ông chưa dám công bố. Mãi tới khi cảm thấy
sắp từ giã cõi đời ông mới công bố. Gioocđanô Brunô (Giordano Bruno - 1548-1600), là
một giáo sĩ trẻ người Ý. Ông tích cực hưởng ứng học thuyết của Côpecnic khi giáo hội
cấm lưu hành. Không những thế, ông còn phát triển thêm tư tưởng của Côpecnic. Ông
cho rằng Mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương
hệ. Trong vũ trụ, bên cạnh Mặt trời còn có nhiều hệ mặt trời khác. Đương nhiên thời đó,
ông bị đưa ra toà án tôn giáo. Toà án hồi đó buộc ông phải công bố lại là đã bị quỉ ám thì
sẽ tha tội chết nhưng ông thà
chết chứ không chịu nói trái với niềm tin của mình. Cuối cùng, ông đã bị thiêu trên dàn
lửa.
Một nhà thiên văn học người Ý khác là Galilê ( Gallileo Gallilei, 1564 - 1642) tiếp tục
phát triển quan điểm của Côpecnic và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng
phóng to gấp 30 lần để quan sát bầu trời. Ông đã chững minh là Mặt trăng có bề mặt gồ
ghề chứ không phải là nhẵn bóng; Thiên hà là do vô số vì sao tạo thành. Ông đã giải thích
hiện tượng sao chổi.
Ông là cha đẻ của khoa học thực nghiêm, phát hiện ra định luật rơi tự do và dao động con
lắc.
Tiến xa hơn, nhà thiên văn học người Đức là Kêplơ (Kepler, 1571 - 1630) đã phát minh
ra ba qui luật quan trọng về sự vận hành của các hành tinh xung quanh Mặt trời. Ông đã
chứng minh rằng quĩ đạo chuyển động của các hành tinh không phải là hình tròn mà là
hình elíp, càng đến gần Mặt trời, vận tốc chuyển động càng tăng lên và càng xa Mặt trời
30
thì vận tốc chuyển động
càng chậm lại.
Triết học cũng có những bước phát triển mới. Người mở đầu cho trường phái triết
học duy vật thời Phục hưng là một người Anh, F. Baicơn (Francis Bacon, 1561 - 1626).
Ông đề cao triết học duy vật Hy Lạp cổ đại, phê phán triết học duy tâm và triết học kinh
viện.
- Những đóng góp đối với nền văn minh thế giới:
Phong trào Văn hoá Phục hưng tuy danh nghĩa là phục hưng lại sự huy hoàng của
văn hoá Hy-La cổ đại, nó có tiếp thu những yếu tố từ nền văn hoá Hy-La cổ đại, nhưng
thực chất đây là một nền văn hoá hoàn toàn mới, dựa trên nền tảng kinh tế-xã hội mới và
hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đang lên. Qua các tác phẩm của mình, các nhà văn hoá
thời Phục hưng đã thể hiện
những tư tưởng chính sau:
• Phong trào văn hoá Phục hưng chống lại những quan niệm không hợp thời của
giáo hội lúc bấy giờ cùng tầng lớp quí tộc phong kiến. Nhiều tác phẩm văn hoá đã công
khai đả kích, châm biếm thói đạo đức giả, dốt nát của tầng lớp quí tộc, phong kiến. Các
nhà văn hoá thời Phục hưng đấu tranh đòi văn hoá phải không bị kiểm soát bởi nhà thờ.
• Nhiều tác phẩm công khai ca ngợi quyền được sống tự do phóng khoáng, quyền
được hưởng thụ. Họ chủ trương văn hoá phát triển phải lấy mục đích vì hạnh phúc con
người; đối tượng ca ngợi phải là con người... Có thể nói tư tưởng chủ đạo là chủ nghĩa
nhân văn (humannisme).
• Phong trào Văn hoá Phục hưng còn ca ngợi tình yêu tổ quốc, tinh thần dân tộc và
ý thức các tác phẩm văn hoá phải hướng về phục vụ tầng lớp bình dân. Vì vậy các tác
phẩm văn hoá giai đoạn này phần nhiều không còn sử dụng chữ Latin mà sử dụng chữ
viết riêng của mỗi dân tộc.
• Nhiều nhà văn hoá thời Phục hưng đã dũng cảm chống lại những quan điểm phản
khoa học của những thế lực cầm quyền đương thời, bất chấp sự đe doạ của những hình
phạt, kể cả dàn thiêu. Các tác phẩm của họ đã giáng những đòn quyết liệt vào triết học
kinh viện và chủ nghĩa duy tâm đương thời, làm lung lay quyền uy của các tăng lữ.
• Phong trào Văn hoá Phục hưng là tấm gương phản chiếu sức sống mãnh liệt của
xã hội phương Tây lúc đó và đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
• Phong trào Văn hoá Phục hưng là một cuộc cách mạng trên mặt trận văn hoá, tư
tưởng của giai cấp tư sản đang lên chống lại xã hội phong kiến, để chuẩn bị mở đường
cho một cuộc cách mạng xã hội.
• Phong trào này đã đặt cơ sở, mở đường cho văn hoá Tây Âu phát triển trong
những thế kỉ tiếp theo sau.
• Phong trào Văn hoá Phục hưng còn có nhiều đóng góp quan trọng vào kho tàng
văn hoá nhân loại.
Câu 13: Nêu những chuyển biến kinh tế - xã hội trong thời đại văn minh công
nghiệp?
31
Nền văn minh công nghiệp ra đời ở các nước Tây Âu dựa trên những điều kiện sau
đây:
- Truyền thống thủ công nghiệp – thương nghiệp của các nước Tây Âu
- Những kết quả của công cuộc phát kiến địa lí (đối với sự phát triển văn minh):
+ Phát triển giao lưu, tiếp xúc giữa các nền văn minh, giao lưu kinh tế - văn hóa
Đông – Tây
+ Tìm ra những vùng đất mới, mở rộng phạm vi sinh sống, buôn bán của người
châu Âu
+ Phát triển khoa học
+ Thúc đẩy thương mại phát triển (đây là kết quả quan trọng nhất): chuyển trung
tâm thương mại từ Địa Trung Hải sang Đại Tây Dương, xuất hiện những quốc gia phát
triển mới bên bờ Đại Tây Dương (việc thay đổi trung tâm thương mại của phương Tây
không chỉ mở rộng phạm vi, quy mô của việc buôn bán mà còn mở rộng phạm vi, quy mô
của nền văn minh phương Tây tương lai); Tạo động lực thúc đẩy kinh tế Tây Âu phát
triển theo hướng Tư bản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa tư bản ra đời và thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản: Kinh tế
