You are on page 1of 138

Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

PHẦN MỞ ĐẦU
Giới thiệu khái quát về học phần Luật Hình sự 1:
Học phần Luật hình sự 1 gồm những nội dung cơ bản của khoa học Luật hình sự, bao gồm:
Khái niệm luật hình sự và các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam; Nguồn của luật hình
sự Việt Nam; Tội phạm; Cấu thành tội phạm; Khách thể của tội phạm; Mặt khách quan của
tội phạm; Chủ thể của tội phạm; Mặt chủ quan của tội phạm; Các giai đoạn thực hiện tội
phạm; Đồng phạm; Các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi; Trách
nhiệm hình sự và hình phạt; Hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp; Quyết định hình
phạt; Các chế định liên quan đến việc chấp hành hình phạt; Trách nhiệm hình sự của người
chưa thành niên phạm tội; Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.
Mục tiêu của học phần Luật Hình sự 1:
 Phân tích được các quy định chung về tội phạm và hình phạt, bao gồm: khái niệm,
dấu hiệu và phân loại tội phạm; cấu thành tội phạm; các giai đoạn thực hiện tội phạm;
đồng phạm; hình phạt và quyết định hình phạt
 Vận dụng các quy định chung về tội phạm và hình phạt để phân tích, giải thích, đánh
giá các vụ án xảy ra trên thực tế; đảm bảo đúng người đúng tội; hướng tới việc bảo vệ
lẽ phải, sự công bằng và thượng tôn pháp luật
 Làm việc nhóm, chịu trách nhiệm cá nhân và chịu trách nhiệm đối với nhóm trong
công việc thực tiễn nghề luật

Chuẩn đầu ra của học phần Luật Hình sự 1:


Sau khi học xong học phần này, sinh viên phải:
 Phân tích được các quy định chung về tội phạm, bao gồm: Các nguyên tắc của Luật
Hình sự, khái niệm, dấu hiệu và phân loại tội phạm; cấu thành tội phạm; các giai đoạn
thực hiện tội phạm; đồng phạm; những trường hợp loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi.
 Phân tích được các quy định chung về hình phạt, bao gồm: khái niệm, đặc điểm của
hình phạt, hệ thống hình phạt và quyết định hình phạt, hệ thống các biện pháp tư
pháp, trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên, trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân thương mại.
 Hình thành năng lực phân tích, đánh giá các quan hệ pháp luật hình sự phát sinh trên
thực tế.
 Áp dụng lý luận về khoa học hình sự để xác định, phân tích, đánh giá các vi phạm
pháp luật hình sự.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 1


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

 Áp dụng các quy định chung của Luật Hình sự để phân tích, xác định trách nhiệm
hình sự đối với chủ thể phạm tội, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng của mọi chủ thể
trước pháp luật.
 Giải thích và hướng dẫn người khác xác định được quan hệ pháp luật hình sự, vi
phạm hình sự, trách nhiệm pháp lý hình sự.
 Thực hiện và hướng dẫn người khác tuân thủ qui định của pháp luật hình sự

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 2


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

CHƯƠNG 1

KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT HÌNH SỰ

1.1 Khái niệm Luật hình sự

1.1.1 Định nghĩa Luật hình sự

Có nhiều cách tiếp cận khi nghiên cứu khái niệm Luật hình sự, tuy nhiên theo cách
tiếp cận truyền thống và phổ biến trong khoa học pháp lý thì Luật hình sự được hiểu
là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, xác định những hành
vi bị coi là tội phạm và quy định hình phạt đối với tội phạm.

Nói cách khác, Luật hình sự là ngành luật quy định về tội phạm và hình phạt.

Từ định nghĩa trên rút ra:

- Luật hình sự là một ngành luật độc lập có đối tượng điều chỉnh và phương
pháp điều chỉnh riêng.

- Các quy phạm pháp luật hình sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện.

- Luật hình sự xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm.

Các quy phạm Luật hình sự được chia thành hai nhóm: Nhóm các quy phạm
pháp luật quy định mang tính nguyên tắc, nhiệm vụ và những vấn đề chung về tội
phạm, hình phạt (Phần chung) và nhóm các quy phạm pháp luật quy định dấu hiệu
pháp lý của một tội phạm cụ thể, loại, mức hình phạt áp dụng (Phần các tội phạm).
Các quy phạm này có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất trong
BLHS.

1.1.2 Đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự

Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là quan hệ xã hội, những quan hệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh gọi là quan hệ pháp luật. Mỗi ngành luật có đối tượng và
phương pháp điều chỉnh riêng phù hợp với đặc điểm của ngành luật đó.

Đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà
nước và người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội khi người, pháp nhân thương
mại này thực hiện một hành vi bị coi là tội phạm. Các quan hệ xã hội này được gọi
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 3
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

là quan hệ pháp luật hình sự. Chủ thể của các quan hệ pháp luật hình sự gồm Nhà
nước, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Quyền và nghĩa vụ cuuar các bên
tham gia quan hệ pháp luật hình sự được pháp luật quy định. Nhà nước có quyền
buộc người, pháp nhân thương mại phạm tội chịu TNHS về hành vi phạm tội mà họ
gây ra trên cơ sở quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Nhà nước phải đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của người, pháp nhân thương mại phạm tội. Người, pháp nhân
thương mại phạm tội phải chấp hành hình phạt và các biện pháp tư pháp do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền áp dụng, đồng thời thực hiện quyền yêu cầu các cơ quan
Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

1.1.3 Phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự

Phương pháp điều chỉnh là cách thức mà pháp luật tác động đến quan hệ xã hội.

Phương pháp điều chỉnh của ngành Luật hình sự là phương pháp quyền uy.
Đó là phương pháp sử dụng quyền lực Nhà nước trong việc điều chỉnh quan hệ pháp
luật hình sự giữa Nhà nước và người hoặc pháp nhâm thương mại phạm tội.

Nội dung:

- Nhà nước có quyền buộc người, pháp nhân thương mại phạm tôi phải chịu
TNHS về tội phạm mà họ đã gây ra bằng việc sử dụng quyền lực Nhà nước.

- Nhà nước có quyền áp dụng chế tài hình sự đối với người, pháp nhân thương
mại phạm tội mà không chịu bất kỳ sự cản trở nào.

- Người, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm trực tiếp với
Nhà nước về tội phạm đã gây ra, phải chấp hành hình phạt mà Nhà nước áp dụng
đối với mình; đồng thời không có quyền từ chối, ủy thác hay chuyển giao TNHS của
mình cho người khác; không có quyền thỏa thuận với Nhà nước về TNHS của mình.

1.2 Các nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự

Nguyên tắc của Luật hình sự là những tư tưởng chỉ đạo quá trình xây dựng và áp
dụng Luật hình sự. Đó là những nguyên tắc được xây dựng trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật. Những nguyên tắc đó là: Nguyên tắc pháp chế; Nguyên tắc
dân chủ; Nguyên tắc nhân đạo; Nguyên tắc kết hợp hài hòa chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần quốc tế vô sản.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 4


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

1.2.1 Nguyên tắc pháp chế

Nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc quan trọng của LHS. Nói đến pháp chế tức là nói
đến sự triệt để tuân theo pháp luật từ phía Nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân.

Nội dung nguyên tắc:

- Trong hoạt động lập pháp: Đối với cơ quan lập pháp, nguyên tắc pháp chế
được thể hiện việc quy định tội mới, sửa đổi, bổ sung tội phạm hay hủy bỏ tội phạm
nhất định phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Những hành vi bị
coi là tội phạm và phải chịu hình phạt phải được Luật hình sự quy định.

- Trong áp dụng pháp luật: Yêu cầu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng là
phải điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng pháp nhân thương mại, đúng tội;
không bỏ lọt hành vi phạm tội và không được làm oan người, pháp nhân thương mại
vô tội. Hình phạt mà tòa án tuyên con người, pháp nhân thương mại phạm tội phải
phù hợp với các quy định trong Luật hình sự. Phải đảm bảo sự chính xác và thống
nhất trong việc áp dụng Luật hình sự, trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm.

1.2.2 Nguyên tắc dân chủ

Dân chủ là sự làm chủ của nhân dân, trong quá trình quản lý xã hội người dân được
tham gia rộng rãi. Trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc dân chủ có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn hết sức quan trọng. Cùng với nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc này
góp phần phát huy hiệu quả của Luật hình sự trong đấu tranh, phòng chống tội
phạm.

Nội dung của nguyên tắc:

- Luật hình sự bảo vệ và tôn trọng các quyền dân chủ của công dân, kiên quyết
xử lí các hành vi xâm phạm quyền dân chủ công dân. Quyền lợi của công dân đề
được bảo vệ như nhau, không phân biệt nòi giống, dân tộc, thành phần xuất thân, địa
vị xã hội, tình trạng tài sản..

- Luật hình sự không phân biệt đối xử, không quy định những đặc quyền, đặc
lợi riêng cho tầng lớp công dân nào đó vì địa vị xã hội hoặc vì tình trạng tài sản của
họ.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 5


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Luật hình sự không phân biệt đối xử với pháp nhân thương mại: “Mọi pháp
nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức
sở hữu và thành phần kinh tế” (khoản 2 Điều 3)

- Luật hình sự bảo đảm cho nhân dân tự mình hay thông qua các tổ chức xã hội
tham gia vào việc xây dựng và áp dụng luật hình sự, phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm.

Khi nói đến nguyên tắc dân chủ, không thể không nói đến mặt thứ hai của nó,
đó là mặt chuyên chính. Theo quan điểm của Luật hình sự Việt Nam chuyên chính
với người, pháp nhân thương mại phạm tội không có nghĩa là xử nặng hay quy về
hình sự mọi sự vi phạm pháp luật. Mặt chuyên chính của nguyên tắc này thể hiện:

- Xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước, cho
xã hội và cho cá nhân;

- Luật hình sự chuyên chính với kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, với các phần tử phạm tội có tổ chức có hệ thống, không chịu cải tạo để trở
thành công dân có ích cho xã hội. Đồng thời khoan hồng đối với người, pháp nhân
thương mại phạm tội, phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt,…

1.2.3 Nguyên tắc nhân đạo

Trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc nhân đạo luôn luôn được thể hiện rõ nét
trong chính sách hình sự của Nhà nước.

Nội dung nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự thể hiện ở chính sách
khoan hồng của nhà nước trong xử lý tội phạm, đó là: “Khoan hồng đối với người tự
thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối
cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra…”; “khoan hồng đối với
pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án…” (Điều 3 BLHS) hay thông qua các quy định về hiệu lực theo
thời gian của BLHS. Ngoài ra, nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện rõ nét ở phần hình
phạt như:

- Việc áp dụng hình phạt phải quán triệt tư tưởng là điều kiện cần thiết cho sự
giáo dục, cải tạo chứ không phải sự trả thù.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 6


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế phải quán triệt tính nhân văn, đạo lý
dân tộc. Vận dụng những quy định của pháp luật có lợi cho bị can, bị cáo nhất là
người dưới 18 tuổi, người già, phụ nữ có thai và những người, pháp nhân thương
mại được hưởng khoan hồng.

- Trong hệ thống hình phạt có nhiều hình phạt không tước tự do như cảnh cáo,
cải tạo không giam giữ, phạt tiền,…

- Một số hình phạt nghiêm khắc như chung thân, tử hình chỉ áp dụng trong
những trường hợp đặc biệt và phạm vi áp dụng cũng có giới hạn nhất định như
không áp dụng hai hình phạt này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, không áp
dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử…

- Việc áp dụng hình phạt tạo điều kiện cho người phạm tội lao động, học tập để
trở thành người có ích cho xã hội và thực hiện các quyền mà pháp luật không cấm…

1.2.4 Nguyên tắc kết hợp hài hòa tinh thần yêu nước và hợp tác quốc tế

Chủ nghĩa yêu nước bao giờ cũng là nền tảng và cơ sở của tinh thần quốc tế vô sản.
Dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản gắn
bó mật thiết với nhau. Nguyên tắc này xuất phát từ chính sách đối ngoại của Nhà
nước ta.

Nội dung nguyên tắc kết hợp hài hòa tinh thần yêu nước và hợp tác quốc tế
thể hiện:

- Luật hình sự Việt Nam trừng trị các hành vi phá hoại hòa bình, gây chiến
tranh xâm lược, chống loài người và can thiệp vào công việc nội bộ ủa nước khác;

- Luật hình sự Việt Nam ghi nhận và đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế
trong cuộc đấu tranh chống các hành vi gây chiến tranh, chống các tội ác diệt chủng
như các tội phạm khác có tính quốc tế.

Tóm tắt chương

1. Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống phap luật Việt Nam, bao gồm
hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, xác

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 7


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

định những hành vi bị coi là tội phạm và quy định hình phạt đối với tội phạm. Luật
hình sự có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà
nước với người, pháp nhân thương mại phạm tội khi có tội phạm xảy ra.
3. Phương pháp điều chỉnh của ngành luật hình sự là phương pháp quyền uy.
4. Các nguyên tác cơ bản của Luật hình sự chính là những tư tưởng chỉ đạo toàn
bộ quá trình xây dựng và áp dụng các quy định của luật hình sự vào đấu tranh chốn
tội phạm. Những nguyên tắc đó là: Nguyên tắc pháp chế; Nguyên tắc dân chủ;
Nguyên tắc nhân đạo; Nguyên tắc kết hợp hài hòa tình yêu nước và hợp tác quốc tế.
Câu hỏi ôn tập
I. Câu hỏi tự luận
1. Luật hình sự là gì? Chứng minh Luật hình sự là ngành luật độc lập trong hệ
thống pháp luật Việt Nam?
2. Trình bày đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự?
3. Quan hệ pháp luật hình sự là gì? Cho ví dụ.
4. Trình bày nội dung của phương pháp quyền uy trong Luật hình sự?
5. Hiểu thế nào là nguyên tắc cơ bản? Luật hình sự có những nguyên tắc cơ bản
nào?
6. Phân tích nguyên tắc pháp chế trong Luật hình sự?
7. Phân tích nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự?
II. Câu hỏi trắc nghiệm
Những nhận định sau đúng hay sai? Giải thích ngắn gọn vì sao?
1. Luật hình sự có đối tượng điều chỉnh giống với Luật dân sự;
2. Quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ giữa nhà nước với người, pháp nhân
thương mại phạm tội khi có tội phạm xảy ra;
3. Quán triệt nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự tức là luôn khoan hồng với
người, pháp nhân thương mại phạm tội;
4. Không thống nhất trong áp dụng pháp luật hình sự là biểu hiện của sự vi phạm
nguyên tắc pháp chế;
5. Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ tất cả các quan hệ trong xã hội;
6. Không để lọt tội phạm, không làm oan người, pháp nhân thương mại vô tội là
yêu cầu của nguyên tắc pháp chế;
7. Người, pháp nhân thương mại phạm tội luôn phải chịu TNHS trước Nhà nước
do hành vi của chính mình gây ra.
III. Câu hỏi tình huống
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 8
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

1. A là sinh viên của trường Đại học X trên địa bàn thành phố Hà Nội. Do ở
cùng phòng nội trú với B nên giữa A và B thường xuyên có mâu thuẫn. Ngày
2/5/2008 tại giờ giải lao giữa buổi học, trong lúc cãi nhau, A lao vào đấm đá B dẫn
đến thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 30%. B phải vào bệnh viện điều trị 15
ngày với chi phí là 5.300.000đ.
Hỏi: Những quan hệ pháp luật nào phát sinh sau khi A thực hiện hành vi? Chỉ
ra sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự?
2. A đi làm về gặp B đang quan hệ bất chính với vợ ngay tại nhà mình nên đã
không tự chủ được cầm dao đâm B hai nhát vào trúng tim B làm B chết. Vợ và gia
đình của A đã tới gặp gia đình B thỏa thuận làm đơn yêu cầu cơ quan công an không
xử lý A. Hỏi: Cơ quan công an có chấp nhận yêu cầu này không? Tại sao?

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 9


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

CHƯƠNG 2

KHÁI NIỆM, CẤU TẠO VÀ HIỆU LỰC CỦA


ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

2.1 Khái niệm đạo luật hình sự


Đạo luật hình sự là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành quy định về
tội phạm và hình phạt. Đạo luật hình sự chính là sự thể hiện ý chí của Nhà nước, của
nhân dân đối với tội phạm. Đạo luật hình sự được coi là nguồn của Luật hình sự Việt
Nam

Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, theo quy định của Hiến pháp, một số
văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật (như sắc lệnh, sắc luật…) có giá trị pháp
lý ngang luật. Loại văn bản này cũng được coi là đạo luật.
Với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao, Quốc hội được Hiến pháp
trao cho những quyền hạn đặc biệt. Về lập pháp, Quốc hội có quyền làm Hiến pháp
và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật.
Trước năm 1985 các pháp lệnh quy định về tội phạm và hình phạt (ví dụ Pháp
lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967) được coi là đạo luật hình sự.
Từ khi Nhà nước ta ban hành BLHSA đầu tiên năm 1985, đến BLHS năm 1999,
BLHS 2015, đạo luật hình sự thể hiện là BLHS hoặc các Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLHS.
Như vậy, trong Luật hình sự Việt Nam, khái niệm đạo luật hình sự được sử
dụng để chỉ hoặc BLHS hoàn chỉnh (BLHS năm 1985, BLHS năm 1999, BLHS
2015) hoặc văn bản luật đơn hành về tội phạm trong lĩnh vực nhất định.
Đạo luật hình sự luôn luôn chứa đựng các quy phạm pháp luật hình sự, quy
phạm pháp luật hình sự được phân chia làm hai loại:
- Loại thứ nhất gồm những quy phạm quy định các vấn đề chung cho việc xác
định tội phạm và hình phạt.
- Loại thứ hai gồm những quy phạm quy định các tội phạm cụ thể và các hình
phạt được áp dụng với người (hoặc pháp nhân thương mại – BLHS 2015) phạm tội.
2.2 Cấu tạo đạo luật hình sự
2.2.1 Cấu tạo của Bộ luật hình sự
BLHS 2015 được cấu tạo gồm 3 phần, 26 chương với 426 điều, được cấu tạo thành
hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 10


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

*Phần thứ nhất: Những quy định chung. Gồm 12 chương, từ Điều 1 đến Điều
107. Nội dung của Phần chung gồm các điều khoản quy định những vấn đề chung
của Luật hình sự, đó là:
+ Nhiệm vụ của Luật hình sự;
+ Cơ sở của TNHS;
+ Nguyên tắc xử lý;
+ Hiệu lực của BLHS;
+ Thời hiệu truy cứu TNHS, miễn TNHS;
+ Hệ thống hình phạt;
+ Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội;
+ Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội;
+ Các khái niệm.
*Phần thứ hai: Các tội phạm. Gồm 14 chương, từ Điều 108 đến Điều 425 quy
định về các tội phạm cụ thể. Các tội phạm trong phần này gồm 14 nhóm được quy
định trong 14 chương. Việc phân loại các tội phạm theo từng chương chủ yếu dựa
vào khách thể loại của tội phạm.
Việc phân chia sắp xếp từng tội cụ thể vào chương nào phụ thuộc vào quan
điểm lập pháp ở từng quốc gia trong từng thời kỳ. Ví dụ: Trong BLHS 1985 của
nước ta các tội quy định tại mục B chương I phần các tội phạm như xuất cảnh trái
phép, buôn lậu, v.v… được coi là loại tội xâm phạm an ninh quốc gia nhưng đến
BLHS 1999, BLHS 2015 không coi các tội này là loại tội xâm phạm an ninh quốc
gia.
Thông thường một điều luật quy định một loại tội; tuy vậy có khi một điều
luật quy định nhiều tội.
- Một điều luật quy định về một loại tội phạm có thể được chia làm nhiều
khoản và thông thường mỗi khoản tương ứng với một loại cấu thành tội phạm theo
quy định tại Điều 9 BLHS. Ví dụ tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 BLHS
có 4 khoản quy định 4 khung hình phạt. Khung 1 (mức hình phạt cao nhất đến 3 năm
tù) là tội phạm ít nghiêm trọng; khung 2 (mức hình phạt cao nhất đến 7 năm tù) là
tội phạm nghiêm trọng; khung 3 (mức hình phạt cao nhất đến 20 năm) là tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
- Trong các khoản có thể có các điểm (Ví dụ: điểm e khoản 1 Điều 123)
*Phần thứ 3: Điều khoản thi hành.
2.2.2 Cấu tạo của quy phạm pháp luật hình sự

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 11


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Điều luật là hình thức bên ngoài của pháp luật còn quy phạm là hình thức bên trong
của pháp luật. Thông thường một quy phạm pháp luật bao gồm ba bộ phận là giả
định, quy định và chế tài.
- Giả định trong quy phạm pháp luật hình sự là “giả định ẩn”. Sở dĩ giả định
không được nêu vì nếu trong tất cả các quy phạm đều nêu giả định thì sẽ trùng lắp.
- Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu ra quy tắc xử sự. Trong
BLHS 2015 bộ phận quy định của quy phạm pháp luật thể hiện ở ba loại:
 + Quy định giản đơn: Là loại quy định chỉ nêu tên hành vi (tên tội phạm);
không nêu cụ thể, mô tả các dấu hiệu của tội phạm. Ví dụ: Người nào công nhiên
chiếm đoạt tài sản… (Điều 172); Người nào trộm cắp tài sản… (Điều 173) v.v…
 Quy định mô tả: Là loại quy định nêu ra, mô tả các dấu hiệu đặc trưng của tội
phạm. Ví dụ: Người nào đối xử tán ác, thường xuyên sc hiếp, ngược đãi hoặc làm
nhục người lệ thuộc mình là người đó tự sát… (Điều 130); người nào đe dọa sẽ dùng
vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác… (Điều 170), v.v…
 Quy định viện dẫn: Là loại quy định nêu ra dấu hiệu đặc trưng của tội phạm
nhưng để xác định được dấu hiệu đó thì phải căn cứ vào quy định khác (viện dẫn
quy phạm khác). Ví dụ:Quy định trong tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay tại
Điều 277 là “Người nào chỉ huy, điều khiển tàu bay mà vi phạm các quy định về an
toàn giao thông đường không, có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho
tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác…” là quy định viện dẫn vì để xem
xét can phạm có phạm tội này hay không lại phải viện dẫn các quy định về an toàn
giao thông đường không.
- Chế tài là biện pháp xử lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Chế tài trong
quy phạm pháp luật hình sự là hình phạt, gồm hai loại:
 Chế tài tương đối dứt khoát: Là loại chế tài trong đó hình phạt được luật quy
định mức tối thiểu và mức tối đa. Tòa án dựa vào căn cứ quyết định hình phạt quy
định tại Điều 50 BLHS để áp dụng hình phạt hợp lý, nhưng không được quá mức tối
đa. Ví dụ: Hình phạt được quy định trong khoản 2 của Tội gián điệp (Điêỳ 110
BLHS) từ 5 năm đến 15 năm là chế tài tương đối dứt khoát.
 Chế tài lựa chọn: Là loại chế tài trong đó luật quy định nhiều loại hình phạt
khác nhau có thể được áp dụng đối với một tội phạm. Tòa án được phép lựa chọn
một trong các hình phạt đó để áp dụng với bị cáo. Ví dụ: Hình phạt đối với tội khai
báo gian dối quy định tại khung 1 Điều 382 BLHS gồm ba loại: Cảnh cáo; cải tạo

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 12


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

không giam giữ đến 1 năm hoặc tù từ 3 tháng đến 1 năm. Tòa án được phép lựa
chọn một trong ba loại hình phạt trên tùy thuộc vào các tình tiết của từng vụ án.
2.3 Hiệu lực của đạo luật hình sự
Hiệu lực của một văn bản quy phạm pháp luật nói chung được thể hiện ở ba khía
cạnh: Hiệu lực theo không gian, hiệu lực theo thời gian và hiệu lực theo đối tượng
tác động.
Thông thường hiệu lực của đạo luật hình sự được quy định cụ thể trong đạo
luật đó. Trong BLHS 2015, hiệu lực được quy định tại Chương II. Về phương diện
kỹ thuật lập pháp, Bộ luật đã lấy phạm vi lãnh thổ làm tiêu chí chủ yếu để phân loại
và quy định hiệu lực theo đối tượng tác động vào cùng với hiệu lực theo không gian.
2.3.1 Hiệu lực của đạo luật hình sự theo không gian (Điều 5, 6 BLHS)
Hiệu lực của đạo luật hình sự theo không gian là phạm vi áp dụng của luật đó đối
với hành vi phạm tội thực hiện trong không gian nhất định và đối với một số người,
pháp nhân thương mại nhất định.
- Hiệu lực của BLHS đối với hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ VN:
 Khoản 1 Điều 5 BLHS quy định: “BLHS được áp dụng đối với mọi hành vi
phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như
vậy theo nguyên tắc lãnh thổ, BLHS Việt Nam có hiệu lực tuyệt đối với mọi hành vi
phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam dù người thực hiện tội phạm là
công dân Việt Nam, người nước ngoài hay là người không có quốc tịch. Quy định
này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội
xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh
tế, thềm lục địa của Việt Nam.
 Nguyên tắc lãnh thổ có biệt lệ đối với người nước ngoài được hưởng quyền
đặc miễn tư pháp theo luật quốc tế. Nếu những người này phạm tội tại Việt Nam thì
vấn đề TNHS của họ được giải quyết theo quy định của Điều ước quốc tế, theo tập
quán quốc tế hoặc bằng con đường ngoại giao với chính phủ nước họ.
Khoản 2 Điều 5 BLHS quy định: “Đối với người nước ngoài phạm tội trên
lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng hưởng quyền
miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế
mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế,
thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước
quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 13


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết
bằng con đường ngoại giao.”
- Hiệu lực của BLHS đối với hành vi phạm tội thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt
Nam:
Đối với những hành vi phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, Luật hình sự có
những quy định riêng biệt tại Điều 6 BLHS như sau:
 Đối với những trường hợp người Việt Nam, pháp nhân thương mại Việt Nam
phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy tố TNHS tại Việt Nam theo Bộ luật
này. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc quốc tịch, công dân Việt Nam, pháp nhân
Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam lúc ở trong nước cũng như khi ở nước
ngoài.
 Đối với những người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam, phạm tội ở
nước ngoài thì về nguyên tắc họ vẫn bị xử lý theo luật hình sự Việt Nam.
 Người nước ngoài (người mang quốc tịch nước khác), pháp nhân thương mại
nước ngoài phạm tội đã được quy định trong hiệp định quốc tế mà Việt Nam ký kết
hay công nhận, có thể bị truy cứu TNHS theo Luật hình sự Việt Nam trong trường
hợp hành vi phạm tội xâm hại lợi ích của nhà nước Việt Nam hoặc theo quy định
của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
 Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu
bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc giới hạn vùng
trời nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam, thì người phạm tội có thể truy cứu TNHS theo
Luật hình sự Việt Nam trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên có quy định.
Phù hợp với quy định nêu trên, BLHS Việt Nam hiện nay đã quy định về các
tội phạm ở các điều 421, 422, 423, 424, 425 BLHS.
2.3.2 Hiệu lực của đạo luật hình sự theo thời gian
Hiệu lực của đạo LHS theo thời gian là hiệu lực của đạo luật đó được áp dụng đối
với hành vi phạm tội thực hiện trong thời gian đạo luật đó đang có hiệu lực thi hành.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật hình sự, hiệu lực theo thời gian được xác
định cụ thể trong văn bản.
- Thời điểm phát sinh hiệu lực: Trong BLHS 1985, BLHS 1999 và BLHS
2015 thời điểm có hiệu lực được xác định cụ thể bằng Nghị quyết của Quốc hội.
BLHS 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015; Chủ tịch nước công bố
ngày 9/12/2015. Ngày 27/11/2015 Quốc hội thông qua Nghị quyết số

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 14


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

109/2015/QH13, trong đó xác định cụ thể ngày có hiệu lực của BLHS 2015 là từ lúc
0 giờ ngày 1/7/2016.
- Thời điểm chấm dứt hiệu lực: Về nguyên tắc, BLHS hoặc những quy định
cụ thể của BLHS sẽ chấm dứt hiệu lực khi bị đạo luật hình sự khác thay thế. Khi
BLHS 2015 có hiệu lực thì các quy định trong BLHS 1999 hết hiệu lực.
Trong trường hợp chỉ có một số quy định bị thay thế thì quy định bị thay thế
sẽ chấm dứt hiệu lực khi đạo luật hình sự thay thế bắt đầu có hiệu lực.
- Hiệu lực hồi tố: Hiệu lực hồi tố của đạo luật hình sự được hiểu là đạo luật
hình sự có hiệu lực với cả những hành vi phạm tội đã xảy ra trước khi đạo luật hình
sự có hiệu lực thi hành.
 Theo Luật hình sự Việt Nam, về nguyên tắc BLHS chỉ có hiệu lực đối với
những hành vi phạm tội xảy ra khi bộ luật đang có hiệu lực thi hành (khoản 1 Điều 7
BLHS).
 Khẳng định nội dung này, khoản 2 Điều 7 nhấn mạnh: “Điều luật quy định
một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới, hoặc hạn
chế phạm vi áp dụng án treo, miễn TNHS, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án
tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng
đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
Thông thường, đạo luật hình sự chỉ có thể được áp dụng đối với tội phạm
xảy ra sau khi đạo luật đó có hiệu lực thi hành và trước khi đạo lực đó mất hiệu lực.
Luật hình sự Việt Nam hiện nay về nguyên tắc không có hiệu lực hồi tố. Nếu hành
vi của con người xảy ra trước khi có luật thì không thể áp dụng đạo luật đó để buộc
họ chịu TNHS.
 Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, khoản 3 Điều 7 BLHS quy định
được hồi tố trong trường hợp áp dụng mà có lợi ích cho người phạm tội như điều
luật xóa bỏ tội phạm hoặc giảm nhẹ hình phạt… cho người phạm tội thì cần áp dụng
văn bản mới để xử lý những hành vi xảy ra trước khi văn bản ấy có hiệu lực thi
hành, vì khi luật được xác định tính nguy hiểm của hành vi đã mất đi hoặc giảm bớt
thì việc trừng trị như trước không còn cần thiết.
Nguyên tắc chung để xác định những quy định của đạo luật được áp dụng
hiệu lực hồi tố là nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc có lợi cho người phạm tội. Theo
tinh thần quy định trong khoản 2 và khoản 3 Điều 7 BLHS thì những quy định
không có lợi cho người phạm tội không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã
được thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành. Những quy định cụ thể về

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 15


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

áp dụng hiệu lực hồi tố đã được ghi rõ trong Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày
27/11/2015 của Quốc hội.
2.4 Giải thich đạo luật hình sự
Giải thích đạo luật hình sự là làm sáng tỏ một cách chính xác nội dung và ý nghĩa
các điều luật. Giải thích đạo luật hình sự là một trong những giai đoạn của quá trình
áp dụng pháp luật hình sự.
Căn cứ vào nguồn gốc và giá trị của sự giải thích, có thể phân thành các cách
giải thích đạo luật hình sự như sau:
2.4.1 Giải thích chính thức
Giải thích chính thức là giải thích của cơ quan Nhà nước được luật giao cho tiến
hành. Theo Hiếp pháp năm 2013, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền giải thích
luật. Sự giải thích của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có tính chất bắt buộc đối với tất
cả các cơ quan Nhà nước và mọi công dân.
2.4.2 Giải thích của cơ quan xét xử
Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao có thẩm quyền: “Hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp
luật…”. Như vậy sự giải thích luật của Tòa án nhân dân tối cao là bắt buộc đối với
các tòa án cấp dưới.
Tòa án nhân dân tối cao cũng như các tòa án nhân dân các cấp khi xét xử các
vụ án cụ thể có trách nhiệm giải thích luật. Sự giải thích luật của tòa án khi xét xử vụ
án cụ thể có giá trị bắt buộc trong phạm vi hiệu lực của bản án. Sự giải thích luật của
Tòa án nhân dân tối cao có ý nghĩa quan trọng đặc biệt vì đã được ghi trong luật.
2.4.3 Giải thích có tính chất khoa học
Đây là sự giải thích của luật gia, cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ làm công tác
thực tiễn v.v… được thể hiện trong các bài báo, báo cáo làm khoa học, sách, giáo
trình… Sự giải thích này không có giá trị bắt buộc nhưng có ý nghĩa quan trọng
trong việc nâng cao kiến thức của cán bộ tư pháp, trong việc hoàn thiện luật hình sự,
tổng kết thực tiễn…
Ngoài cách phân chia như trên, khoa học luật hình sự còn phân biệt: Giải
thích theo văn phạm; giải thích theo lịch sử, giải thích theo hệ thống…
Tóm tắt chương
1. Đạo luật hình sự là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành quy
định về tội phạm và hình phạt. Trong luật hình sự Việt Nam, khái niệm đạo luật hình
sự được sử dụng để chỉ hoặc BLHS hoàn chỉnh (BLHS năm 1985, BLHS năm 1999,
BLHS 2015) hoặc văn bản luật đơn hành về tội phạm trong lĩnh vực nhất định.
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 16
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

2. BLHS 2015 được cấu tạo gồm 26 chương với 426 điều, được cấu tạo thành ba
phần: Phần chung, phần các tội phạm và Điều khoản thi hành.
3. Cấu tạo của quy phạm pháp luật hình sự có đặc điểm: Giả định trong quy
phạm pháp luật hình sự là “giả định ẩn”. Bộ phận quy định thể hiện ở ba loại: Quy
định giản đơn, quy định mô tả, quy định viện dẫn. Chế tài tương đối dứt khoát, chế
tài lựa chọn.
4. Hiệu lực của BLHS được thể hiện ở: Hiệu lực theo không gian, hiệu lực theo
thời gian, hiệu lực hồi tố.
Hiệu lực theo không gian là phạm vi áp dụng của đạo luật đó đối với hành vi
phạm tội thực hiện trong không gian nhất định và đối với một số người, pháp nhân
thương mại nhất định.
Hiệu lực theo thời gian là hiệu lực của đạo luật đó được áp dụng đối với hành
vi phạm tội thực hiện trong thời gian đạo luật đó đang có hiệu lực thi hành.
Hiệu lực hồi tố của đạo luật hình sự được hiểu là đạo luật hình sự có hiệu lực
với cả những hành vi phạm tội đã xảy ra trước khi đạo luật hình sự có hiệu lực thi
hành. Về nguyên tắc BLHS chỉ có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội xảy ra
khi bộ luật đang có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo,
BLHS quy định được hồi tố trong trường hợp áp dụng mà có lợi cho người phạm tội.
5. Giải thích đạo luật hình sự là làm sáng tỏ một cách chính xác nội dung và ý
nghĩa các điều luật. Bao gồm các giải thích: Giải thích chính thức, giải thích của cơ
quan xét xử, giải thích có tính chất khoa học.

Câu hỏi ôn tập


I. Câu hỏi tự luận
1.Hiểu thế nào là đạo luật? Đạo luật hình sự?
2.Trình bày cấu tạo của BLHS 2015 và cấu tạo của quy phạm pháp luật hình
sự?
3.Trình bày quy định của luật hình sự về hiệu lực theo không gian?
4.Trình bày quy định của luật hình sự về hiệu lực theo thời gian?
5.Giải thích đạo luật hình sự là gì? Nêu các cách giải thích đạo luật hình sự?
II. Câu hỏi trắc nghiệm
Những nhận định sau đây là đúng hay sai? Giải thích vì sao?
1. Một tội phạm thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam khi nó bắt đầu và kết thúc ở
Việt Nam.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 17


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

2. Công dân Việt Nam phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam không được áp dụng
pháp luật hình sự Việt Nam.
3. Người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam không phải chịu TNHS
theo Bộ luật hình sự Việt Nam.
4. Một đạo luật hình sự sẽ mặc nhiên hết hiệu lực khi có một đạo luật mới thay
thế.
5. Chỉ Quốc hội mới có thẩm quyền thông qua đạo luật hình sự.
6. Tất cả các cơ quan nhà nước có quyền giải thích chính thức đạo luật hình sự
7. Trong một điều luật có thể quy định nhiều tội phạm.
8. Quy phạm pháp luật phần chung không có bộ phận chế tài.
9. LHS Việt Nam hiện hành về nguyên tắc không có hiệu lực hồi tố.
III. Câu hỏi tình huống
1. Nguyễn Văn A 30 tuổi, quốc tịch Pháp, bị cơ quan Hải quan phát hiện mang
50.000 USD trái phép tại cửa khẩu Tân Sơn Nhất khi đang làm thủ tục đi Pháp.
Hành vi trên của A phạm tội vận chuyển trái phép ngoại tệ (Điều 189 BLHS: Tội
vận chuyển tiền tệ qua biên giới).
Hỏi: BLHS Việt Nam có hiệu lực áp dụng đối với hành vi của A không? Tại sao?
2. Năm 2000, Nguyễn Văn B, 25 tuổi, là công dân Việt Nam đã phạm tội giết
người tại Thái Lan. B bị Tòa án Thái Lan xử phạt 5 năm tù về hành vi giết người và
đã chấp hành xong hình phạt. Năm 2016, B được về Việt Nam thăm người thân. Có
3 quan điểm khác nhau về trách nhiệm của B khi B về nước như sau:
- Quan điểm 1: B không phải chịu TNHS theo luật hình sự Việt Nam.
- Quan điểm 2: Theo quy định của Luật hình sự Việt Nam hiện hành, về
nguyên tắc LHSVN vẫn có hiệu lực áp dụng đối với B.
- Quan điểm 3: B phải chịu TNHS như những công dân Việt Nam phạm tội ở
trong nước.
Hỏi: Quan điểm của anh (chị) về TNHS của B khi B trở về Việt Nam?
3. A thực hiện hành vi phạm tội giết người vào ngày 1/1/2008. Hành vi giết
người của A BLHS năm 1999 quy định tại Điều 93, BLHS năm 2015 quy định tại
Điều 123 BLHS. Do không bắt được A nên Cơ quan Công an ra quyết định truy nã.
Đến ngày 30/7/2017 từ tin báo của quần chúng, Cơ quan công an bắt được A và A
đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Hỏi: Theo quy định về hiệu lực của Luật hình sự của Luật hình sự Việt Nam
hiện hành, các cơ quan có thẩm quyền cần áp dụng văn bản nào để xử lý A?

