You are on page 1of 27

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT.............................................................................................4
1.1. Vài nét về Lịch sử tỉnh Tây Ninh......................................................................4
1.2. Sơ lược Lịch sử hình thành Đạo Cao Đài........................................................4
1.3. Quá trình xây dựng Toà thánh Cao Đài Tây Ninh.........................................7
1.4. Cơ sở hình thành sự hoà hợp văn hoá trong kiến trúc của Toà thánh Cao Đài
Tây Ninh........................................................................................................................ 8
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG..............................................................................................11
2.1. Kiến trúc bên ngoài.........................................................................................11
2.1.1. Tổng thể....................................................................................................11
2.1.2. Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài...................................................11
2.2. Kiến trúc bên trong.........................................................................................13
2.2.1. Hiệp Thiên đài..........................................................................................13
2.2.2. Cửu Trùng đài..........................................................................................14
2.2.3. Bát Quái đài..............................................................................................16
CHƯƠNG 3. NHẬN XÉT..............................................................................................19
Về mặt tâm linh, tín ngưỡng......................................................................................19
Về mặt văn hoá – lịch sử............................................................................................19
Về mặt kiến trúc.........................................................................................................20
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................24
PHỤ LỤC........................................................................................................................ 25

1
MỞ ĐẦU
Trong dòng chảy lịch sử, việc xuất hiện những điều kiện khách quan lẫn chủ quan,
dẫn đến sự giao thoa văn hoá giữa các nền văn hoá, các hệ tư tưởng của nhiều miền văn hoá
khác nhau đã trở thành tất yếu của lịch sử trong tiến trình phát triển của nó. Đứng trước tình
trạng đặc biệt ấy, nhiều tôn giáo, nhánh tôn giáo, các hệ tư tưởng, văn hoá đã ra đời, phản
ánh đậm đà nét đặc trưng quan trọng vừa của sự giao lưu văn hoá, vừa của cả đời sống, tính
cách, điều kiện tự nhiên và con người của dân tộc, vùng miền tương ứng. Đó chính là yếu
tố tạo nên sự độc đáo của con người, quốc gia trên bản đồ văn hoá thế giới.
Việt Nam hay cụ thể là vùng đất Nam bộ cũng không nằm ngoài những điều trên.
Trong quá trình khai hoang, lập ấp ở nơi đây kể từ thế kỉ XVI, người Việt đã mang theo
những nét văn hoá của tổ tiên ở miền Bắc, miền Trung đến vùng đất mới và rồi biến đổi
thích nghi với môi trường sống mới. Không chỉ có vậy, họ còn có điều kiện tiếp xúc với
văn hoá Trung Quốc, văn hoá phương Tây, v.v. từ đó tiếp biến, hình thành nên một vùng
văn hoá Nam bộ. Tuy vậy, trong quá trình biến đổi ấy, văn hoá Nam bộ mang đặc điểm tiếp
biến linh hoạt của văn hoá Việt Nam vẫn đậm đà bản sắc dân tộc, bản sắc vùng miền chứ
không hề bị Hán hoá, Ấn hoá, Âu hoá. Đạo Cao Đài, hay “Đại đạo Tam kì phổ độ” cùng
với những đặc điểm của nó là một trong những minh chứng sống động nhất cho lập luận
trên. Trong dòng chảy lịch sử của Đạo Cao Đài ấy, Toà thánh Cao Đài Tây Ninh cùng với
kiến trúc vĩ đại, to lớn đã hiện lên như một chứng nhân của lịch sử - văn hoá. Hiểu rõ được
những nét kiến trúc mà sự hoà hợp, hỗn dung giữa các nền văn hoá ngoại lai, bản địa ấy
cũng chính một phần công việc để hiểu được về tinh thần của Đạo kể từ khi khai đạo cho
đến nay.
Từ những lí do trên, người nghiên cứu chọn đề tài “Kiến trúc Tòa thánh Cao Đài
Tây Ninh: Đặc điểm và nghệ thuật ” làm báo cáo cho học phần THỰC TẬP CHUYÊN
NGÀNH 1. Trong phạm vi nội dung của bài báo cáo này, bằng sự quan sát thực tiễn thông
qua điền dã trực tiếp tại địa phương kết hợp với nghiên cứu các nguồn tài liệu khác, người
nghiên cứu sẽ làm rõ những đặc điểm liên quan đến lịch sử hình thành Đạo Cao Đài, nền
tảng hình thành sự hoà hợp văn hoá, cũng như là những đặc điểm nổi bật nhất về đa dạng
văn hoá trong kiến trúc của Toà thánh Tây Ninh . Do được triển khai theo cách tiếp cận của
khoa học lịch sử nên bài báo cáo sẽ sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: phương
pháp lịch sử (chỉ ra các diễn biến trong tiến trình lịch sử có liên quan hoặc chịu tác động
của quá trình truyền bá) phương pháp logic (chỉ ra những điểm mang tính quy luật trong

2
tiến trình trên), phương pháp nghiên cứu liên ngành (kết hợp với phương pháp tiếp cận của
Văn hoá học, cùng với Sử học để chỉ ra các đặc điểm nổi bật trong kiến trúc Toà thánh nói
riêng và tinh thần của Đạo nói chung, từ đó so sánh vào tiến trình lịch sử chung ).
Tòa Thánh Tây Ninh, còn được gọi là Đền Thánh, là Tổ Đình, là Tòa Thánh Trung
Ương của Đạo Cao Đài, hiện nay tọa lạc tại xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh
Tây Ninh, cách Thị Xã Tây Ninh khoảng 5 Km về hướng Đông Nam, thuộc Miền Nam
nước Việt Nam.
Đây là một ngôi Đền đồ sộ, nguy nga, đặc sắc, để thờ phượng Đấng Chí Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Đế, các vị Giáo chủ Tam Giáo và Ngũ Chi Đại Đạo, cùng các Đấng Thần,
Thánh, Tiên, Phật. Gọi Tòa Thánh Tây Ninh là Tổ Đình, vì đây là nơi phát xuất của Đạo
Cao Đài, là nơi đặt các cơ quan trung ương của Hội Thánh Cao Đài, tức Hội Thánh Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, để điều hành toàn bộ các hoạt động truyền giáo và cứu độ nhơn sanh.

3
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT
1.1. Vài nét về Lịch sử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh ngày xưa là vùng đất mà dân cư đa số là người Miên, nên có danh hiệu là
Romdum Ray (Chuồng Voi). Rừng rậm chiếm hầu hết đất đai ở đây, cuộc sống người dân
đầy rẫy những khó khăn gian khổ. Vào thế kỷ XVII, các tỉnh vùng Quảng Trị, Quảng Bình,
Bình Thuận bị mất mùa thất bát, đời sống nhân dân vất vả khó khăn, thiếu thốn. Họ bèn di
cư vào Nam, đến cửa Cần Giờ giao thương với dân Chân Lạp khai hoang thành Phiên Trấn
Dinh là tỉnh Gia Định. Từ Phiên Trấn Danh, người Việt càng ngày càng đông bèn lần lên
hướng Bắc khai thác đất đai từ Trảng Bàng lên Gò Dầu Hạ lên đến chân núi Bà Đen, lúc
đầu còn ở chung với người Miên, nhưng về sau người Miên thu hẹp hoặc rút lui đi nơi
khác. Tây Ninh là một phủ của tỉnh Gia Định, phía nam đặt dưới quyền cai trị của một tri
huyện trấn nhậm tại địa điểm làng Cẩm Giang và một tri huyện khác cai trị tại vùng tỉnh lỵ
Tây Ninh. Sau khi nhà Nguyễn thành lập, Cao Miên thần phục nước ta, hàng năm chịu sự
cống sứ lễ vật sang, thường sẽ di chuyển qua địa phận Tây Ninh rồi mới ra Huế. Đến thời
Thiệu Trị, Tự Đức người Miên nhiều lần tấn công Tây Ninh nhưng không chiếm được nơi
mà người Việt dày công khai phá.
Thời Pháp thuộc, các tỉnh nằm trong Gia Định bao gồm: Tân An, Chợ Lớn, Tây
Ninh, Gò Công và Tân Bình. Tây Ninh lúc bấy giờ sát nhập về Sài Gòn, hai đoàn quân sự
thành lập tại Tây Ninh và Trảng Bàng để thay thế hai tri huyện của Nam triều. Đến năm
1868, hai đoàn quân sự nói trên bị bãi ỏ, thay thế bằng 2 ty hành chính đặt tại Tây Ninh và
tại Trảng Bàng, Năm 1890, một phần đất quan trọng bị cắt nhượng cho Cao Miên. Thời đó
Tây Ninh có các thị trấn, quận sau đây: Tây Ninh, Gò Dầu Hạ (thị trấn); Thái Bình, Trảng
Bàng (quận). Đến năm 1942, quận Thái Bình đổi tên là quận Châu Thành. Tây Ninh từ sau
1945 có một số thay đổi về hành chính cơ bản: năm 1948 có thêm quận Gò Dầu, sau năm
1963 Tây Ninh gồm có 4 quận gồm Phú Khương, Phước Ninh, Hiếu Thiện, Khiêm Hanh.
Trải qua hai cuộc kháng chiến cùng nhiều dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước, hiện
tại, Tây Ninh đã khẳng định được vị thế của tỉnh biên giới trọng yếu trong vùng kinh tế
trọng điểm Đông Nam Bộ, với một thành phố, hai thị xã, sáu huyện: Tây Ninh (thành phố);
Hoà Thành, Trảng Bàng (thị xã); Bến Cầu, Châu Thành, Dương Minh Châu, Gò Dầu, Tân
Biên, Tân Châu (huyện).
1.2. Sơ lược Lịch sử hình thành Đạo Cao Đài