hàng hóa TBCN có điều kiện phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề cho cuộc cách mạng công
nghiệp (và tiếp đó, những thành tựu của cách mạng công nghiệp lại khẳng định cho sự
thắng thế hoàn toàn của chủ nghĩa tư bản trước chủ nghĩa phong kiến trong cuộc đấu
tranh “ai thắng ai” giữa hai chế độ này cuối thế kỉ XIX).
- Cuộc cách mạng công nghiệp là điều kiện quyết định cuối cùng dẫn đến sự ra
đời của nền văn minh công nghiệp. Nó đã trang bị các công cụ máy móc hiện đại để xây
dựng nên nền đại công nghiệp cho xã hội tư bản và rõ ràng cuộc cách mạng này đã khiến
cho cuộc sống con người tiện nghi, thoải mái hơn (văn minh hơn) và biểu hiện trước tiên
là sự tiện nghi trong sản xuất.
Ví dụ: Những tiến bộ kĩ thuật trong ngành dệt ở nước Anh cuối thế kỉ XVIII
Ngoài ý nghĩa là điều kiện ra đời, bản thân diễn biến của cách mạng công nghiệp
cũng chính là biểu hiện cho sự phát triển đầu tiên của nền văn minh công nghiệp.
- Các thành tựu văn minh thời kì CMCN
+ Các phát minh kĩ thuật
* Máy hơi nước * Động cơ điêzen
* Động cơ đốt trong
+ Những phát minh về điện:
* Pin Volta (người Italia): 1800 – sử dụng dòng điện một chiều
* Điện phát sáng: Bóng đèn điện Edison (1879) và xây dựng nhà máy điện
* Máy phát điện: dựa trên phát minh của Faraday (1831) về từ trường qua ống dây; máy
tuốc-bin phát điện (1880s)
* Lò luyện kim
+ Giao thông vận tải:
* Đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước 1804
32
* Tàu thủy: 1807, Fulton
* Xe hơi: Đức phát minh, Mĩ phát triển nhất (1914, Ford sản xuất oto hàng loạt, công
nghiệp oto Mĩ đứng đầu thế giới)
* Máy bay: 1903, anh em nhà Wright (thực ra ý tưởng có từ trước: Leonar de Vinci,
khinh khí cầu)
+ Phương tiện liên lạc:
* Điện báo Mooc-xơ (Morse – người Mĩ)
* Máy điện thoại: Graham Bell (Mĩ) 1876
+ Khoa học tự nhiên
 Vật lí:
* Isaac Newton: Định luật vạn vật hấp dẫn (quả táo)----nhà vật lí vĩ đại nhất của thế kỉ
XVIII
* Phát minh ra tia X: 1895, Rơn-ghen (Wilhelm Roentgen) người Đức.
* “X”: yếu tố ảnh hưởng không lường được
Tia X có khả năng đâm xuyên qua các vật thể rắn mà ánh sáng không xuyên qua được.
Có ý nghĩa rất to lớn trong y học.
* Thuyết tương đối của Albert Einsetein: Tạo bước chuyển quan trọng trong ngành vật lí
học – Nhà khoa học lớn của thời đại (thế kỉ XX)
 Hóa học:
1869, Bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Dmitri Mendeleep: sắp xếp
nhóm các nguyên tố với khối lượng, tính chất riêng đồng thời dự đoán chính xác những
nguyên tố mới, chưa được tìm thấy lúc bấy giờ
 Sinh học:
* Charles Darwin: 1859, tác phẩm “Nguồn gốc các loài” --- thuyết tiến hóa tự nhiên (cổ
điển): đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên và thích nghi
* Mendel (Áo): di truyền học, gen (ruồi dấm, đậu Hà Lan)
 Y học:
* Adreas Vesalius (Bỉ): cuốn sách về cấu trúc cơ thể người
* Louis Pasteur (thế kỉ XIX): Sử dụng Vacxin
 Tâm lí học:
* Ivan Pavlov: Phản xạ có điều kiện (phản xạ máy móc – kích thích: tập tính)
* Sigmund Freud: Những hành động xuất phát từ những nhu cầu, ước muốn tiềm ẩn –
giấc mơ ----- sáng lập Ngành Phân tâm học
+ Triết học và các học thuyết kinh tế - xã hội
 Triết học Ánh sáng thế kỉ XVIII: Đại diện là các nhà Khai sáng Pháp
* Mongteskio: Lĩnh vực tư pháp – nguyên tắc tam quyền phân lập – nhà nước quân chủ
lập hiến
* Vonte: Chế độ quân chủ với minh quân – chống chế độ quân chủ chuyên chế. Là con
người toàn diện, có ảnh hưởng to lớn trên nhiều lĩnh vực ------ Thế kỉ XVIII: Thế kỉ
Vonte
33
* Rut-xô: Thay chế độ tư hữu lớn bằng chế độ tư hữu nhỏ - Thiết lập chế độ Cộng hòa,
quyền tự do, bình đẳng ---- Có ảnh hưởng to lớn đến Cách mạng Pháp (nhất là thời Gia-
cô-banh)
 Nhóm Bách khoa toàn thư
* Các học thuyết kinh tế: Chế độ kinh tế, kinh doanh tự do. Đại diện: Adam Xmit, Ri-
các-đô… coi mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư sản là quy luật tự nhiên
* Các học thuyết xã hội thế kỉ XIX:
Học thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc gia dân tộc: John Stuart Mill
(Anh), Tocqueville (Pháp), phái Hiến chương
Chủ nghĩa xã hội không tưởng: Xanh Xi-mông, Phu-ri-ê, Owen
Chủ nghĩa xã hội khoa học
+ Văn học – nghệ thuật
Văn học:
* Văn học Pháp: Lãng mạn (Bảo thủ; tiến bộ: Victo Huygo), Hiện thực (Ban-dắc, Mô-
pát-xăng, Êmin Dô-la…)
* Văn học Nga: Lep Tôn-xtôi, Đôx-tô-exki, Tuôc-ghê-nhep…
Âm nhạc: Bách, Môda, Xtrox. Thế kỉ XIX: Bet-thô-ven, Chopin
Hội họa: Lãng mạn. Khác trường phái: Goya (Tây Ban Nha) với Chiến tranh chống
Napoleon
Điêu khắc: Không bằng thời kì phục hưng Bartholdi: Bức tượng Nữ thần Tự do
Kiến trúc: Đa dạng, giao lưu, rộng mở. Sử dụng vật liệu mới: Thép, bê tông, kính dày.
Tiêu biểu: tòa nhà Quốc hội Mĩ 1793-1851, Quốc hội Anh 1840-1865
Điện ảnh: Ngày 28/12/1895, anh em Lumiere chiếu thành công bộ phim ngắn: “Chuyến
xe lửa đến”
Nhiếp ảnh: 1888, máy ảnh đầu tiên hiệu Kodak được sản xuất – George Eastman (Mĩ) –
cuộn phim trong lõi kín
 Nhận xét:
- Những tiến bộ kĩ thuật (nhất là trong giao thông, liên lạc) đã khiến cho các thành
tựu của văn minh công nghiệp được phổ biến rộng rãi (mặc dù xét ở một khía cạnh nào