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 18


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

4. A thực hiện hành vi cướp tài sản vào năm 2014 và bị xét xử sơ thẩm về tội
cướp tài sản theo khoản 4 Điều 133 BLHS 1999 vào tháng 5/2015. Đến tháng
2/2018 Tòa án cấp Phúc thẩm đưa vụ án của A ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Hỏi: Văn bản pháp luật hình sự nào được áp dụng đối với A?

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 19


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

CHƯƠNG 3. TỘI PHẠM


3.1 Khái niệm tội phạm
3.1.1 Định nghĩa
Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 định nghĩa về tội phạm như sau:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng , an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử
lý hình sự”.
Đây là định nghĩa chính thức có giá trị pháp lý và giá trị khoa học, thể hiện tập
trung nhất quan điểm của Nhà nước về tội phạm, là cơ sở khoa học cho việc xác
định các loại tội phạm, là cơ sở cho việc thống nhất nhận thức và áp dụng pháp luật.
Trên cơ sở quy định tại Điều 8 BLHS, về phương diện khoa học có thể định
nghĩa tội phạm một cách ngắn gọn như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
3.1.2 Các đặc điểm của tội phạm
a. Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội
Đây là đặc điểm về nội dung và là đặc điểm cơ bản nhất của tội phạm. Tội phạm
phải thể hiện bằng hành vi, nếu mới chỉ là suy nghĩ, âm mưu, ý đồ… thì không phải
là tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe dọa (có khả
năng thực tế) gây ra những thiệt hại cho những quan hệ xã hội được Luật Hình sự
bảo vệ. Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là hành vi có tính chất, mức độ nguy
hiểm đáng kể mới bị coi là tội phạm.
Để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi như thế nào là
đáng kể phải xem xét nhiều tình tiết khác nhau thuộc nội dung của hành vi và những
tình tiết liên quan đến hành vi, gồm các căn cứ sau:
- Tính chất của quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội xâm phạm.
Ví dụ, cùng thực hiện hành vi giết người nhưng nếu giết người nhằm mục đích
chống chính quyền nhân dân thì sẽ nguy hiểm hơn so với các trường hợp giết người
khác vì an ninh quốc gia là quan hệ xã hội quan trọng nhất.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 20


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Tính chất của hành vi thể hiện thông qua phương pháp, thủ đoạn, công cụ,
phương tiện phạm tội. Ví dụ: hành vi cố ý gây thương tích bằng dao chuẩn bị từ
trước nguy hiểm hơn so với hành vi chỉ vì tức giận mà đấm đá làm bị thương người
khác.
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra;
Tính chất và mức độ thiệt hại càng lớn thì tính nguy hiểm của hành vi càng cao.
Những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người thường được đánh giá là nguy
hiểm so với thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần.
- Thái độ chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội
thực hiện với lỗi cố ý thì nguy hiểm hơn so với lỗi vô ý (Ví dụ: hành vi giết người và
hành vi vô ý làm chết người), phạm tội với động cơ đê hèn… thì nguy hiểm hơn so
với các trường hợp phạm tội không có động cơ phạm tội.
- Nhân thân người phạm tội. Người phạm tội có nhân thân tốt thường ít có khả
năng phạm tội hơn, phương thức, thủ đoạn phạm tội thường ít nguy hiểm hơn so với
trường hợp có nhân thân xấu.
- Hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội lúc và nơi tội phạm xảy ra. Hành vi phạm
tội thực hiện trong hoàn cảnh chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai hoặc các hoàn cảnh
khó khăn khác của nạn nhân thì nguy hiểm hơn so với những trường hợp phạm tội
khác…
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là thuộc tính cơ bản của mọi tội phạm, là dấu
hiệu quan trọng, mang tính khách quan, là căn cứ để đánh giá tính chất nghiêm trọng
của hành vi phạm tội và là cơ sở của TNHS.
b. Tính có lỗi
Một người chỉ bị coi là tội phạm khi người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội có lỗi trong việc gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây rra thiệt hại cho quan hệ xã hội
được Luật hình sự bảo vệ. Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra dưới
dạng cố ý hoặc vô ý. Luật Hình sự Việt Nam không cho phép quy tội khách quan
nghĩa là truy cứu TNHS chỉ dựa vào hành vi nguy hiểm cho xã hội mà ko xét đến lỗi
của họ.
Nếu hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội là kết quả của sự
tự lựa chọn và quyết định của chủ thể khi có đủ điều khiện để lựa chọn một xử sự
khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội thì họ bị coi là có lỗi.
c. Tính trái pháp luật hình sự

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 21


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, phải được quy định trong BLHS.
Nhà nước chỉ có thể coi hành vi của một người hoặc một pháp nhân thương mại là
tội phạm và trừng phạt người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi đó nếu
nó được quy định trong BLHS.
Tính trái pháp luật hình sự có mối quan hệ biện chứng với tính nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm. Trong đó, tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu hình thức pháp
lý của tội phạm còn tính nguy hiểm dáng kể cho xã hội là dấu hiệu của nội dung tội
phạm. Nếu quá coi trọng tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội thì sẽ dẫn đến áp dụng
pháp luật một cách tùy tiện, vi phạm nguyên tắc pháp chế, xâm phạm đến quyền con
người, ngược lại quá coi trọng tính trái pháp luật hình sự sẽ dẫn đến tình trạng áp
dụng pháp luật một cách quá cứng nhắc, máy móc. Vì vậy, khoản 2 Điều 8 BLHS
quy định: “những hành vi tuy có dấu hiệu tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho
xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp
khác.”
d. Tính phải chịu hình phạt
Hiện nay trong khoa học pháp lý hình sự có hai quan điểm về đặc điểm này. Quan
điểm thứ nhất cho rằng tính phải chịu hình phạt không phải là đặc điểm của tội phạm
vì trong BLHS không ghi nhận đặc điểm này và đây cũng không phải là hệ quả tất
yếu khi một người hoặc pháp nhân thương mại nào đó thực hiện hành vi phạm tội,
do đó đây không được xem là đặc điểm của tội phạm.
Quan điểm thứ hai cho rằng, tính chịu hình phạt là đặc điểm của tội phạm.
Quan điểm này lập luận rằng hình phạt gắn liền với tội phạm và bất kỳ CTTP nào
cũng quy định một khung hình phạt tương ứng. Nhà nước sẽ đe dọa áp dụng hình
phạt khi có một tội phạm xảy ra. Người hoặc pháp nhân thương mại nào thực hiện
bất cứ hành vi phạm tội nào, do tính nguy hiểm cho xã hội cũng đề bị đe dọa phải
chịu hình phạt và các biện pháp tư pháp. Người hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện hành vi phải chịu hình phạt được thể hiện ở sự “răn đe” của Nhà nước sẽ áp
dụng một hình phạt khi người hoặc pháp nhân thương mại đó thực hiện một hành vi
bị coi là tội phạm.
Mặc dù còn có một số quan điểm khác nhau nhưng trong khoa học pháp lý hình
sự đa số đều thống nhất tội phạm có bốn đặc điểm nêu trên và coi đó là căn cứ để
xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không.
3.2 Phân loại tội phạm
3.2.1 Phân loại tội phạm theo Điều 9 Bộ luật hình sự

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 22


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, Điều 9
BLHS phân chia tội phạm thành 4 loại:
- Tội phạm ít nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội không lớn mà mức cao nhất khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội
ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm; Ví dụ: khoản 1
Điều 173 BLHS Tội trộm cắp tài sản.
- Tội phạm nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là
tù trên 03 năm đến 07 năm; Ví dụ: khoản 2 Điều 173 BLHS Tội trộm cắp tài sản.
- Tội phạm rất nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy đổi với tội ấy
là từ trên 7 năm đến 15 năm tù; Ví dụ: khoản 3 Điều 173 BLHS Tội trộm cắp tài sản.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy
định đối với tội ấy là từ 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Ví dụ:
khoản 4 Điều 173 BLHS Tội trộm cắp tài sản.
Khi xác định loại tội phạm không dựa vào mức hình phạt do Tòa án tuyên cho
người phạm tội mà phải dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy.
Ví dụ: A phạm tội theo khoản 1 Điều 123 BLHS và bị Tòa án tuyên phạt 12 năm tù.
Theo Điều 9 BLHS thì tội phạm do A thực hiện là loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng vì mức cao nhất của khung hình phạt ở khoản 1 Điều 123 là chung thân hoặc
tử hình.
3.2.2 Các cách phân loại tội phạm khác
Căn cứ vào hình thức lỗi thì tội phạm được phân chia thành tội phạm có lỗi cố ý và
tội phạm có lỗi vô ý;
- Căn cứ vào diễn biến của hành vi tội phạm, tính chất nguy hiểm của hành vi
phạm tội, tội phạm được chia thành chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội
phạm hoàn thành;
- Căn cứ vào chủ thể thực hiện tội phạm, tội phạm được chia thành tội phạm do
chủ thể đặc biệt thực hiện và tội phạm do chủ thể thường thực hiện; Tội phạm do
người phạm tội thực hiện và tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện.
- Căn cứ vào khách thể loại, các tội phạm được chia thành các chương, mỗi
chương là một loại tội phạm…
3.3 Tội phạm và vi phạm pháp luật

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 23


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Tội phạm là một loại vi phạm pháp luật nên giữa tội phạm và vi phạm pháp luật
khác như vi phạm hành chính, vi phạm dân sự, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân sự, vi
phạm kỷ luật có nhiều điểm giống nhau. Tuy nhiên, giữa tội phạm và vi phạm pháp
luật luật khác vẫn có nhiều điểm khác biệt.
Về mặt nội dung chính trị - xã hội, tội phạm là những hành vi có tính nguy
hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể trong khi các vi phạm pháp luật khác cũng gây ra
nguy hiểm cho xã hội nhưng còn ở mức độ chưa đáng kể. Ranh giới giữa nguy hiểm
đáng kể và nguy hiểm chưa đáng kể cần được xác định khi xây dựng luật cũng như
giải thích luật và áp dụng luật. Trong thực tiễn khoa học luật hình sự đã đưa ra một
số tiêu chí để xác định một hành vi như thế nào là nguy hiểm đáng kể (phần đặc
điểm của tội phạm đã đề cập).
Về hình thức pháp lý, tội phạm được quy định trong Luật hình sự còn các vi
phạm pháp luật khác được quy định trong các văn bản của các ngành luật tương ứng.
Đây là căn cứ đầu tiên mà người áp dụng pháp luật phải dựa vào để xác định một
hành vi nào đó là tội phạm hay ko.
Về hậu quả pháp lý, tội phạm bị xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất, đó là hình phạt còn các vi phạm pháp luật khác chỉ có thể bị xử lý bằng các chế
tài ít nghiêm khắc hơn như chế tài dân sự (bồi thường thiệt hại).
Tóm tắt chương
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và
phải chịu hình phạt. Đây đồng thời là 4 đặc điểm của tội phạm.
- Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội: Tội phạm phải thể hiện bằng hành vi.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe dọa (có khả năng thực tế)
gây ra những thiệt hại cho những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Hành vi
nguy hiểm cho xã hội phải là hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm đáng kể mới bị
coi là tội phạm.
Để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi như thế nào là
đáng kể phải xem xét nhiều tình tiết khác nhau thuộc nội dung của hành vi và những
tình tiết liên quan đến hành vi, gồm các căn cứ sau: Tính chất của quan hệ xã hội
được Luật hình sự bảo vệ và bị tội xâm hại. Tính chất của hành vi thể hiện thông qua
phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội. Tính chất và mức độ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra; Thái độ chủ quan của người thực
hiện hành vi phạm tội. Nhân thân người phạm tội; Hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã
hội lúc và nơi tội phạm xảy ra.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 24


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội là thuộc tính cơ bản của mọi tội phạm, là
dấu hiệu quan trọng, mang tính khách quan, là căn cứ để đánh giá tính chất nghiêm
trọng của hành vi phạm tội và là sơ sở của TNHS.
- Tính có lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra dưới dạng cố ý
hoặc vô ý. Một người bị coi là lỗi nếu hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho xã hội là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể khi có đủ điều
kiện để lựa chọn một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
- Tính trái pháp luật hình sự: Tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự,
phải được quy định trong BLHS. Nhà nước chỉ có thể coi hành vi của một người
hoặc của pháp nhân thương mại là tội phạm và trừng phạt người, pháp nhân thương
mại thực hiện hành vi đó nếu nó được quy định trong BLHS.
- Tính phải chịu hình phạt: Quan điểm thứ nhất cho rằng tính phải chịu hình
phạt không phải là đặc trưng của mọi tội phạm, do đó đây không được xem là đặc
điểm của tội phạm. Quan điểm thứ hai cho rằng, tính chịu hình phạt là đặc điểm của
tội phạm. Nhà nước sẽ đe dọa áp dụng hình phạt khi có một tội phạm xảy ra. Người
hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phải chịu hình phạt được thể hiện ở sự
“răn đe” của Nhà nước sẽ áp dụng một hình phát khi người hoặc pháp nhân thương
mại đó thực hiện một hành vi bị coi là tội phạm.
2. Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, BLHS phân loại tội phạm
thành: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiệm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Tội phạm ít nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối
với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm;
- Tội phạm nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là
tù trên 03 năm đến 07 năm;
- Tội phạm rất nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với
tội ấy là từ trên 7 năm đến 15 năm tù;
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 25


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

3. Tội phạm khác vi phạm pháp luật ở nhiều điểm trong đó đáng lưu ý là tính
nguy hiểm đáng kể cho xã hội, hình thức pháp lý và hậu quả pháp lý.
Câu hỏi ôn tập
I. Câu hỏi tự luận
1. Phân tích các đặc điểm của tội phạm.
2. Phân biệt tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Cho ví dụ để làm rõ.
3. Phân tích các căn cứ đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
II. Câu hỏi trắc nghiệm
Những nhận định sau đúng hay sai? Giải thích vì sao?
1. Mọi hành vi trái pháp luật đều là tội phạm.
2. Mọi tội phạm đều là hành vi trái pháp luật hình sự
3. Trong mọi trường hợp nếu người thực hiện hành vi không có lỗi thì không
phạm tội.
4. Căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS là mức hình phạt do Tòa án
áp dụng đối với người phạm tội.
5. Tội phạm chỉ khác vi phạm pháp luật khác ở chế tài áp dụng cho chủ thể vi
phạm.
III. Câu hỏi tình huống
1. A trộm cắp tài sản của B trị giá 70 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội
trộm cắp tài sản theo Khoản 2 Điều 173 BLHS và bị Tòa án tuyên phạt 2 năm tù
giam.
Hỏi: căn cứ vào Điều 9 BLHS 2015 xác định tội phạm mà A thực hiện là loại tội
phạm gì? Tại sao?
2. A cướp giật túi xách của M và lấy được 60 triệu đồng. Hành vi của A được
quy định tại khoản 2 Điều 171 BLHS Tội cướp giật tài sản.
Hỏi: Tội phạm do A thực hiện là loại tội phạm gì nếu căn cứ vào Điều 9 BLHS?
Tại sao?
3. D phạm tội giết người theo khoản 1 Điều 123 BLHS và bị Tòa án tuyên 12
năm tù.
Hỏi: Căn cứ vào Điều 9 BLHS 2015 xác định tội phạm mà D thực hiện là loại tội
phạm gì? Tại sao?

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 26


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

CHƯƠNG 4. CẤU THÀNH TỘI PHẠM

4.1 Khái niệm cấu thành tội phạm


4.1.1 Định nghĩa cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm (CTTP) là tổng hợp các dấu hiệu được quy định trong BLHS
xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Đây là mô hình pháp lý của
một tội phạm cụ thể, phản ánh được tính đặc trưng của loại tội phạm đó.
Tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan. Dưới
góc độ lý luận, người ta có thể phân chia tội phạm ra những bộ phận để nghiên cứu.
Các yếu tố CTTP bao gồm: Khách thể của tội phạm; Mặt khách quan của tội phạm;
Mặt chủ quan của tội phạm; Chủ thể của tội phạm. Mỗi yếu tố của tội phạm bao
gồm nhiều dấu hiệu, tùy thuộc vào dấu hiệu đó có bắt buộc phải có trong mọi CTTP
hay không mà chúng được chia ra làm hai loại:
- Những dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi CTTP do người phạm tội thực
hiện gồm: quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại thuộc hai khách thể; hành vi nguy
hiểm trong mặt khách quan, lỗi trong mặt chủ quan, năng lực TNHS và tuổi chịu
TNHS thuộc chủ thể của tội phạm.
- Những dấu hiệu không bắt buộc phải có trong CTTP: Là dấu hiệu bắt buộc
trong CTTP này nhưng không bắt buộc đối với CTTP khác, như: hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, địa điểm phạm tội, động cơ, mục đích, thời gian, công cụ, phương tiện
phạm tội…
4.1.2 Đặc điểm của các dấu hiệu cấu thành tội phạm

Các dấu hiệu trong CTTP được Luật hình sự quy định. Muốn xác định đầy đủ các
dấu hiệu của CTTP cụ thể phải căn cứ vào Phần chung và Phần các tội phạm BLHS.

Ví dụ: tội cướp tài sản với những dấu hiệu được mô tả trong Phần các tội phạm
của BLHS (tại Điều 168 BLHS), để xác định tuổi chịu TNHS phải dựa vào Điều 12
BLHS, xác định năng lực TNHS dựa vào Điều 21 BLHS, xác định giai đoạn phạm
tội dựa vào Điều 14, 15 BLHS…

- Các dấu hiệu trong CTTP có tính đặc trưng, điển hình đủ để xác định tội
phạm và phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Các dấu hiệu này chỉ phản ánh
được đầy đủ tính chất đặc trưng của một loại tội phạm khi nó được kết hợp với nhau.
Ví dụ: dấu hiệu chiếm đoạt tài sản có thể thấy ở nhiều CTTP như CTTP tội trộm
cắp tài sản, CTTP tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên khi kết hợp với các dấu

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 27


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

hiệu khác của CTTP dấu hiệu này vẫn có những đặc trưng. Chiếm đoạt tài sản bằng
thủ đoạn lén lút trong tội trộm cắp tài sản khác với chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn
gian dối trong lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Các dấu hiệu trong CTTP có tính bắt buộc. Các dấu hiệu trong CTTP không
thể thiếu trong việc định tội danh.
4.1.3 Mối quan hệ giữa tội phạm và cấu thành tội phạm
Quan hệ giữa tội phạm và CTTP là quan hệ giữa nội dung và hình thức của tội
phạm, giữa hiện tượng với mô hình pháp lý. Tội phạm là hiện tượng khách quan,
nhà làm luật khái quát hóa những dấu hiệu chung và điển hình cho một loại tội phạm
để xây dựng mô hình của tội phạm và quy định nó trong Luật hình sự. Trong mối
quan hệ này, cơ sở để nhà làm luật xây dựng CTTP là thực tiễn và CTTP với ý nghĩa
là mô hình pháp lý của tội phạm là cơ sở pháp lý cho việc xác định tội phạm.
4.1.4 Ý nghĩa của CTTP
- Ý nghĩa chính trị xã hội. CTTP đảm bảo quyền công dân trong lĩnh vực tư
pháp hình sự, hỗ trợ cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp chế và củng cố trật tự
pháp luật trong nhà nước pháp quyền. CTTP là điều kiện cần và đủ để xác định
TNHS của một người hoặc pháp nhân thương mại, xác định tính pháp lý của các
quyết định tố tụng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, CTTP là cơ sở pháp lý của
TNHS.
- Ý nghĩa trong hoạt động lập pháp hình sự. Nhà nước thể chế hóa chính sách
hình sự trong lĩnh vực lập pháp hình sự thông qua CTTP. Nhà nước quy định các tội
phạm cụ thể với những mô hình cấu trúc nhất định.
- Ý nghĩa trong áp dụng pháp luật hình sự. CTTP là sơ sở pháp lý của việc định
tội danh, là cơ sở pháp lý của việc định tội danh, là cơ sở pháp lý để xác định thời
điểm tội hoàn thành, là căn cứ pháp lý để định khung hình phạt.
4.2 Phân loại cấu thành tội phạm
4.2.1 Cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng, cấu thành giảm nhẹ
Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi chia thành 3 loại CTTP sau:
- Cấu thành cơ bản: Là cấu thành chỉ có những tình tiết định tội. Cấu thành cơ
bản của tội phạm nên lên những dấu hiệu cơ bản nhất chỉ rõ bản chất của tội phạm,
là cơ sở để phân biệt giữa tội này với tội khác. Ví dụ, khoản 1 Điều 173 BLHS mô tả
dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản nên đây là CTTP cơ bản.
- Cấu thành tăng nặng: Là cấu thành ngoài những dấu hiệu của cấu thành cơ
bản còn có những tình tiết định khung tăng nặng là dấu hiệu bắt buộc. Ví dụ: khoản

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 28


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

2 Điều 168 BLHS quy định CTTP tăng nặng. “Có tổ chức” là tình tiết định khung
tăng nặng.
- Cấu thành giảm nhẹ: Là cấu thành ngoài những tình tiết định tội còn có những
tình tiết định khung giảm nhẹ là dấu hiệu bắt buộc. Ví dụ: Khoản 2 Điều 108 BLHS
quy định CTTP giảm nhẹ của tội Phản bội Tổ quốc. “Có nhiều tình tiết giảm nhẹ
TNHS” là tình tiết định khung giảm nhẹ.
4.2.2 Cấu thành vật chất và cấu thành hình thức
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo của CTTP chia thành cấu thành vật chất và cấu thành
hình thức.
- Cấu thành vật chất: Là CTTP mà trong mặt khách quan bắt buộc phải có các
dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả và mối quan hệ nhân quả.
Ví dụ: Tội giết người (Điều 123 BLHS) là tội phạm có cấu thành vật chất. Theo
luật định các dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội này gồm hành vi tước
tình mạng của người khác một cách trái pháp luật, hậu quả chết người xảy ra, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
- Cấu thành hình thức: Là CTTP mà trong mặt khách quan chỉ có hành vi nguy
hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc.
Ví dụ: Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS) là tội có CTTP hình thức. Dấu
hiệu trong mặt khách quan của tội này chỉ cần hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc uy
hiếp tinh thần của người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Tội phạm hoàn thành khi
người phạm tội đã thực hiện được một trong những hành vi trên dù hậu quả nguy
hiểm cho xã hội đã xảy ra hay chưa.
Ngoài ra, khoa học pháp lý và thực tiền còn biết đến một dạng CTTP là CTTP
cắt xén. Cấu thành cắt xén là dạng đặc biệt của CTTP hình thức mà mặt khách quan
chỉ có một trong nhiều hành vi mà điều luật quy định coi như tội phạm đã hoàn
thành và thường được nhà làm luật xây dựng đối với những tội phạm có tính nguy
hiểm cho xã hội cao.
Ví dụ: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109 BLHS) là tội
có CTTP cắt xén. Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội này là hoạt động thành lập
có tổ chức hoặc hoạt động tham gia tổ chức nhằm mục đích lật đổ chính quyền nhân
dân. Tội phạm được hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội mới thực hiện
những hành vi chuẩn bị cho việc thành lập tổ chức hoặc nhận lời tham gia vào tổ
chức không kể đã có hoạt động cụ thể gì hay chưa. Thời điểm tội phạm hoàn thành

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 29


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

rất sớm, đó là khi người phạm tội chỉ mới thực hiện được một bộ phận của hành vi
mà họ mong muốn xảy ra.
- Cơ sở để xây dựng CTTP là cấu thành vật chất hay cấu thành hình thức là tầm
quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại; nhu cầu củng cố và bảo vệ các quan hệ xã
hội; tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và yêu cầu của kỹ thuật pháp luật
hình sự.
Ngoài ra, trong BLHS có những tội phạm có cấu thành vật chất nhưng có những
khoản được xây dựng có cấu thành hình thức, như các tội phạm vi phạm các quy
định về an toàn giao thông.
4.3 Khách thể của tội phạm
4.3.1 Khái niệm
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp
thông trị, được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.
Ví dụ: A cướp giật điện thoại cuat B. A xâm phạm quyền sở hữu tài sản của B.
Quyền sở hữu tài sản là khách thể của tội phạm.
Về hình thức quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm phải được quy đị trong
BLHS. Căn cứ vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong từng thời kỳ, từng giai
đoạn lịch sử nhất định giai cấp thống trị quy định quan hệ xã hội nào là khách thể
của tội phạm. Luật hình sự chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội tương đối quan trọng
mà hành vi phạm tội có thể gây ra những thiệt hại đáng kể.
Các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm còn được các ngành luật khác
điều chỉnh. Luật hình sự chỉ có nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội khỏi sự xâm hại
của tội phạm. Nghiên cứu khách thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong xây
dựng và áp dụng pháp luật.
- Khách thể của tội phạm thể hiện rõ nét bản chất của tội phạm, mục đích
nhiệm vụ và tính chất giai cấp của Luật hình sự;
- Đây là một trong những căn cứ quan trọng để phân biệt giữa tội phạm và vi
phạm pháp luật khác; là căn cứ đề đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm;
- Trong một số trường hợp khách thể của tội phạm là căn cứ đề định tội danh và
phân biệt giữa tội này với tội khác;
4.3.2 Các loại khách thể của tội phạm
- Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp các quan hệ xã hội được Luật hình
sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm. khách thể chung của tội phạm thể hiện

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 30


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

trong quy định về nhiệm vụ của BLHS, định nghĩa tội phạm, đó là: Độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; Chế dộ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hóa, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức; quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp khách của công
dân; những lĩnh vực khách của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định
của BLHS phải bị xử lý hình sự.
- Khách thể loại của tội phạm là nhóm những quan hệ xã hội có cùng tính chất
(chính trị, kinh tế, xã hội) có liên quan với nhau được nhóm quy phạm pháp luật
hình sự bảo vệ và bị nhóm tội phạm xâm hại.
Ví dụ: Khách thể loại của các tội phạm sở hữu là quan hệ sở hữu, quyền sống,
quyền được bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm là khách thể loại của các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người. Khách thể
loại của tội phạm có ý nghĩa trong việc xác định tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm; là cơ sở để hệ thống hóa và phân chia các tội phạm trong các phần tội phạm
thành từng chương.
- Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật hình
sự bảo vệ và bị một tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại, ví dụ, khách thể trực tiếp của
tội giết người là quyền sống của con người, quyền sở hữu là khách thể trực tiếp của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,…
Một tội phạm thường xâm hại vào quan hệ xã hội nhưng có những tội phạm xâm
hại đến hai hoặc nhiều quan hệ xã hội. Trong đó có quan hệ xã hội là đối tượng xâm
hại chủ yếu, thể hiện bản chất pháp lý của tội phạm, còn các quan hệ xã hội khác
không phải là đối tượng xâm hại chủ yếu.
Ví dụ: hành vi cướp giật tài sản xâm phạm nhiều quan hệ xã hội khác nhau như
quan hệ sở hữu, an toàn trật tự nơi công cộng nhưng việc xâm phạm đến quyền sở
hữu mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này nên đây là
khách thể trực tiếp của tội phạm
Khách thể trực tiếp của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh.
Ví dụ: cùng là hành vi giết người nhưng nếu giết người nhằm hướng đến chống
chính quyền nhân dân thì xử lý về tội khủng bố (Điều 113 BLHS) nếu hướng tới
xâm phạm tính mạng con người thì xử lý về tội giết người (Điều 123 BLHS)
Với những tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp thì trong đó có một khách thể
trực tiếp là khách thể trực tiếp chính. Ví dụ: Hành vi cướp tài sản xâm phạm hai
khách thể trực tiếp là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân, nhưng mục đích chính

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 31


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

của người phạm tội hướng tới là xâm phạm sở hữu nên nhà làm luật xếp tội này
trong Chương các tội xâm phạm sở hữu.
4.4.3 Đối tượng tác động của tội phạm
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tác
động lên nó người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan
hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ.
Ví dụ: A cướp xe máy của B. Hành vi của A gây thiệt hại đến quan hệ sở hữu
tài sản của B. Quan hệ sở hữu là khách thể của tội phạm, chiếc xe máy của B là đối
tượng tác động của tội cướp tài sản.
Quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm có các yếu tố xấu thành của quan hệ
pháp luật nói chung đó là: Chủ thể, nội dung và khách thể của quan hệ xã hội. Tất cả
các yếu tố nói trên đều có thể là đối tượng tác động của tội phạm.
- Đối tượng tác động của tội phạm là chủ thể của quan hệ xã hội (Nhà nước,
pháp nhân, công nhân). Ví dụ: Đối tượng tác động của Tội giết người là con người
với tư cách là thực thể sinh học; Đối tượng tác động của Tội bạo loạn là tổ chức, cá
nhân.
- Đối tượng tác động của tội phạm là hoạt động bình thường của chủ thể khi
tham gia vào các quan hệ xã hội được nhà nước bảo vệ. Hành vi phạm tội làm biến
đổi tình trạng bình thường hoạt động của chủ thể, làm biến dạng xử sự của người
khác. Ví dụ: Tội đưa hối lộ; Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi;… hay tự
làm biếng dạng hành vi của chính người phạm tội, ví dụ: Tội nhận hối lộ;…
- Đối tượng tác động của tội phạm là các vật thể dưới dạng vật chất khác nhau,
có giá trị hoặc giá trọ sử dụng.Người phạm tội tác động bằng cách hủy hoại, làm hư
hỏng, dịch chuyển trái phép…
Nghiên cứu đối tượng tấc động của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong xây
dựng và tổ chức thực hiện pháp luật hình sự. Cụ thể:
+ Đối tượng tác động là căn cứ để xác định hành vi có bị coi là tội phạm hay
không, là cơ sở để phân biệt giữa các tội phạm với nhau. Ví dụ: cùng là hành vi sản
xuất trái phép hàng hóa, nếu đó là vũ khí quân dụng thì cấu thành tội chế tạo trái
phép vũ khí quân dụng (Điều 304 BLHS), nếu đó là ma túy thì cấu thành tội sản
xuất trái phép chất ma túy (điều 248 BLHS)
+ Đối tượng tác động có ý nghĩa trong việc định tội. Ví dụ: Điều 177 BLHS quy
định về tội sử dụng trái phép tài sản của người khác, trong đó tài sản bị sử dụng trái
phép phải có giá trị từ 100 triệu đồng trở lêm mới bị coi là phạm tội.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 32


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

+ Đối tượng tác động có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Ví dụ: Điều
173 BLHS quy định về tội trộm cắp tài sản, trong đó tài sản bị chiếm đoạt có giá trị
từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng thuộc khoản 1, từ 50 triệ đồng đến dưới 200
triệu đồng thuộc khoản 2, từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng thuộc khoản 3
và từ 500 triệu đồng trở lên thuộc khoản 4…
+ Đối tượng tác động có ý nghĩa trong quyết định hình phạt. Khi quyết định hình
phạt tòa án phải dựa vào tính chất và định lượng của đối tượng tác động để xác định
một hình phạt và mức phạt cụ thể cho người phạm tội.
4.4 Mặt khách quan của tội phạm
4.4.1 Khái niệm
Tội phạm là một thể thống nhất những diễn biến tâm lý bên trong của người thực
hiện hành vi và những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà con người có thể nhận biết
được. Những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm con người có thể nhận biết được
bằng các giác quan trực tiếp hay bằng phương pháp tư duy logic dựa trên cơ sở của
mối hiên hệ tất yếu giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác được gọi
là mặt khách quan của tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi nguy hiển cho xã hội, hậu quả
và mối quan hệ nhân quả và các dấu hiệu khác. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã
hội là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi tội phạm; Hậu quả và mối quan hệ nhân quả là
dấu hiệu bắt buộc đối với những tội phạm có cấu thành vật chất. Thời gian, địa
điểm, phương tiện, công cụ phạm tội, hoàn thành phạm tội… là những dấu hiệu
không nhất thiết phải có trong mọi CTTP.
Từ những dấu hiệu khách quan có thể xác định được tội phạm xảy ra, thông
qua các dấu hiệu khách quan mà làm rõ được các yếu tố khác của CTTP. Trong Luật
hình sự, nhà làm luật cũng thường tập trung mô tả những dấu hiệu khách quan đặc
trưng, điển hình của từng tội phạm làm cơ sở cho việc phân biệt và định tội chính
xác.
4.4.2 Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đã gây ra hoặc đe
dọa gây ra những thiệt hại cho những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ.
Hành vi khách quan của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc của mọi tội phạm, là dấu hiệu
trung tâm trong mặt khách quan của CTTP
Hành vi khách quan của tội phạm có đặc điểm:

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 33


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

 Hành vi khách quan của tội phạm phải có tính nguy hiểm cho xã hội, thể hiện
ở việc hành vi đó phải gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại gây ra thiệt hại cho quan
hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ.
 Hành vi khách quan của tội phạm là hoạt động có ý chí của con người, nghĩa
là hành vi đó phải có sự kiểm soát của ý thức và sự điều khiển của ý chí. Một số
trường hợp xử sự của con người gây thiệt hại đáng kể cho xã hội nhưng không coi là
hành vi phạm tội như phản xạ không điều kiện, mộng du, hành động trong tình trạng
không có năng lực TNHS, tình huống bất khả kháng hay bị cưỡng bức đến mức độ
bị tê liệt ý chí…
 Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự. Một hành
vi chỉ bị coi là tội phạm khi BLHS cấm và quy định đó là tội phạm.
Hành vi khách quan của tội phạm được thực hiện bằng hình thức hành động
hoặc không hành động.
 Hành động phạm tội là xử sự tiêu cực của người phạm tội được thể hiện ra
bên ngoài bằng những hành động cụ thể nguy hiểm cho xã hội. Hành động phạm tội
có thể là một tác động đơn giản xảy ra một lần trong một thời gian ngắn (bắn, xô
ngã, đâm…) hoặc là một hoạt động tác có mối quan hệ thống nhất với nhau và diễn
ra trong một thời gian dài. Hành động phạm tội có thể tác động gián tiếp qua trung
gian, thông qua việc sử dụng công cụ, phương tiện, máy móc thiết bị hoặc kiến thức
khoa học. Hành động phạm tội cũng có thể được thực hiện bằng lời nói (đe dọa giết
người, vu khống…) hoặc việc làm (cướp tài sản, nhận hối lộ…).
 Không hành động phạm tội là xử sự tiêu cực của người phạm tội nguy hiểm
cho xã hội, trái pháp luật, có ý thức và ý chí. Không hành động phạm tội là không
thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ một việc mà người phạm tội có
nghĩa vụ phải thực hiện và có thể thực hiện được. Ví dụ: hành vi bác sĩ không cứu
chữa cho bệnh nhân đang cấp cứu dân đến nạn nhân chết.
Người phạm tội băng hình thức không hành động phải có nghĩa vụ pháp lý để
hoàn thành công việc nào đó. Nghĩa vụ này xuất phát do pháp luật quy định (như
nghĩa vụ tố giác tội phạm, nghĩa vụ cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng của pháp luật hình sự); nghề nghiệp (nghĩa vụ cứu chữa cho bệnh
nhân của bác sĩ, nghĩa vụ thi hành án của chấp hành viên…); mệnh lệnh của cấp
trên; hợp đồng… Người phạm tội phải là người có khả năng và điều kiện để hoàn
thành nghĩa vụ đó.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 34


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Hành vi khách quan là dấu hiệu trung tâm trong mặt khách quan của tội phạm,
vì vậy một số trường hợp căn cứ vào đặc điểm cấu trúc đặc biệt của hành vi, khoa
học luật hình sự đưa ta các khái niệm thể hiện các dạng cấu trúc đặc biệt ấy là tội
kéo dài, tội liên tục, tội ghép.
Tội kéo dài: là tội phạm hành vi trong mặt khách quan được thực hiện kéo dài
không gián đoạn cho tới khi bị phát giác hoặc bị xử lý. Ví dụ: hành vi tàng trữ trái
phép vũ khí quân dụng trong Tội tàng trữ trái phép vũ khí quận dụng (Điều 304
BLHS).
Tội liên tục: Là tội phạm mà hành vi trong mặt khách quan bao gồm một loạt
hành vi phạm tội cùng loại xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian nhằm một mục đích
phạm tội. Ví dụ: hành vi mua vét hành hóa trong Tội đầu cơ (Điều 196 BLLHS)
Tội ghép: là tội phạm mà hành vi khách quan được hình thành bởi nhiều hành
vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra cùng một thời gian, mỗi hành vi xâm hại đến một
khách thể, nhưng lại có liên quan, ghép lại với nhau cấu thành một tội phạm. Ví dụ:
Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169
BLHS)
b. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm:
Hậu quả của tội phạm là những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho
những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Những thiệt hại mà hành vi
phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội được biểu hiện dưới các dạng:
- Thiệt hại về tài sản: được thể hiện qua việc tài sản bị hủy hoại, bị hư hỏng,
dịch chuyển trái pháp luật quyề sở hữu…
- Thiệt hại về thể chất: tính mạng (chết người), sức khỏe (thương tích hoặc tổn
hại sức khỏe).
- Thiệt hại phi tài sản, gồm: thiệt hại về an ninh chính trị và an toàn xã hội, việc
thực hiện các qyền, danh dự, nhân phẩm, tự do của con người… Những thiệt hại phi
tài sản rất khó xác định mức độ cụ thể, vì vậy nó thường ít được phản ánh vào nội
dung CTTP.
Ngoài ra, biến dạng xử sự của con người cũng là một loại thiệt hại, có thể là
biến dạng xử sự chủ thể hoặc của người khác. Hành vi khách quan của người phạm
tội làm biến dạng xử sự của người khác như: vì A đối xử tàn ác với con riêng của
chồng là B trong thời gian dài nên dẫn đến B đã tự sát. Xự tự sát của B là thiệt hại
do hành vi phạm tội của A gây ra.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 35


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Xác định hậu quả của tội phạm là một trong những căn cứ để đánh giá tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Đây cũng là dấu hiệu định tội đối
với CTTP vật chết, định khung hình phạt, xác định giai đoạn phạm tội ở một số tội
phạm luật định và là một trong những căn cứ quan trọng để quyết định hình phạt.
c. Mối quan hệ nhân quả trong Luật hình sự
Mối quan hệ nhân quả trong Luật hình sự là mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm
cho xã hội được coi là tội phạm và hậu quả do hành vi đó gây ra. Hậu quả của tội
phạm là kết quả do chính hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra. Những điều kiện
để xác định quan hệ nhân – quả trong Luật hình sự là:
- Hành vi nguy hiển cho xã hội phải được quy định trong BLHS;
- Hành vu phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian;
- Giữa hành vi và hậu quả phải có mối quan hệ nội tại. tất yếu. Được coi là có
quan hệ nội tại khi hậu quả cơ sở ngay trong hành vi, hành vi mang trong mình nó
mầm mống sinh ra hậu quả. Mối quan hệ tất yếu mang tính quy luật, hậu quả xảy ra
phản ánh xu thế tất yếu của hành vi, nghĩa là cùng một hành vi gặp điều kiện tương
tự sẽ phát sinh hậu quả giống nhau
Ví dụ: A chém B chết. Giữa hành vi chém người của A và hậu quả là cái chết
của B có mối quan hệ nhân quả vì xét về mặt thời gian, hành vi chém người của A
xảy ra trước hậu quả B chết. Hành vi chém B của A chứa đựng khả năng làm chết B
và cái chết của B chính là hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết
người của hành vi chém người của A.
d. Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm
- Địa điểm phạm tội: là nơi thực hiện tội phạm, nơi đó tội phạm diễn ra hoặc
kết thúc. Địa điểm phạm tội có ý nghĩa trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi..
- Thời gian, hoàn cảnh phạm tội: thời gian phạm tội là thời điểm cụ thể hoặc
một khoảng thời gian nhất định mà hành vi phạm tội diễn ra. Hoàn cảnh phạm tội là
tổng hợp những tình tiết khách quan, bối cảnh khi hành vi phạm tội diễn ra có ý ảnh
hường đến mức độ nguy hiểm của tội phạm. Thời gian, hoàn cảnh phạm tội có ý
nghĩa trong định tội (ví dụ: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ Điều 124, Tội đầu cơ
Điều 196 BLHS), định khung hình phạt và quyết định hình phạt.
- Phương tiền phạm tội: là đối tượng vạt chết mà người phạm tội sử dụng để tác
động vào đối tượng tác động của tội phạm. Phương tiện phạm tội có nhiều dạng
khác nhau trong đó có dạng được coi là công cụ phạm tội.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 36


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội được chủ thể của tội
phạm sử dụng để tác động đến đối tượng tác động của tội phạm như con dao dùng
để giết người… Công cụ, phương tiện có ý nghĩa trong định khung và lượng hình,
một số trường hợp có ý nghĩa định tội (ví dụ: tài sản, lợi ích vật chất trong Tội đưa
hối lộ Điều 364 BLHS).
- Phương pháp, thủ đoạn phạm tội: là cách thức thực hiện hành vi phạm tội.
Phương pháp, thủ đoạn phạm tội có ý nghĩa trong định tội (ví dụ: Tội cưỡng ép kết
hôn Điều 181 BLHS), định khung hình phạt (ví dụ: điểm l khoản 1 Điều 123 BLHS)
và lượng hình.