4
Từ khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ngày càng
nhiều như “nấm mọc sau mưa” ở Việt Nam đặc biệt tại Nam Bộ. Trong thời kỳ Pháp thuộc
về sau nhiều hiện tượng tôn giáo mới ra đời từ các cuộc đấu tranh của đại bộ phận nông
dân đã phát triển thành những tôn giáo nội sinh mà đạo Cao Đài là một trong những tôn
giáo được hình thành và phát triển trong bối cảnh lịch sử ấy. Khi nghiên cứu về tôn giáo
này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Đạo Cao Đài là một cuộc vận động xã hội, với những
hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, hành chính1 hoặc có thêm nhận định Đạo Cao Đài là sự
hội tụ của rất nhiều yếu tố địa lý, thiên nhiên, văn hóa – xã hội của vùng đất Nam Kỳ 2.
Đúng như nhận định đó thì tôn giáo này cũng ít nhiều có tính phản kháng xã hội đương
thời. Ở mặt văn hóa – xã hội, do tính mở và động không chịu ràng buộc bởi hương ước hay
luật lệ làng xã, sãn sàng tiếp thu cái mới như tính cách của người Nam Bộ khiến cho tôn
giáo dễ dàng hòa nhập và phát triển. Ở mặt tư tưởng, hòa chung với tâm lý xã hội Nam Bộ,
đạo Cao Đài như một phong trào cứ thế mang đậm màu sắc yêu nước.
Như thế, ngay từ buổi đầu sáng lập đạo Cao Đài đã nhanh chóng thu hút đông đảo
người dân Nam Bộ tham gia. Tính đến năm 1975, chưa đầy nửa thế kỷ xuất hiện ở Nam Bộ,
tôn giáo này đã thu hút gần 3 triệu tín đồ theo Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam thống kê
2010 thì đạo Cao Đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc, khoảng 2,4 triệu tín đồ,
khoảng 1.290 cơ sở thờ tự, ngoài ra còn có các tín đồ sống ở nước ngoài. Số liệu thống kê
số lượng tín đồ đạo Cao Đài hiện nay có sự chênh lệch giữa chính quyền nhà nước và tổ
chức tôn giáo. Theo báo cáo của các Hội thánh Cao Đài năm 2020, tín đồ đạo Cao Đài có
hơn 2,6 triệu. Lý do, một bộ phận tín đồ không khai nhận là tín đồ Cao Đài khi chính quyền
tổ chức thống kê. Đối với tổ chức tôn giáo ở Hội thánh, Họ đạo đã kê khai số lượng tín đồ
nhập môn vào đạo cùng toàn thể gia đình người tín đồ gồm người già và trẻ em chưa đến
tuổi nhập môn nên có sự chênh lệch về số liệu thống kê 3. 
Ra đời trong hoàn cảnh thực dân Pháp thi hành chính sách khai thác thuộc địa lần
thứ hai, sự tồn tại của tôn giáo này có hai yếu tố quan trọng là yếu tố về hoàn cảnh kinh tế -
xã hội và vai trò người sáng lập. Chính ở chỗ xuất phát từ sự bế tắc và thất bại trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, suy thoái tôn giáo , trào lưu tư tưởng đương thời, phong trào
cơ bút đã tạo ra một tôn giáo hết sức thành công. Đầu thế kỷ XX, tư tưởng Tam giáo đồng
nguyên (Phật, Lão, Nho) ở Việt Nam có xu hướng giảm xuống nhưng hoạt động của nhóm
1
Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1995), Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2
Huệ Khải (2008), “Đất Nam Kỳ tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 10.
3
Ban Tôn giáo Chính Phủ, Giới thiệu đạo Cao Đài ở Việt Nam< http://btgcp.gov.vn/gioi-thieu-cac-to-chuc-ton-giao-
da-duoc-cong-nhan/gioi-thieu-dao-cao-dai-o-viet-nam-postX4Jb5X4o.html >

5
Ngũ chi Minh đạo (Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Tân, Minh Thiện) tăng mạnh đã
làm hồi sinh tư tưởng Tam giáo đồng nguyên. Cùng lúc đó, phong trào Thông linh học của
phương Tây phát triển mạnh tại Nam Bộ với các hình thức “xây bàn” tương tự như tục cầu
hồn của người Việt và cầu cơ của nhóm Ngũ chi Minh đạo đã tạo thành phong trào cầu cơ,
chấp bút gọi tắt là “cơ bút”. Trong các đàn cơ này có hai nhóm chính hình thành đạo Cao
Đài.  Nhóm thứ nhất do ông Ngô Văn Chiêu cầu cơ tại các đền, chùa, phật đường theo
truyền thống cơ bút thuộc nhóm Ngũ chi Minh đạo. Nhóm thứ hai gồm các vị: Cao Quỳnh
Cư, Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc (nhóm Cao - Phạm) tổ chức xây bàn cầu cơ theo kiểu
Thông linh học phương Tây. Năm 1926, hai nhóm cơ bút nói trên thống nhất hình thành
đạo Cao Đài, ông Ngô Văn Chiêu được thiên phong phẩm vị Giáo tông đầu tiên của đạo
Cao Đài4.
Ngày 29/9/1926, một số vị chức sắc đứng đầu các đàn cơ và tín đồ đã thống nhất kí
tên vào tờ khai đạo gửi chính quyền Pháp. Ngày 19/11/1926, những chức sắc đầu tiên của
đạo Cao Đài đã tổ chức lễ khai đạo tại tỉnh Tây Ninh và chính thức ra mắt đạo Cao Đài.Ông
Ngô Văn Chiêu sau khi có công lớn sáng lập đạo Cao Đài đã không nhận chức Giáo tông
tại Tây Ninh mà về Cần Thơ thành lập phái Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, thực
hiện đường hướng tu luyện theo pháp môn “vô vi” không phổ độ, không thành lập tổ chức
giáo hội.Sau ngày khai đạo, những chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao Đài tiến hành xây dựng
Toà thánh Tây Ninh và cơ sở hạ tầng, từng bước hoàn chỉnh hệ thống bộ máy tổ chức hành
chính đạo từ Trung ương đến cơ sở. Do một số bất đồng trong điều hành giáo hội, một số
chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao Đài đã tách ra và về địa phương thành lập các tổ chức Cao
Đài mới như: Cao Đài Chơn Lý, Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Ban Chỉnh đạo,… Tại Tây
Ninh, số chức sắc ở lại tiếp tục điều hành hoạt động của đạo Cao Đài. Cao Đài Tây Ninh là
tổ chức tôn giáo, có Toà thánh Tây Ninh, có số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ lớn nhất
trong các Hội thánh Cao Đài. Một số tổ chức Cao Đài sau khi dời Tòa thánh Tây Ninh về
các địa phương thành lập tổ chức Cao Đài mới đã xây dựng đường hướng hành đạo tiến bộ,
sớm có tinh thần yêu nước và vận động đông đảo chức sắc, tín đồ tích cực ủng hộ cách
mạng, tham gia kháng chiến chống ngoại xâm. Tuy bị chia rẽ thành nhiều tổ chức khác
nhau nhưng số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự của đạo Cao Đài vẫn phát triển rộng khắp các
tỉnh Nam Bộ đồng thời đã tạo ra vị thế mới cho đạo Cao Đài trong xã hội đương thời. Chia
rẽ, phân ly là đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài từ năm 1930 đến năm 1975. Thời gian này,
4
Ban Tôn giáo Chính Phủ, Giới thiệu đạo Cao Đài ở Việt Nam< http://btgcp.gov.vn/gioi-thieu-cac-to-chuc-ton-giao-
da-duoc-cong-nhan/gioi-thieu-dao-cao-dai-o-viet-nam-postX4Jb5X4o.html >

