You are on page 1of 15

AN NAM TỨC SỰ

Nguyên tác: Trần Cương Trung


Niên đại: thế kỉ 13

***

Thánh đức thiên vô ngoại, ân quang chúc hải ngung,


Toại ban Nam Việt chiếu, tải mệnh bắc môn nho.
Vạn lý thu trì tiết, thiên quân dạ chấp thù,
Tiền thu nghiêm nỗ thi, hậu thoán ủng tiềm tô.
Quyến bỉ Giao Châu vực, sợ vị Hán thị khu,
Lâu thuyền Trưng ký khắc, Trưng Trắc bạn hoàn tru.
Ngũ đại đồi vương nữu, chư phương liệt bá đồ,
Toại lệnh phong khí cách, đốn giác bảng chương thù.
Đinh Liễn tiền xương quyết, Lê Hoàn hậu ký du,
Nhất triều Trần nghiệp cấu, bát diệp Lý tông tồ.

(Dịch nghĩa:
Đức của thánh nhân phủ khắp bầu trời, ánh sáng ân điển soi rọi góc biển,
Thế nên ban chiếu cho Nam Việt, giao mệnh lệnh cho nhà nho ở cửa Bắc.
Cầm cờ tiết vượt qua muôn dặm, trong màn đêm nghìn quân lính bắt giặc thù,
Trước giữ nghiêm tên nỏ, sau che chở kẻ kiếm củi, hái rau.
Nhớ rằng cõi Giao Châu ấy, xưa là đất của họ Hán,
Lâu thuyền đến đánh dẹp, Trung Trắc làm phản rồi lại bị giết.
Thời Ngũ Đại ngôi vua sụt lở, khắp phương mưu đồ bá nghiệp,
Vì mưa gió ngăn cách, bỗng nhiên nhận ra bờ cõi đã khác.
Đinh Liễn trước kia ngang ngược, Lê Hoàn về sau tham lam,
Một triều Trần dấy nghiệp, tám đời họ Lý mất cả.)

***

An Nam vốn là Giao Châu thời Hán. Thời Đường lập Đô hộ phủ. Thời Minh
Trinh nhà Lương, thổ hào Khúc Thừa Mĩ chiếm cứ đất này. Dương Diên Nghệ1,
Thiệu Hồng2, Ngô Xương Ngập, Xương Văn tranh nhau nối tiếp. Đầu thời Càn
Đức nhà Tống (963-968), con trai của Đinh Công Trứ là Bộ Lĩnh lập, rồi truyền
ngôi cho con là Liễn. Đại tướng Lê Hoàn cướp ngôi, rồi con trai Hoàn là Chí
Trung3 lại bị Lý Công Uẩn soán. Công Uẩn4, Đức Chính5, Nhật Tôn6, Càn Đức7,
Dương Hoán8, Thiên Tộ9, Long Cán10, Hạo Sảm11, truyền 8 đời đến năm Ất Dậu
thời Gia Định nhà Tống (1225) thì họ Trần đoạt nước.

Họ Trần vốn người Mân12, có tên Trần Kinh (ngụy thụy là Văn vương) làm rể
họ Lý. Gặp lúc Long Cán già nua, không màn chính sự, Kinh cùng em trai là Bản
(ngụy thụy là Khang vương) trộm quyền bính trong nước. Hạo Sảm non nớt, con
trai [của Kinh] là Thừa soán lập, tiếm hiệu Thái thượng hoàng, rồi chết. Con trai
hắn là Quang Bính lập (tên trong sử Tống là Uy Hoảng), dâng biểu nội phụ, quốc

1
Dương Diên Nghệ: Tức Dương Đình Nghệ. Hai chữ Đình 廷 và Diên 延 có lối viết khá giống nhau.
2
Thiệu Hồng: Một nhân vật kế tục Dương Đình Nghệ được nhắc đến trong thư tịch Trung Hoa. Có thể là tên khác
của Dương Tam Kha.
3
Chí Trung: Tên triều Tống ban cho Lê Long Đĩnh.
4
Công Uẩn: Tức Lý Thái Tổ.
5
Đức Chính: Lý Thái Tông.
6
Nhật Tôn: Lý Thánh Tông.
7
Càn Đức: Lý Nhân Tông.
8
Dương Hoán: Lý Thần Tông.
9
Thiên Tộ: Lý Anh Tông.
10
Long Cán: Lý Cao Tông.
11
Hạo Sảm: Lý Huệ Tông
12
Người Mân: Tức người Phúc Kiến.
triều13 phong làm An Nam quốc vương, rồi chết14. Con trai là Nhật Huyên lập (tên
trong sử Tống là Chiếu), rồi chết15. Nay Nhật Tôn16 lãnh đạo dân chúng, do đó có
được nước đã 69 năm.