4.5 Chủ thể tội phạm


4.5.1 Khái niệm
Chủ thể của tội phạm là người hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội và có đủ điều kiện theo luật định
Luật hình sự Việt Nam quy định không chỉ con người cụ thể mà pháp nhân
thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS và
thỏa mãn những dấu hiệu nhất định cũng sẽ trở thành chủ thể của tội phạm.
4.5.2 Các dấu hiệu của chủ thể tội phạm là người phạm tội
Để trở thành chủ thể của tội phạm thì người phạm tội phải có năng lực TNHS và đạt
độ tuổi nhất định.
- Năng lực trách nhiệm hình sự
Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có
khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và có khả năng
điều khiển hành vi ấy.
BLHS nước ta không quy định về tình trạng có năng lực TNHS mà quy định về
tình trạng không có năng lực TNHS (Điều 21 BLHS). Một người đạt độ tuổi chịu
TNHS thông thường sẽ có năng lực TNHS. Chỉ những trường hợp nghi ngờ không
có năng lực TNHS thì cơ quan chức năng mới trưng cầu giám định pháp y để xác
định người đó năng lực TNHS hay không. Theo quy định tại Điều 21 thì một người
coi là không có năng lực TNHS khi thuộc trong các trường hợp: không có khả năng
nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi; không có khả năng điều khiển
hành vi; không có cả hai khả năng.
Tình trạng không có năng lực TNHS được xác định trên hai tiêu chuẩn (dấu
hiệu): tiêu chuẩn y học và tiêu chuẩn về tâm lý (dấu hiệu pháp lý). Tiêu chuẩn y học

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 37


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

của người trong tình trạng không có năng lực TNHS là việc mắc bệnh tâm thần (có
thể là bệnh tâm thần kinh niên hoặc rối loạn tâm thần nhất thời) và tình trạng bệnh
khác (như bệnh rối loạn tuần hoàn não, u não, sốt rét ác tính…) ảnh hưởng đến khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Tiêu chuẩn tâm lý của người trong
tình trạng không có năng lực TNHS là mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi. Thực tế thấy rằng không phải mọi trường hợp mắc bệnh tâm thần đều
mất đi năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Có trường hợp năng lực
này chỉ mất đi trong từng khoảng thời gian, không mang tính liên tục và cũng có
trường hợp không làm mất đi năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi.
Luật hình sự nước ta không quy định riêng về năng lực hành vi hạn chế. Theo
điểm q khoản 1 Điều 51 BLHS thì người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Ngoài ra, pháp luật hình sự còn quy định về trường hợp người thực hiện hành
vi phạm tội trong tình trạng say. Điều 13 BLHS quy định: Người phạm tội trong tình
trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn chịu TNHS. Trong
tình trạng say do dùng rượu hoặc dùng chất kích thích mạnh khác, năng lực nhận
thức và năng lực điều khiển hành vi có thể bị giảm sút hoặc mất đi trong một khoản
thời gian nhất định, nhưng người thực hiện hành vi vẫn phải chịu TNHS, thậm chí
một số trường hợp còn là tình tiết định khung tăng nặng TNHS (ví dụ điểm b khoản
2 Điều 260 BLHS). Quy định này thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc đấu
tranh với tình trạng phạm tội do dùng rượu bia và các chất kích thích khác.
- Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 12 BLHS nước ta xác định tuổi chịu TNHS như sau
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội
phạm mà Bộ luật này có quy định khác
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về
tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng quy định tại một trong các điều quy định từ điểm a đến điểm
e khoản 2 Điều 12 BLHS.
Tuổi chịu TNHS được tính theo ngày. Vì vậy, để xác định tuổi chính xác cần
phải căn cứ vào ngày sinh của người phạm tội. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 38


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011,


tuổi của người phạm tội được tình như sau:
Nếu xác định được quý cụ thể, nhưng không xác định được ngày tháng nào thì
lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của người phạm tội;
Nếu xác định được quý cụ thể của năm nhưng không xác định được ngày,
tháng nào thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm ngày sinh của
người phạm tội;
Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm nhưng không xác
định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30
tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của người
phạm tội;
Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào, ngày nào trong
năm thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của người phạm tội.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu không xác định được ngày, tháng, năm sinh của
người phạm tội thì trưng cầu giám định để xác định tuổi của người phạm tội.
4.5.3 Chủ thể đặc biệt của tội phạm.
Chủ thể đặc biệt của tội phạm là những người ngoài những dấu hiệu cần thiết của
chủ thể tội phạm nói chung, còn cần những dấu hiệu khác nữa và chỉ những người
có dấu hiệu riêng biệt này mới thực hiện được các tội phạm tương ứng. Những dấu
hiệu đặc trưng của chủ thể đặc biệt gồm:
- Dấu hiệu về quốc tịch của người phạm tội. Ví dụ: Tội phản bội Tổ quốc (Điều
108 BLHS) người phạm tội phải là công dân Việt Nam
- Dấu hiệu về chức vụ của người phạm tội. Ví dụ: Tội tham ô (Điều 353
BLHS), Tội nhận hối lộ (Điều 354 BLHS) người phạm tội phải là người có chức vụ,
quyền hạn…;
- Dấu hiệu liên quan đến nghề nghiệp chuyên môn. Ví dụ: Tội làm sai lệch hồ
sơ vụ án (Điều 375 BLHS), Tội không thi hành án (Điều 379 BLHS)…;
- Dấu hiệu liên quan đến nghĩa vụ. Ví dụ: Tội trốn tránh nghĩa vụ dân sự (Điều
332 BLHS), Tội không chấp hành án (Điều 380 BLHS)…;
- Dấu hiệu về độ tuổi, giới tính, quan hệ gia đình. Ví dụ: Tội giao cấu hoặc trực
tiếp hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều
145 BLHS), Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS), Tội loạn luân (Điều 184 BLHS), Tội
ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi
dưỡng mình (Điều 185 BLHS)…

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 39


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Những dấu hiệu của chủ thể đặc biệt được quy định trong các điều luật về các
tội phạm cụ thể của BLHS có ý nghĩa là những dấu hiệu định tội hoặc những dấu
hiệu định khung hình phạt. Trong đồng phạm về một tội mà luật định chủ thể đặc
biệt thì người thực hành phải là người thỏa mãn dấu hiệu chủ thể đặc biệt, những
người đồng phạm khác không nhất thiết phải là chủ thể đặc biệt.
4.5.4 Vấn đề nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu, mối quan hệ của
con người đối với xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hộ của tội phạm, giáo dục, cải tạo người phạm tội. Các dấu hiệu,
đặc điểm của nhân thân người phạm tội gồm:
- Các đặc điểm về xã hội nhân khẩu học: Tuổi, giới tính, trình độm địa vị xã
hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi sinh sống…
- Các dấu hiệu về pháp luật hình sự: Tiền án, tiền sự, động cơ, mục đích, phạm
tội có tính chuyên nghiệp,…
- Các dấu hiệu vê đặc điểm tâm lý: Quan điểm, nhu cầu, sở thích, thị hiếu thói
quen, lí trí, ý chí, xúc cảm, tình cảm,…
- Các dấu hiệu khác: Hiểu biết về pháp luật, ý thức pháp luật…
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng
đắn TNHS nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự. Trong một
số trường hợp có đặc điểm nhân thân người phạm tội là dấu hiệu định tội. Nghiên
cứu nhân thân người phạm tội còn có ý nghĩa trong việc xác định tính chất mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội và là căn cứ quyết định hình phạt.
4.5.5 Các dấu hiệu của chủ thể tội phạm là pháp nhân thương mại
Theo quy định tại Điều 75 BLHS, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS khi có
đủ các điều kiện sau:
- Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
- Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
- Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận
của pháp nhân thương mại;
- Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27
BLHS.
Như vậy, không phải pháp nhân thương mại nào khi thực hiện hành vi bị coi là
tội phạm được quy định trong BLHS đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm mà
chỉ những pháp nhân thương mại khi thực hiện hành vi có đủ các điều kiện trên mới

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 40


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

phải chịu TNHS. Tuy nhiên, các pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS đối với
những tội phạm được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 76 BLHS.
4.6 Mặt chủ quan của tội phạm
4.6.1 Khái niệm
Mặt chủ quan của tội phạm là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện và hậu quả cho xã hội do hành vi đó
gây ra. Hai mặt này là một thể thống nhất với nhau, không thể có hành vi độc lập với
suy nghĩ, mong muốn của chủ thể tội phạm. Luật hình sự Việt Nam coi tội phạm là
một thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và các yếu tố chủ quan.
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong, phản ánh trạng thái tâm lý
của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi gây
ra.
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu: Lỗi, động cơ, mục đích
phạm tội. Trong đó lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi CTTP, các dấu hiệu
khác chỉ là dấu hiệu bắt buộc trong một số trường hợp luật định.
4.6.2 Các dấu hiệu của mặt chủ quan
a) Lỗi
Là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối
với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Cơ sở xã hội của lỗi là vấn đề tự do ý chí. Một người bị coi là có lỗi khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu đó là kết quả sự tự lựa chọn và tự quyết định
thực hiện trong khi họ có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và quyết
định một cách xử sự khác phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực xã hội. Bản chất
của lỗi là sự phủ định chủ quan của chủ thể đối với các lợi ích của xã hội, sự phủ
định chủ quan này được phản ánh qua việc thực hiện hành vi gây thiệt hại cho các
quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ.
Tiền đề của lỗi là năng lực TNHS và độ tuổi chịu TNHS, không thể nói đến lỗi
của một người không có năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi mà
mình thực hiện hoặc không có năng lực điều khiển hành vi theo các chuẩn mực và
yêu cầu của xã hội. Lỗi là dấu hiệu chủ quan bắt buộc của tất cả các tội phạm, trong
các CTTP cụ thể lỗi được quy định là cố ý hoặc vô ý.
Căn cứ vào lý trí, ý chí của người phạm tội, Luật hình sự chia lỗi cố ý làm hai
loại là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 41


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Lỗi cố ý trực tiếp: Là lỗi của người thực hiện tội phạm, nhận thức rõ hành vi
của mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn cho hậy quả xảy ra
 Về lý trí, người thực hiện hành vi phạm tội nhân thức rõ hành vi của mình là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được các tình tiết có liên quan đến việc
thực hiện hành vi như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm… và thấy trước hậu quả của hành vi đó, việc thấy trước hậu quả là tất nhiên
hoặc có thể, việc thấy trước là rất rõ ràng.
 Về ý chí, người phạm tội có thái độ mong muốn cho hậu quả xảy ra. Trong
trường hợp người phạm tội không mong muốn cho hậu quả xảy ra, nhưng khi thực
hiên hành vi người đó thấy trước hậu quả tất nhiên sẽ xảy ra thì lỗi của người đó
luôn luôn là cố ý trực tiếp.
Ví dụ: A vì muốn trả thù nên đã thực hiện hành vi dùng dao đâm chết B. Lỗi của
A trong trường hợp này là cố ý trực tiếp vì về mặt lý trí, A nhận thức rõ hành vi
dùng dao đâm B là hành vi nguy hiểm cho B, thấy trước được việc đâm dao vào B
sẽ chắc chắn gây ra cái chết cho B nhưng A vẫn mong muốn cho B chết.
- Lỗi cố ý gián tiếp: Là lỗi của người thực hiện tội phạm nhận thức rõ hành vi
của mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể
xảy ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
 Về lý trí, người phạm tội nhận thức rõ ràng hành vi của mình là hành vi nguy
hiểm cho xã hội và nhận thức được hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra.
 Về ý chí, tuy không mong muốn nhưng người phạm tội có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra.
Ví dụ: Sau khi nhậu vì mâu thuẫn nên trên đường về A và B đã dừng lại trên
cầu và cãi nhau tiếp. Do không giữ được bình tĩnh nên A đã xô B ngã xuống sông.
Vì trước đó đã uống rượu nên sau khi bơi một lúc thì B bị chuột rút và đuối nước
chết. Khi xô B xuống sông, A nhận thức được việc này là nguy hiểm, có thể dẫn đến
B chết nhưng do đang bực tức nên A vẫn cứ xô B. Mặc dù A không mong muốn giết
B nhưng nếu B có chết A cũng mặc kệ.
Việc phân biệt rõ lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp có ý nghĩa xác định tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm làm căn cứ cho việc định khung
hình phạt và căn cứ lượng hình. Ngoài ra, trong lý luận khoa học luật hình sự và
thực tiễn còn phân chia các hình thức cụ thể của lỗi cố ý theo thời điểm hình thành
của nó so với thời điểm thực hiện hành vi là lỗi cố ý có dự mưu và cố ý không có sự

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 42


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

mưu (hoặc cố ý đột xuất). Theo mức độ cụ thể của hậu quả mà chủ thể hình dung ra
trước khi thực hiện tội phạm mà phân chia ra thành lỗi cố ý xác định và cố ý không
xác định.
Căn cứ vào sự tương quan giữa lý trí và ý chí của người phạm tội, Luật hình sự
chia lỗi vô ý làm hai loại là vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả:
- Lỗi vô ý vì quá tự tin: Là lỗi của người phạm tội tuy thấy trước hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
 Về lý trí, người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
 Về ý chí, người phạm tội tin rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn
được.
Niềm tin của người thực hiện hành vi xuất phát từ khả năng của bản thân, sự
trợ giúp của người khác, trang thiết bị, máy móc… Quá tự tin thể hiện ở chỗ sự tin
tưởng đó là không có cơ sở thực tế đầy đủ. Nếu sự tin tưởng, trông mong của người
phạm tội vào các tình tiết là có cơ sở thực tế đầy đủ thì người đó không có lỗi. Nếu
sự tin tưởng, trông mong không có cơ sở thực tế thì lỗi của họ là cố ý gián tiếp.
Ví dụ: Lê Tân T là tài xế xe khách chở 44 em học sinh trường PTTH Nguyễn
Khuyến (thành phố H) đi tham quan, khi qua đoạn giao nhau giữa đường sắt và
đường dân sinh ở huyện T tỉnh Đ đã bị tàu lửa va vào gây tai nạn làm 4 người chết
và 5 em người bị thương. Lỗi của T là lỗi vố ý vì quá tự tin. Khi đưa xe qua đường
sắt trong khi đoàn tàu đang đến gần, T thấy trước hành vi của mình có thể sẽ bị tàu
lửa đâm phải nếu không băng qua kịp nhưng T tin rằng hậu quả này sẽ không xảy ra
vì T là tài xế có kinh nghiệm chạy xe trên tuyến đường này nhiều năm, xe tốt và thời
gian đủ để kịp đưa xe qua đường ray trước khi tàu hỏa đến. Tuy nhiên, T đã không
đánh giá đúng thực tế khi xe bị chết máy ngay trên đường ray và bị đoàn tàu đâm
vào gây ra hậu quả trên.
- Lỗi vô ý vì cẩu thả: Là lỗi của người phạm tội không thấy trước hành vi của
mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể
thấy trước.
 Về lý trí, người phạm tội không thấy trước hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội có thể gây hậu quả nguy hại cho xã hội.
 Về ý chí, người phạm tội phải thấy trước và có thể thấy trước. Phải thấy trước
(buộc phải thấy trước) là tiêu chuẩn chủ quan của lỗi, nó thể hiện rõ lỗi của người đó

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 43


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

với tính chất là một trạng thái tinh thần trong đó người phạm tội không thấy trước,
nhưng có nghĩa vụ phải thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Nghĩa vụ phải thấy trước này đặt ra do chết độ, nội quy công tác, quy trình, quy tắc,
chức trách, công vụ, nghĩa vụ, tuổi tác, sức khỏe, diễn biến của sự việc… Có thể
thấy trước là tiêu chuẩn khách quan của lỗi, tức là trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
bất kỳ người nào cũng có thể thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội. Khả năng thấy trước hậu quả của người phạm tội do điều kiện
khách quan cụ thể do điều kiện về tuổi, trình độ, nghề nghiệp, kinh nghiệm…
Ví dụ: Do có việc gấp nên khi phát thuốc cho bênh nhân dược sĩ M đã lấy
nhầm thuốc dẫn đến bệnh nhân bị sốc thuốc và chết. M không nhận thức được hành
vi của mình là phát nhầm thuốc nên không nhận thức được hành vi này sẽ gây ra hậu
quả chết người. Với địa vị là một người phát thuốc cho bệnh nhân dược sĩ M này
phải thấy được việc không cẩn thận trong việc lấy thuốc có thể dẫn đến đưa nhầm
thuốc cho bệnh nhân và hành vi này có thể gây ra hậu quả chết người.
Ngoài ra, trong khoa học luật hình sự và thực tiễn còn thừa nhận trường hợp
hỗn hợp lỗi. Hỗn hợp lỗi là trường hợp trong đó thái độ tâm lý của người phạm tội
đối với hành vi là cố ý nhưng đối với hậu quả thực tế xảy ra thì lỗi của người đó lại
là vô ý (hậu quả thực tế nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội). Trường
hợp này chỉ xảy ra ở những CTTP tăng nặng là những hậu quả nguy hiểm nhất định
cho xã hội.
Ví dụ: Để cướp được xe máy của A, B đã xô A ngã. Do đầu đập mạnh xuống
đường nên A tử vong. Hành vi cướp tài sản của B thuộc điểm a khoản 4 Điều 168
BLHS 2015. Ở trường hợp này B thực hiện hành vi cướp tài sản với lỗi cố ý nhưng
hậu quả là A chết là lỗi vô ý.
b) Động cơ phạm tội.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội
phạm.
Cơ sở để hình thành động cơ phạm tội là những nhu cầu về vật chất, tinh thần,
các lợi ích cá nhân mà chủ thể đã có định hướng sai lệch hoặc là những tư tưởng sai
lệch của chủ thể, cũng có thể là những nhu cầu bình thường nhưng chủ thể đã lựa
chọn cách thức thỏa mãn trái với các lợi ích và chuẩn mực xã hội.
Động cơ phạm tội chỉ đối cới những tội phạm thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý.
Đối với những tội phạm do vô ý, người phạm tội không mong muốn thực hiện tội
phạm, không mong muốn gây ra thiệt hại cho xã hội nên không có động cơ phạm
tội. Những tội phạm thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý có thể có động cơ hành động
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 44
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

chứ không có động cơ phạm tội. Động cơ phạm tội nhìn chung không có ý nghĩa
trong việc định tội, trừ một số trường hợp nhất định. Ví dụ, động cơ phòng vệ chính
đáng trong Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 125
BLHS). Động cơ phạm tội còn là tình tiết định khung (tăng nặng hoặc giảm nhẹ) (ví
dụ, điểm q khoản 1 Điều 123 BLHS) hoặc tình tiết tăng nặng (ví dụ điểm c khoản 1
Điều 51 BLHS), giảm nhẹ (ví dụ, điểm đ khoản 1 Điều 52 BLHS) và quyết định
hình phạt

c) Mục đích phạm tội

Mục đích phạm tội là trạng thái tâm lý của con người khi thực hiện hành vi
phạm tội, là mô hình được hình thành trong ý thức là các mốc được đặt ra trong tư
duy của người phạm tội để hướng dẫn hành động trong thực hiện tội phạm.

Mục đích phạm tội là yêu cầu, mong muốn đặt được khi thực hiện hành vi
phạm tội. Tội phạm thực hiện do cố ý trực tiếp bao giờ cũng có mục đích phạm tội.
Tội phạm thực hiện do cố ý gián tiếp người phạm tội có thể theo đuổi những mục
đích nhất định nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi tội phạm trừ
những trường hợp nhất định (đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì mục
đích chống chính quyền nhân dân là dấu hiệu bắt buộc).

4.6.3 Sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đến trách nhiệm hình sự

Sai lầm là quan niệm không đúng của người phạm tội về tinh chất pháp lý, hậu quả
pháp lý cũng như trong việc đánh giá các tình tiết thực tế của hành vi và đối tượng
mà hành vi đó tác động đến. Khoa học luật hình sự thừa nhận những trường hợp sai
lầm sau:

- Sai lầm về pháp luật: Là nhận thức không đúng của người phạm tội về tính
chất pháp lý của hành vi, gồm các trường hợp sau:
 Người phạm tội hiểu lầm rằng hành vi của mình là tội phạm nhưng BLHS
không quy định đó là tội phạm, trường hợp này người thực hiện hành vi không phải
chịu TNHS.
Ví dụ: H trộm điện thoại của K. Sau đó, vì ân hận và sợ bị phát hiện nên H đã tự
thú với cơ quan điều tra. Tuy nhiên, chiếc điện thoại của K chỉ có giá trị 1 triệu đồng
nên theo quy định tại Điều 173 BLHS về Tội trộm cắp tài sản hành vi của H chưa
đủ để CTTP.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 45


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

 Người phạm tội cho rằng hành vi của mình không phải là tội phạm nhưng
BLHS quy định hành vi đó là tội phạm. Trường hợp này người thực hiện hành vi
phải chịu TNHS vì nhận thức về tính trái pháp luật hình sự không phải là nội dung
của lỗi. Tuy nhiên, nếu thật sự do lạc hậu mà người phạm tội không nhân thức đầy
đủ về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội thì có thể được giảm nhẹ TNHS.
Ví dụ: Theo thủ tục một vùng dân tộc thiểu số, khi người mẹ sinh ra mà tử vong
thì đứa trẻ sơ sinh dù còn sống vẫn phải được chôn cùng mẹ. Do không hiểu biết
pháp luật nên sau khi vợ chết N đã chôn đứa con của mình cùng với vợ mặc dù đứa
trẻ vẫn còn sống.
- Sai lầm về sự việc: Là nhận thức không đúng của một người về những tình tiết
thực tế của hành vi cũng như đối tượng mà hành vi đó tác động lên, gồm một số loại
sai lầm sau:
 Sai lầm về khách thể là trường hợp người phạm tội nhận thức không đúng về
quan hệ xã hội mà hành vi của họ đã xâm phạm đến. Có các dạng sai lầm về khách
thể sau:
Chủ thể có hành vi xâm hại một khách thể nhất định được Luật hình sự bảo vệ
nhưng thực tế đã không xâm hại được do tác độnh nhầm vào đối tượng thuộc khách
thể khác. Ví dụ: người thợ săn đã bắn vào người hái củi do tưởng đó là con hổ mà
anh ta đang rình bắn (hổ là đối tượng tác động của tội vi phạm các quy định về bảo
vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (Điều 234
BLHS). Chủ thể có hành vi nhằm xâm hại khách thể nhất định được Luật hình sự
bảo vệ nhưng không xâm hại được vì đã tác động nhầm vào đối tượng tác động
không phải là khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Ví dụ: A đâm B đang trùm chăn
ngủ nhưng thực tế B đã đi ra ngoài và đặt gối ôm vào vị trí của mình để đánh lạc
hướng A, vì vậy A đã đam vào gối ôm mà không phải là B. Cả hai trường hợp này
chủ thể phải chịu TNHS về tội định phạm lỗi cố ý trực tiếp.
Chủ thể không nhất định xâm hại khách thể được Luật hình sự bảo vệ nhưng
thực tế đã xâm hại vì đã tác động nhầm vào đối tượng thuộc khách thể được Luật
hình sự bảo vệ. Ví dụ: định tiêu hủy giấy loại nhưng thực tế đã tiêu hủy tài liệu bí
mật nhà nước. Trường hợp này họ phải chịu TNHS với tội họ đã gây ra với lỗi vô ý
nếu họ có lỗi vô ý.
 Sai lầm về đối tượng tác động: là trường hợp người thực hiện hành vi nhận
thức không đúng về đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Định trộm xe máy của
B nhưng đã trộm nhầm xe máy của A. trường hợp này chỉ nhầm về đối tượng tác

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 46


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

động (xe máy của B nhầm sang xe máy của A) còn khách thể bị xâm hại vần là
quyền sở hữu. TNHS trong trường hợp này không bị ảnh hưởng.
 Sai lầm về công cụ, phương tiện phạm tội: là trường hợp người phạm tội nhận
thức sai về tính năng tác đụng của công cụ, phương tiện mà mình sử dụng khi thực
hiện tội phạm. Chủ thể sử dụng công cụ, phương tiện phạm tội tưởng có tính năng
gây thiệt hại nhưng thực tế lại không có tính năng này. Ví dụ: A định giết B bằng
lựu đạn nhưng lựu đạn hỏng, không nổ nên không gây thiệt hại cho B. Trường hợp
này chủ thể phải chịu TNHS về tội định phạm với lỗi cố ý ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội. Trường hợp hai, chủ thể thực hiện công cụ, phương tiện tưởng không có
tính năng gây thiệt hại nhưng thực tế đã gây ra thiệt hại cho xã hội thì phải chịu
TNHS về tội đã phạm với lỗi vô ý nếu họ thỏa mãn các dấu hiệu của lỗi này. Ví dụ:
tưởng súng không có đạn nên trong khi đùa giỡn A đã bóp cò và làm chết người.
Ngoài ra, khoa học luật hình sự còn ghi nhận các sai lầm khác như: sai lầm về
thời gian, địa điểm; sai lầm về quan hệ nhân quả…
Tóm tắt chương
1. CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho loại tội
phạm cụ thể được quy định trong Luật hình sự. CTTP có các đặc điểm: các dấu hiệu
trong CTTP do luật quy định; có tính đặc trưng và có tính bắt buộc. quan hệ giữa tội
phạm và CTTP là quan hệ giữa hiện tượng và mô hình pháp lý, giữa nội dung và
hình thức trong đó CTTP là cơ sở pháp lý cho việc xác định tội phạm. CTTP có ý
nghĩa chính trị xã hội, lập pháp hình sự và áp dụng pháp luật.
2. Có nhiều cách phân loại CTTP. Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội CTTP chia thành CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, CTTP giảm nhẹ;
Căn cứ vào cấu trúc của CTTP chia thành CTTP vật chất, CTTP hình thức và CTTP
cắt xén;
3. Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm gồm 3 loại: khách thể chung, khách thể loại
và khách thể trực tiếp; trong đó khách thể chung là tổng thể các quan hệ xã hội được
Luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm; khách thể loại là nhóm quan hệ
xã hội có cùng tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự
xâm hại của tội phạm; khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật
hình sự bảo vệ khỏi một tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại.
Cần phân biệt đối tượng tác động của tội phạm và khách thể của tội phạm. Đối
tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tác động

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 47


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

lên nó người, pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ.
4. Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm
con người có thể nhận biết được bằng các giác quan trực tiếp hay bằng phương pháp
tư duy logic dựa trên cơ sở của mối liên hệ tất yếu giữa sự vật, hiện tượng này với sự
vật, hiện tượng khác. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm gồm: hành vi
khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả trong Luật hình
sự và những dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm như công cụ, phương
tiện phạm tội, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…
- Hành vi khách quan của tội phạm có đặc điểm: có tính nguy hiểm đáng kể cho
xã hội, là hoạt động có ý thức và có ý chí, là hành vi trái pháp luật hình sự. Hành vi
khách quan thể hiện dưới hai dạng hình thức hành động và không hành động. Lưu ý
các dạng cấu trúc đặc biệt của hành vi khách quan của tội phạm là tội ghép, tội kéo
dài, tội liên tục, phạm tội nhiều lần.
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội bao gồm thiệt hại về vật chất, thiệt hại về thể
chất, thiệt hại về phi vật chất.
- Giữa hành vi khách quan và hậu quả có mối quan hệ nhân quả. Để xác định
được mối quan hệ nhâ quả này về mặt thời gian và giữa hành vi và hậu quả phải có
mối quan hệ nội tại, tất yếu.
5. Chủ thể của tội phạm là người hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện hành
vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội; có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
trường hợp chủ thể tội phạm là người phạm tội đòi hỏi người đó phải có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS. Trong đó năng lực TNHS là khả năng của một
người tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện và điều khiển được hành vi ấy.
Theo quy định pháp luật hình sự Việt Nam người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chịu
TNHS về một số tội được quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS, từ đủ 16 tuổi trở lên
chịu trách nhiệm về mọi loại tội phạm, trừ trường hợp BLHS có quy định khác.
Trong một số CTTP ngoài hai dấu hiệu trên để trở thành chủ thể tội phạm cần có
thêm dấu hiệu khác như chức vụ, quyền hạn, giới tính, nghề nghiệp… Trường hợp
này được gọi là chủ thể đặc biệt. Ngoài ra, để giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của
người phạm tội cần quan tâm tới nhân của họ, đó là những đặc điểm riêng biệt có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định TNHS.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 48


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Trường hợp chủ thể tội phạm là pháp nhân thương mại thì đòi hỏi pháp nhân đó
thỏa mãn đầy đủ 4 điều kiện:
- Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
- Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
- Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận
của pháp nhân thương mại
- Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27
BLHS.
6. Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong, phản ánh trạng thái tâm lý
của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó
gây ra. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu: Lỗi; động cơ, mục đích,
trong đó lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mọi CTTP do chủ thể tội phạm là cá nhân
thực hiện.
- Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Căn cứ vào sự tương quan giữa lý trí và ý chí của người phạm tội, Luật hình sự
chia lỗi cố ý làm hai loại cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Lỗi cố ý trực tiếp: Là lỗi
của người khi thực hiện tội phạm, nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy
ra. Lỗi cố ý gián tiếp: Là lỗi của người khi thực hiện tội phạm nhận thức rõ ràng
hành vi của mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi
đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Căn cứ vào sự tương quan giữa lý trí và ý chí của người phạm tội, Luật hình sự
chia lỗi vô ý làm hai loại là vô ý vì quá tự tin và vô ý cẩu thả: Lỗi vô ý vì quá tự tin:
Là lỗi của người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn
ngừa được. Lỗi vô ý vì cẩu thả: là lỗi của người phạm tội không thấy trước hành vi
của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể
thấy trước.
Ngoài ra, trong khoa học luật hình sự và thực tiễn còn thừa nhận trường hợp hỗn
hợp lỗi.
- Động cơ phạm tội: Là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện
tội phạm. Động cơ phạm tội chỉ có đối với những tội phạm thực hiện dưới hình thức
lỗi cố ý.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 49


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Mục đích phạm tội: Là trạng thái tâm lý của con người khi thực hiện hành vi
phạm tội, là mô hình được hình thành trong ý thức, là cái mốc được đặt ra trong tư
duy của người phạm tội để hướng dẫn hành động trong khi thực hiện tội phạm. Mục
đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi tội phạm trừ những
trường hợp nhất định.
Ngoài ra, trong quá trình làm rõ mặt chủ quan của tội phạm cần quan tâm tới vấn
đề sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đến TNHS. Sai lầm là quan niệm không đúng
của người phạm tội về tính chất pháp lý, hậu quả pháp lý cũng như trong việc đánh
giá các tình tiết thực tế của hành vi và đối tượng mà hành vi đó tác động đến, gồm
các loại sau: sai lầm về pháp luật sai lầm về sự việc, trong đó sai lầm về sự việc có
các loại: sai lầm về khách thể, sai lầm về đối tượng tác động, sai lầm về công cụ,
phương tiện; Ngoài ra, khoa học luật hình sự còn ghi nhận các sai lầm khác như: sai
lầm về thời gian, địa điểm; sai lầm về quan hệ nhân quả…
Câu hỏi ôn tập
I. Câu hỏi tự luận
1. Trình bày các dấu hiệu luôn bắt buộc trong mọi CTTP do người phạm tội thực
hiện?
2. Trình bày các dấu hiệu không luôn bắt buộc phải có trong mọi CTTP do
người phạm tội thực hiện?
3. Nêu các dấu hiệu bắt buộc phải có trong CTTP vật chất?
4. Trình bày các dấu hiệu chủ thể của tội phạm là người phạm tội? Cách tính
tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
5. Nêu các điều kiện để pháp nhân thương mại phải chịu TNHS theo quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam.
6. So sáng lỗi cố ý trực tiếp với cố ý gián tiếp?
7. Phân biệt đối tượng tác động và khách thể của tội phạm. Cho ví dụ minh họa.
8. Phân biệt tội ghép, tội kéo dài, tội liên tục, phạm tội nhiều lần. Cho ví dụ
minh họa.
9. Nếu các dấu hiệu không luôn bắt buộc trong mọi CTTP thuộc mặt khách quan
của tội phạm. Ý nghĩa của các dấu hiệu này.
10.Trình bày các trường hợp sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đến TNHS của
người phạm tội.
II. Câu hỏi trắc nghiệm
Những nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích vì sao?