6
đạo Cao Đài chia rẽ thành nhiều tổ chức Cao Đài khác nhau, có lúc lên đến 30 tổ chức.
Trong các tổ chức Cao Đài này có khoảng 10 tổ chức là hoạt động theo đúng chân truyền
của đạo Cao Đài và tồn tại đến nay. Từ năm 1995 đến nay, Nhà nước đã công nhận tổ chức
tôn giáo đối với 10 Hội thánh Cao Đài, 21 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập và cấp đăng
ký hoạt động tôn giáo đối với 01 pháp môn Cao Đài5.
Đạo Cao Đài là tôn giáo nội sinh, được hình thành ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.
Sự ra đời và phát triển của tôn giáo này gắn liền với bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, tư tưởng đương thời. Nhìn chung sự hình thành tôn giáo này ở Việt Nam do chi phối
của các phương diện sau: Bối cảnh chính trị xã hội đương thời, sự thất bại trong các cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Nam Bộ, sự suy thoái của các tôn giáo, trào lưu
tư tưởng đương thời và ảnh hưởng của tư tưởng “tam giáo đồng nguyên, phong trào cơ bút
tại Nam Bộ. Quá trình phát triển của tôn giáo này luôn đi đôi với cách mạng và đồng hành
với dân tộc, gắn liền với phong trào yêu nước, phong trào dân tộc, chính các tác động từ
nhiều yếu tố đã hình thành đạo Cao Đài với truyền thống yêu nước, gắn bó với đất nước.
Ngày nay, các hệ phái Cao Đài đều nỗ lực khẳng định vai trò, vị trí của mình trong lòng dân
tộc Việt Nam, đóng góp tích cực cho sự phát triển và tiến bộ của xã hội theo đường hướng
“nước vinh, đạo sáng”6.
1.3. Quá trình xây dựng Toà thánh Cao Đài Tây Ninh
Sự ra đời của đạo Cao Đài cùng với sự thiết lập hệ thống giáo lý, giáo điều, tổ chức
giáo hội...thì bên cạnh đó cũng cần có nơi thời tự và đặt các cơ quan trung ương của Hội
thánh Cao Đài. Vì vậy mà việc xây dựng Tòa Thánh được đặt ra từ những ngày đầu tiên
khai đạo tại chùa Từ Lâm. Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh hay được gọi là Tổ Đình là nơi
thờ cúng Đức Chí Tôn và đặt các cơ quan trung ương của Hội để điều hành các hoạt động
truyền giáo của đạo. Sử đaoh ghi nhận các sự kiện về nguồn gốc thành lập Tòa Thánh như
sau: Ngày 1/10/1926, nhóm khai đạo gửi Tuyên ngôn Khai đạo đến Thống đốc Nam kỳ
thông báo việc mở đạo; ngày 19/11/1926, tại chùa Kén (Từ Lâm Tự) do Hòa Thượng Như
Nhãn trụ trì tổ chức “Khai Minh Đại Đạo”; Năm 1927 bản đồ chi tiết về kích thước, đồ họa
đã được chỉ ra nhưng vì điều kiện chưa có nên xây cất đơn sơ... Đến ngày 1/2/1955, nhân
ngày vía Đức Chí Tôn, đại lễ khánh thành Tòa Thánh được tổ chức vô cùng lớn. Tín đồ Cao

5
Ban Tôn giáo Chính Phủ, Giới thiệu đạo Cao Đài ở Việt Nam< http://btgcp.gov.vn/gioi-thieu-cac-to-chuc-ton-giao-
da-duoc-cong-nhan/gioi-thieu-dao-cao-dai-o-viet-nam-postX4Jb5X4o.html >
6
Phạm Thanh Hằng, Cơ sở hình thành và phát triển của đạo Cao Đài tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo sô
3&4, 2017.

7
Đài rất hãnh diện có được Ngôi Tòa Thánh đồ sộ, nguy nga, tráng lệ do Thiên Ý hợp cùng
Nhân lực tạo nên.
Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh được xây dựng vào những năm đầu thế kỷ XX, giai
đoạn mà ở Việt Nam Đang có sự giao lưu mạnh mẽ với các nước phương Tây dẫn đến
nhiều thay đổi lơn về mặt xã hội ở Việt Nam, đặc biệt trên lĩnh vực kiến trúc. Kiến trúc
truyền thống đã gặp gỡ và tiến biến với kiến trúc phương Tây với hai loại hình có một số
đặc điểm sau:
Kiến trúc Việt Nam truyền thống: thường là những công trình gần gũi và hòa hợp
với thiên nhiên, kỹ thuật xây dựng hướng đến thích nghi điều kiện khí hậu, chi phối của yếu
tố âm dương - ngũ hành, còn chịu ảnh hưởng của kiến trúc các quốc gia khu vực, đặc biệt là
Trung Quốc, Ấn Độ, v.v. Hệ tư tưởng, tôn giáo như Nho giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo, v.v.
trong quá trình truyền bá cũng đã để lại nhiều dấu ấn kiến trúc đặc sắc. Rõ ràng, không có
một định nghĩa cụ thể về dạng thức kiến trúc Việt Nam đơn thuần mà chỉ có kiến trúc được
hình thành nên từ quá trình giao lưu, tiếp biến văn . Như thế sự kết hợp hài hòa của nội sinh
và ngoại sinh giúp hình thành nền kiến trúc Việt truyền thống.
Kiến trúc phương Tây: tiêu biểu là Pháp, theo chân của sự xâm chiếm thuộc địa đã
mang đến một nền kiến trúc mới như: vật liệu kết cấu chắc, kỹ thuật xây dựng hiện đại,
kích thước to lớn giữa không gian tự nhiên, vách tường dày khép kín. Đối với Toà thánh,
công trình này đã chỉu ảnh hưởng lớn từ kiến trúc, bố cục từ các nhà thờ Công giáo được
người Pháp xây dựng trong quá trình truyền đạo vào Việt Nam. Qua các đặc điểm của hai
loại hình kiến trúc đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến kiến trúc Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh.
1.4. Cơ sở hình thành sự hoà hợp văn hoá trong kiến trúc của Toà thánh Cao
Đài Tây Ninh
Đạo Cao Đài cho rằng đạo đã quy tụ tổng hòa năm đạo lớn của thế gian là: “Phật
đạo, Tiên đạo, Thánh đạo, Thần đạo, Nhân đạo”. Cũng có thể thấy Đạo đã hòa hợp tư tưởng
Đông - Tây qua hình thức quy tam giáo hiệp ngũ chi, nghĩa là thâu tóm năm ngành đạo,
Truy tìm nguyên thủy những điều cao thâm tinh khiết nhất trần gian7 thành một tôn giáo lớn
chung cho toàn thế giới, cho nên gọi là Đại Đạo.
Tam kỳ ở đây không phải Bắc, Trung, Nam kỳ mà là: lần thứ 3. “Kể từ thứ nhứt khí
Thái cực (trời) phần âm, dương, hóa sanh, mở mang sinh chúng; từ ấy dẫn tới Thái Thượng
đạo tổ, Nhiên Đăng Cổ phật truyền đạo, hiệp thành tam giáo gọi là nhứt kỳ phổ độ, tí hội

7
Tìm hiểu đạo Cao Đài, Cơ quan phổ thông giáo lý Đại Đạo

8
thượng ngươn khai đạo; dẫn xuống nhà Châu. Lão Tử là Thái thượng hóa thân khai đạo
Tiên, Thích ca truyền đạo Phật, Khổng Phu Tử và Gia Tô giáo chủ đạo khai đạo Thánh sửa
đời là nhị kì phổ độ. Nay đến kỳ âm tận dương sanh, thiên địa tuần hoàn, nghĩa là hung ác
tàn bạo đến cuối cùng tự nhiên khởi sự lại từ thiện, nhân đức. Nên trời mở đạo, phổ độ lần
thứ ba, kêu là tam kỳ phổ độ...” 8. Phổ độ là truyền bá sự giải thoát, có giải thoát rộng rãi thì
con người biết bao dung và yêu thương nhau. Đạo Cao Đài ra đời xuất phát từ tầng lớp trí
thức, điền chủ người Việt đang làm việc dưới chế độ thực dân Pháp, có nhiều nhận định
khác nhau về sự ra đời của đạo chủ yếu chịu sự tác động của các yếu tố sau: Thứ nhất: vùng
đất Nam Bộ là vùng đất mới, đã từng xuất hiện đạo Tứ ân hiếu nghĩa, Bửu sơn kỳ hương...
sinh hoạt tôn giáo khá phổ biến trong dân chúng, đạo Cao Đài ra đời kế thừa những yếu tố
của tín ngưỡng nội sinh. Thứ hai: bối cảnh chính trị - xã hội khủng hoảng đòi hỏi xuất hiện
tôn giáo mới đáp ứng một bộ phận người dân, mà ở đó Đạo Cao Đài xuất hiện đã đáp ứng
nhu cầu tâm linh của bộ phận nhân dân mà chủ yếu là nông dân dân trong bối cảnh khủng
hoảng. Thứ ba: mâu thuẫn về Kitô giáo với các tín ngưỡng địa phương cũng là một trong
yếu tố khi đạo Cao Đài ra đời đã nhanh chóng thu hút đông đảo dân chúng . Thứ tư: Đạo
Cao Đài ra đời nó không quá cao siêu khó hiểu đối với các tầng lớp, mà là sự kết hợp, thâm
nhập và tiếp biến trong nền văn hóa dân tộc như tinh thần từ bị của Phật giáo, nhân ái của
Khổng tử...
Đạo cao đài sử dụng và góp nhặt tư tưởng của các đạo khác tạo nên học thuyết riêng
của mình. Sử dụng quan điểm Nho và Lão để nói lên sự tiến hóa và biến sanh vũ trụ, vạn
vật và nhân loại như âm dương, ngũ hành. Quan niệm của đạo về nhân sinh chủ yếu cho
thấy con người đầu thai được trời ban thiên phú, mượn xác phàm, xem thế gian là trường
thi công quả, nghĩa vụ của con người đó là ích nước lợi dân, dân đường tu đến giải thoát.
Đạo cũng quan niệm xã hội loài người là xã hội thánh đức gồm đời sống an lạc trên tinh
thần nhân văn và có hiệu năng tiến bộ. Như vậy có thể nói một cách khái quát sự dung hợp
các yếu tố văn hóa phương Đông và cơ tầng văn hóa bản địa như một cơ sở triết lý của đạo
Cao Đài.
Đạo giáo đã du nhập vào Việt Nam từ hàng thế kỷ trước ảnh hưởng khá lớn đến đời
sống sinh hoạt của cộng dần người Việt, đặc biệt là vấn đề tôn giáo.Đạo Cao Đài đã có sự
vay mượn ở Đạo giáo hình thức phụ đồng, cầu tiên trong giai đoạn thành lập, các nội dung
về tu luyện, thần tiên, luyện khí, luyện thần cũng được phản ánh qua Đạo Cao Đài. Yếu tố

