Professional Documents
Culture Documents
***
(Dịch nghĩa:
Đức của thánh nhân phủ khắp bầu trời, ánh sáng ân điển soi rọi góc biển,
Thế nên ban chiếu cho Nam Việt, giao mệnh lệnh cho nhà nho ở cửa Bắc.
Cầm cờ tiết vượt qua muôn dặm, trong màn đêm nghìn quân lính bắt giặc thù,
Trước giữ nghiêm tên nỏ, sau che chở kẻ kiếm củi, hái rau.
Nhớ rằng cõi Giao Châu ấy, xưa là đất của họ Hán,
Lâu thuyền đến đánh dẹp, Trung Trắc làm phản rồi lại bị giết.
Thời Ngũ Đại ngôi vua sụt lở, khắp phương mưu đồ bá nghiệp,
Vì mưa gió ngăn cách, bỗng nhiên nhận ra bờ cõi đã khác.
Đinh Liễn trước kia ngang ngược, Lê Hoàn về sau tham lam,
Một triều Trần dấy nghiệp, tám đời họ Lý mất cả.)
***
An Nam vốn là Giao Châu thời Hán. Thời Đường lập Đô hộ phủ. Thời Minh
Trinh nhà Lương, thổ hào Khúc Thừa Mĩ chiếm cứ đất này. Dương Diên Nghệ1,
Thiệu Hồng2, Ngô Xương Ngập, Xương Văn tranh nhau nối tiếp. Đầu thời Càn
Đức nhà Tống (963-968), con trai của Đinh Công Trứ là Bộ Lĩnh lập, rồi truyền
ngôi cho con là Liễn. Đại tướng Lê Hoàn cướp ngôi, rồi con trai Hoàn là Chí
Trung3 lại bị Lý Công Uẩn soán. Công Uẩn4, Đức Chính5, Nhật Tôn6, Càn Đức7,
Dương Hoán8, Thiên Tộ9, Long Cán10, Hạo Sảm11, truyền 8 đời đến năm Ất Dậu
thời Gia Định nhà Tống (1225) thì họ Trần đoạt nước.
Họ Trần vốn người Mân12, có tên Trần Kinh (ngụy thụy là Văn vương) làm rể
họ Lý. Gặp lúc Long Cán già nua, không màn chính sự, Kinh cùng em trai là Bản
(ngụy thụy là Khang vương) trộm quyền bính trong nước. Hạo Sảm non nớt, con
trai [của Kinh] là Thừa soán lập, tiếm hiệu Thái thượng hoàng, rồi chết. Con trai
hắn là Quang Bính lập (tên trong sử Tống là Uy Hoảng), dâng biểu nội phụ, quốc
1
Dương Diên Nghệ: Tức Dương Đình Nghệ. Hai chữ Đình 廷 và Diên 延 có lối viết khá giống nhau.
2
Thiệu Hồng: Một nhân vật kế tục Dương Đình Nghệ được nhắc đến trong thư tịch Trung Hoa. Có thể là tên khác
của Dương Tam Kha.
3
Chí Trung: Tên triều Tống ban cho Lê Long Đĩnh.
4
Công Uẩn: Tức Lý Thái Tổ.
5
Đức Chính: Lý Thái Tông.
6
Nhật Tôn: Lý Thánh Tông.
7
Càn Đức: Lý Nhân Tông.
8
Dương Hoán: Lý Thần Tông.
9
Thiên Tộ: Lý Anh Tông.
10
Long Cán: Lý Cao Tông.
11
Hạo Sảm: Lý Huệ Tông
12
Người Mân: Tức người Phúc Kiến.
triều13 phong làm An Nam quốc vương, rồi chết14. Con trai là Nhật Huyên lập (tên
trong sử Tống là Chiếu), rồi chết15. Nay Nhật Tôn16 lãnh đạo dân chúng, do đó có
được nước đã 69 năm.
***
Sang hèn hai chân đất, già trẻ một đầu tròn
Người dân đều đi chân trần, ngoài ra còn mang giày da, đến điện liền bỏ ra.