đó, nó còn giới hạn chủ yếu trong tầng lớp thượng lưu)
- Đời sống tinh thần được nâng cao
- Cuối thế kỉ XIX, văn minh công nghiệp phát triển với tốc độ ngày càng tăng, Mĩ
thay thế châu Âu trong cuộc cách mạng giao thông vận tải – thông tin liên lạc
- Bước đầu bộc lộ mặt trái của văn minh công nghiệp (mặt trái của chủ nhân của nó
thời kì này là chủ nghĩa tư bản phương Tây): được phản ánh thông qua các học thuyết
chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa xã hội khoa học.
Câu 14: Trình bày khái quát những thành tựu văn học, nghệ thuật, khoa học
kĩ thuật, tư tưởng của châu Âu thế kỷ XVIII – XIX?
- Về văn học: Những biến động của lịch sử thời cận đại đã được văn học Châu Âu
phản
34
ánh một cách sinh động, đặc biệt là văn học Pháp. Sau thất bại của Napôlêông và sự phục
hồi tạm thời của các thế lực bảo hoàng, ở Pháp đã xuất hiện một dòng văn học lãng mạn
thể hiện sự nuối tiếc một thời vàng son đã qua của giới quí tộc. Đại biểu cho trào lưu này
là Satôbriăng (Chateabriand, 1768-1848). Víchto Huygô (Vitor Hugo - 1802-1885) là
một nhà văn tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tiến bộ. Ông thể hiện sự thông cảm với
những người nghèo khổ qua các tác phẩm Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức Bà Pari.
Qua các tác phẩm, Víchto Huygô thể hiện lòng khát khao muốn vươn tới một xã hội tốt
đẹp, công bằng và chan chứa tình nhân đạo. Xã hội tư bản khắc nghiệt, tàn bạo cũng đã
được phản ánh qua dòng văn học hiện thực mà tiêu biểu là Bandăc (Honoré de Balzac -
1799-1850). Những tác phẩm tiêu biểu của ông như Ơgiêni Granđê, Miếng da lừa...và
nhiều tác phẩm khác. Những tác phẩm đó của Bandắc đã đượctập hợp trong
bộ Tấn trò đời. Những tác phẩm như Đỏ và Đen của Xtăngđan (Stendhal, 1783-1842),
Viên mỡ bò của Guy de Môpatsăng (Guy de Maupassant) cũng phản ánh xã hội tư bản
đầy bất công, tàn bạo.
Văn học Nga thế kỉ XIX cũng có những đóng góp quan trọng với các tác phẩm như
Chiến tranh và hoà bình của Liep Tônxtôi. Những nhà văn tên tuổi khác của nền văn học
Nga thế kỉ XIX phải kể tới là Tuôcghênhêep, Gôgôn, Đôxtôiepxki, Biêlixki...
- Về nghệ thuật: Âm nhạc thời cận đại thế kỉ XVIII với sự đóng góp của những
nhạc sĩ
lớn như Bách, Môza, thì đế thế kỉ XIX có sự đóng góp vĩ đại của Bêtôven (Ludwig van
Beethoven - Đức), Sôpanh (Fréderic Chopin - Ba Lan)... Hội hoạ theo xu hướng lãng
mạn thường đi tìm những phương trời xa lạ. Danh hoạ Pháp Đơlacroa (Delacroix) thường
vẽ những kị sĩ Arập, những
cuộc đi săn. Đến cuối thế kỉ XIX, danh hoạ người Tây Ban Nha là Goya đã vẽ những
cảnh tàn khốc trong cuộc chiến tranh chống Napôlêông. Điêu khắc thế kỉ XIX không để
lại nhiều tác phẩm như thời Phục hưng. Nhà điêu khắc Pháp Bactônđi (Bartholdi) đã
hoàn thành bức tượng Nữ thần
tự do để chính phủ Pháp gửi tặng nước Mĩ. (Một phiên bản nhỏ, cao gấp 1,5 lần người
thật của bức tượng này cũng được đặt tại Hà Nội ở một công viên mà người Hà Nội gọi
là Vườn hoa Bà Đầm, tiếc rằng phiên bản này ngày nay không còn nữa. Chúng ta chỉ còn
thấy dấu vết qua đồng 50 cen tiền Đông Dương xưa kia). Khải hoàn môn ở Pari và nhiều
dinh thự ở Pari cũng còn giữ lại được một số tác phẩm điêu khắc giá trị của thế kỉ XIX.
Kiến trúc Âu - Mĩ thế kỉ XIX rất đa dạng, thể hiện một sự giao lưu văn hoá rộng mở. Nét
mới về kiến trúc giai đoạn này là quan điểm hiện thực xâm nhập vào kiến trúc qua các vật
liệu mới như thép, bê tông, kính dày. Một nhà kiến trúc Mĩ là Lui Sulivan (Louis
Sulivan) đã đưa vào các công trình kiến trúc tư tưởng công năng. Theo ông, các công
trình kiến trúc phải được thiết kế phù hợp với chức năng của chúng. Chẳng hạn một ngân
hàng hiện đại không thể giống một đền đài tôn giáo, một thương xá không thể giống một
lâu đài trung cổ. Đặc biệt là kiến trúc hành chính thời kì này thể hiện một phong cách rõ
rệt mà tiêu biểu là toà nhà Quốc hội Mĩ (1793-1851) và toà nhà Quốc hội Anh (1840-
35
1865). Thời cận đại, đặc biệt là giai đoạn thế kỉ XIX đã đánh dấu bước ngoặt căn bản
chuyển từ lao động bằng tay sang lao động bằng máy. Loài người đã chuyển từ nền văn
minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. Nền văn minh công nghiệp đã tạo ra
cách nhìn mới, kéo theo những biến đổi lớn về chính trị, văn hoá, xã hội. Loài người
bước vào một giai đoạn mới của văn minh nhân loại.
- Về tư tưởng: Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện từ thế kỉ XVI với tác
phẩm
Utopia của Tomat Morơ (Thomas More - Anh), tư tưởng này phản ánh ước mơ một xã
hội công xã nông thôn thanh bình dựa trên nền sản xuất nông nghiệp kết hợp với thủ công
nghiệp. Các nhà tư tưởng CNXH của thế kỉ XIX đã thấy sự tất yếu của một xã hội công
nghiệp. Từ đó họ nảy sinh tư tưởng xây dựng một hạn chế bóc lột, hạn chế sự cách biệt
giàu nghèo, khắc phục
những mặt tiêu cực của xã hội tư bản. Tiêu biểu cho các nhà xã hội chủ nghĩa không
tưởng của thế kỉ XIX là Xanh Ximông, Saclơ Phuriê và Rôbơt Ôen. Xanh Ximông (Saint
Simon 1760-1825, Pháp) nhận thấy mâu thuẫn giữa các nhà một bên là các nhà tư sản
giàu có và một bên là những người làm thuê rất nghèo khổ. Ông chủ trương xây dựng
