You are on page 1of 3

Yên là đơn vị tiền tệ của Nhật Bản (tiếng Nhật là 円 (En); tiếng Anh là

Yen),  ký hiệu là ¥ và


có mã là JPY.
Tại Nhật hiện lưu hành cả tiền giấy và tiền kim loại theo đó tiền kim loại có 6 loại, tiền giấy 4
loại.
Tiền Xu (Tiền kim loại):
Các loại tiền kim loại gồm đồng

 1 yên

Được làm từ nhôm nên rất nhẹ

 5 yên

Được làm từ đồng vàng (đồng thau), có kích thước to hơn và cũng nặng hơn đồng 1 Yên.
Theo quan niệm của người Nhật thì lương tháng đầu tiên nếu bỏ đồng 5 Yên vào trong ví
sẽ không phải suy nghĩ về chuyện tiền bạc vì đồng 5 Yên đọc theo tiếng Nhật là “Gô en”,
gô en thì trùng âm với một từ Hán tự khác có ý nghĩa là “kết duyên” nên nó được xem là
đồng xu may mắn.

 10 yên

Đồng xu này được làm từ đồng xanh (đồng đỏ).

 50 yên

Được làm bằng đồng trắng, không bị hoen rỉ, có thể sử dụng thời gian dài.

 100 yên

Cũng được làm từ đồng trắng, không bị hoen rỉ.

 500 yên 

Đây là đồng xu mệnh giá cao nhất và to nhất được làm từ chất liệu niken

Trên mỗi đồng tiền có in giá trị, niên hiệu cùng năm phát hành đồng tiền. Đồng tiền xu
được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống hằng ngày. Hầu hết được sử dụng mua hàng ở
các máy bán hàng tự động hoặc mua vé tàu điện. Riêng ở các máy bán hàng tự động chỉ sử
dụng được những đồng 10 yên, 50 yên, 100 yên và 500 yên.
Tiền giấy

Các loại tiền giấy gồm tờ 1.000 yên, 2.000 yên, 5.000 yên và 10.000 yên.Tiền
giấy các loại 1.000, 5.000 và 10.000 yên được sử dụng rộng rãi, chỉ có loại 2.000
yên là hiếm khi thấy xuất hiện. Trên mỗi loại tiền, mặt trước in hình một danh
nhân nổi tiếng gắn liền với sự phát triển của đất nước, mặt sau là những con vật
hay danh lam thắng cảnh.

Cách gọi các tờ tiền trong tiếng Nhật:


1.000 yên – 1 Sen yên (đọc là sên ên)

2.000 yên – 2 Sen yên  (đọc là ni sên ên)

5.000 yên – 5 Sen yên  (đọc là gô sên ên)

10.000 yên – 1 man ( đọc là ichi man ên)

Tờ 1000 yên – Đây là loại tiền giấy có mệnh giá nhỏ nhất. Mặt trước là chân
dung nhà vi trùng học Noguchi Hideyo, người đã cống hiến cả cuộc đời sự
nghiệp nghiên cứu bệnh sốt vàng da. Mặt sau là hình ảnh đỉnh núi Phú sĩ( biểu
tượng của Nhật Bản) và hoa sakura.

Đồng 1000 yên cũ mặt trước là ông Natsumei Shoseki, một nhà tiểu thuyết, bình
luận gia và là nhà nghiên cứu văn học Anh.

Đồng 2000 yên – Tờ tiền rất ít được sử dụng tại Nhật, và mặc nhiên các máy
ATM cũng không đọc được mệnh giá tiền này. Tuy vậy tờ 2000 Yên này được
thiết kế rất đẹp, Mặt trước: không được trang trí bằng chân dung của nhân vật
mà được thiết kế với họa tiết hình ảnh chiếc cổng Shureimon của thành cổ Shuri
thuộc Vương quốc Lưu Cầu ngày xưa trên mặt trước. Công trình lịch sử của tỉnh
Okinawa này được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 2000.
Mặt sau là một bài văn và 1 bức chân dung của tác giả Murasaki Shikibu, với tác
phẩm Hoàng tử Genji

Tờ tiền xuất hiện vào năm 2004 mặt sau Hoa Iris (tác phẩm của danh họa Ogata
Korin), mặt trước bà Higuchi Ichiyo người tạo cảm hứng cho hàng triệu phụ nữ
Nhật tờ 5000 yên ấn bản năm 1984 mặt trước ông Inazo Nitobe, một nhà nông
nghiệp học.
Hình ảnh:

Đồng 10000 yên – Đây là loại tiền giấy có mệnh giá lớn nhất trong hệ thống tiền
tệ của Nhật Bản. Các tu nghiệp sinh và du học sinh quen gọi 10000 yên là
“Lá”. Không rõ lý do vì sao gọi 10000 yên là “Lá”, và cách gọi này xuất phát từ
nhóm tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật làm việc sau đó lan truyền rộng rãi cho
đến bây giờ.Mặt trước là chân dung nhà tư tưởng đồng thời là người sáng lập
trường đại học Keio, đó là Yukichi Fukuzawa( cuối thời Edo đầu thời Meji 1835-
1901), mặt sau là hình chim phượng hoàng ở đền thần Byodoin. Trước đây tờ
10000 yên in hình thái tử Shotoku (574-622), một nhà chính trị, nhà cải cách,
nhân vật Phật giáo lừng danh trong lịch sử Nhật Bản.

You might also like