You are on page 1of 296

QUYỂN II

THỜI ĐẠI TỰ CHỦ

CHƢƠNG I

TRẦN THÁI TÔNG ( 1225 - 1258 )


Niên hiệu : Kiến Trung (1225-1237)
Thiên Ứng Chính Bình (1238-1350)
Nguyên Phong (1251-1258)

1 Năm Ất Dậu (1225), tháng 12, Trần Cảnh1, tên úy là


2 Bồ, làm chi hậu chính2 triều nhà Lý, đƣợc Trần Thủ Độ
3 mƣu mô xếp đặt để vợ Trần Cảnh là vua Lý Chiêu
4 Hoàng nhƣờng ngôi vua3, nay lên ngôi tức là Trần Thái
5 Tông, đổi niên hiệu là Kiến Trung.
6 Bính Tuất, Kiến Trung năm thứ 2 (1266), phong Lý
7 Chiêu Hoàng làm hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh
8 hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ làm Thái sƣ thống quốc
9 hành quân vụ chính thảo sự4.
10 Giáng truất tƣớc thƣợng hoàng của Lý Huệ Tông và
11 giam lỏng ở chùa Chân Giáo.
12 Tháng 2, định ra luật lệnh.
13 Giặc cƣớp quấy nhiễu ở vùng núi Tản Viên và Quảng
14 Oai, Thủ Độ đƣợc sai cầm quân đi bình định, dẹp yên
15 nhƣng không diệt đƣợc Nguyễn Nộn ở vùng Bắc Giang
16 - Đông Ngạn5 và Đoàn Thƣợng ở Hồng Châu6. Do đó,
17 Thủ Độ đề nghị Trần Thái Tông phong vƣơng cho hai
18 đầu đảng giặc cƣớp nầy nhƣng chỉ có Nguyễn Nộn chịu
19 nhận tƣớc phong của nhà Trần.
20 Tháng 5, Trần Thái Tông phong cho em cùng mẹ là
21 Nhật Hiệu mới đƣợc 2 tuổi tƣớc Khâm Thiên đại vƣơng.
22 Xét công trạng ban thƣởng quan tƣớc cho những kẻ
23 theo giúp họ Trần trong âm mƣu đoạt ngôi nhà Lý.
24 Tháng 8, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa
25 Chân Giáo7. Giáng mẹ vợ8 của Trần Thái Tông là Trần
1 thị hoàng thái hậu của nhà Lý9 xuống làm Thiên Cực
2 công chúa rồi đem ban gả cho Trần Thủ Độ làm vợ10,
3 các phi tần, cung nữ, đàn bà, con gái trong họ hàng của
4 Lý Huệ Tông đều bị Trần Thủ Độ mang đi bán gả cho
5 các tù trƣởng dân tộc thiểu số11.
6 Tháng 10, tôn cha là Trần Thừa làm thái thƣợng
7 hoàng giữ quyền cai trị; phong cho mẹ là Lê thị làm
8 Quốc Thánh hoàng thái hậu.
9 Ấn định giá trị tiền tệ12.
10 Chọn bắt con gái của dân để đƣa vào làm nô tì13 trong
11 cung vua.
12 CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
13 1 Trần Cảnh: con của Trần Thừa, cháu họ của Trần Thủ Độ và Trần thị
14 (Dung). Trần thị và Trần Thủ Độ là chị em họ con chú con bác với nhau. Có
15 thể là chị em ruột.
16 2 Chi hậu chính: tức là chức nội thị chính thủ. Đây là một chức quan ở trong
17 cung sảnh trách nhiệm đội ngƣời làm đầy tớ hầu hạ vua trong cung đình.
18 3 Lý Chiêu Hoàng nhƣờng ngôi: ĐVSKTT viết :..nhận thiền vị của Chiêu
19 Hoàng có nghĩa là chuyển ngôi. KĐVSTGCM viết: truyền ngôi cho Trần
20 Cảnh.
21 4 Thái sƣ thống quốc hành quân vụ chính thảo sự: tức là chức quan nắm
22 giữ toàn quyền bên ngành quân sự trong nƣớc giống nhƣ chức Tổng tƣ lệnh
23 quân đội ngày nay.
24 5 Bắc Giang và Đông Ngạn: vùng đất của tỉnh Bắc Ninh cũ, nay thuộc tỉnh
25 Hà Bắc. Đông Ngạn là vùng đất huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc
26 huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.
27 6 Hồng Châu: gồm có vùng Tây Bắc và vùng phía Nam của tỉnh Hải Dƣơng,
28 nay thuộc tỉnh Hải Hƣng.
29 7 Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông: Thủ Độ là một tên đầu sỏ gian ác, giết
30 ngƣời bằng lời nói chứ không cần dùng tới gƣơm đao. ĐVSKTT viết: <<Có lần
31 Thủ Độ qua trước cửa chùa, thấy Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ bèn nói: "Nhổ cỏ
32 thì cần phải nhổ cho tận gốc."Huệ Tông phủi tay đứng dậy nói: "Lời của nhà
33 ngươi nói ta hiểu rồi".Kế đến lại cho người giả trá mang hương hỏa đến bảo
34 Huệ Tông: "Quan thượng phụ sai chúng tôi đến mời". Huệ Tông nói: "Ta tụng
35 kinh xong sẽ tự xử" . Sau đó Huệ Tông tự treo cổ ở vườn phía sau chùa.. Thủ
36 Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành ở phía Nam để làm cửa,
37 đưa xác ra phường Yên Hoa (nay là Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội) để thiêu,
38 chứa tro xương vào tháp chùa Bảo Quang.>> (BK/Q.5/2a,b). KĐVSTGCM
39 cũng chép giống nhƣ thế (CB/Q.6/3).
40 8 Mẹ vợ của Trần Thái Tông: cũng là cô họ của Trần Thái Tông (Trần thị là
41 em họ của Trần Thừa).
42 9 Trần thị hoàng thái hậu nhà Lý: tức là vợ của Lý Huệ Tông, mẹ ruột của
43 Lý Chiêu Hoàng.

VSTK - 294
1 10 Ban gả cho Trần Thủ Độ: KĐVSTGCM viết: Truất ngôi thái hậu nhà Lý là
2 Trần thị xuống làm Thiên Cực công chúa, rồi gả cho Trần Thủ Độ .(CB.6/3)
3 11 Dân tộc thiểu số: ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều gọi là tù trƣởng ngƣời
4 Mán .
5 12 Ấn định giá trị tiền tệ: gọi là thể lệ tỉnh bách, tức là lấy 77 làm 100 hay
6 còn gọi là 100 thiếu hay 100 bớt; một tiền dân xài thì bằng 69 đồng, còn nộp
7 vào công quỹ thì một tiền có giá trị 70 đồng.
8 13 Nô tì: có phận sự phục dịch, hầu hạ cho nhà vua cùng với gia tộc của vua.

KHẢO LUẬN:

I/ Về mƣu mô xếp đặt của Trần Thủ Độ để đƣa


Trần Cảnh lên ngôi vua :

9 Hai bộ sử cũ đều chép giống nhau về việc lên ngôi của Trần Cảnh
10 bằng cách đƣa ra tờ chiếu chỉ giả tạo, bắt Lý Chiêu Hoàng ký vào rồi
11 tuyên đọc nhƣ sau : "Từ xưa nước ta đã có đế vương trị vì thiên hạ. Họ
12 Lý ta vâng mệnh trời, có cả bốn biển. Các liệt thánh ta (tức các vua
13 nhà Lý) nối tiến ngôi vua hơn hai trăm năm, chẳng may tình thế gian
14 nguy, giặc cướp nổi lên khắp cùng, nhân dân bị loạn lạc không ngưng.
15 Vua cha vướng bệnh, không người nối nghiệp, trẫm (tiếng dùng để vua
16 chúa tự xƣng với bề tôi trong triều đình) nhận mệnh lệnh theo thánh chỉ
17 bất đắc dĩ (ngoài ý muốn) nhận lên ngôi vua, từ xưa chưa từng có việc
18 truyền ngôi như thế. Khốn nỗi, việc giữ ngôi báu là hệ trọng mà trẫm là
19 đàn bà không đủ tài cán, khả năng phải gánh vác những chuyện quan
20 trọng của nước nhà không ai giúp đỡ. Nay trẫm đã suy xét kỹ và thấy
21 chỉ có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, uy nghi đường hoàng, có
22 phong độ bậc quân tử hiền nhân, có thể nhường ngôi để đúng theo ý
23 trời, xứng đẹp lòng trẫm, mong Trần Cảnh đồng lòng hết sức gánh vác
24 trọng trách dẹp yên loạn lạc, cứu giúp vận nước đang hồi nghiêng
25 ngửa để mọi người cùng hưởng phúc thái bình. Nay bố cáo cho thiên
26 hạ khắp nơi được biết ".
27 Việc dùng giấy tờ giả mạo để phế bỏ, cƣớp giựt ngôi vua trong thời
28 phong kiến là một phƣơng tiện rẻ tiền thƣờng đƣợc dùng để che mắt thế
29 gian. Ở triều đại nhà Lý, việc giả mạo chiếu chỉ của Lý Thần Tông
30 trong âm mƣu phế lập của ba ngƣời đàn bà đã từng xảy ra để đƣa Thiên
31 Tộ tức Lý Anh Tông lên ngôi vua.
32 Trong quá trình âm mƣu phế lập, cƣớp ngôi của ngƣời khác thì
33 Trần Thủ Độ nếu so với nhà sƣ Vạn Hạnh thì Thủ Độ phải đƣợc xem là
34 cao tay hơn và có vẻ thực tế hơn Vạn Hạnh: Vạn Hạnh khóa miệng dƣ
35 luận bằng cách dựa vào uy lực của ma quỷ thần linh và giấy tờ giả dối
36 còn Thủ Độ thì dựa vào tình trạng nguy ngập thực sự của đất nƣớc,
37 thực tế vợ chồng Trần Cảnh-Lý Chiêu Hoàng cùng với giấy tờ giả mạo
38 để cho việc thay ngôi đổi chủ có vẻ danh chính ngôn thuận .

VSTK - 295
1 Tuy nhiên, dù có khác nhau về phƣơng pháp áp dụng nhƣng cả hai đều
2 gặt hái đƣợc kết quả giống nhau: trƣớc đây họ nhà Lý cƣớp ngôi họ
3 nhà tiền Lê, bây giờ đến lƣợt họ nhà Trần cƣớp ngôi họ nhà Lý, cả hai
4 trƣờng hợp đều cá mè một lứa. cả hai đều vừa ăn cƣớp vừa đánh trống
5 la làng.

II/ Về việc Trần Thủ Độ âm mƣu giết Lý Huệ Tông :

6 Đây là một hành động ném đá giấu tay bẩn thỉu ác độc. Sử cũ kể lại
7 rằng Lý Huệ Tông tự mình treo cổ sau vƣờn chùa Chân Giáo. Có thật
8 nhƣ thế hay không?
9 Có những chi tiết sau đây rất đáng nghi ngờ :
10 1./ Việc Trần Thủ Độ sai ngƣời đem hƣơng hoa đến chùa Chân Giáo
11 dâng biếu để gọi Lý Huệ Tông về triều gặp quan thƣợng phụ (tức gặp
12 Trần Thủ Độ);
13 2./ Những lời nói cuối cùng của Lý Huệ Tông trƣớc khi chết: "Ta
14 tụng kinh xong sẽ tự tử ."và lời nguyền rủa: "Thiên hạ nhà ta đã về tay
15 ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, mai sau con cháu nhà
16 ngươi cũng phải chịu như thế ".
17 3./ Việc Trần Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, rồi khoét
18 tƣờng thành phía sau làm cửa (ngƣời bấy giờ gọi là cửa khoét) đƣa xác
19 Lý Huệ Tông đến phƣờng Yên Hoa để hoả thiêu.

*Về điểm nghi ngờ thứ nhứt :

20 Trần Thủ Độ cho ngƣời mang hƣơng quả đến chùa Chân Giáo gọi
21 Lý Huệ Tông đi đâu và với mục đích gì? Đấy chỉ là một trò viết sử láo
22 theo lệnh của Thủ Độ. Những tên nầy sự thật là những tên đao phủ thủ
23 đi theo Thủ Độ để thi hành việc bức tử Lý Huệ Tông. Hƣơng quả của
24 chúng mang theo chính là những phƣơng tiện đặc biệt dùng để sát hại
25 Huệ Tông. Những phƣơng tiện sát nhân đó là gì? Theo nhiều truyện cũ
26 của Trung Quốc viết về những án tích trong cung đình thì những hàng
27 vua chúa hoặc vƣơng tộc khi bị xử tội chết thì đƣợc ban cho một ân huệ
28 đặc biệt là ngƣời bị tuyên án tử hình có thể lựa chọn một trong ba cách
29 thi hành bản án tử hình: một là tự uống thuốc độc, hai là tự tận bằng
30 dao ngắn, ba là dùng vải khăn dài để thắt cổ.
31 Riêng cách thức thứ 3 thì cần có hai ngƣời đứng ra để kéo khổ vải
32 dùng để thắt cổ tử tội theo thế đứng hoặc quỳ. Trong trƣờng hợp tử tội
33 không chịu lựa chọn thì những kẻ có nhiệm vụ thi hành bản án sẽ dùng
34 phƣơng cách thứ ba.
35 Rất có thể Trần Thủ Độ đã xử dụng cách dùng vải thắt cổ để giết Lý
36 Huệ Tông rồi treo xác lên cây phía sau chùa để phao tin là Lý Huệ
37 Tông tự thắt cổ.
*Về điểm nghi ngờ thứ hai:

VSTK - 296
1 Những lời nói cuối cùng của Lý Huệ Tông nhất định phải hƣớng về
2 một kẻ đang có mặt ở chùa lúc đó. Câu nói: "Ta tụng kinh xong sẽ tự
3 tử" là một lời yêu cầu của ngƣời sắp bị giết chết nói với những kẻ sát
4 nhân nhƣng không đƣợc chấp nhận .
5 Câu nguyền rủa nhất định là phải hƣớng về phía kẻ chủ mƣu hiện có
6 mặt ở đó tức là Trần Thủ Độ và kẻ gian tà nầy liền áp dụng ngay cách
7 thi hành hình phạt thứ ba để thắt cổ Lý Huệ Tông ngay trƣớc bệ thờ
8 Phật bên trong chùa.
*Về điểm nghi ngờ thứ ba:
9 Nếu thực sự Lý Huệ Tông tự treo cổ thì cớ sao Trần Thủ Độ phải
10 dùng cách thức trèo tƣờng khoét vách của bọn đầu trộm đuôi cƣớp, lén
11 lút giựt xác của Lý Huệ Tông mang đi ra ngoài thành để hoả thiêu ngõ
12 hầu phi tang chứng tích giết ngƣời của mình. Còn nhƣ bọn tay sai của
13 Thủ Độ đƣợc đƣa tới để than khóc cũng chỉ là một màn đạo diễn rẻ tiền
14 của Thủ Độ, những giọt nƣớc mắt cá sấu nhằm đánh lừa những thế hệ
15 mai sau.
16 Ngô Sĩ Liên nói: ". . .Đã lấy nước của người ta, lại giết vua của
17 người ta thì thực là quá bất nhân ác độc. . .Thủ Độ coi việc đó là hết
18 lòng trung, lo việc nước, nhưng có biết đâu thiên hạ đời sau đều vạch
19 mặt chỉ tên gọi là giặc giết vua, huống chi còn làm thói chó lợn
20 (ĐVSKTT/BK.5/2b,3a) (chỉ việc Trần Thủ Độ đã giết Huệ Tông lại lấy
21 vợ của Huệ Tông, đã thế ngƣời đàn bà nầy còn là chị của Trần Thủ Độ
22 nữa)".
23 Tự Đức có lời phê nhƣ sau: "Thủ Độ là công thần nhà Trần, nhưng là tội
24 nhân nhà Lý. Huống chi làm những nết xấu như chó lợn, bụng dạ độc ác
25 như hùm beo, dựng nước kiểu như thế thì làm sao bền vững cho được?
26 Nhưng chẳng qua cũng là do nhà Lý tự chuốc lấy tai họa thì còn trách
27 cứ vào đâu được nữa!". (CM/CB.6/3)

III/. Về những trò dâm loạn vô luân trong dòng họ nhà Trần:

28 Phan Phú Tiên nói: "Cương thường là luân lý lớn nhất của loài
29 người. Trần Thái Tông là vua dựng nghiệp, cần phải lập nên khuôn
30 phép để lại đời sau, thế mà lại nghe theo mưu gian của Trần Thủ Độ,
31 lấy vợ của anh mình để lập hoàng hậu, như vậy có phải là khơi đầu cho
32 mầm móng dâm loạn chăng? Về sau các vua nhà Trần, anh em con
33 chú con bác lấy lẫn nhau, tệ trạng đó lưu truyền về sau đến mức anh
34 chị em ruột một nhà làm chuyện thô bỉ dâm loạn với nhau như Trần Dụ
35 Tông chẳng hạn, tất cả đều do Trần Thái Tông khởi xướng ra từ
36 đầu"(LTHCLC/ Lễ nghi Chí/Phan Huy Chú).
37 Phan Huy Chú cũng có nhận xét nhƣ sau :"Việc vợ chồng của các
38 triều đại trước phần nhiều không được chính đáng chẳng hạn như nhà
39 Đinh nhà Lý thì lập nhiều hoàng hậu, Nhà Trần thì dòng họ anh chị em

VSTK - 297
1 lấy lẫn nhau trái cả luân thường, nhơ cả điển lễ, để lại tiếng thị phi
2 trong sử sách "(LTHCLC/Lễ nghi Chí /nhƣ trên).
3 Ngô Sĩ Liên và Tự Đức thì xem những kẻ bày ra những trò dâm loạn
4 đó thuộc về loài "chó lợn".
5 Lời giải của Hoàng Xuân Hãn trong Đại Nam Quốc Sử Diễn ca
6 viết: "Trong thi ca kể nhiều chuyện tỏ rằng nhà Trần trong họ lấy lẫn
7 nhau; đời sau cho thế là loạn luân. Một phần cũng là vì Trần Thủ Độ là
8 một người gian hùng, không ngại gì mà không làm miễn là xây vững
9 được cơ nghiệp nhà họ Trần. Nhưng ta không nên quên rằng hồi ấy
10 phong tục có lẽ khác với phong tục thế kỷ 19 nhiều".
11 Ngày nay, khi đọc lại những trang sử viết về sự khởi đầu vƣơng
12 nghiệp của nhà họ Trần, ngƣời ta không khỏi tặc lƣỡi, lắc đầu nghẹn lời
13 không biết phải dùng danh từ xấu xa tồi tệ nào khác để gọi đám lƣu
14 manh đầu xỏ của họ nhà Trần đó.

VSTK - 298
TRẦN THÁI TÔNG (tiếp theo)

1 Ban cho Phùng Tá Chu chức tri phủ Nghệ An14, đƣợc
2 quyền ban tƣớc cho ngƣời khác. Tá Chu trƣớc kia là quan
3 nhà Lý, nay về bè đảng với họ nhà Trần nên đƣợc thƣởng
4 công nhƣ thế.
5 Đinh Hợi Kiến Trung năm thứ 3 (1227), hợp các quan
6 làm lễ tuyên thệ ở đền Đồng Cổ15.
7 Mậu Tý, Kiến Trung năm thứ 4 (1228), tháng Giêng, ban
8 cho em trai tên là Nhật Hiệu tƣớc vƣơng16.
9 Tháng 2, thi lại viên17.
10 Tháng 8, ban cho anh là Trần Liễu chức thái úy18. Kiểm
11 kê nhân khẩu19 tỉnh Thanh Hóa.
12 Hoài Đạo vƣơng Nguyễn Nộn đánh và tiêu diệt Đoàn
13 Thƣợng ở Hồng Châu20 uy thế lẫy lừng.Trần Thủ Độ lo lắng,
14 xúi Trần Thái Tông phong chức thêm cho Nộn tƣớc Đạo
15 Hiếu vũ vƣơng và đem Ngoạn Thiềm công chúa gả cho để
16 ngầm theo dõi nhƣng Nộn không bị rơi vào mƣu bẫy của
17 Thủ Độ.
18 Kỷ Sửu, Kiến Trung năm thứ 5 (1229), tháng 3, Nguyễn
19 Nộn chết21, loạn Hồng Châu không còn, các lãnh địa do
20 Nguyễn Nộn cai quản nay trở lại dƣới quyền kiểm soát của
21 nhà Trần.
22 Gửi sứ sang trung Hoa để báo cáo với nhà Tống việc lên
23 ngôi của Trần Thái Tông.
24 Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 6 (1230), tháng 3, khảo
25 xét các luật lệ của triều trƣớc để định thể lệ làm thành sách
26 Quốc Triều Thông Chế đồng thời cũng sửa đổi và viết lại
27 sách Hình luật đã có từ những triều trƣớc. Hai công tác này
28 đƣợc viết thành 20 quyển22.
29 Tiếp theo lại sai các quan chép các công việc về lễ nghi
30 của triều nhà Lý, gồm 10 quyển và gọi là Kiến Trung
31 thƣờng lễ23.
32 Tháng 9, mẹ đẻ của Trần Thái Tông là Quốc Thánh hoàng
33 thái hậu họ Lê mất, đƣợc truy tôn là Thuận Từ hoàng thái
34 hậu.

VSTK - 299
1 Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7 (1231), đào vét sông
2 Trầm và sông Hào24 từ phủ Thanh Hoá đến giáp ranh phía
3 Nam Diễn Châu.
4 Nhâm Thìn, Kiến Trung năm thứ 8 (1232), tháng Giêng,
5 phong tƣớc Hoài Đức vƣơng cho đứa con rơi của Trần
6 Thƣợng tên là Bà Liệt25.
7 Tháng 2, thi Thái học sinh26. Trong khoa thi nầy có Trần
8 Chu Phổ đỗ đệ tam giáp.
9 Tháng 8, gió bão lớn gây bệnh dịch trong dân chúng.
10 Trần Thủ Độ ám sát27 hết gia tộc còn lại của của nhà Lý.
11 Quý Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 2 (1233), lũ lụt
12 lớn.
13 Giáp Ngọ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 3 (1234), cha
14 của Trần Thái Tông là Trần Thƣợng chết. Trần Liễu đƣợc
15 phong chức Hiển hoàng phụ chính thay thế vào chỗ của
16 Trần Thƣợng.
CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN
17 14 Phùng Tá Chu đƣợc quyền ban tƣớc cho ngƣời khác: Phùng Tá
18 Chu là một hạng quan lại không trung thành của triều nhà Lý đã hùa
19 theo làm tay sai cho Trần Thủ Độ và đƣợc ban chức tri phủ Nghệ An,
20 đƣợc Trần Thủ Độ cho phép tuyển dụng những loại nhân viên làm việc
21 từ bậc xá nhân trở xuống (giống nhƣ chức vụ thƣ ký ngày nay có nhiệm
22 vụ thảo công văn giấy tờ theo lệnh và chỉ thị của cấp trên).
23 15 Tuyên thệ ở đền Đồng Cổ (@): Việc nầy bắt chƣớc theo lệ cũ của
24 nhà Lý: Nhà Lý và nhà Trần đều đoạt ngôi của ngƣời khác, không có
25 chính nghĩa, e sợ quan quân và dân chúng không ủng hộ cho nên mới
26 bày ra trò ép buộc uống máu ăn thề trung thành với chế độ mới.
27 ĐVSKTT và KDVSTGCM viết lời thề đó nhƣ sau: "Làm tôi tận trung,
28 làm quan trong sạch, nếu ai trái lời thề nầy, thần minh sẽ giết chết ".
29 (@) Đền Đồng Cổ: nay vẫn còn ở làng Đông, vùng các làng Bƣởi, thuộc
30 quận Tây Hồ, Hà Nội.
31 16 Ban tƣớc vƣơng cho Nhật Hiệu: Nhật Hiệu là em cùng mẹ với Trần
32 Thái Tông.
33 17 Thi lại viên: thi cách thức thảo công văn giấy tờ. Ai trúng tuyển,
34 đƣợc cho vào làm việc ở các sảnh hoặc viện; quan chế nhà Trần có
35 Trung thƣ sảnh, Môn hạ sảnh, Hàn lâm viện, Thẩm hình viện, Thái y
36 viện và Thái chúc viện.
37 18 Thái úy: Trƣớc kia Trần Liễu lấy công chúa Lý Thuận Thiên đƣợc
38 phong Phụng Kiền Vƣơng, nay phong là Thái úy; chức nầy có quyền
39 hành cao hơn các hàng vƣơng tƣớc vì còn đƣợc kiêm nhiệm chức vụ tể

VSTK - 300
1 tƣớng phụ tá vua cai trị việc nƣớc.
2 19 Kiểm kê và xếp loại nhân khẩu: sử cũ gọi là đơn số, tức là khai báo
3 số ngƣời và xếp theo từng loại nhƣ: quan, quân, tùy tùng, tạp lƣu, trai
4 tráng, già yếu, tật bệnh tạm trú, ngƣời dời đổi phiêu bạt không có chỗ ở
5 nhất định. . .
6 20 Diệt Đoàn Thƣợng ở Hồng Châu: Đoàn Thƣợng chiếm cứ huyện
7 Đƣờng Hào thuộc Hồng Châu, đào hào đắp lũy ở xã Yên Nhân để
8 phòng thủ. Nguyễn Nộn đem quân đến dẹp tan đƣợc. Huyện Đƣờng
9 Hào bây giờ là huyện Mỹ Văn tỉnh Hƣng Yên còn xã Yên Nhân nay là
10 thị trấn Bần Yên Nhân thuộc Mỹ Văn tỉnh Hƣng Yên. Vùng nầy nổi
11 tiếng về nghề làm tƣơng thƣờng gọi là tƣơng bần. Ở đây có rất nhiều
12 làng thờ Đoàn Thƣợng, và tôn xƣng Thƣợng là Đông Hải vƣơng.
13 21 Nguyễn Nộn chết: ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết rằng Nguyễn
14 Nộn vì kiêu căng, chơi bời phóng túng quá độ nên mắc bệnh nặng. Nộn
15 dự định về hàng phục nhà Trần nhƣng chƣa kịp thì chết.
16 22 Sách Quốc Triều Thông Chế: LTHCLC/ Phan Huy Chú cho biết là
17 bộ sách nầy nay không còn. Do đó có thể suy rằng đoạn sử về Triều đại
18 nhà Trần đã đƣợc viết lại sau giai đoạn giặc nhà Minh vơ vét gom góp
19 nhiều sách vở, tài liệu hiện có dƣới triều đại nhà Trần đem về Tàu.
20 Trong LTHCLC, những sách sử cho đến thời đại Trần Thái Tông mà
21 Phan Huy Chú ghi nay không còn gồm có :
22 Lý triều ngọc điệp: soạn vào thời Lý Thái Tổ năm thứ 17 (1026) . . .
23 . . . . 1 quyển.
24 Hình thư: Lý Thái Tông (1039), sai trung thƣ sửa định, tham chƣớc
25 sự nghị hiện thời, chia từng loại, chép từng điều, ban khắp trong nƣớc. .
26 .. 3 quyển.
27 Nam Bắc phiên giới địa đồ: Lý Anh Tông (1172), tuần du các cửa
28 biển, vẽ bản đồ hình thể sông núi và chép phong tục sản vật. . . . . . . .
29 1 quyển.
30 Quốc triều thông chế, Trần Thái Tông (1230) . . . . . . . . . . . . . .
31 20 quyển (Trong số 20 quyển nầy có thể bao gồm luôn cả 3 quyển Hình
32 thƣ của triều nhà Lý đã đƣợc tu soạn lại dƣới triều Trần Thái Tông mà
33 trong LTHCLC/ Phan Huy Chú gọi là Quốc triều hình Luật. Còn theo
34 Trần Trọng Kim trong VNSL thì bộ sách Quốc triều thông chế chỉ có
35 10 quyển và 1 quyển Hình luật riêng biệt).
36 Kiến trung thường lễ: Trần Thái Tông (1230), chép các công việc về
37 nghi lễ của đƣơng triều, định làm lễ thƣờng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
38 . . . . . . . . . . . 10 quyển (Bộ sách nầy không đƣợc đề cập tới trong
39 KĐVSTGCM ): có thể theo bộ sử nầy thì 10 quyển của bộ Kiến trung
40 thƣờng lễ đã nằm trong số 20 quyển của bộ Quốc triều thông chế rồi vì
41 thế không đề cập tới nữa; về sau nầy Trần Trọng Kim cũng theo chủ
42 trƣơng của KĐVSTGCM cho nên đã viết rằng Quốc triều thông lễ hay
43 thông chế gồm có 10 quyển và Thƣờng lễ niên hiệu Kiến Trung gồm có
44 10 quyển).