một xã hội mới do “những nhà công nghiệp sáng suốt” điều hành, trong đó mọi người
đều lao động theo kế hoạch và được hưởng thụ bình đẳng. Để xây dựng một xã hội như
vậy, ông chủ trương thuyết phục các nhà tư bản chứ không theo con đường bạo lực cách
mạng. Saclơ Phuriê (Charles Fourrier 1772-1837 - Pháp) cũng phê phán sự bất công của
xã hội tư bản, ông vạch rõ “sự nghèo khổ sinh ra từ bản thân sự thừa thãi”. Ông vạch ra
dự án xây dựng các công xã (Phalăng - Falange) trong đó mọi người đều lao động, coi lao
động là nguồn vui. Trong các công xã có sự kết hợp giữa công nghiệp với nông nghiệp.
Sự hưởng thụ sản phẩm được chia theo tỉ lệ: 5/12 cho lao động, 4/12 cho tài năng, 3/12
cho những người góp vốn xây dựng Falange. Ông kêu gọi những người giàu có góp vốn
xây dựng Falange, nhưng lời kêu gọi của ông chẳng được ai đáp lại. Rôbơt Ôen (Robert
Owen 1771-1858 - Anh) vốn xuất thân từ một người làm thuê, biết làm ăn và trở thành
ông chủ. Ông đã bỏ vốn của mình ra làm gương, xây dựng một cơ sở làm ăn. Trong cơ sở
của Ôen tài sản được coi là của chung, mọi người đều cùng làm việc mỗi ngày là 10 giờ,
có nhà trẻ cho công nhân nữ gửi con nhỏ, lợi nhuận làm ra được thì chia công bằng...
Việc làm đó của ông sau này đã bị thất bại vì sản phẩm của xưởng ông làm ra không đủ
sức cạnh tranh trên thị trường. Ông bỏ sang Mĩ thí nghiệm ý tưởng của mình lần nữa
nhưng cũng thất bại và cuối cùng phải bỏ về Anh trong cảnh nghèo khó. Học thuyết của
các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng đầy tính nhân đạo nhưng đều thất bại khi đem ra
thi hành. Nói như chúng ta ngày nay là thiếu tính khả thi. Tuy vậy, những tư tưởng của
họ đã ảnh hưởng quan trọng tới sự ra đời học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học sau
này do C. Mác xây dựng.
- Về khoa học kỹ thuật: Cuộc cách mạng tri thức trong thế kỉ XVIII đã tạo điều
kiện cho những tiến bộ ở những thế kỉ sau. Đantơn (John Dalton), một giáo viên người
Anh cho rằng mọi vật chất đều cấu tạo bởi các nguyên tử. Nguyên tử của các chất khác
36
nhau thì có khối lượng khác nhau. Các nguyên tử hợp thành từng đơn vị (bây giờ ta gọi là
phân tử). Ông còn miêu tả chúng bằng những công thức hoá học. Một phát minh vĩ đại về
mặt hoá học là Bảng hệ thống tuần hoàn năm 1869 của Dmitri Mendeleev, một nhà hoá
học Nga. Ông đã xắp xếp các chất hoá học thành từng nhóm theo khối lượng riêng, tính
chất riêng của chúng. Ông còn dự đoán một số chất mà loài người sẽ phát hiện ra để lấp
vào chỗ trống trong Bảng tuần hoàn của ông với một sự chính xác đáng kinh ngạc. Năm
1800, Vonta (Ý) đã chế tạo ra pin do tác động của hoạt động hoá học. Năm 1831,
Michael Faraday (Anh) đã chứng minh dòng điện sẽ xuất hiện khi ta di chuyển ống dây
qua một từ trường. Phát minh của Faraday đã tạo cơ sở cho việc chế tạo ra máy phát điện
sau này. Năm 1860 Macxel (James Clerk Maxwell), một nhà khoa học người Scotland đã
đưa ra lí thuyết giải thích ánh sáng bản chất cũng là một dạng của sóng điện từ mà trong
khoảng mắt ta nhìn thấy được. Tới năm 1885, Heinrich Hertz đã chứng minh được tốc độ
khác nhau của các loại sóng điện từ khác nhau. Sau này người ta lấy tên Hertz để đặt cho
đơn vị đo chu kì. Năm 1895, một nhà khoa học người Đức khác là Rơnghen (Wilhelm
Roentgen) đã tạo ra một loại tia có thể đâm xuyên qua các vật thể rắn, ánh sáng không
thể xuyên qua được. Ông gọi đó là tia X. Năm 1898, hai ông bà Pierre và Marie Curie
(Pháp) đã tinh chế được chất radium và phát hiện ra tính phóng xạ của nó.
+ Về mặt thông tin, phát minh quan trọng phải kể tới là năm 1876 Alexander
Graham Bell đã phát minh ra máy điện thoại đầu tiên. 1879 Thomas A. Edison đã làm
cho điện phát sáng để phục vụ cuộc sống. Về mặt kĩ thuật, đầu thế kỉ XIX khí đốt và gas
đã được người Anh và Pháp đưa vào phục vụ cuộc sống. 1897 một kĩ sư người Đức là R.
Diesel đã chế ra một loại động cơ đốt trong không cần bugi, sử dụng dầu cặn nhẹ. Động
cơ Diesel chính là mang tên ông.
+ Về Y học, phát minh quan trọng của thế kỉ XIX phải kể tới Louis Pasteur (Pháp),
ông đã đế ra cách ngừa bệnh mới là sử dụng vaccin.
+ Về Sinh học, phát minh quan trọng của thế kỉ XIX phải kể tới Charles Darwin.
Năm 1859 Đacuyn đã cho ra đời tác phẩm Nguồn gốc các loài qua con đường chọn lọc
tự nhiên. Trong tác phẩm đó ông trình bày 3 ý tưởng chủ yếu: đấu tranh sinh tồn, chọn
lọc tự nhiên, sự tồn tại của giống thích ứng với môi trường tốt nhất đã trở thành cơ sở của
học thuyết tiến hoá cổ điển.
+ Về di truyền học, Gregor Mendel (Áo) đã đưa ra học thuyết chứng minh sự di
truyền những phẩm chất của thế hệ trước cho thế hệ sau qua những phân tử cực nhỏ, sau
này được gọi là gen.
+ Về tâm lí học, cuối thế kỉ XIX có hai phát minh quan trọng là của Paplốp (Ivan
Pavlov) và Frơt (Sigmund Freud). Paplôp đã phát hiện ra phản xạ có điều kiện.Thử
nghiệm của Paplôp đã giải thích nhiều hành vi của con người không giải thích được bằng
lí trí, thực tế chỉ là sự phản ứng máy móc trước các kích thích đã trở thành tập tính. Còn
học thuyết của Frơt thì giải thích nhiều hành động của con người xuất phát từ những nhu
cầu, ước muốn tiềm ẩn. Frơt đã tạo ra ngành phân tâm học.