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 50


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

1. Để xác định loại tội phạm cần dựa vào mức hình phạt do Tòa án áp dụng đối
với người phạm tội.
2. CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, CTTP giảm nhẹ luôn có trong một tội danh.
3. Một tội phạm mà trên thực tế chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm có cấu thành hình thức.
4. Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội mà Luật hình sự có nhiệm vụ
điều chỉnh.
5. Khi một tội phạm tác động vào đối tượng tác động để thông qua đó xâm hại
đến khách thể của tội phạm thì làm cho đối tượng tác động trở nên xấu đi.
6. Tiền đề để xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là
tuổi chịu TNHS.
7. Người mắc bệnh tâm thần khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS thì không phải chịu TNHS.
8. Người bị cưỡng bức về thân thể thì không phải chịu TNHS về xử sự gây thiệt
hại cho xã hội được quy định trong BLHS.
9. Hậu quả gây ra cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP.
10. Người bị bệnh tâm thần là người không có năng lực TNHS.
11. Năng lực TNHS được xác định vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.
12. Người từ đủ 16 tuổi trở lên khi thực hiện hành vi phạm tội đều trở thành chủ
thể của tội phạm.
13. Pháp nhân là chủ thể của tội phạm.
14. Mọi pháp nhân khi thỏa mãn đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 75
BLHS đều phải chịu TNHS.
III. Câu hỏi tình huống
1. A (có NLTNHS) có hành vi buôn lậu 3 lô hàng hiệu là túi xác, quần áo trị giá
400 triêu đồng. Hành vi của A được quy định tại khoản 2 Điều 188 BLHS (Tội buôn
lậu)
Hỏi:
a. Khách thể trực tiếp của tội phạm do A thực hiện là gì?
b. Tội phạm mà A thực hiện thuộc CTTP cơ bản, tăng nặng hay giảm nhẹ? Tại
sao?
2. Do mâu thuẫn từ trước với B nên A (có NLTNHS) đã lên kế hoạch đốt kho
hàng của B để trả thù. Lợi dụng lúc trời tối, lúc B đi vắng, A đã dùng xăng tưới
quanh kho hàng và châm lửa đốt làm đồ đạc trong kho bị cháy, thiệt hại 500 triệu

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 51


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

đồng. Hành vi của A được qui định tại khoản 4 Điều 178 BLHS (Tội hủy hoại tài
sản).
Hỏi:
a. Khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội phạm do A thực hiện là gì?
b. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A?
c. Tội phạm mà A thực hiện có CTTP vật chất hay hình thức? Tại sao?
3. Do có mâu thuẫn từ trước với B nên A đã lên kế hoạch giết B để trả thù. Lợi
dụng lúc trời tối, A đã dùng một thanh sắt giòn, đặc ruột có đường kính 3cm, chiều
dài 70cm đánh nhiều nhát vào đầu, vào ngực của B làm B ngã gục tại chỗ. Tưởng B
đã chết nên A bỏ đi, nhưng do được cấp cứu kịp thời nên B không chết, tỉ lệ thương
tật là 73%. Hành vi của A được qui định tại khoản 1 Điều 123 BLHS (Tội giết
người).
Hỏi:
a. Công cụ phạm tội và đối tượng tác động trong vụ án trên?
b. Tội phạm mà A đã thực hiện là tội phạm có cấu thành hình thức hay vật chất?
Vì sao?
4. Trưa ngày 11/4, Huỳnh A gặp người bạn thân là Phạm B. Hai người đã rủ
nhau đi nhậu. Sau khi uống mỗi người mười hai chai bia, Huỳnh A đề nghị Phạm B
uống thêm nhưng B từ chối và đi xuống ghe của mình. Vì muốn giưc B lại nhậu tiếp
nên Huỳnh A xuống ghe của B tháo lấy kim xăng máy Cole 4.
Phạm B đòi Huỳnh A trả lại kim xăng để anh ta về nhưng A không đồng ý. Sau
một hồi cự cãi, Phạm B cầm khúc cây đánh vào mặt A. Huỳnh A giơ tay đỡ và mất
đà ngã xuống sông. Phạm B bỏ lên bờ để tìm nơi mua kim xăng. Khi Phạm B quay
lại thì được biết Huỳnh A đã chết. Kết luận giám định pháp y xác định A chết do
ngạt nước.
Hỏi: Hành vi của Phạm B có phạm tội không? Nếu có phạm tội với lỗi gì? Vì
sao?
5. Huỳnh, sinh viên đại học năm thứ 3 tham gia đua xe trái phép bằng moto
Jupiter đã tông vào xe máy của chị K và anh G đang lưu thông trên đường khiến chị
K và anh G chết tại chỗ. Cả hai xe máy hu hỏng hoàn toàn.
Hỏi:
a. Khách thể trực tiếp của tội phạm trong vụ án trên?
b. Đối tượng tác động của tội phạm do Huỳnh thực hiện?
c. Lỗi của Huỳnh là lỗi gì? Vì sao?
d. Xe Jupiter của Huỳnh là công cụ phạm tội hay phương tiện phạm tội?
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 52
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

CHƯƠNG 5
CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM

5.1 Khái niệm


Quá trình thực hiện tội phạm của người phạm tội thông thường diễn ra theo năm
bước là hình thành ý định phạm tội, biểu lộ ý định phạm tội, chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Ý định phạm tội là ý muốn, dự định gây
ra tội phạm. Ở bước này, thông thường người phạm tội hình thành mục đích, động
cơ phạm tội và hậu quả cần phải gây ra là gì. Quá trình này diễn ra trong thế giới nội
tâm của người phạm tội nhưng chưa được bộc lộ ra bên ngoài bằng hành vi. Bước
biểu lộ ý định phạm tội đã thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan bằng lời nói, cử
chỉ… Tuy nhiên, cả hai bước này chưa gây ra nguy hiểm hay đặt quan hệ xã hội mà
Luật hình sự bảo vệ vào trong tình trạng nguy hiểm nên chưa bị coi là giai đoạn thực
hiện tội phạm. trong một số trường hợp đặc biệt do tầm quan trọng của khách thể
cần được bảo vệ nên Luật hình sự quy định việc biểu lộ ý định phạm tội trở thành
một tội phạm độc lập như tội đe dọa giết người (Điều 133 BLHS), tội hoạt động
nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109 BLHS).
Bước chuẩn bị phạm tội có vai trò rất quan trọng bởi vì nó góp phần quyết định
đến tiến triển của việc thực hiện tội phạm. Người phạm tội đã tạo ra điều kiện cần
thiết thực hiện tội phạm, các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ đã bị đe dọa
gât thiệt hại. Tuy nhiên, quá trình chuẩn bị còn phụ thuộc vào điều kiện khách quan
và chủ quan của người chuẩn bị, phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại tội phạm.
Ở bước phạm tội chưa đạt, người phạm tội đã thực hiện tội phạm nhưng chưa
thực hiện được đến cùng do nguyên nhân khách quan. Vì các quan hệ xã hội được
Luật hình sự bảo vệ đã bị gây thiệt hại hoặc bị đjăt vào tình trạng nguy hiểm cao hơn
so với giai đoạn chuẩn bị phạm tội nên đây được xem là một giai đoạn thực hiện tội
phạm.
Bước tội phạm hoàn thành, hành vi của người phạm tội đa thỏa mãn hết các
dấu hiệu được mô tả trong CTTP và đã gây ra nguy hiểm cho quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ. Đây là giai đoạn cuối cùng trong quá trình thực hiện tội phạm.
Như vậy, theo quy định của BLHS các giai đoạn thực hiện tội phạm gồm chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành vì ở 3 giai đoạn này hoạt
động phạm tội đã thể hiện bằng hành vi và gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 53


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp thực hiện tội phạm với lỗi cố ý đều phải
trải qua đầy đủ các bước trên. Quá trình ấy có thể thay đổi trong từng trường hợp tùy
vào sự tác động của các điều kiện khách quan và chủ quan. Có trường hợp người
phạm tội nảy ra ý định phạm tội rồi thực hiện luôn ý định ấy, hoặc có trường hợp
việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm xảy ra xen kẽ nhau, bổ sung cho nhau trong quá
trình thực hiện tội phạm. Mỗi bước thực hiện tội phạm sẽ tương ứng với một mức độ
thực hiện tội phạm khác nhau.
Theo pháp luật hình sự Việt Nam, các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ có trong
các tội phạm thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp bởi vì chỉ có cố ý trực tiếp thì người
phạm tội mới có ý định phạm tội, mới tìm cách thực hiện tội phạm nhằm mục đích
phạm tội cụ thể. Còn hành vi phạm tội do cố ý gián tiếp, mặc dù khi thực hiện hành
vi chủ thể nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và thấy trước
hậu quả do hành vi ấy có thể gây ra song họ không mong muốn (bỏ mặc) cho hậu
quả xảy ra cho nên sẽ không có việc chuẩn bị phạm tội và cung không có giai đoạn
chưa đạt. Chủ thể sẽ phải chịu TNHS về hậu quả thực tế đã xảy ra (nếu có), tức là tội
phạm đã hoàn thành. Đối với hành vi phạm tội được thực hiện hành vi gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả, hoặc tuy thấy
trước khả năng đó nhưng lại tin tưởng rằng hậu ủa không xảy ra, hay nếu xảy ra thì
có thể ngăn ngừa được, do đó không thể có hành vi chuẩn bị tội phạm và không có
phạm tội chưa đjat. Mặt khác, đối ới những tội phạm thực hiện bởi lỗi cô ý thông
thường chỉ khi nào có hậu quả xảy ra thì mới CTTP cho nên đối với những tội này
chỉ có tội phạm hoàn thành mà không có tội phạm chưa đạt.
Theo quy định của Luật hình sự Việt Nam, quá trình thực hiện tội phạm với lỗi
cố ý trực tiếp chỉ có ba giai đoạn là chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội
phạm hoàn thành. Từ đó có thể hiểu: các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước
trong quá trình thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt và tội phạm hoàn thành.
5.2 Chuẩn bị phạm tội.
5.2.1 Định nghĩa và các đặc điểm của giai đoạn chuẩn bị phạm tội
Điều 14 BLHS quy định: “Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ,
phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành
lập, tham gia nhóm tội phạm trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2
Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này”.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 54


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Như vậy, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo
ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, nhưng chưa bắt đầu thực
hiện tội phạm đó. Trong giai đoạn chuẩn bị có thể có các hành vi sau:
- Tìm kiếm công cụ, phương tiện phạm tội như mua, mượn kiềm cộng lực, búa
để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản…
- Sửa soạn công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm như chế tạo, sửa chữa
công cụ, phương tiện phạm tội.
- Hành vi chuẩn bị những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm như
nghiên cứu địa hình, tìm đồng bọn, lên phương án, kế hoạch thực hiện tội phạm…
- Hành vi thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm… trừ trường hợp hành vi
thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm chống chính quyền nhân dân phạm tội hoạt
động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109 BLHS) hoặc phạm tội khủng bố
nhằm chống chính quyền nhân dân (điểm a khoản 2 Điều 113 BLHS) hoặc phạm tội
khủng bố (điểm a khoản 2 Điều 199 BLHS).
Theo quy định tại Điều 14 BLHS, giai đoạn chuẩn bị phạm tội có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Chủ thể mới có hành vi tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm
mà chưa thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP.
Đây là giai đoạn đầu của quá trình phạm tội. Ở giai đoạn này người phạm tội
chưa thực hiện hành vi trong CTTP. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn này là thời
điểm người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp
cho việc thực hiện tội phạm được thuận lợi hơn, dễ dàng hơn (ví dụ: tìm kiếm công
cụ, rủ rê tìm kiếm đồng bọn…); thời điểm muộn nhất của giai đoạn này là thời điểm
trước lúc người phạm tội thực hiện hành vi khách quan hoặc những hành vi đi liền
trước hành vi được mô ta trong CTTP.
Ví dụ: hành vi khách quan của Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS) là dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản của
người khác thì thời điểm muộn nhất được xác định của giai đoạn chuẩn bị phạm tội
là trước khi người phạm tội có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc
dùng thủ đoạn khác.
Hành vi chuẩn bị phạm tội thể hiện ở một số dạng cụ thể như: chuẩn bị công cụ,
phương tiện phạm tội; chuẩn bị kế hoạch phạm tội; thăm dò địa điểm phạm tội; làm
quen với nạn nhân hoặc người bị hại; loạt trừ trước những trở ngại khách quan…

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 55


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Hành vi chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp xâm hại đến khách thể mà mới chỉ
nhằm vào khách thể, đặt khách thể trong tình trạng nguy hiểm và hậu quả nguy
hiểm cho xã hội chưa xảy ra.

Tuy hành vi chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình
thường của đối tượng tác động để qua đó xâm hại đến khách thể, nhưng hành vi ấy
đã nhằm vào một khách thể nhất định, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ gây
thiệt hại cho quan hệ xã hội và hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra. Với tính chất là hành vi
tạo ra những điều kiện, tiền đề cho việc thực hiện tội phạm cho nên hành vi chuẩn bị
đóng vai trò quan trọng. Khách thể có bị xâm hại hay không và với mức độ như thế
nào phụ thuộc nhất định vào hành vi chuẩn bị. Chính vì vậy, hành vi chuẩn bị cũng
bị coi như một trong các giai đoạn của quá trình thực hiện tội phạm. Thực tiễn cho
thấy những tội phạm có quá trình chuẩn bị kỹ càng, chu đáo thường gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội lớn hơn những trường hợp khác.

5.2.2 Trách nhiệm hình sự của giai đoạn chuẩn bị phạm tội
Hành vi trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp xâm hại đến khách thể
của tội phạm, chưa gây thiệt hại cho xã hội nên tính nguy hiểm cho xã hội còn hạn
chế nên không phải mọi trường hợp chuẩn bị phạm tội đều bị truy cứu TNHS. Theo
quy định Luật hình sự Việt Nam, chỉ những trường hợp được quy định tại khoản 2
Điều 14 BLHS mới bị coi là tội phạm. Tuy nhiên, nếu hành vi chuẩn bị phạm tội
trong trường hợp này đã đủ yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập thì họ phải chịu
trách nhiệm về tội phạm độc lập này.
Ví dụ: Để thực hiện được hành vi cướp tài sản, A đã mua một khẩu súng của
một đối tượng quen biết trên mạng và chuẩn bị đi cướp tài sản thì bị phát hiện.
Trường hợp này A phải chịu TNHS về tội cướp tài sản ở giai đoạn chuẩn bị và tội
mua bán trái phép vũ khi quân dụng.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 57 BLHS, “đối với trường hợp chuẩn bị phạm
tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong
các điều luật cụ thể”. Ví dụ, khoản 2 Điều 108 BLHS, khoản 3 BLHS… Như vậy, so
với giai đoạn tội phạm hoàn thành và phạm tội chưa đạt thì TNHS của người thực
hiện tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn. Ví dụ, người phạm tội gián
điệp ở giai đoạn tội phạm hoàn thành quy định tại khoản 1 Điều 110 BLHS bị phạt
tù từ 12 năm, tù chung thân hoặc tử hình; nếu ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội (khoản
3 Điều 110 BLHS) thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 56


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Trường hợp người phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm
tội thì chỉ phải chịu TNHS đối với tội giết người (Điều 123), tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134), tội cướp tài sản (Điều
168), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169).
5.3 Phạm tội chưa đạt
5.3.1 Định nghĩa và đặc điểm của giai đoạn phạm tội chưa đạt
Điều 15 BLHS quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng
không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người
phạm tội”.
Căn cứ vào quy định trên có thể xác định thời điểm bắt đầu của giai đoạn phạm
tội chưa đạt là thời điểm người phạm tội bắt đầu thực hiện tội phạm và thời điểm kết
thúc của giai đoạn này là thời điểm trước khi dấu hiệu khách quan cuối cùng trong
CTTP được thỏa mãn. Cũng từ quy định này chúng ta rút ra những đặc điểm của giai
đoạn phạm tội chưa đạt như sau:
- Chủ thể đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Chủ thể bắt đầu thực hiện hành vi
khách quan được mô tả trong CTTP (như bắn, đâm, giật…) hoặc đã thực hiện hành
vi “đi liền trước” hành vi khách quan của tội phạm (ví dụ: lắp đạn vào súng, giơ dao
để đâm…). Ở gian đoạn này chủ thể đã bắt đầu thực hiện tội phạm và hành vi đó đã
xâm hại đến khách thể hoặc đe dọa nghiêm trọng đến khách thể của tội phạm.
Hành vi “đi liền trước” hành vi khách quan là hành vi mà về ý chí chủ quan của
chủ thể cũng như biểu hiện thực tế của hành vi “đi liền trước” cho thấy rằng nếu
hành vi “đi liền trước” này không được ngăn chặn thì hành vi khách quan tất yếu sẽ
xảy ra. Như vậy, thực chất hành vi “đi liền trước” không phải là hành vi khách quan
(được mô tả trong CTTP), tuy nhiên vì hành vi này liên hệ mật thiết và rất gần với
hành vi khách quan cho nên thực hiện hành vi “đi liền trước” được coi là một trường
hợp bắt đầu thực hiện tội phạm. Ranh giới để phân biệt giai đoạn phạm tội chưa đạt
với giai đoạn chuẩn bị phạm tội là ngay khi chủ thể bắt tay vào việc thực hiện tội
phạm.
- Chủ thể chưa thực hiện tội phạm được đến cùng.
 Đối với tội phạm có CTTP vật chất, được coi là phạm tội chưa đạt khi hậu quả
luật định chưa xảy ra (Ví dụ: đã đâm nạn nhân nhưng nạn nhân chưa chết) hoặc hậu
quả thực tế đã xảy ra không có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội (Ví dụ:
kẻ giết người đâm một nhát vào tay của nạn nhân, nạn nhân bỏ chạy ngã đập đầu
xuống đường và chết).

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 57


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

 Đối với tội phạm có CTTP hình thức, được coi là phạm tội chưa đạt trong
những trường hợp sau:
Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan mà chỉ mới thực hiện hành vi
“đi liền trước” (Ví dụ: mới giơ gậy ra định đánh người đi đường để cướp tài sản thì
bị bắt). Vì chủ thể chỉ mới thực hiện hành vi “đi liền trước” thì tội phạm bị dừng lại
cho nên trong trường hợp này, chủ thể chưa thực hiện được hành vi trong mặt khách
quan của CTTP, khách thể của tội phạm chưa bị xâm hại, hậu quả của tội phạm chưa
xảy ra. Hành vi phạm tội mà người phạm tội thực hiện chưa thỏa mãn đầy đủ các
điều kiện trong CTTP, do vậy, tội phạm chưa thực hiện được đến cùng.
Chủ thể chưa thực hiện hết các hành vi khách quan của CTTP mà mới chủ thực
hiện một phần hành vi khách quan. Trường hợp này xảy ra ở các tội phạm mà dấu
hiệu hành vi khách quan của các tội này bao gồm nhiều hành vi khác nhau. Ví dụ:
vật ngã được nạn nhân những chưa thực hiện được việc giao cấu thì bị bắt giữ.
Khi chủ thể chỉ mới thực hiện một phần hành vi khách quan mà tội phạm dừng
lại thì hành vi phạm tội mà người phạm tội thực hiện chưa thỏa mãn dấu hiệu trong
mặt khách quan của CTTP. Do đóm tội phạm cũng được xem là chưa thực hiện đến
cùng.
- Nguyên nhân dẫn đến tội phạm chưa thực hiện được đến cùng là nguyên nhân
ngoài ý muốn của chủ thể tội phạm.
Điều này có nghĩa tội phạm dừng lại trên thực tế là vì nguyên nhân khách quan,
còn ý muốn chủ quan của người phạm tội là vẫn mong muốn thực hiện tội phạm đến
cùng. Đây là dấu hiệu để phân biệt với trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội. Những nguyên nhân khách quan trường gặp trong thực tế do bị người khác
phát hiện va ngăn chặn; người bị hại chống cự hoặc tránh được; những trở ngại từ
điều kiện thiên nhiên hoặc các điều kiện khác; sự sai lầm của người phạm tội về đối
tượng tác động, công cụ, phương tiện…
5.3.2 Phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt
- Căn cứ vào thái độ tâm lý của người phạm tội đối với việc chưa đạt có thể
phân chia thành phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn
thành.
 Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là phạm tội vì những nguyên nhân khách
quan chưa thực hiện hết những hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội
phạm.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 58


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Ví dụ: A định giết B và dùng dao đâm B, tuy nhiên mới đâm được một nhát
trúng tay B thì bị người nhà B bắt giữ, không đâm tiếp được như dự định.
 Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện
hết các hành vu cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng vì những nguyên nhân
ngoài ý muốn, hậu quả vẫn không xảy ra.
Ví dụ: A định giết B và đâm B nhiều nhát. Thấy B gục xuống tưởng B đã chết
nên A không đâm nữa. Vì được cấp cứu kịp thời nên B không chết
Việc phân biệt phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn
thành có ý nghĩa lớn trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, đặc biệt khi xem xét
các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứ ciệc phạm tội.
- Căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội chưa đạt
có thể phân chia thành phạm tội chưa đạt vô hiệu hóa và các trường hợp phạm tội
chưa đạt khác.
Phạm tội chưa đạt vô hiệu là trường hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân
khách quan của việc chưa đạt gắn liền với công cụ, phương tiện phạm tội; với đối
tượng tác động, với khách thể của tội phạm. Một cố trường hợp phạm tội chưa đạt
vô hiệu thường gặp là:
 Phạm tội chưa đạt do khách thể hoặc đối tượng tác động vô hiệu: Là trường
hợp chủ thể thực hiện hành vi nhằm gây thiệt hại cho khách thể nào đó nhưng thực
tế không gây thiệt hại được vì không có đối tượng tác động (Ví dụ: mở tủ nhà hàng
xóm lấy trộm tiền nhưng không lấy được vì trong tủ không có tiền) hoặc đối tượng
tác động không có những tính chất mà chủ thể tưởng là có (Ví dụ: A tưởng B là điều
tra viên nên đưa hối lộ cho B để nhờ chạy án cho em mình nhưng thực ra B chỉ là lái
xe cho cơ quan công an, không có chức vụ, quyền hạn).
 Phạm tội chưa đạt vì phương tiện vô hiệu: Là trường hợp chủ thể đã sử dụng
phương tiện không có khả năng gây ra hậu quả mà họ mong muốn, người đó không
biết đó là phương tiện vô hiệu.
Ví dụ: Định giết B nên A đã bỏ thuốc độc vào ly bia và mời B uống nhưng B
không chết vì thuốc độc giả.
5.3.3 Trách nhiệm hình sự trong giai đoạn phạm tội chưa đạt
Điều 15 BLHS quy định: “Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sjw
về tội phạm chưa đạt”.
Vì phạm tội chưa đạt là trườn hợp người phạm tội có hành vi trực tiếp xâm hại
khách thể, đã trực tiếp gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội nên Luật hình sự

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 59


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Việt Nam không giới hanh những trường hợp phải chịu TNHS như giai đoạn chuẩn
bị phạm tội mà xác định mọi trường hợp phạm tội chưa đạt đều phải chịu TNHS. Vì
tính nguy hiểm cho xã hội của giai đoạn này hạn chế hơn so với tội phạm hoàn thành
nên TNHS nhẹ hơn: “Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp
dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì áp dụng hình
phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thù mức hình phạt không quá ba
phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định” (khoản 3 Điều 57 BLHS).
Nếu tội phạm dừng lại ở giai đoạn chưa đạt nhưng hành vi phạm tội chưa đạt
đồng thời có đầy đủ yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập khác, thì người thực hiện
hành vi bị truy cứu THS về độc lập đó cùng với tội ở giai đoạn chưa đạt theo nguyên
tắc phạm nhiều tội.
5.4 Tội phạm hoàn thành
Theo khoa hoạc pháp lý hình sự, tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm
tội đã có đầy đủ các dấu hiệu mô tả trong CTTP được quy định tại điều luật cụ thể
trong Phần các tội phạm của BLHS Việt Nam.
Một tội phạm thực hiện với lỗi cố ý được xem là ở giai đoạn hoàn thành khi
hành vi đó đã đủ các dấu hiệu của một CTTP cụ thể tương ứng. Do đó, tội phạm
hoàn thành không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã thực hiện và kết thúc hành
vi của mình hay chưa, cũng không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã đạt được
mục đích của mình hay không.
Hành vi mà người phạm tội thực hiện trong giai đoạn tội phạm hoàn thành đã
có đầy đủ các dấu hiệu của một CTTP cụ thể trong phần các tội phạm của BLHS.
Đối với tội phạm có dấu hiệu cấu thành vật chất, tội phạm hoàn thành khi hậu quả
của tội phạm đã xảy ra. Ví dụ: Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chết.
Hành vi giết người được coi là hoàn thành khi hậu quả chết người xảy ra.
Đối với một tội phạm có cấu thành hình thức: Tội phạm hoàn thành khi người
phạm tội thực hiện được hết những hành vi được mô tả trong mặt khách quan của
CTTP mà không đòi hỏi hậu quả xảy ra. Nếu CTTP chỉ quy định một hành vi khách
quan thì tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi đó. Ví dụ: Tội
cướp tài sản được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi
dùng vũ lực hay hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm mục đích chiếm
đoạt tài sản. Nếu CTTP quy định nhiều hành vi trong mặt khách quan thì tội phạm
hoàn thành khi người phạm tội thực hiện đầy đủ các hành vi đó. Ví dụ: tội hiếp dâm

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 60


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

chỉ hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện hành vi dùng vũ lực và giao cấu trái
ý muốn của nạn nhân.
Thời điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội phạm kết thúc không phải lúc
nào cũng trùng nhau. Trên thực tế có thể xảy ra các trường hợp như: Tội phạm đã
hoàn thành nhưng hành vi phạm tội trên thực tế vẫn tiếp tục diễn ra, người phạm tội
chưa kết thúc hành vi của mình (Ví dụ: A dùng dao đâm trúng tim và làm B chết,
mặc dù biết rõ là B đã chết nhưng vì sự căm phẫn nên A vẫn tiếp tục chém nhiều
nhát lên thi thể của B); Hoặc thời điểm tội phạm đã hoàn thành muộn hơn so với
thời điểm tội phạm kết thúc. Ví dụ: A bỏ thuốc độc vào bình nước nhà B nhằm hạ
độc B. Vì uống phải nước có độc nên B đã chết. Tội phạm kết thúc kể từ thời điểm
A bỏ thuốc độc vào bình nước của nhà B nhưng tội phạm chỉ hoàn thành ở thời điểm
B chết.
Tội phạm hoàn thành nghĩa là hoàn thành về mặt pháp lý; còn tội phạm kết
thúc tức hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt trên thực tế, có thể đã đủ yếu tố
CTTP hoặc chưa.
TNHS đối với giai đoạn tội phạm hoàn thành được xác định theo điều luật
tương ứng tại phần các tội phạm trong BLHS. Trong các giai đoạn phạm tội, nếu
trong cùng một loại tội phạm (các dấu hiệu khác của tội phạm giống nhau) thì tội
phạm ở giai đoạn hoàn thành phải chịu TNHS nặng hơn so với tội phạm dừng lại ở
giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
5.5 Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
5.5.1 Các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Điều 16 BLHS quy định: “Tự ý nử chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không
thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”.Để được xác định là trường
hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Về khách quan, hành vi tự ý nửa chừng chấm dử việc phạm tội xảy ra ở giai
đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.
Theo Luật hình sự Việt Nam, một hành vi phạm tội được thừa nhận là tự ý nửa
chừng chấm dứt khi hành vi phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt
chưa hoàn thành. Khi tội phạm đã hoàn thành hoặc ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn
thành thì không thể có nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Bởi vì, ở giai đoạn phạm
tội chưa đạt đã hoàn thành, người phạm tội đã thực hiện hết tất cả những hành vi mà
họ mong muốn. Có thể vào thời điểm này hậu quả của tội phạm chưa xảy ra nhưng
theo ý thức chủ quan của người phạm tội thì nó sẽ xảy ra mà không cần một hành vi

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 61


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

tiếp theo nữa cho nên việc dừng lại của người phạm tội là không còn ý nghĩa. Ở giai
đoạn tội phạm hoàn thành, người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những dấu hiệu quy
định trong CTTP, việc tự nguyện dừng lại của người phạm tội tại thời điểm này
không còn ý nghĩa làm thay đổi tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
đã thực hiện.
Vì vậy, không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nếu sau khi tội
phạm đã hoàn thành, người phạm tội đã khôi phục tình trạng như cũ; hoặc tội phạm
đã hoàn thành, nhưng chưa bị phát giác, người phạm tội có thể tiếp tục phạm tội nữa
nhưng đã dừng lại và tự thú.
- Về chủ quan, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải tự nguyện, dứt
khoát.
Người phạm tội không tiếp tục thực hiện tội phạm không vì lý do khách quan
ngăn cản mà hoàn toàn do ý thức chủ quan chi phối, tức là tội phạm được chấm dứt
trong thực tế phải do người phạm tội tự nguyện, dứt khoát.
Được coi là tự nguyện nếu sự chấm dứt là kết quả của sự lựa chọn trong ý thức
người phạm tội không kể vì động cơ gì (thực tế có thể do lo sợ bị trừng trị bởi pháp
luật, do người phạm tội hối hận,…). Như vậy, sự tự nguyê nj ở đây hoàn toàn do
động lực bên trông chi phối chứ không phải do trở ngại khách quan, khi dừng lại
người phạm tội vẫn tin rằng hiện tại không có gì ngăn cản và họ vẫn có thể tiếp tục
thực hiện được hành vi phạm tội của mình.
Ví dụ: Vì hận tình, Nguyễn Hải D đã mua dao dự định sẽ đột nhập vào nhà cô L,
là người yêu cũ của D, để giết cả gia đình L. Để đạt kết quả D đã rủ Trần T đi cùng
hỗ trợ cho mình trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, khi đến trước cổng nhà cô L
thì T thấy sợ và không thực hiện cũng D mà bỏ về.
Người phạm tội dừng lại không thực hiện tiếp tội phải thực sự dứt khoát, điều đó
có nghĩa là họ phải chấm dứt hành vi một cách triệt để, từ bỏ hẳn ý định phạm tội
cũng như chấm dứt hành vi phạm tội trong thực tế.
5.5.2 Trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội
Điều 16 BLHS quy định: “Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn
trách nhiệm hình sự về tội họ định phạm”.
Sở dĩ đây là một trường hợp có thể được miễn TNHS bởi vì bằng việc tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội, hành vi của người phạm tội đã được coi như mất đi
tính nguy hiểm cho xã hội. Về khách quan, hành vi đã thực hiện của người tự ý nửa

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 62


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

chừng chấm dứt việc phạm tội chưa mang tính nguy hiemr đầy đủ của loại tội định
phạm vì hành vi chưa thỏa mãn đủ các dấu hiệu của CTTP. Về chủ quan, người đó
đã hoàn toàn tự nguyện từ bỏ hẳn ý định phạm tội, không còn xu hướng mong muốn
thực hiện tội phạm đến cùng nên hành vi đã thực hiện của họ giảm đi một cách đáng
kể tính nguy hiểm cho xã hội so với trường hợp tội phạm hoàn thành hoặc phạm tội
chưa đạt đã hoàn thành. Mặt khác, chế định này còn nhằm khuyến khích người đã
chuẩn bị phạm tội hoặc đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm tự nguyện dừng lại để
hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Tuy nhiên, trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người
phạm tội chỉ được miễn TNHS về tội họ định phạm. Điều đó có nghĩa là “nếu hành
vi thực tế đã thực hiện có đủ các yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó
phải chịu TNHS về tội này”.
Ví dụ: Để thực hiện được hành vi giết B, A đã mua một khẩu súng. Tuy nhiên,
trên đường đến nhà B thì A suy nghĩ lại, từ bỏ ý định này và vứt khẩu súng vào bãi
rác. A được miễn TNHS về tội giết người nhưng A phải chịu TNHS về tội mua bán
trái phép vũ khí quân dụng (Điều 304 BLHS).
Tóm tắt chương
1. Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình thực hiện tội
phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
2. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra
những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội
phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Giai đoạn này có đặc điểm:
- Chủ thể mới có hành ci tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm mà
chưa thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP.
- Hành vi chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp xâm hại đến khách thể, mà mới chỉ
nhằm vào khách thể, đặt khách thể trong tình trạng nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội chưa xảy ra.
Người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu TNHS đối với các tội phạm được quy
định tại khoản 2 Điều 14 BLHS. Hình phạt áp dụng cho người chuẩn bị phạm tội
được quyết định trong khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể.
Ngoài ra họ còn phải chịu TNHS về tội phạm khác nếu hành vi trong trường hợp này
CTTP độc lập… Nếu trong cùng một loại tội phạm với các dấu hiệu khác của tội

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 63


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

phạm giống nhau, TNHS của người chuẩn bị phạm tội được giảm nhẹ hơn so với
trường hợp phạm tội chưa đạt và trường hợp tội phạm hoàn thành.
3. Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến
cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
- Đặc điểm của giai đoạn tội phạm chưa đạt như sau: Chủ thể đã bắt đầu thực
hiện tội phạm, chủ thể không thực hiện được tội phạm đến cùng, nguyên nhân dẫn
đến tội phạm không thực hiện được đến cùng là nguyên nhân ngoài ý muốn của chủ
thể tội phạm.
- Căn cứ vào thái độ tâm lý của người phạm tội đối với việc chưa đạt có thể
phân chia thành phạm tội chưa đạt vô hiệu và các trường hợp phạm tội chưa đạt
khác.
- Luật hình sự quy định mọi trường hợp phạm tội chưa đặt phải chịu TNHS về
tội phạm chưa đạt. Nếu tội phạm dừng lại ở giai đoạn chưa đạt nhưng hành vi phạm
tội chưa đạt đồng thời có đầy đủ yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập khác, thì
người thực hiện hành vi bị truy cứu TNHS về tội độc lập đó cùng với tội ở giai đoạn
chưa đạt theo nguyên tắc phạm nhiều tội.
4. Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã có đầy đủ các dấu
hiệu mô tả trong CTTP được quy định tại điều luật cụ thể trong Phần các tội phạm
cuat BLHS Việt Nam.
Thời điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội phạm kết thúc không phải lúc
nào cũng trùng nhau. Tội phạm hoàn thành nghĩa là hoàn thành về mặt pháp lý; còn
tội phạm kết thúc tức hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt trên thực tế, có thể đã đủ
yếu tố CTTP hoặc chưa
TNHS đối với giai đoạn tội phạm hoàn thành được xác định theo điều luật tương
ứng tại Phần các tội phạm trong BLHS. Trong các giai đoạn phạm tội, nếu trong
cùng một loại tội phạm (các dấu hiệu khác của tội phạm giống nhau) thì tội phạm ở
giai đoạn hoàn thành phải chịu TNHS nặng hơn so với tội phạm dừng lại ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
5. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm
đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
được miễn TNHS về tội định phạm. Để được xác định là trường hợp tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội phải thỏa mãn các điều kiện sau: Về khách quan, hành vi tự
ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 64


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Về chủ quan, tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội phải tự nguyện, dứt khoát.
TNHS trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được Luật hình
sự quy định người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội
họ định phạm. Tuy nhiên, nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ các yếu tố cấu
thành của một tội khác thì người đó phải chịu TNHS về tội này.
Câu hỏi ôn tập
I. Câu hỏi tự luận
1. Nêu các giai đoạn thực hiện tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam. Căn cứ
vào đâu để phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm này?
2. Tại sao TNHS đặt ra từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội? TNHS đặt ra đối với giai
đoạn chuẩn bị phạm tội như thế nào?
3. Đặc điểm và trách nhiệm pháp lý của giai đoạn phạm tội chưa đạt?
4. Trình bày các trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và chưa đạt đã
hoàn thành và ý nghĩa của việc phân chia các trường hợp này?
5. Phân biệt tội phạm hoàn thành với tội phạm kết thúc? Nêu ý nghĩa của việc
phân biệt.
6. So sánh tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và phạm tội chưa đạt?
II. Câu hỏi trắc nghiệm
Những nhận định sau đúng hay sai? Giải thích vì sao?
1. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được xem là người không
phạm tội.
2. Người chuẩn bị phạm tội không phải chịu TNHS về tội định thực hiện.
3. Người phạm tội chưa đạt chỉ chịu TNHS nếu tội đó là tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4. Giai đoạn chuẩn bị phạm tội chủ có ở trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực
tiếp.
5. TNHS đối với trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ đặt ra
khi hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội phạm.
6. Thời điểm tội phạm hoàn thành có thể muộn hơn thời điểm tội phạm kết thúc.
7. Mọi trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đều được miễn
TNHS.
8. Các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra đối với tội cố ý và vô ý vì quá tự
tin.
9. Giai đoạn phạm tội chưa đạt chỉ có ở CTTP vật chất.
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 65
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

III. Câu hỏi tình huống


1. Hãy xác định những trường hợp sau có chịu TNHS không? Vì sao?
a. Chuẩn bị dụng cụ trộm ô tô có giá trị 2 tỷ đồng;
b. Trộm súng quân dụng chuẩn bị đi giết người;
c. Đang mở khóa xe máy để trộm thì bắt giữ
2. Lê T, Nguyễn K (có NLTNHS) có mâu thuẫn với ông Ba nên cả 2 lên kế
hoạch vào nhà đánh ông Ba để trả thù. Theo kế hoạch K là người trực tiếp đánh ông
Ba còn T đứng ngoài sân cảnh giới để nếu có chống cự thì sẽ vào hỗ trợ K. Tuy
nhiên, khi vào đến nhà ông Ba không thấy ông Ba đâu mà chỉ thấy một chiếc xe máy
đang dựng ở sân có sẵn chìa khóa cả T và L nảy lòng tham lên xe đi về. Ngay chiều
hôm đó T ra công an xã tự thú.
Hỏi: Hãy xác định giai đoạn phạm tội trong các trường hợp trên? Người phạm
tội có phải chịu TNHS không?
3. Lèng, Tịnh, Ben (có NLTNHS) rủ nhau sang nhà ông Hi trộm cắp tài sản vì
biết ông Hi vừa nhận tiền giải phóng mặt bằng. Sau khi đã bàn bạc, phân công
nhiệm vụ cho từng người xong, cả 3 chọn ngày giờ đến nhà ông Hi để thực hiện vụ
trộm. Lúc đến gần nhà ông Hi, Lèng nhận được điện thoại của vợ kêu về chở con đi
bệnh viện gấp. Lèng nói với Tịnh và Ben: “Thôi hai đứa bây tự xử đi, tao về nhà
xem thế nào rồi quay lại sau”. Trong lúc Tịnh và Ben đang leo tường vào nhà ông Hi
thì bị dân phòng đi tuần tra phát hiện và bắt giữ.
Hỏi:
a. Hành vi phạm tội của Tịnh và Ben dừng lại ở giai đoạn nào? Vì sao?
b. Lèng có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Vì sao?