VSTK - 301
1 Qua các sự ghi chép khác biệt vừa kể, có thể suy luận nhƣ sau: vì
2 trong cổ luật có sự hỗn đồng giữa hai phạm vi pháp luật và hình luật
3 cho nên thƣờng chép chung hai lãnh vực nầy vào làm một. Vì thế, nếu
4 theo cách chép của ĐVSKTT và LTHCLC thì bộ Quốc triều thông chế
5 có thể chia tách ra nhƣ sau :
6 Hình luật: 3 quyển, (đƣợc tu soạn từ 3 quyển Hình thƣ của triều nhà
7 Lý).
8 Pháp luật hay lễ pháp: 10 quyển,
9 Thể lệ về hình phạt: 7 quyển.
10 23 Kiến Trung thƣờng lễ: xem chú giải (22) phần trên.
11 24 Sông Trầm và sông Hào: thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia),
12 Thanh Hóa.
13 25 Bà Liệt: tức là thôn Bà Liệt. Bà Liệt là tên gọi đặt cho đứa con rơi
14 của Trần Thừa sinh ra ở thôn Bà Liệt, huyện Tây Chân (hay Nam Chân,
15 nay thuộc tỉnh Nam Hà).
16 26 Thái học sinh: tức là khoa tiến sĩ. Ngày nay chữ tiến sĩ thƣờng đƣợc
17 dùng để gọi cấp bằng đốc tờ (docteur/doctor) chuyên khoa bậc đại học.
18 Thời nhà Trần, ngƣời thi đỗ tiến sĩ thì gọi là Thái học sinh và đƣợc xếp
19 thành 3 cấp bậc đỗ cao thấp: lúc đầu gọi là tam giáp, sau đổi gọi là tam
20 khôi. Khoa thi nầy Trƣơng Hanh, Lƣu Diễm đỗ đệ nhất giáp; Đặng
21 Diễn, Trịnh Phẫu đỗ đệ nhị giáp; Trần Chu Phổ đỗ đệ tam giáp.
22 27 Thủ Độ ám sát hết vƣơng tộc nhà Lý: Thủ Độ ngầm đào hố sâu rồi
23 giựt nhà sập chôn sống hết vƣơng tộc nhà Lý để trừ nguy hại về sau.

TRẦN THÁI TÔNG (tiếp theo)

24 Phong Thủ Độ làm Thống quốc thái sƣ. Gia phong cho
25 Phùng Tá Chu tƣớc Hƣng Nhân vƣơng; bổ dụng Phạm Kim
26 Ân làm Thái phó kèm theo tƣớc Bảo trung hầu. Hai ngƣời
27 nầy xƣa làm quan nhà họ Lý, nay phản chủ đi theo giúp nhà
28 họ Trần tiếm đoạt ngôi vua của nhà Lý.
29 Bính Thân, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 5 (1236),
30 tháng Giêng, định phẩm hàm28 cho các quan chức.
31 28 Phẩm hàm: là một tƣớc hiệu ban kèm theo một chức quan chính
32 thức. Những ngƣời thuộc bà con họ hàng nhà vua đƣợc cho vào làm
33 quan tại triều hoặc là các hàng quan chức nhƣ Thái sƣ, Thái phó, Thái
34 bảo, Thái úy, Tƣ đồ, tả hữu tƣớng quốc, đều đƣợc kèm thêm chức hàm
35 Kiểm hiệu đạc tiến nghi đồng Tam ty bình chƣơng sự, tức là ngang
36 hàng với chức tể tƣớng.

VSTK - 302
KHẢO LUẬN :

I/ Về cái chết của Nguyễn Nộn :

1 ĐVSKTT viết: "Sau khi chiếm nhập quân của Đoàn Thượng,
2 Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng vương, chè chén, chơi bời bừa bãi
3 và cũng hiểu rằng mình không thể nào chống đối với nhà Trần được
4 cho nên dự định tháng 10 sẽ vào chầu song còn do dự chưa quyết. Đến
5 khi đau nặng, vua sai nội nhân tới hỏi thăm, Nộn cố gượng ăn cơm, phi
6 ngựa để tỏ ra còn khỏe mạnh, không bao lâu thì chết.. . .Sau khi Nộn
7 chết, thiên hạ lại quy về một mối"(BK/Q.5/5b). KĐVSTGCM cũng
8 chép giống nhƣ thế (CB/6/8). Chuyện nầy cũng giống nhƣ chuyện Trần
9 Thủ Độ mƣu giết Lý Huệ Tông: lần nầy dùng sắc đẹp đàn bà để làm
10 gián điệp và tiêu phá sức lực của Nguyễn Nộn, kế đến giả trá đƣa bộ hạ
11 tới thăm hỏi để ngầm hạ độc giết chết rồi bảo rằng Nộn vì chơi bời quá
12 độ cho nên mắc bệnh mà chết. Kẻ có phận sự ghi chép những biến cố
13 lịch sử trong thời điểm nầy có thể đã bóp méo sự thật và viết láo để bịt
14 miệng dƣ luận.

II/ Về việc Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý:

15 Trong ĐVSKTT, ở đoạn viết về việc làm ác độc nầy của Trần Thủ
16 Độ thấy có một ghi chú nhƣ sau: (Xét thời Trần Anh Tông còn có người
17 họ Lý làm tướng, hơn nữa Phan Phú Tiên không ghi lại, việc nầy chưa
18 chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây).
19 Từ sự ghi chú vừa kể, có thể suy luận rằng cuộc giết hại lần nầy của
20 Thủ Độ chỉ nhằm tiêu diệt những ngƣời có họ hàng xa gần với nhà Lý
21 chứ không phải bất cứ ai mang họ Lý đều bị tiêu diệt hết.

TRẦN THÁI TÔNG (tiếp theo)

22 Tháng 6 (1236), Trần Liễu cƣỡng dâm một ngƣời phi


23 cũ1 của triều Lý ở cung Lệ Thiên2, việc báo cáo lên trên,
24 Liễu bị giáng truất chức Hiển Hoàng.
25 Tháng 10, sứ nhà Tống sang phong cho Trần Thái
26 Tông tƣớc An Nam Quốc vƣơng3.

VSTK - 303
1 Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 6 (1237),
2 tháng Giêng, ấn định cách thức về việc lập chúc thƣ,
3 văn khế4 cầm cố mua bán ruộng đất hoặc vay mƣợn .
4 Thủ Độ và Trần thị Dung âm mƣu bắt ép vợ của Trần
5 Liễu là Lý Thuận Thiên đã có thai 3 tháng phải lấy Trần
6 Thái Tông và truất giáng hoàng hậu Lý Chiêu Thánh
7 xuống hàng công chúa5.
8 Khoảng tháng 7 năm Đinh Dậu (tháng 9 năm 1237
9 Dƣơng lịch), Lý Thuận Thiên sinh con trai đặt tên là
10 Trần Quốc Khang6.
11 Trần Liễu tức giận, tụ tập bè đảng ở vùng sông Cái
12 nổi loạn. Trần Thủ Độ toan giết Trần Liễu nhƣng Trần
13 Thái Tông xin giảng hòa, dụ Trần Liễu bãi binh rồi cấp
14 thái ấp và phong cho làm An sinh vƣơng. Quân dân theo
15 Liễu làm loạn ở vùng sông Cái đều bị Thủ Độ giết sạch.
16 Mậu Tuất, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 7 (1238),
17 tháng 2, Trần Thủ Độ đích thân kiểm kê nhân khẩu phủ
18 Thanh Hóa7.
19 Kỷ Hợi, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 8 (1239),
20 tháng Giêng, sai Phùng Tá Chu về hƣơng Tức Mặc xây
21 hành cung8.
22 Tháng 2, thi Thái học sinh.
23 Tháng 3, xếp hạng thanh niên khỏe mạnh thành 3 bậc
24 thƣợng, trung, hạ để bắt lính.
25 Canh Tý, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 9 (1240),
26 tháng Giêng, lại sai Phùng Tá Chu dựng 5 sở hành cung
27 ở Thanh Hóa.
28 Tháng 9, con đích trƣởng của Trần Thái Tông và Lý
29 Thuận Thiên tên là Hoảng sinh, lập làm Đông Cung thái
30 tử9.
31 Tân Sửu, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 10 (1241),
32 tháng 9, em cùng mẹ với Hoảng là Trần Quang Khải
33 sinh10.
34 Nhâm Dần, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11
35 (1242), tháng 2, cắt đặt, chia những vùng lãnh thổ trọng

VSTK - 304
1 yếu trong nƣớc thành 10 lộ11; mỗi lộ đặt An sứ và Trấn
2 sứ, mỗi chức gồm có một chánh và một phó, giữ việc
3 cai trị: trấn sứ giữ việc an ninh, quân sự; an sứ giữ việc
4 an sinh, hành chánh, hộ tịch. Ngoài ra trong thời nầy lại
5 còn có các phủ, châu, trấn nhƣ phủ Nghệ An, phủ Lâm
6 Bình11bis, trấn Thái Nguyên, trấn Quảng Nam. . .
7 Ở cấp xã thì có xã trƣởng, xã giám và quan tƣ xã:
8 kiêm nhiệm nhiều xã gọi là quan đại tƣ xã do quan chức
9 từ hàng ngũ phẩm trở lên đảm nhiệm, từ lục phẩm trở
10 xuống gọi là quan tiểu tƣ xã; đảm trách việc trị an một
11 xã thì có xã trƣởng, xã giám cùng với quan tƣ xã giữ
12 việc hành chánh hộ tịch. Kiểm kê hộ khẩu và ấn định
13 thuế nhân đinh12 và thuế ruộng13.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

14 1 Cƣỡng dâm một ngƣời phi cũ của triều Lý: ở đây lại thêm một kiểu
15 viết luồn lách gian xảo nhằm che đậy một điều xấu xa nhơ nhớp khác
16 của đám nhà họ Trần. Xét từ lúc xảy ra câu chuyện hãm hiếp quái đản
17 nầy và ngƣợc thời gian gần nhất trở về trƣớc ngƣời ta thấy ngƣời phi cũ
18 của triều Lý có thể là :
19  Nguyên phi An Toàn họ Đàm, vợ của Lý Cao Tông
20  Nguyên phi Trần thị, là vợ của Lý Huệ Tông, bỏ Lý Huệ Tông
21 để lấy em trai mình là Trần Thủ Độ
22 2 Cung Lệ Thiên: đã có từ đời Lý Thần Tông (1128), dùng làm cung
23 dinh hoàng hậu và các ngƣời phi của vua Lý Thần Tông. Hoàng hậu
24 cung Lệ Thiên lúc đó là Lệ Thiên hoàng hậu họ Lý, con gái của điện
25 tiền chỉ huy sứ Lý Sơn. Sau khi chuyện hiếp dâm nhơ nhớp xảy ra,
26 Trần Thủ Độ đã đổi tên cung Lệ Thiên thành cung Thƣởng Xuân đồng
27 thời cũng giáng chức Trần Liễu xuống làm Hoài vƣơng.
28 3 Nhà Tống phong tƣớc An Nam quốc vƣơng cho Trần Thái Tông:
29 việc phong tƣớc nầy ĐVSKTT chép vào năm 1229, nhƣng
30 KĐVSTGCM đã theo sách Cƣơng Mục tục biên của Trung Hoa để
31 chép vào năm 1236. Có thể là năm 1229 nhà Trần mới tiếm ngôi nhà
32 Lý cử ngƣời sang Tống để xin thụ phong nhƣng mãi đến năm 1236 nhà
33 Tống mới chịu tấn phong cho Trần Thái Tông.
34 4 Ấn định thể thức lập văn tự khế ƣớc: trong thể thức nầy, ngƣời làm
35 chứng phải in dấu tay ở ba dòng đầu văn tự và ngƣời bán in dấu tay ở 4
36 dòng cuối văn tự.
37 5 Truất giáng hoàng hậu Lý Chiêu Thánh: bấy giờ Chiêu Thánh

VSTK - 305
1 chƣa có con trai với Trần Thái Tông mà vợ của Trần Liễu là Lý Thuận
2 Thiên (chị ruột của Chiêu Thánh) đã có thai Quốc Khang đƣợc 3 tháng.
3 Thủ Độ cùng Thiên Cực tức Trần thị (Dung) bắt ép Trần Thái Tông
4 mạo nhận lấy bào thai để phòng hờ cho việc nối ngôi về sau, vì thế mới
5 cƣỡng đoạt Lý Thuận Thiên đem vào cung bắt phải làm vợ của Trần
6 Thái Tông.
7 6 Trần Quốc Khang: con trai của Trần Liễu và Lý thị Thuận Thiên. Sử
8 cũ không chép rõ ngày sanh nhƣng có thể suy đoán ra đƣợc vì Thuận
9 Thiên mang thai Quốc Khang đƣợc 3 tháng kể từ tháng Giêng năm
10 Đinh Dậu, cộng thêm 6 tháng 10 ngày tiếp theo thì sinh ra Quốc Khang
11 tức là vào khoảng tháng 7 năm Đinh Dậu (hay vào khoảng tháng 9 năm
12 1237 dƣơng lịch).
13 7 Kiểm kê nhân khẩu phủ Thanh Hóa: về việc nầy, Ngô Thời Sĩ viết
14 trong VSTA nhƣ sau: "Năm Kiến Trung thứ 4 (1228) đã xét định trước
15 tịch Thanh Hóa, đến nay lại giao việc ấy cho Thủ Độ đích thân đứng ra
16 làm. Ngoài ra chỉ có một lần sai Phùng Tá Chu duyệt các danh sắc ở
17 Nghệ An, còn số dân đinh các lộ khác đến năm Thiên Ứng Chính Bình
18 thứ 12 (1243) mới làm. Việc làm trước tịch duy chỉ có Thanh Hóa là
19 làm trước và tường tận hơn và do một quan thân tín đảm trách. Như
20 vậy cho tới cuối triều Lý việc sắp xếp trướng tịch ở Thanh, Nghệ vẫn
21 còn quá lỏng lẻo cho nên đến nay mới phải làm đi làm lại cho thật cẩn
22 thận ?"
23 8 Hành Cung: cung điện xây dựng ở địa phƣơng cho vua ở mỗi khi vua
24 rời kinh đô đi thanh sát (di hành hay tuần du).
25 9 Đông cung thái tử Hoảng: theo sử cũ thì đứa con nầy mới đúng là
26 máu mủ thực sự của Trần Thái Tông với Lý Thuận Thiên.
27 10 Trần Quang Khải: em trai cùng mẹ cùng cha với Hoảng. Sau Trần
28 Quang Khải còn có nhiều em trai, em gái khác nữa. Điểm cần lƣu ý là
29 bản Trần triều thế phổ trong VNSL/Trần Trọng Kim không có tên Trần
30 Nhật Vĩnh và ngƣợc lại trong ĐVSKTT không có tên Trần Nhật Duật.
31 Nhƣ vậy có thể 2 ngƣời nầy cũng là một ngƣời chăng? Tuy nhiên, theo
32 LTHCLC của Phan Huy Chú thì Trần Nhật Duật là ngƣời con thứ 6 của
33 Trần Thái Tông, tức là phải bao gồm và kể từ Quốc Khang và Trần
34 Nhật Vĩnh; nhƣ thế thì Trần Nhật Duật mới đúng là ngƣời con thứ 6
35 của Trần Thái Tông. Một điểm đáng chú ý ở đây là Lý Thuận Thiên từ
36 khi làm vợ Trần Thái Tông đã sinh hạ rất nhiều con trai, hầu nhƣ mỗi
37 năm đều có sinh con.
38 11 Lộ: ĐVSKTT chép là 12 lộ. LTHCLC/Địa dƣ chí của Phan Huy Chú
39 cũng gọi là lộ nhƣng chỉ có 10 lộ. Sách An Nam chí lƣợc của Lê Tắc kê
40 chép 15 lộ nhƣng chỉ có 6 lộ là trùng hợp với 6 trong 12 lộ kê chép
41 trong KDTGVSCM.
42 KĐVSTGCM kê ra 12 lộ nhƣng lại chua rằng: "sử cũ không chép
43 rõ, nhưng căn cứ vào những tài liệu ghi chép từ trước. . .", những tài
44 liệu từ trƣớc là những tài liệu nào thì KDVSTGCM không nói. Có một

VSTK - 306
1 điều cần nói rõ ở đây là những ngƣời làm ra KDVSTGCM thƣờng lấy
2 sử sách tài liệu của Trung Hoa để tham chiếu và trong rất nhiều trƣờng
3 hợp đã dựa và viết theo ý kiến của ngƣời Hoa. Ở đây, có thể
4 KDVSTGCM đã dựa theo An Nam Chí lƣợc của Lê Tắc, một kẻ theo
5 giặc Nguyên chạy sang sống ở bên Trung Hoa, trở thành ngƣời Hoa
6 viết sử An Nam.
7 Theo Phan Huy Chú thì 10 lộ vào năm 1242, đời Trần Thái Tông là:
8 lộ Thiên Trường, lộ Hồng, lộ Khoái, lộ Quốc Oai, lộ Hải Đông, lộ Bắc
9 Giang, lộ Hoàng Giang, lộ Lạng Giang, lộ Thanh Hóa, lộ Diễn Châu.
10 ngoài ra còn có phủ, châu, trấn nhƣ phủ Nghệ an, phủ Tân
11 Bình11bis,châu Hoá@,trấn Thái Nguyên, trấn Quảng Nam ...
12 11bis Phủ Lâm Bình: KĐVSTGCM và LTHCLC đều viết là Tân Bình
13 nhƣng tên Tân Bình chỉ có vào cuối đời Trần và nằm trong phía Bắc
14 trấn Thuận Hóa. Trƣớc đó phủ Tân Bình gọi là phủ Lâm Bình.
15 @ Châu Hóa: vào năm 1242 chƣa có châu Hóa bởi vì mãi đến năm
16 1306 Trần Anh Tông mới đổi tên châu Ô thành Thuận châu và châu Lý
17 thành Hóa châu.(THCLC/Địa dƣ chí/Thuận Hóa)
18 12 Thuế Nhân đinh: một mẫu nộp một quan tiền, ba mẫu hay 4 mẫu
19 nộp 2 quan, từ 5 mẫu trở lên nộp 3 quan. (Thời Pháp thuộc cũng có loại
20 thuế tƣơng tựa gọi là thuế thân rồi về sau đổi gọi là thuế lợi tức cá
21 nhân).
22 13 Thuế ruộng: mỗi mẫu nộp 100 thăng lúa. ai không có ruộng đất thì
23 đƣợc miễn nộp thuế. (Thời Pháp thuộc gọi là thuế điền thổ hay thuế
24 thổ trạch).

KHẢO LUẬN
 Về việc Trần Liễu hiếp dâm vợ của cha mình :
25 Cho đến năm 1236, năm xảy ra câu chuyện hãm hiếp của Trần Liễu,
26 có thể nói rằng chỉ có nhan sắc 2 ngƣời phi cũ của triều Lý là có khả
27 năng khơi động đƣợc bản tính dâm dục của dòng họ nhà Trần nói
28 chung và Trần Liễu nói riêng. Hai ngƣời phi đó là :
29 *Nguyên phi An Toàn họ Đàm, vợ của Lý Cao Tông. Ngƣời đàn bà
30 nầy có thể là quá già so với tuổi của Trần Liễu.
31 *Nguyên phi Trần thị (Dung) vợ của Lý Huệ Tông, rồi bỏ Lý Huệ
32 Tông để lấy em trai mình là Trần Thủ Độ.
33 Tuy nhiên, nếu đọc lại sử cố viết về năm 1226 thì thấy rằng, sau khi
34 ám sát Lý Huệ Tông,Thủ Độ đã đƣa các cung nhân và con gái họ hàng
35 của Lý Huệ Tông đem gả cho các tù trƣởng Mán Mƣờng, nhất định
36 trong số đó có cả vợ của Lý Cao Tông là hoàng hậu An Toàn họ Đàm.
37 Kế đến, năm 1231, Thủ Độ lại tru diệt hết tôn thất nhà Lý bằng cách
38 chôn sống. Nhƣ vậy, chẳng còn ai gọi là ngƣời phi cũ của nhà Lý sống
39 sót ngoại trừ một ngƣời phi cũ của Lý Huệ Tông: đó là nguyên phi Trần
40 thị (Dung).

VSTK - 307
1 Nhƣ vậy không có gì đáng ngạc nhiên mà cũng không có gì trở ngại
2 để suy luận rằng chuyện hiếp dâm nầy trong lịch sử rốt cuộc cũng chỉ là
3 một trò dâm loạn giữa kẻ bề trên thuộc hàng cô dì là Trần thị với kẻ bề
4 dƣới thuộc hàng con cháu là Trần Liễu. Trần thị đã không sợ dƣ luận,
5 thản nhiên lấy em trai mình làm chồng thì không lý do gì để y thị e dè
6 mà không làm trò dâm loạn với cháu trai mình là Trần Liễu. Câu
7 chuyện đổ bể và muốn tránh tai tiếng, Trần thị phải báo cáo láo lên
8 Trần Thủ Độ rằng Trần Liễu đã cƣỡng dâm mình mà sử cũ viết láo là
9 triều thần hặc tấu. Sau đó ta thấy có sự bất hòa giữa Trần Liễu với Trần
10 Thủ Độ và Trần Liễu suýt bị Thủ Độ đánh ghen chém chết nếu Trần
11 Liễu đã không đƣợc Trần Thái Tông che chở.

TRẦN THÁI TÔNG (tiếp theo)

12 Quý Mão, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 12 (1243),


13 tháng Giêng, ra lệnh cho các tỉnh lộ làm sổ hộ khẩu.
14 Giáp Thìn, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 13 (1244),
15 bổ nhiệm1 các quan văn đi làm việc ở các lộ2, phủ, châu.
16 Chức quan văn ở lộ là Thông phán3, ở phủ là Tri phủ, ở
17 Châu là Tào vận sứ4 chánh, phó .
18 Ấn định án phạt trong hình luật và pháp luật5. Định
19 cấp lƣơng bổng cho các hàng quan chức6.
20 Ất Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 14 (1245), lũ lụt,
21 mƣa bảo làm vỡ đê Long Đàm7.
22 Canh Ngọ, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 15 (1246),
23 tháng 2, xếp đặt tên gọi cho các hàng quân lấy từ các lộ
24 tỉnh8, để lập thành quân đội túc trực phòng vệ và đội
25 quân bảo vệ riêng của nhà vua9.
26 Tháng 7, ấn định hạn kỳ10 thi Đại tiến sĩ, mỗi 7 năm
27 thi một lần.
28 Đinh Mùi, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 16 (1247),
29 tháng 2, mở khoa thi tiến sĩ11 có xếp hạng đỗ cao thấp12.
30 Trong khóa thi nầy, Nguyễn Hiền đỗ tiến sĩ hạng nhất 13
31 Lê Văn Hƣu@ đỗ tiến sĩ hạng nhì14, Đặng Ma La đỗ tiến
32 sĩ hạng ba15 và 48 ngƣời khác đỗ tiến sĩ hạng thƣờng.