37
Câu 15: Trình bày những thành tựu chính của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật, công nghệ mới ở thế kỷ XX? Phân tích vai trò, ảnh hưởng của các lĩnh vực
công nghệ hiện đại đối với nền văn minh thế giới?
1. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ ở thế
kỷ XX:
* Nửa đầu thế kỷ XX:
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, một cuộc cách mạng thực sự đã diễn ra trong ngành
vật lí đó là 3 phát minh quan trọng : điện tử (1896), tính phóng xạ (1898) và Thuyết
tương đối.
Giữa thế kỉ XIX, con người vẫn còn quan niệm nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của
vật chất không thể phân chia được nữa. Nhưng với những phát hiện về tia X, tính phóng
xạ, làm người ta phải có những cách nhìn khác. Năm 1911, một nhà bác học người Anh
là E.Rơdơpho đã tiến hành thí nghiệm bắn phá nguyên tử. Thí nghiệm của E.Rơdơpho đã
chứng minh nguyên tử không phải đặc mà có rất nhiều khoảng trống. Từ kết quả của thí
nghiệm đó, học trò của E.Rơdơpho là Ninxơ Bo đã đưa ra lí thuyết về mẫu hành tinh
nguyên tử. Theo Ninxơ Bo, các nguyên tử có một nhân ở giữa, xung quanh có các điện tử
chuyển động theo một quĩ đạo nhất định như các hành tinh chuyển động quanh Mặt Trời.
Một sự tương đồng giữa thế giới vi mô với thế giới vĩ mô.
Năm 1932, con người còn phát hiện ra hạt nhân nguyên tử cũng chưa phải là thành
phần nhỏ nhất của vật chất. Hạt nhân nguyên tử còn gồm có prôtôn và nơtrôn. Năm 1934,
Phêđơric và Iren Quyri (con rể và con gái của nhà bác học Mari Quyri) đã phát hiện ra
hiện tượng phóng xạ nhân tạo và chất đồng vị phóng xạ. Năm 1938-1939, các nhà bác
học Ôttô Han, Lida Metne (Đức), Enricô Phecmi (Ialia) và Giôliô Quyri (Pháp) đã cùng
phát hiện ra hiện tượng phản ứng dây chuyền phá vỡ hạt nhân urani. Từ đó, năm 1942
Enricô Phecmi đã xây dựng được lò phản ứng hạt nhân đầu tiên trên thế giới ngay dưới
khán đài sân vận động của trường đại học Sicagô. Thuyết tương đối của Anbe Anhxtanh
đã làm một cuộc cách mạng thực sự của vật lí hiện đại. Khi mới được công bố, nhiều
người cho đây là một lí thuyết điên khùng. Ngay cả một số nhà bác học lớn tuổi thời đó
cũng không hiểu nổi lí thuyết của Anhxtanh. Nhưng với thời gian, nhiều sự kiện thực
nghiệm càng ngày càng chứng minh lí thuyết của Anhxtanh là đúng đắn . Lí thuyết này
không thể thiếu trong nhiều lĩnh vực như vật lí hạt nhân, kĩ thuật máy gia tốc, vật lí thiên
văn hiện đại. Có thể nói rất nhiều các phát minh lớn về vật lí của thế kỉ XX đều có liên
quan đến lí thuyết của Anhxtanh.
Trong lĩnh vực hoá học, sinh học... cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Những thành tựu về khoa học cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã đưa và sử dụng như điện
tín, điện thoại, ra đa, máy bay, phim có âm thanh...
* Nửa sau thế kỷ XX:
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đạt được những thành tựu kì diệu trong
mọi ngành khoa học cơ bản và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, rõ nét nhất là trong các