Khi làm lễ tế Giao, trăm người mặc bào cầm hốt mà đều đi chân trần thôi. Đàn ông
đều cắt tóc, làm quan thì lấy khăn xanh phủ lên. Dân đều như nhà sư vậy.
13
Quốc triều: Chỉ nhà Nguyên.
14
Thế thứ tổ tiên các vua Trần lần lượt là Trần Kinh – Trần Hấp – Trần Lý - Trần Thừa – Trần Nhật Cảnh (Thái Tông)
– Trần Uy Hoảng (Thánh Tông). Ở đây tác giả chép thiếu, chỉ có 3 đời là Kinh – Thừa – Hoảng.
15
Nhật Huyên: Tức Trần Nhân Tông. Thực ra vào thời điểm sách này ra đời vua Nhân Tông vẫn còn sống, có lẽ tác
giả nhầm với Thánh Tông.
16
Nhật Tôn: Tức Trần Anh Tông.
17
Cô tử: Nghĩa đen là “đứa con mồ côi”, nhưng cũng là từ khiêm xưng của vua chúa thời Xuân Thu-Chiến Quốc.
18
Tù trưởng: Chỉ vua Trần.
19
Tức Bảo Thánh hoàng hậu.
Leo trèo giỏi hơn hươu, bơi lội nhanh tựa vịt
Da chân rất dày, leo núi như bay, gai góc đều không sợ. Cha con, trai gái tắm
chung một sông, đông hè đều vậy. Nước tốt, có dòng chảy ngầm mấy trăm dặm.
20
Là: Chữ Hán là La 羅, là một loại lụa (nên có từ ghép “lụa là”).
21
Xem phần chú thích ở cuối.
22
Để nha: Tức là võng. Đại Việt sử ký toàn thư ký âm là chỉ nha.
vành rộng. Vành rộng chừng 4 tấc, có mưa liền trương ra, tạnh thì cất đi mà dùng
lọng. Tù trưởng ra vào dùng kiệu cán đỏ màn son, 8 người khiêng, rất diễm lệ.
Trên lưng voi đặt yên cương, chỗ ngồi tên là “la ngã”23, người ngồi trên ấy tay
cong như cáo.
Sênh tiêu vây đào xấu, rượu thịt cúng thần dâm
Từng mở yến tiệc ở điện Tập Hiền, nam bè nữ xướng mỗi bên 10 người, ngồi
cả dưới đất. Có các thứ đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn một dây. Lời hát hòa lẫn với tiếng
đàn, khi hát trước hết đệm tiếng “lôn” ở cuối. Dưới điện cắm con rối trên đầu gậy
để biểu diễn. Lại có kẻ mặc khố gấm, cởi trần thân trên, nhảy nhót kêu la. Phụ nữ
để chân trần, xòe mười ngón chân ra mà múa, xấu xí vô kể. Trước cửa nhà dân đều
có miếu nhỏ, thần ở đấy gọi là “Mã đại nhân”, khắc tượng gỗ tục tĩu không ra danh
trạng gì. Ngày mồng một thì bày ở đình, già trẻ xúm vào lạy.
23
La ngã: Tên đầy đủ là “bồng la nga”, từ mượn tiếng Chăm chỉ bành voi.
24
Lý thị: Tức Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu, vợ Trần Thái Tông.
25
Trần Khải: Tức Trần Quang Khải.
26
Trần Diệp: Tức Trần Đức Diệp, em trai Trần Nhân Tông.
kiêm lĩnh binh sĩ. Có việc gấp thì lùa hết đinh tráng đi, khí giới đều tự chuẩn bị,
không có cung tên, chỉ cầm nỏ thuốc độc, lao, cũng có kẻ mang gậy lớn.
27
Quan trung khách: “khách trong nhà quan”.
28
Quan nô: Nô tì thuộc sở hữu của nhà nước.
29
Tọa thượng nô: “nô tì ngồi cao”.