VSTK - 308
1 Tháng 8, mở khoa thi về 3 giáo phái có xếp hạng cao
2 thấp16.
3 Mậu Thân, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17
4 (1248), tháng 2, ra lệnh cho các tỉnh lộ đắp đê phòng lụt
5 theo kiểu quai vạc, từ đầu nguồn sông chạy suốt dọc ra
6 đến cửa biển17.
7 Tháng 4, dựng cầu Lâm Ba bắt ngang qua ao Ngoạn
8 Thiền ở chùa Chân Giáo.
9 Tháng 6, Lý Thuận Thiên chết và sau nầy đƣợc Trần
10 Thánh Tông truy tôn là Hiển Tử Thuận Thiên hoàng
11 thái hậu18.
12 Sai các đạo sĩ19 đi trấn yểm20 ma quỉ ở khắp các núi
13 sông.
14 Tân Hợi, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 18 (1251),
15 tháng Giêng, Trần Quốc21 Tuấn thông dâm với cô ruột
16 của mình là công chúa Thiên Thành22. Việc nầy vỡ lở
17 cho nên Trần Thái Tông đành phải mở tiệc yến trong
18 nội điện để gả cƣới Thiên Thành cho Quốc Tuấn. Đến
19 lúc rƣợu sai, vua quan đều nhảy múa mất cả thể thống,
20 tƣ cách, luôn cả quan ngự sử Trần Chu Phổ23 cũng
21 hƣởng ứng bằng cách vỗ tay nghêu ngao hát theo và lặp
22 đi lặp lại câu: "Sử quan ca rằng, sử quan ca rằng24".(
23 Ghi chú của VSTK: Sử quan ở đây tức là ngự sử quan chứ không phải
24 là quan chuyên lo về việc viết lịch sử).
25 Tháng 4, Trần Liễu chết.
26 Nhâm Tý, Nguyên Phong năm thứ 2 (1252), tháng
27 Giêng, Trần Thái Tông tự cầm quân đi đánh Chiêm
28 Thành25 tạm giao việc giữ kinh đô cho Nhật Hiệu26.
29 Tháng 12, rút quân về, bắt vợ của vua Chiêm27 và tù
30 binh đem về.
31 Năm Quý Sửu, Nguyên Phong năm thứ 3 (1253).
32 Tháng 4, thăng chức cho Nhật Hiệu làm thái úy.
33 Tháng 6, thiết lập viện Quốc học, đắp tƣợng Chu Công,
34 Khổng Tử, Mạnh Tử và họa hình 72 ngƣời học trò xuất
35 sắc nhất của Khổng Tử28 để thờ phụng.

VSTK - 309
1 Tháng 8, lập nhà giảng võ.
2 Tháng 9, cho phép Nho học sinh trong nƣớc đƣợc
3 vào trƣờng Quốc Tử để nghe giảng dạy về Kinh Thƣ29.
4 Giáp Dần, Nguyên Phong năm thứ 4 (1254), bán
5 ruộng công cho dân30 .
6 Ất Mão, Nguyên Phong năm thứ 5 (1255), tháng 2,
7 bồi đắp các đê sông ở phủ Thanh Hóa. Sau đó, những
8 tỉnh lộ nào có đê đập thì đặt ngƣời hằng năm chuyên lo
9 chăm sóc đê, ruộng đất, sông ngòi, đề phòng thủy tai,
10 hạn hán gọi là Hà đê chánh, phó sứ.
11 Trần Nhật Duật, con trai thứ 6 của Trần Thái Tông
12 sinh.
13 Bính Thìn, Nguyên Phong năm thứ 6 (1256), tổ chức
14 thi tiến sĩ ở kinh đô và ở các tỉnh lộ cùng một lúc31.
15 Vét sông Tô Lịch. Đúc một loạt nhiều chuông đồng.
16 Đinh Tỵ, Nguyên Phong năm thứ 7 (1257), tin từ trại
17 Quy Hóa31(bis) báo cho biết quân Mông Cổ động binh ở
18 biên giới giữa hai nƣớc và sai sứ sang ra lệnh cho nhà
19 Trần phải chịu thần phục. Trần Quốc Tuấn đƣợc lệnh
20 cầm quân đi trấn giữ.
21 Tháng 12, quân Mông Cổ32 do Uriyangqadai33 chỉ huy
22 tràn sang, tiến xuống đến vùng địa phận sông Thao.
23 Trần Thái Tông tự cầm quân với sự phụ tá của Lê Phụ
24 Trần đi chống cự nhƣng bị thua phải rút quân lui về khu
25 vực sông Phú Lƣơng34 .
26 Quân Mông Cổ chiếm thành Thăng Long, Trần Thái
27 Tông đƣợc Lê Phụ Trần hộ tống rút chạy về Sơn Nam,
28 lập tuyến phòng thủ tại khu vực sông Thiên Mạc35 thuộc
29 huyện Đông Yên, Phủ Khoái Châu, phía Bắc trấn Sơn
30 Nam.
31 Thái Úy Trần Nhật Hiệu bí mật cố vấn bảo Trần Thái
32 Tông nên đầu hàng nhà Tống36. Trần Thái Tông bàn
33 định với Trần Thủ Độ, Thủ Độ quyết định tiếp tục
34 chống cự37.

VSTK - 310
1 Quân Mông vào thành Thăng Long, giết hết dân
2 chúng trong thành nhƣng không thể ở lại lâu vì không
3 hạp với khí hậu, phải rút lui. Trần Thái Tông cùng thái
4 tử Hoảng38 hay tin quân Mông rút lui liền quay trở về
5 Thăng Long. Quân Mông lui trở về Quy Hóa nhƣng lại
6 bị ngƣời địa phƣơng39 tập kích ở đó cho nên cuối cùng
7 phải rút quân về Vân Nam.
8 Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 (1258), Trần
9 Thái Tông định công trạng và phong tƣớc cho Lê Phụ
10 Trần chức ngự sử đại phu và đem vợ cũ của mình là Lý
11 Chiêu Hoàng gả cho.
12 Sau khi đánh đuổi nhà Tống và chiếm gần trọn nƣớc
13 Trung Hoa, vua Mông Cổ cho sứ sang đòi nhà Trần phải
14 thần phục, triều cống. Trần Thái Tông phải cử Lê Phụ
15 Trần sang Tàu để thƣơng lƣợng với Mông Cổ, định mỗi
16 3 năm triều cống một lần.
17 Tháng hai năm Mậu Ngọ (1258),Trần Thái Tông
18 nhƣờng ngôi cho thái tử Hoảng để làm thái thƣợng
19 hoàng.
CHÚ GIẢI :
20
1
Bổ nhiệm các quan văn cai trị các lộ: năm 1242, đã đặt ra chức an
21 sứ chánh phó để giữ việc cai trị mỗi lộ. Năm 1244 lại bổ nhiệm các
22 quan văn chia nhau đi cai trị các lộ. Việc nầy ĐVSKTT cũng nhƣ
23 KĐVSTGCM không có một giải thích nào rõ ràng. Về việc cắt đặt ở
24 năm 1242, LTHCLC/Quan chức chí/ Phan Huy Chú viết: "Năm thứ 11
25 (1242), đặt chức an phủ, trấn phủ ở các lộ, mỗi chức đều có một viên
26 chánh, một viên phó". Theo cách viết của Phan Huy Chú thì trong mỗi
27 lộ có 2 ngạch quan nắm giữ việc cai trị: một ngƣời chánh và một ngƣời
28 phó coi về an ninh trấn đóng, gọi là trấn sứ chánh, phó, thƣờng đƣợc
29 giao cho những hàng quan võ có kinh nghiệm về quân sự và phòng vệ
30 nhƣng không có khả năng về các việc hành chánh, thuế khóa và hộ tịch.
31 Một ngƣời chánh và một ngƣời phó khác cai quản vấn đề hành chánh,
32 hộ tịch, tài chánh, kiện tụng gọi là an sứ chánh, phó.
33 Vậy có thể suy diễn rằng: chức vụ An sứ ở lộ hoặc ở phủ trƣớc năm
34 1244 do trấn sứ kiêm nhiệm. Về sau cho rằng quan võ không có học
35 thức và kinh nghiệm trong trong các vấn đề về mặt an sinh hành chính,
36 và hơn nữa việc kiêm nhiệm sẽ làm giảm sút hiệu năng quân sự, phòng
37 thủ của trấn sứ cho nên đến năm 1244 Trần Thái Tông mới bỏ sự kiêm

VSTK - 311
1 nhiệm và bổ nhiệm các quan văn chia nhau đi giữ chức vụ An sứ ở các
2 lộ hoặc phủ và có thể coi nhƣ là ngƣời phó của trấn sứ. Ở cấp xã thì có
3 các xã quan coi việc hành chánh hộ tịch và xã trƣởng giữ việc an ninh
4 phòng vệ.
5
2
Lộ: ĐVSKTT viết là các phủ, lộ trong nƣớc gồm 12 nơi. KĐVSTG
6 viết là 12 lộ. LTHCLC/ Dƣ địa chí chỉ kê khai 10 lộ.
7
3
Thông phán: đời Lý là chức phó của trấn sứ. Năm 1242, Trần Thái
8 Tông gọi là an sứ, coi về hành chánh, hộ tịch, thuế khóa, kiện tụng. .
9 .v.v. . .ở cấp lộ. Đến năm 1244 lại đổi là Thông phán. Tri phủ: năm
10 1242 Trần Thái Tông gọi là an phủ sứ.
11
4
Tào vận chánh phó sứ: tức là chức tri châu đời nhà Lý.
12
5
Ấn định án phạt trong hình luật và pháp luật: ĐVSKTT viết:
13 "Định các thể thức về luật hình" còn KĐVSTGCM thì: "Định luật
14 hình". Ở đây cho thấy là thời phong kiến chƣa có sự phân biệt rõ ràng
15 về luật pháp và án phạt; cả hai lĩnh vực nầy đều hỗn đồng lẫn lộn vào
16 nhau: khi định một loại tội phạm thì thƣờng kèm theo phần phạt, không
17 phân biệt hình sự hay thƣờng sự mà chỉ gọi chung là luật hình.
18 LTHCLC/viết:
19 "Xét: Sách Cố Sự Sao nói: "Hình pháp nhà Trần rất tàn khốc, kẻ ăn
20 trộm và kẻ trốn tránh thì bị chặt ngón chân, giao cho người chủ nhà
21 được xử trị theo ý mình hoặc cho voi giày đạp nát thây ". Có lẽ ngoài
22 luật thƣờng ra, nhà Trần lại đặt thêm những hình phạt nghiêm khắc này
23 để trừ cho hết kẻ trộm đạo chăng?. . .Hình pháp các đời Lý Trần không
24 thể biết rõ từng điều tỉ mỉ kỹ càng. Buổi đầu định ra luật cách tưởng
25 cũng là dùng theo chế độ các đời Đường, Tống. . "
26
6
Định cấp lƣơng bổng: trƣớc kia đã có ấn định bằng cách cho lấy từ
27 tiền thu thuế theo tỷ lệ số thuế thu đƣợc. Đến nay định lại ngạch lƣơng
28 bổng tùy theo cấp bậc, ngạch trật lớn nhỏ khác nhau.
29
7
Đê Long Đàm: tên huyện thời nhà Trần; thời thuộc Minh đổi là
30 Thanh Đàm; thời nhà Lê đổi là Thanh Trì; nay là đê Thanh Trì, Hà Nội.
31
8
Đặt tên gọi cho các hàng quân túc trực phòng vệ: tuyển lựa ngƣời
32 khoẻ mạnh đƣa vào 3 đoàn quân phòng vệ có tên là Tứ Thiên, Tứ
33 Thánh, Tứ Thần ; đoàn quân Tứ Thiên gồm có 2 đội Thiên Thuộc và 2
34 đội Thiên Cƣơng; đoàn quân Tứ Thánh gồm có 2 đội Thánh Chƣơng và
35 2 đội Thánh Dực; đoàn quân Tứ Thần gồm có 2 đội Thần Sách và 2 đội
36 Thần Củng. Cung ứng quân số cho các đoàn quân phòng vệ nầy bằng
37 cách bắt lính ở các lộ Thiên Trƣờng (nay là Nam Hà), lộ Long Hƣng
38 (nay là Thái Bình), lộ Hồng (vùng phía Tây Hải Dƣơng ngày nay), lộ
39 Khoái (vùng phía Nam tỉnh Hƣng Yên), lộ Trƣờng Yên (nay là Ninh
40 Bình), lộ Kiến Xƣơng (nay là vùng nam Thái Bình). Còn các lộ khác thì
41 cung cấp ngƣời sung vào đoàn quân bảo vệ riêng cho nhà vua ở triều
42 cung và đội lính khiêng kiệu võng.
43 Theo LTHCLC/ Binh Chế chí/ Phan Huy Chú thì vào thời Trần Thái
44 Tông mỗi đội quân gồm có 2,400 người. Các quân cấm vệ và các đoàn

VSTK - 312
1 quân phòng vệ kinh đô ước chừng chưa được tới số 100,000 người.
2 Quân số chƣa tới 100,000 có lẽ là quân số chủ lực trong thời bình
3 không có giặc giã. Còn số quân trừ bị ở mỗi lộ thì lúc thời bình đƣợc
4 cho về nhà làm ruộng lo việc sản xuất và chỉ bị gọi động viên khi có
5 giặc xăm lăng từ nƣớc ngoài.
6
9
Quân bảo vệ riêng của vua: gọi là đoàn quân cấm vệ.
7
10
Ấn định hạn kỳ thi đại tiến sĩ: ĐVSKTTviết là: Đại tỷ tiến sĩ;
8 KDVSTGCM cũng gọi là thi đại tỷ và viết thêm ở phần mục nhƣ sau:
9 "Bấy giờ thi đại tỷ chƣa có định kỳ niên hạn, nay ấn định cứ mỗi 7 năm thì
10 thi một lần. Định kỳ thi cử bắt đầu có từ đấy". Nhƣ vậy Đại tỷ, có thể hiểu
11 theo 2 cách:
12 Hiểu theo cách thứ nhất: hoặc là cứ 7 năm một lần thì tổ chức cho
13 những ngƣời đã đỗ kỳ thi Thái học sinh (bằng tiến sĩ hạng thƣờng) để
14 cho dự tranh lấy bằng đại tiến sĩ mà sử củ gọi là đại tỷ tiến sĩ có xếp
15 hạng thấp cao: đại tỷ thứ 1 gọi là trạng nguyên, đại tỷ thứ 2 gọi là bảng
16 nhãn, đại tỷ thứ 3 gọi là thám hoa.
17 Hiểu theo cách thứ hai: Nếu trong số ngƣời cũ đã đỗ Thái học sinh
18 từ trƣớc không có ai ra dự tranh thì sẽ lấy ba ngƣời đỗ đầu từ kỳ thi
19 Thái học sinh đƣợc tổ chức cùng một lúc với kỳ thi đại tỷ để xếp hạng
20 trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa.
21 Cách tổ chức thi cử của nhà Trần đã theo cách thức của ngƣời Trung
22 Hoa: Sách Chu Lễ cho biết: những ngƣời giữ chức khanh, đại phu, cứ
23 mỗi 3 năm một lần đại tỷ để xét về đức hạnh, đạo nghệ, kẻ nào là hiền
24 tài thì đƣợc cất nhắc.
25
11
Khoa thi tiến sĩ : tức là khoa thi Thái học sinh.
26
12
Có xếp hạng đỗ cao thấp: trƣớc kia hai khoa Nhâm Thìn (1232) và
27 Kỷ Hợi (1239) xếp cao thấp theo Giáp, Ất; đến khoa thi nầy mới có xếp
28 hạng gọi là tam khôi.
29
13
Tiến sĩ hạng nhất: tức là trạng nguyên.
30
14
Tiến sĩ hạng nhì: tức là Bảng Nhãn
31
15
Tiến sĩ hạng ba: tức là Thám Hoa.
32
16
Thi tam giáo có xếp hạng: tam giáo là Nho giáo, Thích giáo, Phật
33 giáo và lấy bậc Giáp, Ất cũ của các kỳ thi Thái học sinh trƣớc đây để
34 xếp hạng cao thấp.
35
17
Đắp đê phòng lụt kiểu quai vạt: sử cũ gọi là đê Đỉnh Nhĩ.
36
18
Hiếu Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu: là con gái lớn của Lý Huệ
37 Tông, chị của Lý Chiêu Hoàng, nguyên trƣớc đây là vợ của Trần Liễu,
38 lúc mang thai đã bị Trần Thủ Độ và Trần thị Dung bắt ép phải lấy Trần
39 Thái Tông. Ở đây có thể sử cũ đã chép sai khiến cho ngƣời đọc hiểu
40 lầm là do Trần Thái Tông truy phong cho Lý thuận Thiên chức Hiếu Tử
41 Thuận Thiên hoàng thái hậu có nghĩa là Lý thị là mẹ ruột của Trần Thái
42 Tông.
43
19
Đạo sĩ: ngƣời theo một giáo phái và tự nhận giáo phái mình có
44 nhiều pháp thuật quỉ quái nhƣ trù yểm, cầu mƣa, trấn áp yêu tinh.
45
20
Trấn yểm: đè nén, kiềm hãm không cho hoạt động.

VSTK - 313
1
21
Trần Quốc Tuấn: tức Hƣng Đạo Vƣơng, con trai thứ của Trần
2 Liễu.
3
22
Công chúa Thiên Thành: con gái út của Trần Thừa, em gái út của
4 Trần Liễu tức là cô, dì của Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn.
5
23
Trần Chu Phổ: quan ngự sử của Trần Thái Tông, có nhiệm vụ can
6 ngăn những việc làm sai quấy của vua và của các quan trong triều chứ
7 không phải là quan viết sử.
8
24
Sử quan ca rằng: ở đây có nghĩa là quan ngự sử ca rằng chứ
9 không phải là quan viết sử ca rằng nhƣ sử sách thời trƣớc đây đã giải
10 thích.
11
25
Đánh Chiêm Thành: ĐVSKTT và KĐVSTGCM viết rằng Trần
12 Thái Tông bắt đƣợc vợ của vua Chiêm Thành cùng với nhiều thê thiếp
13 và dân Chiêm đem về nƣớc.
14
26
Nhật Hiệu: là con của Lý Thuận Thiên và Trần Liễu. Khi Lý Thuận
15 Thiên đang có thai Nhật Hiệu thì bị Trần Thủ Độ ép phải bỏ Trần Liễu
16 để lấy em trai của Trần Liễu là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông.
17
27
Vua Chiêm: lúc đó là Bố Gia La.
18
28
Khổng Tử: (551-479), tên là Khƣu, ngƣời nƣớc Lỗ (năm 1941
19 thuộc tỉnh Quảng Đông của nƣớc Trung Hoa) trƣớc làm quan Đại tƣ
20 khấu (coi về việc hình) ở nƣớc Lỗ rồi lên đến chức nhiếp sự tƣớng. Sau
21 đó bị vua nƣớc Lỗ không còn muốn dùng, Khổng Tử phải đi khắp các
22 nƣớc chƣ hầu trong 14 năm để tìm đƣờng làm quan nhƣng chẳng có
23 nƣớc nào chịu dùng. Khổng Tử thất vọng quay về nƣớc Lỗ viết sách và
24 thu nhận học trò.
25
29
Kinh Thƣ: gồm có 5 quyển Kinh và 4 quyển Thƣ là những sách làm
26 gốc cho Nho giáo và là kinh điển của các ngƣời theo Nho giáo.
27 *Tứ Thư: tức là 4 quyển sách Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ
28 và Mạnh Tử.
29 *Ngũ Kinh: tức là 5 quyển sách Kinh. Ngày trƣớc có 6 Kinh nhƣng vua
30 Trung Hoa là Tần Thủy Hoàng(246-209) trong chiến dịch đốt sách đã thiêu
31 hủy gần hết một quyển Kinh Nhạc cho nên chỉ còn lại có 5 Kinh là: Kinh Thi,
32 Kinh Thƣ, Kinh Dịch, Kinh Lễ Ký, Kinh Xuân Thu.
33
30
Bán ruộng công cho dân: ĐVSKTT và KĐVSTGCM viết rằng cứ
34 mỗi diện (tức là mỗi mẫu) thì nhà nƣớc bán ra cho dân với giá là 5 quan
35 tiền. Ruộng công nguyên văn chữ Hán phiên âm ra là quan điền.
36
31
Tổ chức thi tiến sĩ ở kinh đô và ở tỉnh: sử cũ gọi là Kinh, Trại.
37 Trại bao gồm các tỉnh từ Thanh Hoá, Nghệ An trở xuống phía Nam,
38 còn từ Thanh Hoá trở lên phía Bắc thì gọi là Kinh. Ngƣời đỗ đầu tiến sĩ
39 ở Trại thì gọi là Trại trạng nguyên, ở Kinh đô thì gọi là Kinh trạng
40 nguyên.
41 31bis Quy Hóa: là vùng đất nằm giữa hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái.

42
32
Mông Cổ: nƣớc Mông Cổ ở phía Bắc nƣớc Trung Hoa, vùng
43 thƣợng lƣu sông Amour. Họ đánh giặc giỏi, có tài cƣỡi ngựa, bắn cung;

VSTK - 314
1
33
quân đội có kỹ luật và thiện chiến. (xin đọc thêm nơi phụ bản II viết
2 về Mông Cổ).
3
34
Uriyangqadai: có sách viết là Wouleangotai và dịch là Ngột
4 Lƣơng Hợp Thai hay Ngột Lƣơng Cáp Thai.
5
35
Sông Phú Lƣơng: KĐVSTGCM viết rằng sông Phú Lương trên
6 liền với sông Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây, dưới thông với sông Đại Hoàng
7 tỉnh Nam Định chảy suốt ra biển. Theo cách mô tả nầy thì sông Phú
8 Lƣơng tức là hai nhánh của sông Hồng ngày nay.
9
36
Sông Thiên Mạc: ở hạ lƣu sông Phú Lƣơng tức là đoạn sông Hồng
10 chảy qua xã Tân Châu, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hƣng hiện nay.
11
37
Đầu hàng nhà Tống: hai bộ sử cũ đều viết rằng Nhật Hiệu khi đƣợc
12 Trần Thái Tông hội ý về việc chống cự quân Mông Cổ đã xúi Trần Thái
13 Tông chạy sang Trung Hoa nƣơng cậy nhà Tống bằng cách lén viết ở
14 bên mạn thuyền hai chữ "nhập Tống".
15
38
Trần Thủ Độ quyết định tiếp tục chống cự: Hai bộ sử đều viết lại
16 những lời nói của Trần Thủ Độ với Trần Thái Tông nhƣ sau: "Đầu của
17 tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ chớ có nghĩ ngợi chuyện khác".
18
39
Thái tử Hoảng: sau nầy lên ngôi vua tức là Trần Thánh Tông, con
19 trai đích trƣởng của Trần Thái Tông và Lý Thuận Thiên. Trƣớc Hoảng
20 còn có một ngƣời anh trai cùng mẹ khác cha là Trần Quốc Khang. Bố
21 đích thật của Quốc Khang là Trần Liễu.
22
40
Quân Mông Cổ bị ngƣời địa phƣơng tập kích ở Quy Hóa: do chủ
23 trại Quy Hóa là Hà Bổng chiêu tập dân quân ngƣời Mán đánh úp. Sau
24 khi quân Mông Cổ rút lui, Trần Thái Tông thƣởng cho Hà Bổng tƣớc
25 hầu.

KHẢO LUẬN:

I/ Về việc đắp đê phòng lũ lụt ở hai bên bờ sông Hồng:

26 Theo lời phê của vua Tự Đức thì việc bắt đầu đắp đê dƣới thời nhà
27 Trần vào năm Mậu Thân (1284) là một việc làm thất cách, rất tai hại
28 cho các thế hệ sau này phải gánh chịu.
29 Lời phê của Tự Đức hợp lý nhƣng Tự Đức không đƣa ra một
30 phƣơng cách nào khác để phòng chống lụt lội ở vùng trung châu Bắc
31 Việt Nam lúc đó. Thời bấy giờ, phƣơng tiện kỹ thuật đào vét sông ngòi
32 kinh rạch chƣa có cho nên chỉ còn có mỗi một phƣơng cách là đắp đê
33 để phòng chống lụt lội mà thôi.