38
ngành điện tử-tin học, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học, kĩ thuật lade,
khoa học vũ trụ.
Máy tính và rôbôt là những sản phẩm tiêu biểu của công nghệ điện tử-tin học. Từ
những chiếc máy vi tính (compute) đầu tiên ra đời vào năm 1946 đến nay, máy tính đã
trải qua bốn thế hệ. Từ những chiếc máy tính điện tử đầu tiên sử dụng bóng đèn điện tử
chân không, rồi chất bán dẫn, vi mạch (mạch tích hợp IC - Integrated Circuit), vi mạch
với độ tích hợp cao. Từ máy tính điện tử dẫn tới sự kết nối Internet, tạo ra mạng thông tin
toàn cầu với khả năng trao đổi thông tin cực nhanh, giá rẻ.
Đội ngũ rôbôt công nghiệp ngày càng đông đảo, thông minh hơn và lĩnh vực tham
gia hoạt động đang ngày càng mở rộng.
Nhiều loại vật liệu mới ra đời trong hoàn cảnh vật liệu thiên nhiên ngày càng vơi
cạn dần. Những loại vật liệu mới này còn có những tính năng hơn hẳn vật liệu tự nhiên
như siêu bền, siêu cứng, siêu nhẹ... Tên các loại vật liệu mới như composit, polyme, silic,
sợi cáp quang... ngày càng trở nên phổ biến. Nhiều loại năng lượng mới đã được con
người sử dụng để biến thành điện năng như năng lượng nguyên tử, năng lượng Mặt Trời,
năng lượng gió...
Tia lade (laser) mới được phát minh ra từ những năm 60 của thế kỉ XX nhưng đến
nay đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, từ quân sự, thiên văn, y học, công nghệ in,
thông tin liên lạc... Công nghệ sinh học đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc,
thậm chí đáng sợ.
Công nghệ sinh học tập trung vào bốn lĩnh vực: công nghệ gen, công nghệ tế bào,
công nghệ vi sinh, công nghệ enzim. Nhờ công nghệ sinh học, người ta đã tạo ra nhiều
giống cây, con mới với những đặc tính ưu điểm khác hẳn các giống trong tự nhiên; nhiều
loại dược phẩm mới ra đời, nhiều loại chất xúc tác mới xuất hiện...
Trong nghiên cứu vũ trụ, con người đã tiến những bước dài mà đi đầu là hai nước
Liên Xô và Mĩ. Các tàu vũ trụ của Liên Xô và Mĩ đã đi thăm dò những hành tinh xa xôi
ngoài Trái Đất. Liên Xô, Mĩ và giờ đây đang thêm nhiều nước khác đã phóng các vệ tinh
nhân tạo đáp ứng nhu cầu truyền hình, thông tin toàn cầu, điều tra tài nguyên, dự báo thời
tiết, mạng định vị qua vệ tinh...
2. Vai trò, ảnh hưởng đối với nền văn minh thế giới:
Những thành tựu của khoa học vũ trụ ngày càng phục vụ đắc lực cho cuộc sống của
con người trên hành tinh. Các vệ tinh nhân tạo đã giúp ích to lớn và có hiệu quả cho
ngành khí tượng
dự báo thời tiết dài ngày và chính xác hơn, cho việc truyền tin và truyền hình, sản xuất
nông nghiệp, điều tra cơ bản và thăm dò tài nguyên cũng như lập bản đồ địa lí, địa chất
và công tác trắc địa...
Mặt khác, việc thám hiểm Mặt Trăng, các hành tinh và các vì sao đã làm phong phú
thêm, sâu sắc thêm sự hiểu biết của con người về vũ trụ, đẩy mạnh hơn cuộc cách mạng
khoa học – kĩ thuật trên toàn thế giới.