***

 Tục dưới rất sơ sài, không lễ nhạc Trung Hoa

 Húy ngờ vực họ Nguyễn, ban chế tiếm xưng “cô”


Quốc húy là chữ “Lý”, người họ Lý đều đổi thành Nguyễn. Chép văn làm chữ
không thành, lấy cớ cha chết nên tự xưng “cô tử”17, biểu sớ thư từ và đối đáp với
quần thần đều vậy.

 Tông miếu chẳng tế tự, hôn nhân đều trong tộc


Tuy có tẩm miếu nhưng không làm lễ tế tự hằng năm, chỉ có cúng Phật là tối
cẩn. Nam nữ quốc tộc kết hôn với người cùng họ, sánh đôi lẫn nhau, chỉ theo tuổi
mà không theo thứ bậc. Vợ của tù trưởng18 hiện nay là con gái của chú mình Hưng
Đạo19. Vì cướp nước từ họ Lý nên mới cảnh giác vậy.

 Sang hèn hai chân đất, già trẻ một đầu tròn
Người dân đều đi chân trần, ngoài ra còn mang giày da, đến điện liền bỏ ra.
Khi làm lễ tế Giao, trăm người mặc bào cầm hốt mà đều đi chân trần thôi. Đàn ông
đều cắt tóc, làm quan thì lấy khăn xanh phủ lên. Dân đều như nhà sư vậy.

13
Quốc triều: Chỉ nhà Nguyên.
14
Thế thứ tổ tiên các vua Trần lần lượt là Trần Kinh – Trần Hấp – Trần Lý - Trần Thừa – Trần Nhật Cảnh (Thái Tông)
– Trần Uy Hoảng (Thánh Tông). Ở đây tác giả chép thiếu, chỉ có 3 đời là Kinh – Thừa – Hoảng.
15
Nhật Huyên: Tức Trần Nhân Tông. Thực ra vào thời điểm sách này ra đời vua Nhân Tông vẫn còn sống, có lẽ tác
giả nhầm với Thánh Tông.
16
Nhật Tôn: Tức Trần Anh Tông.
17
Cô tử: Nghĩa đen là “đứa con mồ côi”, nhưng cũng là từ khiêm xưng của vua chúa thời Xuân Thu-Chiến Quốc.
18
Tù trưởng: Chỉ vua Trần.
19
Tức Bảo Thánh hoàng hậu.
 Leo trèo giỏi hơn hươu, bơi lội nhanh tựa vịt
Da chân rất dày, leo núi như bay, gai góc đều không sợ. Cha con, trai gái tắm
chung một sông, đông hè đều vậy. Nước tốt, có dòng chảy ngầm mấy trăm dặm.

 Mũ lụa xanh đính móc, áo là đen cổ cong


Khăn màu xanh đậm, làm từ lụa nhuộm, quấn quanh trán bằng dây sắt, phía
trước cao 1 thước, rồi cong xuống cổ, dùng dây đai buộc ngược ra phía sau. Trên
đỉnh có móc sắt, người có chức vụ thì thêm dây đai ở trên móc. Ở nhà để tóc xõa,
gặp khách mới quấn khăn, đi xa thì có một người bưng khăn đi theo. Chỉ có tù
trưởng búi tóc bằng vải là20 nhuộm thâm, nhìn xa trông như mũ luân cân của Đạo
gia, nhưng mở rộng hơn, hai bên buông rũ xuống. Cả nước đều mặc đồ đen, áo
thâm bốn vạt, cổ tròn, làm bằng vải là. Đàn bà cũng mặc đồ đen, song áo trong
màu trắng, mở rộng ra đường viền, cổ áo rộng 4 tấc, coi đấy là lạ. Màu xanh, đỏ,
vàng, tía tuyệt nhiên không có.

 Nói như én trước sân, đi như quạ trên mái


Ngữ âm kì lạ, gọi thiên là “bột-vị”, địa là “đát”, nhật là “phù-bột-vị”, nguyệt là
“bột-măng”, phong là “giáo”, vân là “mai”, sơn là “oát-ôi”, thủy là “lược”, nhãn là
“mạt”, khẩu là “mãnh”, phụ là “tra”, mẫu là “na”, nam tử là “can-đa”, nữ tử là
“can-cái”, phu là “trùng”, phụ là “đà-bị”, hảo là “lãnh”, bất hảo là “trương lành”21,
đại loại như vậy. Âm thanh gấp mà bổng, đại để tựa tiếng chim. Đi đứng nhẹ
nhàng, qua lại như gió, một màu đen đậm như muôn con quạ.