II/ Về việc Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn thông dâm
với ngƣời cô ruột của mình là công chúa Trần Thiên Thành:
34 Ngô Sĩ Liên nói: "Thái Tông đem (em gái) Thiên Thành công chúa
35 gả xuống cho Trung Thành Vương (ngƣời trong thân tộc họ Trần),

VSTK - 315
1 nhưng công chúa lại về với Hưng Đạo vương, việc hôn nhân rất là bất
2 chính. . .Vì vua (Trần Thái Tông) đã bất chính trong đạo vợ chồng, cho
3 nên người bề dưới cũng bắt chước. Hơn thế nữa, hôn nhân chẳng lấy
4 người khác họ mà lại lấy người cùng họ thì chỉ có nhà Trần làm thế.
5 Trong việc trái lễ, thì nay lại trái lễ nữa"(ĐVSKTT/ BK.5/ 18b).
6 Trong KĐVSTGCM, Tự Đức phê nhƣ sau: "Trần Quốc Tuấn là người văn
7 võ toàn tài, đủ cả trung lẫn hiếu duy chỉ có một vết xấu to lớn nầy cho nên
8 không được coi như là một con người hoàn toàn. Có lẽ cái thói chung chạ của
9 nhà họ Trần đã ăn sâu vào đầu óc đến nỗi bọn họ cho việc ấy là tự nhiên
10 không có gì gọi là quái lạ".
11 Nguyễn Nghiễm, đệ nhị giáp tiến sĩ khoa Tân Hợi, năm Vĩnh Khánh
12 thứ 3 (1731), Tổng tài Quốc sử quán đời Lê Hiển Tông (1740-1786) có
13 lời bàn nhƣ sau:" Nước với đất bản chất đều thuộc về phần âm, nước
14 lớn, đất động đều là do khí âm không điều hòa. Suốt đời Trần Thái
15 Tông có 6 lần lũ lụt (những năm 1233, 1236, 1238, 1243, 1245 và năm
16 1255), 3 lần động đất (1240, 1247, 1250), một lần đất nứt ra (1241), đó
17 là bởi cái lỗi trên dưới loạn dâm làm cho khí dương mất tiết độ mà khí
18 âm tự phóng túng thế mà lúc đó không thấy tỏ ra một dấu hiệu gì là sợ
19 hãi, tự sửa sai. Tai biến xảy ra liên tục vậy mà vẫn xem thường, Vua thì
20 khi nước dâng cao mà ra chơi du ngoạn Hồ Tây (1255), bầy tôi thì
21 nhân khi nước to mà hiếp dâm cung nữ (chỉ việc Trần Liễu hiếp dâm
22 một ngƣời vợ cũ của nhà Lý ở cung Lệ Thiên vào năm 1236). Lấy việc
23 tai ương làm trò vui, chỉ ham mê dâm dật cho thỏa thích, chưa bao giờ
24 thấy có sự quá độ như vậy ".

III/ Về trận chiến năm 1257 giữa quân nhà Trần


và quân Mông Cổ:

25 ĐVSKTT cũng nhƣ KDVSTGCM không thấy mô tả rõ ràng trận


26 chiến lần thứ nhất nầy giữa quân Mông Cổ và quân của Trần Thái
27 Tông.
28 Sử cũ viết một cách mơ hồ rằng: khí thế quân Mông Cổ rất mạnh
29 tiến thẳng đến Đông Bộ Đầu. Nhƣ vậy có nghĩa là quân Mông Cổ chỉ
30 mới tràn đến phía Đông sông Nhị Hà tức là thành Thăng Long chỉ bị
31 quân Mông Cổ vây hãm chứ chƣa mất. Sau đó sử cũ lại viết tiếp rằng
32 quân Mông Cổ đuổi gấp, bắn phá tứ tung, Lê Phụ Trần phải lấy cái sạp
33 thuyền che đỡ cho Trần Thái Tông rút chạy về vùng sông Thiên Mạc/
34 Hƣng Yên (nay thuộc tỉnh Hải Hƣng) tức là quân Mông Cổ đã vào
35 thành Thăng Long và Trần Thái Tông phải bỏ kinh đô để chạy về
36 Hƣng Yên. Trong lúc nầy, sử cũ cũng không nhắc nhở gì tới tên Trần
37 Thủ Độ mà chỉ thấy có một Lê Phụ Trần xong pha giữa làn tên mũi
38 giáo của quân Mông Cổ để hộ tống Trần Thái Tông chạy thoát về
39 Hƣng Yên.
40 Sách sử của nhà Nguyên (Mông Cổ) và Cƣơng Mục tục biên của
41 Trung Quốc đều cho biết rằng Ngột Lƣơng Hợp Thai sau khi đã chiếm

VSTK - 316
1 đƣợc nƣớc Đại Lý (nay thuộc tỉnh Vân Nam,Trung Hoa) liền sai sứ ba
2 lần sang bảo Trần Thái Tông phải đầu hàng nhƣng cả ba lần đều không
3 thấy sứ trở về, bấy giờ quân Mông Cổ mới chia đƣờng tiến quân, nhân
4 thế thắng kéo vào chiếm thủ đô Thăng Long, khi vào thành, thấy 3
5 ngƣời sứ của họ đƣợc sai sang từ trƣớc còn bị giam trong ngục của nhà
6 Trần, ngƣời nào cũng bị những nan tre bó chặt vào ngƣời cứa sát da
7 thịt, khi đƣợc quân Mông cởi trói ra thì một ngƣời đã chết; quân Mông
8 Cổ liền tàn sát hết cả dân chúng còn bị kẹt ở lại trong thành rồi đóng
9 quân ở đây đƣợc 9 ngày, nhƣng vì không chịu đƣợc thời tiết oi bức
10 nóng nực, phải rút về. Lại sai sứ giả đến dụ hàng, Trần Thái Tông tức
11 giận về việc quân Mông tàn phá cho nên lại bắt trói hai sứ Mông Cổ rồi
12 đuổi về .
13 Sách sử cũ Trung Hoa và Nguyên Mông (Nguyên Mông: sau khi
14 chiếm toàn lãnh thổ nƣớc Trung Hoa, Mông cổ đổi xƣng là nhà
15 Nguyên) viết là quân Mông tự động rút về còn sách sử cũ của Việt Nam
16 thì viết quân Mông bị quân của nhà Trần đánh thua cho nên phải bỏ
17 chạy về Đại Lý (Vân Nam).
18 Nhƣ vậy, có thể suy diễn về trận chiến năm 1257 giữa quân Mông
19 Cổ và quân nhà Trần nhƣ sau: Sau khi chiếm đƣợc nƣớc Đại Lý (Vân
20 Nam), quân Mông Cổ cho sứ sang bảo nhà Trần về quy phục nhƣng
21 Trần Thái Tông không nghe theo mà còn bắt giữ sứ của Mông Cổ cho
22 nên quân Mông Cổ tràn sang đánh chiếm các vùng Phú Thọ, Yên Bái
23 rồi tiến quân thẳng xuống vùng sông Nhị Hà bao vây thủ Đô Thăng
24 Long (Hà Nội). Trần Thái Tông phải bỏ thủ đô Thăng Long chạy về
25 trấn Sơn Nam, lập tuyến phòng thủ tại khu vực sông Thiên Mạc ở
26 huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu; tuyến phòng thủ nầy nằm về phía
27 Bắc trấn Sơn Nam.
28 Quân Mông vào thành Thăng Long, tàn sát , vơ vét, cƣớp bóc, đốt
29 phá nhƣng chỉ ở lại trong thành một thời gian rất ngắn rồi rút quân về
30 Trại Quy Hóa vì không chịu đƣợc phong thổ và thời tiết ở Thăng Long.
31 Trần Thái Tông nghe tin quân Mông đã rút lui mới quay trở về Thăng
32 Long; nhƣng ĐVSKTT và KĐVSTGCM lại viết thêm rằng quân Trần
33 Thái Tông chận đánh tan quân Mông ở Đông Bộ Đầu (Vùng thƣợng
34 lƣu sông Nhị Hà). Rất có thể đoạn viết thêm nầy làchỉ nhằm tô vẽ,
35 tuyên truyền, quảng cáo cho Trần Thái Tông mà thôi chứ trên thực tế
36 lúc đó chắc không có việc nhà vua (Trần Thái Tông) đánh tan quân
37 Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu.
38 Có thể còn một lý do khác nữa khiến cho quân Mông Cổ phải rút
39 quân nhanh về Vân Nam. Lý do đó là vì lúc nầy quân Mông Cổ vừa
40 mới chiếm đƣợc nƣớc Đại Lý và lại tiến quân quá sâu xuống phía Đông
41 Nam để đánh với quân nhà Trần. Nếu trong thời gian nầy quân của nhà
42 Tống đƣa quân tràn sang biên giới Việt Nam để chận đánh quân Mông
43 Cổ (trƣờng hợp Trần Thái Tông nghe lời Trần Nhật Hiệu nhập Tống)
44 và quân của Trần Thái Tông từ vùng Thiên Mạc (Sơn Nam) phản công

VSTK - 317
1 trở lại thì quân Mông Cổ ở Thăng Long sẽ bị kẹp ở giữa trong thế gọng
2 kiềm và sẽ bị tiêu diệt. Vì thế cho nên quân Mông vội vàng bỏ Thăng
3 Long, rút nhanh quân về nƣớc Đại Lý (nay là tỉnh Vân Nam của Trung
4 Hoa) vừa mới chiếm đƣợc.
5 Có một điểm đáng chú ý cần nêu ra: tại sao Trần Thái Tông sau khi
6 bỏ thành Thăng Long lại lui về lập tuyến phòng thủ ở phía Bắc trấn
7 Sơn Nam ?
8 Bởi vì ở phía Đông trấn Sơn Nam có làng Tức Mạc, mà làng Tức
9 Mạc là quê hƣơng của tổ tiên dòng họ nhà Trần cho nên Trần Thái
10 Tông mới lui về Sơn Nam để lập phòng tuyến chống giữ. Đến năm
11 1262, Trần Thánh Tông nâng cấp làng Tức Mạc lên làm phủ Thiên
12 Trƣờng, dựng cung Trùng Quang, cung Trùng Hoa và chùa Phổ Minh ở
13 đó. Các vua nhà Trần sau khi nhƣờng ngôi cho con đều về ở nơi nầy.
14 Thời Nguyễn Huệ (nhà Tây Sơn) trấn Sơn Nam chia thành 2 trấn: Sơn
15 Nam thƣợng và Sơn Nam hạ.
16 Thời nhà Nguyễn (Gia Long), tháng 12 năm Nhâm Ngọ (1822) vua
17 Minh Mạng đổi tên Sơn Nam Thƣợng là Sơn Nam còn Sơn Nam hạ đổi
18 thành phủ Nam Định gồm một phần huyện Xuân Thủy, Nam Trực,
19 Trực Ninh và thành phố Nam Định (bây giờ là tỉnh Nam Hà); làng Tức
20 Mạc thuộc thành phố Nam Định .

VSTK - 318
CHƢƠNG II

TRẦN THÁNH TÔNG ( 1258 - 1278 )


Niên hiệu : Thiệu Long (1258-1272)
Bảo Phù (1273-1278).

1 Thái tử Trần Hoảng sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh


2 Tý (1240), lên ngôi vua tức là Trần Thánh Tông, đổi
3 niên hiệu là Thiệu Long, tôn Trần Thái Tông là Hiễn
4 Nghiêu Thánh Thọ thái thƣợng hoàng, truy tôn cho mẹ
5 sinh là Lý Thuận Thiên đã chết1 từ năm 1248 làm Hiển
6 Tử Thuận Thiên hoàng thái hậu. Lập con gái của Trần
7 Liễu2 là Trần thị Thiều3 làm hoàng hậu.
8 Mậu Ngọ, ngày 11, tháng 11, Thiệu Long năm thứ 1
9 (1258) đứa con thứ nhì4 của Trần Thánh Tông là trƣởng
10 hoàng tử Khâm sinh. Cùng trong tháng 11 nầy, Trần
11 Thánh Tông phong cho em Trần Quang Khải chức
12 Chiêu Minh Đại Vƣơng.
13 Kỷ Mùi, Thiệu Long năm thứ 2 (1259), tháng 2, Trần
14 thị Dung chết và đƣợc Trần Thánh Tông truy phong là
15 quốc mẫu5. Trần thị Dung là chị và cũng là vợ của Trần
16 Thủ Độ.
17 Tháng 6, phong cho Lê Phụ Trần làm thủy quân đại
18 tƣớng.
19 Tân Dậu, Thiệu Long năm thứ 4 (1261), tháng 2, bắt
20 lính6.
21 Sứ Nguyên Mông sang chiêu dụ. Trần Thánh Tông cử sứ
22 mang thƣ sang đáp lễ. Nguyên Mông phong cho Trần
23 Thánh Tông chức An Nam Quốc Vƣơng và ấn định điều
24 kiện triều cống7, mỗi 3 năm triều cống một lần, bắt đầu
25 từ năm 1263, lại tự động bổ nhiệm ngƣời của Mông Cổ
26 sang và ở lại giám sát việc cai trị8 của triều đình nhà
27 Trần.
28 Trong nƣớc, Trần Thánh Tông bổ dụng Trần Quang
29 Khải làm thái úy.

VSTK - 319
1 Nhâm Tuất, Thiệu Long năm thứ 5 (1262), đổi hƣơng
2 Tức Mạc làm phủ Thiên Trƣờng, dựng cung Trùng
3 Quang, cung Trùng Hoa và chùa Phổ Minh ở đó.
4 Ra lệnh cho quân đội chuẩn bị vũ khí và tập trận ở
5 vùng ven sông Bạch Hạc9 ở trấn Sơn Tây.
6 Giáp Tý, Thiệu Long năm thứ 7 (1264), Trần Thủ Độ
7 chết, thọ 71 tuổi.
8 Ất Sửu, Thiệu Long năm thứ 8 (1265) tháng 3, con
9 thứ ba của Trần Thánh Tông tên là Trần Đức Việp sinh.
10 Tháng 3, thi Tiến sĩ.
11 Tháng 10, cho phép dòng họ vƣơng tộc bắt dân nghèo
12 làm nô tỳ khai khẩn đất hoang để lập thành ruộng đất và
13 nông trại riêng: vƣơng hầu có điền trang riêng bắt đầu
14 từ đó.
15 Đinh Mão, Thiệu Long năm thứ 10 (1267), định thể lệ
16 lập ngọc điệp (gia phả)10 nhánh chính trong dòng họ của
17 vua.
Tháng 4, cho những ngƣời có học vào làm việc ở quán,
các, sảnh và viện11.
18 Tháng 5, Trần Thánh Tông phong cho em là Trần Ích
19 Tắc12 tƣớc Chiêu Quốc Vƣơng.
20 Tháng 8, lại phong cho em Trần Nhật Duật làm
21 Chiêu Văn Vƣơng.
22 Ấn định quân ngũ: mỗi quân gồm có 30 đô, mỗi đô
23 có 80 quân, chọn ngƣời trong vƣơng tộc có kinh nghiệm
24 quân sự để chỉ huy.
25 Mậu Thìn, Thiệu Long năm thứ 11 (1268), hạn hán,
26 lũ lụt, dân đói.
27 Trần Nhật Hiệu chết.
28 Sứ Mông Cổ sang gây sự13 bắt lỗi về việc triều đình
29 của nhà Trần không thi hành đúng nghi lễ tiếp đón sứ
30 thần Mông Cổ.
31 Tân Mùi, Thiệu Long năm thứ 14 (1271), phong cho
32 Trần Quang Khải làm Tƣớng quốc thái úy thống lĩnh
33 mọi việc trong nƣớc.

VSTK - 320
1 Nhâm Thân, Thiệu Long năm thứ 15 (1272), Hàn lâm
2 viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu Lê Văn Hƣu
3 soạn xong bộ Đại Việt Sử Ký chép từ đời Triệu Đà đến
4 đời Lý Chiêu Hoàng.
5 Nhà Nguyên sai sứ sang hạch hỏi về cột đồng móc
6 biên giới do tƣớng Mã Viện14 đã đặt từ trƣớc.
7 Giáp Tuất, Bảo Phù năm thứ 2 (1274), lập con trƣởng là
8 Khâm làm hoàng thái tử, đƣa con gái trƣởng của Trần Quốc
9 Tuấn15 về làm vợ cho Trần Khâm.
10 Đinh Sửu, Bảo Phù năm thứ 5 (1277) tháng 4, Trần
11 Thái Tông chết.
12 Mậu Dần, Bảo Phù năm thứ 6 (1278) tháng 3 Lý
13 Chiêu Hoàng mất16.
14 Tháng 10, Trần Thánh Tông nhƣờng ngôi cho thái tử
15 Khâm.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:


16
1
Lý Thuận Thiên hoàng thái hậu: chết năm 1248, sử cũ đã ghi rằng
17 Trần Thái Tông "truy tôn là Hiển tử Thuận Thiên hoàng thái hậu ".
18 Việc truy tôn nầy đã bị Nguyễn Nghiễm phê phán gắt gao bởi vì theo lệ
19 thƣờng chỉ có con khi lên ngôi vua mới phong cho mẹ đẻ của mình làm
20 hoàng thái hậu. Nguyễn Nghiễm cho rằng nếu Trần Thái Tông ra lệnh
21 truy tôn nầy vào năm 1248 thì Lý Thuận Thiên phải là mẹ đẻ của Trần
22 Thái Tông chứ không phải là vợ.
23
2
Lập con gái của Trần Liễu làm hoàng hậu: ĐVSKTT chép rõ là
24 "con gái thứ 5 của Trần Liễu", tức là chị em họ con bác con chú lại lấy
25 nhau! Đây là thói hƣ dâm dật của dòng họ nhà Trần đã trở thành lệ
26 không thể nào sửa đổi đƣợc nữa.
27
3
Trần thị Thiều: là tên đứa con gái thứ 5 của Trần Liễu vừa đề cập ở
28 chú giải (2) kể trên. KĐVSTGCM không chép rõ ràng nhƣ thế.
29
4
Con thứ nhì của Trần Thánh Tông: con thứ nhất của Trần Thái
30 Tông là công chúa Trần Thiên Thụy gả cho con trai của Trần Quốc
31 Tuấn tên là Trần Hiếu: cũng là chị em con bác con chú lấy nhau. Có lẽ
32 đây là chính sách và chủ trƣơng của dòng họ nhà Trần để củng cố ngôi
33 vua không cho rơi vào tay một dòng họ khác chăng?
34
5
Quốc mẫu: tức là ngƣời mẹ của dân tộc. Đấy là một sự sỉ nhục cho
35 dân tộc nƣớc Đại Việt lúc đó. Trần thị Dung đáng lẽ phải đƣợc xếp vào
36 hạng tú bà vô luân, dâm dật, mƣu mô xảo quyệt kết hợp với Trần Thủ
37 Độ là một hạng ma cô lừa đảo và ác độc. Rõ ràng là dòng họ gia đình

VSTK - 321
1 trị nhà Trần chẳng còn đếm xỉa gì tới dƣ luận và xem thƣờng ngƣời dân
2 của nƣớc Đại Việt tới mức cùng tột.
3
6
Bắt lính: bắt dân ở các lộ, ngƣời nào khoẻ sung làm lính còn thì sung
4 vào phục vụ ở các sảnh, viện, cục hay ở các phủ, lộ, huyện.
5
7
Ấn định điều kiện triều cống: buộc nhà Trần phải tuyển chọn ngƣời
6 có khả năng của Đại Việt sang làm nô lệ phục dịch cho nhà Nguyên
7 Mông cũng nhƣ phải triều cống ngọc, ngà châu báu và sản vật quý cho
8 họ.
9
8
Ngƣời của Nguyên Mông giám sát: chức vụ nầy gọi là Đạt lỗ hoa
10 xích, một chức quan của Mông Cổ, tức là quan trƣởng ấn, giữ nhiệm vụ
11 giám sát việc cai trị quận huyện của triều đình Nguyên Mông. Nhƣ vậy
12 có nghĩa là Nguyên Mông xem nƣớc Đại Việt trong thời đại của Trần
13 Thánh Tông nhƣ là một quận huyện của họ.
14
9
Vùng ven sông Bạch Hạc: sông nầy ở địa phận huyện Bạch Hạc, phủ
15 Tam Đới, trấn Sơn Tây.
16
10
Ngọc Điệp: con cái thuộc dòng chính trực hệ chính tông của vua gọi
17 là ngọc điệp (lá ngọc ghi nhánh chính thống) thì đƣợc phong tƣớc
18 vƣơng; từ hàng cháu của vua thì gọi là kim chi (cành vàng: chỉ dòng dõi
19 quyền quý): cháu 3 đời thì đƣợc phong tƣớc ấm quận vƣơng, cháu 4 đời
20 đƣợc tƣớc ấm minh tự, cháu 5 đời đƣợc tƣớc ấm thƣợng phẩm.
21
11
Dùng những ngƣời có học làm việc ở quán, các, sảnh, viện: Ngày
22 trƣớc những việc làm ở những nơi nầy đều do bọn hoạn quan đảm
23 trách.(Tức là loại quan bị cắt bỏ bộ phận sinh dục để đƣợc đƣa vào hầu
24 hạ cho vua và hoàng hậu trong cung điện. Việc cắt bỏ bộ phận sinh dục
25 là nhằm mục đích tránh những chuyện lang chạ của bọn quan nầy với
26 các vợ và phi tần cung nữ của vua).
27
12
Trần Ích Tắc: con trai thứ 3 của Trần Thái Tông, thông minh,
28 ngƣời có tài năng văn học nhƣng về sau đầu phục quận Mông Cổ và
29 chạy theo quân giặc sang đất Trung Hoa.
30
13
Sứ Mông Cổ gây sự, bắt lỗi về nghi thức ngoại giao: sứ Mông Cổ
31 bắt Vua quan nhà Trần phải quỳ lại để chào đón sứ giả thay mặt vua
32 Nguyên Mông tức là coi triều đình nhà Trần nhƣ là một chƣ hầu của
33 Nguyên Mông. Trần Thánh Tông không chấp nhận sự đòi hỏi nầy.
34
14
Sứ Nguyên Mông lại sang hạch hỏi về cột đồng móc biên giới
35 của Mã Viện: đây không phải là một công tác khảo cổ. Thâm ý của
36 Nguyên Mông là cố tình gợi lại chuyện ngày xƣa để có cớ chứng minh
37 rằng nƣớc Đại Việt của nhà Trần ngày nay chính là lãnh thổ của nhà
38 Đông Hán ngày xƣa. Nay, cả nƣớc Trung Hoa đã về tay Mông Nguyên
39 thì lãnh thổ Đại Việt nầy cũng là của bọn họ.
40
15
Con gái trƣởng của Trần Quốc Tuấn về làm vợ Trần Khâm: chị
41 em con bác con chú lấy nhau.
42
16
Lý Chiêu Hoàng mất: là vua cuối cùng của Nhà Lý, vợ đầu tiên
43 của Trần Thái Tông. Bị dòng họ nhà Trần dùng mƣu chƣớc hiểm độc
44 cƣớp ngôi; lại bị Trần Thái Tông phế bỏ rồi đem gán gả cho Lê Phụ

VSTK - 322
1 Trần nhƣ là một món vật phần thƣởng. Đây là một ngƣời đàn bà đáng
2 thƣơng nhất trong thời đại phong kiến Lý-Trần. ĐVSKTT viết rằng Lý
3 Chiêu Hoàng lấy Lê Phụ Trần hơn 20 năm, sinh đƣợc 1 con trai tên
4 Tông và 1 con gái tên là Khuê.