Vàng bạc tội chẳng thoát, lọng tía luật khó cho
Vàng bạc trong dân gian dù ít hay nhiều đều trưng thu về cho quan, có ai dùng
riêng thì đáng tội chết. Phẩm quan trên dưới lấy lọng làm thứ phân biệt. Khanh
tướng thì dùng 3 chiếc lọng màu xanh, thứ đến 2 lọng, 1 lọng, còn lọng màu tía chỉ
người thân tộc dùng, kẻ khác không dám dùng.
Nhụy hoa rồng xuyên tường, trầu không chẳng rời chén
Lấy nhụy hoa rồng hòa với dầu an tức hương, vò thành thỏi như cây đũa, dài
chừng 1 thước, cắm trên tường, cả ngày không hết thơm, hương thơm ngạt ngào.
Người Mân, Quảng đều ăn cau khô, lấy lá trầu hòa với đá tro. Người Giao chỉ ăn
cau mềm, lấy mầm mới hái, dùng 2 tấc lá trầu, thoa tro của kén sâu lên mà ăn.
Người quyền quý dùng hộp màu vàng bạc, dắt theo đứa hầu không khi nào rời tả
hữu, cả ngày nhai không ngừng nghỉ.
Thuyền Tinh Hoa họp chợ, sông Hoa Phúc chia khu
Phủ Tinh Hoa tức châu Hoan thời Đường, cách thành Giao Châu hơn 200 lý.
Thuyền bè các nước Phiên hải ngoại tụ tập, họp chợ trên thuyền rất đông, tổ miếu
và của cải của Chiêu Văn chú tù trưởng đều ở đây, thực là một trấn lớn. Giao Châu
không có thành quách, chỉ có tường đất thấp bé mà thôi. Phía tây có châu Hoa
Phúc, nước vây quanh, phía trước có bốn cây cầu Mạc Kiều, Tây Dương, Ma Đà,
Lão Biên, dùng để ra vào.
30
Nghĩa dĩ quyên khu, hình ô báo quốc: “Vì nghĩa quên mình, đem thân đền nước”.
thước đến trời, trải hàng trăm dặm. […]31 Đi bè qua sông Nam Phan, đi 40 lý đến
sông Phú Lương, nước chảy xiết, không rộng lắm. Phía nam sông tên là Chợ Cầu ,
cư dân rất đông. Lại đi tiếp 40 lý là đến sông Quy Hóa, còn gọi là sông Lô, rộng
như các sông Mạc, Ngạc. Sông này từ phía tây Đại Lý chảy xuống, đông nam đổ ra
biển, tức là hạ lưu sông Lô32 mà Gia Cát Vũ hầu33 từng qua. Có 4 bến thuyền, thủy
triều bất thường.
Thuyền sắt bóng còn thấy, cột đồng vết đất khô
Mã Viện khi đánh dẹp Trưng Trắc đóng thuyền sắt, 4 chiếc chìm ở biển, nay
khi nước trong vẫn thấy được bóng. Cột đồng do Viện dựng, phô ra ở đất khô,
31
Bản gốc sót chữ một câu, nên không rõ “Lạp” trong nhan đề đoạn này là gì, nhưng hẳn là tên núi.
32
Ở đây tác giả nhằm sông Lô ở Vân Nam với sông Lô ở nước ta.
33
Gia Cát Vũ hầu: Tức Gia Cát Lượng.
khắc chữ rằng: “Đồng trụ chiết, Giao nhân diệt”34. Nay Trần Nhật Huyên lấy đất
lấp đi, bên trên thấy có miếu Phục Ba35.
Xóm chợ bày nhiều sạp, chân núi hay đổi đường
Thôn xóm có chợ phiên, mỗi mồng 2 họp 1 lần, bách hóa tràn đầy. Đi 5 lý thì
thấy nhà ba gian, bốn mặt dựng sạp, hẳn là chỗ họp chợ. Sứ thần đến thì nước này
không cho đi lại lối cũ, đều xẻ núi mở đường, lặn lội lòng vòng, ý là tỏ rõ xa xôi
hiểm trở vậy.