 Để nha lợn nằm ngửa, la ngã cáo cong tay


Người khiêng kiệu dùng một tấm vải dài hơn 1 thước, dùng hai cây gỗ tròn đều
dài 5 tấc, buộc vải vào hai đầu, sửa cho dây thừng thiết vào cây gỗ, bên trên dùng
cây tre lớn xuyên dây thừng qua, hai người vác. Người nằm trong ấy giống như vác
dê lợn vậy, tên là “để nha”22. Kẻ quyền quý thì dùng gấm lụa, thanh đòn sơn đen,
bên trên phủ tấm mái bằng giấy sơn đen. Mái cao khoảng 4 thước, đỉnh nhọn mà

20
Là: Chữ Hán là La 羅, là một loại lụa (nên có từ ghép “lụa là”).
21
Xem phần chú thích ở cuối.
22
Để nha: Tức là võng. Đại Việt sử ký toàn thư ký âm là chỉ nha.
vành rộng. Vành rộng chừng 4 tấc, có mưa liền trương ra, tạnh thì cất đi mà dùng
lọng. Tù trưởng ra vào dùng kiệu cán đỏ màn son, 8 người khiêng, rất diễm lệ.
Trên lưng voi đặt yên cương, chỗ ngồi tên là “la ngã”23, người ngồi trên ấy tay
cong như cáo.

 Chùa Thiên Linh quê lậu, châu Vạn Kiếp ngu si


Sứ giả trú ở phủ Thái sư, bên trái có cái chùa nhỏ tên Thiên Khởi Thiên Linh.
Trước chùa có bia, làm năm Kiến Trung thứ 8 Nhâm Thìn (1234). Khi ông nội
[của tù trưởng] tiếm hiệu, làm chùa để truy điệu cho mẹ mình Lý thị được hưởng
phúc ở cõi âm. Lý thị mang ngụy thụy là Từ Thuận thái hậu, là con gái của Long
Cán24. Ngụy Hưng Đạo vương chiếm cứ phủ Vạn Kiếp, tức là châu Lãng thời
Đường. Mã Viện trú binh ở đất Tây Lý [châu] Lãng. Rất trọng Phật, nên đặt tên
châu là “Vạn Kiếp”.

 Sênh tiêu vây đào xấu, rượu thịt cúng thần dâm
Từng mở yến tiệc ở điện Tập Hiền, nam bè nữ xướng mỗi bên 10 người, ngồi
cả dưới đất. Có các thứ đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn một dây. Lời hát hòa lẫn với tiếng
đàn, khi hát trước hết đệm tiếng “lôn” ở cuối. Dưới điện cắm con rối trên đầu gậy
để biểu diễn. Lại có kẻ mặc khố gấm, cởi trần thân trên, nhảy nhót kêu la. Phụ nữ
để chân trần, xòe mười ngón chân ra mà múa, xấu xí vô kể. Trước cửa nhà dân đều
có miếu nhỏ, thần ở đấy gọi là “Mã đại nhân”, khắc tượng gỗ tục tĩu không ra danh
trạng gì. Ngày mồng một thì bày ở đình, già trẻ xúm vào lạy.

 Quốc úy che mâm xanh, lính canh khua gậy lớn


Gánh vác nước gồm hai người, chú [của vua] là ngụy Thái sư Trần Khải25, em
trai là ngụy Thái úy Trần Diệp26. Việc nước lớn nhỏ, Diệp và Khải đều chuyên
trách. Mỗi khi đến trước cửa điện, hai người đều cầm tấm gỗ lớn, tròn như gương,
màu xanh, rộng 6 thước, bên trên vẽ mặt trời, mặt trăng, Bắc Đẩu, 28 vì sao, ý nói
là tự che chở vậy. Mỗi châu huyện đều có quan gọi là “tướng tưu”, lo việc tuần tra,

23
La ngã: Tên đầy đủ là “bồng la nga”, từ mượn tiếng Chăm chỉ bành voi.
24
Lý thị: Tức Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu, vợ Trần Thái Tông.
25
Trần Khải: Tức Trần Quang Khải.
26
Trần Diệp: Tức Trần Đức Diệp, em trai Trần Nhân Tông.
kiêm lĩnh binh sĩ. Có việc gấp thì lùa hết đinh tráng đi, khí giới đều tự chuẩn bị,
không có cung tên, chỉ cầm nỏ thuốc độc, lao, cũng có kẻ mang gậy lớn.

 Duyệt điều giữ ngục tụng, Minh tự nắm cơ xu


Quan lại từ Tư úy trở xuống có Kiểm pháp, Minh tự, đều là quan chấp chính,
nay bọn Đinh Công Văn, Đỗ Quốc Khí, Lê Khắc Phục làm chức ấy. Thứ nữa có
Thượng thư, Á khanh, Hàn lâm Phụng chỉ, Phán thủ Tam ty. Lại có chức Duyệt
điều, cầm nắm pháp lệnh, hình ngục. Trong tộc có Chiêu Minh, Hưng Đạo, Chiêu
Hoài, Chiêu Văn, Tá Thiên, đều tiếm vương hiệu. Ngày mồng 4 tháng giêng, mổ
trâu đãi quan thuộc. Lấy ngày 15 tháng 7 làm đại tiết, nhà nhà tặng quà nhau, các
quan đều đem một người [nô tì] hiến tù trưởng, ngày 16 mở yến tiệc đáp lễ.