VSTK - 323
CHƢƠNG III

TRẦN NHÂN TÔNG ( 1279 - 1293 )


Niên hiệu: Thiệu Bảo (1272-1284)
Trùng Hưng (1285-1293)

1 Thái tử Trần Khâm, con trai trƣởng của thƣợng hoàng


2 Trần Thánh Tông, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong
3 năm thứ 8 (1258), mẹ là Cảm Thánh1 hoàng thái hậu,
4 lên ngôi vua tức là Trần Nhân Tông. Lập Trần thị con
5 gái của Trần Quốc Tuấn làm hoàng hậu2.
6 Kỷ Mão, Thiệu Bảo năm thứ 1 (1279), ở Trung Hoa,
7 quân Mông Nguyên tiêu diệt nhóm quân nhà Tống cuối
8 cùng ở Nhai Sơn3. Vua Tống nhảy xuống biển chết.
9 Tân Tỵ, Thiệu Bảo năm thứ 3 (1281), Trần Nhân
10 Tông sai chú họ là Trần Di Ái thay mặt cùng với Lê
11 Mục, Lê Tuân đi sứ sang Nguyên Mông. Vua Nguyên
12 Mông tức giận về việc Trần Nhân Tông đã không chịu
13 đích thân sang chầu mà còn từ chối việc đặt cơ quan
14 giám sát4 của Nguyên Mông trong lãnh thổ Đại Việt.
15 Nhâm Ngọ, Thiệu Bảo năm thứ 4 (1282), để trả đũa
16 và gây hấn, từ Trung Quốc, vua Nguyên Mông lập Trần
17 Di Ái làm vua nƣớc Đại Việt, phong cho Lê Mục làm
18 Hàn Lâm học sĩ, Lê Tuân làm thƣợng thƣ rồi sai tƣớng
19 Mông Cổ là Sài Thung dẫn một đoàn quân 1,000 ngƣời
20 hộ tống Trần Di Ái và tùy thuộc về nƣớc nhƣng bị quân
21 của nhà Trần chận đƣờng đánh tan5; Trần Di Ái và tất
22 cả tùy thuộc đều bị bắt mang về Đại Việt, xử tội đồ làm
23 lính.
24 Cho phép Nguyễn Thuyên đƣợc đổi họ Nguyễn thành
25 họ Hàn tức là Hàn Thuyên vì có công đuổi cá sấu6 ở
26 sông Phú Lƣơng7.
27 Tháng 10, năm Nhâm Ngọ (1282), có tin cấp báo từ
28 châu Lạng8 cho hay: con vua Nguyên Mông là Thoát

VSTK - 324
1 Hoan quy động 500 ngàn quân từ các tỉnh Hồ Nam, Hồ
2 Bắc, Quảng Đông, Quảng Tây (gọi chung là Hồ Quảng),
3 rồi giả trá cho sứ sang đòi nhà Trần cho mƣợn đƣờng đi
4 ngang qua nƣớc Đại Việt để tiến đánh nƣớc Chiêm
5 Thành, một mặt lại sai tƣớng Toa Đô đƣa quân theo
6 đƣờng biển đánh chiếm Chiêm Thành rồi sẽ tiến quân
7 đánh bọc lên từ hƣớng Nam, hợp với quân của Thoát
8 Hoan từ hƣớng Hồ - Quảng tiến xuống, lập thành thế
9 gọng kiềm để đánh quân nhà Trần.
10 Trần Nhân Tông liền hội các vƣơng hầu và tƣớng
11 lãnh ở Bình Than9 để bàn định kế hoạch phòng ngự và
12 đánh trả quân Nguyên Mông. Sau khi hợp bàn, Trần
13 Khánh Dƣ10 đƣợc phong phó đô tƣớng, Trần Quang
14 Khải làm thƣợng tƣớng thái sƣ11.
15 Quý Mùi, Thiệu Bảo năm thứ 5 (1283), cử Hƣng Đạo
16 vƣơng Trần Quốc Tuấn nắm giữ chức Quốc công tiết
17 chế12 .
18 Tháng 8, thao diễn tập đánh trận rồi chia quân đi
19 đóng giữ phòng tuyến ở Bình Than cùng các nơi xung
20 yếu khác.
21 Tháng 11, sai sứ sang Nguyên Mông điều đình hoãn
22 binh nhƣng thất bại.
23 Tháng 12, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông quy
24 tụ những ngƣời lớn tuổi vào hội nghị ở thềm điện Diên
25 Hồng để hỏi ý kiến nên chủ chiến hay chủ hoà với quân
26 Nguyên Mông. Tất cả đồng loạt quyết định "Phải đánh".
27 Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn đích thân dẫn
28 quân ra biên giới, lập bộ chỉ huy ở cửa ải Nội Bàng13
29 trong vùng núi Kheo Cấp14 và chia quân trấn giữ các cửa
30 ải khác ở châu Lạng. Quân Nguyên Mông kéo tới cửa ải
31 Lộc Châu, cho sứ sang chiêu dụ nhƣng bị Trần Quốc
32 Tuấn đuổi về.
33 Ngày 26 tháng 12 năm Giáp Thân (đầu năm 1285
34 dƣơng lịch), quân Mông từ cửa ải Lộc Châu15 và Khả
35 Ly16 tràn sang lãnh thổ Đại Việt đánh chiếm ải Chi

VSTK - 325
1 Lăng, khí thế rất mạnh. Trần Quốc Tuấn chống trả
2 không nổi phải lui quân về đóng giữ Vạn Kiếp18.
3 Trần Nhân Tông dùng ghe nhỏ ra Hải Đông19 hợp bàn
4 với Trần Quốc Tuấn, lấy quân của lộ Hải Đông và từ
5 các hƣơng Vân Trà20, Ba Điểm21 điều động lập tuyến
6 phòng thủ ở phía Nam. Đƣa các đoàn quân từ Bình Hà22,
7 Na Sản23, Trà Hƣơng, Long Nhãn24 tổng số lên tới
8 200,000 quân đến tuyến đầu Vạn Kiếp dƣới quyền chỉ
9 huy của Trần Quốc Tuấn chận đƣờng tiến của Nguyên
10 Mông để phòng thủ 2 lộ Bắc Giang25 thƣợng và Bắc
11 Giang hạ.
12 Ất Dậu, Thiệu Bảo năm thứ 7 ngày 6 tháng Giêng
13 (1285), tƣớng Mông là Ô Mã Nhi đánh vỡ các tuyến
14 phòng thủ của quân Trần ở khu vực sông Bình Than26 và
15 vùng núi Phả Lại27, vây hãm Vạn Kiếp.
16 Ngày 12 tháng Giêng (1285), Trần Quốc Tuấn đón
17 đánh quân Mông trên sông Vạn Kiếp nhƣng bị thua to,
18 các huyện Gia Lâm28, Vũ Ninh29, và Đông Ngàn30 bị quân
19 Mông tràn ngập, quân dân nhà Trần31 bị sát hại tàn
20 khốc, hai lộ Bắc Giang thƣợng, hạ đều bị mất. Quân
21 Mông thắng thế kéo đến Đông Bộ Đầu32 vây hãm thành
22 Thăng Long. Nhà Trần cử Đỗ Khắc Chung33 sang doanh
23 trại quân Mông để thƣơng lƣợng ngƣng chiến nhƣng Ô
24 Mã Nhi không chấp nhận. Vua quan nhà Trần phải rời
25 bỏ kinh đô rút chạy về phủ Thiên Trƣờng sau khi lệnh
26 cho tƣớng Trần Quang Khải đem quân trấn giữ Nghệ
27 An để chận đƣờng tiến quân của Toa Đô từ hƣớng
28 Chiêm Thành tràn qua.
29 Ngày 13 tháng Giêng (1285), thành Thăng Long bị
30 quân Nguyên Mông tràn ngập.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

VSTK - 326
1
1
Cảm Thánh: con gái của Trần Liễu, vừa là cô vừa là mẹ đẻ của Trần
2 Nhân Tông; tức là Trần Thánh Tông lấy chị của mình làm vợ.
3
2
Trần Nhân Tông lập Trần thị làm hoàng hậu: Trần thị là con gái
4 của Trần Quốc Tuấn, tức là chị em họ lấy nhau.
5
3
Nhóm quân cuối cùng của Nhà Tống ở Nhai Sơn: Mông Nguyên
6 đánh đuổi quan quân nhà Tống phải chạy về Nhai Sơn ở phía Nam
7 huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông.
8
4
Đặt cơ quan giám sát của Nguyên Mông: các triều đình thực dân
9 của Tàu ngày trƣớc đặt quan An Nam tiết độ sứ để cai trị hoặc giám sát
10 các nƣớc thuộc địa của họ; nay Nguyên Mông lại lập ty tuyên phủ ở
11 Đại Việt để kiềm chế triều đình nhà Trần.
12
5
Quân nhà Trần chận đánh quân Mông Nguyên: đây là lần thứ nhất
13 quân nhà Trần và quân Nguyên đánh nhau. Về việc nầy 2 bộ sử cũ chép
14 khác nhau: ĐVSKTT thì viết rằng Mông Nguyên sai Sài Thung dẫn
15 1,000 quân hộ tống, làm hậu thuẫn đƣa bọn Trần Di Ái về nƣớc, khinh
16 thƣờng ngang nhiên hống hách đi thẳng vào triều cung, Hƣng Đạo
17 Vƣơng Trần Quốc Tuấn phải đích thân đến gặp Sài Thung để bàn bạc
18 thƣơng lƣợng (BK/Q.5/). KĐVSTGCM thì viết theo sử sách của
19 Nguyên Mông chép rằng quân Mông bị quân Trần đón đánh và giết
20 đƣợc Sài Thung ngay ở biên giới của 2 nƣớc và bắt Trần Di Ái cùng tùy
21 thuộc mang về trị tội (KĐVSTGCM/ CB.7/ 25).
22
6
Hàn Thuyên đuổi cá sấu ở sông Phú Lƣơng: sử cũ chép rằng
23 Nguyễn Thuyên làm bài văn thả xuống sông, cá sấu tự nhiên bỏ đi,.
24 giống nhƣ chuyện Hàn Dũ đời nhà Đƣờng bên Trung Hoa (Đƣờng Hiếu
25 Tông): năm 819, Hàn Dũ làm thứ sử Triều Châu, biết được ở một con
26 sông có cá sấu tới phá hại, Hàn Dũ liền đem dê, lợn để cúng vái và làm
27 một bài văn tế cá sấu rồi vứt tất cả xuống sông, bỗng nhiên sấm gió
28 nổi lên, và kể từ ngày sau đó người ta không còn thấy cá sấu xuất hiện
29 nữa. Chuyện Hà Dũ cũng là một loại chuyện dị đoan nhảm nhí và sử
30 cũ chép lại để gán ghép, đổi họ cho Nguyễn Thuyên. Nguyễn Thuyên
31 ngƣời làng Thanh Lâm, tỉnh Hải Dƣơng, có khiếu về thơ phú viết theo
32 âm vận và cách viết của vần quốc ngữ (tức là chữ Nôm, một loại chữ
33 Hán đƣợc thay đổi cách đọc và dạng chữ viết của ngƣời Đại Việt), đƣợc
34 nhiều ngƣời bắt chƣớc theo và thƣờng gọi là thơ Hàn luật, nghĩa là làm
35 thơ phú theo kiểu của Hàn Thuyên đặt ra.
36
7
Sông Phú Lƣơng: tức là sông Nhị Hà hiện nay.
37
8
Châu Lạng: hay Lạng Giang, tức Lạng Sơn.
38
9
Bình Than: tên của một bến đò ở địa phận xã Trần Xã, huyện Chí
39 Linh, lộ Hải Đông.
40
10
Trần Khánh Dƣ: ngày trƣớc bị cách chức vì thông dâm với Thiên
41 Thụy công chúa; nay vì có giặc ngoại xâm cho nên đƣợc trả lại chức cũ
42 (Thiên Thụy công chúa là con gái lớn của Trần Thánh Tông, vợ của
43 Trần Hiến mà Trần Hiến lại là con trai lớn của Trần Quốc Tuấn tức là
44 anh em chú bác lấy nhau).

VSTK - 327
1
11
Thƣợng tƣớng thái sƣ: giống nhƣ chức thủ tƣớng do một tƣớng
2 quân đội đảm nhiệm .
3
12
Quốc công tiết chế: giống nhƣ chức Tổng tƣ lệnh quân đội.
4
13
Cửa ải Nội Bàng: nay thuộc tỉnh Hà Bắc.
5
14
Kheo Cấp: nay là phố Kỳ Lừa, tỉnh Lạng Sơn.
6
15
Cửa ải Lộc châu: nằm trên lãnh thổ của nƣớc Trung Hoa. Đến đầu
7 đời nhà Lê (Lê Lợi) mới thuộc vào châu Lộc Bình, nay thuộc tỉnh Lạng
8 Sơn.
9
16
Cửa ải Khả Ly: có lẽ cũng giống nhƣ trƣờng hợp của Lộc châu,
10 nhƣng không có tài liệu kê cứu rõ là ở đâu.
11
17
Ải Chi Lăng: thuộc huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.
12
18
Vạn Kiếp: có sách gọi là làng Kiếp Bạc; nay là vùng Vạn Yên,
13 huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hƣng.
14
19
Hải Đông: tức An Bang; các nhà Đinh, Lê, Lý đều gọi là đạo Hải
15 Đông. Nhà Trần đổi là lộ Hải Đông để chỉ chung vùng Hải Dƣơng cũ
16 (nay là Hải Hƣng) và vùng Hải Phòng hiện nay. Thời nhà Lý có lập một
17 nơi gần bờ biển cho ghe thuyền khách thƣơng ngoại quốc đến ở và
18 buôn bán gọi là trang Vân Đồn. Thời nhà Trần, quân Nguyên Mông
19 thƣờng dùng lộ Hải Đông là địa bàn xâm nhập để đánh phá nhƣng cũng
20 là vùng đất chết dành riêng cho bất kỳ kẻ xâm lăng nào xuất phát từ
21 phƣơng Bắc. Nơi đây có con sông Bạch Đằng nổi tiếng với chiến trận
22 hiển hách của Ngô Quyền giết tƣớng Hán Hoằng Tháo ngày trƣớc và
23 Vân Đồn cũng là vùng tử địa của quân xâm lƣợc Nguyên Mông.
24
20
Hƣơng Vân Trà: nằm trong lộ Hải Đông. Vân Trà còn gọi là Trà
25 Hƣơng. Thời Lê Thánh Tông (1460-1497) là huyện Kim Thành, phủ
26 Kinh Môn, xứ Hải Dƣơng (trƣớc gọi là trấn Nam Sách).Theo Địa dƣ
27 chí của Phan Huy Chú thì: "huyện Kim Thành (Vân Trà hay Trà
28 Hƣơng) có các sông bọc vòng quanh như một thành đồng hiểm yếu,
29 phía nam giáp An Lão, phía tây tiếp giáp huyện Giáp Sơn".
30
21
Hƣơng Ba Điểm: có lẽ cũng nằm trong lộ Hải Đông.
31
22
Bình Hà: hay Bàng Hà hay huyện Chí Linh, đời nhà Lê sau nầy gọi
32 là huyện Thanh Hà nằm trong phủ Nam Sách, lộ Hải Đông. Huyện
33 Thanh Hà đƣợc bao bọc bởi nhiều nhánh sông lớn giống nhƣ ổ nhện,
34 phía Tây tiếp giáp với thành Đông Hà, phía Đông giáp huyện Tiên
35 Minh. Ngày nay Thanh Hà thuộc huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hƣng và
36 huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
37
23
Na Sản: hay Na Ngạn, huyện Lục Ngạn, gần huyện Vạn Kiếp, phủ
38 Lạng Giang, lộ Bắc Giang; nay là tỉnh Hà Bắc.
39
24
Long Nhãn: tức huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang; nay thuộc Yên
40 Dũng, tỉnh Hà Bắc.
41
25
Bắc Giang thƣợng, Bắc Giang hạ: đời nhà Đinh là đạo Bắc Giang;
42 nhà tiền Lê chia thành châu Cổ Pháp, châu Vũ Ninh, châu Lạng; nhà Lý
43 lấy châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, hộ Vũ Ninh và hộ Lạng Giang.
44 Nhà Trần đổi làm lộ Bắc Giang thƣợng và lộ Bắc Giang hạ. Nhà Lê sau

VSTK - 328
1 nầy đổi thành thừa tuyên Bắc Giang rồi lại đổi là Kinh Bắc; thời Minh
2 Mạng nhà Nguyễn gọi là tỉnh Bắc Ninh; ngày nay thuộc tỉnh Hà Bắc.
3
26
Khu vực Bình Than: tên một bến đò nằm ở địa phận xã Trần Xã,
4 huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, lộ Hải Đông. Địa điểm nầy có thể là
5 tiếp giáp với huyện Chi Lăng.
6
27
Vùng núi Phả Lại: cạnh sông Lục Đầu, đối diện trấn Phả Lại,
7 huyện Chí Linh, Hải Đông (nay là Hải Hƣng).
8
28
Huyện Gia Lâm: phía Tây Nam phủ Thuận An, lộ Bắc Giang hạ; nay
9 thuộc Hà Bắc.
10
29
Huyện Vũ Ninh: sau đổi gọi là huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn; nay
11 là huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc.
12
30
Huyện Đông Ngàn: hay huyện Võ Giàng, thuộc phủ Từ Sơn, nằm ở
13 giữa hai lộ Bắc Giang thƣợng, hạ; nay là huyện Quế Vỏ, tỉnh Hà Bắc.
14
31
Đông Bộ Đầu: tức ngoại ô thành Thăng Long; nay là bến sông
15 Hồng, phía trên cầu Long Biên, Hà Nội.
16
32
Quân dân bị sát hại: theo hai bộ sử cũ thì quân dân ở Bắc Giang hạ
17 ai cũng thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát", nghĩa là giết quân Thát
18 (chữ Thát phiên âm từ chữ Tartar), vì thế quân Mông Nguyên tức giận,
19 tàn sát thẳng tay.
20
33
Đỗ Khắc Chung: chỉ là quan hầu cận riêng của vua nhà Trần chứ
21 không phải là tƣớng đánh trận nhƣng theo sử cũ thì Khắc Chung là một
22 ngƣời ăn nói rất khôn khéo và can đảm khi đối đáp với tƣớng Nguyên
23 Mông Ô Mã Nhi.

TRẦN NHÂN TÔNG (tiếp theo)

24 Ô Mã Nhi xua quân truy đuổi ráo riết vua quan nhà
25 Trần. Trần Quốc Tuấn phải hộ tống Trần Nhân Tông và
26 thƣợng hoàng Trần Thánh Tông chạy sang Hải Đông ,
27 giao cho tƣớng Trần Bình Trọng2 ở lại phủ Thiên
28 Trƣờng làm nút chận sự truy đuổi của quân Nguyên
29 Mông.

VSTK - 329
1 Trần Bình Trọng chận đánh quân của Ô Mã Nhi ở bãi
2 Đà Mạc3 nhƣng chống cự không lại, bị giết. Quân
3 Nguyên Mông tiếp tục truy đuổi về mạn Hải Đông.
4 Ngày mồng 1 tháng 2 năm Ất Dậu (1285), Trần Nhân
5 Tông và Trần Thánh Tông phải đánh lạc hƣớng quân
6 Nguyên rồi dùng ghe nhỏ chạy ra Tam Trì 4 nhƣng vẫn
7 bị truy đuổi cho nên lại phải theo đƣờng bộ chạy đến xã
8 Thủy Chú5 rồi lấy thuyền theo sông Nam Triệu6 (tức
9 sông Bạch Đằng), ra cửa biển Đại Bàng7 vào Thanh Hóa
10 vào khoảng tháng 3 năm Ất Dậu (1285).
11 Trần Ích Tắc7bis đầu hàng quân Nguyên.
12 Ở phía Nam, quân của Toa Đô chiếm các châu Ô,
13 châu Lý, châu Hoan, châu Ái và uy hiếp Nghệ An. Trần
14 Quang Khải chống cự không đƣợc phải rút quân; Trần
15 Kiện8 và Lê Trắc9 trấn thủ Thanh Hóa ra đầu hàng và
16 theo quân Nguyên.
17 Tháng 4 năm Ất Dậu (1285), vì bị chận đứng sức tiến
18 quân trên bộ ở mạn Thanh Hóa, Toa Đô phải dùng
19 đƣờng thủy ven biển đƣa quân từ Nghệ An ra phủ Thiên
20 Trƣờng đóng ở Tây Kết10, nhập với quân của Ô Mã Nhi,
21 chờ phối hợp với quân của Thoát Hoan từ Chƣơng
22 Dƣơng tiến vào Nam để tiêu diệt quân nhà Trần.
23 Tháng 5 năm Ất Dậu (1285), quân Đại Việt bắt đầu
24 phản công: quân của các tƣớng Trần Quang Khải, Trần
25 Quốc Toản, Trần Thông, Nguyễn Khả Lập và Nguyễn
26 Truyền đánh bại quân của Thoát Hoan ở bến Chƣơng
27 Dƣơng, lấy lại Thành Thăng Long. Thoát Hoan thua
28 trận, phải vƣợt sông Phú Lƣơng (sông Lô hay sông
29 Hồng) chạy về Vạn Kiếp nhƣng bị quân của Trần Quốc
30 Tuấn mai phục đón đánh tan nát, cố hết sức mới trốn
31 thoát11 đƣợc về Trung Hoa. Toa Đô và Ô Mã Nhi ở
32 Thiên Trƣờng vẫn không hay biết gì về sự thất trận của
33 Thoát Hoan.
34 Từ Thanh Hoá, Trần Nhân Tông cùng với Trần
35 Thánh Tông tự cầm quân ra vây hãm phủ Thiên Trƣờng:

VSTK - 330
1 từ phía Tây cho quân của Trần Nhật Duật đánh ngang
2 qua phòng tuyến quân của Toa Đô ở cửa sông Hàm Tử,
3 từ Chƣơng Dƣơng đƣa quân của Trần Quốc Toản đánh
4 xuống, quân của Trần Quốc Tuấn từ Chí Linh, Vạn
5 Kiếp giải phóng Hải Đông rồi cũng kéo quân hƣớng về
6 Hàm Tử.
7 Quân Nguyên tan vỡ, từ Hàm Tử rút chạy về Tây Kết
8 gần vùng cửa biển Thiên Trƣờng.
9 Ngày 20 tháng 5 năm Ất Dậu (1285), quân Đại Việt
10 bao vây Tây Kết, tƣớng Nguyên Toa Đô bị giết chết tại
11 trận12, tƣớng Ô Mã Nhi nhân trời tối kéo tàn binh chạy
12 vào Thanh Hóa, quân Đại Việt truy đuổi, bắt sống rất
13 nhiều quân Nguyên13. Ô Mã Nhi phải dùng ghe nhỏ ra
14 cửa sông Thanh Hóa, vƣợt biển trốn thoát về Trung
15 Hoa.
16 Chiến tranh lớn đầu tiên giữa quân Đại Việt và quân
17 ngoại xâm Nguyên Mông kéo dài 3 năm, kể từ năm
18 Nhâm Ngọ (1282) tức là từ khi Thoát Hoan và Toa Đô
19 xuất quân từ Hồ - Quảng cho đến khi Toa Đô bị tử trận
20 vào năm Ất Dậu (1285) ở Tây Kết.
21 Ngày mồng 6 tháng 6 năm Ất Dậu (1285), Trần Nhân
22 Tông và Trần Thánh Tông trở về Thăng Long.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

23
2
Trần Bình Trọng: sử cũ viết: Quân nhà Nguyên đóng ở bãi Tha
24 Mạc, Bình Trọng kéo quân đến đánh chận nhưng bị thua to và bị bắt,
25 Bình Trọng không chịu ăn uống gì. Tướng Nguyên tra hỏi về tình hình
26 quan quân nhà Trần, Bình Trọng không thèm trả lời. Tướng Nguyên dụ
27 ban vương tước, Bình Trọng trả lời :" Thà làm quỉ nước Nam còn hơn
28 làm vương đất Bắc". Vì thế Bình Trọng bị giết chết. Sử cũ cũng cho biết
29 rằng Trần Bình Trọng là thân tộc của Lê Đại Hành, là chồng sau của
30 công chúa Trần thị Thụy Bảo; Thụy Bảo em gái của Trần Thánh Tông,
31 tức là cô của Trần Nhân Tông.
32
3
Bãi Đà Mạc: vùng đất bồi sông Thiên Mạc (hạ lƣu sông Nhị Hà), nay
33 gọi là bãi Mạn Trù thuộc tổng Đông Kết, huyện Châu Giang (trƣớc là
34 Đông An), Hƣng Yên.

VSTK - 331
1
4
Tam Trì: nay gọi sông Ba Chẽ, ở huyện Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng
2 Ninh. Có sách gọi là Tam Trỉ.
3
5
Thủy Chú: nay thuộc tỉnh Quảng Ninh, nhƣng không biết rõ là ở đâu.
4
6
Sông Nam Triệu: tức sông Bạch Đằng.
5
7
Cửa biển Đại Bàng: nay là cửa Văn Úc thuộc huyện Kiến An, Hải
6 Phòng.
7 7bis Trần Ích Tắc: con trai thứ của Trần Thái Tông và Lý Thuận Thiên.

8 ĐVSKTTviết: "Đến 15 tuổi, thông minh hơn người, làu thông kinh sử
9 và xã thuật, luôn luôn có ý tranh đoạt ngôi vua với anh là Trần Thánh
10 Tông và với cháu là Trần Nhân Tông. Ích Tắc đã từng nhờ khách buôn
11 ở trang Vân Đồng đưa thơ qua cho giặc Nguyên Mông mời gọi giặc
12 vào chiếm Đại Việt để mong được làm vua. Sau khi đầu hàng, giặc
13 phong làm An Nam Quốc vương ".
14
8
Trần Kiện: là con vợ lẻ của Trần Quốc Khang. Khang là con trai
15 của Trần Liễu và Lý Thuận Thiên; lúc còn là bào thai 3 tháng, Trần
16 Thủ Độ vì sợ Trần Thái Tông không có con nối ngôi cho nên ép Lý
17 Thuận Thiên phải bỏ Trần Liễu để lấy Trần Thái Tông. Trần Kiện bị
18 ngƣời nhà của Trần Quốc Tuấn bắn chết.
19 Lê Trắc: là kẻ đầu hàng quân Nguyên, sau trở thành ngƣời của nhà
9

20 Nguyên, viết sách An Nam Chí Lƣợc.


21
10
Tây Kết: không thấy có sách cũ nào nói rõ ràng về địa điểm nầy. Trong
22 Địa Dƣ Chí của Phan Huy Chú, đời nhà Lê khoảng năm 1466, có một tên
23 huyện gọi là huyện Đông Yên hay Đông An, thuộc phủ Khoái Châu, thừa
24 tuyên Thiên Trƣờng, tức là Sơn Nam ngày trƣớc. Huyện Đông Yên hay Đông
25 An có 10 tổng, 78 xã. Nhƣ vậy Tây Kết có thể là một tổng hay một xã nằm
26 trong huyện Đông An . Sở dĩ có sự suy đoán nhƣ vậy là vì phủ Khoái Châu
27 thời trƣớc thuộc tỉnh Nam Định và gồm có các huyện Ân Thi (trƣớc là Thiên
28 Thi), Kim Động, Phù Tiên (gộp 2 huyện Phù Dung + Tiên Lữ để thành huyện
29 Phù Tiên), Châu Giang (có thể là huyện Đông An cũ) và trong huyện Châu
30 Giang của tỉnh Hải Hƣng hiện giờ có một thôn tên là Đông Kết ở xã Đông
31 Bình; ngày nay thôn Đông Kết nằm cách khoảng 3-5 cây số ở phần hạ lƣu
32 sông Hồng: nhƣ vậy có lẽ thôn Tây Kết cũng nằm ven và ở phía bờ bên kia hạ
33 lƣu sông Hồng, đối diện thôn Đông Kết.
34
11
Thoát Hoan trốn thoát về Trung Hoa: ĐVSKT viết rằng Thoát Hoan
35 phải chui trốn vào một loại chung khạp bằng đồng và đƣợc tùy tƣớng là Lý
36 Quán ôm chạy về Tàu.
37
12
Toa Đô bị giết tại trận: theo An Nam Chí Lƣợc của Lê Trắc thì Toa Đô
38 phóng ngựa xuống nƣớc chết còn theo sử sách của Nguyên Mông thì Toa Đô
39 chết ở sông Cầu.
40
13
Bắt sống rất nhiều quân giặc: hai bộ sử cũ viết rằng quân Nguyên Mông
41 bị quan quân nhà Trần bắt hơn 50,000 tù binh.