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 66


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

CHƯƠNG 6. ĐỒNG PHẠM

6.1 Khái niệm và các dấu hiệu của đồng phạm


6.1.1 Khái niệm đồng phạm
Điều 17 BLHS 2015 quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm”.
Định nghĩa về đồng phạm nêu trên đã thể hiện quan điểm của Nhà nước ta về
đồng phạm, là cơ sở pháp lý để phân biệt đồng phạm với những trường hợp phạm tội
đơn lẻ. Đồng thời phản ánh đầy đủ bản chất, dấu hiệu của đồng phạm đó là sự cùng
chung cố ý, cùng chung hành động
6.1.2 Các dấu hiệu của đồng phạm
Từ định nghĩa về đồng phạm nêu trên rút ra dấu hiệu của đồng phạm như sau:
- Về số lượng người: Ít nhất phải có từ 2 người trở lên và đều có năng lực chịu
TNHS. Người đồng phạm trước hết phải là người phạm tội, do đó điều kiện bắt buộc
là họ phải đủ tuổi luật định và có năng lực TNHS (có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi). Trường hợp một người tham gia phạm tội nhưng không đủ tuổi hoặc
không đủ năng lực TNHS thì họ không phải là người đồng phạm.
- Về mặt khách quan: Có sự cùng chung hành động phạm tội. Cùng chung hành
động phạm tội thể hiện:
 Có sự hoạt động chung
Đồng phạm bao gồm bốn loại người và khi thực hiện tội phạm có thể có nhiều
loại người tham gia với vai trò khác nhau. Hành vi của mỗi người đồng phạm được
thực hiện trong sự liên kết thống nhất với nhau, tùy vai trò cụ thể của người đồng
phạm có sự thể hiện khác nhau. Các hành vi phạm tội được thực hiện theo kế hoạch
chung, thống nhất, có sự hỗ trợ, bổ sung ảnh hưởng lẫn nhau, làm cho hoạt động
chung hiệu quả hơn, nguy hiểm hơn. Hành vi của mỗi người là một bộ phận trong
hoạt động chung của đồng phạm.
 Hậu quả của tội phạm là kết quả chung do hành vi của tất cả những người
trong đồng phạm gây ra. Trường hợp hậu quả, thiệt hại gây ra là do hành vi riêng lẻ,
độc lập của một người, không nằm trong kế hoạch phạm tội chung thì không được
coi là có sự liên kết về hành vi
- Về mặt chủ quan
 Dấu hiệu lỗi: Có sự cùng chung cố ý thực hiện tội phạm.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 67


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Cùng chung cố ý tức là những người trong đồng phạm phải có sự liên kết về ý
thức khi thực hiện tội phạm. Sự liên kết về ý thức thể hiện:
Nhận thức đối với hành vi: Những người trong đồng phạm đều nhận thức được
rằng hành vi của mình và của đồng bọn là trái pháp luật, nguy hiểm cho xã hội.
Nhận thức đối với hậu quả, thiệt hại: Những người trong đồng phạm đều biết
được rằng hành vi của mình của đồng bọn tất nhiên hoặc có thể gây ra hậu quả, thiệt
hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Thái độ đối với hậu quả, thiệt hại: Những người đồng phạm đề mong muốn hoặc
bỏ mặc cho hậu quả, thiệt hại xảy ra.
 Dấu hiệu mục đích: Đối với dấu hiệu mục đích phạm tội thì các đồng phạm
không buộc phải có chung dấu hiệu này. Tuy nhiên, nếu trong CTTP đòi hỏi mục
đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong định tội thì các đồng phạm phải có cùng
mục đích. Người tham gia thực hiện tội phạm biết rõ và tiếp nhận mục đích của nhau
cũng được coi là “cùng mục đích”.
Ví dụ: Để chống chính quyền nhân dân nên A được sự chỉ đạo của tổ chức phản
động phải giết ông H, là chủ tịch tỉnh T. A đã thuê B và C giết ông H với giá 200
triệu đồng. Trong trường hợp này nếu B và C biết mục đích của A giết ông H nhằm
chống chính quyền nhân dân mà vẫn thực hiện thì được coi B, C đã tiếp nhận mục
đích chống chính quyền nhân dân và cả A, B, C đồng phạm về Tội khủng bố nhằm
chống chính quyền nhân dân (Điều 113 BLHS).
 Dấu hiệu động cơ: Trong hầu hết các trường hợp đồng phạm không đòi hỏi
các đồng phạm phải có cùng động cơ phạm tội nhưng nếu trong CTTP quy định
động cơ phạm tội là dấu hiệu định tội thì chỉ bị coi là đồng phạm khi những người
đồng phạm phải có cùng động cơ phạm tội.
6.2 Các loại người đồng phạm
6.2.1 Người thực hành
Theo quy định tại khoản 3 Điều 17 BLHS, người thực hành là người trực tiếp thực
hiện tội phạm. Người trực tiếp thực hiện tội phạm được thể hiện dưới hai dạng sau:
- Người thực hành là người tự mình thực hiện toàn bộ hoặc một phần hành vi
được mô tả trong CTTP. Ví dụ, hành vi trực tiếp bắn người trong Tội giết người;
hành vi thu thập bí mật Nhà nước trong Tội gián điệp… Họ là người trực tiếp gay ra
hậu quả, thiệt hại và trực tiếp xâm hại đến khách thể.
- Người thực hành không tự mình trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong
CTTP mà cố ý tác động đến người khác để người này trực tiếp thực hiện những hành

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 68


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

vi khách quan này. Người bị tác động này có thể là người không có năng lực TNHS,
người chưa đủ tuổi chịu TNHS, người không có lỗi hoặc chỉ có lỗi vô ý do sai lầm
hoặc bị cưỡng bức về thân thể hoặc tinh thần. Người thực hành đã sử dụng những
người này như công cụ, phương tiện phạm tội nên người bị tác động không phải chịu
TNHS mặc dù họ là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội và gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội.
Ví dụ: A và B thuê một bé H (13 tuổi) vận chuyển ma túy đưa cho C bán. Vì H
chưa đủ tuổi chịu TNHS nên A và B là người thực hành.
- Nhiều người thực hành cũng tham gia thực hiện tội phạm trong đó mỗi người,
theo sự phân công chỉ thực hiện một công việc cụ thể, một phần hành vi.
Ví dụ: Trong một vụ cướp tài sản, theo sự phân công M sẽ đánh ngã nạn nhân để
N lấy xe máy và túi xách. Trong trường hợp này cả M, N đều là người thực hành,
Người thực hành có thể không giữ vai trò chính, nhất là trong đồng phạm có tổ
chức, tuy vậy về mặt pháp lý, hành vi của người thực hành có ý nghĩa quan trọng, là
vấn đề trung tâm của đồng phạm. Tầm quan trọng, ý nghĩa pháp lý của hành vi thực
hành thể hiện ở các khía cạnh sau:
 Là cơ sở cho việc định tội danh đối với đồng phạm;
 Là cơ sở để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của đồng phạm;
 Là cơ sở cho việc xác định giai đoạn phạm tội;
 Là một trong những cơ sở quan trọng để xác định vai trò của người đồng
phạm khác.
Đối với những tội phạm theo quy định của luật, chủ thể phải có điều kiện đặc
biệt (chức vụ, giới tính…) người đồng phạm khác có thể không đòi hỏi phải có điều
kiện đặc biệt nhưng có người thực hành bắt buộc phải là chủ thể đặc biệt.
6.2.2 Người tổ chức
Theo quy định tại khoản 3 Điều 17 BLHS, “người tổ chức là người chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm”.
Chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy là những thuật ngữ vừa phản ánh vai trò, tên gọi
của người đồng phạm trong tổ chức, vừa phản ánh hành vi, hoạt động của họ.
Chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy đều là người tổ chức, giữ vai trò chính trong việc
thành lập tổ chức và điều khiển việc thực hiện tội phạm; tuy vậy biểu hiện hoạt động
của họ không giống nhau.
Người chủ mưu là người bày mưu, tính kế, vạch ra phương hướng, kế hoặc
chung cho hoạt động của tổ chức. Với vai trò là người tham mưu nên người chủ

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 69


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

mưu có thể trực tiếp điều hành tổ chức, cũng có thể là người không trực tiếp điều
hành việc phạm tội. Trong trường hợp này, mưu kế, cách thức tổ chức hoạt động
phạm tội do người chủ mưu đề ra được người cầm đầu cụ thể hóa và triển khai thực
hiện.
Theo Tòa án nhân dân tối cao, “chủ mưu là người chủ động về mặt tinh thần
gây ra tội phạm, gợi ra những âm mưu, phương hướng hoạt động. Chủ mưu có thể
trực tiếp đứng ra cầm đầu, điều khiển, tổ chức, nhưng cũng có thể đứng ngoài tổ
chức”
Theo Tòa án nhân dân tối cao, “cầm đầu là những người đứng ra thành lập các
băng, nhóm tội phạm hoặc tuy không đứng ra thành lập nhưng có sự tham gia vào
việc soạn thảo kế hoạch, phân công, giao trách nhiệm cho đồng bọn cũng như đôn
đốc, điều kiểm hoạt động của tổ chức. Như vậy, người cầm đầu là người đứng đầu
các tổ chức phạm tội, trực tiếp điều hành, tổ chức việc thực hiện phạm tội. Người
cầm đầu có thể được đồng bọn chọn ra theo một thể thức nhất định, cũng có thể
được mặc nhiên thừa nhận. Tùy từng trường hợp cụ thể và tính chất của tội phạm,
người cầm đầu có thể có tên gọi khác nhau nhưng điểm giống nhau là đều giữ vai trò
cầm đầu tổ chức, đều là người tổ chức, điều hành việc phạm tội.
Người chỉ huy là người cầm đầu trong các tổ chức phạm tội mang tính chất vũ
trang.
Mặc dù đều là người tổ chức nhưng vai trò cụ thể, cách thức tổ chức điều hành,
mức độ tham gia vào việc thực hiện tội phạm… tùy từng trường hợp có sự khác
nhau, phụ thuộc vào tính chất của tội phạm, quy mô của tổ chức. Với những tổ chức
quy mô nhỏ, ít người, người tổ chức trực tiếp điều hành mọi hoạt động, phân công
nhiệm vụ cho từng thành viên, trực tiếp kiểm tra, đôn đốc…; còn đối với những tổ
chức quy mô lớn, địa bàn hoạt động rộng thì người tổ chức chủ yếu điều hành bằng
kế hoạch, mức độ tham gia trực tiếp vào việc thực hiện tội phạm thấp hơn. Dù mức
độ tham gia trực tiếp cao hay thấp thì người tổ chức vẫn giữ vai trò chủ yếu, loại
người nguy hiểm nhất trong đồng phạm thể hiện trong nguyên tắc xử lý tại khoản 1
Điều 3 BLHS: “nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy”.
6.2.3 Người xúi giục
Theo quy định tại khoản 3 Điều 17 BLHS, “người xúi dục là người kích động, dụ
dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm”.
Người xúi giục là người có hành vi làm cho người khác nảy sinh ý định phạm
tội và thực hiện tội phạm. Trong mối quan hệ này, hành vi của người xúi giục là
nguyên nhân còn hành vi của người thực hành là kết quả. Trường hợp một người đã
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 70
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

cố ý phạm tội hoặc đang chuẩn bị, đang thực hiện tội phạm thì hành vi “kích động”,
“thúc đẩy” của người khác đối với họ không phải là hành vi xúi giục.
Về mặt khách quan, hành vi xúi giục phải được thực hiện do cố ý, thể hiện:
- Người xúi giục nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
xúi giục.
- Người xúi giục thấy được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà
người bị xúi giục sẽ thực hiện.
- Người xúi giục mong muốn hoặc chấp nhận (bỏ mặc) cho hậu quả xảy ra.
Trường hợp vô ý làm cho người khác nảy sinh ý định phạm tội và thực hiện tội
phạm không phải là xúi giục.
Hành vi, thủ đoạn xúi giục rất đa dạng, phong phú (như kích động, dụ dỗ, thúc
đẩy, khích bác v.v…) nhưng về bản chất đều nhằm làm cho người khác nảy sinh ý
định phạm tội. Việc làm rõ các thủ đoạn xúi giục có ý nghĩa trong việc cá thể hóa
TNHS và hình phạt nhưng để xác định hành vi xúi giục thì phải xem xét mối quan
hệ giữa hành vi của họ và hành vi của người thực hành. Hành vi xúi giục phải nhằm
vào một hoặc một nhóm người cụ thể và phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành
vi của người thực hành. Những hành vi kích động, dụ dỗ, hô hào chung chung (như
tuyên truyền nói xấu chế độ, truyên truyền văn hóa đồi trụy…) không phải là hành
vi xúi giục. Trong Luật hình sự Việt Nam một số trường hợp hành vi xúi giục cấu
thành tội độc lập. Ví dụ, tội dụ dỗ, ép buộc người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325
BLHS).
Hành vi xúi giục rất phong phú, đa dạng khoa học pháp lý hình sự khái quát
thành các dạng sau:
- Xúi giục đặc định, là trường hợp xúi giục một hoặc một nhóm người cụ thể
thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể.
- Xúi giục chung (xúi giục không đặc định), là trường hợp xúi giục một người
hoặc một nhóm người phạm tội nhưng không xác định hành vi và tội phạm cụ thể.
Ví dụ, A có mâu thuẫn với B, tên C xúi giục A phải trả thù, nhưng không nói rõ cách
thức trả thù. Do sự kích động của C, A có thể tự lựa chọn cách thức trả thù (như xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, hủy hoại tài sản, vu khống B…). Trong trường hợp này
A thực hiện hành vi gì thì C đồng phạm với A về hành vi đó ( vai trò xúi giục).
- Xúi giục từ đầu, là trường hợp xúi giục một người chưa có ý định phạm tội
làm cho họ nảy sinh ý định và thực hiện tội phạm.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 71


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Xúi giục giữa chừng, là trường hợp xúi giục một người đã từ bỏ ý định phạm
tội làm cho họ tiếp tục phạm tội.
6.2.4 Người giúp sức
Theo quy định tại khoản 3 Điều 17 BLHS, “người giúp sức là người tạo những điều
kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.”
Từ định nghĩa trên có thể rút ra đặc trưng pháp lý cơ bản của hành vi giúp sức
là tạo ra điều kiện nhằm giúp người thực hành thuận lợi hơn trong việc thực hiện tội
phạm. Việc người thực hành sử dụng sự giúp đỡ của người giúp sức có thể là tình
tiết ảnh hưởng tới TNHS của người giúp sức nhưng không làm thay đổi vai trò
người giúp sức.
Về mặt khách quan, sự giúp sức phải được thực hiện do cố ý, thể hiện:
- Người giúp sức nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi giúp
sức do mình thực hiện và hành vi cuat người thực hành sẽ nhận được sự giúp đỡ.
- Người giúp sức biết được hậu quả nguy hiểm cho xã hội tất nhiên hoặc có thể
xảy ra.
- Họ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Cần phân biệt hành vi tạo điều kiện về tinh thần của người giúp sức với hành vi
của người xúi giục. Hai loại hành vi này có thể giống nhau về hình thức thể hiện,
diễn biến của hành vi (kích động, khích bác, động viên, trao đổi về cách thức thực
hiện tội phạm…), nhưng khác nhau về bản chất, mục đích và thời điểm thực hiện.
Hành vi xúi giục được thực hiện trước khi người thực hành nảy sinh ý định phạm tội
với mục đích làm cho người bị xúi giục nảy sinh ý định phạm tội. Hành vi giúp sức
về tinh thần được thực hiện sau khi người được giúp đỡ đã có ý định phạm tội nhằm
làm cho người này tăng thêm quyết tâm phạm tội hoặc thuận lợi hơn trong việc hoàn
thiện phương án, kế hoạch thực hiện hành vi, trốn tránh pháp luật.
6.3 Các hình thức đồng phạm
6.3.1 Đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp
Căn cứ vào những đặc điểm về mặt khách quan (tính chất hành vi, vai trò của những
người trong đồng phạm) khoa học pháp lý hình sự chia đồng phạm thành đồng phạm
giản đơn và đồng phạm phức tạp.
a. Đồng phạm giải đơn
Đồng phạm giản đơn là hình thức đồng phạm trong đó tất cả những người trong
đồng phạm đều là người thực hành.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 72


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Trong hình thức đồng phạm giản đơn, mỗi người đồng phạm đều là đồng thực
hành, đều thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP. Do nhiều người cùng phạm tội
với vai trò là người thực hành nên mỗi người phạm tội có thể chỉ thực hiện một phần
hành vi khách quan, nhưng tổng hợp hành vi của những người đồng thực hành thỏa
mãn dấu hiệu khách quan được mô tả trong CTTP cụ thể. Đối với những tội theo
quy định của luật chủ thể tội phạm là chủ thể đặc biệt thì tất cả những người trong
đồng phạm giản đơn phải có đủ dấu hiệu của chủ thể đặc biệt.
Hình thức đồng phạm giản đơn thường xảy ra trong một số loại tội phạm (như
gây rối trật tự công cộng, cố ý gât thương tích, giết người, chống người thi hành
công vụ, cố ý làm hư hỏng tài sản…) và phổ biến là không có thông mưu trước.
Ví dụ: A chở B bằng xe máy chạy với tốc độ cao và bị cảnh sát giao thông xử
phạt. Không đồng ý với quyết định bị phạt nên A và B sau khi có lời lẽ xúc phạm
đồng chí cảnh sát thì xông vào đánh đồng chí cảnh sát giao thông. A, B đồng phạm
giản đơn vì cả A và B đều là người thực hành và không có bàn bạc trước khi thực
hiện hành vi phạm tội.
b. Đồng phạm phức tạp
Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm trong đó ngoài người thực hành còn có
sự tham gia của một hoặc một số loại người đồng phạm khác.
Trong hình thức đồng phạm phức tạp bắt buộc phải có hai loại thành phần:
Loại thứ nhất là người thực hành, loại thành phần thứ hai là một trong số những
người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức). Tính phức
tạp ở đây không phải do tính chất của vụ án mà là do hành vi phạm tội trong đồng
phạm được tổng hợp bởi nhiều loại hành vi của nhiều loại người đồng phạm khác
nhau.
Ví dụ: Vì muốn làm nhục A nên cô B đã xúi D hiếp dâm A. Qua theo dõi B biết
hàng ngày A thường đi làm về lúc 21 giờ, đoạn đường từ công ty về đến nhà A rất
vắng. B đã cũng cấp tất cả thông tin đó cho D. Tối 12/2, D đã đợi A đi làm về và
khống chế đưa A vào ngôi nhà hoang bên đường để hiếp dâm A. Đây là trường hợp
đồng phạm phức tạp vì không chỉ có người thực hành (là D) mà còn có người xúi
giục, người giúp sức (là B).
6.3.2 Đồng phạm không thông mưu trước và đồng phạm thông mưu trước
Căn cứ vào những đặc điểm về mặt chủ quan của đồng phạm (thời điểm liên kết về ý
thức của những người trong đồng phạm), khoa học pháp lý hình sự chia đồng phạm
thành đồng phạm thông mưu trước và đồng phạm không thông mưu trước.
a. Đồng phạm không thông mưu trước
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 73
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Đồng phạm không thông mưu trước là hình thức là hình thức đồng phạm trong đó sự
liên kết về lý trí và ý chí giữa những người đồng phạm chỉ được hình thành khi bắt
đầu thực hiện tội phạm.
Trong hình thức đồng phạm này, trước khi thực hiện hành vi những người
trong đồng phạm không có sự bàn bạc, thỏa thuận về việc thực hiện tội phạm. Sự
liên kết về ý thức và hành vi giữa những người đồng phạm diễn ra gần như cùng lúc
và thường xảy ra một cách ngẫu nhiên, đột xuất.
Do không có sự thông mưu, bàn bạc trước nên sự liên kết trong hình thức đồng
phạm này ít chặt chẽ. Sự liên kết được diễn ra trong thời gian quá ngắn vì những lý
do ngẫu nhiên, đột xuất không cho phép những người trong đồng phạm thống nhất
phương án, kế hoạch và phân công nhiệm vụ cho từng người. Thông thường sự tham
gia của đồng phạm mang tính tự phát, a dua.
Thực tiễn cho thấy thông thường hình thức đồng phạm này thường xảy ra đối
với một số loại tội nhất định (gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích, giết
người, hiếp dâm…) và thường là đồng phạm giản đơn.
Ví dụ: A, B, C đang ngồi nhậu thì mâu thuẫn với nhóm N, H đang nhậu bên
cạnh. A, B, C đã đánh N và H bị thương nặng. A, B, C đồng phạm về tội cố ý gây
thương tích (Điều 134 BLHS) với hình thức đồng phạm không thông mưu trước vì
A, B, C không có sự bàn bạc trước, không có sự phân công nhiệm vụ gây thương
tích cho N và H và cả A, B, C đều là người thực hành.
b. Đồng phạm thông mưu trước
Đồng phạm thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong đó có sự liên kết về ý
thức giữa nhăng người đồng phạm được hình thành trước khi thực hiện hành vi
phạm tội.
Đặc điểm nổi bật của hình thức đồng phạm này là trước khi thực hiện hành vi
phạm tội, những người đồng phạm đã có sự liên kết, bàn bạc thống nhất với nhau về
việc thực hiện tội phạm. Do có sự bàn bạc thống nhất từ trước nên những người
trong đồng phạm có thời gian và điều kiện để tính toán kế hoạch phạm tội, kế hoạch
đối phó với các cơ quan chức năng. Khả năng gây hậu quả thiệt hại và khả năng đối
phó, trốn tránh pháp luật của đồng phạm thông mưu trước cao hơn rất nhiều so với
đồng phạm không thông mưu trước.
Ví dụ: Để có tiền tiêu, H đã rủ N và B cùng cướp giật tài sản với mình. H, B và
N đã lên kế hoạch và chuẩn bị cho việc cướp giật chu đáo, H phân công B có nhiệm
vụ cản địa còn N chở mình giật tài sản của người đi đường. Hành vi của H, B và N

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 74


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

bị công an tuần tra phát hiện và bắt giữ. Đây là hình thức đồng phạm thông mưu
trước.
Luật hình sự một số nước coi đồng phạm thông mưu trước là tình tiết tăng nặng
hoặc tình tiết định khung hình phạt. Ở Việt Nam, từ thời Nhà Lê (Quốc triều hình
luật) và Nhà Nguyễn (Hoàng Việt hình luật) phạm tội có sự đồng mưu, dự mưu nhìn
chung bị phạt nặng hơn. Sau năm 1945, theo quy định tại Thông tư 442/TTg ngày
19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ, phạm tội giết người bị phạt đến 20 năm tù, nếu
có dự mưu có thể phạt đến tử hình. Trong BLHS 1985, , BLHS 1999 và BLHS 2015
của nước ta, đồng phạm thông mưu trước không được coi là tình tiết định khung và
cũng không phải là tình tiết tăng nặng TNHS.
6.3.3 Đồng phạm thường, đồng phạm có tổ chức
Căn cứ vào mức độ liên kết giữa những người trong đồng phạm, đồng phạm được
chia ra đồng phạm thường và đồng phạm có tổ chức.
a. Đồng phạm có tổ chức (phạm tội có tổ chức)
Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng
phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
Về các hình thức đồng phạm trong Luật hình sự nước ta chỉ có định nghĩa về
phạm tội có tổ chức. Ngoài định nghĩa phạm tội có tổ chức, Luật hình sự còn coi đây
là tình tiết tăng nặng TNHS và trong nhiều tội, phạm tội có tổ chức là tình tiết định
khung.
Đặc trưng cơ bản của hình thức phạm tội có tổ chức là câu kết chặc chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm. Trong thực tế, sự câu kết này có thể thể hiện
dưới các hình thức sau đây:
a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như đảng phái,
hội đoàn phản động, băng ổ, nhóm trộm cướp… có những tên chỉ huy cầm đầu. Tuy
nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là
sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội.
b) Những người phạm tội đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo kế hoạch đã
thống nhất trước.
c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần nhưng đã có tổ chức
thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị
phương tiện hoạt động và có khi chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm.
Từ đặc điểm của hình thức phạm tội có tổ chức, mối quan hệ giữa phạm tội có tổ
chức với tổ chức phạm tội và thực tiến đấu tranh chống tội phạm có thể rút ra những

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 75


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

căn cứ để xem xét, đánh giá mức độ chặt chẽ của sự câu kết trong đồng phạm như
sau:
- Tính chất của tội phạm
Nhìn chung mức độ liên kết phụ thuộc vào đặc điểm, tình chất của loại tội mà
can phạm thực hiện. Trong một số trường hợp do tính chất của tội phạm (như tội
phạm về kinh tế, các tội phạm về ma túy…) đòi hỏi những người đồng phạm phải có
sự liên kết chặt chẽ.
- Quy mô, đặc điểm cụ thể của tội phạm (vụ án). Trong nhiều trường hợp, quy
mô, tính phức tạp khó khăn của việc thực hiện tội phạm đòi hỏi đồng phạm phải có
sự liên kết chặt chẽ. Ví dụ: nhiều người bàn nhau trộm tiền trong ngân hàng; bọn
buôn lậu tổ chức nhập lậu một số lượng lớn hàng hóa vào Việt Nam; bọn phá hoại
bàn nhau đồng loạt cho nổ mìn tại nhiều địa điểm v.v… đòi hỏi phải có sự liên kết
chặt chẽ.
- Diễn biến thực tế của sự liên kết trong đồng phạm
Diễn biến thực tế của sự liên kết là quá trình bàn bạc, thảo luận, thống nhất giữa
những người đồng phạm, quá trình tham gia thực hiện tội phạm; mức độ thống nhất
về ý chí và hành động giữa những người đồng phạm v.v… Nếu qua điều tra chứng
mình được giữa những người đồng phạm đã có sự liên kết từ lâu, đã cùng phạm tội
nhiều lần hoặc trong thời gian dài thì phải coi là có sự cấu kết chặt chẽ.
- Sự ràng buộc của tổ chức
Các tổ chức tội phạm có thể có cơ cấu tổ chức rõ ràng hoặc không có cơ cấu tổ
chức rõ ràng nhưng đều có sự ràng buộc nhất định, có “luật” riêng. Trong nhiều tổ
chức phạm tội (ví dụ các tổ chức Maphia) quy định của tổ chức, sự trừng phạt đối
với những người bị coi là phản bội tổ chức là yếu tố quan trọng để tạo ra sự liên kết
đồng bọn.
- Sự ràng buộc về mặt xã hội, gia đình giữa những người đồng phạm
Quan hệ xã hội và gia đình không liên quan đến CTTP nhưng trong nhiều trường
hợp là yếu tố quan trọng tạo ra sự thống nhất về ý chí và hành động giữa những
người trong đồng phạm. Thực tiễn cho thấy trong một số trường hợp những người
cùng gia đình, dòng họ; những người đã từng ngồi tù chung khi phạm tội sự thống
nhất về ý chí và hành động của họ diễn ra nhanh và rất bền vững.
Trên đây là những căn cứ chủ yếu, phổ biến để xem xét, đánh giá mức độ liên
kết giữa những người trong đồng phạm. khi xem xét, tùy từng trường hợp cụ thể một

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 76


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

hoặc một số căn cứ nào đó có thể trở thành căn cứ chủ yếu; nhưng nhìn chung phải
xem xét một cách tổng hợp, toàn diện tất cả các căn cứ để rút ra kết luận.
b. Đồng phạm thường.
Đồng phạm thường là hình thức đồng phạm trong đó sự liên kết giữa những người
đồng phạm không chặt chẽ.
Đồng phạm thường khác đồng phạm có tổ chức về mức độ liên kết giữa
những người trong đồng phạm. Trên cơ sở làm rõ căn cứ đánh giá mức dộ liên kết sẽ
xác định được trường hợp nào là đồng phạm có tổ chức và trường hợp nào là đồng
phạm thường (đồng phạm không có tổ chức). Thực tế cho thấy thông thường đồng
phạm thường là đồng phạm giản đơn, đồng phạm không thông mưu trước; trong một
số trường hợp có thể là đồng phạm phức tạp.
6.4 Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm
Việc xác định TNHS của những người trong đồng phạm là vấn đề khó khăn, phức
tạp. Sự khó khăn phức tạp xuất phát từ nhiều lý do: Quy định của pháp luật hình sự
thiếu cụ thể, vai trò của những người đồng phạm khác nhau, mức độ pha,k tội cuat
những người đồng phạm không giống nhau; sự liên kết và tác động ảnh hưởng của
hành vi từng người đến kết quả chung trong từng trường hợp cụ thể rất khó xác định.
Đồng phạm là một dạng đặc biệt của tội phạm, do nhiều người cùng cố ý thực
hiện trong đó vai trò, mức độ tham gia của từng người có thể không giống nhau; kết
quả thực hiện tội phạm trong từng trường hợp cụ thể rất khác nhau. Việc xác định
TNHS của những người đồng phạm dựa vào các quy định chung về TNHS và các
nguyên tắc của khoa học pháp lý.
6.4.1 Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng
phạm
a. Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm
Trong đồng phạm do có sự liên kết về hành vi và ý thức phạm tội, do kết quả phạm
tội là kết quả chung do hành vi của những người đồng phạm gây ra nên những người
đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm.
Nội dung nguyên tắc này là:
- Tất cả những người đồng phạm đều bị khởi tố, truy tố và xét xử về cùng một
tội danh, theo cùng một điều luật của BLHS.
- Tất cả những người đồng phạm cùng phải chịu trách nhiệm về những tình tiết
tăng nặng, tình tiết định khung được áp dụng chung cho đồng phạm. Ví dụ: phạm tội
có tổ chức; phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, người già, người ở trong tình trạng

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 77


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

không thể tự vệ; phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng…, theo quy định tại
Điều 52 BLHS.
- Những nguyên tắc quy định chung về việc truy cứu TNHS, về áp dụng hình
phạt đối với tội phạm do đồng phạm thực hiện được áp dụng chung cho tất cả những
người đồng phạm. Ví dụ: Nguyên tắc xử lý (Điều 3); quy định về TNHS đối với
hành vi chuẩn bị phạm tội (Điều 14); quy định về TNHS đối với trường hợp phạm
tội chưa đạt (Điều 15); về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16); quy
định không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS (Điều 28) v.v…
b. Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập

Cơ sở nguyên tắc này là nguyên tắc trách nhiệm cá nhân. Nội dung của nguyên tắc
trách nhiệm cá nhân là một người thực hiện tội phạm chỉ chịu trách nhiệm về những
gì mà bản thân người đó đã gây ra. Khoản 4 Điều 17 BLHS quy định: “người đồng
phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực
hành”.

Nội dung của nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập:

- Người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình và trách nhiệm
chung, không phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vượt quá của người thực hành
(khoản 4 Điều 17 BLHS).
Hành vi vượt quá là hành vi do người đồng phạm tự ý thực hiện, không nằm
trong ké hoạch chung hoặc sự thỏa thuận chung của những người đồng phạm. Hành
vi vượt quá có thể xảy ra dưới hai dạng: Vượt quá về mức độ và vượt quá về tính
chất.
Vượt quá về mức độ (vượt quá về lượng) là trường hợp một người gây ra hậu
quả, thiệt hại lớn hơn kế hoạch đã bàn bạc, thỏa thuận hoặc hành vi của họ bị coi là
có tình tiết định khung tăng nặng những vẫn thuộc loại tội phạm mà những người
đồng phạm bàn bạc nhau cùng thực hiện. Ví dụ A, B, C, D bàn nhau đua xe. Khi bị
phát hiện, B đã tự ý có hành vi chống trả lại Cảnh sát giao thông. Trong trường hợp
này mình B phải chịu trách nhiệm về tình tiết tăng nặng định khung quy định tại
điểm g khoản 2 Điều 266 BLHS.
Vượt quá về tính chất (về chất) là trường hợp một người trong đồng phạm thực
hiện hành vi vượt ra ngoài sự thỏa thuận chung và hành vi này cấu thành tội độc lập.
Ví dụ: X, Y, Z bàn nhau đánh N bị thương tích để trả thù. Khi thực hiện hành vi, do

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 78


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

N chống trả lại nên Z đã rút dao đâm chết nạn nhân. Trường hợp này chỉ mình Z
chịu trách nhiệm về tội giết người.
- Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS thuộc về người đồng phạm nào thì
chỉ áp dụng với riêng người đó.
Mặc dù là cùng cố ý thực hiện một tội phạm nhưng do khác nhau về đặc điểm
nhân thân, biểu hiện cụ thể khi thực hiện hành vi nên việc áp dụng luật về các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với từng người có thể khác nhau. Các tình tiết
tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS (tái phạm, tái phạm nguy hiểm, dùng thủ đoạn
tàn ác hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; có hành động
xảo quyệt nhằm trốn tránh pháp luật…) chỉ được áp dụng với những người đồng
phạm có tình tiết đó.
- Việc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt đối với người đồng phạm cụ thể không
loại trừ TNHS của những người đồng phạm khác.
- Ngoài hành vi, việc truy cứu TNHS trong đồng phạm còn phải căn cứ vào vai
trò của người đồng phạm (là người thực hành hay xúi giục, giúp sức…)
c. Nguyên tắc cá thể hóa tránh nhiệm hình sự của những người đồng phạm.
- Trong vụ đồng phạm, những người tham gia tuy phạm cùng tội nhưng tính
chất và mức độ tham gia của mỗi người cũng khác nhau. Do vậy, TNHS của mỗi
người được xác định khác nhau.
- Thể hiện nguyên tắc này, Luật hình sự Việt Nam xác định chính sách:
“Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”. Đó là “nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu,
chỉ huy, ngoan cố chống đối… khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai
báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội….” (điểm d, khoản 1 Điều 3
BLHS).
6.4.2 Một số vấn đề liên quan đến xác định trách nhiệm hình sự trong
đồng phạm
- Vấn đề chủ thể đặc biệt trong đồng phạm

Đối với những tội đòi hỏi chủ thể đặc biệt chỉ cần người thực hành có những đặc
điểm của chủ thể đó

- Vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm

Nếu những người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do những
nguyên nhân khách quan thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào,
họ phải chịu TNHS đến đó.
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 79
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Vấn đề tự ý nửa chùng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm

Trong vụ đồng phạm, khi có sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một
người hay một số người thì việc miễn TNHS chỉ được áp dụng đối với bản thân
người đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Ví dụ, A, B, C bàn nhau đi cướp
tài sản, sau đó A quyết định không tham gia, B, C vẫn tiếp tục thực hiện ý định và bị
bắt giữ khi đang cướp tài sản. Trong vụ án đồng phạm này vì A tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội nên chỉ mình A được miễn TNHS về tội cướp tài sản.

Đối với người thực hành, vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội áp
dụng như trường hợp phạm tội riêng lẻ. Đối với người tổ chức, người xúi giục và
người giúp sức, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải được thực hiện
trước khi người thực hành bắt tay vào việc thực hiện tội phạm và phải có những
hành động tích cực làm mất tác dụng của những hành vi trước đó của mình để ngăn
chặn việc thực hiện tội phạm.

6.5 Những hành vi liên quan đến đồng phạm cấu thành tội độc lập
6.5.1 Tội che giấu tội phạm

Theo quy định tại Điều 18 BLHS, che giấu tội phạm là hành vi của người không hứa
hẹn, thỏa thuận trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người
phạm tội, các dấu vết tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát
hiện, điều tra, xử lý người phạm tội.

Đặc điểm của hành vi che giấu tội phạm là:

- Không có sự cùng chung cố ý, cùng chung hành động với người phạm tội
được họ che giấu.

Hành vi che giấu (có thể CTTP) của người che giấu tội phạm và hành vi phạm
tội của người được che giấu xảy ra độc lập, không có sự liên kết về hành vi, ý thức
và khác nhau về không gian, thời gian.

- Hành vi che giấu tội phạm tạo điều kiện, giúp người được che giấu trốn tránh
sau pháp luật khi phạm tội chứ không phải giúp họ thực hiện tội phạm
Trường hợp hứa hẹn thỏa thuận trước về việc che giấu thì người hứa hẹn sẽ đồng
phạm với người được hứa hẹn vè tội phạm mà người đó thực hiện.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 80


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Ví dụ: A, B chuẩn bị thực hiện hành vi giết người và bàn bạc với C về kế hoạch
bỏ trốn sau khi thực hiện. C hứa sẽ tìm cách giúp A và B trốn ra nước ngoài. Tin
chắc sẽ trốn thoát được nên A, B đã quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội giết
người. Các đối tượng bị phát hiện và bắt giữ. Trường hợp này C là đồng phạm với
A, B về tội giết người với vai trò người giúp sức. Nếu sau khi giết người xong, A, B
gặp C yêu cầu được giúp trốn ra nước ngoài mà C đồng ý thì C phạm tội che giấu tội
phạm.
Hành vi che giấu tội phạm cấu thành độc lập nhưng chỉ trong trường hợp có các
tình tiết quy định tại Điều 389 BLHS và người thực hiện hành vi đủ NLTNHS.
6.5.2 Tội không tố giác tội phạm

Theo quy định tại Điều 19 BLHS, không tố giác tội phạm là trường hợp biết rõ tội
phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã thực hiện mà cố ý không
báo với cơ quan có thẩm quyền.

Đặc điểm của hành vi không tố giác tội phạm:

- Hành vi không tố giác và hành vi của người phạm tội không bị tố giác xảy ra
độc lập, không có sự liên kết và khác nhau về không gian, thời gian.
- Hành vi không tố giác được thực hiện bằng hình thức không hành động (chủ
thể không làm một việc pháp luật buộc phải làm).
- Hành vi không tố giác được thực hiện do cố ý, thể hiện:
 Người không tố giác nhận thức được việc làm của mình là trái pháp luật, là
nguy hiểm cho xã hội.
 Người không tố giác biết rằng hành vi đó sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã
hội.
 Họ có thái độ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra
- Hành vi không tố giác tội phạm có thể cấu thành tội độc lập khi:
 Chủ thể đủ tuổi luật định và có năng lực TNHS.
 Có các tình tiết quy định tại Điều 390 BLHS.

Ví dụ: A, B sau khi giết người xong đã kể cho C nghe nhưng vì nể là bạn thân nên C
không khai báo hành vi phạm tội của A, B. Hành vi này của C phạm tội không tố
giác tội phạm. Nếu trước khi thực hiện hành vi giết người, A, B bàn bạc với C và C
hứa sẽ không cho ai biết thì trường hợp này C đồng phạm với A, B về tội giết người.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 81


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng
của người phạm tội phải chịu TNHS trong trường hợp nhất định do pháp luật quy
định

Tóm tắt chương


1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm. Từ định nghĩa về đồng phạm nêu trên rút ra dấu hiệu của đồng phạm là: Về
mặt khách quan đồng phạm phải có từ hai người có NLTNHS trở lên và có hành vi
cùng thực hiện tội phạm; về mặt chủ quan đồng phạm phải cùng cố ý, với những tội
có dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP thì đòi
hỏi các chủ thể trong vụ án đồng phạm phải có những dấu hiệu này
2. Để có cơ sở xác định chính xác vai trò, vị trí của từng người trong đồng phạm,
BLHS quy định có 4 loại người đồng phạm đó là: người thực hành, người tổ chức,
người xúi giục, người giúp sức

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người thực hành có hai
dạng là tự mình trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP và không tự
mình thực hiện mà tác động vào người khác để người này thực hiện hành vi được
mô tả trong CTTP.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội
phạm… Để bị coi là xúi giục hành vi xúi giục phải trực tiếp, cụ thể.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực
hiện tội phạm

3. Các hình thức đồng phạm bao gồm: Đồng phạm có thông mưu, đồng phạm
không thông mưu, đồng phạm giản đơn, đồng phạm phức tạp, đồng phạm thường và
phạm tội có tổ chức.