 Quan trung khách lê lết, tọa thượng nô rối bời:


Nô tì đều xăm trán. Viết chữ “quan trung khách”27 tức là quan nô28. Viết “tọa
thượng nô”29 tức được hầu bên tả hữu tù trưởng. Còn lại đều để trống.

 Phép nước Trung tán xét, thuế ấp Đại liêu thu


Đặt chức Ngự sử Trung tán, tức là Trung thừa, hình pháp rất khốc liệt. Trộm
cắp và bỏ trốn đều bị chặt ngón tay ngón chân, người ấy cam tâm, hoặc là cho voi
giày chết đi. Trong nước có lầu đặt chuông lớn, dân tố việc thì gõ chuông. Các
châu đặt chức An phủ, Thông phán, huyện có Đại liêu. Thu góp nặng nề, cá tôm
rau quả phải sung góp hết, đều do Đại liêu làm chủ.

 Quan đánh thuế trầu cau, dân nộp tô an tức


Sản xuất rất nhiều cau, đánh thuế cũng nặng, chuyên lập quan để thu. Cây an
tức lấy nhựa và lá vo thành nắm nhỏ, to mấy tấc, tô lợi hằng năm rất nặng, nhưng
không khác gì loại an tức ở Tây Vực.

27
Quan trung khách: “khách trong nhà quan”.
28
Quan nô: Nô tì thuộc sở hữu của nhà nước.
29
Tọa thượng nô: “nô tì ngồi cao”.
 Vàng bạc tội chẳng thoát, lọng tía luật khó cho
Vàng bạc trong dân gian dù ít hay nhiều đều trưng thu về cho quan, có ai dùng
riêng thì đáng tội chết. Phẩm quan trên dưới lấy lọng làm thứ phân biệt. Khanh
tướng thì dùng 3 chiếc lọng màu xanh, thứ đến 2 lọng, 1 lọng, còn lọng màu tía chỉ
người thân tộc dùng, kẻ khác không dám dùng.

 Cầu An Hóa cao ngất, gác Minh Linh vời vợi


Từ sứ quán đi 60 lý qua cầu An Hóa, lại đi 1 lý đến phía bắc cầu Thanh Hóa,
phía trên làm 19 gian nhà. Đến nơi ở của tù trưởng, trước cửa viết “Dương Minh
môn”, bên trên có gác viết “Triều Thiên các”, cửa nhỏ bên trái viết “Nhật Tân
môn”, cửa nhỏ bên phải viết “Vân Hội môn”. Giếng trời ở trong cửa rộng mấy
chục thước, lên xuống bằng bậc thềm. Biển trên gác viết “Tập Hiền điện”, trên có
gác lớn viết “Minh Linh các”, cửa trái viết “Đồng Lạc môn”, cửa phải viết “Kiều
Ứng môn”, biển đều viết chữ vàng.

 Khúc ca thán thời thế, nhạc tấu “Nhập hoàng đô”


Hơn mười người đàn ông đều cởi trần thân trên, nắm tay dẫm chân, vây quanh
mà hát hồi lâu. Khi một người giơ tay thì mười người đều giơ tay, khi hạ tay cũng
vậy. Lời ca có các khúc “Trang Chu mộng điệp”, “Bạch Lạc Thiên Mẫu biệt tử”,
“Vy sinh ngọc tiêu”, “Đạp ca”, “Hạo ca”. Chỉ có hát than vãn thời thế là nghe đau
buồn nhất, nhưng không hiểu được. Khi mở yến tiệc trên điện, đại nhạc liền tấu ở
sau nhà vu, nhạc khí và người đều không thấy đâu. Mỗi khi rót rượu liền hô lớn
“nhạc tấu khúc của mỗ”, dưới nhà vu vâng dạ rồi tấu. Các khúc nhạc gồm “Giáng
hoàng long”, “Nhập hoàng đô”, “Yến dao trì”, “Nhất giang phong”, âm điệu cũng
gần cổ xưa, song ngắn ngủi.

 Nhụy hoa rồng xuyên tường, trầu không chẳng rời chén
Lấy nhụy hoa rồng hòa với dầu an tức hương, vò thành thỏi như cây đũa, dài
chừng 1 thước, cắm trên tường, cả ngày không hết thơm, hương thơm ngạt ngào.
Người Mân, Quảng đều ăn cau khô, lấy lá trầu hòa với đá tro. Người Giao chỉ ăn
cau mềm, lấy mầm mới hái, dùng 2 tấc lá trầu, thoa tro của kén sâu lên mà ăn.
Người quyền quý dùng hộp màu vàng bạc, dắt theo đứa hầu không khi nào rời tả
hữu, cả ngày nhai không ngừng nghỉ.