39
Cũng như nhiều ngành khoa học khác, khoa học vũ trụ trở thành một bộ phận không
thể thiếu được của cách mạng khoa học - kĩ thuật và nền văn minh nhân loại thế kỉ XX.

Câu 16. Trình bày về Kitô giáo và vai trò của Kitô giáo với văn minh phương Tây?

Kitô giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới, có nguồn gốc từ Địa Trung Hải vào khoảng
2000 năm trước. Kitô giáo tin rằng Đức Chúa Trời đã gửi con trai mình, Giêsu Kitô,
xuống trần gian để cứu rỗi nhân loại. Giêsu đã chịu chết trên thập giá và được phục sinh
ba ngày sau đó, chứng minh rằng ông là con trai của Đức Chúa Trời và có quyền năng để
cứu rỗi tất cả mọi người.Kitô giáo có nhiều nhánh khác nhau, nhưng tất cả đều tin rằng
Giêsu Kitô là con trai của Đức Chúa Trời và là người cứu rỗi nhân loại. Kitô giáo cũng
tin rằng con người có trách nhiệm sống đạo đức và tuân thủ các giá trị đạo đức như tình
yêu, sự tha thứ, sự khoan dung và sự bình an.Kitô giáo có nhiều nghi lễ và thánh lễ quan
trọng, như Thánh Lễ Chúa Nhật, Lễ Phục Sinh và Lễ Giáng Sinh. Các tín đồ Kitô giáo
cũng thường cầu nguyện và đọc Kinh Thánh, đó là tài liệu thánh của Kitô giáo, bao gồm
cả Kinh Thánh Cũ và Kinh Thánh Mới.

