You are on page 1of 51

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA QUỐC TẾ

MÔN: VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

NỘI DUNG: TÌM HIỂU VỀ DÂN TỘC H’MÔNG

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Anh Cường

Nhóm: 03

Lớp: HDQT11A

HÀ NỘI, 2023
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT Họ và tên Mã sinh viên Nhiệm vụ
Văn hóa mưu sinh + Tổng hợp
1 63DHD11047
Đỗ Văn Hùng (Trưởng nhóm)
và chỉnh sửa
Khái quát chung về dân tộc +
2 63DHD110
Vũ Thị Hưởng
Xu thế phát triển và biến đổi
3 63DHD11037 Văn hóa vật thể
Nguyễn Thị Hương Giang
4 63DHD11044 Văn hóa phi vật thể
Triệu Đức Hoàng
5 63DHD11005 Văn hóa xã hội
Ngô Hoàng Anh

1
MỤC LỤC

MỤC LỤC ...........................................................................................................................................................2


I. Khái quát chung về dân tộc .......................................................................................................................3
1. Dân số ......................................................................................................................................................3
2. Phân bố ....................................................................................................................................................3
3. Lịch sử hình thành ..................................................................................................................................3
II. Văn hóa mưu sinh .......................................................................................................................................4
1. Nông Nghiệp ............................................................................................................................................4
2. Chăn nuôi ................................................................................................................................................7
3. Các nghề thủ công ...................................................................................................................................8
4. Săn bắn và hái lượm..............................................................................................................................10
5. Trao đổi và mua bán hàng hóa .............................................................................................................10
III. Văn hóa vật thể .....................................................................................................................................12
1. Nhà ở và các công trình kiến trúc.........................................................................................................12
2. Trang phục.............................................................................................................................................12
3. Ẩm thực ..................................................................................................................................................15
4. Các phương tiện vận chuyển.................................................................................................................25
5. Các loại hình nhạc cụ ...........................................................................................................................26
IV. Văn hóa phi vật thể...............................................................................................................................28
1. Ngôn ngữ ...............................................................................................................................................28
2. Tôn giáo .................................................................................................................................................29
3. Tín ngưỡng ............................................................................................................................................30
4. Lễ hội......................................................................................................................................................33
5. Các loại hình văn nghệ dân gian, trò chơi dân gian............................................................................37
V. Văn hóa xã hội ..........................................................................................................................................42
1. Thiết chế làng bản .................................................................................................................................42
2. Tổ chức gia đình ....................................................................................................................................43
3. Cơ cấu dòng họ ......................................................................................................................................44
4. Phong tục tập quán................................................................................................................................44
VI. Xu thế phát triển và biến đổi ...............................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................................50

2
I. Khái quát chung về dân tộc
1. Dân số
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’mông ở Việt Nam có dân số
1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62
trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người H’mông cư trú tập trung đông tại các tỉnh như: Hà
Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái ,…

2. Phân bố
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc H’mông thường cư trú ở độ cao từ
800 - 1500m so với mực nước biển, gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn
rộng lớn, dọc theo biên giới Việt-Lào và Việt-Trung,từ Lạng Sơn đến Nghệ An.

Người H’Mông cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (231.464 người), Điện Biên (170.648
người), Sơn La (157.253 người), Lào Cai (146.147 người), Lai Châu (83.324 người), Yên Bái
(81.921 người), Cao Bằng (51.373 người), Nghệ An (28.992 người), Đắk Lắk (22.760 người),
Đắk Nông (21.952 người), Bắc Kạn (17.470 người), Tuyên Quang (16.974 người), Thanh Hóa
(14.799 người).

Người H’mông được chia thành 4 nhóm: H’mông Hoa (H’mông Lenhf), H’mông Đen
(H’mông Duz), H’mông Xanh (H’mông Tseux), H’mông Trắng (H’mông Deux). Tuy có 4
nhóm H’mông khác nhau, nhưng về ngôn ngữ và văn hoá cơ bản giống nhau, sự khác nhau
giữa các nhóm chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ.

3. Lịch sử hình thành


Người H’mông ở Việt Nam hiện nay đều có nguồn gốc từ phương Bắc. Các tài liệu khoa
học cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người mông là tộc người di cư đến VN sớm
nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. Theo các nhà dân tộc học Việt Nam
thì phần lớn những người H’mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều di cư trực tiếp từ Quý
Châu, Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc) sang. Riêng một số nhóm ở Thanh Hoá, Nghệ
An di cư đến Việt Nam qua Lào. Người H’mông đến Việt Nam bằng các con đường khác
nhau và chia thành nhiều đợt, trong đó có 3 đợt chính:

Đợt thứ nhất, khoảng 100 hộ, thuộc các họ Lù, Giàng từ Quý Châu đến khu vực các huyện
Đồng Văn, Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, thời gian vào quãng cuối đời Minh, đầu đời Thanh của

3
lịch sử Trung Quốc, tương đương với những năm có phong trào của người Miêu ở Quý Châu
chống lại chính sách “cải tổ quy lưu” và bị thất bại, cách đây trên 300 năm. Từ đây, họ bắt
đầu tiếp tục di cư vào sâu hơn đến các tỉnh thuộc Đông Bắc Việt Nam.

Đợt thứ hai, khoảng trên 100 hộ, trong đó có những hộ thuộc họ Vàng, họ Lý cũng vào
khu vực Đồng Văn. Còn một nhóm khác số người ít hơn, thuộc các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng,
Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Sau đó có khoảng 30 hộ gồm các
họ Vừ, Sùng chuyển sang phía Tây Bắc Việt Nam. Thời gian của đợt di chuyển này cách đây
trên 200 năm. Một số hộ người H’mông này sau đó tiếp tục di cư rải rác đến các tỉnh của Tây
Bắc Việt Nam

Đợt thứ ba, số người Hmông di cư vào Việt Nam đông nhất, gồm khoảng trên 10 ngàn
người. Phần lớn họ từ Quý Châu, có một số từ Quảng Tây và Vân Nam sang, chủ yếu vào
các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái… Thời gian của đợt di cư này tương đương với thời kỳ
của phong trào “Thái Bình Thiên Quốc”, trong đó có người Miêu tham gia, chống lại nhà
Mãn Thanh từ năm 1840 đến 1868. Về sau, họ tiếp tục di cư đến các huyện của các tỉnh thuộc
Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam.

Về sau hàng năm vẫn có người H’mông di cư lẻ tẻ sang Việt Nam. Các con đường di
chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi xuống Tuyên Quang. Riêng các nhóm H’mông cư
trú ở hai tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An và các huyện giáp biên giới Lào của Sơn La như Mai
Sơn, Mộc Châu, Sốp Cộp, Sông Mã cũng từ Lào và các tỉnh miền núi miền Bắc vào trên dưới
100 năm trở lại đây.

Người H’mông rất coi trọng dòng họ, họ quan niệm: người cùng dòng họ là những người
anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau, cưu
mang nhau. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công
việc chung. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những
người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

II. Văn hóa mưu sinh


1. Nông Nghiệp

Người H’mông sống trên những dải núi cao, khoảng từ 800-1500m so với mặt nước biển.
Họ có ít ruộng, còn nương rẫy hầu hết là các hang hốc, đa tài mèo lởm chởm. Hoàn cảnh thiếu

4
đất canh tác, do vậy họ phải đẽo đã, xếp thành từng hốc, sau đó gùi đất từ nơi khác tới đổ vào
những hốc đá, lấy đất trồng trọt. Hoàn cảnh điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thiếu nước càng
gây thêm khó khăn cho công việc canh tác của họ. Kỹ thuật canh tác trên nương của họ cũng
đơn giản. Đáng chú ý là việc dùng chiếc cày Mèo để làm đất. Đây là loại cày có chiếc bắp cày
khá đặc biệt (so với các loại cày của các tộc người khác thẳng). Chức năng đặc biệt của nó, là
để vỡ đất trên các mảnh nương có đá lộ đầu. Trên nương, người H’mông không trọc lỗ tra hạt
mà họ gieo vãi, rồi bừa phủ. Hiện nay, ở nhiều vùng, người H’mông đã biết đào mương, đắp
đập, xếp đá chống xói mòn, cày ải bón phân cho lúa,..Kỹ thuật trồng trọt của họ có nhiều mặt
tiến bộ như: từ lâu họ đã biết trồng tăng vụ, trồng gối vụ, trồng xen kẽ nhiều thứ cây trên một
diện tích, biết chọn giống, ủ phân, biết làm chuồng.

( Hình ảnh nương ngô ở cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang, Sưu tầm)

Ở nhiều vùng, người Mông phạt núi làm thành những bậc thang nhằm giữ nước bên trong
để trồng lúa nước. Mảnh đất được chọn để làm ruộng nước hay ruộng bậc thang thường là
những mảnh nằm dưới chân đồi, giữa hai sườn đồi. Vùng đất này phải có độ dốc không cao
lắm, đặc biệt phải có nguồn nước tự nhiên do suối và mạch nước mang lại. Ruộng thường được
cày ải, bừa kỹ, bón phân và cây trồng được làm cỏ hai, ba lượt. Ngoài ra, trên ruộng vào vụ
đông xuân, đồng bào còn trồng rau, đậu, mạch ba góc. Người Mông quan niệm, cha ông ngày
trước cần cù chịu khó đào đắp quyết liệt sáng tạo để tạo nên một công trình ruộng bậc thang

5
trùng điệp. Khi đứng trước những thửa ruộng bậc thang đồ sộ ở Yên Bái hay Lào Cai khó ai
nghĩ rằng với bàn tay thô ráp, dụng cụ thô sơ mà bao thế hệ người Mông đã làm ra những công
trình tuyệt tác đến vậy.

(Hình ảnh ruộng bậc thang trên cánh đồng mâm xôi tại Mù Cang Chải, Yên Bái, Sưu tầm)

Đồng bào thường nói “lửa cháy đến đâu người H’mông chạy theo đến đó” hay “người chạy
theo nương” để nói về cuộc sống du canh nương rẫy của người H’mông. Sản phẩm nông nghiệp
chính là ngô, lúa nương, khoai, mạch ba góc, ý dĩ, lạc, vừng, đậu và các loại rau… ở một vài
nơi có ruộng bậc thang. Các loại quả táo, đào, mận, lê cũng rất nổi tiếng và người H’mông còn
trồng cả các loại cây thuốc như tam thất, xuyên khung,…Những năm trước 1990, trên nương
người H’mông chủ yếu là trồng thuốc phiện (anh túc) và ngô. Chỉ tính riêng huyện Đồng Văn
(Hà Giang), hai năm 1956 – 1957, sản lượng thuốc phiện của người H’mông ở đây đã đạt tới
35 tấn. Hiện nay họ đã bỏ thuốc phiện, thay vào đó canh tác thảo quả lại khá phát triển ở những
nơi khí hậu mát, lạnh và có nhiều rừng già. Mùa vụ nương rẫy (nông lịch) của họ như sau
(Theo dương lịch): Tháng 1 (li câu) – phát nương; Tháng 2 (li câu o) – trỉa ngô; Tháng 3 (li
pê) – làm cỏ ngô; Tháng 4 (li blau) – làm cỏ ngô; Tháng 5 (li chi) – thu ngô sớm; Tháng 6 (li
chân) – thu ngô muộn; Tháng 7 (li chia) – làm đất vụ sau, gieo ngô; Tháng 8 (li di) – làm cỏ
ngô; Tháng 9 (li chua) – làm cỏ ngô; Tháng 10 (li cẩu) – thu hoạch ngô; Tháng 11 (li cẩu i) –
thu hoạch ngô; Tháng 12 (li cẩu o) – làm nhà mới, cưới xin, thăm bạn bè. Người H’mông

6
thường chọn các ngày đầu tháng để tiến hành gieo trồng vì họ quan niệm, những ngày này là
ngày khởi đầu, còn ngày cuối tháng là ngày kết thúc, chỉ có thể thu hoạch. Bao giờ ông chủ
nhà cũng là người tra hạt đầu tiên vì họ quan niệm, người chủ nhà có thể liên lạc với ông bà đã
mất, và cũng là người có kinh nghiệm sản xuất hơn những thành viên khác trong gia đình. Khi
chủ nhà làm trước thì những người khác có thể nhìn cách ông làm mà làm theo.

Ngoài các cây trồng trên, người Mông còn rất chăm chút đến một loại cây trồng nữa đó là
cây lanh, bởi đó là cây trồng gắn liền với truyền thống dệt sợi, may áo truyền thống của họ.
Cây lanh là loại cây rất kén đất vì thế người Mông dành cho chúng những vạt đất tốt nhất, được
làm tơi xốp, đánh luống, cho nhiều phân chuồng nhất để gieo hạt, hạt lanh phải gieo dầy để
cây lên thẳng, cho sợi dai, sợi lanh dai và bền hơn sợi đay. Lanh thì được trồng vào tháng hai
và thu hoạch vào tháng năm. Phải thu hoạch đúng vụ thì sợi lanh mới chắc, dai. Phụ nữ Mông
dùng sợi lanh để dệt vải, may váy. Đã là phụ nữ Mông thì hầu hết không ai là không biết nghề
dệt vải truyền thống.

2. Chăn nuôi
Bên cạnh làm nương rẫy người Mông còn chú ý đến công việc chăn nuôi gia súc, gia cầm
vì kinh tế của người Mông chủ yếu là tự cung, tự cấp. Chuồng gia súc người Mông làm ngay
trước cửa nhà, có lát ván và làm vệ sinh hàng ngày. Người Mông quan niệm: Vạn vật đều có
hồn, đối với vật nuôi trong nhà đều có "đá chỏ" (ma tổ) vì vậy khi mua vật về nuôi đều phải
làm lễ, lễ rất đơn giản: Một nén hương, bát nước, một mụn vải đỏ buộc vào chuồng nơi con
vật ở.

Ảnh minh họa

7
Vật nuôi của người Mông là con bò, con ngựa.., bò dùng để làm sức kéo (cày nương), ngựa
dùng để cưỡi và thồ hàng. Ai không nuôi lợn đều bị coi là không phải người H’mông. Mỗi gia
đình đều nuôi từ 5, 7 con lợn đến 10, 20 con lợn. Trong truyền thuyết, lợn là vị thần đã có công
giúp người, là cha của “Vua” H’mông. Mỗi gia đình người H’mông còn nuôi từ 30 – 40 con
gà đến 100 con gà. Bên cạnh đó người Mông còn nuôi dê, ngan, ngỗng...Những vật nuôi này
người Mông thường để làm thức ăn dần trong gia đình, rất ít khi mang đi bán, lấy thịt để phục
vụ ma chay, cưới xin, tiết lễ,... Trong chăn nuôi của các dân tộc người H’mông, đáng chú ý
nhất là việc nuôi ngựa. Xưa kia họ nuôi khá nhiều ngựa, ngựa của người H’mông ở Cao Bằng
khá nổi tiếng. Khi bán và đổi ngựa người Mông giữ lại bộ yên cương vì họ cho rằng, có giữ lại
bộ yên cương thì mua con ngựa sau mới tốt. Còn một loại vật nuôi là đặc sản quý của người
Mông đó là nuôi ong. Ong vùng núi cao hít thở khí trời trong lành và hương hoa núi rừng nên
cho một thứ mật sánh xanh, ngọt thơm. Đây là loại dược liệu quý dùng chữa nhiều bệnh tật
của người Mông.