Nghìn thuyền đậu đất mặn, bốn mùa gạo đong đầy
Trong nước không tích trữ, chỉ cậy vào thuyền bè buôn bán. Lúa hằng năm
chín 4 lần (?), dù giữa đông mạ vẫn tươi tốt.
34
Đồng trụ chiết, Giao nhân diệt: “Cột đồng gãy, người Giao diệt”.
35
Phục Ba: Tức Phục Ba tướng quân, chức danh của Mã Viện.
36
Phì tạo: Tên khoa học là Gleditsia sinensis, còn gọi là cây tạo giáp.
Chén quý ốc anh vũ, danh hương chim đa đa
Ốc anh vũ màu đỏ như đá vân mẫu, hình tựa như mỏ và cánh chim anh vũ, nên
có tên ấy. Loại hương nhiều nhất là thủy trầm37, cũng có chiên đàn, loại có đốm
như lông chim đa đa được coi là quý.
Uống nước mũi như vò bình, đầu bay lượn tựa con lăn:
Tập uống nước bằng mũi giống như trâu, dùng ống nhỏ hút rượu vào. Dân các
động đầu có thể bay được, dùng hai tai làm cánh, ban đêm bay ra mép biển, đớp
tôm cá mà ăn, trời sáng quay về, hoàn thân như cũ, song dưới cổ có sẹo như sợi chỉ
đỏ (?).
37
Thủy trầm: Tức trầm hương. Loại có hàm lượng nhựa cao chìm trong nước, nên mới gọi là “trầm”.
38
La sát: Phiên âm từ rakshasa, một loài quỷ trong thần thoại Hindu giáo và Phật giáo.
Ngói mái hiên vảy cá, bè vượt biển đuôi chim
Ngói hình như tấm ván, bên trên nhọn bằng một nửa bên dưới, giống như ngọc
khuê thời xưa. Treo ngang nửa cây tre làm khung, dùng đinh tre đóng ngói ấy lên
trên khung, từ mái hiên chồng lên nhau tới nóc nhà, uốn như vẩy cá. Thuyền nhẹ
mà dài, ván rất mỏng, đuôi như cánh uyên ương, hai đầu cao lên, dùng 30 người
chèo, có khi nhiều đến trăm người, lướt đi như bay.
***
39
Thủy nỗ: Một loài côn trùng độc nhắc đến trong thư tịch Trung Hoa xưa.
40
Sơn tham/sơn đô: Một loài linh trưởng.
41
Ở đây tác giả đang nói đến hiện tượng Fata Morgana, khi ánh sáng khúc xạ trên mặt biển tạo thành ảo ảnh hình
nhà cửa. Quan niệm Trung Hoa xưa cho là một loài sò khổng lồ dưới biển nhả khí tạo ra.
Ngụ huyện thương phân trở, sinh linh khốn độc phô,
Vũ giai do vị cách, chiết giản khởi năng hô?
Đại xã sơ truyền mã, viên môn hợp thụ phu,
Tỳ hưu vy yển tập, xà thỉ ngẫu đào bô.
Thiên dĩ tồ cự ác, dân do phụng tiếm sồ,
Thế như Thuần cứ Lũng, chính dĩ Hạo vong Ngô.
Phượng trát trọng tuyên lệnh, lang tâm canh phục cô,
Hạnh năng khoan phủ chất, do tự luyến nê đồ.
Hiến tụng tôn thiên tử, đằng chương khiển đại phu,
Tượng đê ngôn khả đính, đố sách sự phi vu.
Công dục thu biên kiêu, uy tu trượng miếu mô,
Mộc huân trần thử thập, Lễ bộ tiểu thần Phu.
(Dịch nghĩa:
Thương cho người ngụ huyện bị cách trở, sinh linh chịu khốn khổ,
Múa trước thềm mà chưa ai đến42, thẻ tre gãy thì làm sao được43?
Lập xã đàn tế thần đất, ghép xe thành trại để bắt giặc.
Tỳ hưu44 thôi nép mình một chút, rắn lợn đã bỏ trốn ngay.
Trời đã ghét bọn thủ ác, nhưng dân vẫn thờ kẻ tiếm hiệu,
Vị thế như Trần Thuần chiếm cứ Lũng45, chính sự như Tôn Hạo sắp mất Ngô46.