 Đồi mồi cài tóc ngắn, sâu bọ khắc da dày


Phụ nữ cắt tóc ngắn, giữ lại 3 tấc cột trên đỉnh đầu, cong ra sau, lại buộc thành
hình cây bút, không để tóc mai sau, cũng không bôi dầu, gội đầu hay đeo khuyên
tai. Người giàu xỏ tai bằng đồi mồi hay bằng xương, sừng mà thôi, một tí vàng
ngọc cũng không có. Người ta đều xăm mình, dùng móc câu cong mà xăm, giống
như khắc chữ trên lư đỉnh đồng thời xưa. Lại xăm chữ đen trên ngực, viết “nghĩa dĩ
quyên khu, hình ô báo quốc”30 , dù đã có con cháu cũng vậy.

 Mọi nhà đều đục lỗ, không giường nào thiếu lò


Trong nhà không làm gác, từ nóc ra tới hiên mái dốc thẳng xuống. Nóc tuy
cao, nhưng mái hiên chỉ gần bốn, năm thước, lại có chỗ thấp nên đều tối tăm. Làm
cửa sổ ở sát đất, giống như lỗ chó vậy. Người ta trải chiếu ngồi đất, quay về hướng
sáng. Một bên giường ngủ luôn có lò than cháy, trời nóng cũng vậy, để xua đi khí
ẩm thấp.

 Thuyền Tinh Hoa họp chợ, sông Hoa Phúc chia khu
Phủ Tinh Hoa tức châu Hoan thời Đường, cách thành Giao Châu hơn 200 lý.
Thuyền bè các nước Phiên hải ngoại tụ tập, họp chợ trên thuyền rất đông, tổ miếu
và của cải của Chiêu Văn chú tù trưởng đều ở đây, thực là một trấn lớn. Giao Châu
không có thành quách, chỉ có tường đất thấp bé mà thôi. Phía tây có châu Hoa
Phúc, nước vây quanh, phía trước có bốn cây cầu Mạc Kiều, Tây Dương, Ma Đà,
Lão Biên, dùng để ra vào.

 Núi đột ngột chia Lạp , sóng mênh mông đổ Lô


Nước này bốn mặt đều là núi, trong cõi chỉ có các núi Ký Lang, Bảo Đài, Phật
Tích, Mã Yên là cao. Huyện Thiện Nhữ phía tây nam có núi Xích Thổ, cao vạn

30
Nghĩa dĩ quyên khu, hình ô báo quốc: “Vì nghĩa quên mình, đem thân đền nước”.
thước đến trời, trải hàng trăm dặm. […]31 Đi bè qua sông Nam Phan, đi 40 lý đến
sông Phú Lương, nước chảy xiết, không rộng lắm. Phía nam sông tên là Chợ Cầu ,
cư dân rất đông. Lại đi tiếp 40 lý là đến sông Quy Hóa, còn gọi là sông Lô, rộng
như các sông Mạc, Ngạc. Sông này từ phía tây Đại Lý chảy xuống, đông nam đổ ra
biển, tức là hạ lưu sông Lô32 mà Gia Cát Vũ hầu33 từng qua. Có 4 bến thuyền, thủy
triều bất thường.

 Cửa Thử rừng chen chúc, ải Lang núi quanh co


Đi về phía đông nam Khâu Ôn mấy chục dặm, trèo đèo vượt núi. Đi về hướng
tây nam, ở giữa hai núi nơi nào thấy tre lá vàng thì là rừng sâu tươi tốt. Sông rộng
không quá mấy thước, nhưng quanh co trăm lần, có chỗ phải lội trăm bước, có chỗ
phải lội nửa dặm. Đi tiếp 60-70 lý lại phải vượt một dãy núi, ven đường đều là
rừng cổ xum xuê, có tảng đá lớn trồi ra, bụi tre rậm rạp, rất hiểm trở, tên là Lão
Thử quan. Đi về hướng tây có đỉnh núi trải dài miên man không ngớt, gọi là núi Ký
Lang. Sườn núi xanh thẳm, cây lạ chen chúc, chim vẹt chim công bay hót cùng
nhau, khỉ vượn vô số. Đi tiếp 30 lý là đến Lạt Trúc quan, bên dưới có lính canh
giữ, trên cửa quan hai sườn núi giao nhau, gần với đường ngựa chạy. Tre lớn đều
chu vi 2 thước, bên trên sắc nhọn. Đây có lẽ là đất khống ách của nước này.