8
Trần Văn Giàu (1993). Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ XIX đến Cách mạng tháng Tám Tập 2: Hệ ý
thức Tư Sản và sự bất lực của nó trước nhiệm vụ lịch sử. Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

9
đạo giáo hay ảnh hưởng đạo giáo đối với đạo Cao đài hết sức sâu sắc, qua đó cũng cho thấy
rằng phần nào về nguồn gốc, cơ sở của sự ra đời tôn giáo Cao Đài . Tôn giáo này không
phải là một phép màu hay sự sáng lập thượng đế mà là hiện tượng xã hội, tác động bởi các
điều kiện kinh tế - xã hội, một bộ phận văn hóa tinh thần, cơ tầng văn hóa bản địa đã tạo
nên sự tiến triển đặc biệt trong tôn giáo Cao Đài.
Như vậy, chúng ta có thể kết luận và khẳng định, giáo lý Đạo Cao Đài nói chung,
đặc biệt là kiến trúc của Toà thánh Cao Đài Tây Ninh được hình thành trên một số cơ sở
lịch sử - văn hoá như sau: cơ sở lịch sử - sự di cư, quá trình khai phá đất đai và khẳng định
chủ quyền lãnh thổ, quá trình xâm lăng, áp đặt nền cai trị của thực dân Pháp; cơ sở văn hoá
– tôn giáo: đặc trưng giao lưu, tiếp biến văn hoá trong xuyên suốt chiều dài lịch sử Việt
Nam, cụ thể là trên nền tảng của Nho – Phật – Lão, cộng thêm sự ảnh hưởng của tôn giáo,
tín ngưỡng phương Tây, v.v. Tất cả những điều trên đã tạo tác Toà thánh trở thành một
trong những công trình tôn giáo đặc trưng nhất của miền Nam nói riêng và cả Việt Nam nói
chung.

10
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG
2.1. Kiến trúc bên ngoài
2.1.1. Tổng thể
Nhìn tổng thể Toà thánh, người ta thấy mang hình tượng Long Mã bái sư. Long Mã
là con vật linh huyền thoại mang Hà Đồ trên mình, gợi ý cho vua Phục Hy vẽ nên Bát Quái
Tiên Thiên. Đầu Long Mã là mặt tiền nhìn thẳng về phía tây. Hai lầu chuông (Bạch Ngọc
Chung Đài) và lầu trống (Lôi Âm Cổ Đài) vươn lên như hai sừng nhọn. Nằm giữa lầu
chuông và lầu trống là toà nhà hai lầu, được gọi chung là Hiệp Thiên Đài với tầng trệt là
Tịnh Tâm Đài, như miệng Long Mã đang hả ra. Tầng một là Hiệp Thiên Đài, với hai hàng
cột đắp rồng, đắp hoa sen chống đỡ bao lơn như những chiếc răng lớn nhe ra. Tầng hai là
Phi Tưởng Đài như trán Long Mã với 2 cửa được coi như hai con mắt. Giữa hai cửa là hình
Thiên Nhãn. Trên nóc Phi Tưởng Đài có tượng Đức Di Lặc ngồi trên lưng cọp và tòa sen.
Tổng thể kiến trúc đền Thánh cho thấy có sự tương đồng với tổng thể kiến t rúc của
một nhà thờ Công giáo, với hai tháp nhọn vươn cao đối xứng ở mặt tiền và mặt bằng kéo
dài theo phương dọc, với cấu tạo ba phần tương ứng như sau: Hiệp Thiên Đài- Chái kiệu,
Cửu Trùng Đài - lòng nhà thờ, Bát Quái Đài – Cung Thánh. Đền Thánh được xây dựng với
cấu trúc bê tông cốt thép, tường gạch trát vữa xi măng, đây là những vật liệu thường được
sử dụng trong các công trình kiến trúc của Pháp. Việc sử dụng kết cấu bê tông cốt thép và
các vật liệu có tính bền chắc như thế này giúp công trình có được quy mô to lớn và bền
vững với thời gian, đây là mộtưu điểm của kỹ thuật xây dựng phương Tây. Toàn bộ đền
Thánh được trang trí với màu sắc chủ đạo là 3 màu vàng, xanh, đỏ, cũng là 3 màu của đạo
kỳ Cao Đài. Màu vàng tượng trưng cho Phật giáo. Trong lịch sử Ấn Độ màu vàng là màu
của tầng lớp cùng khổ Ấn Độ (Patria), nên đã được Phật giáo chọn làm màu của y phục
tăng lữ. Mặt khác, theo Đạo giáo màu vàng chính là màu của hành Thổ ở Trung ương, chứa
đựng mọi hành khác trong đó. Do đó, đạo Cao Đài sử dụng màu vàng thể hiện sự bao dung
trong Phật giáo, xanh dương cho Đạo giáo, màu đỏ cho Nho giáo (thể hiện sức mạnh của
quyền lực, trật tự xã hội.
2.1.2. Bạch Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài
Đứng trước Tòa Thánh, chỗ khoảng sân rộng có cột phướn, nhìn thẳng vào Tòa
Thánh ở hai bên lối vào đền Thánh nổi bật là 2 tháp vuông lớn, cao 27 mét, có 6 tầng với
chiều cao khác nhau, có mái ngắn phân chia các tầng và song song với nhau là lầu chuông
(bên trái) còn có tên gọi là Bạch Ngọc Chung Đài và lầu trống (bên phải) có tên là Lôi Âm

11
Cổ Đài. Tầng trệt (tầng một) của hai tháp này có hai khuôn bông lớn hình chữ nhật, ở giữa
có hai chữ Nho và chữ quốc ngữ trong hình bầu dục: chữ CAO ( 高) bên lầu trống và chữ
ĐÀI (臺) bên lầu chuông. Bên trên khuôn bông này là 4 ô hình tròn có gắn chữ Nho và chữ
quốc ngữ : 白玉鐘 臺- BẠCH NGỌC CHUNG ĐÀI và 雷音鼓臺- LÔI ÂM CỔ ĐÀI.9
Hình tượng nhân thần được đặt trang trí vách tường của các công trình kiến trúc là hình
thức phổ biến trên kiến trúc thánh đường Công giáo. Ở đây quan điểm Nho giáo cũng được
sử dụng qua việc xác định vị trí tượng (nam tả -nữ hữu). Tầng hai của mỗi lầu có đắp
tượng hai vị chức sắc lớn có kỳ công khai mở đạo và xây dựng đền Thánh. Lầu chuông có
đắp tượng Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung mặc đạo phục đứng trên quả địa cầu, tay
mặt cầm quyền Thiên Thơ. Tầng hai của lầu trống đắp tượng bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh
mặc đạo phục đứng trên quả địa cầu, tay phải cầm nhánh bông, tay trái xách giỏ hoa. Tầng
thứ ba, so với tầng một và tàng hai ngắn hơn, mỗi bên có gắn hai bông gió để thông hơi.
Tầng thứ tư là đây chính là tầng cao dài nhất, giữa hình chữ T rất lớn màu trắng có
đắp hình một bó hoa lớn, màu sắc sặc sỡ, như đang rơi xuống biển, dưới ánh bình minh
(Hình 8). Hình ảnh bó hoa rơi lúc mặt trời mọc phỏng theo điển tích “Vua U Vương nhà
Châu nằm mơ thấy điềm báo Đức Lão Tử sắp mở đạo Tiên ở Bên Tàu ”. Hình này để tượng
trưng cho một điềm lành, báo cho nhân loại biết là đạo Cao Đài mở ra tại một nước ở
phương Đông để cứu độ nhơn sanh, đem vào tham dự Đại hội Long Hoa. Còn ở 3 phái
hông còn lại thì gắn những khung lá sách sơn màu xanh. Trong tầng thứ tư, bên lầu trống
đặt 1 cái trống lớn gọi là Lôi Âm Cổ và bên lầu Chuông đặt 1 cái chuông lớn gọi là Bạch
Ngọc Chung.
Tầng thứ năm và thứ sáu có 4 cạnh nhỏ dần và 4 bên đều có gắn các khuôn bông
thôn gió được trang trí với nhiều màu sắc rất đẹp và hài hòa. Các bông hoa gió có dạng hình
tròn, mô phỏng biểu tượng Thập tự dưới dạng hoa Cúc cách điệu, là một biểu tượng trong
Phật giáo. Đặc biệt ở tầng thứ sáu - đây chính là tầng cao nhất có lan can bao quanh để du
khách có thể lên trên ngắm nhìn toàn cảnh thánh địa. Trên đỉnh lầu chuông, dưới ngọn thu
lôi có tạc tượng cái hồ lô. Đó là bửu pháp của Đại Tiên Lý Thiết Quả, tiền kiếp của Đức
Quyền Giáo Tông. Trên đỉnh lầu trống có tạc hình giỏ hoa lam là bửu pháp của Long Nữ
(thị giả của Đức Quan Thế Âm). Vị nầy vốn là ngươn linh của bà Đầu Sư Lâm Hương
Thanh.10

9
Trần Lê Thùy Dương (2018). Sự dung hợp văn hóa trong đạo Cao Đài qua công trình kiến trúc Tòa Thánh Tây
Ninh.Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG HCM.
10