3. Các nghề thủ công


Thủ công gia đình của người dân tộc H’mông cũng khá đa dạng. Họ phát triển đa dạng các
nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản,
làm súng kíp, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của họ. Các thợ thủ công
H’mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp, nhưng có thể làm ra những sản phẩm nổi tiếng
như lưỡi cày, dao, cuốc, xẻng, nòng súng đạt trình độ kỹ thuật cao.

Ảnh minh họa

8
Đặc biệt nghề dệt vải lanh và làm thổ cẩm, đối với người phụ nữ dân tộc H’mông đa số giỏi
dệt may, thêu thùa, trang trí trên y phục,…Để dệt vải lanh người Mông đã tự sáng tạo ra chiếc
khung dệt. Khung cửi dệt vải của người Mông rất đơn giản, chỉ có hai thanh gỗ dựng đứng và
vài thanh ngang đóng thành khung cổ định phù hợp với tập quan du canh du cư của đồng bào
người dân tộc H’mông. Một điểm đặc sắc trong quá trình dệt lanh của người Mông là người
phụ nữ dùng chính thắt lưng của mình để buộc và kéo căng mặt vải. Đồng thời, dùng chân để
giật sợi vải, vì thế khi dệt đòi hỏi người dệt phải phối hợp nhịp nhàng giữa chân tay và cơ thể.

Kỹ thuật trang trí hoa văn trên đồ vải, bằng cách in sáp ong (batick) của họ khá cao, giỏi
tạo hoa văn bằng cách ghép vải mầu, thêu, luồn sợi mầu,… Hoa văn trên vải của người H’mông
quả thực là những trang ký sử, những câu chuyện kể về thế giới quan, thiên nhiên vùng sơn
cước đầy sống động. Những đồ án hoa văn của họ mang tính nghệ thuật cao, hầu hết các hoa
văn trang trí đều mang tính chất độc bản. Do quá trình trao truyền nghề, quá trình sáng tạo hoa
văn của mỗi người phụ nữ H’Mông mà hoa văn cứ tiếp nối như một dòng chảy xuyên suốt lịch
sử tồn tại của dân tộc miền sơn cước này.

Ảnh minh họa

Đặc biệt, người Mông hoa có những bí quyết tạo họa tiết hoa văn trên vải hết sức độc đáo
và phong phú. Họ thêu không có mẫu vẽ sẵn mà bằng trí nhớ, thêu ở mặt trái, hoa văn hiện lên
ở mặt phải vải với các mô típ hoa văn phong phú hàm chứa những giá trị đẹp đẽ. Kỹ thuật tạo
hình hoa văn trên vải cho thấy người Mông hoa phản ánh cá tính, ước vọng của con người
trong suốt chiều dài lịch sử phát triển. Đồng bào dân tộc Mông hoa quan niệm hoa văn trên

9
trang phục, đồ dùng sinh hoạt sẽ giúp họ được giao tiếp với các thần linh mời được các thần
linh tới nhà ban phát cho họ điềm lành, xua đi những điều dữ. Mỗi họa tiết hoa văn đều thể
hiện những khát vọng cao đẹp của con người. Đó là vốn tri thức dân gian quý giá phản ánh
trình độ kinh tế, văn hoá, xã hội, lịch sử, dấu ấn thời đại, bản sắc văn hoá của những người
nghệ nhân Mông hoa.

Bên cạch đó một nghề độc đáo không ở nơi nào có là nghề khoan nòng súng: giá khoan
nòng súng kíp là 1 công cụ sản xuất phục vụ cho nghề rèn, làm súng kíp của người Mông, đây
là 1 kỹ thuật đặc biệt đòi hỏi người thợ rèn phải có trình độ kỹ thuật kinh nghiệm cao.

4. Săn bắn và hái lượm


Người H’mông có lối sống du canh, du cư, giữa đại ngàn do vậy cuộc sống chủ yếu phụ
thuộc vào tự nhiên, bằng cách săn bắn và hái lượm. Vậy nên có thể thấy hoạt động chiếm đoạt
tự nhiên của các dân tộc người H’mông, xưa kia giữ vai trò khá quan trọng trong đời sống của
họ. Đồng bào thường thu hái: củ gấu, thảo quả, đẳng sâm, hà thủ ô, hoàng liên, cánh kiến,
chè…là những thứ có giá trị hàng hóa cao.

Tại những nơi như Tây Bắc, Nghệ Tĩnh và phía Bắc Hoàng Liên Sơn, săn bắn được chú ý.
Tuy súng kíp rất phổ biến, nhưng đồng bào vẫn làm bẫy, và có nhiều kinh nghiệm làm bẫy giết
hổ rất tốt. Căn cứ vào bước đi của hổ, người ta đặt súng ở độ cao để khi súng nổ, đạn bao giờ
cũng xuyên ngực con thú. Người đàn ông H’mông có khả năng săn bắn. Trong dân gian thường
nói rằng, chăn nuôi là việc của phụ nữ, kiếm thịt ở rừng là việc của đàn ông.

Ngày nay do nhiều lý do, hoạt động này đã hạn chế rất nhiều. Tuy vậy, việc dựa vào rừng
để lấy thuốc nam chữa các loại bệnh vẫn là hoạt động khá nổi tiếng đối với các tộc người này.
Cho đến hiện nay, hái lượm vẫn là hoạt động cung cấp gần như 100% số lượng củi, nguyên
liệu dùng để nấu nướng, sưởi,…và các loại cây dùng để làm đồ ăn cho ngựa, trâu, bò, lợn.

5. Trao đổi và mua bán hàng hóa


Ở đại đa số các vùng H’mông, việc trao đổi hàng hóa chủ yếu trong các chợ phiên. Chợ
phiên qui định họp 6 ngày một lần (có nơi 5 ngày một phiên), thường là vào dịp cuối tuần.
Quan hệ trao đổi hàng hoá trên cơ sở vật đổi lấy vật, dùng tiền tệ trao đổi rất ít. Chợ phiên
vừa là nơi trao đổi hàng hoá, vừa là nơi gặp gỡ các tầng lớp trong xã hội và cũng là nơi gặp
gỡ của nam nữ thanh niên. Chợ tình được tổ chức mỗi năm một lần là một nét văn hoá đẹp
đặc sắc của người Hmông.

10
Chợ phiên vừa là nơi trao đổi hàng hoá, vưa là nơi gặp gỡ các tầng lớp trong xã hội. Trong
đó có một phiên chợ mang nét đặc sắc văn hoá của người H’mông là “Chợ Tình” ( được tổ
chức mỗi năm một lần ) – nơi những nam nữ thanh niên gặp gỡ. Một phiên chợ tình rất nổi
tiếng của người Mông đó chính là chợ tình Khâu Vai, được tổ chức ở xã Khâu Vai, huyện
Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Đây là phiên chợ chỉ họp một lần duy nhất trong năm vào ngày
26/3 âm lịch hàng năm. Chợ tình Khâu Vai không chỉ phản ánh đặc trưng văn hóa sinh hoạt
của người dân vùng cao nói chung, cũng như người Mông nói riêng, mà còn mang đậm tính
nhân văn sâu sắc khi đây là nơi gặp gỡ và giao lưu giữa những đôi trai gái đã từng yêu nhau
mà vì một lí do nào đó không đến được với nhau.

(Chợ tình Khâu Vai, Mèo Vạc, Hà Giang, Sưu tầm)

Chợ tình Khâu Vai được hình thành từ năm 1999, dựa trên truyền thuyết chàng Ba và
nàng Út. Chàng trai là người dân tộc Mông, cô gái là người dân tộc Giáy. Họ yêu nhau nhưng
bản làng và cha mẹ 2 người không đồng ý. Vì thế, hằng năm họ hẹn nhau tại Khâu Vai và ôn
lại kỉ niệm cũ.

Chợ Khâu Vai dành cho những cặp đôi thật sự yêu thươn nhau. Tại đêm đó, các chàng
trai, cô gái sẽ đi gặp người yêu cũ của mình, nhưng đến sáng 27/3 âm lịch ai sẽ lại về nhà nấy

Ngày nay, việc phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch vùng đồng bào dân tộc Mông bước
đầu hình thành ở một số địa phương, như Hầu Thào, Lao Chải (Sa Pa), Bản Phố (Bắc Hà),
Sín Chéng (Si Ma Cai). Ở một số xã, như: Bản Lầu (Mường Khương), Phong Niên (Bảo
Thắng), Lùng Phình (Bắc Hà), các hộ tự mua, hoặc góp vốn mua ô tô tải làm phương tiện vận
tại vật liệu, nông sản cho gia đình và bà con trong vùng. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực tiềm năng
chưa được khai thác phát triển ở vùng đồng bào dân tộc H’mông.

11
III. Văn hóa vật thể
1. Nhà ở và các công trình kiến trúc
Nhà ở của người H’mông là nhà trệt. Để chống gió, khí hậu lạnh, sương muối vùng cao,
nhà của họ thường là nhà thấp, vững chắc, kín đáo. Nhà chủ yếu dược dựng trên các triền núi,
phía trước có suối, phía sau là núi che chở, xung quanh có thể trồng trọt và chăn nuôi gia súc.
Quy mô thường có ba gian hai chái, cửa chính mở ở gian giữa, cửa phụ mở ở hai gian bên hoặc
đầu hồi nhà. Xung quanh nhà thưng ván, vách nứa, hoặc trình tường, mái lợp ván xẻ hoặc cỏ
gianh. Nhà giàu thường làm khá rộng, cột gỗ kê đá tảng đẽo hình đèn lồng hoặc quả bí, vừa
tạo sự vững chắc, không sụt lún, nghiêng lệch, vừa không bị mủn, mọt do ẩm ướt. Gian giữa
là nơi thờ tổ tiên và để dụng cụ sản xuất. Tùy từng dòng họ mà bếp lò và buồng chủ nhà được
đặt bên trái hay bên phải nhưng bao giờ buồng ngủ của chủ nhà cũng phải đặt cạnh “ cột ma”
(cu ndêx đăng) - cột giữa của vỉ kèo thứ hai ngăn gian đầu hồi bên phải hoặc bên trái giữa. Hai
gian bên, một bên là bếp lò và buồng ngủ, một bên là bếp khách, giường khách và có thể thêm
một buồng ngủ, nếu gia đình có nhiều thế hệ cùng chung sống, phía trên là gác xép, nơi cất trữ
lương thực. Một số gia đình còn làm kho lương thực bên ngoài nhà. Cửa chính của ngôi nhà
thường được treo một tấm vải đỏ hình chữ nhật, hoặc các tờ giấy bản có ý nghĩa cầu phúc. Một
số nhà còn treo thêm ở trước cửa một chén nước nguồn tinh khiết bọc vải đỏ được múc vào
ngày mùng một tết Nguyên Đán. Chén nước này sẽ được thay mới vào tết năm sau với ý nghĩa
cầu mong bình yên, mát lành, phúc lộc đến nhà đầy đặn như chén nước ấy. Phía trước nhà là
truồng Trâu, Lợn, Gà, Ngựa, tổ ong nuôi và có kho để lương thực. Ở những địa hình tương đối
bằng phẳng, đồng bào còn trồng rau sau nhà và dựng hang rào phía trước.

Nhà thường được cất vào mùa khô( từ tháng 11,12 đến tháng 3,4 năm sau). Để thử xem nơi
đất dựng nhà có lành không, người H’mông thường đào 3 hố sâu khoảng 40cm ở ba vị trí: Nơi
định đặt bàn thờ tổ tiên( ma nhà), nơi sẽ để bếp lò, nơi sẽ làm bếp khách, rồi cho vào mỗi hố
ba hạt gạo hoặc ngô. Hạt thứ nhất tượng trưng cho con người, hạt thứ hai tượng trưng cho gia
súc, hạt thứ ba tượng trưng cho cây trồng( một số dòng họ còn cắm thêm một cây nhỏ chính
giữa ba hạt gạo( ngô) sau đó úp bát lên để qua đêm). Sáng hôm sau mở ra nếu hạt gạo (hoặc
ngô), không bị thay đổi vị trí, không bị mốc, không bị kiến tha thì được coi là nơi đất tốt, có
thể ở được. Nếu hạt gạo di chuyển ra xa thì là nơi đất xấu, nếu bị mất một hạt là rất xấu không
thể ở được. Công việc này do chủ nhà thực hiện. Đối với những gia đình cầu toàn hơn, lọ mời
thầy đến cúng để làm lễ xem đất. Hướng nhà thường là hướng đông hoặc tây, theo quan niệm

12
để làm ăn tốt. Ngày giờ dựng nhà phụ thuộc vào tuổi của chủ nhà. Đồng bào H’mông thường
dựng nhà vào ngày chẵn, kiêng dựng nhà vào ngày lẻ. Giờ dựng nhà thường là 4giờ hoặc 6
giờ. Có những nhà còn mổ gà xem chân ngày, giờ dựng nhà.

Sau khi san nền, chọn hướng đi cho cửa chính và căn nền vuông vức, họ đào hố chôn cột
con và dựng xà ngang, làm thành khung nhà. Khi dựng nhà khâu quan trọng nhất là dựng “ cột
ma”. Trước khi dựng cột chủ nhà mổ lợn, gà để cúng “ cột ma”. Theo quan niệm của đồng bào,
việc san nền, dựng cột phải chọn ngày, giờ tốt. Làm nhà xong thì làm lễ cúng “ma nhà” và “cột
ma”. Chủ nhà phải là người đầu tiên đích thân nhóm lửa vào các bếp để khai mở cho cuộc sống
ở ngôi nhà mới.

Nguyên liệu làm nhà: chủ yếu là gỗ tre, cỏ tranh, và đất. Gỗ dùng làm cột, tre dùng làm
đòn tay, cỏ tranh để lớp mái, đất dùng để làm tường. Cũng có nhà dùng gỗ cây làm đôn tay, xẻ
gỗ, lợp mái và thường vách. Người Mông thường đun nấu trong nhà nên ấm và tăng thêm độ
bền.