Đồng phạm có thông mưu là hình thức đồng phạm mà những người đồng phạm đã
có sự thỏa thuận, bàn bạc trước với nhau về tội phạm cùng thực hiện.

Đồng phạm không thông mưu là hình thức đồng phạm mà giữa những ngươi đồng
phạm không có thỏa thuận, bàn bạc trước với nhau về việc thực hiện tội phạm

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 82


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Đồng phạm giản đơn là hình thức đồng phạm trong đó những người tham gia vào vụ
án đều có vai trò là người thực hành.

Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm trong đó những người tham gia trong
vụ án với các vai trò khác nhau.

Đồng phạm thường là hình thức đồng phạm trong đó sự liên kết giữa những người
đồng phạm không chặt chẽ.

Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những
người cùng thực hiện tội phạm.

4. Khi xác định TNHS trong đồng phạm cần quán triệt những nguyên tắc như:
nguyên tác chịu trách nhiệm chung, nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập, nguyên tắc
cá thể hóa TNHS của những người đồng phạm.
- Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm: do kết quả phạm tội
là kết quả chung do hành vi của những người đồng phạm gây ra nên những người
đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm. Tất cả những người
đồng phạm đều bị khởi tố, truy tố và xét xử về cùng một tội danh, theo cùng một
điều luật của BLHS. Tất cả những người đồng phạm cùng phải chịu trách nhiệm về
những tình tiết tăng nặng, tình tiết định khung được áp dụng chung cho đồng phạm.
Những nguyên tác quy định chung về việc truy cứu TNHS, về áo dụng hình phạt đối
với tội phạm do đồng phạm thực hiện được áp dụng chung cho tất cả những người
đồng phạm.
- Nguyên tác chịu trách nhiệm độc lập: Người phạm tội chỉ chịu trách nhiệm về
hành vi của mình và trách nhiệm chung, không phải chịu trách nhiệm đối với hành
vi vượt quá của người thực hành.

Hành vi vượt quá là hành vi do người thực hành tự ý thực hiện, không nằm trong kế
hoạch chung hoặc sự thỏa thuận chung của những người đồng phạm. Hành vi vượt
quá có thể xảy ra dưới hai dạng: Vượt quá về mức độ và vượt quá về tính chất.

Vượt quá về mức độ (vượt quá về lượng) là trường hợp một người gây ra hậu quả,
thiệt hại lớn hơn kế hoạch đac bàn bạc, thỏa thuạn hoặc hành vi của họ bị coi là có
tình tiết định khung tăng nặng nhưng vẫn thuộc loại tội phạm mà những người đồng
phạm bàn nhau cùng thực hiện. Vượt quá về tính chất (về chất) là trường hợp người

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 83


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

thực hành thực hiện hành vi vượt ra ngoài sự thỏa thuận chung và hành vi này cấu
thành tội độc lập.

Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS thuộc về người đồng phạm nào thì chỉ áp
dụng với riêng người đó.

Việc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt đối với người đồng phạm cụ thể không loại
trừ TNHS của nhưng người đồng phạm khác.

Việc truy cứu TNHS trong đồng phạm còn phải căn cứ vào vai trò của người đồng
phạm (là người thực hành hay xúi giục, giúp sức…).

- Nguyên tác cá thể hóa TNHS của những người đồng phạm: những người tham
gia tuy phạm cùng tội nhưng tính chất và mức độ tham gia của mỗi người có khác
nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của mỗi người cũng khác nhau.
Do vậy, TNHS của mỗi người được xác định khác nhau
5. Một số vấn đề liên quan đến xác định TNHS trong đồng phạm
- Vấn đề chủ thể đặc biệt trong đồng phạm: đối với những tội đòi hỏi chủ thể
đặc biệt chỉ cần người thực hành có những đặc điểm của chủ thể đó.
- Vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm: nếu những
người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do những nguyên nhân
khách quan thì người thực hành thực hiện tội phạm đến gia đoạn nào, họ phải chịu
TNHS đến đó.
- Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm: trong vụ
đồng phạm, khi có sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một người hay
một số người thì việc miễn TNHS chỉ được áp dụng đối với bản thân người đã tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Đối với người thực hành, vấn đề tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội áp dụng như trường hợp phạm tội iêng lẻ. Đối với người tổ
chức, người xúi giục và giúp sức, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải
được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào việc thực hiện tội phạm và
phải có những hành động tích cực ngăn chặn người thực hành thực hiện hành vi tội
phạm.
6. Những hành vi tuy có liên quan đến tội phạm nhưng không phải là hành
vi cùng thực hiện nên không phải là hành vi đồng phạm mà chỉ có thể cấu thành
những tội độc lập trong những trường hợp luật quy định, bao gồm hành vi không tố
giác tội phạm và hành vi che giấu tội phạm.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 84


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Câu hỏi ôn tập


I. Câu hỏi tự luận
1. Từ định nghĩa đồng phạm hãy phân tích các dấu hiệu của đồng phạm?
2. Trình bày các loại người đồng phạm?
3. Nếu sự khác nhau giữa người thực hành không tự mình thực hiện hành vi với
người xúc giúc.
4. So sánh sự giống và khác nhau giữa người xúi giục với người giúp sức về tinh
thần?
5. Trình bày các hình thức đồng phạm. Chỉ ra hình thức nào nguy hiểm nhất, vì
sao?
6. Phân tích các nguyên tắc xác định TNHS trong đồng phạm.
II. Câu hỏi trắc nghiệm
Những nhận định sau đúng hay sai? Giải thích vì sao?
1. Đồng phạm là nhiều người cùng thực hiện tội phạm.
2. Người tổ chức không thể đồng thời là người thực hành.
3. Chỉ được coi là đồng phạm khi các chủ thể có cùng động cơ phạm tội.
4. Chủ thể trong đồng phạm luôn phải thỏa mãn dấu hiệu của chủ thể TP
5. Người thực hành luôn phải là người tự mình trực tiếp thực hiện tội phạm.
6. Lời hứa hẹn trước là một dạng giúp sức về tinh thần.
7. Trong đồng phạm không thể có lỗi cố ý gián tiếp.
8. Người xúi giục người khác phạm tội không phải chịu TNHS nếu người bị xúi
giục không thực hiện tội phạm.
III. Câu hỏi tình huống
1. Nghe tin xe chở gạo do A bị lật đổ giữa đường vào ban đêm. B, C, D rủ nhau
ra lấy gạo mang về nhà B tập kết rồi hôm sau chia nhau. Giá trị gạo quy ra tiền các
đối tượng này lấy được là 15 triệu đồng. Hỏi: Có hành vi phạm tội không? Có đồng
phạm không và vì sao?
2. A, B, C, D là những đối tượng trộm chuyên nghiệp. Biết nhà ông M có nhiều
tiền nên chúng bàn nhau cách lấy trộm. Theo kế hoạch A và B đã tẩm thuốc độc vào
thức ăn giết chết hai con chó của nhà ông M trước đó một ngày. Tối ngày
11.10.2015, A, B, C, D mang theo dụng cụ đến phục kích ở vườn sau nhà ông M.
Trong nhà đông người nên cả bọn rút lui. Tối ngày hôm sau, theo như đã hẹn chúng
lại đến nhà ông M để thực hiện kế hoạch. Nửa đêm, khi gia đình ông M đã ngủ say,
C và D đúng ngoài canh gác, A và B mở cửa rồi cạy tủ. Nghe tiếng động ông M thức
dậy. Bị lộ, A dùng cây sắt đập vào đầu ông M làm ông bị ngất xỉu. B ôm chiếc máy
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 85
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

tính cùng với điện thoại, ví tiền để trên bàn chạy ra ngoài. Anh X (con trai ông M)
chặn đường giằng lại tài sản, B rút dao đâm X bị thương và mang tài sản chạy ra
ngoài, cả bọn trốn thoát trong đêm đó và ngày hôm sau bị bắt giữ.
Hỏi: hành vi nào là tội phạm? Có đồng phạm không? Phân tích vai trò của từng
người trong vụ án?
3. C là bảo vệ công ty sản xuất phụ tùng xe máy. A, B là hai người bạn thân làm
cùng công ty. Sau khi bàn bạc và cả bọn thống nhất, sau mỗi buổi làm cứ vào ca C
trực, A và B sẽ mang phụ tùng của công ty qua cổng bảo vệ. Số phụ tùng xe máy lấy
được sẽ thuê M đi bán để lấy tiền chia nhau. Sự việc sau đó bị phát hiện. Hỏi:
Những ai phạm tội? Những ai đồng phạm với nhau? Vai trò của từng người? Tại
sao?
4. Để vận chuyển số gỗ trong rừng về điểm tập kết, A, B, C đã lựa chọn địa điểm
để lăn gỗ xuống chân núi cho nhanh là khu vực có con đường mòn xuống núi. Trời
mờ sương không rõ mặt người, A, B, C đã cố gắng dùng hết sức lăn một cây gỗ có
đường kính 40 cm, dài 10 m xuống bìa rừng. Chẳng may, cây gỗ lăn xuống trúng
cháu H đang trên đường vào rừng hái củi. Hậu quả là cháu H bị cây gỗ lăn vào
người và chết tại chỗ. Hỏi: Có đồng phạm không? Tại sao?

CHƯƠNG 7

NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

7.1 Khái niệm

Trong thực tế có những hành vi về hình thức bên ngoài giống như tội phạm, song xét
về bản chất hành vi đó không mang tính nguy hiểm cho xã hội cho nên không bị coi
là tội phạm và người thực hiện hành vi đó không phải chịu TNHS. Đây là những
trường hợp loại trwd TNHS. Theo quy định của BLHS ghi nhận có bảy trường hợp
được loại trừ TNHS, đó là sự kiện bất ngờ (Điều 20), tình trạng không có năng lực
TNHS, (Điều 21), phòng vệ chính đánh (Điều 22), tình thế cấp thiết (Điều 23), gây
thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 240), rủi ro trong nghiên cứu, thử
nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25) và thi hành
mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26).

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 86


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Trường hợp sự kiện bất ngờ và tình trạng không có năng lực TNHS gây hậu
quả nguy hại cho xã hội nhưng vì họ không có lỗi (sự kiện bất ngờ) hoặc họ thuộc
trường hợp mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình
(tình trạng không có năng lực TNHS) nên được loại trừ TNHS.

Các trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và gây thiệt hại trong
khi bắt giữ người phạm tội không mang tính nguy hiểm cho xã hội bởi vì việc gây
thiệt hại trong những trường hợp này đem lợi ích cho xã hội, cho con người. Chủ thể
trong các trường hợp nên đã chủ động lựa chọn biện pháp xử sự tích cực nhằm bảo
vệ các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Cho nên, mặc dù trên thực tế các chủ
thể đã gây ra những hậu quả nhất định, về hình thức bên ngoài có thể mang đầy đủ
các yếu tố CTTP của những tội phạm cụ thể, nhưng về bản chất đây là những hành
vi có ích, phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của xã hội nên được xã hội khuyến
khích, hành vi đó mất đi tính chất nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi đó
không có lỗi nên không coi là tội phạm.

Do đặc thù của lĩnh vực hoạt động nên việc gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử
nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ và thi hành mệnh lệnh của
người chỉ huy hoặc của cấp trên được xem là cần thiết, vì vậy, làm mất đi tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi và cũng được loại trừ TNHS.

Như vậy, những trường hợp loại trừ TNHS là những trường hợp làm mất đi
tính nguy hiểm cho xã hội và người thực hiện hành vi gây ra những thiệt hại nhất
định cho xã hội trong những trường hợp này không phải chịu TNHS.

7.2 Sự kiện bất ngờ

Điều 20 BLHS quy định: “Người thực hiện hành vi gây nguy hại cho xã hội do sự
kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải
thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu TNHS”. Sở dĩ trường hợp sự
kiện bất ngờ mặc dù gây ra hậu quả cho xã hội nhưng không bị truy cứu TNHS vì họ
không có khả năng thấy trước hoặc không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả của
hành vi đó

Ví dụ: D đang lái xe ô tô trên đường, tuân thủ đúng quy định về an toàn giao
thông thì H đi xe máy ở chiều ngược lại với tốc độ cao rồi bất ngờ đâm vào xe của D
và bị tử vong. Trong trường hợp này D không thể nhận thức được sẽ có người đâm

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 87


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

vào xe mình với tốc độ cao. Vì vậy, việc H đi xe với tốc độ cao và tự đâm vào xe
của D dẫn đến tử vong được xác định là sự kiện bất ngờ.

7.3 Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Theo Điều 21 BLHS thì một người coi là không có năng lực TNHS khi thuộc một
trong các trường hợp: Không có khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi; Không có khả năng điều khiển hành vi; Không có cả hai khả năng.

Tình trạng không có năng lực TNHS trường hợp một người mắc bệnh tâm thần
(có thể là bệnh tâm thần kinh niên hoặc rối loạn tâm thần nhất thời) và tình trạng
bệnh khác (như bệnh rối loạn tuần hoàn não, u nào, sốt rét ác tính…) làm họ mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.

Người thực hiện hành vi nguy hiểm trong trường hợp này được loại trừ TNHS

7.4 Phòng vệ chính đáng


7.4.1 Khái niệm

Điều 22 BLHS quy định: “Phòng vệ chính đáng hành vi của người vì bảo vệ quyền
hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của
cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm hại
các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đang không phải là tội phạm”.

Chế định về phòng vệ chính đáng là cơ sở pháp lý để công dân được chủ động
tự mình bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của tổ chức hay của Nhà nước
trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Phòng vệ chính đáng phù hợp
với lợi ích xã hội và là sự trợ giúp Nhà nước trong việc duy trì trật tự, kỹ cương xã
hội.

Phòng vệ chính đáng không những tạo điều kiện cho mọi công dân kịp thời
ngăn ngừa thiệt hại do hành vi trái pháp luật đang diễn ra, mà còn có tác dụng động
viên họ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

7.4.2 Điều kiện của phòng vệ chính đáng


a. Điều kiện làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng
- Hành vi tấn công là hành vi nguy hiểm cho xã hội

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 88


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Hành vi xâm hại tới các lợi ích được pháp luật bảo vệ phải là tội phạm hoặc là
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội đến mức đáng kể. Hành vi
này phải đang xảy ra hoặc có nguy cơ thực sự xảy ra ngay tức khắc. Hành vi xâm
hại tới các lợi ích được pháp luật bảo vệ, có thể là quyền, lợi ích của nhà nước, của
cơ quan, của tổ chức.
- Hành vi tấn công là phải hành vi trái pháp luật. Thông thường hành vi tấn
công là hành vi phạm tội, tuy nhiên thực tế vẫn có những hành vi mặc dù chưa đủ
yếu tố CTTP nhưng vẫn làm phát sinh quyền phòng vệ như hành vi tấn công của
người bị bệnh tâm thần, người chưa đủ tuổi chịu TNHS… Hành vi xâm hại có thể
thực hiện bằng hình thức hành động hoặc không hành động (như hành vi không cứu
chữa cho bệnh nhân của bác sỹ hay hành vi không chữa cháy của chiến sỹ cảnh sát
phòng cháy chữa cháy tại đám cháy…).
- Hành vi tấn công phải đang hiện hữu, nghĩa là hành vi tấn công phải đang xảy
ra, hành vi đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc trên thực tế; hoặc hành vi có nguy cơ
thực sự xảy ra ngay tức khắc là hành vi chưa thực sự bắt đầu nhưng hoàn cảnh khách
quan và ý thức chủ quan của người tấn công cho phép người phòng vệ hiểu rằng nếu
không ngăn chặn thì chắc chắn hành vi tấn công sẽ xảy ra; hành vi tấn công đã chấm
dứt và hành vi phòng vệ đi liền ngay sau đó và có thể khắc phục được thiệt hại do
hành vi tấn công gây ra.

Nếu hành vi tấn công chưa xảy ra hoặc chưa đe dọa xảy ra ngày tức khắc mà
đã có hành vi phòng vệ khoa học pháp lý hình sự gọi là phòng vệ quá sớm. Ví dụ: Vì
mâu thuẫn A và B xảy ra xô xát. Trong lúc A chạy đi tìm dao để chém B thì B đã
dùng gậy đánh nhiều nhát vào A và gây thương tích cho A;

Nếu hành vi tấn công đã thực sự chấm dứt trên thực tế mới thực hện hành vi
phòng vệ khoa học pháp lý gọi là phòng vệ quá muộn. Ví dụ: A dùng gậy đuổi đánh
B, sau khi đạp B ngã xuống đường A bỏ đi. B dậy và lấy gạch ném vào đầu A gây
thương tích nặng cho A.

TNHS đối với phòng vệ quá sớm hay quá muộn vẫn được đặt ra như các trường
hợp phạm tội thông thường khác.

b. Điều kiện về nội dung và phạm vi phòng vệ


- Hành vi phòng vệ chỉ được chống trả lại chính người đang có hành vi xâm hại
và không được vượt quá mức cần thiết.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 89


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Xuất phát từ mục đích phòng vệ chính đáng là ngăn chặn sự tấn công, hạn chế
thiệt hại do hành vi tấn công gây ra hoặc đe dọa gây ra nên sự chống trả của người
phòng vệ phải nhằm vào chính kẻ đang gây ra sự nguy hiểm cho xã hội. Người
phòng vệ có thể tác động trực tiếp vào kẻ tấn công hoặc có thể chỉ nhằm vào công
cụ, phương tiện mà họ đang sử dụng.
- Hành vi phòng vệ phải nằm trong giới hạn cần thiết.
Hành vi phòng vệ phải chống trả lại một cách cần thiết đối với người tấn công
được hiểu là hành vi cần và đủ để loại trừ sự tấn công chứ không nhằm mục đích trả
thù. Sự cần thiết thể hiện ở hành vi chống trả của người phòng vệ (phương pháp,
phương tiện, thiệt hại…) đặt trong hoàn cảnh cụ thể phải là những biện pháp hữu
hiệu để có thể ngăn chặn được sự tấn công, hạn chế những thiệt hại có thể bị kẻ tấn
công gây ra.
Để đánh giá sự cần thiết trong phòng vệ chính đáng phải dựa vào nhiều căn cứ,
trong đó có những căn cứ chủ yếu sau: Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại, bị
đe dọa xâm hại; Mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra; Sức mạnh và sự mãnh liệt của
hành vi tấn công; Tính chất, mức độ nguy hiểm của phương pháp, phương tiện hoặc
công cụ mà kẻ tấn công sử dụng; Sức mạnh, khả năng của người phòng vệ đặt trong
hoàn cảnh cụ thể…
Người phòng vệ thông thường bị tấn công bất ngờ nên khó có điều kiện để lựa
chọn phương pháp chống trả thích hợp. Mặt khác, mục đích của phòng vệ chính
đáng là ngăn chặn kịp thời hành vi nguy hiểm cho xã hội đang xảy ra nên buộc
người phòng vệ phải sử dụng bất kỳ công cụ, phương tiện gì và gây ra thiệt hại cho
kẻ tấn công có thể lớn hơn, có thể ngang bằng hay có thể nhỏ hơn thiệt hại mà kẻ tấn
công đã gây ra cho người phòng vệ. Vì vậy, việc đánh giá sự cần thiết phải được đặt
trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà hành vi chống trả thực hiện.
7.4.3 Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Khoản 2 Điều 22 BLHS quy định: “Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành
vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này”.
Để được coi là vượt quá giới hạn phòng vệ, hành vi chống trả phải thỏa mãn
các điều kiện của hành vi phòng vệ. Tuy nhiên, vì người phòng vệ có hành vi chống
trả vượt quá mức cần thiết để gạt bỏ sự tấn công nên thuộc trường hợp vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 90


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Đánh giá sự vượt quá cần phải xem xét toàn bộ những tình tiết liên quan đến sự
việc, trong đó chú ý so sánh: Khách thể được bảo vệ với khách thể bị hành vi phòng
vệ gây thiệt hại (ví dụ, bảo vệ địa điểm thuộc bí mật quốc gia với sức khỏe của con
người); Mức độ thiệt hại gây ra cho người tấn công với mức độ thiệt hại có thể xảy
ra; Khả năng, tương quan lực lượng của bên tấn công và bên phòng vệ, nhân thân
của người bị xâm hại (lưu manh, côn đồ…); Nơi, thời gian xảy ra sự việc (đường
vắng, đêm khuya…)…
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS. Tuy
nhiên, do xấu phát từ động cơ phòng vệ cho nên vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đang được coi là tình tiết giảm nhẹ (Điều 51 BLHS) hoặc là tình tiết định tội (Điều
126 BLHS).
7.4.4 Phòng vệ tưởng tượng
Đây là trường hợp một người trên thực tế không bị tấn công nhưng do lầm tưởng có
sự tấn công của người khác nên đã gây thiệt hại cho họ. Trường hợp này không được
coi là phòng vệ chính đang vì không thỏa mãn những điều kiện của phòng vệ nên
TNHS trong phòng vệ tưởng tượng được giải quyết tùy theo thái độ chủ quan của
người thực hiện:
- Nếu những tình tiết của sự việc chứng tỏ người phòng vệ tưởng tượng không
biết, không thể biết và không buộc phải biết là không có hành vi xâm hại, nhưng do
nhầm lẫn cho nên người đó đã gây thiệt hại, vì vậy họ không phải chịu TNHS.
- Nếu những tình tiết của sự việc chứng tỏ người phòng vệ tưởng tượng không
biết, mặc dù trong tình huống đó người này có thể biết hoặc buộc phải biết là hành
vi xâm hại không xảy ra, hoặc có thể họ nhận thức được sự việc nhưng người đó đã
hành động một cách vội vã, đánh giá sự việc một cách nông cạn là có sự xâm hại thì
phải chịu TNHS về lỗi vô ý.
- Nếu tình tiết của sự việc chứng tỏ là không có sự xâm hại xảy ra, sự lầm
tưởng không có cơ sở trong thực tế thì họ phải chịu TNHS về lỗi cố ý.
7.5 Tình thế cấp thiết
7.5.1 Khái niệm
Điều 23 BLHS quy định: “Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh
gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của
Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, mà không có cách nào khác là gây một thiệt hại
nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết
không phải là tội phạm”.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 91


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Như vậy, tình thế cấp thiết là tình thế của người trước một lợi ích được pháp
luật bảo vệ đang bị đe dọa gây thiệt hại, không có cách nào khác đã gây thiệt hại nhỏ
hơn cho một lợi ích hợp pháp để bảo vệ lợi ích lớn hơn, cần thiết hơn. Hành động
trong tình thế cấp thiết là hành động có ích cho xã hội nên không bị coi là tội phạm.
Đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho mọi người chủ đông tích cực tham gia vào
việc ngăn ngừa những thiệt hại lớn hơn xảy ra trong xã hội.
7.5.2 Điều kiện của tình thế cấp thiết
- Nguồn nguy hiểm phải có thật và đang diễn ra.
Nguồn nguy hiểm làm phát sinh quyền được hành động trong tình thế cấp thiết
rất phong phú: Có thể do hành vi nguy hiểm của con người, do thiên tai, do trục trặc
kỹ thuật của xe cộ, máy móc, do súc vật tấn công… Nguồn nguy hiểm đe dọa đến
những lợi ích hợp pháp phải đang diễn ra nghĩa là sự nguy hiểm đã bắt đầu và chưa
kết thúc. Trong một số trường hợp mặc dù nguồn nguy hiểm chưa xảy ra nhưng đe
dọa xảy ra ngay tức khắc nếu không ngăn chặn kịp thời cũng được coi là nguồn
nguy hiểm đang diễn ra.
- Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là lựa chọn cuối cùng và suy nhất
Hành động gây thiệt hại cho những lợi ích được pháp luật bảo vệ (nhằm để bảo
vệ những lợi ích hợp pháp lớn hơn) trong tình thế cấp thiết phải là biện pháp cuối
cùng và duy nhất. Điều đó có nghĩa là nếu còn những biện pháp khác, cách khác
tránh được thiệt hại thì không được gọi là tình thế cấp thiết.
- Thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết phải nhỏ hơn lợi ích cần bảo vệ.
Xuất phát từ mục đích của tình thế cấp thiết là hy sinh lợi ích nhỏ để bảo vệ lợi
ích lớn hơn, cho nên nếu gây ra thiệt hại lớn hơn để tránh thiệt hại nhỏ hơn thì việc
gây thiệt hại là không cần thiết, vì vậy không được coi là hành động trong tình thế
cấp thiết.
Trường hợp một người đứng trước sự nguy hiểm đang đe dọa đến những lợi ích
hợp pháp cần bảo vệ, nhưng do đánh giá sai lầm nên gây thiệt hại lớn hơn thiệt hại
cần ngăn ngừa thì TNHS đặt ra và giải quyết như những trường hợp sai lầm về sự
việc.
7.5.3 Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức và quyền, lợi ích chính đang của công dân,
phòng ngừa, ngăn chặn khả năng tùy tiện, lạm dụng trong tình thế cấp thiết, Luật
Hình sự đã quy định TNHS đối với những trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế
cấp thiết.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 92


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Theo khoản 2 Điều 23 BLHS, vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là trường
hợp gây thiệt hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết. Người gây thiệt hại
trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết phải chịu TNHS. Quy định
này nhằm phòng ngừa, ngăn chặn sự tùy tiện, lạm dụng tình thế cấp thiết để gây
thiệt hại cho xã hội. Tuy nhiên, do xuất phát từ mục đích ngăn ngừa thiệt hại cho xã
hội của người hành động nên vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết được coi là tình
tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS.
7.6 Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
Bắt giữ người phạm tội là một chế định trong Luật Tố tụng hình sự nhưng bắt giữ
người phạm tội liên quan đến việc sử dụng vũ lực mà việc sử dụng vũ lực có phù
hợp pháp luật hay không lại do Luật hình sự điều chỉnh.
Bắt giữ người phạm tội bằng cách sử dụng vũ lực là một trong những biện pháp
cần thiết để đảm bảo hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Việc sử
dụng vũ lực có thể gây ra những tác hại nhất định cho người bị bắt (về nhân thân, tài
sản…), nhưng đó là biện pháp cần thiết để ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật nên
nó là hành vi có lợi cho xã hội, là một trong những trường hợp loại trừ TNHS được
quy định tại Điều 24 BLHS.
Cơ sở thực tế làm phát sinh quyền bắt giữ người phạm tội là một người nào đó
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, để coi việc gây thiệt hại do dùng vũ
lực trong khi bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại trừ TNHS phải thỏa mãn
điều kiện sau:
- Việc dùng vũ lực phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
vi phạm, với hoàn cảnh lúc bắt giữ người phạm tội;
- Khi bắt giữ người phạm tội, chỉ được sử dụng vũ lực khi không còn cách nào
khác, gây ra thiệt hại đối với chính người bị bắt và phải là cần thiết trong những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết thì
người gây thiệt hại phải chịu TNHS.
7.7 Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ
Điều 25 BLHS quy định không truy cứu TNHS đối với trường hợp gây thiệt hại do
rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ. Tuy nhiên, thiệt hại xảy ra phải vượt ra ngoài nhận thức và phòng ngừa của
người nghiên cứu khoa học khi họ đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 93


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

đầy đủ biện pháp phòng ngừa; hoặc những trường hợp vì mục đích, vì tiến bộ của
khoa học kỹ thuận, công nghệ nếu xảy ra rủi ro thì không phải là tội phạm và người
thực hiện không phải chịu TNHS.
Tuy nhiên, trường hợp không áp dụng đúng quy trình, quy phạm hoặc áp dụng
không đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu TNHS
7.8 Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
Quan hệ mệnh lệnh – phục tùng là quan hệ đặc thù của quản lý Nhà nước. Chấp
hành mệnh lệnh của cấp trên là yêu cầu bắt buộc đối với cấp dưới. Là một thành
viên có ý thức của xã hội, con người có khả năng nhận thức tính chất công việc mà
cấp trên ra lệnh, vì thế, việc thi hành lệnh của cấp trên không phải bao giờ cũng
được loại trừ TNHS của người thực hiện. Theo quy định tại Điều 26 BLHS, chỉ
được loại trừ TNHS trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp
trên khi:
- Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ
trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh;
- Đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra
mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó.
Quy định này không áp dụng đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421
về tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược, khoản 2 Điều 422 về tội chống
phá loài người, khoản 2 Điều 423 về tội phạm chiến tranh.

Tóm tắt chương

1. Những trường hợp loại trừ TNHS là những trường hợp làm mất đi tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi và thực hiện hành vi gây ra những thiệt hại nhất định
cho xã hội trong những trường hợp này không phải chịu TNHS.
2. Người gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong sự kiện bất ngờ được loại trừ
TNHS vì họ không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của
hành vi đó.
3. Người mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì được loại
trừ TNHS…
4. Điều kiện để được xác định là phòng vệ chính đáng: Hành vi tấn công là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và phải đang hiện hữu; Hành vi phòng vệ chỉ

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 94


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

được chống trả lại chính người đang có hành vi xâm hại và không được quá mức cần
thiết, hành vi phòng vệ phải nằm trong giới hạn cần thiết.
- Với những trường hợp, hành vi chống trả thỏa mãn là các điều kiện nhưng vì
người phòng vệ có hành vi chống trả vượt quá mức cần thiết để gạt bỏ sự tấn công
thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và phải chịu TNHS.
Đánh giá sự vượt quá cần phải xem xét toàn bộ những tình tiết liên quan dến sự
việc, trong đó chú ý so sánh: Khách thể được bảo vệ với khách thể bị hành vi phòng
vệ gây thiệt hại; Mức độ thiệt hại gây ra cho người tấn công với mức độ thiệt hại có
thể xảy ra; Khả năng, tương quan lực lượng của bên tấn công và bên phòng vệ, nhân
thân của người xâm hại; Nơi, thời gian xảy ra sự việc…
- Phòng vệ quá sớm là trường hợp hành vi tấn công chưa xảy ra hoặc chưa đe
dọa xảy ra ngay tức khắc mà đã có hành vi phòng vệ.
- Phòng vệ quá muộn là trường hợp hành vi tấn công đã thực sự chấm dứt trên
thực tế mới thực hiện hành vi phòng vệ. TNHS đối với phòng vệ quá sớm và quá
muộn vẫn được đặt ra như các trường hợp phạm tội thông thường khác.
- Phòng vệ tưởng tượng là trường hợp một người trên thực tế không bị tấn công
nhưng do lầm tưởng có sự tấn công của người khác nên đã gây thiệt hại cho họ.
Trường hợp này không được coi là phòng vệ chính đang vì không thỏa mãn những
điều kiện của phòng vệ nên TNHS đặt ra và giải quyết như những trường hợp sai
lầm. TNHS trong phòng vệ tưởng tượng được giải quyết tùy theo thái độ chủ quan
của người thực hiện.
5. Để được xác định là tình thế cấp thiết, phải thỏa mãn các điều kiện: Nguồn
nguy hiển phải có thật và đang diễn ra, hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết
là biện pháp cuối cùng và duy nhất và thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết phải
nhỏ hơn lợi ích cần bảo vệ. Trường hợp gây ra thiệt hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của
tình thế cấp thiết phải chịu TNHS.
6. Ngoài những trường hợp trên Luật hình sự quy định gây thiệt hại trong khi bắt
giữ người phạm tội, rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học,
kỹ thuật và công nghệ và thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
cũng là trường hợp loại trừ TNHS.

Câu hỏi ôn tập

I. Câu hỏi tự luận


1. Phân tích các điều kiện của phòng vệ chính đáng.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 95


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

2. Phận tích các điều kiện của tình thế cấp thiết
3. So sáng phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết.
4. Nêu ý nghĩa của quy định phòng vệ chính đang và tình thế cấp thiết đối với
công tác đấu tranh, phòng và chống tội phạm.
5. Giải thích vì sao gây thiệt hại cho xã hội trong các trường hợp sau lại được
loại trừ TNHS:
- Sự kiện bất ngờ
- Tình trạng không có NLTNHS.
6. Trình bày điều kiện để các trường hợp sau được loại trừ TNHS
- Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
- Thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
- Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
7. So sánh lỗi vô ý do cẩu thả với sự kiện bất ngờ?
II. Câu hỏi trắc nghiệm
Những nhận định sau đúng hay sai? Vì sao?
1. Phòng vệ chính đáng là quyền của con người
2. Chỉ được phòng vệ khi hành vi tấn công xâm hại đến lợi ích của bản thân
người phòng vệ.
3. Lợi ích gây thiệt hại trong thực tế luôn luôn phải nhỏ hơn hoặc bằng lợi ích
cần được bảo vệ mới được coi là tình thế cấp thiết
4. Thi hành mệnh lệnh cấp trên gây thiệt hại cho xã hội thì chỉ người ra lệnh mới
phải chịu TNHS.
5. Hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi tấn công mới được coi là
phòng vệ chính đáng.
6. Người phạm tội trong trường hợp sự kiến bất ngờ không phải chịu TNHS
7. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội chỉ được loại trừ TNHS khi
việc sử dụng vũ lực là lựa chọn cuối cùng và cần thiết.
8. Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật
và công nghệ nếu gây thiệt hại thì không phải chịu TNHS
9. Việc loại trừ TNHS đối với trường hợp thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy
hoặc của cấp trên chỉ áp dụng trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh.
10.Người phạm tội trong những trường hợp sự kiện bất ngờ thì không có lỗi.
III. Câu hỏi tình huống

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 96


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

1. Từ khi yêu Trần H, M cắt quan hệ với Đỗ Tr. Đỗ Tr cho rằng Trần H là người
phá hoại hạnh phúc của mình nên tập hợp một số bạn bè để trả thù. Vì không muốn
xảy ra việc ẩu đả nên Trần H luôn tìm cách tránh mặt Tr. Ngày 29/5, Đỗ Tr cùng ba
người bạn là Bằng, Giảo, Cường tổ chức phục kích. Khi thấy Trần H trên đường đến
nhà M, cả bọn lao ra chặn đánh. Sau khi dàn hòa, van xin không được, H đã bỏ chạy.
H chạy được 500 mét, gần đến nhà M vẫn thấy Đỗ Tr, Giảo, Bằng, Cường đuổi theo.
Lúc đó H đứng lại, cầm con đao nhíp, giơ lên nói: “Đứa nào vào sẽ bỏ mạng”. Giảo
cầm một cây gậy ngắn lao vào đánh, bị H đâm một nhát vào bụng. Giảo đã chết ở
bệnh viện sau đó vì mất máu quá nhiều.
Hỏi: Hành vi của Trần H có được thừa nhận là phòng vệ chính đáng không? Tại
sao?
2. C đưa bạn gái là N đi dạo trong công viên vào buổi tối thì bị một số đối tượng
đến chọc ghẹo. C định đánh trả nhưng được N can ngăn nên cả hai bỏ đi. Một lúc
sau, khi C và N đang ngồi ở ghế đá thì thấy có một người đi về phía họ với tốc độ
khá nhanh, hai tay để ra sau. Nghĩ là một trong những thanh niên lúc nãy quay lại để
gây sự nên C đứng lên và xông vào đánh người này tới tấp đến khi được mọi người
can ngăn. Người này bị thương 30% và là bảo vệ của công viên, không liên quan gì
đến nhóm thanh niên đã gây sự với C lúc nãy. Về TNHS của C có 3 ý kiến:
- C phạm tội;
- C phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- C được thừa nhận là phòng vệ chính đáng.
Hỏi: Ý kiến của anh (chị) về trường hợp này như thế nào? Giải thích vì sao?

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 97


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

CHƯƠNG 8
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT

8.1 Trách nhiệm hình sự, hình phạt, biện pháp tư pháp
8.1.1 Trách nhiệm hình sự
a. Khái niệm trách nhiệm hình sự

TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, theo đó người hoặc pháp nhân thương mại
phạm tội vì đã thực hiện hành vi phạm tội nên đã chịu những hậu quả pháp lý bất lợi
trước Nhà nước. TNHS có đặc điểm như sau:

- TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện hành vi phạm tội. TNHS
chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra;
- Trong các trách nhiệm pháp lý, TNHS là dạng trách nhiệm nghiêm khắc nhất.
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế chủ yếu của luật hình sự hạn chế quyền và lợi ích
của người hoặc pháp nhân thương mại bị áp dụng, thậm chí tước bỏ tính mạng của
người phạm tội; Ngoài ra người và pháp nhân thương mại bị kết án còn bị áp dụng
biện pháp tư pháp và phải chịu án tích.
- TNHS là trách nhiệm của người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội đối với
Nhà nước khi họ đã thực hiện hành vi xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật
hình sự bảo vệ;
- TNHS chie được xác định bằng trình tự, thủ tục do các cơ quan tiến hành tố
tụng thực hiện.
- TNHS được phản ánh trong bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật.
b. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
- Cơ sở triết học của TNHS thể hiện ở mối quan hệ giữa tính tất yếu và tính tự
do trong hành vi con người thể hiện thông qua sự tương tác giữa các điều kiện khách
quan bên ngoài với con người. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, trách
nhiệm nói chung và TNHS nói riêng chỉ có thể giải quyết trên cơ sở tính quyết định
của xử sự của con người.

Tự do – một phạm trù triết học – là cơ sở của trách nhiệm nói chung và là cơ sở
của trách nhiệm hình sự nói riêng. TNHS chỉ đặt ra cho một người khi họ có tự do.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 98


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Một người thực hiện hành vi được coi là tội phạm khi họ có tự do, có nghĩa là họ có
lỗi và TNHS cũng chỉ đặt ra khi một người được coi là có lỗi.