12
Như vậy, ta có thể thấy về phương diện tín ngưỡng, trống là vật thể văn hóa thường
thấy trong đình làng, chuông là vật thể văn hóa nổi trội trong kiến trúc chùa Phật (chuông
thường được bố trí trong tháp, làm điểm nhấn cho toàn khu vực chùa). Việc sử dụng lầu
chuông - lầu trống cho thấy sự tiếp biến đa dạng văn hóa dân gian và tôn giáo nhuần
nhuyễn. Hình tượng chữ Vạn được kiểu thức hóa dưới hình thức “chữ Triện” kết hợp với
trang trí dây lá cách điệu, được đặt trên tất cả các lường mái cho ta thấy dấu ấn Phật giáo rõ
nét, vừa làm điểm nhấn tạo sinh động và nhẹ đi bộ mái ngói thô cứng.
2.2. Kiến trúc bên trong
Cũng giống như các công trình phụ cận và kiến trúc tổng thể khu vực bên ngoài Toà
thánh, kiến trúc bên trong tiếp tục thể hiện đậm nét sự hoà hợp trong văn hoá, tín ngưỡng
của người Việt Nam nói chung và của Nam bộ nói riêng, của cả các nền văn hoá như Trung
Quốc, phương Tây, v.v. Bên trong Toà thánh là nơi thờ tự chính của Thượng đế, chư vị liệt
thánh – đều là những bậc tâm linh không thể thay thế của Đạo Cao Đài. Đặc biệt, với vị trí
là Toà thánh – cơ sở thờ tự quan trọng bậc nhất trong hệ thống Đạo Cao Đài, bản thân bên
trong Toà thánh cũng có những nét rất riêng mà các thánh thất khác không hề có. Về tổng
quan, khu vực bên trong Toà thánh được chia thành ba phần chính, bao gồm: Hiệp Thiên
đài, Cửu Trùng đài và Bát Quái đàn.
2.2.1. Hiệp Thiên đài
Bước vào từ cổng chính (chỉ mở khi có lễ lớn), hoặc hai bên cổng phụ, ngay dưới
phần trệt của Hiệp Thiên đài là Tịnh Tâm điện, nơi các chức sắc, tín đồ tịnh tâm, định thần,
chỉnh trang y phục trước khi vào chầu lễ. Chính giữa bức tường lớn của Tịnh Tâm điện là
bức tranh “Tam Thánh kí hoà ước” – ba vị thánh Bạch Vân Động 11 đại diện cho toàn thể
nhân loại soạn thảo bản ‘Thiên Nhơn Hoà ước” lên bia đá. Đó là Thanh Sơn Chơn Nhơn,
Trung Sơn Chơn Nhơn, Nguyệt Sơn Chơn Nhơn. Tam Thánh Bạch Vân Động ấy, trong lịch
sử thực tế là một vị người Việt, một vị người Trung, một vị người Pháp, lần lượt là: Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Tôn Trung Sơn, Victor Hugo là ba nhân vật đều đã đặt dấu ấn về tư tưởng dân
chủ, hoà bình trong cuộc đời của mình. Bản Thiên Nhơn Hoà Ước được chấp bút bằng hai
loại chữ: chữ Hán (bao hàm cả chữ Nho – chữ viết được người Việt sáng tạo trên cơ sở chữ
Hán), chữ Pháp – cũng là ngôn ngữ chính của nước Pháp và một số quốc gia Tây Âu. Bức
tranh được hoạ tinh xảo ấy đã thể hiện rất rõ: một là, sự hoà hợp, du nhập văn hoá, văn
minh nhân loại trong mối quan hệ khăng khít với lịch sử - văn hoá bản địa Việt Nam thông
qua các nhân vật thờ tự, chữ viết, nét vẽ, v.v.; hai là, tinh thần của bản Thiên Nhơn Hoà
11
Bạch Vân Động trong tín ngưỡng Cao Đài chỉ mặt trăng – nơi chuyển tiếp giữa trái đất đi vào càn khôn vũ trụ rộng
lớn. Đây là nơi trú ngụ cho các bậc Thánh thiêng liêng của Đạo.

13
Ước với tinh thần “bác ái, công bình” vừa thể hiện sự giản đơn nhưng sâu xa về đạo lý căn
bản của Cao Đài, đồng thời cũng thể hiện tinh thần nhân đạo, đoàn kết, đấu tranh cho lẽ
phải của người Việt trải suốt hàng ngàn năm lịch sử; ba là, bức vẽ Tam thánh kí hoà ước
còn là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, thể hiện trình độ nghệ thuật chạm khắc, mĩ thuật
trong các công trình tôn giáo.
Tại vách phần giao giữa Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài là nơi đặt ba bức tượng
cỡ lớn: Hộ Pháp (chính giữa), Thượng phẩm Cao Quỳnh Cư (phải), Thượng sanh Cao Hoài
Sang trong tư thế đứng chầu thẳng tắp về hướng chính giữa Bát Quái đàn. Bộ ba bức tượng
này là sự kết hợp giữa tinh thần Đạo giáo Trung Hoa cùng với tín ngưỡng bản địa của
người Việt Nam. Đức Hộ Pháp được tạo tác, mô tả trong tư thế đang đứng đạp trên bốn đầu
rắng, đại diện cho bốn đức tính mà con người cần phải chế ngự, triệt tiêu (nộ, ai, ố, dục) và
nâng niu ba đầu rắng hướng lên phía trên, đại diện cho ba đức tính mà con người chân
chính cần phải có (hỉ, lạc, ái). Phía sau bức vách tường của tượng Hộ Pháp tạc nổi chữ hí, ý
nghĩa thể hiện tin thần trong tín ngưỡng Cao Đài – càn khôn vũ trụ đều từ nơi khí mà sinh
ra. Ba bức tượng của ba vị làm chủ Hiệp Thiên đài – nơi hiệp lực, kết nối giao thoa giữa cõi
trần và cõi trời với kích thước 1:1 được chạm khắc tỉ mỉ, sinh động từ nét mặt đến trang
phục, dáng người. Qua ba bức tượng đặc biệt trên, ta có thể kết luận rằng: nghệ thuật tạc
tượng độc đáo của người Việt vốn đã có mặt từ rất sớm vẫn giữ được đặc trưng riêng qua
nhiều năm lịch sử, là nét văn hoá có bản sắc, có vị trí lớn lao trong lịch sử, thể hiện truyền
thống thờ cúng tổ tiên. Bằng tinh thần “uống nước nhớ nguồn” rất Việt Nam ấy, mỗi tín đồ
Cao Đài khi lễ bái đến Toà thánh, sau khi lạy Đức Chí Tôn ở Bái Quát đàn đều cung kính
hướng về phía Hiệp Thiên đài để bái lễ ba vị Hộ Pháp, Thượng Sanh, Thượng Phẩm là
những vị có công đức lớn trong việc gầy dựng Đạo pháp được phát triển mạnh mẽ12.
2.2.2. Cửu Trùng đài
Cửu Trùng đài là khu vực trung gian, có diện tích lớn nhất trong Toà thánh, nối tiếp
giữa Hiệp Thiên đài vào đến vị trí của Bát Quái đài. Từ Tịnh Tâm điện bên trong Hiệp
Thiên điện, có hai lối dẫn vào Cửu Trùng đài. Cửu Trùng đài được chia thành ba không
gian chính theo chiều dọc: hàng chức sắc thực hiện nghi thức lễ bái ở gian chính giữa; tín
đồ nam quỳ lễ ở gian bên phải, tín đồ nữ quỳ ở gian bên trái. Đúng với tên gọi của nó, Cửu
Trùng đài có cấu tạo gồm chín bậc, mỗi bậc có độ dài 7m, bậc trên cao hơn bậc trước 18cm,
tổng cộng có 18 cột đối xứng với nhau thành hai hàng song song qua hai bên. Chín bậc
trong Cửu Trùng đài tương ứng với hệ thống chín bậc giáo phẩm từ thấp đến cao: tín đồ