Kết cấu khung nhà:

Bộ khung nhà người Mèo thành trên các cơ sở vì kèo. Vì cơ bản kèo là kiểu vì kèo ba cột.
Hai cột con hai bên và có cái ở giữa, cái đầu chống lên cái nóc. Để liên kết được với nhau
ngoài hai kèo còn có xà ngang. Xà ngang của nhà Mèo phổ biến là xà kép (một trên, một dưoi
ghép sát vào nhau). Còn lại vì kèo được liên kết với nhau nhờ hệ thống xà dọc.

a) Vì kèo ba cột với một xà kép b) Vì kèo ba cột với hai xà kép

13
Một dạng khác, tuy nhiên vẫn là vì kèo ba cột nhưng với xà kép và có thêm xà đơn ở chân
cột con.Vì kèo bốn cột: Vẫn trên cơ sở vi kèo ba cột nhưng có thêm một chiếc cột hiên nằm ở
phía trước. Đó là các kiểu vi kèo phổ biến ở Người Mèo. Song cũng có nơi, tuy vẫn là kiểu
vì ba cột, nhưng không làm xà kép.

Mặt bằng sinh hoạt:

Một kiểu mặt bằng sinh hoạt phổ biến hơn cả: Nhà ba gian. Gian hồi bên phải có cửa phụ
ở đầu hồi phục để ra bên ngoài . Bên trong gian này giáp vách tiền có giường dành cho vợ
chồng chủ nhà . Lui về vách hậu là bếp chính. Gian này có vách ngan và có cửa thông với gian
giữa. Cột giữa của vì kèo ngăn giữa gian hồi phải và gian giữa là "cột thièng" và dược coi là
cột chính. Gian giữa, giáp vách hậu là bàn thờ (có nhà có bàn thờ, có nhà chỉ có một mảnh giấy
đỏ dán trên vách. Nơi đây còn có bộ bàn ăn. Vẻ phía trước giáp vách ngăn với gian hồi bên
phải dạt cối xay ngô. Cửa chính mở ở mặt trước nhà. Gian này củng có vách ngàn, tro cửa
thông với gian hồi bên trái. Gian hồi trái, giáp vách hậu là giường của khách. Bèn cạnh giưong
khách có bếp phụ.giáp vách tièn là giường dành cho con trai. Nhà người Mèo còn có gác xép
đặt trên xà ngang.

a) Mặt bằng sinh hoạt nhà người Mèo, b) Mặt bằng sinh hoạt nhà người
giáp vách tiền của gian hồi bên phải Mèo, trong nhà chủ có vách ngăn
và một phần của gian giữa được ngăn giữa gian hồi bên phải và gian
thành một buồng nhỏ giữa

14
Chuồng trâu bò được làm ở trước mạt nhà và chỉ cách nhà vài mét. Một dạng mặt bằng sinh
hoạt cũng tương tự như dạng mạt bằng sinh hoạt đã giới thiệu. Song cái khác là gian hồi đặt
bếp chính lại ở bên trái nhà. Và gian giữa giáp vách tiên có đặt giường cho khách.Một dạng
mạt bàng sinh hoạt khác cũng tương tự như trên. Chi khác là giáp vách tiên củn gian hồi bên
phải và một phần của gian giữa được ngàn thành một buòng nhỏ dành cho vợ chồng chủ nhà.
Một dạng mật bằng sinh hoạt khác nửa trong nhà chỉ có vách ngàn giữa gian hồi bên phải và
gian giữa. Còn gian giữa voi gian hồi bèn trái để thông nhau. Mặt trước nhà có hiên

Đó là một số dạng mặt bằng sinh hoạt nhà người Mèo ở Hà Ginng. Còn ở huyện Mai Sơn,
Sơn La, cách bố trí trên mật bàng sinh hoạt có khác đôi chút: Nhà thưởng có chái. Ba gian
chính để thông nhau và trong nhà không thấy có giường dành cho khách. Nếu nhà có khách
người ta để khách nằm trên một tấm chiếu hoặc tấm da bò nơi giáp vách hậu thuộc gian hoi có
giường của chủ nhà.

Ngôi nhà của người Mông có 1 số kiêng kị:

➢ Nếu có cành lá xanh cắm ở cổng hoặc cửa nhà, đấy là dấu hiệu cấm người ngoài vào
nhà. Bởi vì đòng bào quan niệm con ma có thể núp dưới bóng người theo vào làm cho
người trog nhà ốm.
➢ Khi bước vào nhà không được bước lên ngưỡng cửa đi vào
➢ Con dâu khong được vào phòng bố mẹ chồng và ngược lại.
➢ Đặc biệt, không ai được nằm ngủ nơi thờ cúng vì người Mông quan niệm đó chỉ dành
cho người đã khuất.
➢ Con gái không được đi vào của chính, đặc biệt là vào ngày hàng tháng của phụ nữ.
Người Mông thờ ma cửa, họ quan niệm rằng, nếu vào những ngày đó, con gái đi qua
cửa chính thì sẽ làm ma cửa bị ngã, bị ốm, lúc đó thì ma tà có thể xâm nhập vào nhà hại
gia chủ và vật nuôi

2. Trang phục
Nguyên liệu: Được làm hoàn toàn từ sợi đay hoặc lanh và làm thủ công. Quần áo của người
H’mông chủ yếu được may bằng vải tự dệt, đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang
trí với kĩ thuật đa dạng. Bốn màu chủ đạo trong trang phục là xanh, đỏ, trắng, vàng của chỉ tơ
tằm mà họa tiết của trang phục đã tạo ra muôn màu sắc rực rỡ.

15
Nét đặc sắc trên văn hoá của họ là được làm từ chất liệu vải cây lanh. Trồng lanh dệt vải
lanh, thêu dệt thổ cẩm, vẽ sáp ong nhuộm hoa văn đã trở thành nghề truyền thống của con gái
h’mông. Cây lanh trồng khoảng 2 tháng, Được cắt thu hoạch phơi khô, tược lấy cỏ. Sau đó cho
vào cối giã, bện thành dây sau đó các đoạn dây được trụ đá tròn lăn trên phiến đá cho đến khi
tạo thành sợi lanh nhỏ, mịn, bắt ánh sáng để bắt đầu cho cả quá trình đòi hỏi kĩ thuật dệ may
và thêu thùa thành phẩm.

Trang phục của những người dân tộc thiểu số vô cùng phong phú và thực sự khơi gợi của
những người từng 1 lần được chiêm ngưỡng.Quần áo của người Mông chủ yếu được may bằng
vải lanh mà họ tự dệt với những họa tiết và hoa văn đa dạng.Trang phục của người H’mông
độc đáo hơn so với nhiều tộc người khác trong khu vực bởi phong cách tạo dáng và trang trí
rất công phu , kết hợp với các kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong , ghép, thêu, dệt hoa với các kiểu
váy rộng và rất đẹp.

Trang phục nữ H’mông cũng có nhiều nhóm khác nhau, giữa các nhóm cũng có sự khác
biệt. Tuy nhiên, nhìn chung trang phục của họ thường mặc áo 4 thân, xẻ ngực và không cài nút
gấu áo không đươc khâu hoặc được cho vào trong váy.Ống tay áo thường được trang trí hoa
văn những đường vằn ngang từ nách đến nửa tay, đường viền ở cổ và nẹp 2 thân trước thường
được trang trí bằng viền vải màu khác màu, thường là màu đỏ và hoa văn trên nền chàm.Váy
của phụ nữ H’mông là loại váy mở có nhiều nếp gấp và rộng khi xòe ra thì trông như những
cánh hoa. Phần cạp của váy được khâu xếp lại cho vừa 1 vòng bụng và có 2 dây để buộc. Trên
nền váy chàm các hoa văn được thêu, in và ghép từng tấm rất ấn tượng và độc đáo. Hoa văn
trong trang phục của người H’mông chủ yếu là những hoa văn hình chữ nhật, hình thoi, hình
vuông, hình xoáy ốc và thỉng thoảng có những mô típ hoa văn được hình thành trên cơ sở sợi
ngang của kĩ thuật dệt trên khung cửi và có màu chủ đạo là xanh, đen, đỏ, vàng.

Thắt lưng là 1 phần không thể không kể đến khi nhắc đến trang phục của người Mông,
trong trang phục của các đồng bào người H’mông thì còn có xế và khử lau, họ quan niệm rằng
đeo xế và quấn xà cạp là thể hiện sự ý tứ và kín đào của người phụ nữ. Phụ nữ người H;mông
để tóc dài và quấn vòng quanh đầu rồi đội khăn tạo nên 1 nét rất riêng và khó nhầm lẫn với các
dân tộc khác. Đồ trang sức của phụ nữ khá phong phú, trong đó bao gồm: vòng khuyên tai to
và vòng cổ, ngày thường thì đeo loại đơn, ngày lễ thì đeo loại kép có nhiều vòng biểu hiện của

16
sự giàu có. Vòng cổ có hình hai đầu chim hoặc hai đầu rắn- Biểu tượng của vật tổ. Ngoài ra
còn có vòng tay và xà tích.

Ngoài ra , người phụ nữ H’mông ở Sapa còn mặc loại áo xẻ nách phải trang trí cỏ, hai vai
xuống ngực giữa và cửa ống tay áo còn ở phía sau gái thường được đính miệng và trang trí hoa
văn dày đặc bằng những đường chỉ ngũ sắc. Váy của người phụ nữ nơi đây là loại kín có nhiều
nếp gấp và khi xòe ra thì có hình tròn. Người ta thường dựa vào kiểu váy này để phân biệt các
nhóm H’mông xanh, đen , trắng …..

Các sắc thái riêng

Váy của người mông Trắng làm bằng


lanh trắng , áo của phụ nữ mông Trắng được
sẻ ngực, có thêu hoa văn cánh tay và yếm
lưng.

(Ảnh minh họa)

Váy của phụ nữ mông Hoa được trang


trí rất nhiều hoa văn ở váy và cầu kì. Áo của
họ sẻ nách trên vai và ngực có nẹp thêm vải
màu thêu hoa văn con ốc.

(Ảnh minh họa)

Váy của người mông Đen ngắn hơn so với váy của phụ nữ mông trắng và mông Hoa. Váy
thường là váy đen hoặc váy chàm, chỉ ngắn đến đầu gối. Xà cạp thường là miếng vải đen dài

17
chừng một sải tay gấp lại dùng để cuốn quanh bắp chân, hai đầu miếng vải có hai dây buộc
màu đỏ thêu hoa văn. Màu đen của trang phục kết hợp với những hoa văn sặc sỡ trên nẹp áo,
cổ áo… tạo điểm nhấn nên bộ trang phục truyền thống của phụ nữ người Mông Đen khiến cho
trang phục dù chủ yếu là màu đen nhưng lại sinh động và ấn tượng, tạo cho người mặc vẻ đẹp
khỏe khoắn.

(Ảnh minh họa )

Váy phụ nữ mông Xanh: may bằng vải chàm, ở sát gấu có thêu hoa văn hình chữ thập
trong các hình vuông. Váy hình ống khi mặc mới sếp nếp. Áo phụ nữ mở chếch ngực, xẻ thẳng
về bên trái, caid bằng một cúc. hò cảnh tay và cổ áo có thêu hoa văn. Nép áo đắp thêm những
miếng vải nhỏ. Tà xẻ không khâu mà buộc 2 thân lại với nhau bằng 1 dây ở một chỗ. Gấu áo
khâu thành ba bốn lớp đè lên nhau bằng vải màu.

(Ảnh minh họa)

18
Trang phục nữ mặc khi chết: Người H’mông khi về già đều chuẩn bị một bộ trang phục để
khi chết sẽ mặc đẹp đi gặp tổ tiên. Bộ trang phục nữ gồm có khăn, áo như ngày thường nhưng
có thêm một áo khoác dài tay toàn bộ phía lưng vai, sau ống tay đều thêu, in sáp ong các băng
dải hoa văn rực rỡ. Chiếc áo này thực sự là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Nền vải áo là vải
lanh nhuộm chàm pha củ nâu tạo thành màu tím than. Nhằm tăng độ láng, bóng, tám vải may
áo được miết sáp ong mài trên đá. Khi sang thế giới bên kia, người phụ nữ Mông phải mặc váy
bằng vải lanh. Thân váy in hoa sáp ong, gấu váy thêu các hoạ tiết hoa văn khổ to, phối nhiều
gam màu nóng: Đỏ, vàng, da cam tạo vẻ rực rỡ. Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số của
chúng ta thường có quan niệm rằng một phụ nữ có khéo léo hay không, có chăm chỉ hay không
thì chỉ cần nhìn vào bộ trang phục họ mặc trên người, nhìn vào đường kim mũi chỉ là biết được
phẩm hạnh cũng như tính nết của thiếu nữ làm ra bộ trang phục đó. Từ đây có thể thấy, bộ
trang phục đối với phụ nữ dân tộc không chỉ có ý nghĩa phụ trang bình thường mà nó còn phản
ánh của thế giới quan, phản ánh cả một nền văn hoá rất sâu sắc bên trong đó và rất cần những
định hướng cụ thể để giúp đồng bào gìn giữ những kĩ thuật chế tác trang phục độc đáo của
mình.

Trang phục nam giới: khá thống nhất, trang phục của đàn ông dân tộc H’mông đơn giản
hơn chủ yếu là màu tốc tim than và xen kẽ 1 số họa tiết đơn giản. Đa phần họ thường mặc quần
kiểu chân què cạp rộng lá tọa, đũng quần rất thấp, khi mặc, cạp được đặt sang 1 bên rồi đựng
thắt lưng thắt chặt lại. Cánh ngăn ngang hoặc dưới thắt lưng, thắt hẹp, ống tay hơi rộng. Áo
nam có 2 loại đó là loại năm thân và loại bốn thân. Đầu thường chit khăn, có nhóm đội mũ
xung quanh có đinh những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi
không. Trang phục nam không rực rỡ như trang phục nữ giới nhưng trang phục nam giới cũng
có những đặc trưng riêng. Áo của đàn ông người mông ngắn chỉ dài đến thắt lưng, cổ áo có
một cánh nhiều cúc cài khéo chéo từ trên cổ xuống nách bên phải. Và các đường nét hoa văn
thổ cẩm, thường chỉ tập chung hai đầu ống tay để thể hiện sự mạnh mẽ. Quần của nam giới
dân tộc mông thường là màu đen nhuộm chàm, ống rộng kiểu quần chân què để thuận lợi cho
việc leo trèo đồi núi một cách dễ dàng.Với sự cần cù và trí tưởng tượng phong phú, phụ nữ
H’mông đã tạo ra những trang phục truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá của dân tộc mình.