 Miếu Sĩ Tiếp vẫn còn, tháp Cao Biền chưa hoang


Sĩ Tiếp thời Ngô là người quận Thương Ngô. Anh em bốn người, một làm Hợp
Phố Thái thú, một làm ở Cửu Chân, một làm ở Nam Hải. Sĩ Tiếp làm Giao Chỉ
Thái thú, chính trị sáng suốt, khi chết táng ở đây, thổ nhân thờ cúng rất kính cẩn.
Cao Biền bình định xong Giao Châu, bèn lập tháp đá ở bên trái chợ Thượng Kiều
bên sông Phú Lương, vẫn còn sừng sững.

 Thuyền sắt bóng còn thấy, cột đồng vết đất khô
Mã Viện khi đánh dẹp Trưng Trắc đóng thuyền sắt, 4 chiếc chìm ở biển, nay
khi nước trong vẫn thấy được bóng. Cột đồng do Viện dựng, phô ra ở đất khô,

31
Bản gốc sót chữ một câu, nên không rõ “Lạp” trong nhan đề đoạn này là gì, nhưng hẳn là tên núi.
32
Ở đây tác giả nhằm sông Lô ở Vân Nam với sông Lô ở nước ta.
33
Gia Cát Vũ hầu: Tức Gia Cát Lượng.
khắc chữ rằng: “Đồng trụ chiết, Giao nhân diệt”34. Nay Trần Nhật Huyên lấy đất
lấp đi, bên trên thấy có miếu Phục Ba35.

 Xóm chợ bày nhiều sạp, chân núi hay đổi đường
Thôn xóm có chợ phiên, mỗi mồng 2 họp 1 lần, bách hóa tràn đầy. Đi 5 lý thì
thấy nhà ba gian, bốn mặt dựng sạp, hẳn là chỗ họp chợ. Sứ thần đến thì nước này
không cho đi lại lối cũ, đều xẻ núi mở đường, lặn lội lòng vòng, ý là tỏ rõ xa xôi
hiểm trở vậy.

 Nghìn thuyền đậu đất mặn, bốn mùa gạo đong đầy
Trong nước không tích trữ, chỉ cậy vào thuyền bè buôn bán. Lúa hằng năm
chín 4 lần (?), dù giữa đông mạ vẫn tươi tốt.

 Dâu vườn ươm ngắn ngủn, tre ngã tư um tùm


Cây dâu trồng hằng năm để cho tằm ăn, mỗi nhà 3-4 mẫu, quấn quanh giàn tre.
Tre gai cây to đường kính 7-8 tấc, gai cứng như sắt, chặt ra rồi giâm liền mọc mới.

 Chuối trâu rũ tựa kiếm, vải rồng kết như ngọc


Chuối cực lớn, mùa đông không tàn, từ trong nhú ra một chùm, có hoa nối
nhau. Hoa nặng thì khô rồi rụng. Khi kết quả thì rủ xuống, một buồng có hàng
chục trái, dài mấy tấc, giống như trái phì tạo36. Lột vỏ ra thì mềm dẻo như trái hồng
non, cực kỳ ngọt mát, còn gọi là chuối trâu. Vải rồng thực ra giống quả vải nhỏ, vị
như long nhãn, cây và lá cũng tương tự. Hai quả này thời xưa coi là thứ quả lạ. Có
quả mít, to như quả bầu, thịt kết múi như tóc Phật, vị cực ngọt, trong ruột hình mặt
người chua ngọt, hai hạt có đủ mắt mũi miệng. Lại có quả dừa, nhót, me, đều có vị
lạ nhưng ăn được.

34
Đồng trụ chiết, Giao nhân diệt: “Cột đồng gãy, người Giao diệt”.
35
Phục Ba: Tức Phục Ba tướng quân, chức danh của Mã Viện.
36
Phì tạo: Tên khoa học là Gleditsia sinensis, còn gọi là cây tạo giáp.
 Chén quý ốc anh vũ, danh hương chim đa đa
Ốc anh vũ màu đỏ như đá vân mẫu, hình tựa như mỏ và cánh chim anh vũ, nên
có tên ấy. Loại hương nhiều nhất là thủy trầm37, cũng có chiên đàn, loại có đốm
như lông chim đa đa được coi là quý.

 Treo cờ vẽ hình quỷ, đánh mõ gọi binh lính


Tinh kỳ có bốn loại vàng đen xanh đỏ đủ màu, bên trong vẽ tinh quan, thiên
thần, hoặc là hình la sát38. Khi kêu gọi bè lũ liền lấy đốt tre lớn làm mõ, gõ lên thì
dù ở xa cũng nghe thấy.

 Uống nước mũi như vò bình, đầu bay lượn tựa con lăn:
Tập uống nước bằng mũi giống như trâu, dùng ống nhỏ hút rượu vào. Dân các
động đầu có thể bay được, dùng hai tai làm cánh, ban đêm bay ra mép biển, đớp
tôm cá mà ăn, trời sáng quay về, hoàn thân như cũ, song dưới cổ có sẹo như sợi chỉ
đỏ (?).