12
Lời phỏng vấn người phục vụ ở Toà thánh Cao Đài Tây Ninh

14
(đạo hữu), Chức việc Ban Trị sự, Lễ sanh, Giáo hữu, Giáo sư, Phối sư, Đầu sư, Chưởng
pháp và cao nhất là Giáo tông – tương đương với chức vụ Giáo hoàng khi so sánh với Kito
giáo.
Tại hai cột bậc cấp thứ năm của Cửu Trùng đài có hai đài nhỏ hình xoắn ốc bao
quanh chiều cao của cột rồng, được gọi là Giảng đài. Trang trí xung quanh Giảng đài dựa
trên điển tích Nho giáo Văn Xương đế quân khuyên Phò Dư trở lại con đường Thánh Đức,
là rồng quấn quanh, đầu rồng há miệng phun nước. Chứng kiến nhân loại đua chen trên
đường danh vọng, lọt vào ai, ố, nộ, Đức Chí Tôn bởi thế mà sai chư thần xuống đạp sáu
chia để giảng pháp, kêu gọi nhân loại tính đức làm thiện, thoát khỏi vòng trầm luân 13. Bởi lẽ
đó, ta có thể dễ dàng nhận ra rằng, Giảng Đài chính là vị trí nơi thuyết giảng đạo pháp trong
các buổi tế lễ và cũng là nơi để hai vị chức sắc điều hành buổi lễ cúng đàn. Nhìn chung, đặt
trong mối tương quan với các tôn giáo khác, ta dễ thấy chức năng của Giảng đài gần tương
tự với giảng đài, nơi các cha xứ giảng kinh trong các nhà thờ Công giáo, cộng sinh hài hoà
qua lăng kính của Nho gia. Có thể thấy, giảng đài là hình tượng tiêu biểu cho sự giao thoa
giữa văn hoá vật chất phương Tây cũng như là văn hoá phi vật chất của phương Đông một
cách hài hoà, không gượng ép.
Trong Cửu Trùng đài, tất cả các cột đều được tạo khắc rồng xanh quấn quanh. Đây
là một nét đặc trưng của Toà thánh, tăng thêm sự uy nghi, bề thế của “đất thánh” tôn giáo
với các thánh thất khác trong Đại đạo Tam kì phổ độ, bởi lẽ chỉ có Toà thánh mới được
phép sử dụng hình tượng rồng trong trang trí kiến trúc. Hình tượng rồng trong Toà thánh có
những nét tương đồng với hình tượng rồng thời Nguyễn, với đặc điểm là thân rồng không
dài, uốn lượn nhiều, đầu rồng to, sừng như sừng hươu, mắt lộ to, mũi giống sư tử, miệng há
to để lộ hàm răng ranh lớn, rồng có vảy, thân cuộn hoa văn lửa 14. Rồng trong Toà thánh
tượng trưng cho Trời với năm móng, tương đương với hình tượng rồng dành cho Hoàng đế.
Trong quan niệm Đạo giáo, rồng Toà thánh bộc lộ rõ, đại diện cho nguyên lý dương, cho sự
phát triển, sinh sôi thịnh vượng. Không chỉ có vậy, hình tượng rồng này còn thể hiện rõ
mạnh mẽ quan điểm tán đồng với việc phải thiết lập nền tôn ti trật tự của Nho giáo thời kì
phong kiến. Hình tượng rồng – vốn là sản phẩm nghệ thuật tiêu biểu của dân gian qua suốt
hàng ngàn năm lịch sử, ở một dân tộc xưng danh “con rồng cháu tiên” dường như xuất hiện
ở khắp mọi cơ sở thờ tự trong nước, và rồng ở Toà thánh là một ví dụ tiêu biểu cho điều đó.
Rồng ở Toà thánh càng trở nên đặc biệt hơn qua con mắt tạo tác độc đáo của các nghệ nhân
và qua tiến trình lịch sử kiến trúc của chính Toà thánh.
13
Thiền Giang 1963
14
Nguyễn Ngọc Thơ, 2012

15
Ở Cửu Trùng đài, tương ứng với chín bậc dưới đất là chín vòm trần ở trên nóc trần
Toà thánh. Nóc trần lấy màu xanh da trời làm chủ đạo, tượng trưng cho bầu trời rộng lớn,
điểm xuyết trang trí với những vầng mây trắng, những vì tinh tú. Chính giữa vòm trần được
tạo tác hình sáu con rồng (hai con màu vàng, hai con màu xanh, hai con màu đỏ), thể hiện
tinh thần của bài kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế trong hệ thống kinh điển của Đạo Cao Đài
“Thời thừa lục long / Du hành bất tức”, ý chỉ Thượng Đế ngự trên sáu rồng, thường xuyên
du hành trong trời đất, giám sát và điều khiển sự phát triển của tạo hoá. Hai vòm trần hai
bên chạm khắc lân, rùa (quy), phượng (phụng), hợp với rồng ở gian giữa tạo thành bộ tứ
linh. Tên “tứ linh” tuy bắt nguồn từ Trung Hoa, nhưng tinh thần, ý nghĩa bên trong nội tại
của bộ tứ linh ở Việt Nam nói chung và trong trang trí kiến trúc Toà thánh nói riêng đã
được bản địa hoá từ lâu, dựa trên tinh thần “vạn vật hữu linh” trong xuyên suốt các giai
đoạn lịch sử. Vòm trần ở Cửu Trùng đài, như đã nói, ngoài là khu vực rộng nhất trong toàn
bộ bên trong Toà thánh, tạo không gian đủ lớn để cử hành các nghi lễ, nó còn thể hiện cho
sự vô vi, vũ trụ, không gian mênh mông của bầu trời trong tư tưởng của Đạo giáo. Xét về
chức năng, Cửu Trùng đài cũng tương tự với giảng đường, chánh điện của Phật giáo và khu
nhà thờ của Kito giáo.
Ở bậc thứ chín của Cửu Trùng đài còn là nơi đặt bảy chiếc ngai, tương ứng với vị trí
ngồi của bảy vị chức sắc cao nhất của Cửu Trùng đài. Hai đên của các ngai vàng đặt tàn,
lọng. Sự bố trí không gian như vậy đã phản chiếu rõ sự hoà hợp văn hoá dân gian đình làng
với văn hoá cung đình chính thống, là sự kết hợp Nho – Lão hết sức rõ nét. Sự uy nghiêm
của một tôn giáo chính thống ở Việt Nam vì thế mà càng được tô đậm thêm.
2.2.3. Bát Quái đài
Bát Quái đài là vị trí nơi đặt bàn thờ chính, là nơi thiêng liêng bậc nhất trong toàn bộ
quần thể kiến trúc của Toà thánh Cao Đài Tây Ninh. Chuyển tiếp giữa Cửu Trùng đài và
Bát Quái đài là khu vực Cung đạo, hay còn được coi là cấp thứ 10. Hai cột trụ ở khu vực
này có rồng được đặc biệt sơn so thếp vàng. Phía trên trần, vùng chuyển tiếp giữa Cửu
Trùng đài với Bát Quái đài là nơi đặt ba cửa võng lớn, giống với hình thức của y môn –
dạng thức kiến trúc vốn đã khá quen thuộc trong kết cấu đình chùa Việt nói chung. Cửa
võng ở chính giữa tượng trưng cho cảnh sắc thượng giới tiên đàng, điểm xuyết năm đám
mây ngũ sắc (ngũ sắc tường vân), đồng thời là nơi đặt tượng chư vị giáo chủ và tam trấn
theo thứ tự được quy định rõ ràng. Hàng giữa, trên cao nhất là tượng Thích Ca Mâu Nhi
khoác cà sa vàng, ngự trên toàn sen, kế dưới nữa là Thái Bạch Kim Tinh, Chúa Jesus, Đức
Khương Thượng Tử Nha – sự kết hợp giữa Đạo giáo, văn hoá Trung Hoa, văn hoá phương

16
Tây cũng như là văn hoá bản địa Việt Nam. Bên trái Thích Ca là nơi đặt tượng Khổng Tử,
Quan Thánh (Quan Vũ). Phía trước mặt ngang hàng Thích Ca là nơi đặt tượng Lão Tử và
Quan Âm Bồ Tát trên toà sen. Cửa võng bên phải là nơi thờ tự Bát tên – các vị tiên trong
tín ngưỡng Đạo giáo: Lữ Động Tân, Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử, Lam Thể Hoà, Tào Quốc
Cựu, Lý Thiết Quả, Hớn Chung Ly, Trương Quả Lão. Hình tượng Bát Tiên trong Đạo giáo
đã trở thành một đặc trưng riêng, tuy nhiên, khi du nhập đến các nước xung quanh, cụ thể là
trường hợp của Việt Nam, hình tượng này đã được bản địa hoá thành các tín ngưỡng thờ
Mẫu, đa thần, v.v. Vì vậy, hình tượng Bát Tiên xuất hiện ở Toà thánh là sự ảnh hưởng rõ
nét nhất đến từ Đạo giáo của cộng đồng người Hoa ở Nam bộ. Giống như cửa võng bên
phải, cửa võng trái cũng thể hiện một hình tượng khác trong văn hoá người Hoa, đó là hình
tượng Thất Thánh trong tích Phong Thần bảng: Lý Tịnh, Na Tra, Mộc Tra, Kim Tra, Vi Hộ,
Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử. Với công đức vô lượng khi theo Khương Tử Nha phù trợ, lập
nên nàh Chu, giáo lý Cao Đài đã xếp các vị vào hàng liệt thánh, là tấm gương sáng để bổn
đạo thờ tự. Tam võng ở cấp thứ 10 là biểu tượng rõ nhất, thể hiện tôn chỉ “tam giáo quy
nguyên – ngũ chi phục nhất”. Bao trùm lên phần vòm trần cấp thứ 10 là hình tượng 12 tia
hào quang dài, 24 tia hào quang ngắn (ý nghĩa, hình tượng thời gian). Chính giữa là hình
ảnh Thiên Nhãn – hiện thân của Thượng Đế, xung quanh trang trí những vật dụng cơ bản
để Thượng Đế điều khiển nhân gian như đại ngọc cơ, tiểu ngọc cơ, bàn tay chấp bút, v.v.
Kế tiếp cung đạo là phần điện chính – Bát Quái đài, với các bục đi lên, tạo hành hình
bát giác đều, bên ngoài lớn, càng vào trong diện tích bát giác đều càng nhỏ dần, được tạo
tác bằng đá màu vàng. Bát Giác đài có 12 cấp, trong đó cấp 12 là cao nhất, bục của cấp 12
được tạo tác tám cung bát quái tinh xảo: khảm (hướng nam), cấn, chấn (hướng đông), tốn,
ly (hướng bắc), khôn, đoài (hướng tây). Xung quanh Bát Quái đài là tám cột trụ lớn có rồng
vàng bao quanh, ôm lấy trung tâm là trụ tròn với quả càn khôi, điểm Thiên Nhãn lớn, sao
Bắc Đẩu. Ngay phía dưới quả càn khôn là bàn thờ gỗ lớn cũng có dạng hình bát quái, đặc
tám con rồng như hình tượng của những vị đang bảo vệ uy nghiêm trong Bát Quái đài. Trên
bàn thờ đồng thời cũng đặt một số long vị sơn son thếp vàng, ghi tên Giáo chủ, thánh tử đạo
trong lịch sử truyền đạo của Cao Đài Giáo. Thông qua thiết kế của Bát Quái đài, ngay từ
chính cái tên của nó, ta đã thấy rất rõ ảnh hưởng sâu sắc của Đạo giáo Trung Hoa với việc
hình tượng này là chủ đạo trong thiết kế, trong đặt thờ, trong các con số: 12 bậc của Bát
Quái đài tượng trưng cho 12 tầng trời, bởi lẽ đó mà Thượng Đế cũng được mệnh danh là
đấng Thập Nhị Khai Thiên.
Tiểu kết Chương 2