19
(Ảnh minh họa)

Người Mông gắn bó với trang phục truyền trống dù lên nương, làm rẫy hay tham gia các lễ
hội, trò chơi dân gian. Thời gian thích hợp để thấy muôn tà áo mông khoe sắc đó là các phiên
chợ hay là lễ hội.

3. Ẩm thực
Ăn uống của người H’mông dựa vào nguồn lương thực từ trồng trọt, chăn nuôi, khai thác
các sản vật trong tự nhiên. Trước kia, họ thường ăn ngô xay nấu thành bột hoặc nấu chín nửa
vời rồi đồ. Thường ngày, họ ăn cơm gạo tẻ theo cách chế biến đồ trong chõ gỗ. Đa số các món
ăn chủ yếu được chế biến theo cách luộc hoặc xào. Các loại thịt nếu có nhiều ăn tươi không
hết, họ thường để dành bằng cách sấy khô để trên rách bếp (giàn bếp). Người H’mông xúc thức
ăn bằng thìa gỗ, dùng đũa chỉ là phụ. Khi có khách phụ nữ không được ngồi ăn chung, chủ nhà
bao giờ cũng ngồi ở trên, lưng quay vào bức vách hậu gian giữa. Vào những ngày chợ phiên,
đồng bào thường nấu thắng cố, người H’mông rất thích uống rượu nhất là rượu ngô do họ tự
chưng cất.

Người H’mông có 1 số món ăn nổi tiếng như:

- Mèn mén

Nguời H’mông và các cư dân trồng ngô ở đây ăn ngô theo kiểu đồ bột( màu của mèm mén)
họ dùng nước rưới bột ngô rồi trộn đều sao cho vừa ẩm, sau đó cho vào cái hoong bằng gỗ
ghép (lú chu) và đặt vào vạc đồ suốt, hết hơi thì đổ ra rưới nước, trộn đều và đồ lại một lần

20
nữa. Như vậy, bột ngô mới chín kĩ và nếu để lại cho bữa sau thì “ mèn mén” vẫn không bị rắn.
Mỗi ngày đồng bào chỉ làm “mèn mém” một lần và dùng cho cả ba bữa trong ngày. Do món
“mèn mén” là bột ngô đồ khô nên trong bữa ăn đồng bào thường ăn kèm với món canh. Ngoài
món “mèn mén” còn nhiều món ăn làm từ nguyên liệu ngô như: chua xía (bánh ngô non), chua
phụ (bánh chua, làm bằng ngô già), giom lậu (bánh ngô nếp)…Bánh ngô non thường làm vào
đầu vụ ngô, bánh chua thường làm bán trong các chợ phiên.

(Ảnh minh họa)

- Thắng cố :

Theo các cụ già người H’mông truyền lại: trước kia người ta chỉ chế biến thắng cố từ thịt
ngựa và chỉ bằng thịt ngựa mới. Nhưng nay vì nhiều lý do nên thắng cố còn được chế biến
bằng thịt trâu, thịt dê, thịt lợn… Kĩ thuật chế biến thắng cố tương đối đơn giản: sau khi con vật
được làm thịt sạch sẽ xong, tất cả lục phủ ngũ tạng của nó được chặt ra thành từng miếng. Trên
bếp lửa rực hồng, một cái chảo cỡ lớn đặt sẵn. Tất cả các thứ như: thịt thủ, thịt mông, xương
đầu, tim, gan, lòng, phổi của con vật sẽ được đổ vào chảo cùng một lúc, xào lăn. Đợi ít phút
miếng thịt se se cạnh người ta đổ nước vào chảo và cứ thế ninh sôi sùng sục hàng tiếng đồng
hồ. Ngoài muối là chủ yếu và một tí mì chính thì gia vị cho món thắng cố cần phải có thảo quả,
địa điền nướng thơm, tán nhỏ, ướp vào thịt trước lúc đem xào. Khi thắng cố chín kỹ, các thứ
gia vị bổ trợ cho nhau tạo nên một thứ hương vị đặc trưng quyến rũ. Theo làn gió mới, thắng
cố lan tỏa từ đầu chợ đến cuối chợ như mời gọi, như chèo kéo mọi người.

21
(Ảnh minh họa)

- Xôi ngũ sắc:

(Ảnh minh họa)

Xôi ngũ sắc là loại xôi 5 màu mà đồng bằng thường làm trong dịp lễ tết hoặc trong những
dịp ma chay, cưới hỏi, hội hè… Xôi ngũ sắc được làm rất công phu, các màu sắc trong đĩa xôi
rất đặc trưng tạo nên sự hấp dẫn. Trong đó gồm có màu: tím, xanh, đỏ, vàng và màu trắng.
Màu của xôi ngũ sắc được chế biến từ màu của các loại cây.

Để có được chõ xôi ngon trước hết phải chọn loại gạo nếp ngon, thơm, bỏ những hạt gãy,
chọn lấy những hạt đều nhau, sàng sẩy sạch sẽ. Khâu chuẩn bị vật liệu màu là rất quan trọng,
các loại cây lấy về phải tươi, không bị gãy và dập nát. Mỗi loại màu được chế biến một cách
khác nhau.

22
Màu tím: Đây là loại màu đặc trưng không thể thiếu được trong chõ xôi, đây là màu được
chế biến từ cây “chẳm” hay “cẩm”. Cây này thường được các gia đình tự trồng để sử dụng.
Cây chẳm sau khi được cắt đem rửa sạch rồi cho vào nồi đun khá lâu (đun sôi khoảng 20 phút),
lượng nước cho vừa phải để cho nước có màu tím. Để ngâm gạo nếp thơm vào nước màu thì
cần phải đãi sạch gạo trước rồi ngâm vào nước cây chẳm. Thời gian ngâm khoảng 4 – 6 giờ,
sau đó bỏ gạo ngâm ra chuẩn bị đồ. Màu đỏ nhạt: Cũng là màu đặc trưng, cùng là cây chẳm
nhưng cách chế biến màu thì khác. Cây chẳm được lựa chọn lấy loại cây thấp về rửa sạch rồi
cho vào chậu hoặc máng gỗ vò kỹ. Để tạo loại màu này cần phải dùng rơm của bông lúa làm
cốm phơi khô đốt kỹ rồi lấy tro đó cho lẫn vào cây chẳm đã rửa sạch vò lẫn. Sau đó cho nước
vào và lọc lấy nước vò ra có màu đỏ nhạt. Cũng như màu tím, gạo được vo đãi sạch sẽ rồi
ngâm vào nước đã được lọc. Do ngâm bằng nước nguội nên phải ngâm lâu hơn màu tím một
chút. Xôi của màu này sau khi đồ chín màu rất đẹp, nhất là sau khi trộn đều với các màu khác.
Màu vàng của xôi ngũ sắc có thể dùng hai loại vật liệu thực vật khác nhau, đó là dùng củ nghệ
vàng hoặc dùng cây “đoọc rả”. Mỗi loại vật liệu cho ta một màu vàng khác nhau về độ đậm
nhạt. Màu vàng của nghệ: Nghệ củ tươi sau khi được đào đem về để 5 – 7 hôm, sau đó rửa
sạch, để vào trong rổ cho ráo nước. Khi làm xôi, nghệ được đem ra cối giã nhỏ, cho thêm nước
vào khuấy đều rồi dùng một miếng vải mỏng để lọc nước nghệ. Sau đó cho gạo vào chậu nước
nghệ để ngâm, khoảng 6h đổ gạo ngâm ra rá cho sạch nước nghệ rồi mới chuẩn bị đồ. Màu
vàng của cây “đoọc rả”: Đây là loại cây khá hiếm mọc trong tự nhiên, cây này cao khoảng 40
cm, lá có gợn, thân cây nhỏ. Sau khi lấy cây cắt từng phần thân đem về rửa sạch rồi cho vào
nồi đun, chỉ cho lượng nước vừa ngập sau đó đun sôi khoảng 30 phút, gạn lấy nước để nguội
rổi đổ gạo vào ngâm. So với màu vàng của nghệ thì màu vàng cảu cây “đoọc rả” có màu đẹp
hơn. Màu xanh: Màu xanh được tạo nên từ lá cây gừng. Lá cây gừng được hái về rửa sạch lọc
lấy nước để ngâm gạo. Sau khi ngâm gạo vào nước gửng vò kỹ thì đổ gạo ra rá cho khô, chờ
trộn với các màu khác để đồ xôi. Màu trắng: Đây là loại rất đơn giản, không dùng màu chỉ cần
chọn gạo đều hạt như các loại gạo ngâm màu. Sau thời gian ngâm gạo được đãi sạch sẽ trộn
đếu các loại màu rồi tiến hành đồ. Sau khi ngâm gạo đủ thời gian, tất cả được đổ ra rổ để kiểm
tra rồi đổ vào chậu to trộn đều các màu gạo với nhau, sau đó tiến hành cho gạo vào chõ gỗ.
Đáy chõ đồ xôi được đan bằng nan tre vót nhỏ. Lúc này gạo được đổ đều trong chõ và san mặt
trên phẳng và chuẩn bị cho nên chảo nước để đồ. Trên chõ được đậy kín bằng nắp gỗ. Một chõ
xôi từ 5 – 7 kg thường đồ khoảng một giờ, lượng nước để đổ vừa phải không để nước trào lên

23
xôi. Đồng thời đun lửa vừa phải, sau khoảng 1h thì mở ra dùng đũa dài bới kiểm tra phía đáy
chõ. Sau khi xôi chín, chõ xôi được nhấc hẳn ra và phải chuẩn bị sẵn một chiếc mẹt to để đổ
toàn bộ xôi rồi mới đơm ra bát và xôi được đắp đầy hình tựa như trái núi. Xôi ngũ sắc được
nhuộm bằng các loại cây thực vật nên không ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Ngược lại còn
có tác dụng chữa bệnh của lá gừng của nghệ tươi. Hơn nữa nhuộm bằng các nguyên liệu tự
nhiên nên màu sắc không bị phai lẫn vào nhau, các hạt gạo màu được giữ nguyên vẹn rất hấp
dẫn. Xôi ngũ sắc là một trong những sản phẩm ẩm thực độc đáo, được truyền từ đời này qua
đời khác, không những thế xôi ngũ sắc còn thể hiện yếu tố văn hóa, trong đó nổi bật yếu tố tâm
linh trong các nghi lễ của gia đình và cộng đồng.

- Rượu ngô:

Để có được bát rượu thơm thảo, ngọt nồng cất từ hạt ngô nương với lá men rừng, người
Mông đã có cả một bí quyết. Đầu tiên, ngô được bung trên bếp lửa rồi trộn với một lượng men
nhất định. Ba ngày sau, ngô đã ngấm men thì cho vào chum, vò, ủ kỹ, kín khoảng 9, 10 ngày.
Cuối cùng mới chưng cất. Thường cứ ba ngô thì được một rượu tinh khiết. Men ủ ngô phải là
chế từ lá và rễ cây rừng nên vừa thơm vừa ngọt. Chỉ một lần uống là mãi mãi không quên.

(Ảnh minh họa)

Rượu ngô thực sự là thành quả lao động của người vùng cao. Phong tục tiếp rượu của bà
con thường là, gia chủ cầm bát rượu tràn đầy, sóng sánh, thơm lừng trên tay, khẽ khàng uống
trước một ngụm rồi chuyền bát mời khách uống theo. Nếu nhiều khách thì lần lượt chuyển cho
nhau, mỗi người uống một ngụm. Cứ thế đến khi cạn, rượu lại được đổ vào, lại tràn đầy, sóng

24
sánh, ngọt lịm cùng những lời chào mời, chúc phúc. Người Mông cho rằng, đã là khách quí,
đã là bạn thân thì tình cảm phải thật lòng, dạt dào, đầy tràn như bát rượu. Đã uống thì phải say.
Say tình. Vậy mới thỏa cái bụng, cái dạ.

4. Các phương tiện vận chuyển, đi lại


Là cư dân sống trên vùng cao, địa hình hiểm trở, chia cắt mạnh, có sự đan xen giữa núi đất
và núi đá nên giao thông gặp rất nhiều khó khăn. Người H’mông sử dụng sức người là chính
trong giao thông vận chuyển. Khi lao động sản xuất, vận chuyển lương thực, hàng hóa thiết
yếu phục vụ cuộc sống, đồng bào thường dùng cái gùi, cái địu hay mang vác trên vai Lù cở là
phương tiện vận chuyển phổ biến, thích hợp với đường mòn, đường rừng, trèo lên sườn núi,
vách đá.. Nhà có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu lù cở. Người lớn dùng chiếc lớn, trẻ em
dùng chiếc nhỏ. Dây đeo được làm bằng da trâu, da bò hoặc sợi móc. Lù cờ cao khoảng 60cm,
có đáy hình chữ nhật, càng lên cao thì càng loe to ra, miệng hình bầu dục, không có nắp đậy.
Do vây không chỉ chứa được rau củ, quả mà còn chất được các dụng cu lao động như cuốc
xẻng…

(Ảnh minh họa)

Trong thói quen thường nhật của người phụ nữ Mông, chiếc gùi còn được coi như 1 đồ
trang sức khi xuống chợ hay cả khi đi chơi xuân. Bởi nếu là phụ nữ đã có chồng thì chiếc gùi
chứng minh cho sự đảm đang, khéo léo. Nếu là phụ nữ chưa chồng, chiếc giu ngầm ý cho họ
là người đảm đang, chung thủy. Trước khi về nhà chồng thì phụ nữ người mông dày cồn đan
cho mình 1 chiếc gùi thật to và đẹp, đó coi như là 1 tài sản quan trọng để đựng quần áo thổ
cẩm, trang sức, các vật dụng đem về nhà chồng

25
Ngày nay, cuộc sống nhiều thay đổi, cuộc sống của các đồng bào người Mông được nâng
lên những chiếc lù cở vẫn còn là dụng cụ lao động không thể thiếu của đồng bào Mông. Lù cở
vừa phù hợp với điều kiện tự nhiên rừng rú, vừa là sản phẩm văn hóa đặc trưng của dân tộc
Mông, cho thấy đã bàn tay khéo léo , sáng tạo của đồng bào người mông

Bên cạnh đó họ còn sử dụng một phương tiện khá phổ biến nữa là con ngựa khi cần chuyên
chở, những hàng hóa nặng, cồng kềnh, đi xa trên các địa hình phức tạp. Ngựa là con vật gần
gũi và thân thiết với người H’mông hơn bất cứ con vật nào khác. Nó còn biểu hiện khả năng
kinh tế của cá nhân hay gia đình. Ngày nay do sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung và
sự biến đổi trong đời sống ở vùng cao nói riêng mà đồng bào H’mông đã và đang sử dụng
nhiều phương tiện cơ giới trong sinh hoạt. Tuy vậy sức người, sức ngựa vẫn là phương tiện
vận chuyển chính của đồng bào H’mông.-

5. Các loại hình nhạc cụ


Nhạc cụ của người H’mông khá độc đáo, có khèn, sáo và những nhạc cụ như kèn lá, đàn
môi tuy giản dị nhưng lại phát ra những âm thanh kì bí, hấp dẫn. Khèn được sử dụng trong
đám tang và một số nghi lễ trong gia đình. Những lúc đi đường hay thời khắc nghỉ ngơi trong
đêm, dưới ánh trăng sau một ngày làm lụng mệt nhọc, các chàng trai cũng hay cất lên những
điệu khèn da diết. Trong đời sống của đồng bào người Mông, mỗi loại nhạc cụ truyền thống
đều ẩn chứa ý nghĩa thiêng liêng. Chiếc kèn lá cũng như những nhạc cụ khác là người bạn thân
thiết để bày tỏ những cảm xúc yêu thương, những mong ước, khát vọng của các chàng trai cô
gái:

“Ở trên cành là lá, đặt lên môi em thành lời

Lời tâm tình dịu êm, từ trong con tim em vấn vương

Gọi mùa xuân sang từ lung linh hương sắc

Gọi tình yêu về từ lòng em... say mê”...