VSTK - 332
TRUNG HOA
Thu Vật * TÜ Minh

Bạch Hạt
Chi Lăng * * Khả Lỵ
Phù Ninh* * Nội Bàng
* Vạn Kiếp

Thăng Long 
ChÜÖng DÜÖng
Hàm Tử
Tây Kết
Thiên TrÜ©ng
TrÜ©ng Yên

ÁI CHÂU

DIỄN CHÂU

ĐÔNG HẢI

GHI CHÚ : HOAN


CHÂU

Quân Đại Việt phản công

Quân Đại Việt chận đánh CHÂU Ô

CHÂU LÝ
Hướng xâm nhập và tấn công
của quân Nguyên.
CHÀM
Hư ớ ng rút chạy của quân Nguyên

Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 (1258) [H. 1526]

VSTK - 333
TRUNG HOA

Hướng tiến của quân Nguyên


Hướng rút chạy của quân Nguyên BIỂN ĐÔNG
Quân nhà Trần chận đánh
Quân nhà Trần phản công
Quân nhà Trần phục kích
Đoàn quân của Ô Mã Nhi
Đoàn thuyền tải quân lương của Trương Văn Hổ
Đoàn quân của Thoát Hoan
Khu căn cứ quân sự của Nguyên Mông.

Kháng chiến của quân dân Đại Việt chống quân xâm lược
Nguyên Mông lần thứ 3 (1287 – 1288)

[H. 1529]

VSTK - 334
QUYỂN II

THỜI DẠI TỰ CHỦ

ĐẠI PHÁ GIẶC NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ BA1

CHƢƠNG III

TRẦN NHÂN TÔNG (tiếp theo)


Niên hiệu: Thiệu Bảo (1272-1284)
Trùng Hưng (1285-1293)

1 Năm Ất Dậu, Thiệu Bảo năm thứ 7, ngày mồng 6


2 tháng 6 (1285), sau khi đánh đuổi hết quân Nguyên
3 Mông chạy về Trung Hoa, Trần Nhân Tông cùng
4 thƣợng hoàng Trần Thánh Tông trở về Thăng Long.
5 Phong thƣởng cho các quan quân có công trong trận
6 chiến phòng thủ và đánh đuổi quân Nguyên, trị tội
7 những kẻ theo quân ngoại xâm. Trả tù binh Chiêm
8 Thành đã2 đi theo trợ lực quân Nguyên Mông.
9 Tháng 9 đổi niên hiệu là Trùng Hưng năm thứ 1
10 (1285).
11 Bính Tuất, Trùng Hưng năm thứ 2, tháng Giêng
12 (1286), tha cho tù binh Nguyên Mông đƣợc trở về
13 Trung Hoa.
14 Trong khi vua Nguyên Mông3 ở bên Trung Hoa đang
15 chuẩn bị quân số và chiến thuyền để đánh Nhật Bản4 thì
16 Thoát Hoan và Ô Mã Nhi bị thua trận ở Đại Việt chạy
17 về.
18 Tháng 3, Nguyên Mông sai sứ sang chiêu dụ5 Đại
19 Việt thần phục nhƣng không đƣợc Đại Việt đáp ứng
20 theo ý muốn.
21 Tháng 6, Trần Nhân Tông giao cho Trần Quốc Tuấn
22 việc đốc thúc các vƣơng hầu tôn thất tự mộ quân, chế
23 tạo vũ khí, đóng thuyền chiến để phòng bị.
24 Tháng 10, kiểm tra chƣơng trình huấn luyện và thao
25 diễn tập trận cho các đoàn quân mới mộ đƣợc.

VSTK - 335
1 Đinh Hợi, Trùng Hưng năm thứ 3, tháng 2 (1287),
2 Thiên Cảm Trần thị hoàng thái hậu mất.
3 Quân số Nguyên Mông đƣợc điều động để chuẩn bị
4 xâm lăng Đại Việt lần nầy gồm có:
5  Đoàn quân dự trù để đánh Nhật Bổn ngày trƣớc
6 gồm có : 500,000 quân và 300 chiến thuyền6.
7  Lấy thêm 76,000 quân từ Giang Hoài, Hồ Quảng,
8 Giang Tây, Vân Nam.
9  Thêm 200 chiến thuyền7 cùng với 15,000 quân ở
10 đảo Hải Nam8.
11  Sai tƣớng vạn hộ Hải đạo Trƣơng Văn Hổ giữ
12 nhiệm vụ tiếp tế lƣơng thực9 bằng đƣờng biển.
13  Cử các tƣớng Áo Lỗ Xích, A Bát Xích, Ô Mã
14 Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy các đoàn quân Nguyên Mông
15 dƣới quyền tổng tƣ lệnh của Thoát Hoan.
16 Tháng 11,Thoát Hoan thống lĩnh đoàn bộ binh từ Vân
17 Nam, Quảng Tây, Quảng Đông tiến đến phủ Tƣ Minh10,
18 tràn sang đánh chiếm Lạng Sơn. Trình Bằng Phi và Áo
19 Lỗ Xích đem 20,000 quân đánh chiếm Chi Lăng rồi chia
20 quân đóng doanh trại ở vùng núi Phả Lại và vùng núi
21 Chí Linh.
22 Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp theo đƣờng biển tiến đánh
23 bến cảng Vân Đồn. Tƣớng Trần Khánh Dƣ của nhà
24 Trần trấn lãnh vùng bờ biển dàn quân ra đón đánh
25 nhƣng bị thua phải rút chạy; Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp
26 chuyển hƣớng quân xuống vùng cửa sông Bạch Đằng.
27 Thoát Hoan ra lệnh đánh chiếm Vạn Kiếp từ 3 hƣớng:
28 quân của Trình Bằng Phi và Áo Lỗ Xích tiến quân từ
29 Chí Linh, Phả Lại đánh xuống, quân của Ô Mã Nhi và
30 Phàn tiếp từ phía hạ lƣu sông Bạch Đằng đánh lên, quân
31 của Thoát Hoan từ hƣớng Bắc Giang thƣợng đánh
32 xuống. Quân nhà Trần đem quân đón chận quân Thoát
33 Hoan ở cửa sông Đại Than11 nhƣng không cản đƣợc
34 quân Nguyên. Thủy quân nhà Trần truy cản không nổi

VSTK - 336
1 thủy quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp ở Đa Mỗ 12 mặc
2 dù quân Nguyên có bị thiệt hại.
3 Vạn Kiếp thất thủ. Quân Nguyên toàn bộ hƣớng về
4 vùng sông Phú Lƣơng13 uy hiếp kinh đô Thăng Long,
5 bỏ ngõ vùng bờ biển lộ Hải Đông.
6 Tháng 11, năm Đinh Hợi (1287), Trần Nhân Tông và
7 Trần Thánh Tông lại phải rời Thăng Long chạy về phủ
8 Thiên Trƣờng, rồi xuống phủ Long Hƣng14.
9 Mậu Tý, Trùng Hưng năm thứ 4 (1288) tháng Giêng,
10 bị Ô Mã Nhi truy đuổi tới Long Hƣng, 2 vua nhà Trần
11 lại phải chạy, dùng đƣờng thủy vào Thanh Hóa.
12 Tháng 2, năm Mậu Tý, truy đuổi không kịp vua nhà
13 Trần, Ô Mã Nhi liền từ Long Hƣng kéo quân ngang qua
14 đánh chiếm An Hƣng15 ở Hải Đông rồi đóng quân ở lại
15 để chờ đón đoàn thuyền chở lƣơng thực của Trƣơng
16 Văn Hổ đƣa vào từ cửa biển Đại Bàng.
17 Trong lúc đó, đoàn thuyền do tƣớng Trƣơng Văn Hổ
18 chỉ huy tiến vào vùng biển bến cảng Vân Đồn. Thừa cơ
19 hội vắng quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, tƣớng Trần
20 Khánh Dƣ liền quay trở lại Vân Đồn chận đánh, tiêu
21 diệt và nhận chìm toàn bộ đoàn thuyền chở lƣơng thực
22 của Trƣơng Văn Hổ.
23 Ô Mã Nhi đợi lâu không thấy tin tức gì của Trƣơng
24 Văn Hổ liền đốt phá sạch trại An Hƣng rồi rút quân về
25 Vạn Kiếp.
26 Tháng 3, (1288), quân Nhà Trần phản công.
27 Quân Nguyên Mông bắt đầu thiếu lƣơng thực và
28 nhiễm bệnh vì không hạp khí hậu, thời tiết. Các tƣớng
29 Nguyên Mông đề nghị với Thoát Hoan rút quân. Thoát
30 Hoan đồng ý; lệnh cho Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp kéo
31 quân và thuyền chiến, theo dƣờng sông Bạch Đằng ra
32 biển còn Thoát Hoan, Trình Bằng Phi, A Bát Xích và
33 Áo Lỗ Xích rút quân theo đƣờng bộ qua cửa ải Nội
34 Bàng16.

VSTK - 337
1 Đƣợc tin quân Nguyên đang ở thế nao núng rút quân,
2 Trần Quốc Tuấn liền đóng cọc nhọn ở gần cửa sông
3 Bạch Đằng làm chƣớng ngại vật không cho thuyền
4 chiến của quân Nguyên thoát ra biển. Đợi lúc nƣớc triều
5 đang lên, trong khi đoàn thuyền của quân nguyên trên
6 sông Bạch Đằng di chuyển ra cửa biển rất chậm vì
7 ngƣợc dòng thủy triều, Trần Quốc Tuấn lệnh cho thủy
8 quân của tƣớng Nguyễn Khoái giả trá truy đuổi khiêu
9 khích, thuyền chiến quân Nguyên quay lại nghênh
10 chiến, thủy quân nhà Trần lại giả thua, vừa cầm cự vừa
11 thối lui để cho thủy quân Nguyên đuổi theo sâu vào phía
12 thƣợng nguồn. Đến lúc nƣớc triều bắt đầu xuống,
13 Nguyễn Khoái tung toàn bộ thủy binh ra hỗn chiến,
14 quân Nguyên nao núng xuôi dòng thủy triều đang
15 xuống, lợi dụng sức nƣớc chảy nhanh để thoát ra biển
16 nhƣng khi gần đến cửa Đại Bàng bị vƣớng cọc nhọn,
17 thuyền chiến và thủy binh giặc bị nhận chìm vô số; cùng
18 một lúc, đoàn chiến thuyền của Trần Nhân Tông từ cửa
19 Đại Bàng đánh ép vào: quân Nguyên bị tiêu diệt gần hết
20 trên sông Bạch Đằng, tƣớng Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ,
21 Phàn Tiếp bị bắt sống tại trận. Quân Nhà Trần tịch thu
22 đƣợc hơn 400 thuyền chiến và bắt đƣợc rất nhiều tù
23 binh, tàn binh của quân Nguyên rút thuyền chạy về
24 hƣớng đảo Hải Nam.
25 Ở mặt trận trên bộ, Thoát Hoan hay tin quân của Ô
26 Mã Nhi bị đánh tan trên sông Bạch Đằng, liền vội vã
27 dẫn bọn Trình Bằng Phi, A Bát Xích, Áo Lỗ Xích,
28 Trƣơng Quân, Trƣơng Ngọc đi đƣờng bộ chạy về hƣớng
29 cửa ải Nội Bàng nhƣng bị quân nhà Trần17 chận đánh và
30 truy đuổi đến cửa ải Nữ Nhi18 và núi Kheo Cấp19. Tƣớng
31 Nguyên Trƣơng Ngọc, A Bát Xích bị giết tại trận, Thoát
32 Hoan phải chạy sang Lộc Châu20, dùng đƣờng tắt về phủ
33 Tƣ Minh rồi cùng với Áo Lỗ Xích thu thập tàn quân rút
34 chạy về Trung Hoa.

VSTK - 338
1 Ngày 27 tháng 3 năm Mậu Tý (1288),Trần Nhân
2 Tông cùng với Trần Thánh Tông trở về Thăng Long.

CHÚ GIẢI & THẢO LUẬN:


3
1
Đại phá quân Nguyên Mông lần thứ ba: Quân Nguyên Mông sang
4 xâm lƣợc Đại Việt trƣớc sau tất cả là 3 lần :
5  lần thứ nhứt vào tháng 12 năm Đinh Tỵ (1257) do tƣớng Ngột
6 Lƣơng Hợp Thai cầm quân (sử cũ không chép số lƣợng quân Nguyên là
7 bao nhiêu).
8  lần thứ nhì vào tháng 12 năm Giáp Thân (1284) do Thoát
9 Hoan, Ô Mã Nhi và Toa Đô thống lãnh 500,000 quân thủy bộ sang xăm
10 lăng, bị quan quân nhà Trần và nhân dân Đại Việt đánh tan vào tháng 6
11 năm Ất Dậu (1285).
12  lần thứ 3, gần 600,000 giặc Nguyên Mông bắt đầu xâm phạm
13 Đại Việt vào ngày 11 tháng 11 năm Đinh Hợi (1287) và bị quét sạch
14 vào ngày mồng 8 tháng 3, năm Mậu Tý(1288) với chiến thắng to lớn
15 trên bến Vân Đồn và trên sông Bạch Đằng.
16 Đó là chƣa kể lần Nguyên Mông gây sự, sai tƣớng Sài Thung mang
17 1000 quân hộ tống đƣa Trần Di Ái và tùy thuộc trở về Đại Việt để làm
18 vua nhƣng bị quân nhà Trần chận đánh từ ngoài cửa ải biên giới vào
19 tháng Giêng, năm Tân Tỵ (1281).
20
2
Trả tù binh Chiêm Thành: hai tƣớng Chiêm Thành và 30 tù binh bị
21 quân nhà Trần bắt nay sai sứ đƣa trả bọn nầy về nƣớc.
22
3
Vua Nguyên Mông: lúc đó là Hốt Tất Liệt (Koubilai).
23
4
Chuẩn bị quân số và thuyền chiến để đánh Nhật Bản:theo
24 ĐVSKTT thì số quân đƣa sang đánh Đại Việt lần nầy là 500,000 quân
25 và 300 thuyền chiến đã chuẩn bị từ trƣớc dùng để đánh Nhật Bản nay
26 lại dùng để làm bộ phận chủ lực. Số quân nầy lấy từ 3 tỉnh Chiết Giang,
27 Hồ Quảng, Giang Tây; lại lấy thêm lính ở Vân Nam và lính ngƣời Lê ở
28 đảo Hải Nam và dành riêng một đoàn thuyền đi biển để chở lƣơng thực.
29 Tuy nhiên theo KĐVSTGCM thì đoàn quân chủ lực lấy từ ở các tỉnh
30 Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây tất cả chỉ có bảy vạn quân (70,000),
31 cộng thêm 6,000 lính ở Vân Nam và một vạn năm ngàn (15,000) lính
32 ngƣời Lê cùng với 500 chiếc thuyền tức là theo KĐVSTGCM, đoàn
33 quân Nguyên Mông lần nầy chỉ có 90,000; hoặc là con số nầy chỉ là
34 con số tăng cƣờng để cộng thêm vào số quân đã có sẵn mà trƣớc đó đã
35 dự trù dùng đánh Nhật Bản chứ không lý nào lần trƣớc quân Nguyên
36 Mông với một đội quân 500,000 ngƣời đã bị thảm bại với quân nhà
37 Trần mà lần nầy quyết đánh trả thù lại chỉ đem có 100,000 quân vào
38 Đại Việt. Có một điểm cần chú ý ở đây là những ngƣời viết
39 KDVSTGCM và nhất là vua Tự Đức thƣờng có những lời cẩn án hoặc
40 lời phê hạ thấp giá trị các chiến công của những triều đại trƣớc, lần nầy

VSTK - 339
1 lại chép theo sách sử của Nguyên Mông cho nên con số chƣa tới
2 100,000.
3
5
Nguyên Mông sai sứ sang chiêu dụ: việc nầy theo ĐVSKTT thì xảy
4 ra vào tháng 2 năm Bính Tuất (1286), sau khi nhà Trần thả tù binh
5 Nguyên Mông về Trung Hoa nhƣng không nói rõ là sứ Nguyên Mông
6 sang lần nầy với mục đích gì. Tuy nhiên có thể suy định rằng, vì muốn
7 rảnh tay để xăm lăng Nhật Bản cho nên sứ Nguyên mới sang Đại Việt
8 để dụ nhà Trần chịu thần phục nhƣng triều đình nhà Trần không chịu
9 cho nên quân Nguyên lại gây hấn. Đây là một sự may mắn cho Nhật
10 Bản nhƣng lại là một đại bất hạnh cho nhân dân Đại Việt.
11
6
300 chiến thuyền: ĐVSKT chép 300 chiến thuyền và 50 vạn quân;
12 KĐVSTGCM chép 500 chiếc thuyền. Con số 300 ở đây nhất định phải
13 là số chiến thuyền đã có từ lúc dự định đánh Nhật Bản; sau đó, khi
14 quyết định xâm lăng Đại Việt lần thứ ba, Nguyên Mông mới tăng
15 cƣờng thêm 200 chiếc thuyền nữa vì lần nầy ngoài thuyền chiến, quân
16 Nguyên còn cần thêm thuyền để cho tƣớng Trƣơng Văn Hổ chuyên chở
17 lƣơng thực bằng đƣờng biển. Nhƣ vậy con số 500 chiếc thuyền ghi
18 trong KĐVSTGCM là hợp lý.
19
7
Thêm 200 chiến thuyền: xem chú giải(5) trên.
20
8
Đảo Hải Nam: một hòn đảo lớn nằm ở phía Đông Nam hải phận
21 nƣớc Trung Hoa và vào thời nầy gồm có 4 châu Nhai, Quỳnh, Đạm,
22 Vạn. Trên đảo nầy có một sắc tộc gọi là ngƣời Lê.
23
9
Tiếp tế lƣơng thực: ĐVSKTT viết là chở 700,000 thạch lƣơng thực;
24 mỗi thạch có 10 đấu. Con số nầy hợp lý vì phải nuôi ăn cho hơn
25 500,000 quân và cũng vì số lƣợng lớn nhƣ thế cho nên phải tổ chức
26 riêng một đoàn ghe đi biển để chuyển vận số lƣơng thực nầy vào Đại
27 Việt.
28
10
Phủ Tƣ Minh: nay là phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây, giáp giới với
29 Lạng Sơn của Đại Việt.
30
11
Cửa sông Đại Than: ở Xã Đại Than, huyện Gia bình, phủ Thuận
31 Thiên, trấn Kinh Bắc; nay là huyện Gia Lƣơng, tỉnh Hà Bắc tức là cửa
32 sông Đuống.
33
12
Đa Mỗ: vùng cửa sông Bạch Đằng. Đây là trận đánh chận cánh quân
34 của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đang từ hƣớng Vân Đồn tiến xuống sau khi
35 đánh bại tƣớng trấn thủ mặt biển của nhà Trần là Trần Khánh Dƣ. Vùng
36 nầy bây giờ là vùng mũi Ngọc, gần thị trấn Móng Cái.
37
13
Sông Phú Lƣơng: bây giờ là sông Nhị Hà, Hà Nội.
38
14
Phủ Long Hƣng: là đất huyện Đa Cƣơng cũ. Vì mộ tổ nhà Trần chôn
39 ở đó nên đổi gọi là Long Hƣng. Nay là huyện Đông Hƣng, tỉnh Thái
40 Bình. Khi Ô Mã Nhi đánh đuổi, vua nhà Trần chạy trốn về đây nhƣng
41 Ô Mã Nhi truy đuổi tiếp. Khi vào Long Hƣng, Ô Mã Nhi đã khai quật
42 mộ chôn Trần Thái Tông để trả thù lần thất trận ngày trƣớc.
43
15
An Hƣng: thuộc lộ Hải Đông, nay thuộc vùng huyện Yên Hƣng, tỉnh
44 Quảng Ninh.

VSTK - 340
1
16
Cửa ải Nội Bàng: theo KĐVSTGCM thì cửa ải nầy thuộc Lạng
2 Giang (tức Lạng Sơn). Địa Dƣ Chí của Phan Huy Chú không thấy có
3 tên cửa ải Nội Bàng trong vùng Lạng Giang mà chỉ có ải Chi Lăng, Ôn
4 Châu (nay là phố Kỳ Lừa ở Đồng Đăng), và cửa ải Trấn Nam còn gọi là
5 Mục Nam ở phía Bắc ải Chi Lăng. Có sách viết ngày nay là vùng Chủ,
6 tỉnh Hà Bắc.
7
17
Quân nhà Trần chận đánh: không rõ do tƣớng nào của nhà Trần chỉ
8 huy nhóm quân nầy; có sách viết là do tƣớng Phạm Ngũ Lão chỉ huy
9 đánh phục kích quân rút lui của Thoát Hoan.
10
18
Cửa ải Nữ Nhi: giống nhƣ trƣờng hợp cửa ải Nội Bàng vừa chú giải
11 ở trên.
12
19
Núi Kheo Cấp: trong vùng cửa ải Trấn Nam. Theo LTHCLC thì ở
13 cửa ải nầy, hai bên trái, bên phải núi kéo liền nhau, chắn ngang nhƣ cái
14 thành, là mốc giới tự nhiên để ngăn cách bờ cõi của nƣớc Nam và nƣớc
15 Trung Hoa. Ngoài ra còn có cửa ải Quỉ Môn: tƣớng Liễu Thăng của nhà
16 Minh bị Lê Lợi chém rơi đầu ở cửa ải nầy.
17
20
Lộc Châu: theo KDVSTGCM, thời Nguyên Mông, Lộc Châu thuộc
18 lộ Tƣ Minh của nƣớc Trung Hoa. Đến năm 1426 thì Châu Lộc bị Bình
19 Định vƣơng Lê Lợi đánh chiếm và trở thành lãnh thổ của Đại Việt.
20 Ngày nay là châu Lộc Bình, thuộc tỉnh Lạng Sơn.