1. Sự ra đời Kitô giáo

– Kitô giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ I ở các tỉnh phía đông của đế quốc La Mã với chế độ
chiếm hữu nô lệ. Đế chế La Mã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, tạo
ra nhiều mâu thuẫn và xung đột gay gắt trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh ấy đã làm
nảy sinh những tư tưởng được giải phóng và tự do. Bên cạnh đó, vùng Trung Cận đông là
nơi tiếp giáp 3 châu lục, dân cư ở đây vốn theo đa thần giáo, trong quá trình thống nhất
của đế chế đã xuất hiện yêu cầu thống nhất về tư tưởng, trong đó có nhu cầu về tôn giáo
độc thần, vì vậy Kitô giáo đã ra đời trên cơ sở của Do Thái giáo vốn đang tồn tại ở vùng
này

– Sự ra đời của Kitô giáo gắn với tên tuổi của Giêsu Kitô. Ông sinh ra vào đầu Công
nguyên, theo truyền thuyết, bà Maria đã mang thai một cách màu nhiệm và sinh ra ông.
Giêsu là người thông minh. Trên cở sở kinh thánh và những nghiên cứu hiện có, ta có thể
biết được vài điểm về cuộc sống của Giêsu như sau:

+ Giêsu là người Do Thái.


+ Sống ở đầu thế kỷ I sau Công nguyên.
+ Khoảng 30 tuổi thì bắt đầu truyền, giảng đạo khoảng 3 năm.

40
+ Thu nhận và đào tạo 12 người thành Thánh tông đồ. Phêrô là Thánh tông đồ cả.
+ Bị sự ghen ghét của các phần tử Do Thái giáo.
+ Sau khi bị kết tội “mưu phản La Mã”, bị đóng đinh chết trên thập tự giá.
Sau khi Giêsu qua đời, Kitô giáo được hình thành.

2. Sự phát triển của Kitô giáo

– Kitô giáo trong thời kỳ cổ đại:

Đây là thời kỳ Kitô giáo xuất hiện và hoạt động trong cộng đồng người Do Thái nhưng bị
những người theo Do Thái giáo đả kích và chính quyền La Mã đàn áp. Sang thế kỷ II,
tầng lớp quý tộc dần theo Kitô giáo làm thay đổi vị trí và ảnh hưởng của nó, đến cuối thế
kỷ II, Kitô giáo trở thành quốc giáo của Đế chế La Mã.

– Kitô giáo trong thời trung cổ:

Kitô giáo chi phối mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhiều nước
phong kiến châu Âu. Quá trình mở rộng ảnh hưởng của đạo Kitô đã gây ra nhiều cuộc
xung đột, mâu thuẫn gay gắt giữa Kitô giáo với Do Thái giáo và Hồi giáo với những cuộc
Thập tự chinh tàn khốc và đẫm máu. Ngay trong bản thân trong Kitô giáo cũng nảy sinh
mâu thuẫn gay gắt, quyết liệt dẫn đến sự phân hoá Kitô giáo lần thứ nhất vào năm 1054
thành 2 phái: Công giáo – thế lực lớn nhất ở phía Tây La Mã. Chính thống giáo ở phía
Đông La Mã.

– Kitô giáo trong thời kỳ cận – hiện đại:

Đến thế kỷ XVI, sự ra đời, phát triển của giai cấp tư sản và phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã xuất hiện yêu cầu cải cách Kitô giáo, Với những sự cải cách của Mactin
Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546) đã làm xuất hiện Giáo hội cải
cách gọi là Tin lành. Cũng thời kỳ này vua Anh tách Công giáo ở Anh khỏi sự chỉ đạo
của Giáo Hoàng và lập ra Anh giáo. Ngày nay, Kitô giáo có hơn 400 dòng khác nhau
trong đó có 4 nhánh lớn là Công giáo, Chính thống giáo, đạo Tin Lành và Anh giáo.

 Vai trò

Kitô giáo đã có một vai trò rất quan trọng trong văn minh phương Tây. Đầu tiên, Kitô
giáo đã đóng góp rất nhiều cho việc hình thành các giá trị đạo đức của phương Tây, như
tình yêu, sự tha thứ, sự khoan dung và sự bình an. Những giá trị này đã trở thành một
phần không thể thiếu của văn hóa phương Tây và đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của
41
đời sống.Thứ hai, Kitô giáo đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển giáo dục và
nghiên cứu khoa học. Trong suốt lịch sử, các trường đại học và các viện nghiên cứu do
Kitô giáo thành lập đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của văn hóa và khoa học
phương Tây.Thứ ba, Kitô giáo đã đóng góp rất nhiều cho việc phát triển nghệ thuật và
văn hóa phương Tây. Những tác phẩm nghệ thuật và văn học được tạo ra dưới sự ảnh
hưởng của Kitô giáo đã trở thành những tài sản văn hóa quý giá của phương Tây.Tuy
nhiên, cũng có những tranh cãi về vai trò của Kitô giáo trong lịch sử phương Tây, đặc
biệt là trong việc đàn áp các tôn giáo khác và các hoạt động thần bí. Tuy nhiên, không thể
phủ nhận rằng Kitô giáo đã có một ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa và lịch sử phương Tây,
và vẫn đang tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong đời sống của nhiều người.

42

You might also like