Kèn lá là loại nhạc cụ đơn giản nhất, dễ tìm nhất, không mất thời gian chế tác. Tuy nhiên để
thổi hay, trọn vẹn một điệu nhạc lại không đơn giản bởi còn tùy thuộc vào sự khéo léo khi chọn
lá và cách thổi lá. Lá được người thổi chọn phải là loại lá hơi mềm, tương đối dai, mép lá trơn.

26
(Ảnh minh họa)

Có nhiều cách thổi kèn lá nhưng thường sử dụng theo hai cách. Một là ngậm ngang chiếc lá
ở giữa hai môi, dùng môi để giữ và kết hợp giữa việc sử dụng lưỡi và hơi đẩy ra qua kẽ hở của
môi. Hai là dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái ở hai bàn tay để giữ hai đầu của lá sau khi đã
ngậm ở môi, dùng lưỡi kết hợp với môi đẩy hơi tạo ra âm thanh. Khi thổi, lá dùng làm kèn
được gập đôi lại ở phần mép lá mỏng hơn và ngậm vào môi, dùng hơi điều chỉnh âm thanh cao
thấp, trầm bổng theo âm điệu bài hát. Tại các bản làng người Mông ở Cao Bằng , hiện những
người già vẫn kể với con cháu của mình câu chuyện nhuốm màu huyền tích về kèn lá. Tích
xưa kể rằng: Chiếc kèn lá là hiện vật mà tiên ông ban tặng cho chàng trai vốn là con trai của
vua thủy tề và công chúa (con gái của vua Mèo) để đôi trai gái bày tỏ tâm tình với nhau khi
công chúa đang bị giam giữ bởi sợi dây thần của quỷ.

Khi tiên ông biến mất, công chúa đặt chiếc lá lên môi và thì thầm vào đó những lời yêu
thương thắm thiết, nỗi khổ đau và mong chàng trở lại cứu nàng. Nhờ âm thanh chiếc kèn lá,
chàng trai đến cứu được người mình yêu khỏi nanh vuốt của quỷ thần và cùng nhau sống cuộc
đời hạnh phúc.

Nghệ nhân Dương Thị Du, dân tộc Mông, thị trấn Pác Mjầu (Bảo Lâm, Cao Bằng) rất am
hiểu và thổi được nhiều làn điệu dân ca bằng kèn lá, cho biết: Theo quan niệm của người Mông,
kèn lá có thể thay cho lời gọi nhau mà không cần dùng đến tiếng nói. Người thổi kèn lá ngầm
hỏi xem có ai ở bên đồi gần đó không, nếu có thì người ở bên quả đồi gần đó cũng sẽ tìm một
chiếc lá thổi trả lời.

27
Những chàng trai, cô gái người Mông thường dùng âm thanh kèn lá thay cho lời tâm tình,
trò chuyện trong những đêm hẹn hò. Cứ thế họ nhắn nhủ tâm tư, tình cảm cho người mình yêu
mến thông qua tiếng kèn lá và đáp lại tiếng kèn ân tình đó từ đối phương.

Chỉ với một chiếc lá nhưng bằng sự khéo léo của người thổi, tiếng kèn thể hiện tài năng của
người thổi kèn. Người Mông thổi kèn lá bất kỳ nơi đâu và bất kỳ thời điểm nào, trong lúc đợi
nhau xuống chợ, trong các buổi giao lưu, gặp gỡ hoặc đơn giản là khi họ hứng thú. Trải qua
thời gian, thay đổi của cuộc sống nhưng tình yêu và sự gắn bó của người Mông với cây kèn lá
vẫn vậy. Tiếng kèn lá tìm bạn của các chàng trai không chỉ khiến các cô gái nghe thấy phải đỏ
mặt làm duyên mà còn say đắm để rồi không thể kìm lòng mà cất lên những tiếng kèn lá không
kém phần duyên dáng, tình tứ đáp lại. Những giai điệu ấy còn đánh thức tiếng lòng của bất kỳ
ai đã một lần được nghe.

Tiếng kèn lá còn là nét văn hóa trữ tình độc đáo trên những vùng đất rẻo cao với giờ giải
lao khi người Mông lên nương lao động sản xuất hay những đêm huyền diệu dưới ánh trăng.
Đặc biệt, trong những ngày Tết, tiếng kèn lá lảnh lót vút lên khi là điệu nhạc, khi lại giống
tiếng chim hót khiến cho không gian như tràn ngập vui tươi, phóng khoáng.

Ngày nay, đồng bào dân tộc Mông ở Cao Bằng vẫn luôn gìn giữ, bảo tồn và phát huy nhạc
cụ kèn lá như nét văn hóa đặc sắc của dân tộc mình. Họ luôn tự hào giới thiệu tới bạn bè gần
xa về nghệ thuật thổi kèn lá tại các hội xuân, chương trình giao lưu văn nghệ… Tiếng kèn lá
chính là phương tiện để người Mông bày tỏ nỗi lòng trước thiên nhiên, con người, cuộc sống
và từ lâu trở thành nét đẹp trong văn hóa của cộng đồng dân tộc Mông miền non nước Cao
Bằng

IV. Văn hóa phi vật thể


1. Ngôn ngữ
Người Mông sử dụng ngôn ngữ hệ Mông Dao. Cho đến nay chúng ta đều biết đến tiếng
H’mông là một ngôn ngữ nằm trong hệ ngôn ngữ H’mông-Miền (hay Miêu-Dao). Nhưng trên
thực tế vấn đề phân loại theo quan hệ họ hàng của ngôn ngữ này đã từng có nhiều ý kiến khá
khác nhau. Một số nhà ngôn ngữ học xếp tiếng H’mông thuộc nhánh Miêu-Dao trong ngữ hệ
Hán-Tạng. Trong những ý kiến đáng chú ý ta còn phải kể đến Paul K. Benedict với quan điểm

28
quy các ngôn ngữ trong khu vực thành 2 hệ cơ bản: Hán-Tạng và Nam Thái. Trong đó vị trí
các ngôn ngữ H'Mông-Miền được định vị trong hệ Nam Thái.

2. Tôn giáo
Từ những năm đầu thế kỉ XX các giáo sĩ đạo Thiên chúa đã truyền đạo ở nhiều vùng
H’Mông.

Năm 1905, nhà thờ Thiên chúa giáo bằng gỗ đã được dựng ở SaPa, sau đó là Nghĩa Lộ.
Nhiều kinh thánh được dịch ra tiếng H’Mông. Các giáo sĩ thường tuyên truyền rằng, người
Pháp và người H’Mông được sinh ra cùng một ông tổ, chúa là con ma to nhất, cai quản mọi
ma, đi theo chúa sẽ không còn con ma nào quấy. Thế nhưng chỉ có số ít người theo đạo Thiên
chúa khoảng 30 hộ dân ở SaPa. Sau năm 1945 nhiều người bỏ đạo Thiên chúa.

Từ năm 1987 đã có một số bộ phận người H’Mông chuyển theo đạo Tin lành và hiện nay
có khoảng trên 100 nghìn tín đồ.

(Ảnh minh họa)

• Tác động:

Tích cực: Khi theo đạo này, giúp người H’Mông có lối sống tích cực hơn, bỏ bớt được một
số thủ tục trong tổ chức đám cưới, đám ma, chữa bệnh. Chẳng hạn có người chết, họ tổ chức
mai táng trong vòng 24h, đám cưới cũng gọn lẹ hơn, thuận tiện trong cuộc sống của tín đồ.
Tôn giáo này khuyến khích người H’Mông trong làm ăn kinh tế. Môi trường sống thôn bản
cũng sạch sẽ, gọn gàng hơn.

29
Tiêu cực: Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, đạo Tin lành cũng có những tác động tiêu
cực đến đời sống văn hoá của đồng bào H’Mông ở Tây Bắc. Đạo Tin lành là một tôn giáo độc
thần, coi Chúa trời là duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới. Đạo Tin
lành phát triển vào cộng đồng người H’Mông đã làm cho văn hóa truyền thống có phần bị “tổn
hại”. Người H’Mông theo Tin lành đã từ bỏ hầu hết những sinh hoạt tôn giáo truyền thống, kể
cả việc thờ cúng ông bà, tổ tiên.

Mâu thuẫn giữa người H’Mông theo đạo và không theo đạo xảy ra ngay trong làng bản và
gia đình.

3. Tín ngưỡng
Quan niệm vạn vật hữu linh cũng phổ biến trong người H’mông, có nghĩa mỗi đồ vật đều
có thần. Họ sẽ dán giấy tượng trưng cho vàng mã để tạ ơn thần, và mỗi dịp cuối năm họ sẽ
thay giấy mới để báo cho thần là đã đến tết, thần có thể nghỉ ngơi.

➢ Người và con vật chết hồn biến thành ma (đã hay nềnh có nghĩa là ma lành hay ma ác)
➢ Con người có ba hồn ở đỉnh đầu và hai tay.
➢ Người ốm do hồn lìa khỏi xác nên rất kiêng xoa đầu trẻ em.
➢ Cũng có nơi quan niệm hồn trú ngự ở hai bàn tay nên trẻ em không nên vỗ tay và chơi
hoa.
➢ Do quan niệm người có hồn nên trẻ em sinh được 3 ngày , người ta đốt lửa để gọi hồn
trẻ
• Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

(Ảnh minh họa)

30
Trong thế giới tâm linh của người H’mông, thờ cúng tổ tiên có một ý nghĩa hết sức quan trọng.
Tín ngưỡng này có vai trò rất lớn để người H’mông nhớ đến cội nguồn và văn hoá dân tộc.
Người H’mông quan niệm rằng tổ tiên là những người đã chết trong ba đời trở lại ( cha, ông,
cụ). Trong lễ cúng năm mới, người H’mông bao giờ cũng phải làm ba chiếc bánh dày tượng
chưng cho ba người đã mất ( ông bà, bố mẹ, và những người bằng vai đã qua đời). Nếu không
có ba chiếc bánh dày đó, ông bà tổ tiên sẽ không về vui tết với con cháu.

• Tín ngưỡng thờ các loại ma

( Ảnh minh họa)

Người H’ mông quan niệm rằng tất cả mọi vật đề có linh hồn, mỗi một ngọn núi, cánh rừng,
gốc cây, hòn đá đều có ma cai quản. Ma thiện thì ít ma ác thì nhiều, chúng luôn rình rập để bắt
hồn người sống.

Trong cuộc sống hằng ngày gặp điều gì không may là người H’mông cho rằng đó là ma làm.
Do đó, trong gia đình người H’mông bên cạnh thờ cúng tổ tiên, còn tồn tại một hệ thống ma
nhà với những nghi thức cúng khác nhau.

▪ Ma ngũ hải là ma nguy hiểm nhất trong quan niệm của người H'mông; nó thường gây ra
những cái chết đột ngột, chẳng hạn như ngạt thở hoặc hộc máu mồm mà chết. Vì vậy sau
khi cúng, người ta cần đeo bùa, đồng thời hay (ma) “cẩm bang” khi gia đình có người
ốm, nấu rượu, lợn đẻ, …

31
▪ Ma theo sau được gọi là “đa khua đê”. Theo người Mông thì loại ma này chí trong nội
tộc; nó xuất hiện các cá nhân có mối hiềm khích, có thể khấn ma đi làm hại người khác
loại ma này thường gây ra những trận ốm đột ngột.
▪ Ma thi vi sú (thix vi suz, thiz vi sư) là loại ma mà người H'mông luôn đề phòng. Loại ma
này thường gây ra tai nạn, như cháy nhà, đá lăn, cây đổ vào người đi rừng, đi nương. Để
tẩy xui, người Mông thường hay mời thầy cúng về

Bên cạnh các loại ma ác chuyên làm hại người, còn có các loại ma thiện được người H’mông
thờ cúng, ma buồng là ma coi giữ hồn của cha mẹ, con cái. Ma bếp là ma coi giữ lương thực,
thực phẩm và sức khoẻ.

▪ Thờ ma nhà, hay còn gọi là xử cang: Đây là ma trông nom nhà cửa, bảo đảm sức khỏe
cho gia chủ và ia súc, gia cầm trong nhà. Họ thờ xử cang bằng một tấm giấy vàng mã
treo ở góc nhà. Mỗi năm họ sẽ làm lễ cúng để thay tấm giấy đó 1 lần. người mông cúng
xử cang bằng gà. Cúng 2 lần, 1 lần cúng sống, 1 lần cúng chín. Lần cúng sống, họ sẽ
con gà đến trước xử cang, cắt tiết, sau đó vặt vài sợi long cổ của chính con gà đó, nhúng
vào máu rồi dính lên tấm giấy thờ xử cang. Lần cúng chín sẽ mang con gà đó đi luộc
xong mang lên cúng.
• Tín ngưỡng thờ cúng dòng họ

Người H’Mông có một mối quan hệ dòng họ khá bền chặt thiêng liêng, nó là một trong
những yếu tố cốt lõi tạo nên xã hội truyền thống của họ. Người H’Mông gọi dòng họ là “ xênh
”. Đó là những người cùng gốc, cùng tổ, hay còn gọi là cúng ma. Điều đó có nghĩa là người
cùng họ không chỉ có cùng tên họ (Giàng, Vàng, Lý Thào..) mà phải còn có cùng cách cúng
ma tổ tiên. Người H’Mông cho rằng người có chung một tên họ như < Giàng, Vữ, Thào, Lầu,
Lý…> đều coi nhau như anh em dẫu không cùng một ông tổ.