- Cơ sở pháp lý của TNHS: Quy định của pháp luật hình sự về một hành vi bị
coi là tội phạm là cơ sở của TNHS. Điều 2 BLHS quy định: “Chỉ người nào phạm
một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Chỉ
pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật
này mới chịu TNHS”. Muốn xác định một người hay một pháp nhân thương mại
thực hiện hành vi có phải là tội phạm hay không thì phải dựa vào cơ sở pháp lý duy
nhất đó là từng CTTP cụ thể được quy định trong BLHS. CTTP chính là cơ sở của
TNHS. Nếu hành vi của con người hoặc của pháp nhân thương mại không thỏa mãn
hoặc thỏa mãn không đầy đủ các dấu hiệu của bất kỳ CTTP nào được quy định trong
BLHS thì hành vi đó không CTTP và người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
hành vi đó không bị truy cứu TNHS. Như vậy, CTTP là cơ sở pháp lý của TNHS.
c. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Khoản 1 Điều 27 BLHS quy định về thời hiệu truy cứ TNHS như sau: “Thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời
hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu TNHS”.

Người phạm tội sẽ không bị truy cứu TNHS về hành vi phạm tội của mình nếu
tội phạm không bị phát hiện hoặc bị pháp hiện nhưng không xử lý khi hết thời hạn
sau:

 Năm năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;


 Mười năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
 Mười lăm năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
 Hai mươi năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Điều kiện để người phạm tội được hưởng thời hiệu truy cứu TNHS nêu trên là
họ không phạm tội mới (những tội phạm mà BLHS quy định mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù) và không cố tình trốn tránh pháp
luật, không có quyết định truy nã đối với họ. Nếu trong thời hạn nêu trên, người
phạm tội lại phạm tội mới (những tội phạm mà BLHS quy định mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù) thì thời hiện truy cứu TNHS được
tính lại từ thời điểm tội phạm mới được thực hiện; nếu người phạm tội cố tình trốn

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 99


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

tránh pháp luật và đã có quyết định truy nã đối với họ thì thời hiệu truy cứu TNHS
được tình lại từ thời điểm người đó đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Những quy định trên cũng được áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm
tội
Đối với các tội phạm An ninh quốc gia (Chương XIII BLHS), các tội phá hoại
hòa bình, tội chống loài người và tội phạm chiến tranh (Chương XXVI BLHS) tội
tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353; tội nhận
hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 do tính chất đặc
biệt nguy hiểm cho xã hội nên không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS.
8.1.2 Hình phạt
a. Khái niệm
Điều 30 BLHS quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với
người hợp pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người, pháp nhân thương mại đó”.
Hình phạt có đặc điểm như sau:
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Trong các biện pháp
cưỡng chế Nhà nước sử dụng để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, hình phạt
là biện pháp nghiêm khắc nhất. Hình phạt là biểu hiện cụ thể của quyền lực nhà
nước trong đấu tranh phòng và chống tội phạm. Tính nghiêm khắc của hình phạt thể
hiện ở chỗ, việc áp dụng hình phạt có thể tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người bị kết án như các quyền về tự do thân thể, quyền về cư trú, quyền về tài sản,
quyền tự do đi lại, các quyền về chính trị, thậm chí cả quyền sống. Hình phạt để lại
án tích cho người, pháp nhân thương mại bị kết án trong một thời gian nhất định.
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLHS. Cùng với tội
phạm, hình phạt được quy định trong BLHS. Hình phạt được quy định ở Phần chung
và Phần các tội phạm. Phần chung quy định khái niệm, mục đích, hệ thống hình
phạt, các nguyên tắc, căn cứ quyết định hình phạt, miễn hình phạt giảm thời hạn
chấp hành hình phạt… Phần các tội phạm quy định các loại hình phạt, mức hình
phạt, mức hình phạt cho từng loại tội phạm cụ thể.
Trong Phần các tội phạm của BLHS, tính chất và mức độ nghiêm khắc của hình
phạt được quy định xuất phát từ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng
loại tội phạm, phản ánh sự phân hóa TNHS và hình phạt làm cơ sở để áp dụng Luật
hình sự một các hợp lý và công bằng.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 100


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Hình phạt chỉ do Tòa án áp dụng. Theo chức năng, Tòa án là cơ quan duy
nhất được trao quyền xét xử của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được
quyền quyết định hình phạt đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội
- Hình phạt áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện tội
phạm. Theo Luật hình sự Việt Nam, hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người hoặc
pháp nhân thương mại đã thực hiện tội phạm. Hình phạt không thể áp dụng đối với
những người thân thích của người phạm tội, cũng như đối với người thân thích của
các thành viên trong pháp nhân thương mại phạm tội. Mặt khác, việc áp dụng hình
phạt chỉ thực sự có ý nghĩa hướng đến việc giáo dục người, pháp nhân thương mại
phạm tội.
b. Mục đích của hình phạt

Điều 31 BLHS quy định: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân
thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, giáo dục người, pháp nhân thương mại
khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”. Từ quy định
này rút ra những mục đích của hình phạt như sau:

- Trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội. Trước hết, hình phạt được
quy định và áp dụng nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội. Mục
đích trừng trị của hình phạt thể hiện ở chỗ Nhà nước tước bỏ, hạn chế những quyền
và lợi ích nhất định đối với người, pháp nhân thương mại bị áp dụng hình phạt. Mức
độ của việc tước bỏ và hạn chế đó phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của người, pháp nhân thương mại phạm tội, nhân thân người phạm tội, những
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS… Dưới tác động của hình phạt với ý nghĩa của
biện pháp tác động đặc biệt, người, pháp nhân thương mại phạm tội mới nhận thức
đầy đủ về hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu.
- Giáo dục người, pháp nhân thương mại phạm tội ý thức tuân theo pháp luật
và quy tắc của cuộc sống, phòng ngừa họ phạm tội mới. Áp dụng hình phạt đối với
người, pháp nhân thương mại phạm tội là thể hiện sự phản ứng của Nhà nước và xã
hội nhưng sự phản ứng không nhằm trả thù mà hướng tới giáo dục người, pháp nhân
thương mại phạm tội có ý thức tuân theo pháp luật và quy tắc cuộc sống và ngăn
ngừa họ phạm tội mới. Giáo dục là nội dung chủ yếu trong mục đích của hình phạt.
- Giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm. Việc áp dụng hình phạt có tác dụng tuyên truyền pháp

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 101


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

luật, khuyến khích người dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm. Hình phạt do Tòa án tuyên có tác động đến ý thức, tư tưởng những người,
pháp nhân thương mại không vững vàng trong cộng đồng xã hội, hình phạt có ý
nghĩa răng đe, ngăn ngừa họ phạm tội, kiềm chế không thực tiện tội phạm là cách
duy nhất tránh khỏi bị áp dụng hình phạt. Hình phạt mà Tòa án tuyên có tác động
đối với cộng đồng xã hội, để khích lệ mọi người nâng cao ý thức đấu tranh phòng,
chống tội phạm, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân.

Mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt có ảnh hưởng qua
lại và hỗ trợ nhau, thống nhất với nhau. Hình phạt chỉ phát huy tác dụng phòng ngừa
riêng trong một xã hội mà ở đó pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh.
Tội phạm được phát hiện và trừng trị một cách công minh, người, pháp nhân thương
mại bị kết án chấp hành hình phạt nghiêm túc, tác động đến thái độ tôn trọng pháp
luật, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm ở những người, pháp nhân thương mại
khác được nâng cao và điều này lại tác động to lớn đối với việc ngăn ngừa tội phạm,
giáo dục, cải tạo người, pháp nhân thương mại phạm tội.

c. Hệ thống hình phạt đối với người phạm tội


- Điều 32 BLHS quy định hình phạt chính và hình phạt bổ sung được sắp xếp
theo một trật tự từ nhẹ đến nặng. Hệ thống hình phạt đối với người phạm tội nước ta
có những đặc điểm sau:
- Hệ thống hình phạt là một chỉnh thể gồm nhiều loại hình phạt thể hiện tính đa
dạng, thực hiện được nguyên tác công băng, nguyên tắc cá thể hóa TNHS, hình phạt,
tạo thuận lợi, chính xác trong áp dụng, bảo đảm được sự công bằng, hợp lý khi áp
dụng. Hệ thống hình phạt được chia thành 2 nhóm hình phạt chính và hình phạt bổ
sung.
- Hệ thống hình phạt mang tính nhân đạo, thể hiện chính sánh nghiêm trị với
khoan hồng, cưỡng chế với thuyết phục giáo dục. Mục đích hình phạt quyết định
tính chất của hệ thống hình phạt. Trong hệ thống hình phạt, không có những hình
phạt mang tính trả thù, không nhằm khủng bố, nhục hình gây đau đớn hoặc đày đọa
về thể xác, chà đạp phẩm giá con người. Bên cạnh những hình phạt thể hiện thái độ
nghiêm trị của Nhà nước, việc Luật hình sự quy định và cho phép áp dụng trên thực
tế nhiều loại hình phạt không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội, thể hiện
thái độ khoan hồng, lấy giáo dục làm nội dung chủ đạo, tạo cơ hội dể họ tự cải tạo

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 102


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và nhân dân như
hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền…
- Hệ thống hình phạt trong BLHS được quy định theo một trật tự nhất định từ
nhẹ đến nặng. Tuy nhiên, với hình phạt trục xuất do chỉ áp dụng với người nước
ngoài và thuộc nhóm hình phạt không tước tự do thân thể nên BLHS xếp hình phạt
này sau hình phạt cải tạo không giam giữ, vị trí không thể hiện trục xuất thì nặng
hơn so với cải tạo không giam giữ.
Hình phạt chính là hình phạt được áp dụng đối với một tội phạm và được Tòa án
tuyên độc lập, Tòa án chỉ được tuyên một hình phạt chính cho một tội phạm cụ thể.
Hình phạt chính gồm:
- Cảnh cáo, là sự khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án áp dụng đối
với người phạm tội.
Điều 34 BLHS quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít
nghiêm trọng và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.”
Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong các hình phạt chính, chỉ được áp dụng đối
với người phạm tội ít nghiêm trọng, có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên nhưng không
thể miễn TNHS đối với họ và không cần thiết phải áp dụng hình phạt khác nặng
hơn.
- Phạt tiền, Điều 35 BLHS quy định: “Phạt tiền được áp dụng là hình phạt
chính đối với các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này
quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi
trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật
quy định”.

Phạt tiền là hình phạt có tính chất kinh tế nhằm vào tài sản của người bị kết án
bằng việc tước của người bị kết án một khoản tiền nhất định sung vào công quỹ Nhà
nước. Hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu nhằm tước bỏ những khỏa n tiền thu lợi
bất chính hoặc một phần tài sản của người bị kết án để ngăn ngừa họ tái phạm, giáo
dục chung. Trong hệ thống hình phạt, phạt tiền có thể được áp dụng vừa là hình phạt
chính, vừa là hình phạt bổ sung.

Theo Điều 35 BLHS, chỉ trong trường hợp có điều luật quy định thì phạt tiền
mới được áp dụng là hình phạt chính, điều này thể hiện việc cấm dùng hình phạt tiền

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 103


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

để thay cho hình phạt khác nặng hơn. Đối với người phạm các tội mà điều luật quy
định về tội đó không có hình phạt tiền là hình phạt chính thì không thể vận dụng
Điều 54 BLHS về khả năng chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, để
tuyên phạt tiền thay cho một hình phạt nặng hơn trong điều luật như cải tạo không
giam giữ hoặc phạt tù. Ngược lại, không thể chuyển hình phạt tiền thành phạt tù để
tổng hợp với hình phạt tù trong trường hợp phạm nhiều tội mà phải chấp hành riêng
biệt.

Phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm các tội về
tham nhũng, ma túy hoặc các tội phạm khác do BLHS quy định.

Mức phạt tiền được xác định dựa trên một số căn cứ chủ yếu như tính chất và
mức độ nguy hiểm của tội phạm; có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội; sự
biến động của giá cả thị trường. Mức tối thiểu của hình phạt tiền là một triệu đồng,
hình phạt tối đa là mức phạt tiền theo bội số lần so với giá trị vật phạm pháp hoặc
tiền thu lợi bất chính;

- Cải tạo không giam giữ

Điều 36 BLHS quy định: “Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng
đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ
luật này quy định mà đang có nơi là việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét
thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội”. Đây là hình phạt
không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội và giao người bị kết án cho cơ
quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội giám sát, giáo dục.

Hình phạt này áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm
trọng, có việc làm, có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng. Khoản 2
Điều 36 BLHS quy định Tòa án giao người bị kết ám cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ
chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú
để giám sát giáo dục. Gia định người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính
quyền địa phương, cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục.

Người bị áp dụng hình phạt này có thể bị khấu trừ một phần thu nhập. Tùy theo
tính chất, mức độ nguy hiểm và yêu cầu trừng trị, giáo dục, người bị kết án có thể bị
khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Trong trường
hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập. Quy định này không áp
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 104
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

dụng đối với người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự và người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt, mỗi ngày
tạm giữ, tạm giam bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ.

Trường hợp không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành
hình phạt cải tạo không giam giữ thì phải thực hiện một số công việc lao động phục
vụ cộng đồng. Thời gian lao động không quá 4 giờ trong 1 ngày, không quá 5 ngày
trong 1 tuần. Quy định này không áp dụng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi
con dưới 6 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật
nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

- Trục xuất, là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 37 BLHS)
Trục xuất có thể được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Khi
quyết định áp dụng hình phạt đối với người nước ngoài, Tòa án căn cứ vào tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của họ
để quyết định áp dụng trục xuất là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung.
- Tù có thời hạn, là hình phạt buộc người bị kết án, buộc họ phải cách ly khỏi
xã hội trong một thời gian nhất định để học tập, lao động, cải tạo.
Đây là hình phạt tước tự do của người bị kết án, buộc họ phải cách ly khỏi xã
hội trong một thời gian nhất định và phải cải tạo theo chế độ giam giữ nghiêm ngặt
trong quá trình lao động, học tập và sinh hoạt.
Người bị kết án tù có thời hạn được phép học văn hóa, học nghề, tham gia lao
động, được tạo điều kiện để tự cải tạo. Mức phạt tù tối thiểu là 3 tháng, tối đa là 20
năm đối với một tội phạm, trường hợp tổng hợp hình phạt mức phạt tù có thể lên tới
30 năm.
Nếu người bị kết án tù có thời hạn đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ,
tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, 1 ngày tạm giữ, tạm giam
bằng 1 ngày tù. Đây là hình phạt phổ biến nhất. Nội dung của hình phạt tù có thời
hạn phản ánh sự kết hợp giữ trừng trị với giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm.
- Tù chung thân, là hình phạt tù không thời hạn tước tự do của người bị kết án
và cách ly khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm. Người bị áp
dụng hình phạt tù chung thân có thể bị tước tự do đến hết đời.
Hình phạt tù chung thân được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng mà nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn ở mức tối đa là 20 năm thì vẫn chưa

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 105


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

đủ nghiêm khắc để trừng trị và giáo dục, cải tạo nhưng chưa đến mức phải xử phạt
tử hình. Luật hình sự Việt Nam quy định không áp dụng hình phạt tù chung thân đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Tử hình, là hình phạt đặc biệt, tước bỏ quyền sống của người bị kết án, chỉ áp
dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, xét thấy không còn khả năng
giáo dục, cải tạo được hoặc vì mục đích phòng ngừa chung.
Hình phạt tử hình thể hiện mức độ trừng trị nghiêm khắc nhất của Nhà nước đối
với người phạm tội. Hình phạt tử hình không đặt ra mục đích giáo dục, cải tạo người
bị kết án do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm đã thực hiện và những đặc
điểm về nhân thân của người phạm tội, không còn khả năng giáo dục, cải tạo họ.
Hình phạt tử hình loại bỏ người bị kết án khỏi đời sông xã hội nhằm loại bỏ hoàn
toàn khả năng thực hiện tội phạm ở họ, nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống tội
phạm trong nhân dân.
Hình phạt tử hình được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
thuộc một trong nhóm các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính
mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng khác. Thông thườn đó là những trường hợp gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng lớn cho xã hội, gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh và trật tự chung, bị
dư luận xã hội đặc biệt căm phẫn, không có các tình tiết giảm nhẹ.
Luật hình sự Việt Nam quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người
dưới 18 tuổi khi phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi
hành hình phạt tử hình đối với các trường hợp: phụ nữ có thai hoặc phụ nữ có thai
hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên, người bị kết
án tử hình về tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại
ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức
năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (khoản 3 Điều
40 BLHS).
Người bị áp dụng hình phạt tử hình có thể xin ân giảm. Trường hợp được ân
giảm thì hình phạt tử hình chuyển thành hình phạt tù chung thân.
Hình phạt bổ sung là hình phạt không được tuyên độc lập mà phải tuyên kèm
hình phạt chính. Mỗi tội phạm có thể không áp dụng hoặc áp dụng một hoặc nhiều
hình phạt bổ sung. Hình phạt bổ sung gồm
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định,

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 106


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Hình phạt này chỉ áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án sau khi chấp
hành xong hình phạt tù hoặc sau ngày bản án có hiệu lực pháp luật (nếu là hình phạt
khác như: cảnh cóa, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc người bị kết án phạt tù
được hưởng án treo) mà người phạm tội còn đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc
làm công việc nhất định thì có thể gây nguy hại cho xã hội.

Chức vụ mà người bị kết án có thể bị tước là chức vụ mà họ đã đảm nhiệm


trước đây hoặc có thể đảm nhiệm sau này, chức vụ mà người đảm nhiệm đã tìm mọi
cách dựa vào chức vụ công tác hay nghề nghiệp của mình để thực hiện tội phạm;
Một số loại tội phạm khác xét thấy nếu tiếp tục để họ đảm nhiệm chức vụ đó sẽ gây
ảnh hưởng xấu tronh nhân dân, làm giảm uy tín hoặc hiệu quả quản lý của nhà nước.

Những nghề hoặc công việc bị cấm là những nghề hoặc công việc mà người
phạm tội đã lợi dụng việc hành nghề của mình để phạm tội, chà đạp lên lương tâm
nghề nghiệp, vi phạm các quy tắc nghề nghiệp, không tôn trongjcasc yêu cầu công
việc.

Hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định có phạm vi áp dụng rất rộng, có thể áp dụng với bất kỳ người phạm tội nào (trừ
người dưới 18 tuổi phạm tội) và áp dụng kèm theo bất kỳ loại hình phạt chính nào
trừ hình phạt tử hình. Thời hạn cấm từ 01 năm đến 05 năm kể từ ngày chấp hành
xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là
cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được
hưởng án treo.

- Cấm cư trú,

Điều 42 BLHS quy định: “Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được
tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định”.

Hình phạt cấm cư trú nhằm ngăn ngừa người bị kết án sau khi chấp hành xong
hình phạt tù trở lại địa phương mà mình cư trú hoặc phạm tội để có thể lại tiếp tục
phạm tội do những thuận lợi của địa bàn, lợi dụng sự am hiểu địa bàn và những mối
quan hệ xã hội mà họ đã có trước đây để tiếp tục phạm tội.

Hình phạt này chỉ áp dụng đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù,
không áp dụng đối với người bị áp dụng các loại hình phạt khác không phải tù và

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 107


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

người dưới 18 tuổi phạm tội. Thời hạn áp dụng hình phạt này là từ 1 năm đến 5 năm,
kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

- Quản chế,

Điều 43 BLHS quy định: “Quản chế là buộc người bị liên kết án phải cư trú,
làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định, dưới sự kiểm soát, giáo
dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Trong thời gian quản chế, người bị
kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân theo quy
định tại Điều 44 của Bộ luật này và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định”.

Hình phạt quản chế áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc
gia, người tái phạm nguy hiểm hoặc một số trường hợp khác. Hình phạt này buộc
người bị kết án cư trú ở một địa phương nhất định, tước một số quyền công dân và
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Thời hạn tù áp dụng từ 1 đến 5 năm
kể từ sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

- Tước một số quyền công dân, là hình phạt tước của người bị kết án là công
dân Việt Nam một số quyền chính trị cơ bản trong một thời gian nhất định, các
quyền đó là:
 Quyền bầu cử, ứng cử các cơ quan quyền lực nhà nước;
 Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ các lực
lượng vũ trang nhân dân;
Thời hạn bị tước các quyền trên là từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày chấp hành
xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệc lực pháp luật trong trường hợp người
bị kết án được hưởng án treo.
Theo Điều 44 BLHS, hình phạt này áp dụng đối với người phạm tội xâm hại
An ninh quốc gia hoặc tội phạm khác mà Tòa án có thể áp dụng hình phạt chính là
hình phạt tù.
- Tịch thu tài sản, là hình phạt tước đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản của
người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước (Điều 45 BLHS).
Hình phạt này chỉ áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc
gia, tội phạm về ma tuysm tham nhũng hoặc tội phạm khác do BLHS quy định.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 108


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Tịch thu tài sản được thực hiện bằng hình thức tước đoạt tài sản dưới hình thức
hiện vật, kể cả tiền bạc, kim khí quý, đá quý, nhà cửa… nhằm triệt để thu hồi tài sản
do nguồn thu lợi bất chính tích lũy lại mà có cũng như triệt tiêu cơ sở kinh tế ngăn
ngừa người bị kết án sử dụng các tài sản đó vào việc phạm tội. Khi áo dụng tịch thu
toàn bộ tài sản phải để lại một số tài sản đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người bị
kết án và gia đình họ; nếu tịch thu một phần Tòa án phải chỉ rõ tài sản bị tịch thu
chiếm bao nhiêu trong số tài sản của họ…
d. Hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
- Phạt tiền:

Phạt tiền là hình phạt tước của pháp nhân thương mại bị kết án một khoản tiền
nhất định sung vào ngân sách Nhà nước. Hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu nhằm
tước bỏ những khoản tiền thu lợi bất chính hoặc một phần tài sản của pháp nhân
thương mại bị kết án để ngăn ngừa họ tái phạm, giáo dục họ ý thức tuân theo pháp
luật, thực hiện mục đích phòng ngừa giáo dục chung. Trong các hình phạt áp dụng
cho pháp nhân thương mại phạm tội, phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc
hình phạt bổ sung.

Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của
tội phạm; có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội; sự biến
động giá cả. Mức phạt tiền tối thiểu áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội
là 50 triệu đồng.

- Đình chỉ hoạt động có thời hạn

Đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình phạt tạm dừng hoạt động của pháp nhân
thương mại trong một thời gian nhất định.

Theo quy định tại Điều 78 BLHS, hình phạt này chỉ áp dụng trong một hoặc
một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gay thiệt hại đến tính mạng, sức
khỏe con người, môi trường hoặc an ninh trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có
khả năng khắc phục trên thực tế.

Thời hạn đình chỉ hoạt động đối với pháp nhân thương mại là từ 06 tháng đến
03 năm.

- Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 109


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là hình phạt buộc pháp nhân thương mại phải
chấm dứt hoạt động. Hình phạt này chỉ áp dụng trong một hoặc một số lĩnh vực mà
pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại
đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả xảy ra (Điều
79 BLHS).

Đối với những pháp nhân thương mại được thành lập chỉ nhằm mục đích thực
hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động.

 Các hình phạt bổ sung áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội:
- Cấm kinh doan, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định

Hình phạt bổ sung này được áp dụng khi xét thấy nếu để pháp nhân thương
mại bị kết án tiếp tục kinh doanh hoặc hoạt động trong lĩnh vực đó có thể gây nguy
hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cho xã hội. Thời hạn bị cấm là 01
năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

- Cấm huy động vốn

Hình phạt này được áp dụng khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết
án huy động vốn thì có nguy cơ phạm tội tiếp thì Tòa án có thể cấm pháp nhân
thương mại đó thực hiện một trong những hình thức: phát hành, chào bán chứng
khoán; huy động vốn khách hàng; liên doanh liên kết trong và ngoài nước; hình
thành quỹ tín khác bất động sản.

Thời hạn bị cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm kể từ ngày bản án có
hiệu lực pháp luật.

8.1.3 Biện pháp tư pháp


a. Khái niệm

Biện pháp tư pháp là biện pháp hình sự nhằm hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt do cơ
quan tư pháp áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại có hành vi nguy
hiểm cho xã hội.

Đặc điểm của biện pháp tư pháp như sau:

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 110


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Biện pháp tư pháp là biện pháp có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt.
Đây là những biện pháp có tác dụng giải quyết triệt để, toàn diện nhiều vấn đề của
vụ án như bồi thường thiệt hại, cải tạo người phạm tội. Đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội thì “khiển trách”, “hòa giải cộng đồng”, “giáo dục tại xã, phường, thị trấn”
và “giáo dục tại trường giáo dưỡng” là những biện pháp thay thế hình phạt nhưng
vẫn có tác dụng giáo dục, cải tạo người phạm tội lại không gây án tích.
- Các biện pháp tư pháp do cơ quan tư pháp áp dụng. Ngoài Tòa án còn có Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát cũng được áp dụng biện pháp tư pháp.
- Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đối với biện pháp tư pháp áp dụng với
người phạm tội thì không chỉ áp dụng đối với người phạm tội mà còn áp dụng đối
với những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không đủ điều kiện trở
thành chủ thể của tội phạm như người chưa đủ tuổi chịu TNHS hoặc người không có
năng lực TNHS thực hiện hành vi bị coi là tội phạm.
b. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người phạm tội.
- Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm. Đây là biện pháp nhằm loại
bỏ những điều kiện vật chất của tội phạm, góp phần cải tạo, giáo dục người phạm
tội, ngăn ngừa tội phạm. Vật và tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm là công cụ,
phương tiện dùng vào việc thực hiện tội phạm hoặc do phạm tội mà có hoặc do mua
bán, đổi chác những thứ ấy mà có hoặc là vật Nhà nước cấm sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, mua bán.
- Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại. Biện pháp này được áp
dụng đối với người phạm tội khi họ đã gây ra thiệt hại vật chất hoặc tinh thần cho
người bị hại.
- Buộc công khai xin lỗi. Biện pháp này do Tòa án áp dụng đối với người phạm
tội gây thiệt hại về tinh thần nhằm khôi phục lại những giá trị tinh thần cho người bị
hại và giáo dục, cải tạo người phạm tội.
- Bắt buộc chữa bệnh. Biện pháp này do Tòa án hoặc Viện kiểm sát áp dụng
đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần
hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình. Tuy vậy, có thể giao người đó cho gia đình họ người giám hộ trông nom dưới
sự giám sát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nếu thấy không cần thiết phải đưa
vào cơ sở chữa bệnh.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 111


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Người trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình, tuy nhiên trong khi thực hiện tội phạm cí
NLTNHS thì căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp ý, Tòa án có thể
quyết định đưa họ vào cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi
khỏi bệnh, người đó có thể chịu TNHS.

Đối với người đang chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức làm mất khả năng nhận
thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận của
Hội đồng giám định pháp ý, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào cơ sở điều trị
chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục chấp
hành hình phạt, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt. Thời gian bắt
buộc chữa bệnh được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

c. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn TNHS.
Khi người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý
thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án quyết định miễn TNHS và áp dụng biện
pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường thị
trấn.
- Khiển trách, là biện pháp giúp người dưới 18 tuổi nhận thức rõ hành vi phạm
tội và gây ra hậu quả đối với cộng đồng.
Biện pháp này chỉ được áp dụng trong các trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng và người dưới 18 tuổi là người đồng
phạm với vai trò không đáng kể trong vụ án. Khi thực hiện biện pháp khiển trách
phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18
tuổi.
Ngoài việc bị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án khiển trách, người
dưới 18 tuổi còn phải thực hiện các nghĩa vụ như tuân thủ pháp luật, nội quy, quy
chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi có
yêu cầu và tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức,
tham gia lao động với hình thức phù hợp. Thời gian để thực hiện nghĩa vụ trình diện
trước cơ quan có thẩm quyền khi có yêu cần và tham gia vào các chương trình học
tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp là từ
03 tháng đến 1 năm (Điều 93 BLHS).
- Hòa giải tại cộng đồng (Điều 94 BLHS)

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 112


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Trường hợp áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng:
 Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm
tội nghiêm trọng;
 Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 91 BLHS.
Biện pháp này chỉ được thực hiện khi người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS cho người dưới
18 tuổi phạm tội. Ngoài những nghĩa vụ phải thực hiện như trường hợp bị áp dụng
biện pháp khiển trách thì người bị áp dụng biện pháp này còn phải xin lỗi người bị
hại và bồi thường thiệt hại.
- Giáo dục tại xã, phường, thi trấn (Điều 95 BLHS)
Đây là biện pháp thay thế hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong các trường hợp: Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng tại điểm a khoản 2 Điều 91 BLHS; Người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản
2 Điều 91 BLHS.
Ngoài việc bị áp dụng các nghĩa vụ như người bị áp dụng các biện pháp khiển
trách, dưới sự giám sat của Ủy ban nhân dân cấp xã người bị áp dụng biện pháp này
phải chấp hành đẩy đủ nghĩa vị về học tập, lao động; Chịu sự giám sát, giáo dục của
gia đình, xã, phường, thi trấn và không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép;
- Giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96 BLHS)
Biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là biện pháp thay thế hình phạt được
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy do tính chất nghiêm trọng
của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đữa
cần phải có ý luật và cách ly họ khỏi môi trường xã hội để giáo dục và cải tạo họ
trong thời hạn từ một năm đến hai năm.
Người được giáo dục tại trường giáo dưỡng phải chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về
học tập, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường
(khoản 2 Điều 96 BLHS)
d. Các biện pháp tư pháp áp dụng với pháp nhân thương mại phạm tội
Ngoài biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm và trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; công khai xin lỗi như đối với người phạm
tội thì pháp nhân thương mại còn bị áp dụng các biện pháp tư pháp sau:

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 113


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu. Đây là biện pháp Tòa án buộc pháp
nhân thương mại phải khôi phục lại tình trạng ban đầu bị thay đổi do hành vi phạm
tội của mình gây ra.
- Buộc thực hiện một số biện pháp nhắm khắc phục, ngăn chặn hạu quả tiếp
tục xảy ra. Để nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra do hành vi phạm
tội của pháp nhân thương mại gây ra, Tòa án căn cứ vào từng trường hợp cụ thể
buộc pháp nhân phải thực hiện một hoặc một số biện pháp sau:
 Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc
xây dựng không đúng với giấy phép;
 Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;
 Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái xuất hành hóa, vật phẩm,
phương tiện được đưa vào lãnh thổ Việt Nam, nhập khẩu trái quy định pháp luật
hoặc tạm nhập, tái xuất nhưng không táo xuất theo quy định; hàng hóa nhập khẩu,
quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ,
phương tiện, nguyên liệu, vật liệu xuất nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất,
kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã bỏ đi yếu tố vi phạm;
 Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi,
cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác
thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định;
 Buộc thu hồi sản phẩm hành hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường.
8.2 Quyết định hình phạt
8.2.1 Khái niệm quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức độ cụ thể trong
phạm vi luật định để áp dụng đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội.

Hình phạt được quyết định một cách chính xác và công bằng thì mục đích của
hình phạt mới đạt được. Để đạt được mục đích của hình phạt thì quyết định hình
phạt là tiền đề quan trọng. Hình phạt được quyết định quá nhẹ hoặc quá nặng so với
tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm đã thực hiện đều dẫn đến hậu quả làm
giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. Quyết định
hình phạt đúng sẽ góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự và kỷ
cương xã hội, khuyến khích người dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 114


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

8.2.2 Căn cứ quyết định hình phạt


a. Căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội
- Các quy định của BLHS. Đây là căn cứ pháp lý cho việc quyết định hình phạt
và cho việc vận dụng căn cứ khác. Các quy định chủ yếu đó là:
 Những quy định chung cho việc quyết định hình phạt như: quy định cơ sở
chịu TNHS, nguyên tắc xử lý, quy định về hình phạt chính và hình phạt bổ sung, các
biện pháp tư pháp, miễn TNHS, miễn hình phạt, án treo, quy định về TNHS trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, TNHS của người đồng phạm, các
trường hợp loại trừ TNHS, hình phạt, về quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội,…
 Các quy định của phần các tội phạm BLHS. Khi quyết định hình phạt Tòa án
dựa vào phần các tội phạm để xác định tội danh, khung hình phạt, mức hình phạt.
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tòa án dựa
vào căn cứ này để xác định được loại và mức hình phạt trong phạm vi khung hình
phạt trong phạm vi khung hình phạt đã xác định (theo căn cứ thứ nhất). Tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là căn cứ khách quan có ý nghĩa cơ bản
trong việc quyết định xử lý cụ thể nhằm đảm bảo sự tương xứng giữa hình phạt và
tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội phụ thuộc chủ yếu vào những
yếu tố sau: Tính chất của hành vi phạm tội (hành vi, công cụ, phương tiện, thủ đoạn,
cách thức sử dụng công cụ, phương tiện, hình thức thực hiện, đồng phạm (phạm tội
có tổ chức hay đồng phạm thường)); Mức độ thực hiện tội phạm: Chuẩn bị hay đã
thực hiện tội phạm (chưa đạt hay đã hoàn thành); Tính chất, mức độ hậu quả đã gây
ra hoặc đe dọa gây ra cho các quan hệ xã hội; Thái độ chủ qua (lỗi, động cơ, mục
đích, ý thức quyết tâm phạm tội); Hoàn cảnh, nguyên nhân, điều kiện phạm tội…
- Nhân thân người phạm tội. Khi quyết định hình phạt cần căn cứ vào nhân
thân người phạm tội nhằm đạt được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội, tuy
nhiên, chỉ xem xét những đặc điểm nhất định liên quan trực tiếp đến việc thực hiện
tội phạm và liên quan đến thực hiện mục đích của hình phạt. Những đặc điểm nhân
thân người phạm tội được xem xét để quyết định hình phạt gồm:
 Những đặc điểm nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội như phạm tội do lạc hậu, phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp…
 Những đặc điểm nhân thân người phạm tội phản ánh khả năng giáo dục, cải
tạo của họ, khả năng tái hòa nhập cuộc sống cộng đồng.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 115


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

 Những đặc điểm có quan hệ đến các chính sách của Đảng và Nhà nước như:
gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng, nhân sĩ trí thức lớn,
những người có chức sắc trong tôn giáo, người thuộc dân tộc ít người…
- Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS. Căn cứ này nêu lên các tình tiết
có ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, làm giảm
nhẹ hoặc tăng nặng hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt.

Các tình tiết này được quy định chi tiết trong các Điểu 51 (tình tiết giảm nhẹ)
và Điều 52 BLHS (tình tiết tăng nặng). Việc chính thức quy định các tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng có ý nghĩa cho phép cụ thể hóa hai mặt nghiêm trị và khoan hồng của
chính sách hình sự của Nhà nước ta, có tác dụng tích cực trong việc đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm.

Trong các trường hợp phạm tội thường có hai loại tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng xen kẽ nhau. Do đó, khi quyết định hình phạt phải đánh giá tổng hợp các loại
tình tiết đó trong mối quan hệ thống nhất của toàn bộ vụ án, từ đó mà rút ra mặt chủ
yếu trong tương quan giữa các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS.

b. Căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Ngoài căn cứ vào quy định của BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội như đối với người phạm tội thì khi quyết định hình phạt
đối với pháp nhân thương mại và tình tiết giảm nhẹ (Điều 84), tình tiết tăng nặng
TNHS (Điều 85) dành cho pháp nhân thương mại,
8.2.3 Các bước quyết định hình phạt

Tòa án sẽ thực hiện các bước sau khi quyết định hình phạt:

- Xác định loại hình phạt và khung hình phạt cần áp dụng đối với trường hợp
phạm tội cụ thể bằng cách căn cứ vào quy định của BLHS
- Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm xác định
mức hình phạt trung bình thường được áp dụng.
- Xác địng mức giảm nhẹ, tăng nặng TNHS bằng cách cân nhắc nhân thân
người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS.
- Các trường hợp đặc biệt (như quyết định hình phạt nhẹ hơn, quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, trường hợp có nhiều bản án trường hợp đồng
phạm, hay quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, người

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 116


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt) còn cần áo dụng quy tắc
riêng để quyết định hình phạt.
8.2.4 Quyết định hình phạt trong trường hợp cụ thể đối với người phạm
tội
a. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Khi ít nhất có hai tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 BLHS, Tòa án có thể quyết
định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Căn cứ để quyết định hình phạt dưới mức thấp của khung hình phạt là phải có ít nhất
hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51, tuy nhiên Toà án chỉ được
quyết định trong giới hạn sau:

- Quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều
luật quy định nhưng phải trong khung liền kề nhẹ hơn của điều luật nếu điều luật có
từ hai khung hình phạt trở lên và khung hình phạt đang áp dụng không phải khung
hình phạt nhẹ nhất của điều luật.
Ví dụ: A phạm tội cướp tài sản theo khoản 2 Điều 168 BLHS (khung hình phạt
từ 7 năm đến 15 năm) và có căn cứ áp dụng Điều 54 BLHS thì Tòa án sẽ áp dụng
hình phạt dưới 7 năm nhưng phải trong phạm vi từ 3 năm đến dưới 7 năm vì khung
hình phạt nhẹ hơn liền kề (khoản 1 Điều 168 BLHS) từ 3 năm đến 10 năm. Nếu
quyết định dưới 3 năm thì thấp hơn mức thấp nhất “trong khung hình phạt liền kề
nhẹ hơn của điều luật” và nếu quyết định hình phạt từ 7 năm trở lên thì không thỏa
mãn điều kiện hình phạt áp dụng phải “dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà
điều luật quy định”.
- Nếu trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt
được áp dụng là khung nhẹ nhất của điều luật thì Tòa án có thể quyết định chuyển
sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Ví dụ: A bị kết án vì tội cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 171 BLHS (có
khung hình phạt từ 1 năm đến 5 năm tù) nếu A được áp dụng quy định tại Điều 54
BLHS thì Tòa án có thể chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ (là hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù).
- Đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm
nhưng có vai trò không đáng kể thì Tòa án có thể áp dụng một hình phạt dưới mức

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 117


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.