KHẢO LUẬN:
 Về các chiến công của quan quân nhà Trần :

21 Ngƣời ta thƣờng nhận định rằng: ngựa chứng là ngựa hay, ngƣời có
22 tài thƣờng là ngƣời có tật. Áp dụng vào dòng họ nhà Trần thì nhận định
23 nầy có vẻ khá đúng. Tài đánh trận, chỉ huy binh sĩ, tham mƣu chiến
24 lƣợc, chiến thuật thì phải nói rằng khó có ngƣời so sánh đƣợc với Hƣng
25 Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn; đó là về mặt "tài". Về mặt trung hiếu thì
26 ĐVSKTT viết về viên tƣớng nầy nhƣ sau: "Lúc ấy, xa giá nhà vua
27 phiêu giạt lênh đênh, lại có Trần Quốc Tuấn tài ba đi theo hộ tống.
28 Nhưng vì Quốc Tuấn có mối hận cũ với Trần Thái Tông (Trần Thái
29 Tông đã chiếm đoạt vợ của Trần Liễu là cha ruột Trần Quốc Tuấn), nên
30 nhiều người nghi ngại Quốc Tuấn nhân dịp nầy sẽ làm điều càng bậy
31 để rữa hận cho cha mình. Quốc Tuấn theo vua, tay cầm gậy chỉ huy có
32 bịt sắt nhọn, nhưng vì thấy mọi người nghi ngờ e ngại cho nên bẻ gãy
33 đầu sắt nhọn vứt đi ".
34 Ngô Sĩ Liên có lời bàn về việc nầy nhƣ sau: "Bậc đại thần ở vào
35 hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thật tin tưởng nhau,
36 phải sáng suốt khéo xử sự thì mới có thể giữ được tròn danh dự, tạo
37 nên sự nghiệp. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần
38 đã làm được như vậy ".
39 "Tật xấu" của ngƣời danh tƣớng nầy là chuyện giựt vợ của ngƣời
40 khác, mà vai vế của ngƣời đàn bà nầy lại thuộc vào hàng cô dì ruột của

VSTK - 341
1 mình. Nƣớc Pháp có danh tƣớng Napoléon cũng rất luộm thuộm về
2 vấn đề đàn bà. Tuy nhiên tật xấu của Trần Quốc Tuấn đúng ra cũng chỉ
3 là cùng một nòi của dòng họ nhà Trần mà thôi.
4 Viên tƣớng tài ba thứ nhì của nhà Trần là Nhân Huệ vƣơng Trần
5 Khánh Dƣ. Đây là một nhân vật có công rất lớn trong công cuộc chống
6 giữ và đánh đuổi quân ngoại xâm nhƣng cũng là hiện thân của một con
7 ngƣời tầm thƣờng, tham nhũng, keo kiệt và cũng lăng nhăng, luộm
8 thuộm, rắc rối với đàn bà. Ngƣời Trung Hoa có câu: "Vân Đồn kê
9 khuyển diệc giai kinh" (Ở bến Vân Đồn gà chó thảy đều kinh sợ), câu
10 nầy có ý chửi Trần Khánh Dƣ tham lam, thô bỉ nhƣ loài gà chó. Về
11 mặt liên hệ với đàn bà, viên tƣớng nầy đã thông dâm với công chúa
12 Thiên Thụy.(Thiên Thụy con gái của Trần Thánh Tông, vợ của Hƣng
13 Vỏ Vƣơng Hiển, con trai cả của Trần Quốc Tuấn).
14 Chiêu Văn vƣơng Trần Nhật Duật, là nguời nhã nhặn, độ lƣợng,
15 thông hiểu kinh điển và là một tƣớng giỏi có mƣu lƣợc, đã từng cho
16 đoàn quân của mình giả dạng quân Tống khiến cho quân Nguyên
17 Mông phải rút chạy vì tƣởng rằng quân Đại Việt có thêm quân nhà
18 Tống đánh giúp. Cũng nhờ viên tƣớng nầy kiên quyết phòng thủ mà
19 đạo quân của Toa Đô từ Chiêm Thành tràn qua không thể đi ngang qua
20 Thanh Hóa để hợp quân với Thoát Hoan. Với cách giả dạng quân nhà
21 Tống nhƣ vừa kể, Trần Nhật Duật đã cùng với Trần Quốc Toản và
22 tƣớng Nguyễn Khoái chận đánh Toa Đô ở bến Hàm Tử và đuổi quân
23 Nguyên chạy về hƣớng phủ Thiên Trƣờng để đoàn quân của Trần
24 Quốc Tuấn tiêu diệt ở mặt trận Tây Kết.
25 Chiêu Minh Vƣơng Trần Quang Khải là viên tƣớng chỉ huy đánh
26 trận Chƣơng Dƣơng, giải phóng thành Thăng Long và đuổi chạy tƣớng
27 Nguyên sừng sỏ Toa Đô. Sau đó viên tƣớng nầy đã cùng Trần Nhật
28 Duật chia quân án ngữ, cắt đứt sự tiếp ứng lẫn nhau giữa quân của Toa
29 Đô ở phía Nam và quân của Thoát Hoan đang trốn chạy ở mạn Bắc, để
30 cho đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh dứt điểm quân Nguyên ở
31 Tây Kết, Toa Đô bị chết tại trận, Ô Mã Nhi lẩn trốn ra Thanh Hóa rồi
32 chạy về Trung Hoa. Còn ở mạn Bắc, tƣớng Nguyễn Khoái chỉ huy
33 quân phục kích ở Vạn Kiếp để chờ đoàn quân tháo chạy của Thoát
34 Hoan. Trong trận phục kích nầy, tƣớng Nguyên là Lý Nguyên chết tại
35 trận, còn Thoát Hoan phải chui vào một chum đồng để cho đội quân bại
36 trận vác chạy về Trung Hoa.
37 Sử cũ hầu nhƣ không viết gì nhiều về Nguyễn Khoái, viên tƣớng tài
38 giỏi và lập đƣợc rất nhiều công trạng cho nhà Trần. Chỉ biết rằng sau
39 khi dẹp yên quân ngoại xâm Nguyên Mông, Trần Nhân Tông gia phong
40 cho Nguyễn Khoái chức hầu và đƣợc ban cấp một làng gọi là Khoái Lộ
41 (tức là Phủ Khoái Châu).
42 Giai thoại về tƣớng trẻ Trần Quốc Toản đƣợc sử cũ viết nhƣ sau:
43 Khi ấy, vua thấy Hoài Văn hầu Quốc Toản, Hoài Nhân vương Kiện
44 đều còn trẻ tuổi, không cho bàn việc quốc sự. Quốc Toản lòng hổ thẹn

VSTK - 342
1 phẫn nộ, quả cam đang cầm trong tay bị bóp nát lúc nào mà cũng
2 không hay biết.. Sau đó Quốc Toản lui về tập hợp hơn nghìn tùy thuộc
3 gia nô, rèn đút vũ khí, đóng thuyền chiến, viết lên lá cờ hiệu dòng chữ
4 "Phá cường địch, báo hoàng ân"(phá giặc mạnh để đền đáp những ân
5 sủng của vua đã ban cho). Sau nầy khi đánh với giặc, luôn luôn đi đầu
6 để chỉ huy. . ."
7 Tƣớng Trần Bình Trọng là một mẫu mực trung hiếu và khí tiết, thà
8 chết chứ không vì danh lợi mà phản bội tổ quốc. Ông là dòng dõi Lê
9 Đại Hành. Dƣới triều Trần, gia tộc ông đƣợc mang họ Trần. Thời chống
10 quân ngoại xâm Nguyên Mông, ông bị bắt, quân Nguyên dụ hàng và
11 hứa phong vƣơng tƣớc nhƣng ông từ khƣớc: "Thà làm ma nước Nam,
12 không làm vương đất Bắc". Rồi bị giết.
13 Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông là
14 những ngƣời sáng suốt và bất khuất, biết nghe ý dân, biết tin tƣởng vào
15 sức chiến đấu của quân dân Đại Việt và nhất là luôn luôn ở bên cạnh,
16 cùng sống chết với binh sĩ của mình để chiến đấu chống ngoại xâm.

 Hội Nghị Diên Hồng:

17 Đây là một sự sáng tạo chƣa từng có ở vùng Á Châu vào thời đó,
18 một hình thức trƣng cầu dân ý lần đầu tiên xảy ra trên đất nƣớc của bộ
19 tộc Việt Nam. Lúc đó, trong nội bộ hàng vƣơng tộc có rất nhiều kẻ chủ
20 bại muốn đầu hàng cƣờng địch nhƣng cuối cùng tiếng nói của ngƣời
21 dân ở thềm điện Diên Hồng đã đoàn kết quân dân một lòng đánh đuổi
22 quân xăm lăng đến từ nƣớc Trung Hoa. Đây là một đóng góp lớn lao
23 của Trần Thánh Tông khi đang ở địa vị thƣợng hoàng cùng chia xẻ lo
24 việc quốc sự với Trần Nhân Tông. Về sự kiện nầy, Ngô Sĩ Liên đã có
25 nhận định nhƣ sau: "Giặc Hồ (tức là giặc Nguyên Mông) vào cướp là
26 nạn lớn của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bày tôi họp bàn há lại không
27 có kế sách gì chống giặc hay sao mà lại phải cần ban yến hỏi kế ở các
28 phụ lão? Đó chẳng qua là vì muốn biết lòng dân có ủng hộ chính sách
29 của triều đình hay không nhưng đồng thời cũng là để khích động ý chí
30 quật cường chống ngoại xăm của người dân. Đó cũng còn là một việc
31 làm có ý nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay tiếng đẹp vậy".
32 Tự Đức là một ngƣời tự cao tự đại, khinh mạn nhƣng rốt cuộc cũng
33 phải công nhận những công trạng hiển hách của vua quan nhà Trần qua
34 lời phê nhƣ sau: "Lúc bấy giờ nhà Nguyên mới nổi lên, khí thế lừng lẫy
35 bạo ngược. Nhà Trần cũng vừa mới nổi lên, được các vua Thái Tông,
36 Thánh Tông, Nhân Tông sáng suốt và các hàng quan văn tướng võ có
37 tài cán cho nên đã đánh bại được giặc, giữ được nước, chứ nếu như
38 gặp các vua tôi khác không được anh dũng trung hiếu như vua tôi nhà
39 Trần hay ở vào lúc không được hưng thịnh như lúc nhà Trần mới nổi
40 lên thì tình thế không biết sẽ ra sao".

VSTK - 343
TRẦN NHÂN TÔNG (tiếp theo)

1 Năm Mậu Tý, ( 1288) tháng 4, miễn giảm thuế tô,


2 thuế dịch cho dân chúng bị thiệt hại vì chiến tranh và ở
3 những nơi bị giặc tàn phá, cƣớp bóc nhiều lần.
4 Tháng 9, Trần thị Thiên Thành vợ của Trần Quốc
5 Tuấn chết.
6 Tháng 10, sai Đỗ Thiên Hƣ đi sứ sang Trung Hoa để
7 điều đình việc bang giao với triều đình Nguyên Mông.
8 Kỷ Sửu, Trùng Hưng năm thứ 5, tháng 2 (1289), đƣa
9 trả cho nhà Nguyên Mông tƣớng Tích Lệ Cơ Ngọc và
10 tro cốt của Phàn Tiếp cùng các tù binh khác đồng thời
11 giả trá nhắn tin rằng Ô Mã Nhi bị đắm thuyền chết1.
12 Tháng 4, xét thƣởng cho những ngƣời có công trong
13 cuộc chống ngoại xâm Nguyên Mông; những ngƣời có
14 thành tích, lập nhiều công trạng đặc biệt đều đƣợc
15 xƣớng danh, họa hình vào tập Trùng Hưng Thực Lục2.
16 Xét tội những vƣơng, hầu hoặc các quan lại đã đầu
17 hàng và hợp tác với quân ngoại xâm. Trong dịp xét tội
18 nầy, dân ở hai làng Bàng Hà và Bà Điểm bị xử tội đồ
19 làm nô tỳ cho các vƣơng hầu vì dân trong hai làng đó
20 khi quân Nguyên mới đến đã ra đầu hàng ngay; từ nay
21 trở đi dân của hai làng nầy cũng bị cấm không đƣợc tiến
22 thân làm quan với triều đình.
23 Canh Dần, Trùng Hưng năm thứ 6 (1290), bổ nhiệm
24 hàng quan văn chia nhau đi cai trị các lộ. Trần Nhân
25 Tông tự cầm quân đánh Ai Lao vì sợ Ai Lao lợi dụng
26 tình thế chƣa ổn định ở Đại Việt mang quân đánh úp bất
27 ngờ.
28 Tháng 5, ngày 25, năm Canh Dần (1290), Trần Thánh
29 Tông mất, làm vua 21 năm, giữ ngôi thƣợng hoàng 13
30 năm, thọ 51 tuổi, chôn ở phủ Long Hƣng.
31 Lệnh bổ dụng Phạm Ngũ Lão quản lĩnh đoàn quân
32 Thánh Dực.

VSTK - 344
1 Tháng 8, sai sứ sang báo tang với vua Nguyên Mông.
2 Dân chúng bị nạn đói to. Lệnh miễn xá thuế và lấy
3 thóc trong kho cứu đói cho dân nghèo.
4 Tân Mão, Trùng Hưng năm thứ 7, tháng 10 (1291),
5 sứ Nguyên Mông sang mang chiếu lệnh bắt Trần Nhân
6 Tông phải đích thân sang chầu. Trần Nhân Tông khƣớc
7 từ và chỉ cử sứ thần đi thay vào năm sau (Nhâm Thìn/
8 1292).
9 Nhâm Thìn, Trùng Hưng năm thứ 8, tháng 2 (1292),
10 lập thái tử Trần Thuyên làm hoàng thái tử. Đƣa con gái
11 trƣởng của Hƣng Nhƣợng vƣơng Trần Quốc Tảng về
12 làm phi cho thái tử Thuyên.
13 Quý Tỵ, ngày 9 tháng 3, Trùng Hưng năm thứ 9
14 (1293), Trần Nhân Tông nhƣờng ngôi cho hoàng thái tử
15 Trần Thuyên.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

16
1
Giả trá nhắn tin về việc Ô Mã Nhi bị đắm thuyền chết: về việc
17 nầy, ĐVSKTT và KĐVSTGCM chép không giống nhau. ĐVSKTT
18 chép:" Sai nội thư gia Hoàng Tá Thốn đưa bọn Ô Mã Nhi về nước rồi
19 dọc đường dùng kế của Hưng Đạo Vương, cho người biết bơi lặn giỏi
20 sung làm phu thuyền rồi ban đêm đục thuyền cho đắm, bọn Ô Mã Nhi
21 đều chết đuối cả ". (BK/Q.5/56).
22 KĐVSTGCM tham khảo sách Thiên Nam hành kỷ của tác giả ngƣời
23 Nguyên Mông Từ Minh Thiện rồi viết nhƣ sau:" Trong trận chiến
24 thắng ở Bạch Đằng, quân ta bắt được tướng Nguyên Mông là Ô Mã
25 Nhi và bọn Tích Lệ Cơ Ngọc, Phàn Tiếp. Sau đó nhà vua sai Nguyễn
26 Thịnh đưa Cơ Ngọc về trước, còn Phàn Tiếp bị bệnh chết, cho hỏa táng
27 rồi đưa cho vợ con của hắn mang tro cốt về Tàu.; tất cả những đầu
28 mục, quân binh của Nguyên Mông bị bắt cũng được trả về. Duy có Ô
29 Mã Nhi chém giết cướp bóc dân ta một cách tàn khóc, nhà vua căm
30 giận lắm, nên theo kế của Quốc Tuấn, sai nội thư gia Hoàng Tá Thốn
31 đưa trả về nước, dùng người tài lội nước sung làm phu chèo thuyền,
32 nhân đêm dùi thủng thuyền cho đắm, Ô Mã Nhi bị chết đuối. Nhân đấy
33 nhà vua mới phúc thư với nhà Nguyên Mông rằng: Vì thuyền rỉ nước bị
34 đắm, quan tham chính Ô Mã Nhi sức vóc to lớn, không sao cứu vớt
35 được, thành ra chết đuối. Nhà Nguyên cũng không tra cứu gì đến việc
36 nầy".

VSTK - 345
1
2
Sách Trùng Hƣng Thực Lục: theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì
2 tập sách nầy gồm có 2 quyển do Trần Nhân Tông cho lệnh biên soạn,
3 ghi việc đánh đuổi giặc Nguyên Mông.

KHẢO LUẬN:

 Về việc tuyên án phạt tập thể 2 làng


Bàng Hà và Bà Điểm:

4 Bàng Hà tức là huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, phía Đông Bắc của
5 lộ Hải Đông. Không thấy sử sách cũ viết rõ về địa danh Bà Điểm,
6 nhƣng có thể là trong cùng một vùng với núi Phả Lại, phủ Từ Sơn, lộ
7 Bắc Giang thƣợng bởi vì khi quân Nguyên Mông tràn qua đã đánh
8 chiếm hai làng Bàng Hà và Bà Điểm trƣớc tiên rồi đóng doanh trại ở 2
9 vùng núi Chí Linh và Phả Lại để làm bàn đạp đánh xuống Vạn Kiếp.
10 Dân chúng trong 2 làng nầy đƣơng nhiên phải chịu khuất phục dƣới
11 gót giày của quân ngoại xâm và đó là điều phải xảy ra bởi vì trong giai
12 đoạn nầy, quan quân nhà Trần trấn đóng ở Bắc Giang thƣợng và ở phía
13 Đông Bắc lộ Hải Đông đều lo rút lui né tránh áp lực của quân Nguyên
14 Mông, bỏ rơi những ngƣời thƣờng dân trong tay không một tấc sắt ở lại
15 trong vùng quân Nguyên vừa mới chiếm đóng: nếu họ không đầu hàng
16 quân ngoại xâm thì chắc chắn là họ sẽ không còn sống sót để chờ ngày
17 tuyên án phạt tập thể của Trần Nhân Tông.
18 Sự tuyên phạt nầy là một vết đen bôi bẩn cho nền luật pháp của triều
19 đại nhà Trần vì không lý xét tới trƣờng hợp khẩn thiết của ngƣời dân
20 trong hai làng đó khi đứng trƣớc quân xâm lƣợc Nguyên Mông hung
21 bạo và hiếu sát, không phân biệt giữa cá nhân và tập thể. Án phạt tập
22 thể nầy còn cho thấy trình độ ấu trĩ, bất công và độc đoán của một kẻ
23 nắm giữ quyền sinh sát dân chúng trong tay. Nếu có phạt thì phải phạt
24 những kẻ gọi là cha mẹ dân, những bọn quan lại cầm quyền cai trị địa
25 phƣơng đã lo chạy thoát thân bỏ thí dân chúng ở lại nheo nhóc dƣới tay
26 của quân ngoại nhập.

 Về cái chết mờ ám của tƣớng Ô Mã Nhi:

27 Lời cẩn án trong KDVSTGCM viết: "Đoạn văn nầy Sử cũ chép là


28 bọn Ô Mã Nhi đều bị chết đuối; còn trường hợp của Cơ Ngọc và Phàn
29 Tiếp thì trình bày không rõ ràng, như thế có phần sai sự thật, nay tham
30 khảo sách Thiên nam hành kỷ của Từ Minh Thiện nhà Nguyên Mông,
31 cải chính lại ".
32 Tự Đức phê bình việc đục thuyền giết Ô Mã Nhi nhƣ sau: "Bất nhân
33 phi nghĩa! ".
34 Cái chết của tƣớng Ô Mã Nhi rõ ràng là một cái chết rất mờ ám
35 đáng dị nghị. Cách chép trong 2 bộ sử cũ về việc nầy có 1 chi tiết mâu
36 thuẫn nhau đó là trƣờng hợp của Tích Lệ Cơ Ngọc và 2 chi tiết giống

VSTK - 346
1 nhau: cái chết thực sự của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và chuyện đục thủng
2 làm đắm thuyền.
3 Một chi tiết khác cũng đƣợc ghi trong 2 bộ sử cũ cần đƣợc lƣu ý:
4 sau khi đánh bại quân Nguyên, tháng 10 năm Mậu Tý (1288) vua nhà
5 Trần phải sai sứ sang triều đình nhà Nguyên để thƣơng lƣợng việc giao
6 hảo, hòa bình giữa 2 nƣớc. Nhất định là vua nhà Nguyên có đặt điều
7 kiện nhà Trần phải trao trả hết tù binh và các tƣớng của nhà Nguyên
8 đang bị quân nhà Trần bắt giữ; sau đó triều đình nhà Trần thi hành điều
9 kiện nầy vào tháng 2, năm Kỷ Sửu (1289).
10 Tuy nhiên có thể là vào lúc đó tất cả những tƣớng đầu sỏ của nhà
11 Nguyên bị bắt đã bị vua nhà Trần giết hết rồi.
12 Nhƣng các tƣớng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ bị giết lúc
13 nào và ở đâu ?
14 ĐVSKTT có đoạn viết:" Hai vua trở về Long Hưng. Ngày 17 tháng
15 3 năm Mậu Tý, đem các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, nguyên
16 soái Ô Mã Nhi, Tham chính Sùng Đoàn, Phàn Tiếp, nguyên soái Điền,
17 các Vạn hộ, Thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng. Trước đó,
18 quân Nguyên đã khai quật Chiêu Lăng muốn phá đi nhưng chưa phạm
19 được tới quan tài ". KĐVSTGCM gọi việc nầy là hiến tiệp có nghĩa là
20 dâng tâu chiến công đã đánh thắng và bắt đƣợc cƣờng địch. Lễ dâng
21 thắng trận nầy chính là dịp để cho hai vua nhà Trần trả thù việc Ô Mã
22 Nhi đã quật mồ của Trần Thái Tông bằng cách đem hết bọn tƣớng của
23 nhà Nguyên bị bắt ra tế sống tức là giết đi để dâng hiến cho thần linh
24 hoặc cho ngƣời đã chết dƣới mộ. Đây là một thói lệ giống nhƣ lệ đem
25 tù binh của quân địch chém đầu lấy máu để tế cờ trƣớc khi xuất quân đi
26 đánh trận.
27 Cũng cần biết rằng, trong các thời đại phong kiến, đụng chạm tới
28 cung điện mồ mả của họ hàng vƣơng tộc là một tội đại phản nghịch
29 không đƣợc ân xá hoặc giảm tội.
30 Nhƣ vậy, việc làm đắm thuyền để phi tang là một mƣu lƣợc tài tình
31 của Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn, một màn đấu trí ngoại giao
32 ngoạn mục đã qua mặt đƣợc triều đình nhà Nguyên và tuy rằng ngƣời
33 nhà Nguyên có thể biết rõ chủ mƣu làm đắm thuyền nhƣng cũng không
34 còn đủ uy lực sau một lần đại bại để phản đối triều đình nhà Trần về vụ
35 âm mƣu giết ngƣời dấu tay nầỵ

VSTK - 347
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn

VSTK - 348
QUYỂN II

THỜI ĐẠI TỰ CHỦ


CHƢƠNG IV

TRẦN ANH TÔNG ( 1293 - 1314 )


Niên hiệu: Hưng Long

1 Năm Quý Tỵ, tháng 3, Trùng Hưng năm thứ 9


2 (1293), thái tử Trần Thuyên lên ngôi, tức là Trần Anh
3 Tông, đặt niên hiệu là Hưng Long năm thứ 1, phong
4 Văn Đức1 làm phu nhân, nhƣng rồi phế đi để lấy em gái
5 của Văn Đức2.
6 Tháng 7, ngày mồng 3 năm Giáp Ngọ (1294),
7 thƣợng tƣớng thái sƣ chiêu minh đại vƣơng Trần Quang
8 Khải mất, thọ 54 tuổi.
9 Tháng 8, thƣợng hoàng Trần Nhân Tông tự cầm
10 quân xăm lăng nƣớc Ai Lao, có tƣớng Phạm Ngũ Lão
11 trợ chiến, bắt đƣợc nhiều ngƣời, cƣớp phá tài sản và gia
12 sút của nhân dân Ai Lao.
13 Bính Thân, tháng 3, Hƣng Long năm thứ 4 (1296),
14 thƣợng phẩm Nguyễn Hƣng vi phạm luật cấm cờ bạc, bị
15 phạt đánh bằng trƣợng chết.
16 Đinh Dậu, tháng 2, Hƣng Long năm thứ 5 (1297),
17 thay đổi quy chế binh lính hiện dịch: tuyển dân đinh
18 ngƣời nào khoẻ mạnh bắt suốt đời làm lính. Đổi quân
19 hiệu giáp binh thành hƣơng binh.
20 Tháng 12, bổ dụng Trần Khắc Chung làm Đại An
21 phủ sứ3 ở kinh đô.
22 Kỷ Hợi, tháng 5, Hưng Long năm thứ 7 (1299), bổ
23 dụng Đoàn Nhữ Hài4 làm Ngự sử trung tán.
24 Tháng 7, Trần Nhân Tông vào tu ở am Ngọa Vân5.
25 Canh Tý, tháng 3, Hưng Long năm thứ 8 (1300), Trần
26 Quốc Khang6 chết.
27 Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300), Hƣng Đạo
28 vƣơng Trần Quốc Tuấn mất ở phủ dinh Vạn Kiếp, đƣợc

VSTK - 349
1 truy tặng thái thƣợng phụ thƣợng quốc công Nhân Vũ
2 Hƣng Đạo đại vƣơng. Dân ở châu Lạng Giang lập đền
3 thờ7.
4 Ngày 21, tháng 8 năm Canh Tý (1300) hoàng tử Trần
5 Mạnh sinh. Mẹ sinh của Trần Mạnh là con gái Trần
6 Bình Trọng.
7 Quý Mão, tháng 10, Hưng Long năm thứ 11 (1303),
8 Bổ dụng Trần Khắc Chung chức Nhập nội hành khiển8.
9 Giáp Thìn, tháng 3, Hưng Long năm thứ 12 (1304),
10 thi Thái học sinh: tất cả có 44 ngƣời đỗ trong đó Mạc
11 Đỉnh Chi9 đỗ trạng nguyên; Nguyễn Trung Ngạn10 mới
12 16 tuổi đỗ hạng tƣ.
13 Ất Tỵ, tháng Giêng, Hưng Long năm thứ 13 (1305),
14 lập thái tử Trần Mạnh làm Đông11 cung thái tử.
15 Bính Ngọ, tháng Giêng, Hưng Long năm thứ 14
16 (1306), Tá Thiên vƣơng Trần Đức Việp12 chết, thọ 42
17 tuổi.
18 Tháng 6, Hưng Long năm thứ 14 (1306), gả Huyền
19 Trân13 công chúa cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để
20 đổi lấy châu Ô và châu Lý.
21 Đinh Mùi, tháng Giêng, Hưng Long năm thứ 15
22 (1307), đổi tên châu Ô, châu Lý là Thuận châu, Hóa
23 châu. Cử Đoàn Nhữ Hài đi trấn nhậm và phủ dụ dân
24 chúng ở hai châu ấy.
25 Tháng 9, sứ Chiêm sang báo tin vua Chế Mân mất.
26 Tháng 10, sai Trần Khắc Chung sang Chiêm Thành
27 tìm cách đƣa Huyền Trân công chúa trở về nƣớc14 vì
28 theo tục lệ Chiêm Thành, khi vua chết thì các bà vợ và
29 cung tần của vua cũng sẽ bị hỏa thiêu chết theo.
30 Chế Chí lên ngôi vua Chiêm liền yêu cầu trả lại đất
31 đai của họ đã bị nhà Trần sáp nhập vào Đại Việt15.
32 Mậu Thân, tháng Giêng, Hưng Long năm thứ 16
33 (1308), bổ dụng Trƣơng Hán Siêu16 làm Hàn Lâm học
34 sĩ.