• Tín ngưỡng liên quan đến chu kì đời người

Người H’Mông theo văn hoá truyền thống có quan niệm rằng, các gia đình có nhiều con
cái, đều do ông bà tổ tiên phù hộ ban cho. Họ rất tin tưởng vào hệ thống thần linh, đặc biệt vào
cá loại ma.Chẳng hạn như, trường hợp trong gia đình có phụ nữ mang thai, nếu bị ốm, thường
làm nghi thức cúng ma nhà. Người H’Mông quy định nơi đẻ của phụ nữ là bên cạnh bếp lửa

32
của gia đình, không được phép sinh con ở nơi khác, nếu như vậy thì ma nhà, ma buồng và tổ
tiên sẽ phật lòng không phù hộ cho thai nhi và đứa trẻ v.v.

• Tín ngưỡng thờ cúng nông nghiệp


❖ Lễ cơm mới (nào mó dầy tra) thường được tiến hành sau khi đã thu hoạch lúa, để tỏ
lòng biết ơn tổ tiên đã phù hộ có được một vụ mùa bội thu, và để mời tổ tiên thưởng
thức bát cơm mới, cầu mong tổ tiên phù hộ mùa màng năm sau được tươi tốt. Lễ cơm
mới được thực hiện trong phạm vi gia đình. Trong lễ cơm mới, các gia đình phải nấu
cơm bằng gạo mới và thịt gà. Ông chủ gia đình đặt đồ lễ lên bàn thờ tổ tiên, mời tổ tiên
và các loại ma nhà ăn trước. Sau đó, các thành viên trong gia đình mới được hưởng.
❖ Lễ ngô mới (ngó pak cù tra) được tổ chức đơn giản hơn lễ cơm mới, trước khi ăn đến
loạt ngô mới thu hoạch. Ở đó, người H'mông luộc ngô chín, đặt lên nơi thờ tổ tiên để
mời tổ tiên ăn trước. Đồng thời, đây cũng là hình thức tạ ơn tổ tiên đã phù trợ cho một
mùa màng bội thu và cầu khấn tổ tiên tiếp tục phù hộ cho mùa sau được nhiều và không
bị sâu bệnh phá hoại.
❖ Lễ cúng nương (pảu tê) (hay còn gọi là lễ cúng “trả nương”) là một hình thức cúng cho
thổ công, thổ địa, thần nương, thần rừng. Khi nương lúa, nương ngô hay những cây
trồng của gia đình có hiện tượng sâu bệnh, mọc không đều, hay trong một nương có cây
sống, cây chết, người H'mông thường thực hiện nghi lễ thương lượng với các vị thần ở
nương. Sau khi thu hoạch, gia đình đó chuẩn bị lễ vật đúng như đã hứa để trả công cho
thần nương.

4. Lễ hội
• Lễ Hội Gầu Tào

"Gầu Tào" là một lễ hội tiêu biểu nhất của người Mông với mục đích là cúng tạ trời đất,
thần linh phù hộ đã ban cho gia đình sự sức khỏe, thịnh vượng, cầu phúc, cầu lộc ban cho
những người dân trong bản Mông một năm mới mùa màng bội thu, gia súc, gia cầm đầy
chuồng. Vào dịp mở lễ hội Gầu Tào cũng là dịp để mỗi người con dân tộc Mông trong bản đi
làm ăn, đi công tác xa nay có dịp về hội tụ với gia đình, người dân và về với bản làng để tụ
họp, vui chơi chuẩn bị bước vào một năm mới, vào một mùa vụ canh tác, sản xuất chăn nuôi
mới.

33
Thời gian mở hội Gầu Tào thường trong khoảng từ ngày mồng 1 Tết đến ngày 15 tháng
giêng. Nếu hội tổ chức 3 năm liền thì mỗi năm tổ chức 3 ngày liền, hội làm gộp một năm sẽ tổ
chức vào 9 ngày. Lễ hội Gầu Tào gồm 2 phần lễ và phần hội. Hội thường được UBND các địa
phương tổ chức tại tất cả các làng, các huyện nơi có đông đồng bào dân tộc Mông sinh sống.
Khi tổ chức lễ hội Gầu Tào thường được tổ chức trên một khu đất đồi tương đối bằng phẳng
để thuận lợi cho việc đi lại, vui chơi. Lễ hội Gầu Tào có thể do một gia đình, một dòng họ hay
một làng bản đứng ra tổ chức.

(Ảnh minh hoa)

Ở phần lễ, trước đó gia chủ trồng một cây nêu (cây trúc hoặc cây mai), trên thân cây có dán
giấy đỏ hoặc vàng; cắt hình nhân treo lên ngọn cây nêu. Vào lễ, gia chủ chuẩn bị một mâm
cúng gồm 1 chiếc đầu lợn, 1 đôi gà trống mái tất cả đều được luộc chín; cùng với một bát cơm,
quả trứng, đĩa xôi, một bó lúa, một bó bắp ngô và chút hương, giấy bản... để tạ ơn trời đất, thần
linh đã cho gia đình, làng bản mạnh khỏe, hạnh phúc, mùa màng bội thu. Sau khi gia chủ hoặc
thầy mo, trưởng bản làm những thủ tục lễ bái, tất cả bà con trong bản đều đến tập trung đông
đủ. Sau khi làm lễ tạ ơn trời đất, thần linh xong, nhân dân trong bản mới tổ chức ăn uống chúc
tụng nhau.

Sau khi gia chủ làm xong các thủ tục quan trọng thì mới chuyển sang phần hội. Trong hội
Gầu Tào thì phần hội là vui nhất với rất nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn của dân tộc Mông,
tiêu biểu như: Đánh yến, đánh sảng, đánh cù, đấu võ, đua ngựa, bắn nỏ, múa khèn, thổi sáo,
chọi chim, chọi gà, thi hát đối giao duyên.... Hội thi hấp dẫn nhất và cũng là nơi để các chàng
trai Mông trổ tài múa khèn. Trong phần thi này, những người tham gia dự thi phải thực sự tài
năng, vì phải vừa thổi khèn, vừa làm các động tác như: Lộn, quay tròn, đá chân trồng chuối,

34
nhảy lên cọc và đặc biệt là động tác múa khèn chống đầu lên đòn gánh bắc ngang chảo thắng
cố đang sôi sùng sục.

Lôi cuốn nhất và cũng thu hút nhiều người tham gia nhất trong lễ hội Gầu Tào là thi hát
đáp, hát ống. Ở phần thi này chủ yếu là nam, nữ thanh niên người dân tộc Mông. Họ hát đối
đáp cho đến khi có một người thua mới thôi. Nếu người nào thua thì sẽ phải có quà cho người
thắng cuộc, quà thường là một cây sáo, hay cây khèn, một chiếc đàn môi hay cũng chỉ là một
chiếc khăn tay. Qua hội thi này, những chàng trai, cô gái thường sẽ nên duyên và tìm thấy hạnh
phúc trăm năm.

• Lễ hội Nào Sồng

(Ảnh minh họa)

Đây là một nghi lễ rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Mông. Lễ hội Nào
Sồng giống như một hội nghị của người Mông được tổ chức vào đầu năm nhằm đưa ra các quy
định, quy ước cho công việc của cả làng, cả bản trong suốt một năm.

Lễ hội được tổ chức trên một đỉnh núi cao, bầu người chủ hội (Lùng Thầu) để điều hành
công việc của năm mới. Người Mông thờ cúng là thần “Thu tỉ” (thổ địa) là vị thần bảo vệ an
toàn cho con người và gia súc, quản lý thú rừng không cho phá hoại mùa màng. Thần ngự tại
một gốc cây to trong rừng.

Hoạt động của lễ hội: Dân làng chuẩn bị một đôi gà trống mái, con lợn và rượu để làm lễ
cúng thần. Lùng Thầu thắp hương (gà, lợn còn sống) khấn cầu xin “Thu tỉ” bảo vệ con người
mạnh khỏe, gia súc sinh sôi, lúa ngô tươi tốt, nhà nhà no đủ. Khấn xong mới mổ gà, giết lợn,

35
lấy tiết gà, lợn bôi vào gốc cây hay tảng đá nơi thần ngự, rồi làm cỗ ăn uống vui vẻ. Trước khi
ăn uống, các chủ gia đình ngồi bàn công việc cụ thể liên quan đến sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ
mùa màng, không thả rông gia súc, không phá rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước, phòng
chống trộm cướp, giúp đỡ gia đình neo đơn khó khăn, đôn đốc con cháu học hành, không dính
vào tệ nạn xã hội, không tái trồng cây thuốc phiện, không nghe truyền đạo trái phép, ai ai cũng
phải coi trọng lệ làng phép nước.

Sau phần lễ là đến phần hội, mọi người hòa mình trong tiếng khèn, tiếng trống cùng những bài
hát, điệu khèn, các trò chơi dân tộc: ném Pa Pao, nhảy tha khênh, chơi tu lú, cướp trứng, bắn
nỏ, đua ngựa…

• Tết của người H’mông

Tết người H’mông diễn ra sớm hơn tết của người Việt, từ 30/11 đến giữa tháng chạp âm
lịch. Vào dịp Tết người Mông sẽ sắm sửa, may thêm những bộ quần áo mới để đón tết. Tết là
khoảng thời gian để người Mông ăn chơi, nghỉ ngơi sau 1 thời gian làm nương rấy vất vả. Đêm
30 tết, người mông sẽ giã bánh dày, mổ lợn, gà để ăn tết. hết mùng 4, mùng 5 thì sẽ trở lại với
công việc nương rẫy, bắt đầu một vụ mùa mới. Mùng 1, mùng 2, mùng 3 người Mông chỉ ở
nhà uống rượu chứ ko làm gì.

Những kiêng kị của người Mông trong ngày Tết:

- Ba ngày đầu năm không được quét nhà, vì như thế sẽ quét luôn cả tài lộc trong nhà đi
- Không được mang tiền đi đâu, cứ để trong nhà thôi, 3 ngày đầu năm không mua bán,
vay mượn tiền hay vật dụng gì của ai
- Không được ăn rau. Người mông quan niệm rằng mùa xuân là mùa của sự sinh sôi, nảy
nở, nếu ăn rau thì cỏ dại sẽ mọc đầy ruộng nương. Vì thế ngày Tết, nhất là 3 ngày đầu
năm họ chỉ ăn thịt, uống rượu.

Vào ngày lễ tết, họ hay đến các phiên chợ tình để trao đổi mua bán cũng như giao duyên.
Con gái người mông giỏi ném pao, con trai người Mông giỏi chơi cù, tulu.

Người mông có tục xem chân gà. Con gà sau khi cúng xong sẽ được mang lên để các cụ
già có kinh nghiệm soi. Nếu chân gà đẹp thì năm đó làm ăn phát đạt, lúa thóc đầy nhà, không

36
ốm đau, bệnh tật gì. Và ngược lại, nếu chân gà xấu, thì năm đó làm ăn không lên, vật nuôi ốm
yếu, gia chủ không khỏe…

Bánh giày là thứ không thể thiếu rong ngày tết của người Mông. Nó tượng trưng cho tình
yêu, sự son sắt, thủy chung, tượng trưng cho mặt trăng, mặt trời, là nguồn gốc sinh ra của con
người và muôn loài. Cảnh tượng đêm 30, những người đàn ông trong gia đình giã bánh, còn
các bà, các mẹ ngồi quay bên bếp lửa trông nồi bánh gợi cho ta ảm giác thật đầm ấm, yên vui.

5. Các loại hình văn nghệ dân gian, trò chơi dân gian
❖ Các loại hình văn nghệ dân gian

Văn học nghệ thuật dân gian của người H’mông bao gồm truyện cổ, dân ca, mưa rất phong
phú, phản ánh khả năng sang tạo của quần chúng và nhận thức của họ về tự nhiên, xã hội, con
người và văn hoá trong lịch sử dân tộc.

Trong điều kiện khách quan hạn chế cùng với những tri thức dân gian, văn học nghệ thuật
dân gian đóng vai trò quan trọng trong đời sống. Văn học dân gian đã để lại cho quần chúng
nhiều bài học sâu sắc, những tấm gương về ý chí, nghị lực cần có trong cuộc sống hiện tại, với
những hình tượng dễ thiếp thu và giữ lâu trong con người. Qua văn học dân gian, người ta có
thể hiểu được nhiều mặt khác nhau thuộc về ý thức hệ, lịch sự và sinh hoạt quần chúng.

Ví dụ: Tiêu biểu là chuyện “khuố kê” có thể hiểu được ít nhiều nhận thức về vũ trụ, thế
giới quan, nhân sinh quan, nguồn gốc tộc người H’Mông xưa.

Các truyện dân gian của người H’Mông thường đề cập đến những con người làm lụng
siêng năng, khoẻ mạnh, biết đoàn kết, khắc phục thiên tai, đem hạnh phúc cho con người.
Nhiều truyện dân gian cũng chỉ ra những kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi. Qua đó thấy rõ
người H’Mông đã biết làm nông từ rất lâu đời. Các truyện dân gian của người Mông phản ánh
không ít những mặt xấu của xã hội. Sự đau khổ của nhưng đứa trẻ mồ côi, những mù dì ghẻ
độc ác,… đồng thời đề cao những người thông minh, tài giỏi, xuất thân từ quần chúng, những
mối tình đẹp.

Dân ca chiếm vị trí đáng kể. Dân ca có nhiều loại: cúng ma, tình yêu, cưới xin, làm dâu
trong mỗi loại đó lại có những loại nhỏ. Nhiều bài dân ca có nội dung tư tưởng tốt, cách diễn
tả tế nhị, kín đáo, được lấy bằng những hình ảnh gần gũi với đời sống hằng ngày. Đặc biệt,
những bài dân ca không chỉ diễn tả bằng lời mà còn được thể hiện qua tiếng khèn , đàn môi,

37
kèn lá,…Trong dân ca của người Mông không chỉ có những bài hát ngắn như Tiếng hát ru con,
Bình minh trên núi, Ru con, … mà còn có dân ca tập dài tiêu biểu là: Tiếng hát làm dâu…
được mọi người biết đến.