17
Xuyên suốt Chương 2 là hành trình tìm hiểu về sự hoà hợp trong kiến trúc của Toà
thánh Cao Đài Tây Ninh – một việc không thể thiếu khi tìm hiểu về Đạo Cao Đài nói riêng
và tính tiến biến linh hoạt trong lịch sử tín ngưỡng, văn hoá Việt Nam nói chung, ta có thể
đúc rút ra một số điểm quan trọng trọng yếu sau: một là, Toà thánh Cao Đài Tây Ninh với
những nét kiến trúc đặc trưng là biểu tượng của sự kết hợp, hỗn dung nhiều nền văn hoá,
trong đó văn hoá phương Đông, văn hoá phương Tây, văn hoá bản địa là ba dòng chủ lưu
chủ yếu nhất; không chỉ vậy, nó còn là một phần của tấm gương phản ánh lịch sử khai phá
vùng đất Nam bộ với tất cả những tính cách đặc trưng nhất của người dân di cư, của những
nét văn hoá từ vùng đất họ sinh sống đã đem đến; ngoài ra, kiến trúc trong Toà thánh cũng
phản ánh tiến trình phát triển tự nhiên của lịch sử dân tộc, đặc biệt là trong thế kỉ XIX, XX,
khi thực dân phương Tây đặt gót giày xâm lược lên vùng đất Nam bộ, lên Việt Nam, khi lan
toả văn hoá của họ đến với những người dân Nam bộ vốn phóng khoáng, dễ dàng trong tiếp
thu (một cách có nhận thức); cuối cùng là, giáo lý Cao Đài, được thể hiện một phần thông
qua kiến trúc của Toà thánh là một sự đan xen giữa nhiều hình thức văn hoá, nhiều tín
ngưỡng khác nhau, nhiều gam màu Đông – Tây hoà lẫn, tuy nhiên, đó là sự hoà hợp đưa
đến một tôn giáo đặc trưng, đặc biệt, phản ánh lịch sử tiến bộ của người Việt trong khía
cạnh văn hoá – tín ngưỡng chứ không phải sự trộn lẫn không khoa học.

18
CHƯƠNG 3. NHẬN XÉT
Toà thánh Cao Đài Tây Ninh được xây dựng và hoàn thành trong nhữg năm thuộc
thế kỉ XX, là một công trình tôn giáo mang giá trị lớn về mặt tâm linh, tín ngưỡng. Song,
bản thân công trình còn mang tầm vóc lớn lao về mặt kiến trúc, lịch sử độc đáo của tỉnh
Tây Ninh, vùng đất Nam bộ nói riêng và của toàn thể tín ngưỡng, tôn giáo bản địa Việt
Nam nói chung:
Về mặt tâm linh, tín ngưỡng
Công trình được xem là trung tâm, là tổ đình của Đại đạo Tam kì phổ độ trên khắp
Việt Nam, trên thế giới và cũng là biểu tượng của sự truyền bá chánh pháp Cao Đài thiêng
liêng đến những vùng đất này. Tổng thể, công trình đã thể hiện một các khá sinh động về
nhân sinh quan, vũ trụ quan cũng như là những triết lý cốt lõi của Đạo Cao Đài. Mỗi chi tiết
trang trí trong Toà thánh đều mang những nét đặc trưng và ý nghĩa hết sức độc đáo. Trong
đó, vũ trụ quan được thể hiện qua hình tượng bát quái trong Đạo giáo Trung Hoa mà đỉnh
cao của kiến trúc chính là Bát Quát Đài – nơi thờ Thượng Đế, đấng tạo hoá tạo tác nên vũ
trụ và càn khôn; nhân sinh quan là sự kết hợp hài hoà giữa thể xác con người, tinh thần con
người, linh hồn con người. Thực hiện tôn chỉ “tam giáo quy nguyên”, màu sắc chủ đạo
trong trang trí và tạo tác nghệ thuật luôn là ba màu vàng – xanh – đỏ, tương ứng với Phật –
Lão – Nho, “ngũ chi hợp nhất”, tức nhiều chi đạo phái, tôn giáo khác nhau đều quy phục
dưới Thượng Đế.
Về mặt văn hoá – lịch sử
Qua tìm hiểu về lịch sử kiến trúc của Toà thánh, ta như có thể biết được cả một tiến
trình lịch sử, đặc trưng văn hoá của cả vùng đất Nam bộ - mảnh đất sản sinh ra Đạo Cao
Đài. Toà thánh là một công trình kiến trúc tiêu biểu, đặc sắc, mang nhiều ỹ nghĩa về mặt
văn hoá, tôn giáo lẫn cả giá trị nghệ thuật, kiến trúc. Việc tìm hiểu kết cấu kiến trúc, biểu
tượng trang trí trong và bên ngoài Toà thánh chính là nhằm mục đích thể hiện rõ nội hàm và
ý nghĩa của nó thông qua các biểu tượng, Qua hành động đó, những giá trị nghệ thuật, cũng
như sự hoà hợp các luồng văn hoá khác nhau trên một nền tảng, dạng thức kiến trúc đã dần
được hé lộ một các rõ ràng, đặc sắc.
Toà thánh Cao Đài Tây Ninh được khởi công xây dựng trong thời kì mà văn hoá
Việt Nam diễn ra nhiều biến đổi to lớn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Văn hoá Việt Nam
truyền thống có sự giao lưu, tương tác với văn hoá Pháp, với nền văn minh phương Tây.
Công trình Toà thánh chính là nơi hội tụ những nét đẹp đặc trưng của các nền văn hoá
phương Đông lẫn phương Tây. Người Việt đã dung hợp được chúng, thể hiện những tinh

19
hoa nhất của sự hoà hợp ấy thông qua Toà thánh Cao Đài Tây Ninh nói chung. Chính sự
gặp gỡ, giao lưu văn hoá với bên ngoài vừa là thách thức, song nó cũng là điều kiện cần có
thể bản thân văn hoá nội sinh ở mỗi quốc gia có điều kiện trỗi dậy, bộc lộ những gì tốt đẹp
nhất và vươn lên, gặp gỡ các tôn giáo, tín ngưỡng khác. Đạo Cao Đài ra đời trong thời kì
mà nền lịch sử - văn hoá Việt Nam đang quá trình giao lưu ấy. Chúng ta hoàn toàn có thể
xem các vị Thánh tiêu biểu như Vương Quan Kì, Cao Huỳnh Cư, Cao Hoài Sang, v.v. là
những nhà lịch sử, văn hoá lớn, nắm sự hiểu biết, am tường lịch sử - văn hoá Việt Nam
truyền thống, tiếp nhận một cách có chọn lọc văn minh phương Tây đã thực hiện chức năng
tâm linh, nâng đỡ linh hồn con người trong thời kì binh đao biển lửa. Qua tìm hiểu và xem
trực tiếp công trình kiến trúc Toà thánh Cao Đài Tây Ninh, chúng ta lại càng thấy rõ hơn
tính dung hợp Đông – Tây, mà Phạm Công Tắc (Đức Hộ pháp) là một trong những “tổng
công trình sư”, là người có công lớn trong việc xây dựng một công trình kiến trúc tráng lệ,
trường tồn cùng với thời gian.
Về mặt kiến trúc
Đây là một công trình kiến trúc có tính thẩm mĩ cao, là sản phẩm của sự kết hợp
trong kiến trúc phương Tây (vật liệu, kết cấu hạ tầng, v.v.) với kiến trúc phương Đông
(phong thuỷ, các biểu tượng tôn giáo, v.v.). Toà thánh được xây dựng theo phong cách kiến
trúc Đông Dương, ra đời trong những thập niên đầu tiên của thế kỉ XX – một phong cách
kiến trúc lai hợp giữa Âu và Á, thích hợp với thổ nhưỡng khu vực này. Có thể khẳng định
rằng, Toà thánh Tây Ninh là một đại diện tiêu biểu, đóng góp vào sự thành hình các công
trình kiến trúc mang phong cách Đông Dương ở khu vực Nam bộ. Bên cạnh đó, kiến trúc
của Toà thánh còn để lại những dấu ấn lớn lên hệ thống các thánh thất thuộc các họ đạo rải
rác ở khắp các địa phương. Thánh thất là những cơ sở thờ tự phát sinh sau này, hiển nhiên
các thánh thất đã chịu sự ảnh hưởng sâu sắc từ kiến trúc ở Toà thánh. Các thánh thất nhìn
chung đều có đầy đủ ba đài với lầu chuồng và các lầu trống ở phía chính diện, còn lại trang
trí có phần rút gọn, giản đơn hơn so với Toà thánh.