Dùng thẻ phượng47 ban tuyên lệnh, kẻ có lòng chó sói liền nhận tội.
42
Chỉ điển tích vua Thuấn bày lễ múa trước sân mà dụ được nước Hữu Miêu đến quy phục.
43
Người xưa viết chữ lên thẻ tre, nên dùng thẻ ngắn để viết bị coi là không kính trọng.
44
Tỳ hưu: Loài vật trong truyền thuyết Trung Hoa, tượng trưng cho quân đội của nhà vua.
45
Trần Thuần: Một trong các thủ lĩnh nổi loạn cuối thời Tây Hán, cát cứ vùng Lũng Tây.
46
Tôn Hạo: Vua cuối cùng của nước Đông Ngô thời Tam Quốc.
47
Thẻ phượng: Lấy từ cụm “phượng trát long thư”, ý nói chữ viết đẹp như rồng phượng. Ở đây chỉ chiếu chỉ của
triều đình.
Ca tụng để tôn thiên tử, sai đại phu vào dâng tấu.
Quan tượng đê48 nói là định được, sách bị mọt ăn nhưng việc vẫn còn ghi.
Muốn lập công ở nơi biên ải thì không thể đợi hoạch mưu,
Tiểu thần Lễ bộ là Phu tắm gội trình lên tập sách này.)
***
48
Tượng đê: Chức quan thời thượng cổ, giữ việc phiên dịch khi tiếp sứ giả các nước phương nam.
Phụ lục
Trong sách này tác giả có kí âm lại một số từ vựng của tiếng Việt đương thời.
Tuy nhiên, vì mỗi ký tự chữ Hán đều mang nhiều phát âm tùy theo ngôn ngữ (ví dụ
國 Hán-Việt đọc là “quốc”, nhưng tiếng Hán-Quan thoại đọc là “guó”, Hán-Quảng
Đông là “gwol”…) nên chúng ta không nắm được chính xác tác giả phát âm những
từ đấy như thế nào. Nhằm dễ xác định, những từ tác giả kí âm sẽ được chuyển về
phát âm Hán trung đại, rồi đối chiếu với những kí âm trong Từ điển Việt-Bồ-La
sau này, để phỏng đoán phát âm của tiếng Việt thế kỉ 13.
Phỏng đoán
Chữ Hán kí Nghĩa tiếng Phát âm Hán Phát âm Hán-
phát âm Hán-
âm Hán trung đại* Việt hiện đại
Việt thời Trần
勃未 Thiên 天 /buət̚mʉi/ Bột vị Bmời
炟 Địa 地 /tɑt̚/ Đát Đất
浮勃未 Nhật 日 /bɨubuət̚mʉi/ Phù bột vị […] bmời
勃文 Nguyệt 月 /buət̚mɨun/ Bột măn Bmăng
教 Phong 風 /kˠau/ Giáo Gió
梅 Vân 雲 /muʌi/ Mai Mây
斡隈 Sơn 山 /uɑt̚uʌi/ Oát ôi ?
掠 Thủy 水 /lɨɐk̚/ Lược Lước
末 Nhãn 眼 /muɑt̚/ Mạt Mắt
皿 Khẩu 口 /mˠiæŋ/ Mãnh Miệng
吒 Phụ 父 /ʈˠa/ Tra Cha
娜 Mẫu 母 /nɑ/ Na Na
干多 Nam tử 男子 /kɑntɑ/ Can đa Con đực
干蓋 Nữ tử 女子 /kɑnkɑi/ Can cái Con cái
重 Phu 夫 /ɖɨoŋ/ Trùng Chồng
陀被 Thê 妻 /dɑbˠiᴇ/ Đà bị […] bợ
領 Hảo 好 /liᴇŋ/ Lãnh Lành
張領 Bất hảo 不好 /ʈɨɐŋliᴇŋ/ Trương lãnh Chẳng lành
*Phục dựng phát âm này lấy theo nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học Trịnh Trương Thịnh Phương