Múa khèn của đồng bào người mông đã có từ lâu đời và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Khèn
được người Mông chế tạo ra, phù hợp với dáng khum người và các thể quay, nhảy. Nghệ nhân
múa khèn với những bước nhún, bước đảo, bước quay vừa ôm vừa thổi khèn, vừa lăn mình
trên đất tạo lên những điệu nhảy rất đẹp và mang đậm nét văn hoá của người Mông. Đối với
đồng bào dân tộc Mông, trong những dịp lễ hội, Tết đến xuân về không thể thiếu tiếng khèn,
cùng với những trò chơi dân gian. Đây được coi như là linh hồn của người Mông gửi gắm và
thể hiện tiếng lòng của mình với bạn bè, với cộng đồng, với thiên nhiên, núi rừng và thể hiện
giá trị văn hóa, làm nên bản sắc độc đáo riêng của người Mông. Các bài biểu diễn múa khèn
bao giờ cũng có nội dung vui nhộn, mang ý nghĩa chúc tụng và mời bạn bè cùng tụ họp, vui
chơi. Tiếng khèn làm quên đi những khó khăn, vất vả sau một năm chăm chỉ lao động mệt
nhọc, góp phần gắn kết tình bạn, tình yêu, tình làng xóm với nhau. Dường như để chống chọi,
thích nghi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, tiếng khèn của người Mông cũng mạnh mẽ, kiên
cường như cuộc sống của họ.

(Ảnh minh họa)

Tiếng khèn ngấm vào máu thịt, như là phần hồn của người Mông. Người thổi được khèn
và biết múa khèn thường đã trải qua một quá trình lao động nghệ thuật bền bỉ, công phu, kiên
trì. Bởi khi vừa thổi vừa múa đòi hỏi phải sử dụng nhiều động tác vô cùng nhuần nhuyễn. Động
tác múa khèn rất đa dạng, phong phú: múa nhảy đưa chân, quay đổi chỗ, quay tại chỗ, vờn

38
khèn, lăn nghiêng, lăn ngửa, múa ngồi xổm, đi tiến, đi lùi theo bốn hướng, mỗi bước tiến, bước
lùi làm sao chỉ để chân này chạm gót chân kia. Động tác cơ bản là khom lưng, quay hất gót tại
chỗ và quay hất gót di động trên vòng quay lớn rồi thu hẹp dần theo hình xoắn ốc…, với tốc
độ càng nhanh càng điêu luyện. Đối với các bài khèn vui chơi thì động tác nhảy, múa mãnh
liệt, phóng khoáng và khó hơn, như lăn nghiêng, lăn ngửa, đá gà, đá ngựa, nhảy ngồi xổm, tay
nọ vỗ vào chân kia, tay kia vỗ vào chân nọ, tiếng vỗ phải kêu, mà tiếng khèn vẫn không dứt.
Học thổi khèn Mông rất khó, dù học nhiều cũng khó có thể am hiểu hết được những giai điệu
của khèn. Để trở thành một người thổi khèn giỏi, người con trai Mông phải tập khèn từ 12 - 13
tuổi, có thân hình khỏe, mềm dẻo, nhịp nhàng, nhưng quan trọng hơn cả là cách lấy hơi, rèn
khí để hơi được sâu, được dài. Nghệ thuật Múa khèn của người Mông còn thể hiện tính cố kết
cộng đồng, tinh thần đoàn kết trong đời sống cộng đồng.

Múa ô: Múa ô cũng là một nét văn hóa cộng đông đặc sắc của người Mông. Những điệu
múa uyển chuyển kết hợp với chiếc ô tạo nên một điệu múa truyền thống vô cùng đẹp mắt.

❖ Trò chơi dân gian


• Đẩy gậy

(Ảnh minh họa)

Đẩy gậy là trò chơi lâu đời của người H’Mông, có thể lệ đơn giản nhưng cần người chơi
phải bền bỉ và biết chớp thời cơ thật nhanh.

Trò chơi cần hai người, mỗi người giữ một đầu gậy, tỳ tay thật vững vào đùi hoặc bụng,
đồng thời hai chân nhích dần lên để dồn ép đối thủ ra khỏi sân. Đáng chú ý, người chơi không
nhất thiết phải là nam-nam hay nữ-nữ, mà một nam một nữ cũng có thể tham gia tranh tài.

39
• Đánh cầu lông gà

(Ảnh minh họa)

Trò chơi đánh cầu lông gà thì có nhiều nét tương đồng với bộ môn thể thao cầu lông, có
thể đánh đơn hoặc đánh theo đôi nam nữ. Khi chơi, các đội tự giao ước với nhau về số lần đánh
trúng, bên nào thua phải hát, múa hoặc thực hiện một điều gì đó mà đội thắng yêu cầu. Các trò
chơi được trao truyền nhiều đời và đến nay cũng có đôi chút thay đổi, song cơ bản đều thể hiện
được tính cộng đồng, tinh thần vui chơi lành mạnh sau một năm lao động vất vả.

• Tu lu (đánh sảng/ con quay)

(Ảnh minh họa)

Con tu lu gắn liền với tuổi thơ mỗi người dân tộc Mông khi từ bé đã được ông bà, bố mẹ
làm cho tu lu để chơi với bạn bè. Trò chơi tu lu đòi hỏi người chơi không chỉ có thể lực tốt mà
cần phải có sự khéo léo và phản đoán chính xác.

40
Do khi chơi tu lu thường va đập mạnh nên người chơi thường chọn những loại gỗ dẻo như:
nghiền, đinh, sến.. để làm tu lu <nguyên liệu>. Tu lu trung bình nặng từ 300g-500g. Dây quay
tu lu trong tiếng Mông gọi là lua, được sẻ bằng sợi lanh, dài hơn 1 mét nổi với 1 đoạn gậy <pa>
làm bằng cành cây cứng, hay cành trúc thẳng nhỏ như ngón tay dài 40cm đến 60cm. Để có lực
quay tốt nhất, dây quay phải đảm bảo tốc độ, dài, chắc và mềm đầu dây cuốn vào con tu lu
được buộc vào một chiếc long gà trống dài khoảng 10cm-15cm, khi cuốn vào quay, lông gà
thấm nước tang độ dính bám vào tu lu, không trơn trượt khi cầm trên tay. Sân chơi tu lu thường
là một bãi đất trống bằng phẳng, xung quanh rộng rãi, đảm bảo an toàn cho cuộc chơi và đủ
rộng cho người xem đổ cổ vũ.

Phần thi biểu diễn tu lu thường chọn ra hai đội, mỗi đội ba đến năm người, lần lượt tu lu
được quay xuống đất, đội nào tu lu quay lâu nhất thì sẽ thắng. Còn thể hiện tài năng, thể lực
của người chơi sẽ là thi chọi tu lu.

Ngày nay, trò chơi tu lu của đồng bào dân tộc Mông được rất nhiều người biết đến và yêu
thích. Đây không chỉ đơn giản là một trò chơi dân gian mà còn là trò chơi mang đậm những
giá trị, bản sắc dân tộc của dân tộc Mông. Thường được chơi vào các ngày lễ tết, các lễ hội
truyền thống như lễ hội Gầu tào, lễ hội Nào sồng…

• Ném pao

(Ảnh minh họa)

Ném pao được xem là trò chơi dân gian truyền thống, đặc sắc của dân tộc Mông. Trò chơi
ném pao thường diễn ra ở những khu đất rộng tương đối bằng phẳng, người chơi được chia

41
làm hai bên (nam - nữ). Khoảng cách hai đội cách nhau khoảng 5 - 7 m và ném quả pao qua
lại cho người mà mình thấy thích. Quả pao do các cô gái Mông tự tay khâu rất cẩn thận và tỉ
mỉ từ các mảnh vải lanh thành trái tròn to bằng quả cam. Bên trong quả pao được nhồi hạt lanh
hoặc hạt ngô tượng trưng cho sự sinh sôi và phát triển, bên ngoài một lớp vải được trang trí
hoa văn theo sở thích của người làm. Để làm 1 quả pao thường mất từ 1 - 2 ngày. Một quả pao
đẹp khi đường kính khoảng 10 cm, có hoa văn, màu sắc rực rỡ. Ném pao ngoài hình thức một
trò chơi nó còn là nơi thể hiện tình cảm và tình yêu đôi lứa của các chàng trai cô gái người
Mông. Trò chơi này tuy đơn giản nhưng nhờ có quả pao nhiều cặp đôi chàng trai cô gái đã đến
được với nhau nên duyên vợ chồn

V. Văn hóa xã hội


1. Thiết chế làng bản
Thiết chế làng/bản của người Mông có thể coi là điển hình cho cấu trúc cư trú của các tộc
người vùng núi cao phía Bắc. Đặc điểm nổi bật là bản của người Mông thường độc lập, ít xen
kẽ với các tộc người khác. Các ngôi nhà tập trung chủ yếu trên những vùng núi cao với những
sườn dốc lớn. Bản (tiếng Mông: giào, dò) là không gian sinh tồn của một cộng đồng người mà
ranh giới của nó đã được vạch định và được cộng đồng các làng/bản khác thừa nhận. Trong
không gian sinh tồn đó, những ngôi nhà được xây dựng theo quy cách riêng. Bản có đất đai
canh tác, gồm ruộng, rẫy, những khoảng rừng dự phòng, rừng cấm, rừng đầu nguồn (nơi con
người có thể săn bắn, hái lượm, khai thác lâm thổ sản), có bãi tha ma, bãi chăn thả gia súc,
sông suối để đánh bắt cá… Tất cả những cái đó thuộc quyền sở hữu của toàn dân trong bản.

Số lượng cư dân trong mỗi bản của người Mông có thể lớn, nhỏ khác nhau, nhưng đều
thuộc về những gia đình có mối quan hệ huyết thống hay láng giềng. Thường trong mỗi bản
có từ 2 đến 3 họ; bản lớn có từ 6 đến 7 họ, trong đó đều có dòng họ lớn (họ gốc), người đứng
đầu dòng họ nhiều khi cũng là trưởng bản. Họ hợp thành một cộng đồng xã hội tự quản, vận
hành theo nguyên tắc luật tục/tập quán pháp, gọi là “kế Mông kế li” hay “cái lý của
ngườiMông”, trong đó tính cộng đồng là nguyên tắc ứng xử và quan hệ xã hội nền tảng. Tập
quán pháp này buộc mọi cư dân dù ở bất cứ bản nào hay dòng họ nào cũng phải tuân theo.Tập
quán pháp còn là cơ sở để các bản người Mông xây dựng quy ước nhằmgiải quyết các vấn đề
thiết yếu như: bảo vệ an ninh; trồng và bảo vệ rừng chung, rừng thiêng; nghĩa vụ giúp đỡ lẫn
nhau… Tập quán pháp là sợi dây vô hình nhưng bền chặt cố kết các thành viên trong bản.

42
Bản người Mông còn là một cộng đồng về văn hóa với những nghi lễ, tín ngưỡng và các
sinh hoạt văn hóa chung khác như hát giao duyên, lễ cưới, lễ tang, hội gầu tào, chợ phiên…

Là tổ chức xã hội tự quản, bản của người Mông có bộ máy điều hành do dân lựa chọn, đứng
đầu là trưởng bản (Mã phải, Seo phải), tham gia là một số già làng và chủ (đại diện) các gia
đình để giúp việc trong các lĩnh vực. Chức năng của tổ chức tự quản này là điều hành các quan
hệ xã hội, giữ gìn lễ nghi, phong tục và đại diện cộng đồng quan hệ với bên ngoài.

2. Tổ chức gia đình


Tổ chứ gia đình của người H’mông là gia đình nhỏ phụ hệ (gồm hai thế hệ bố mẹ và con
cái sống với nhau). Đứng đầu gia đình là người đàn ông, người đó có nghĩa vụ gánh vác công
việc gia đình: đi làm nương rẫy, khấn tổ tiên, đón thầy cúng, thay mặt gia đình tham gia công
việc được giao, mà bất cứ phụ nữ nào cũng không có quyền làm thay, làm hộ. Trong gia đình
người H’mông người ta quý trọng con trai hơn con gái, vì thế gia đình nào có nhiều con trai
là niềm kiêu hãnh trong thôn xóm, bản làng. Nếu trong gia đình có mối bất hòa giữa vợ và
chồng, thì con dâu chỉ được lánh nạn sang hàng xómn, không được phép trở về nhà bố mẹ
đẻ. Nếu con dâu muốn về thăm bố mẹ để phải xin phép nhà chồng và được chồng đưa về tận
nhà mới hợp lệ. Khi vợ chồng li dị, người đàn bà không được trở về sống với bố mẹ đẻ mà
đến ở nhờ nhà chức dịch cho tới khi tái giá. Người đàn bà góa không muốn lấy em chồng mà
lại lấy người khác thì toàn bộ tài sản phải để lại nhà chồng. Trong gia đình người con gái tự
cho mình là người khách, tự do đi lại và ăn uống không phải kiêng khem như con dâu trong
nhà. Phân chia tài sản, con trai được chia đều nhau, bố mẹ giữ một phần tài sản bằng các con
trai, con gái đi lấy chồng được bố mẹ chia cho của hồi môn. Nhìn chung, cuộc sống gia đình
người H’mông tương đối hòa thuận, vợ chồng gắn bó với nhau nhưu hình với bóng, khi đi
chợ cũng như đi làm nưỡng rẫy và thăm thân họ hàng bện nội, ngoại, chồng đi trước vợ đi
sau. Trong mối quan hệ gia đình, ông cậu và bà cô có vai trò vô cùng quan trọng.

Bản chất người H’mông ít nói, hiền lành, dễ thương, không cãi cọ, ẩu đả. Trong gia đình,
vợ chồng nhịn nhục chịu đựng nhau nên hiếm khi xảy ra bạo lực. Người chồng lãnh việc
nặng, nhà hết gạo ăn, người vợ chờ chồng về xay lúa. Vợ thường để chồng quyết định mọi
việc, chịu thương chịu khó và chịu đựng là nét nổi bật nơi phụ nữ H’mông.

43
3. Cơ cấu dòng họ
Người Mông gọi dòng họ là Xênh , đó là anh em cùng tổ tiên, cùng huyết thống (tính theo
họ cha ) và quan trọng hơn là phải cùng phong tục tập quán , đặc biệt có các nghi lễ thờ cúng
gia đình giống nhau . Theo thống kê, hiện người Mông có khoảng 18 họ . Mỗi họ có tên gọi
riêng , liên quan đến các con vật , đồ vật hay màu sắc.

Đặc trưng cơ bản của dòng họ người Mông là tập đoàn ngoại hôn . Người trong họ lấy nhau
bị coi là vi phạm phong tục/tập quán pháp. Trước đây mỗi dòng họ thường cư trú trong 1 phạm
vi đất đai nhất định di trưởng họ và chủ các gia đình trong họ khai phá, sau này có thêm nhiều
dòng họ cư trú nhưng mỗi họ vẫn ở thành cụm gần nhau .