20
KẾT LUẬN
1) Bước sang thế kỉ XIX, thế kỉ XX, sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân
phương Tây đã đặt Việt Nam vào những thách thức, không chỉ trên bình diện chính trị -
quân sự, mà còn cả ở trên bình diện văn hoá. Không ác liệt, đổ máu như mặt trận quân sự,
càng không xuất hiện chiến tranh tôn giáo, tín ngưỡng như thế giới phương Tây, người Việt
đã tiếp nhận, biến đổi những nét văn hoá ấy, trên nền tảng có sẵn là văn hoá bản địa, truyền
thống tốt đẹp của người Việt, văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ, v.v. Từ đó, họ đã sáng tạo nên
những điểm mới, những dòng tín ngưỡng, tôn giáo mới, mang đậm hơi thở văn hoá, vừa cổ
vũ, nâng đỡ tinh thần con người trong thời chiến, vừa điểm xuyết những nét đặc trưng văn
hoá trên bản đồ văn hoá khu vực và thế giới, thông qua hệ thống kinh điển, kiến trúc, v.v.
Trong bối cảnh ấy, Toà thánh Tây Ninh hiện lên với tất cả những gì đặc trưng nhất trong
quá trình tiếp biến văn hoá, là biểu tượng kiến trúc tôn giáo ở Việt Nam trong xuyên suốt
thế kỉ XX.
2) Thông qua việc tìm hiểu đề tài “SỰ HOÀ HỢP VĂN HOÁ TRONG KIẾN
TRÚC CỦA TOÀ THÁNH CAO ĐÀI TÂY NINH”, ta có thể kết luận rằng: thống nhất
trong đa dạng, mang đậm ý nghĩa, triết lý vũ trụ quan, nhân sinh qua của cả Đông – Tây -
Ta là một số đặc trưng quan trọng nhất khi nghiên cứu, tìm hiểu về sự hoà hợp độc đáo
trong trang trí kiến trúc ở khu vực Toà thánh. Công trình là sự kết hợp hài hoà giữa Phật
giáo – Nho giáo – Đạo giáo cũng như là tín ngưỡng dân gian, Kito giáo được biến hoá
thông qua các biểu tượng và kiến trúc bên trong đền thánh, không chỉ ở Hiệp Khí Đài, Cửu
Trùng đài, Bát Quái. Kiến trúc của Toà thánh thực sự tuân theo đúng tôn chỉ, tinh thần “tam
giáo quy nguyên – ngũ chi phục nhất”. Bên cạnh đó, không chỉ về mặt trang trí, chạm khắc,
đúc tượng, công trình Toà thánh còn có sự tiếp nhận thành tựu kiến trúc phương Tây trong
kĩ thuật xây , đều sử dụng nguyên vật liệu tốt nhất, tạo dựng một không gian bên trong Toà
thánh rộng lớn, vững chãi. Những điểm tốt trong xây dựng công trình tôn giáo phương
Đông cũng được áp dụng, tạo cho công trình sự phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu ở khu vực
Nam bộ. Trong sự kết hợp nhuần nhuyễn văn hoá kiến trúc Đông - , các giá trị văn hoá
truyền thống Việt Nam cũng luôn có vai trò quan trọng, làm nền tảng trong quá trình giao
lưu, tiếp biến văn hoá. Các quan điểm về văn hoá truyền thống Việt Nam luôn được chú ý
kết hợp vào trong công trình kiến trúc như đặc trưng rồng thời Nguyễn, tín ngưỡng phồn
thực “trời tròn đất vuông”, v.v. Chung quy lại, kiến trúc nơi Toà thánh đã tỏ rõ uy nghiêm
của nơi tổ đình cao nhất trong hệ thống Đạo Cao Đài.

21
3) Từ việc tìm hiểu về một công trình kiến trúc đặc biệt trong hệ thống di sản
lịch sử - văn hoá Việt Nam trong chuyến đi thực tế vừa qua, chúng tôi rút ra được một số
tâm đắc như sau: Thứ nhất, đó là bài học giao lưu, tiếp biến văn hoá trong mọi giai đoạn
lịch sử. Theo đó, đây luôn là một xu thế tất yếu đối với một quốc gia có vị trí địa – chính
trị, địa – văn hoá như Việt Nam và để thực hiện được điều đó một cách tốt nhất, tránh
những xung đột văn hoá – tôn giáo, tránh việc mất đi cơ hội học hỏi những điểm sáng trong
văn hoá bạn, người Việt luôn phải trong tâm thế sẵn sàng, đủ hiểu biết để chung sống với
nó. Thứ hai, đó là bài học về củng cố sự đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt
Nam, không phân biệt lương – giáo. Lịch sử Đạo Cao Đài đã ghi nhận những tấm gương
sáng, chiến đấu và hi sinh cho lý tưởng độc lập, thống nhất đất nước trong thế kỉ XX, qua
hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc; song chính trong lịch sử của Đạo cũng không
thiếu những lần bị kẻ thù thao túng, lợi dụng, hòng phá hoại khối đoàn kết toàn dân của
Việt Nam. Theo đó, ngày nay, chúng ta cần phải hiểu rõ Đạo Cao Đài để đưa ra các chính
sách phù hợp, nhằm giúp tín đồ Cao Đài hoà mình cùng với sự phát triển của quốc gia. Thứ
ba, đó là bài học về bảo tồn di tích, di sản quốc gia đối với Toà thánh Cao Đài Tây Ninh.
Toà thánh đã, đang bảo vệ được gần như là nguyên trạng di tích, với những nét đặc trưng
riêng biệt của nó bằng sự quan tâm, chăm sóc của các cấp chính quyền có liên quan, cũng
như là các chức sắc của Đạo. Vì vậy, việc nâng cao hơn nữa nhận thức phải tiếp tục duy trì
công tác bảo tồn, nâng cao ý thức bảo vệ nguyên trạng di tích cũng như là tăng cường các
hoạt động quảng bá du lịch chính là các biện pháp hữu hiệu nhất để giúp cho hình ảnh của
Toà thánh Cao Đài Tây Ninh – một công trình vừa mang giá trị tôn giáo, vừa mang giá trị
lịch sử - văn hoá ngày càng trở nên giá trị, phổ biến trên bản đồ du lịch Việt Nam và thế
giới.
4) Thông qua chuyến thực tập chuyên ngành số 1 – chuyến thực tế đến miền
biên viễn Tây Ninh này, chúng tôi – nhóm sinh viên chuyên ngành Lịch sử Việt Nam đã có
nhiều trải nghiệm nhiều thú vị. Về mặt kiến thức, chuyến đi đã giúp chúng tôi được mục sở
thị những di sản của tiền nhân mà trước đây chỉ có thể biết được qua trang sách và con chữ.
Không chỉ là Toà thánh Cao Đài Tây Ninh – công trình liên quan trực tiếp đến đề tài thu
hoạch, mà còn là các di tích, di sản như Căn cứ Trung ương cục Miền Nam, Tháp cổ Bình
Thạnh, v.v. Về mặt tình cảm, chuyến đi ấy đã giúp chúng tôi – những sinh viên khoa Lịch
sử thêm gắn kết với nhau, củng cố sự đoàn kết giữa các chuyên ngành, với chính những
người thầy đồng hành cùng chúng tôi trải qua những tháng năm đại học vô cùng ý nghĩa.
Không những thế, từ chuyến đi này, chúng tôi đã có dịp mắt thấy, tai nghe, chứng kiến cảnh

22
núi sông hùng vĩ nơi biên viễn, khơi dậy nơi chúng tôi một xúc cảm lâng lâng đến khó tả.
Điều đó khiến chúng tôi thêm yêu quê hương, Tổ quốc, càng cảm thấy trân trọng các bậc
tiền nhân đi trước, thấy được trách nhiệm to lớn của một công dân Việt Nam với đất nước,
của một sinh viên khoa Sử - những người cầm bút sẽ ghi nhận, phản ánh trung thực quá khứ
đến cho thế hệ tương lai. Từ tất cả những điều vừa nêu trên, chúng tôi thấy rằng, đây quả
thực là một hành trình thú vị - đi để nhớ, đi để trở về.

23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trần Lê Thùy Dương (2018). Sự dung hợp văn hóa trong đạo Cao Đài qua
công trình kiến trúc Tòa Thánh Tây Ninh. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn - ĐHQG HCM.
2) Ban Tôn giáo Chính phủ. Giới thiệu đạo Cao Đài ở Việt Nam. Truy
suất từ: < http://btgcp.gov.vn/gioi-thieu-cac-to-chuc-ton-giao-da-duoc-cong-nhan/
gioi-thieu-dao-cao-dai-o-viet-nam-postX4Jb5X4o.html >
3) Trần Văn Giàu (1993). Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ XIX
đến Cách mạng tháng Tám Tập 2: Hệ ý thức Tư Sản và sự bất lực của nó trước nhiệm vụ
lịch sử. Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
4) Phạm Thanh Hằng. Cơ sở hình thành và phát triển của đạo Cao Đài tại Việt
Nam. Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 & 4, 2017.
5) Huệ Khải (2008), “Đất Nam Kỳ tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài”, Nghiên
cứu Tôn giáo, số 10.
6) Huỳnh Minh (2001). Tây Ninh xưa. Nxb. Thanh niên.
7) Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1995), Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
8) Một số bản ghi tay nội dung phỏng vấn chức sắc tại Toà thánh Cao Đài Tây
Ninh.
9) Hiền tài Nguyễn Văn Hồng, Giới thiệu Tây Ninh Tòa Thánh, Đại đạo Tam
Kỳ Phổ độ, 2011.

24
Hình ảnh toàn cảnh khuôn viên Toà thánh Cao Đài Tây Ninh

25
Hình ảnh bức tranh vẽ Tam thánh kí Thiên Nhơn hoà ước ở Tịnh Tâm điện

26
Hình ảnh Cửu Trùng đài trong Toà thánh Cao Đài Tây Ninh

27

You might also like