 Da trăn căng trống to, râu tôm làm gậy chống:


Loài trăn lớn quấn quanh thân cây, rất dài. Lột da nó, cạo hết vảy, đem căng
mặt trống, rộng mấy thước, chỉ dùng da lưng, không dùng da bụng. Đem ra nơi
sáng xem, chỗ trắng chỗ đen như tóc hoa râm, người Giao khi chơi nhạc đem đặt
phía trước. Tôm lớn to như cây cột, có con râu dài 7-8 thước, người ven biển lấy
làm gậy chống rất tốt (?).

 Nhà nhà đều nấu rắn, lắm người biết hóa hổ


Rắn núi rắn nước, đều là món ăn thường, dân gian lấy đem phơi ướp. Dân các
động có yêu thuật, tụng chú tu luyện, liền biến hình thành hổ, vồ hươu nai ăn sống,
nhưng không thường hay có.

37
Thủy trầm: Tức trầm hương. Loại có hàm lượng nhựa cao chìm trong nước, nên mới gọi là “trầm”.
38
La sát: Phiên âm từ rakshasa, một loài quỷ trong thần thoại Hindu giáo và Phật giáo.
 Ngói mái hiên vảy cá, bè vượt biển đuôi chim
Ngói hình như tấm ván, bên trên nhọn bằng một nửa bên dưới, giống như ngọc
khuê thời xưa. Treo ngang nửa cây tre làm khung, dùng đinh tre đóng ngói ấy lên
trên khung, từ mái hiên chồng lên nhau tới nóc nhà, uốn như vẩy cá. Thuyền nhẹ
mà dài, ván rất mỏng, đuôi như cánh uyên ương, hai đầu cao lên, dùng 30 người
chèo, có khi nhiều đến trăm người, lướt đi như bay.

 Thủy nỗ ngậm cát rơi, sơn tham ở hang thô


Con “thủy nỗ”39 còn gọi là “hàm sa xạ công”, dùng khí phun [độc] đi xa 30
bước, bắn trúng bóng người, chỉ thấy đỏ ngứa. Phải lấy dao cắt bỏ thịt ngay nếu
không sẽ chết. Đại khái độc trùng độc dược từ Quảng về nam có nhiều, người
Trung Châu đến đấy không bảo hộ tốt tất sẽ bị hại. “Sơn tham” còn gọi là “sơn
đô”40, làm tổ sống trên cây lớn, hoặc sống trong hang động, một chân nhún nhảy,
biết huyễn hoặc người, là loài sơn quỷ thủy quái vậy.

 Cá sấu kêu như sét, khí sò nhả tựa chùa


Cá sấu con lớn dài ba bốn trượng, bốn chân, tựa như thằn lằn, đuôi màu vàng,
miệng đầy răng cưa, còn tên là “hốt lôi” vì tiếng kêu như sét đánh. Hươu chạy lên
bờ, nghe tiếng rống thì sợ mà gục ngã, phần lớn bị cá sấu ăn thịt. Dưới biển có
nhiều cá lớn, duy cá voi là to nhất, con nhỏ cũng dài mấy chục thước, có thuyết nói
nuốt được thuyền cũng không phải hư cấu vậy. Sò giữa mùa xuân hè nhả khí ngút
trời, giống như lâu đài cung thất, cũng có chỗ giống cái tháp bảy tầng, người ta thi
thoảng lại thấy41.

***

39
Thủy nỗ: Một loài côn trùng độc nhắc đến trong thư tịch Trung Hoa xưa.
40
Sơn tham/sơn đô: Một loài linh trưởng.
41
Ở đây tác giả đang nói đến hiện tượng Fata Morgana, khi ánh sáng khúc xạ trên mặt biển tạo thành ảo ảnh hình
nhà cửa. Quan niệm Trung Hoa xưa cho là một loài sò khổng lồ dưới biển nhả khí tạo ra.
Ngụ huyện thương phân trở, sinh linh khốn độc phô,
Vũ giai do vị cách, chiết giản khởi năng hô?
Đại xã sơ truyền mã, viên môn hợp thụ phu,
Tỳ hưu vy yển tập, xà thỉ ngẫu đào bô.
Thiên dĩ tồ cự ác, dân do phụng tiếm sồ,
Thế như Thuần cứ Lũng, chính dĩ Hạo vong Ngô.
Phượng trát trọng tuyên lệnh, lang tâm canh phục cô,
Hạnh năng khoan phủ chất, do tự luyến nê đồ.
Hiến tụng tôn thiên tử, đằng chương khiển đại phu,
Tượng đê ngôn khả đính, đố sách sự phi vu.
Công dục thu biên kiêu, uy tu trượng miếu mô,
Mộc huân trần thử thập, Lễ bộ tiểu thần Phu.