Mỗi dòng họ của người Mông thường có người đứng đầu gọi là hố lẩu ( cái gốc ) hay chủ
súng ( chủ họ ) . Trưởng họ phải là người có đạo đức, am hiểu các tục lệ , các bày cúng của
dòng họ mình, rộng hơn là hiểu biết phong tục tập quán của tộc người Mông, có tài ứng xử, lý
lẽ giỏi và thuyết phục được người nghe .

Người mông cũng quan niệm rằng các dòng họ của mình đều sinh ra từ một ông tổ. Nhiều
tên họ, các dòng họ là tên vật, các hiện tượng tự nhiên, hoặc gắn với một quan niệm kiêng kị
nhất định

Quan hệ hôn nhân giữa những người cùng họ bị cấm triệt để. Họ cho rawgf phải có quan
hệ hôn nhân với người khác họ làm mói tốt. sự giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng họ
hàng bằng lao động và tiền của.

Mỗi họ sẽ có một trưởng họ đảm nhiệm các công việc chung. Trưởng họ thường là những
người có khả năng, không kể tuổi tác, ngôi thứ và được mị người tôn trọng, ủng hộ nghe lời.
họ là linh hồn của dòng họ.

4. Phong tục tập quán


• Đám Cưới
Xưa kia người con trai phải đến tận nhà gái nói rằng: “Mong gia đình để cô con gái đến giữ
nhà cho tôi”. Ba hôm sau gia đình nhà trai mổ gà “xem xương” rồi cho hai ông mối đi hỏi. Ông
mối thường mang theo ô đen có khăn buộc giữa, đến nhà gái treo ở cửa và hát bài mở cửa. Vào
đến nhà, hai ông mối treo ô ở vách bàn thở, lấy thuốc mời chủ nhà. Nếu gia đình đồng ý để
ghế đặt dọc nhà rót hai chén rượu mời ông mối, nếu không thì ghế đặt ngang nhà. Khi được

44
gia đình đồng ý, chủ nhà cho ông mối đem thịt rượu đến làm lễ hỏi chính thức, bàn việc cưới.
Trong lễ này, đại diện cho nhà trai và nhà gái bỏ tiền ra bàn rồi chia làm bốn phần cho 4 người
có mặt ở đó làm tin. Thường chủ nhà đưa ra 4 đồng thì ông mối đưa ra 8 đồng.

(Ảnh minh họa)

Người H’mông có tục làm lễ “buộc dâu” bằng một sợi dây chi vào cổ tay do nhà trai đem
đến một cách long trọng trước mặt nhiều người trước khi làm lễ cưới.

Đám cưới tổ chức long trọng vào ngày tốt. Nhà trai phải đem đến nhà gái đầy đủ tiền và đồ
thách cưới. Đoàn đón dâu thường 9,13, 15 người, trong đó có một đôi vợ chồng, hai ông mối,
những người khiêng đồ, một hay hai phù rể. Trước khi cô dâu về nhà chồng, những người đại
diện hai gia đình trao đổi ý kiến với nhau thêm về sự làm ăn của con em mình trong tương lai.
Ở một số nơi, trong đám cưới có sự chứng kiến và dặn dò của một chức dịch có chức vụ cao
nhất địa phương. Anh trai hay cậu dắt tay cô dâu ra cửa trao cho những người đón dâu. Vào
cửa nhà trai, bố chồng lấy gà làm lễ “nhập môn”, nếu trước đó chưa làm, có ông bà là hai vợ
chồng từ trong nhà ra cửa đón dâu. Cô dâu phải lướt qua ba cái ghế ở giữa nhà, đến chỗ nghỉ
của mình. Vợ chồng đi đón dâu phải trao lại cho nhà trai của hồi môn của cô dâu và nói lại
những ý kiến mà nhà gái dặn. Sau ba ngày, cô dâu làm lễ lại mặt cùng với chú rể, gặp người
nhà và anh em họ hàng gần, rồi về ở hẳn nhà chồng với một số của hồi môn

• Ma Chay

Khi có người chết, người ta mời người đến hát bài mở đường (khuố kế), mặc quần áo, rồi
đưa lên “cáng” treo trước bàn thờ hoặc để trên ghế dài đặt ngang cửa ra vào. Ở một số họ tuy
xác chết được để vào quan tài ngay nhưng có thể mở quan tài dễ dàng để xem mặt người chết.
Lúc hát mở đường, khi đọc đến sự tích gà dẫn đường người chết về với tổ tiển, người ta mang

45
một gà đã chết để nguyên lông moi lòng ra ngoài, hay đôi cánh gà hoặc con gà còn sống đặt
trong âu bột ngô đồ cùng với ô giấy và cùng để ở phía đầu người chết. Ở dưới “cáng” phía đầu
người chết còn để rượu, bột ngô đồ làm đồ cúng hàng ngày.

(Ảnh minh họa)

Trong đám ma người H’mông thường dùng khèn, trống, họ thổi các bài: ăn buổi chiều, lên
ngựa, ăn buổi sáng, ăn trưa, nhận gia súc,…bày tỏ nỗi luyến tiếc người sống đối với người
chết. Những lễ viếng có người thổi khèn riêng được coi là long trọng . Người đến viếng thường
mang đến giấy bản, ngô, rượu; người thân mang cả chăn lanh, lợn. Khi mổ súc vật bốn chân
người ta đem sợi lanh buộc từ con vật đến tay người chết. Trong đám ma người H’mông không
thiếu được lợn, trâu hay bò làm vật cúng.

Ở một số học có tục đưa xác ra ngoài trời để trên một sàn nhỏ có hoặc không có mái che
một thời gian. Tại đó, còn phải giết bò cúng và ăn uống xong mới chôn, cất. Trường hợp không
đưa xác vào quan tài ngay, người ta cho quan tài xuống huyệt trước rồi mới đưa xác xuống
sau. Trước khi đậy nắp quan tài, quần áo người chết được cắt nhiều chỗ và cạnh xác được đặt
những sợi lanh thái nhỏ trộn cơm, ở một vài nơi còn có con gà “đưa đường” để phía đầu quan
tài.

Xưa kia đám ma kéo dài 5,7 ngày; nay chỉ để 2,3 ngày. Chôn cất xong làng xóm thường
đến chơi gia chủ vài ba buổi tối và chủ nhà cắm cành ở đường, nếu người chết là nam: 9 cành,
nữ: 7 cành để hồn người chết không biết đường quay về làm hại gia đình. Sáng thứ ba người
ta mang cơm nước ra mả, lấy lá che mả, sau đó mang cơm nước ra tiếp hai bữa nữa. Hôm cuối
cùng người ta nhặt một hòn đá ở mả về để gần bếp coi như chỗ cơm người chết tại đó.

46
Đối với người quá cố ở người H’mông còn có một số lễ nghi sau:

Uô sú là lễ cúng sau khi mai táng 12 ngày. Đám này cúng trong một ngày nhưng cũng mổ
lợn, gà, thổi khèn và đánh trống. Những người đến dự chỉ là anh em gần, những người phục
vụ đám hôm trước.

Uô pli là lễ cúng đưa hồn người chết về với tổ tiên sau chôn cất một hay vài năm. Nếu trước
đây trong đám chôn cất đã mổ trâu hay bò thì đám này chỉ cần mổ lợn.

Nhìu đáng (ma trâu): Trong một đời người mỗi người đàn ông chỉ phải cúng báo hiếu bố
mẹ một lần. Người H’mông thường nói “bố mẹ lấy vợ cho tôi, tôi cho cha mẹ trâu bò”. Vì vậy,
người ta thường lo làm xong lễ này. Có trường hợp anh em có thể chung nhau làm một lễ,
nhưng nhiều khi mỗi người phải có lễ riêng. Vật cúng, họ có thể dùng thủ trâu, bò, nhưng nhiều
họ phải mổ trâu, bò. Riêng ở người H’mông Xanh, trâu bò dùng cho lễ cúng phải khỏe mạnh,
không đui què, lở loét,…So với đám chôn cất thì làm ma trâu có phức tạp hơn: tùy từng họ
cúng ở nhà hay ngoài trời, cúng theo số lượng bát và sự sắp xếp bát nhất định, người cúng phải
hiểu lai lịch dòng họ. Đám ma trâu làm trong một đêm hai ngày, và cũng khá tốn kém.

VI. Xu thế phát triển và biến đổi


Trong suốt quá trình phát triển, cho đến ngày nay ở đồng bào dân tộc H’mông đã có rất
nhiều những thay đổi trong nếp sống sinh hoạt và những phong tục tập quán của người dân nơi
đây:

Đầu tiên là về việc cầm theo sung khi ra khỏi nhà của con trai người Mông. Khi xưa, mỗi
khi rời nhà, người con trai sẽ phải cầm theo 1 khẩu sung. Tuy nhiên theo Bộ luật Việt nam về
việc tang trữ vũ khí, nhà nước đã tịch thu khá nhiều vũ khí của của gia đình người Mông, vì
thế việc cầm sung khi ra khỏi nhà cũng không còn quá phổ biến như trước nữa.

Xu thế biến đổi hiện nay của trang phục H’mông: Trước đây người mông thường trồng
lanh dệt vải. Lanh trở thành tín hiệu để nhận biết cội nguồn của cha ông. Tuy nhiên xã hội ngày
càng phát triền và hiện đại vải lanh giờ chỉ dùng để tiễn đưa người đã khuất. Ngày nay các loại
vải để may trang phục thường đến chợ để mua, kể cả chỉ thêu và các thụ kiện trang trí đi kèm.
Việc mặc trang phục truyền thống càng ít đi và thay vào đó là các trang phục phổ thông

Tục “kéo vợ” trước đây khá phổ biến, nhưng dần dần biến chất thành hủ tục “cướp vợ”:
Ngày trước, nếu có một đôi trai gái yêu nhau và muốn tiến đén hôn nhân, nhưng nhà gái lại

47
thách cưới quá cao, bên đàng trai không đáp ứng được, người con trai sẽ tổ chức “kéo” người
con gái về. Trước khi kéo nhà trai đã chuẩn bị mọi thứ sẵn cần thiết cho đám cưới. Nói là kéo
chứ thực ra là hai người đã lên kế hoạch ra điểm hẹn, người con trai ra kéo tay chỉ là diễn để
kéo cô gái đi. Cũng có khi do người yêu nhau mà không cưới được nhau thì họ cũng “kéo vợ”.
Sau hai hôm thì nhà trai sẽ cho người sang nhà gái báo và hỏi. Quan niệm của người Mông là
“kéo vợ” như vậy mới quý chứ không phải người con gái tự về nhà chồng. Nhưng ngày nay,
thanh niên tổ chức đón đường kéo người con gái về, dù người đó không bằng lòng. Sau khi
cướp được hai hôm nhà trai báo cho nhà gái biết và bàn việc cưới. Do đó nhiều người con gái
phải lấy những người không vừa ý vì người con gái đã quá là “nhập môn” thì người con gái
phải lấy người con trai cướp mình và bố mẹ sẽ không được cứu. Tục này đã gây ra nhiều tranh
cãi và phiền phức

Chợ tình SaPa thực chất ngày xưa chỉ là chợ phiên thôi chứ không có chợ nào là chợ tình
SaPa, chẳng qua sau này chúng ta gần với 1 chợ tình với mục đích du lịch chứ thật ra chợ tình
chỉ có chợ tình Khâu Vai mới đúng thực chất là chợ tình. Chúng ta quảng bá du lịch với tên
chợ tình SaPa chứ nó chỉ là chợ phiên bình thường dựng trên bãi đất trống. Ngày nay khách du
lịch đã phá vỡ nét đẹp truyền thống, trở thành nền dịch vụ. Quảng cáo du lịch là lên chợ tình
Sa Pa được xem trai gái người Mông biểu diễn chứ không phải chợ tình đúng nghĩa. Chúng ta
cũng dần không được cảm nhận đúng nghĩa không gian của chợ tình Khâu Vai nữa. Giờ họ chỉ
có bán – mua các sản phẩm. Họ không còn phong tục đẹp ngày xưa nữa. Ví dụ như bây giờ
với sự phát triển của du lịch các cô gái người Mông dần không còn thích lấy các chàng trai
người Mông nữa, họ thích lấy người Kinh hay người nước ngoài dể lấy vốn mua bán. họ đã và
đang dần làm mất đi bản sắc dân tộc vốn có của họ.

Trong hơn hai mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu nổi bật
khác, công tác giáo dục đã phát triển ngày càng mạnh mẽ ở vùng H’mông. Các trường phổ
thông cấp 1 ở xã cấp 2 ở huyện được xây dựng rộng khắp. Nhiều thanh thiếu niên H’mông
theo học các trường vùng cao. Một số thanh niên tốt nghiệp các trường đại học sau đó trở về
phục vụ ở địa phương. Các cán bộ chủ chốt ở huyện xã đều biết chữ phổ thông và chữ H’mông.
Nhờ trình độ học vấn cán bộ và nhân dân ngày càng được nâng cao, các công tác khác( xây
dựng hợp tác xã, áp dụng các biện pháp tiến bộ trong trồng trọt chăn nuôi, ăn ở hợp vệ sinh,…)
cũng được tiến hành thuận lợi hơn trước. Những nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội rõ ràng

48
hơn, và những kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại cũng ngày càng đi vào quần chúng như
những điều thiết yếu của cuộc sống.

Cuộc sống mới đang phát triển ở vùng cao H’mông trong đó nhiều truyền thống tốt đẹp dân
tộc được phát huy, đồng thời tiếp thu thêm nhiều yếu tố văn hóa tiến bộ. Các tổ chức đảng,
chính quyền địa phương đang ra sức phát huy những kết quả xây dựng xã hội mới đã có, dìu
dắt quần chúng vươn tới những thắng lợi, là nhân tố đưa người dân H’mông tiến lên chủ nghĩa
xã hội.

Qua thực tiễn, đồng bào H’mông cũng đã thấy rõ chỉ có chủ nghĩa xã hội mới mở ra cho
đồng bào cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, bình đẳng với các dân tộc anh em, chấm
dứt quá khứ đau khổ.

*****

49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Trần Bình, Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, NXB Lao Động, 2014.
2. Viện dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía bắc), NXB KHXH,
2014.
3. PGS. TS Nguyễn Thị Thanh Nga, Văn hóa truyền thống một số tộc người ở Hòa Bình,
NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2007.
4. Nguyễn Khắc Tụng, Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam
5. Ngô Đức Thịnh, Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, NXB Văn Hóa Dân Tộc,
2000.

50

You might also like