Ví dụ: A là người giúp sức trong vụ án đồng phạm về tội mua bán người dưới 16
tuổi theo khoản 3 Điều 151 BLHS (khung hình phạt từ 18 năm đến 20 năm hoặc
chung thân), nếu A có đủ điều kiện để áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS thì Tòa án
quyết định áp dụng hình phạt dưới 18 năm tù, không bắt buộc phải từ 12 năm (mức
thấp nhất của khoản 2 Điều 151 BLHS) mà có thể từ 7 năm (mức thấp nhất của
khoản 1 Điều 151 BLHS).

b. Quyết định hình phạt trong trường hợp tội phạm chưa hoàn thành.

Khi quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt,
phải tuân theo quy định tại Điều 57 BLHS. Đó là những căn cứ sau:

- Các quy định tại Điều 50 BLHS về các căn cứ quyết định hình phạt chung cho
mọi tội phạm;
- Mức độ thực hiện ý định phạm tội;
- Những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng (làm
rõ để thấy hành vi phạm tội được tính toán đến mức độ nào, người phạm tội khi gặp
phải những tình tiết đó cương quyết đến đâu, phương pháp, tiến độ, hình thức hành
động của họ nguy hiểm như thế nào…).
Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội hình phạt được quyết định trong các khung
hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể.
Đối với hành vi phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định
hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt không quá 20
năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật
quy định.

Ví dụ: A phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 BLHS (khung hình phạt từ 3
năm đến 10 năm tù) và ở giai đoạn phạm tội chưa đạt thì Tòa án có thể quyết định
hình phạt đối với A trong khoảng từ 2 năm 3 tháng (3/4 × 3 năm tù) đến 7 năm 6
tháng (3/4 × 10 năm tù)

c. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 118


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Ngoài những căn cứ quy định tại Điều 50 BLHS, khi quyết định hình phạt đối
với trường hợp đồng phạm còn phải tuân theo quy định tại Điều 58 BLHS. Đó là
những căn cứ sau:

- Tính chất của đồng phạm tức như mức độ liên kết giữa những người đồng
phạm như phạm tội có tổ chức hay không, có bàn bạc thỏa thuận trước với nhau hay
không
- Tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm, vai trò mà người
trong đồng phạm thực hiện.
- Tình tiết tăng giảm hoặc loại trừ TNHS của từng người trong đồng phạm.
Những tình tiết thuộc về riêng người nào thì chỉ áp dụng đối với người ấy.
d. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

Phạm nhiều tội là trường hợp một người có nhiều hành vi phạm tội hoặc chỉ có
một hành vi phạm tội nhưng đã thỏa mãn nhiều CTTP khác nhau, nay bị đưa ra xét
xử cùng một lần về các tội phạm đó. Khoa học pháp lý hình sự và thực tiễn áp dụng
ghi nhận một số trường hợp phạm nhiều tội sau:

- Một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi cấu
thành những tội độc lập. Các hành vi này có thể liên quan với nhau hoặc không liên
quan với nhau.
- Một người thực hiện một hành vi phạm tội, nhưng hành vi này lại cấu thành
nhiều tội khác nhau.
Khi quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội, Tòa án quyết định
hình phạt đối với từng tội sau đó tổng hợp hình phạt.
Trong khoa học pháp lý hình sự có các phương pháp tổng hợp sau ;
- Phương pháp thu hút hình phạt là phương pháp thu hút vào hình phạt nặng
nhất. Phương pháp này được áp dụng khi có một trong các tội bị quyết định hình
phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình. Ví dụ: A phạm 2 tội, trong đó tội thứ
nhất là giết người bị áp dụng hình phạt tử hình, tội thứ hai là cướp tài sản bị áp dụng
hình phạt 20 năm tù. Tổng hợp hình phạt đối với A là hình phạt tử hình.
- Phương pháp cộng hình phạt được áp dụng khi các hình phạt đã tuyên cùng
loại có thể quy đổi các hình phạt khác loại thành cùng loại hình phạt để cộng vào với
nhau. Cụ thể:

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 119


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

 Đối với hình phạt hành chính, nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì cộng
thành hình phạt chung, hình phạt chung không giam giữ; 30 năm đối với hình phạt
tù có thời hạn. Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì áp dụng phương pháp quy
đổi (tù có thời hạn với cải tạo không giam giữ) theo đó cải tạo không giam giữ được
chuyển đổi thành tù có thời hạn theo tỷ lệ 3 ngày cải tạo không giam giữ chuyển
thành một ngày tù.
 Phạt tiền và trục xuất không được tổng hợp với các hình phạt khác.
 Đối với hình phạt bổ sung, nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại hình phạt
chung được cộng lại nhưng phải trong giới hạn luật định đối với loại hình phạt đó.
Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các
hình phạt. Phạt tiền không được tổng hợp với các loại hình phạt khác.
e. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án

Có nhiều bản án là trường hợp một người đang chấp hành hình phạt lại bị xét
xử về tội đã thực hiện trước khi bản án này hoặc bị xét xử về tội tức hiện sau khi có
bản án này. Nguyên tắc tổng hợp hình phạt như sau:

- Đối với trường hợp một người đang chấp hành hình phạt lại bị xét xử về tội đã
thực hiện trước khi có bản án này, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị
xét xử sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 BLHS. Thời
gian đã chấp hành hình phạt được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chung.

Ví dụ: A đang chấp hành bản án 20 năm về tội giết người được 2 năm thì bị
tòa án đưa ra xét xử về tội cướp tài sản đã được A thực hiện trước khi A phạm tội
giết người. Với tội này A bị tòa án kết án 15năm tù. Quyết định hình phạt chung đối
với hình phạt của tội đang xét xử và hình phạt của bản án đang chấp hành là 35 năm
tù. Theo khoản 1 Điều 50 BLHS thì hình phạt áp dụng cho A là 30 năm tù, trừ đi 2
năm đã chấp hành thì A còn phải chấp hành 28 năm tù cho cả hai bản án.

- Đối với trường hợp một người đang chấp hành hình phạt lại bị xét xử về tội
thực hiện sau khi có bản án này, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó
quyết định hình phạt chung trên cơ sở hình phạt của bản án sau và phần còn lại chưa
chấp hành của bản án trước.
Ví dụ: A đang chấp hành bản án 20 năm về tội giết người được 2 năm thì bị tòa
án đưa ra xét xử về tội mới là cố ý gây thương tích và bị toà án kết án 15 năm tù về
tội này. Tổng hợp hình phạt của cả hai bản án đối với A là 15 năm tù của bản án mới

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 120


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

công với 18 năm tù phần hình phạt còn lại của bản án trước (20 năm đã chấp hành 2
năm) thành 33 năm tù. Theo khoản 1 Điều 55 BLHS thì hình phạt áp dụng cho A là
30 năm tù cho cả hai bản án.
8.2.5 Quyết định hình phạt trong trường hợp cụ thể với pháp nhân
thương mại phạm tội
a. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

Khi xét xử cùng một lần pháp nhân thương mại phạm nhiều tội thì Tòa án sẽ quyết
định hình phạt đối với từng tội sau đó tổng hợp hình phạt.

- Đối với hình phạt chính, nếu là hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt sẽ được
cộng lại thành hình phạt chung và không tổng hợp cùng các hình phạt khác loại;
hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với từng lĩnh vực không tổng hợp.
- Đối với hình phạt bổ sung, nếu các hình phạt đã tuyên bố cùng loại thì hình
phạt chung được cộng lại nhưng phải trong giới hạn luật định đối với loại hình phạt
đó. Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì pháp nhân thương mại bị kết án phải
chấp hành tất cả các hình phạt, riêng hình phạt tiền được cộng các khoản tiền lại
thành hình phạt chung.
b. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
- Đối với trường hợp pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án lại bị
xét xử về tội đã thực hiện trước khi có bản án này, Tòa án quyết định hình phạt đối
với tội đang bị xét xử sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 86
BLHS. Thời gian đã chấp hành hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn, cấm kinh
doanh, cấm hoạt động trong lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn được trừ vào
thời gian chấp hành hình phạt chung.
- Đối với trường hợp pháp nhân thương mại đang chấp hành bản án lại bị xét
xử về tội thực hiện sau khi có bản án này, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội
mới, sau đó quyết định hình phạt chung trên cơ sở hình phạt của bản án sau và phần
còn lại chưa chấp hành của bản án trước.
- Trường hợp pháp nhân thương mại phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu
lực mà các hình phạt của bản án chưa được tổng hợp thì sẽ quyết định tổng hợp hình
phạt của bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 87 BLHS. Thẩm quyền
ra quyết định thuộc về Chánh án Tòa án.
8.3 Miễn trách nhiện hình sự, miễn, giảm hình phạt; xóa án tích
8.3.1 Miễn trách nhiệm hình sự

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 121


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Miễn TNHS là việc cơ quan có thẩm quyền không buộc người phạm tội phải chịu
TNHS về tội mà họ đã phạm khi có căn cứ luật địnhh.

Các trường được miễn TNHS sau:

- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do có sự thay đổi chính sách, pháp luật
làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (khoản 1 Điều 29
BLHS).
- Khi có quyết định đại xá.đặc xá

Ngoài ra, người phạm tội còn được miễn TNHS trong những trường hợp sau:

- Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16 BLHS);
- Hết thời hiệu truy cứu TNHS. Phần này được trình bày trong phần I;
- Người đã nhận làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và
tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (khoản 4 Điều 110
BLHS).

Người phạm tội có thể được miễn TNHS trong các trường hợp sau:

- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người
phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo
dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Do người phạm tội tự thú, trường hợp này có thể được miễn TNHS khi đảm
bảo đầy đủ các điều kiện là khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát triển
và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và
lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt được nhà nước và xã hội thừa nhận;
- Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô
ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người
khác và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện
hòa giải và được đề nghị miễn TNHS.
- Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi
bị phát giác (khoản 7 Điều 364 BLHS).
- Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn
chế tác hại của tội phạm (khoản 2 Điều 390 BLHS)

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 122


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

8.3.2 Miễn hình phạt

Miễn hình phạt là quyết định của Tòa án không áp dụng hình phạt đối với người
hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện tội phạm.

- Theo quy định tại Điều 54 BLHS, căn cứ để miễn hình phạt: Người pham tội
có thể được miễn hình phạt trong các trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy
định tại khoản 1 Điều 51 BLHS (từ hai tình tiết trở lên), đáng được khoan hồng đặc
biệt nhưng chưa đến mức miễn TNHS. Người được miễn hình phạt phải chịu án
tích.
- Đối với pháp nhân thương mại, căn cứ để được miễn hình phạt là pháp nhân
thương mại đó đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra.
8.3.3 Miễn chấp hành hình phạt

Miễn chấp hành hình phạt không bắt buộc người bị kết án phải chấp hành bản
án đã được Tòa án tuyên bố đối với họ. Nguoief được miễn chấp hành hình phạt có
thể được miễn chấp hành một phần hoặc toàn bộ bản án.

Các trường hợp miễn chấp hành hình phạt:

- Hết thời hiệu thi hành án. Thời hiệu thi hành án được tính từ ngày bản án có
hiệu lực pháp luật. Để không phải chấp hành hình phạt trong trường hợp này người
bị kết án phải đạt được những điều kiện sau:
 Đảm bảo hết thời hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 60 BLHS. Cụ thể: 5
năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù từ 3
năm trở xuống; 10 năm đối với các trường hợp phạt tù trên 3 năm đến 15 năm; 15
năm đối với các trường hợp xử phạt tù trên 15 năm đến 30 năm; 20 năm đối với các
trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình. Đối với pháp nhân thương mại thời
hiệu thi hành bản án là 5 năm;
 Trong thời hạn trên người hoặc pháp nhân thương mại bị kết án không phạm
tội mới.
 Trong thời hạn trên người phạm tội không được cố tình trốn tránh và chưa có
lệnh truy nã

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 123


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 3 năm
chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết
định miễn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau:
 Đã lập công lớn sau khi bị kết án
 Mắc các bệnh hiểm nghèo
 Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét
- Người bị kết án phạt tù từ trên 3 năm chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập
công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể miễn chấp hành
toàn bộ hình phạt cho họ.
- Người bị kết án phạt tù đến 3 năm,trong thời gian được đình chỉ chấp hành
hình phạt mà lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó
khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì theo đề nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt còn
lại;
- Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt
nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn khéo dài do thiên tai, hỏa
hoạn hay tai nạn ốm đau kaf không thể tiếp tục chấp hành phần còn lại hoặc lập
công lớn thì được miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại.
- Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế nếu đã chấp hành được một phần hai
thời hạn hình phạt và cải tạo tốt theo nghị định của cơ quan thi hành án hình sự cấp
huyện Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt còn lại.
- Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt do được đặc xá hoặc đại xã

Người được miễn chấp hành trong các trường hợp trên vẫn phải chấp hành nghĩa
vụ dân sự trong bản án.

- Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt
tù nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được
miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu bị phạt tiền nhưng lâm vào hoàn cảnh
kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn hay tai nạn ốm đau mà
không thể tiếp tục chấp hành phần còn lại hoặc lập công lớn thì được miễn chấp
hành hình phạt tiền còn lại.
8.3.4 Án treo

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 124


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 65 BLHS, căn cứ cho hưởng án treo bao gồm:

- Về mức hình phạt tù không quá 3 năm, người bị kết án về bất cứ tội gì cũng
có thể được xem xét cho hưởng án treo. Trường hợp người bị xét xử một lần về
nhiều tội hoặc có nhiều bản án mà hình phạt được tổng hợp không quá 3 năm tù thì
cũng có thể cho hưởng án treo.
- Về nhân thân người được hưởng án treo phải là người có nhân thân tốt như
chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, không có tiền
án. Xem xét nhân thân người phạm tội cầm xem xét toàn diện tất cả các đặc điểm về
nhân thân, xem xét thái độ cuat họ sau khi thực hiện tội phạm, cân nhắc yêu cầu
phòng ngừa chung để quyết định.
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nghĩa là có hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không
có tình tiết tăng nặng; các tình tiết giảm nhẹ gồm các tình tiết được quy định tại Điều
51 BLHS các tình tiết được nêu trong hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2000/NQ-
HĐTP ngày 04/8/2000 và Nghị quyết số 01/2013 ngày 06/11/2013 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS thời gian thử thách đối với người
được hưởng án treo là từ 1 năm đến 5 năm. Thời gian thử thách không được thấp
hơn thời gian bị kết án phạt tù và không được dài hơn 5 năm kể từ ngày tuyên án.

Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người bị kết án cho cơ quan, tổ chức,
chính quyền địa phương nơi người bị kết án làm việc hoặc thường trú để giám sát và
giáo dục. Gia đình người bị kết có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức nói
trên trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án. Người được hưởng án treo đã
chấp hành được một nửa thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của
cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút
ngắn thời gian thử thách.

Về hậu quả của việc vi phạm thời gian thử thách: Trong thời gian thử thách,
nếu người bị kết án cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình
sự lần 2 trở lên thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã
cho hưởng án treo; trường hợp phạm tội mới thì Tòa án quyết định buộc chấp hành
hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định
của pháp luật.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 125


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

8.3.5 Giảm mức hình phạt đã tuyên

Giảm mức hình phạt đã tuyên là việc Tòa án rút ngắn thời hạn chấp hành hình phạt
so với bản án đã tuyên đối với người bị kết án. Giảm thời hạn chấp hành chỉ áp
dụng đối với hình phạt tù có thời hạn, hình phạt cải tạo không giảm mức hình phạt
đã tuyên là người bị kết án đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có
nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự.

Thời gian chấp hảnh hình phạt có thể được xét giảm lần đầu là một phẩn ba thời hạn,
12 năm đối với tù chung thân. Đối với các trường hợp đặc biệt việc quyết định giảm
mức chấp hành hình phạt đã tuyên thực hiện như sau:

- Một người được giảm nhiều lần thì phải đảm bảo chấp hành được một phần
hạ mức hình phạt đã tuyên. Đối với án chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm
tù và dù được giảm nhiều lần phải đảm bảo được thời hạn thực tế chấp hành được 20
năm.
- Người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án tù chung thân thì Tòa ăn
chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và được
giảm nhiều lần phải đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành là 25 năm.
- Người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội
mới ít nghiêm trọng do cố ý thì Tòa án xét giảm lần đầu khi người đó đã chấp hành
được một phần hai mức hình phạt chung. Nếu tội mới là tội nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người
đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp là tù chung
thân thì việc xét giảm được thực hiện như trường hợp phạm nhiều tội.
- Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình
thuộc trường hợp là người từ đủ 75 tuổi trở lên hoặc người phạm tội tham ô tài sản,
tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ¾ tài sản tham ô,
nhận hối lộ, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc xử lý hoặc lập công
lớn thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù
được giảm nhiều lần phải đảm bảo được thời hạn thực tế chấp hành là 30 năm (Điều
63 BLHS).

Người đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo có thể được xét
giảm vào thời gian sớm hơn hoặc cao hơn so với thời gian và mức quy định.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 126


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

8.3.6 Tha tù trước thời hạn có điều kiện

Theo quy định tại Điều 66 BLHS, người đang chấp hành hình phạt tù có thể được
tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau:

- Phạm tội lần đầu;


- Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
- Đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án về tội
nghiêm trọng trở lên;
- Có nói cư trú rõ ràng;
- Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ
bồi thường dân sự;
- Đã chấp hành ít nhất một phần hai mức phạt tù đối với hình phạt tù có thời
hạn hoặc ít nhất 15 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.

Đối với người phạm tội là thương binh, bệnh binh, nhân thân gia đình liệt sĩ,
gia đình có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng,
phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì thời gian chấp hành ít nhất là một phần
ba hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 12 năm đối với tù chung thân đã được giảm
xuống tù có thời hạn.

- Không thuộc một trong những trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều
66 BLHS.

Tòa án có thể quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết
án kèm theo thời gian thử thách, nếu người bị kết án cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở
lên hoặc bị xử phạt hành chính 2 lần trở lên thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha
tự trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành hình phạt
chưa chấp hành; nếu họ phạm tội mới thì Tòa án buộc họ phạt chấp hành hình phạt
bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước.

Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện có thể được Tòa án quyết định
rút ngắn thời gian thử thách nếu họ đã chấp hành được ít nhất một phần hai thời gian
thử thách, có nhiều tiến bộ và được cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền đề
nghị.

8.3.7 Hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù


GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 127
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Theo khoản 1 Điều 67 BLHS, người kết án phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình
phạt trong trường hợp sau:

- Người bị bệnh nặng được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
- Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn cho tới
khi con đủ 36 tháng tuổi;
- Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù
thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn cho đến 1 năm, trừ trường hợp
người đó bị kết án về các tội xâm phạm An ninh quốc gia hoặc là tội rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng;
- Là người kết án về tội ít nghiêm trọng, đó nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến
1 năm;.

Người đang chấp hành hình phạt tù thuộc một trong các trường hợp nói trên thì
có thể được tạm đình chỉ việc chấp hành hình phạt tù. Thời gian tạm đình chỉ không
được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù

8.3.8 Xóa án tích

Án tích là hậu quả pháp lý của việc bị áp dụng hình phạt. Sau khi chấp hành xong
bản án trải qua một thời gian nhất định nhà nước sẽ xóa án tích cho người, pháp
nhân thương mại bị kết án. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.

- Đương nhiên được xóa án tích. Theo quy định tại Điều 70 BLHS những người
đương nhiên được xóa án tích là người bị kết án không phải về các tội quy định tại
Chương XIII và Chương XXVI của BLHS, khi học chấp hành xong hình phạt chính,
thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng điều kiện:
 Nếu như khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thì bản án,
người đó không phạm tội mới trong thời hạn: 1 năm trong trường hợp bị phạt cải
tạo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; 2 năm
trong trường hợp hình phạt tù đến 5 năm; 3 năm trong trường hợp hình phạt là tù từ
trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Nếu thời hạn chấp hành các hình phạt quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định; tước một số quyền công dân dài

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 128


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

hơn thời hạn trên thì thời hạn bạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm
người đó chấp hành xong các hình phạt bổ sung đó.
 Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích không thực hiện hành vi phạm
tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 BLHS kể từ khi khi hết thời
hiệu thi hành bản án.

Cơ quan quản lý cơ sở lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình
hình án tích của người bị kết án và cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án
tích cho họ nếu có yêu cầu.

- Xóa án tích theo quyết định của tòa án. Căn cứ vào tính chất của tội phạm đã
thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án tòa án
quyết định xóa án tích cho những người bị kết án về các tội quy định tại Chương XII
và Chương XXVI của BLHS, khi họ chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian
thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án đáp ứng các điều kiện sau:
 Người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung các quyết định khác của bản
án và không thực hiện các hành vi phạm tội mới trong thời hạn: 3 năm trong trường
hợp bị phạt cảnh cáo cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 5 năm; 5 năm trong
trường hợp bị phạt tù từ trên 5 năm đến 15 năm; 7 năm trong trường hợp bị phạt tù
từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
 Kể từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không thực hiện hành vi
phạm tội mới trong thời hạn trên.

Nếu người bị tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới
được xin xóa án tích; nếu bị tòa án bác đơn xin xóa án tích lần 2 trở đi thì phải sau
hai năm mới được xin xóa án tích.

- Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt: Điều 72 BLHS quy định Tòa án có thể
quyết định xóa án tích sớm hơn nếu người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt
và đã lập công, được cơ quan tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa
phương nơi thường trú đề nghị và người bị kết án đã đảm bảo được ít nhất 1/3 thời
gian quy định.

Việc chấp hành xong bản án là việc chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt
bổ sung và các quyết định khác của tòa án. Nếu chưa được xóa án tích mà phạm tội
mới thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính từ ngày chấp hành xong án mới.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 129


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Đối với pháp nhân thương mại bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu
trong thời hạn 2 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính và bổ sung, các
quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà pháp nhân
không thực hiện các hành vi phạm tội mới.
8.4 Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội
8.4.1 Đường lối xử lý

Trong Luật hình sự Việt Nam người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 đến
chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội. Đây là lứa tuổi chưa phát triển đầy đủ toàn diện về thể
lực trí tuệ, tinh thần nên người dưới 18 tuổi cần có sự hỗ trợ và đối xử đặc biệt ngay
cả trong những trường hợp họ vi phạm pháp luật. Việc xét xử người dưới 18 tuổi
phải được thực hiện theo nguyên tắc xử lý tại Chương XII từ Điều 90 đến Điều 107
BLHS. Cụ thể:

- Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người dưới 18
tuổi, các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định khả năng nhận thức của họ họ về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân nhân và điều kiện
gây ra tội phạm trên cơ sở đó đó phát huy tác dụng của việc xử lý trong đấu tranh và
phòng chống tội phạm ở lứa tuổi chưa thành niên. Trong quá trình xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội những người tiến hành tố tụng ảnh phải nhận thức được
và thấy rằng người dưới 18 tuổi phạm tội vừa là người phạm tội vừa là nạn nhân của
hành vi phạm tội đó.
- Người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 90 BLHS, họ
được miễn TNHS khi tội phạm thực hiện có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc
phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc các trường hợp miễn TNHS theo quy định
tại Điều 29 BLHS và thuộc các trường hợp sau:
 Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội
nghiêm trọng trừ các tội ở Điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251, 252 BLHS;
 Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý quy định
tại khoản 2 Điều 12 BLHS, trừ trường hợp quy định tại Điều 123, khoản 4, 5, 6
Điều 134, Điều 141, 142, 144, 150, 168, 171, 248, 249, 250, 251, 252 BLHS;
 Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong
vụ án.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 130


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Việc truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng hình phạt đối
với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết, tức khi hành vi phạm tội của
họ ở mức độ nghiêm trọng nhất định, nhân thân xấu và xét thấy các biện pháp giáo
dục và tác động của xã hội không có tác dụng và phải căn cứ vào tính chất của hành
vi phạm tội những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
- Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục
tại trường giáo dưỡng không đảm bảo hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
- Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội. Khi xử phạt có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi phạm tội tương ứng.
- Không áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội ở độ tuổi từ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Án đã tuyên đối với người dưới 16 tuổi phạm tội thì không tính để xác định
tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người
dưới 18 tuổi dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng, không mặc cảm với quá khứ để làm lại
cuộc đời. Thời hạn để xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một phần
hai thời hạn xóa án tích.
8.4.2 Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
- Đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu có thu nhập hoặc
có tài sản riêng thì có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính. Mức phạt tiền
không quá một phần hai mức phạt tiền mà điều luật quy định.
- Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội thì không khấu trừ vào thu nhập của người đó. Thời hạn cải tạo không
giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà
điều luật quy định.
- Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được
hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã đủ 18 tuổi phạm tội tương
ứng. Cụ thể:
 Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được
áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 131


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Ví dụ: A (17 tuổi) phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS (có
khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù) thì hình phạt áp dụng cho A trong giới hạn
từ 1 năm 6 tháng (3/4 x 2 năm tù) đến 5 năm 3 tháng (3/4 x 7 năm tù).
 Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được
áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
Ví dụ: A (15 tuổi) phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS (có
khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù) thì hình phạt áp dụng cho A trong giới hạn
từ 1 năm (1/2 x 2 năm tù) đến 3 năm 6 tháng (1/2 x 7 năm tù).
 Đối với trường hợp phạm nhiều tội quyết định hình phạt như sau:
Nếu tất cả các tội xét xử cùng một lần khi tổng hợp hình phạt nếu hình phạt
chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất không quá 3 năm, nếu là
hình phạt tù có thời hạn mức phạt cao nhất không quá 18 năm đối với người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi
phạm tội.
Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội có tội được thực hiện trước khi đủ
16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng
như sau:
Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ
16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau
khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất đối
với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16
tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16
tuổi thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Đối với người phạm nhiều tội có thực hiện trước khi đủ 18 tuổi có thực hiện
sau khi đủ 18 tuổi, nếu mức hình phạt tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi
người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội
được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức
hình phạt cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 105 BLHS; nếu mức hình phạt tòa án
tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 132


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng
như đối với người đủ 18 tuổi trở lên.
- Quyết định giảm mức hình phạt đã tuyện:
 Người từ đủ 18 tuổi bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nếu có nhiều
tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn thì được xét giảm; đối với hình
phạt tù mỗi lần có thể giảm đến 4 năm nhưng phải đảm bảo đã chấp hành ít nhất là
hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.
 Bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành hình phạt còn lại.
 Bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do
thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn thì có thể được
giảm án hoặc miễn việc chấp hành phần tiền còn lại.
- Tha tù trước thời hạn có điều kiện: Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án
phạt tù có thể được tha tù khi có các điều kiện sau:
 Phạm tội lần đầu
 Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt
 Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù
 Có nơi cư trú rõ ràng.

Tóm tắt chương

1. TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, theo đó người, pháp nhân thương mại
phạm tội vì đã thực hiện hành vi phạm tội nên phải chịu những hậu quả pháp lý bất
lợi trước Nhà nước. Cơ sở triết học của TNHS thể hiện ở mối quan hệ giữa tính tất
yếu và tình tự do trong hành vi con người thể hiện thông qua sự tương tác giữa các
điều kiện khách quan bên ngoài với con người. CTTP chính là cơ sở pháp lý của
TNHS.
Người, pháp nhân thương mại phạm tội sẽ không bị truy cứu TNHS về hành vi
phạm tội của mình nếu tội phạm không bị phát hiện hoặc bị phát hiện nhưng không
xử lý khi hết thời hạn: Năm năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; Mười năm đối
với tội phạm nghiêm trọng; Mười lăm năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; Hai
mươi năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này không áp dụng đối
với các tội xâm phạm An ninh quốc gia (Chương XIII BLHS), các tội phá hoại hòa
bình, tội chống loài người và tội phạm chiến tranh (Chương XXVI BLHS), tội tham
ô tài sản quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 BLHS.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 133


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước
bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại phạm tội. Hình
phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định
 Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội
mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn
ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người hoặc pháp nhân thương
mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
 Hệ thống hình phạt chỉnh thể các hình phạt quy định trong BLHS, căn cứ tình
chất và mức độ nghiêm khắc gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung được sắp
xếp theo một trật tự từ nhẹ đến nặng.
Hình phạt chính dành cho người phạm tội bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.
Hình phạt bổ sung cho người phạm tội gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cám cư trú, quản chế, tịch thu tài sản, phạt
tiền và trục xuất thì không áp dụng là hình phạt chính.
Hình phạt chính dành cho pháp nhân thương mại phạm tội gồm: phạt tiền, đình
chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn
Hình phạt bổ sung cho pháp nhân thương mại phạm tội gồm: cấm kinh doanh,
cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn và phạt tiền thì
không áp dụng là hình phạt chính.
- Biện pháp tư pháp là biện pháp hình sự nhằm hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt
do cơ quan tư pháp áp dụng đối với người, pháp nhân thương mại có hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Các biện pháp tư pháp gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan
đến tội phạm, trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin
lỗi, bắt buộc chữa bệnh. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội: khiển trách, hòa giải cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, giáo dục
tại trường giáo dưỡng.
Ngoài bị áp dụng các biện pháp tư pháp như đối với người phạm tội pháp nhân
thương mại còn bị áp dụng biện pháp buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu và buộc
thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
2. Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức độ cụ thể
trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội.

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 134


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cần căn cứ vào: Các quy định
của BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS.
Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội cần căn cứ
vào: các quy định của BLHSS, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân, các tình tiết giảm nhẹ hoặc
tăng nặng TNHS.
Đối với các trường hợp đặc biệt khi quyết định hình phạt cần thực hiện theo
quy định riêng:
- Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị áp dụng
- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
phải tuân theo quy định tại Điều 57 BLHS
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
- Quyết định hình phạt trong trường hợp nhiều tội đối với người phạm tội phải
tuân theo quy định tại Điều 55 BLHS; đối với pháp nhân thương mại phạm tội phải
tuân theo quy định tại Điều 86 BLHS
- Quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án đối với người phạm
tội được quy định tại Điều 56 BLHS, đối với pháp nhân thương mại thực hiện theo
quy định tại Điều 87 BLHS.
3. Miễn TNHS là việc cơ quan có thẩm quyền không buộc người phạm tội phải
chịu TNHS về tội mà họ đã phạm khi có căn cứ luật định.
- Miễn hình phạt là quyết định của Tòa án không áp dụng hình phạt đối với
người đã thực hiện tội phạm trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa
đến mức miễn TNHS.
Đối với pháp nhân thương mại, miễn hình pháp ápp dụng trong trường hợp
pháp nhân thương mại đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Miễn chấp hành hình phạt là không bắt buộc người bị kết án phải chấp hành
bản án được Tòa tuyên đối với họ. Người bị kết án có thể được miễn chấp hành một
phần hoặc toàn bộ bản án.
- Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Căn cứ cho
hưởng án treo bao gồm: mức hình phạt tù không quá 3 năm, người được hưởng án
treo phải là người có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà xét thấy không

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 135


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

cần phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn, hình phạt cải tạo không giam giữ và tù
chung thân.
- Hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được thực hiện theo quy định tại
Điều 61 BLHS
- Tha tù trước thời hạn được thực hiện theo quy định tại Điều 66 BLHS
- Xóa án tích là coonh nhận một người hoặc một pháp nhân thương mại chưa bị
kết án sau khi họ đã chấp hành xong bản án, đã trải qua một thời gian nhất định và
đảm bảo các điều kiện luật định.
4. Đường lối xử lý đối với trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đơc họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
công dân có ích cho xã hội. Việc truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội và áp
dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết.

Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được thực hiện theo
quy định tại chương XII BLHS.

Câu hỏi ôn tập

I. Câu hỏi tự luận


1. Hình phạt là gì? Đặc điểm của hình phạt? Sự khác nhau cơ bản giữ hình phạt
và các chế tài khác.
2. Tại sao hệ thống hình phạt ở nước ta quy định thành hình phạt chính và hình
phạt bổ sung? Phân biệt hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
3. Nêu điểm khác nhau giữa án treo và cải tạo không giam giữ.
4. Phân biệt:
a. Hình phạt và biện pháp tư pháp
b. Miễn TNHS và miễn hình phạt.
II. Câu hỏi trác nghiệm
Nhận định sau đúng hay sai? Giải thích vì sao?
1. Hình phạt quản chế chỉ được tuyên kèm với hình phạt tù có thời hạn.
2. Người phạm tội được miễn TNHS khi được đặc xá.
3. Đối với tội phạm có CTHT khi quyết định hình phạt không cần phải xem xét
để hậu quả.
4. Hình phạt tước một số quyền công dân là hình phạt có thể được tuyên kèm
với tất cả các hình phạt chính (trừ tù chung thân và tử hình).

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 136


Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

5. Mức cao nhất của hình phạt cải tạo không giam giữ có thể áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội là 12 tháng.
6. Đối với người chuẩn bị phạm tội mức hình phạt tù tối đa là 18 năm
7. Hình phạt áp dụng nhằm mục đích chủ yếu là trừng trị người phạm tội.
8. Trong mọi trường hợp khi người bị kết án đã chấp hành xong bản án thì
đương nhiên được xóa án tích.
9. Án treo là hình phạt được áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng.
10.Người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh buộc phải đi chữa bệnh thì
thời gian chữa bệnh được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
11.Người được miễn TNHS thì đương nhiênđược miễn hình phạt về tội phạm mà
họ được miễn TNHS.
12.Trong một vụ án, một người phạm tội không thể vừa bị áp dụng hình phạt
chính vừa bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.
13.Khi pháp nhân thương mại phạm tội đã khắc phục toàn bộ hậu quả do hành vi
phạm tội gây ra thì được miễn hình phạt.
14.Căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội cũng là căn cứ quyết định
hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
15.Thời hiệu truy cứu TNHS chỉ đặt ra đối với người phạm tội.
III. Câu hỏi tình huống
1. Do có mâu thuẫn từ trước với B nên A đã lên kế hoạch đốt kho hành của B để
trả thù. Lợi dụng lúc trời tối, lúc B đi vắng, A đã dùng xăng tưới quanh kho hành và
châm lửa đốt làm đồ đạc trong kho bị cháy, thiệt hại 190 triệu đồng. Hành vi của A
được quy định tại khoản 2 Điều 178 BLHS (Tội hủy hoại tài sản).
Hỏi: Nếu A được 17 tuổi thì mức hình phạt cao nhất có thể áp dụng đối với A
là bao nhiêu?
2. Lê Kh cùng Hoàng Chí Ng phạm tội buôn lậu và bị Tòa án nhân dân tỉnh H áp
dụng khoản 3 Điều 188 BLHS xử phạt Kh 15 năm tù giam, Ng 12 năm tù giam. Sau
hai năm chấp hành hình phạt, cơ quan điều tra phát hiện trước đó 2 năm Lê Kh đã
cùng Ng thành lập tổ chức nhằm chống chính quyền nhân dân. Tòa án nhân dân tỉnh
H xét xử tội phạm mà Kh và Ng đã thực hiện hai năm trước và tuyên phạt Kh 20
năm tù giam và Ng 12 năm tù giam theo khoản 1 Điều 109 BLHS.
Hãy xác định mức hình phạt những người trên phải chịu do những hành vi họ
đã thực hiện?
3. Tháng 3/2010, A phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ và bị Tòa án tuyên phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ. Đến tháng
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 137
Bài giảng chi tiết học phần Luật Hình sự 1 (Phần chung)

6/2011 vì mâu thuẫn cá nhân A đánh B bị thương. Hành vi của A cấu thành tội cố ý
gây thương tích.
Hỏi: Khi phạm tội cố ý gây thương tích A được xóa án tích chưa? Vì sao?
4. Tòa án tỉnh N xét xử B hai tội là giết người theo khoản 1 Điều 123 BLHS và
tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 134 BLHS. Hãy xác định mức hình phạt
tối đa được áp dụng đối với B nếu:
- B phạm tội giết người khi 19 tuổi và phạm tội cố ý gây thương tích khi 17
tuổi?
- B phạm tội giết người khi 17 tuổi và phạm tội cố ý gây thương tích khi 19
tuổi?
5. Hà Văn G 17 tuổi phạm tội trọm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS. Hãy xác
định mức hình phạt tối đa có thể áp dụng đối với G trong những trường hợp sau:
- G phạm tội theo khoản 1 Điều 173 BLHS;
- G phạm tội theo khoản 2 Điều 173 BLHS;
- G phạm tội theo khoản 3 Điều 173 BLHS;
- G phạm tội theo khoản 4 Điều 173 BLHS.
6. Công ty V có hành vi xả chất thải không qua xử lý ra sông TV trong quá trình
sản xuất bột ngọt, đã gây ra thiệt hại rất lớn đến đời sông cũng như gây ô nhiễm môi
trường sống cho người dân 3 tỉnh thành sống xung quanh sông TV. Thiệt hại do
hành vi công ty V gây ra cho người dân là 220 tỷ đồng. Công ty V bị truy cứu
TNHS. Tòa án đã quyết định cho công ty V được miễn hình phạt đối với hành vi
phạm tội của mình vì công ty V đã bồi thường toàn bộ thiệt hại nói trên.
a. Quyết định trên của Tòa án có đúng pháp luật không?
b.Giả sử Tòa án áp dụng hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với việc
sản xuất bột ngọt là 1 năm, đối với việc sản xuất tinh bột là 1 năm. Tổng hợp hình
phạt Tòa án quyết định đình chỉ hoạt động của công ty V là 2 năm. Quyết định hình
phạt này có đúng không? Vì sao?

GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: PHAN ÁI NHI 138

You might also like