(Dịch nghĩa:
Thương cho người ngụ huyện bị cách trở, sinh linh chịu khốn khổ,
Múa trước thềm mà chưa ai đến42, thẻ tre gãy thì làm sao được43?
Lập xã đàn tế thần đất, ghép xe thành trại để bắt giặc.
Tỳ hưu44 thôi nép mình một chút, rắn lợn đã bỏ trốn ngay.
Trời đã ghét bọn thủ ác, nhưng dân vẫn thờ kẻ tiếm hiệu,
Vị thế như Trần Thuần chiếm cứ Lũng45, chính sự như Tôn Hạo sắp mất Ngô46.
Dùng thẻ phượng47 ban tuyên lệnh, kẻ có lòng chó sói liền nhận tội.

42
Chỉ điển tích vua Thuấn bày lễ múa trước sân mà dụ được nước Hữu Miêu đến quy phục.
43
Người xưa viết chữ lên thẻ tre, nên dùng thẻ ngắn để viết bị coi là không kính trọng.
44
Tỳ hưu: Loài vật trong truyền thuyết Trung Hoa, tượng trưng cho quân đội của nhà vua.
45
Trần Thuần: Một trong các thủ lĩnh nổi loạn cuối thời Tây Hán, cát cứ vùng Lũng Tây.
46
Tôn Hạo: Vua cuối cùng của nước Đông Ngô thời Tam Quốc.
47
Thẻ phượng: Lấy từ cụm “phượng trát long thư”, ý nói chữ viết đẹp như rồng phượng. Ở đây chỉ chiếu chỉ của
triều đình.
Ca tụng để tôn thiên tử, sai đại phu vào dâng tấu.
Quan tượng đê48 nói là định được, sách bị mọt ăn nhưng việc vẫn còn ghi.
Muốn lập công ở nơi biên ải thì không thể đợi hoạch mưu,
Tiểu thần Lễ bộ là Phu tắm gội trình lên tập sách này.)

Người dịch: Quốc Bảo

***

48
Tượng đê: Chức quan thời thượng cổ, giữ việc phiên dịch khi tiếp sứ giả các nước phương nam.
Phụ lục

Trong sách này tác giả có kí âm lại một số từ vựng của tiếng Việt đương thời.
Tuy nhiên, vì mỗi ký tự chữ Hán đều mang nhiều phát âm tùy theo ngôn ngữ (ví dụ
國 Hán-Việt đọc là “quốc”, nhưng tiếng Hán-Quan thoại đọc là “guó”, Hán-Quảng
Đông là “gwol”…) nên chúng ta không nắm được chính xác tác giả phát âm những
từ đấy như thế nào. Nhằm dễ xác định, những từ tác giả kí âm sẽ được chuyển về
phát âm Hán trung đại, rồi đối chiếu với những kí âm trong Từ điển Việt-Bồ-La
sau này, để phỏng đoán phát âm của tiếng Việt thế kỉ 13.

Phỏng đoán
Chữ Hán kí Nghĩa tiếng Phát âm Hán Phát âm Hán-
phát âm Hán-
âm Hán trung đại* Việt hiện đại
Việt thời Trần
勃未 Thiên 天 /buət̚mʉi/ Bột vị Bmời
炟 Địa 地 /tɑt̚/ Đát Đất
浮勃未 Nhật 日 /bɨubuət̚mʉi/ Phù bột vị […] bmời
勃文 Nguyệt 月 /buət̚mɨun/ Bột măn Bmăng
教 Phong 風 /kˠau/ Giáo Gió
梅 Vân 雲 /muʌi/ Mai Mây
斡隈 Sơn 山 /uɑt̚uʌi/ Oát ôi ?
掠 Thủy 水 /lɨɐk̚/ Lược Lước
末 Nhãn 眼 /muɑt̚/ Mạt Mắt
皿 Khẩu 口 /mˠiæŋ/ Mãnh Miệng
吒 Phụ 父 /ʈˠa/ Tra Cha
娜 Mẫu 母 /nɑ/ Na Na
干多 Nam tử 男子 /kɑntɑ/ Can đa Con đực
干蓋 Nữ tử 女子 /kɑnkɑi/ Can cái Con cái
重 Phu 夫 /ɖɨoŋ/ Trùng Chồng
陀被 Thê 妻 /dɑbˠiᴇ/ Đà bị […] bợ
領 Hảo 好 /liᴇŋ/ Lãnh Lành
張領 Bất hảo 不好 /ʈɨɐŋliᴇŋ/ Trương lãnh Chẳng lành

*Phục dựng phát âm này lấy theo nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học Trịnh Trương Thịnh Phương

You might also like