VSTK - 350
1 Ngày mồng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), Trần
2 Nhân Tông mất ở am Ngọa Vân trên núi Yên Tử, an
3 táng ở Đức lăng, phủ Long Hƣng, ở ngôi 14 năm, giữ
4 ngôi thƣợng hoàng 13 năm, thọ 51 tuổi.
5 Thiên Thụy17 công chúa cũng mất cùng một ngày.
6 Kỷ Dậu, tháng 2, Hưng Long năm thứ 17 (1309), Trần
7 Anh Tông lập Đông cung thái tử Trần Mạnh làm hoàng
8 thái tử và Thánh Tƣ Trần thị phu nhân đƣợc lập làm
9 Thuận Thánh hoàng hậu; mẹ đẻ của Trần Mạnh là con
10 gái của Trần Bình Trọng đƣợc phong làm hoàng nguyên
11 phi Huy Tƣ. Thứ phi Phạm thị là con gái Phạm Ngũ
12 Lão, không có con với Trần Anh Tông, xin rời cung
13 điện để đi tu.
14 Tân Hợi, tháng 12, Hưng Long năm thứ 19 (1311),
15 Trần Anh Tông cùng với Trần Quốc Chân và Trần
16 Khánh Dƣ đƣa quân sang xâm lăng nƣớc Chiêm Thành
17 với lý do là Chế Chí phản trắc18 không giữ những điều
18 giao ƣớc19 đã có từ trƣớc.
19 Nhâm Tý, tháng 5, Hưng Long năm thứ 20 (1312),
20 quan quân nhà Trần bắt đƣợc Chế Chí; đƣa ngƣời em
21 của Chế Chí là Chế Đà19bis lên làm vua bù nhìn nƣớc
22 Chiêm Thành.
23 Tháng 6, Trần Nhân Tông trở về Thăng Long.
24 Quý Sửu, tháng 2, Hưng Long năm thứ 21 (1313),
25 Chế Chí chết ở Gia Lâm20, đem hoả táng.
26 Cử An phủ sứ Đỗ Thiên Hƣ làm Kinh lƣợc sứ Nghệ
27 An và Lâm Bình kiêm luôn nhiệm vụ giám sát nƣớc
28 Chiêm Thành.
29 Giáp Dần, tháng 3, Hưng Long năm thứ 22 (1314),
30 Trần Anh Tông nhƣờng ngôi cho hoàng thái tử Trần
31 Mạnh .

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

VSTK - 351
1
1
Văn Đức Phu nhân: có thể là con gái lớn của Phạm Ngũ Lão và em
2 gái của Văn Đức phu nhân có lẽ là Thánh Bà phu nhân.
3
2
Em của Văn Đức: từ lúc chƣa lên ngôi vua, Trần Thuyên (tức Trần
4 Anh Tông) đã có vợ chính là Thánh Tƣ phu nhân, con gái trƣởng của
5 Hƣng Nhƣợng vƣơng Trần Quốc Tảng (Tảng là con trai của Hƣng Đạo
6 vƣơng Trần Quốc Tuấn). Nhƣng vì ngƣời vợ nầy không có con trai với
7 Trần Thuyên cho nên khi vừa lên ngôi vua, Trần Thuyên (lúc nầy là
8 Trần Anh Tông) mới lấy con gái trƣởng của Phạm Ngũ Lão là Văn Đức
9 để làm vợ thứ. Nhƣng Văn Đức cũng không có con trai cho nên Anh
10 Tông lại lấy em của Văn Đức là Thánh Bà làm phi. Thánh Bà cũng
11 không sinh đƣợc con trai cho nên Anh Tông lại lấy con gái của Trần
12 Bình Trọng là Huy Tƣ làm phi; Huy Tƣ sinh Trần Mạnh. Sau khi Trần
13 Anh Tông lên ngôi, Huy Tƣ đƣợc phong làm hoàng nguyên phi, Thánh
14 Tƣ làm Thuận Thánh hoàng hậu còn Thánh Bà vì không sinh đƣợc con
15 nối ngôi xin đƣợc rời khỏi cung điện, đi tu.
16 Nhƣ vậy, Trần Mạnh sau nầy sẽ có hai ngƣời mẹ: Thánh Tƣ phu
17 nhân hay Thuận Thánh hoàng thái hậu là mẹ đích và hoàng nguyên phi
18 Huy Tƣ Trần thị là mẹ đẻ.
19
3
Đại an phủ sứ ở kinh đô: giống nhƣ chức đô trƣởng hành chánh
20 ngày nay.
21
4
Đoàn Nhữ Hài: ngƣời làng Trƣờng Tân, huyện Gia phúc, tỉnh Hải
22 Dƣơng.
23
5
Am Ngọa Vân: trên ngọn núi Tử Tiêu trong vùng núi Yên Tử, thuộc
24 huyện Đông Triều tỉnh Hải Dƣơng. Trần Nhân Tông lấy hiệu là Trúc
25 Lâm Đại Sĩ tức là sƣ tổ sáng lập ra phái thiền tông Trúc Lâm và thƣờng
26 đƣợc niệm gọi là Tái Thế Thích Ca trong kinh tụng; sƣ tổ đời thứ 2 là
27 sƣ Pháp Loa, niệm gọi là Ca Diếp và sƣ tổ đời thứ 3 là sƣ Huyền Quang
28 niệm gọi là Át Nan.
29
6
Trần Quốc Khang: con trai của Trần Liễu và Lý Thuận Thiên nhƣng
30 Trần Thái Tông cƣớp vợ của Trần Liễu (tức là Lý Thuận Thiên) trong
31 khi mang thai Quốc Khang cho nên Quốc Khang xem nhƣ là con của
32 Trần Thái Tông.
33
7
Đền thờ Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn: ở xã Vạn An, huyện
34 Lục Ngạn, phủ Lạng Giang, tức là đền thờ Kiếp Bạc, nay thuộc huyện
35 Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng.
36
8
Nhập nội hành khiển: ngang với chức tể tƣớng hay thủ tƣớng.
37
9
Mạc Đỉnh Chi: tự là Tiết Phu, ngƣời làng Lũng động, huyện Chí Linh, lộ
38 Hải Đông, ngƣời rất thông minh, thẳng thắn và liêm khiết nhƣng diện mạo xấu
39 xí. Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Mạc Đỉnh Chi. Sau khi tiếm ngôi nhà
40 Lê, Mạc Đăng Dung truy tôn Mạc Đỉnh Chi là Huệ Cảm Linh Khánh vƣơng,
41 xây điện Sùng Đức trên nền nhà cũ của Mạc Đỉnh Chi ở Lũng Động.
42
10
Nguyễn Trung Ngạn: (1289-1370) ngƣời làng Thổ Hoàng, huyện
43 Thiên Thi, Hƣng Yên, Năm 1304 đỗ tiến sĩ vào lúc 16 tuổi, đứng hạng
44 thứ 4 sau hàng tam khôi. Năm 1329 làm ra quyển Thực Lục.

VSTK - 352
1 Năm 1337, làm An phủ sứ Nghệ An kiêm coi việc chép quốc sử ở
2 viện Quốc sử. Vào thời Trần Dụ Tông, cùng Trƣơng Hán Siêu biên
3 soạn bộ Hoàng Triều Đại Điển và bộ Hình thƣ của nhà Trần. Có tập
4 thơ Giới Hiên toàn tập lƣu hành ở đời.
5
11
Đông cung: là cung điện dành riêng cho ngƣời con đƣợc lập làm
6 hoàng thái tử nối ngôi vua cha trong tƣơng lai.
7
12
Trần Đức Việp: em trai của Trần Nhân Tông.
8
13
Huyền Trân: con gái của Trần Nhân Tông, em gái của Trần Anh
9 Tông. ĐVSKTT chép theo thứ tự thời gian nhƣ sau: " Tân Sửu, tháng 3
10 (1301), Thượng hoàng (Trần Nhân Tông) vân du khắp nơi, sang Chiêm
11 Thành. Tháng 11, từ Chiêm Thành trở về. Ất Tỵ, tháng 2 (1305), Chiêm
12 Thành sai Chế Bồ Đài và tùy tùng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc,
13 hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn . . . Các quan trong triều đều cho
14 là không nên, duy chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái (con của Trần
15 Quang Khải) và Trần Khắc Chung tán thành. Chúa Chiêm Thành lại
16 dâng 2 châu Ô và châu Lý để làm lễ cưới và vì vậy mới có quyết định
17 bán gả Huyền Trân. Bính Ngọ, tháng 6 (1306), gả công chúa Huyền
18 Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân. Trước đây thượng hoàng Trần
19 Nhân Tông vân du sang Chiêm Thành, đã hứa gả rồi. Các văn nhân
20 trong triều, ngoài nội mượn chuyện nhà Hán gả con gái cho Hung Nô
21 (tức là chuyện Chiêu Quân cống Hồ), làm thơ để chế giễu về việc cưới
22 gả nầy ".
23
14
Trần Khắc Chung đƣa Huyền Trân trở về Đại Việt: ĐVSKTT
24 chép chuyện nầy nhƣ sau: "Theo tục lệ Chiêm Thành, mỗi khi chúa
25 Chiêm chết thì vợ của chúa phải lên giàn hỏa thiêu sống để được chết
26 theo chồng. Trần Anh Tông được tin Chế Mân chết, sợ công chúa bị
27 hại, sai bọn Trần Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang. . .rồi dùng
28 thuyền nhỏ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư tình thông dâm với công
29 chúa, lênh đênh dây dưa trên mặt biển, kéo dài rất lâu mới về đến
30 Thăng Long ".
31
15
Trả lại đất đai của Chiêm Thành bị sáp nhập vào Đại Việt:
32 ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết là Chế Chí, vua mới của Chiêm
33 Thành thƣờng hay phản trắc nhƣng không nói rõ phản trắc nhƣ thế nào.
34 Nếu suy tới cùng thì chính quan quân nhà Trần mới là những kẻ phản
35 trắc: cƣớp Huyền Trân mang trở về nhƣng vẫn khƣ khƣ giữ hai châu Ô
36 và châu Lý mà trƣớc đây Chế Mân đã dâng nạp để làm sính lễ cƣới hỏi.
37 Chính nhà Trần đã bội ƣớc trong việc cƣới hỏi cho nên nhà Trần đáng
38 lý ra phải có nghĩa vụ trả lại sính lễ mà hơn nữa còn phải đền bù thiệt
39 hại nữa mới phải chứ có đâu sau đó lại đem quân sang đánh ngƣời, vu
40 cáo rằng vì bọn họ phản trắc không giữ những điều giao ƣớc từ trƣớc.
41
16
Trƣơng Hán Siêu: tự là Thăng Am, ngƣời làng Phúc Thành (Phúc
42 Am), huyện Yên Ninh (Yên Khang hay Yên Khánh), là bạn thân của
43 Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn. Đến thời Trần Dụ Tông, cùng với
44 Nguyễn Trung Ngạn biên định bộ Hoàng Triều Đại Điển và khảo soạn

VSTK - 353
1 bộ Hình Thƣ. Là một ngƣời ƣơng bƣớng, văn chƣơng, chính sự đều
2 giỏi, bài bác thói dị đoan.
3
17
Thiên Thụy công chúa: là chị của Trần Nhân Tông. Chuyện hai chị
4 em chết cùng một ngày chép trong sử cũ có vẻ mờ ám khó hiểu.
5 ĐVSKTT viết: Bấy giờ thượng hoàng (Trần Nhân Tông) xuất gia, tu ở
6 ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử, tự hiệu là Trúc Lâm đại sĩ. Bà chị là Thiên
7 Thụy ốm nặng, thượng hoàng xuống núi, tới thăm và bảo: "Nếu chị đã
8 đến ngày đến giờ thì cứ đi, thấy âm phủ có hỏi thì trả lời rằng: xin đợi
9 một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay ". Nói xong thượng
10 hoàng trở về núi, dặn dò người hầu là Pháp Loa các việc về sau, rồi
11 bỗng nhiên ngồi mà hóa. Thiên Thụy cũng mất vào hôm đó. Có vẻ nhƣ
12 là hai ngƣời đã có hẹn ƣớc trƣớc với nhau sẽ cùng chết một lúc. Hoặc
13 giả sử cũ muốn tạo uy linh và thần thánh hóa Trúc Lâm đại sĩ chăng?
14 Nếu không có điều mờ ám thì cần gì phải kể lễ biện bạch về cái chết
15 cùng một lúc của chị em nhà họ Trần? Những chuyện gái trai mờ ám
16 trong tộc họ nhà Trần đầy dẫy, ở bất cứ triều đại nào của họ nầy cũng
17 thấy xảy ra.
18
18
Chế Chí phản trắc: đây chỉ là một lý do không chính đáng do nhà
19 Trần đƣa ra để biện bạch cho bản chất xăm lăng hiếu chiến và chính
20 sách bành trƣớng lãnh thổ của mình.
21
19
Chế Chí không giữ những điều giao ƣớc : xem chú giải(15) trên.
22 19 bis Chế Đà: ĐVSKTT viết: "phong cho em hắn là Chế Đà A Bà Niêm

23 làm Á hầu để trấn giữ đất ấy ".


24
20
Chế Chí chết ở Gia Lâm: ĐVSKTT viết: "Tháng 6 (1312), phong
25 cho Chế Chí tước Hiệu Trung vương, sau lại đổi là Hiệu Thuận vương.
26 Tháng 2, Quý Sửu (1313), Chế Chí đến Hành cung Gia Lâm, chết, đem
27 hỏa táng ". Hành cung là nơi để cho vua Nhà Trần ở tạm mỗi khi rời
28 kinh đô để đi thanh sát dân tình hoặc đi đánh trận. Chế Chí đến hành
29 cung Gia Lâm để làm gì để rồi chết ở đó? Cái chết nầy của Chế Chí
30 cũng giống nhƣ cái chết mờ ám của các tƣớng Nguyên Ô Mã Nhi,
31 Phàn Tiếp sau khi bị quan quân nhà Trần bắt giữ. Dòng họ nhà Trần
32 thƣờng hay dùng chính sách thủ tiêu để giết hại những ngƣời chống đối
33 hoặc tƣớng bên địch bị bắt rồi thiêu xác đi để phi tang; chính sách nầy
34 đƣợc áp dụng kể từ thời Trần Thủ Độ ám sát vua Lý Huệ Tông rồi đem
35 thiêu xác để phi tang. Cái chết Chế Chí có thể xảy ra nhƣ sau: Trần
36 Nhân Tông âm mƣu dụ hàng để bắt Chế Chí rồi đƣa em của Chế Chí là
37 Chế Đà lên làm vua bù nhìn nƣớc Chiêm Thành, còn Chế Chí thì bị bắt
38 đƣa về Đại Việt. Khi về đến hành cung Gia Lâm thì Chế Chí bị giết đi,
39 xác đem thiêu đốt để không còn chứng cớ, rồi giả trá phong tƣớc vƣơng
40 cho Chế Chí để đánh lừa nhân dân Chiêm Thành rằng Chế Chí chết một
41 cách bình thƣờng chứ không phải do Trần Nhân Tông ám hại.

KHẢO LUẬN:

VSTK - 354
 Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn:
1 Tài và công trạng của Trần Quốc Tuấn là một sự thật hiển nhiên
2 không có ai có thể bài bác dị nghị. Khi giặc Nguyên Mông xâm lăng,
3 ông soạn sách Binh Gia Yếu lƣợc và bài Hịch tƣớng sĩ để kích động các
4 tƣớng. Bài Hịch đại lƣợc nhƣ sau: <<Ta từng nghe, Kỷ Tín1 đem mình
5 chết thay để giải vây cho Hán Cao Đế, Do Vu2 đưa lưng đỡ giáo để che
6 cho Sở Chiêu vương, Dự Nhượng3 nuốt than để báo thù cho chủ mình là
7 Trí Bá, Thân Khoái4 chặt tay để chết theo nạn nước; Uất Trì Cung
8 Kính Đức5 là một tướng trẻ mà xả thân phò tá Đường Thái Tông thoát
9 khỏi vòng vây hãm của Vương Thế Sung; Nhan Cảo Khanh6 là một tôi
10 thần ở ngoài biên giới xa xôi mà luôn miệng mắng chửi An Lộc Sơn,
11 nhất quyết không theo bọn phản tặc Xem như vậy thì kể từ ngày xưa,
12 các bậc trung thần, nghĩa sĩ bỏ mình vì tổ quốc đời nào cũng có. Ví
13 bằng các hạng người đó cứ khư khư theo thói thường tình thì chỉ có
14 chết ở xó cửa chứ làm sao lại có thể lưu danh nơi sử sách, muôn đời
15 không bị mai một cùng trời đất.
16 Các ngươi xuất thân là dòng dõi võ tướng, không thông hiểu nhiều
17 văn nghĩa cho nên khi nghe những chuyện ấy thì không khỏi nửa tin
18 nửa ngờ.Vậy, hãy tạm gát lại không bàn những chuyện đời trước. Nay
19 ta đem chuyện quân Tống, chuyện quân Mông làm đầu đề nói chuyện:
20 Vương Công Kiên là người thế nào cùng tỳ tướng Nguyễn Văn Lập là
21 người thế nào mà lại dám lấy thành Điếu Ngư 7 nhỏ bé để chống lại
22 hàng trăm vạn quân của Mông Kha hiếu chiến khiến cho trăm họ nhân
23 dân của nhà Tống đến bây giờ vẫn còn đội ơn sâu. Tên Ngột Lương
24 Hợp Thai8 là người thế nào và tỳ tướng Cân Tu Tư của hắn là kẻ như
25 thế nào mà cả hai lại có thể xong pha muôn dặm đi vào chốn đường xa
26 sơn lam chướng khí và chỉ trong khoảng vài tuần đã đè bẹp quân Nam
27 Chiếu8bis khiến cho vua quan Thát Đát nổi danh lẫy lừng mãi cho đến
28 hôm nay.
29 Huống chi ta cùng các ngươi, sinh ra nhằm vào thời buổi nhiễu
30 nhương, trưởng thành trong đau khổ, nhìn thấy bọn sứ giặc ngông
31 nghênh trên đường phố, uốn miệng lưỡi cú diều thốt lời sĩ nhục triều
32 đình ta, ỷ cái thân chó dê mà khinh nhờn tể phụ9; dựa vào mệnh lệnh
33 của Vân Nam Vương10 để đòi hỏi mèo nheo11 ngọc ngà gấm vóc, vơ vét
34 sách nhiễu không còn giới hạn, chẳng khác gì ném thịt cho hổ đói dễ gì
35 thoát khỏi tai vạ về sau.
36 Ta thường tới bữa quên ăn, trằn trọc vỗ gối nửa đêm, nước mắt đầm
37 đìa, ruột đau như bị dao cắt, luôn căm hận muốn được cắt da, xẻo thịt,
38 moi gan, hứng máu giặc thù cho dù ta phải phơi thây ngoài đồng cỏ, dù
39 xác ta phải bọc bằng da ngựa thì ta cũng không ân hận.
40 Các ngươi là những hàng công tác thân cận, những người nắm quyền
41 binh, khi các ngươi thiếu thốn ta cấp cho cho ăn, cho mặc. Quan chức
42 thì ta thăng thưởng, lương bổng thì ta cho thêm, qua sông qua biển thì

VSTK - 355
1 ta cấp thuyền, đường bộ nhọc nhằn thì ta cấp ngựa; khi xong pha trận
2 mạc thì sống chết có nhau, khi ở nhà thì an lạc cùng vui hưởng, tất cả
3 những điều đó nếu đem so với việc Vương Công Kiên hậu đãi kẻ tùy
4 tướng, Ngột Lương Hợp Thai ưu đãi kẻ phụ tá thì cũng chẳng kém sút.
5 Nay các người ngồi yên trơ mắt mà nhìn chủ bị khinh khi, cả nước
6 bị sỉ nhục mà bản thân các ngươi không biết hổ thẹn, các ngươi là
7 tướng tá của triều đình nhưng phải quỳ lụy hầu hạ quân giặc mà không
8 biết tức, tai nghe nhạc vui tai thết yến sứ ngụy mà không biết căm, lấy
9 chuyện đá gà làm vui, đánh bạc làm thú, chăm chuốt vườn ruộng để
10 nuôi riêng cho gia đình, ích kỷ quyến luyến vợ con, lo làm giàu bỏ lơi
11 việc nước, bê tha rượu chè, săn bắn, hát xướng mà quên đi việc phòng
12 chống giặc ngoài. Thảng hoặc có giặc Thát Mông tràn sang thì cựa gà
13 trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể
14 dùng làm mưu lược nhà binh, vườn ruộng sung túc không thể che chở
15 được tấm thân quý giá, vợ con bận bịu không có lợi gì cho việc quân
16 quốc; tiền của dù nhiều cũng không mua được đầu giặc, lũ chó săn tuy
17 khỏe nhưng làm sau cắn đuổi được giặc thù. Chén rượu thơm ngon
18 không thể dùng làm thuốc độc để tiêu diệt giặc cướp nước, đàn nhạc
19 hay không chọc thủng được tai lũ giặc ngông nghênh. Cho tới độ ấy
20 chúa tôi, quan quân đều bị giặc bắt thì sẽ bị đau xót đến nhường nao.
21 Lúc đó thì không phải chỉ có riêng thái ấp của ta bị giặc chiếm đoạt mà
22 ngay cả bổng lộc của các ngươi cũng vào tay quân dữ; không những
23 gia quyến của ta bị truy đuổi mà ngay cả vợ con của các ngươi cũng bị
24 chúng bắt đi; không lý nào xã tắc của tổ tiên ta bị chúng giày xéo mà
25 chúng lại để yên không đào quật mồ mả ông bà cha mẹ của các ngươi?
26 Không lẽ chỉ có mỗi thân danh của cá nhân ta kiếp nầy bị ô nhục cho
27 đến mãi ngàn đời sau còn thân phận của các ngươi là hạng tướng tá
28 bại trận thì người đời không mỉa mai nhở tới? Đợi cho đến lúc giặc
29 vào nhà thì lúc đó liệu rằng các ngươi còn có thể tự do phóng túng để
30 thoả lòng vui thú hay không? Nay ta nói rõ cho các người rằng: phải
31 nhớ chuyện đặt mồi lửa vào dưới đóng củi làm mối nguy cơ, nên lấy
32 việc sợ canh nóng mà lại đi thổi rau nguội12 để tự răn cho bản thân.
33 Hãy rèn luyện binh sĩ, tập dượt kiếm cung, làm sao để cho mọi người
34 đều giỏi như Bàng Mông, Hậu Nghệ13 để có thể chém đầu Hốt Tất Liệt
35 dưới cửa khuyết, phơi xác Vân Nam vương ở Cao Nhai. Như vậy chẳng
36 những thái ấp của ta mãi mãi lưu truyền mà bổng lộc của các ngươi
37 cũng đời đời thụ hưởng; chẳng những gia quyến của ta được yên ấm
38 gối chăn mà vợ con của các ngươi cũng được sống lâu dài yên ấm;
39 chẳng những tông miếu của ta được đời đời thờ phượng cúng bái mà tổ
40 phụ của các ngươi cũng được hương khói quanh năm. Nếu bản thân ta
41 kiếp nầy đắc chí thì tiếng thơm dành cho các ngươi muôn một về sau
42 vẫn còn. Chẳng những tên ta được lưu truyền mãi mãi mà họ tên của
43 các ngươi cũng lưu danh trong sử .

VSTK - 356
1 sách. Lúc bấy giờ dù các ngươi có thoái thác không muốn vui thú thì
2 cũng không thể làm được. Nay ta chọn binh pháp của các nhà quân sự
3 để soạn thành một quyển gọi là Binh Gia Yếu lược. Nếu các ngươi biết
4 theo sách mà luyện tập, nghe theo lời của ta hướng dẫn thì trọn đời các
5 ngươi là chiến hữu với ta, còn làm trái lời ta thì trọn đời sẽ là cừu thù.
6 Tại sao? Vì giặc Mông Thát là kẻ thù không đội trời chung mà các
7 người cứ điềm nhiên không nghĩ tới chuyện rửa nhục, không lo diệt
8 hung tàng, không huấn dạy binh sĩ, như thế tức là hạ gươm giáo, đầu
9 hàng giặc để vết nhơ cho muôn đời sau khi giặc đã bị dẹp sạch, lúc đó
10 các ngươi đâu còn mặt mũi nào để được trời che đất chở cho nữa? Cho
11 nên ta viết bài hịch14 nầy để hết thảy các ngươi thấu rõ lòng ta ".
12 Cao Huy Diệu có lời tiếm bình về Hƣng Đạo vƣơng nhƣ sau:
13 "Vương vì là dòng dõi của họ Đông A, nên nhân lời trối15 của cha là
14 An Sinh vương, nhưng mà vương không chịu tuân theo loạn mệnh cho
15 nên vẫn giữ là trang hiếu tử trong nhà. Gặp đại biến thời Trùng Hưng
16 mà lập vững được công to, nên chi thực là bậc trung thần đối với nước.
17 Duy trung, duy hiếu, mới che đậy hết cái lỗi của tiên nhân. Công trùm
18 cả thiên hạ, ngôi tột hết nhân thần, danh dậy suốt hoa di16 ,và sau khi
19 mất, lại được muôn đời huyết thực.
20 Triều nhà Trần, tướng văn tướng võ, vẫn nhiều kẻ thành bậc danh
21 thần nhưng cuối cùng không ai bằng vương đang thời lừng lẫy. Phải
22 chăng đó là báo đền ân đức hiếu trung của vương chăng?
23 Nước Mông Cổ17 khởi dậy nơi phương Bắc, thâu gồm xứ Linh Hạ,
24 hiếp đất Cường Kim, lật nhà Cự Tống, cung nỏ đi tới đâu thì ở ngoại
25 bang sông núi, biển ngàn chỉ nghe hơi gió là đã tan tành sụp đổ. Gom
26 quân lại, chúng xua xuống phía Nam, lấp cạn sông, xô ngã núi, gió
27 kinh hoàng gầm rú ào ạt, khói lửa mây trôi chảy ngút ngàn. Vương chỉ
28 một mình, dám đem tàn quân ra mà chống cự, có khác chi đem trứng
29 chọi với núi Thái Sơn. Như vậy mà chỉ cần một hồi trống giục ở sông
30 Bạch Đằng đã làm quân Mông phơi thây nghìn dậm! Há chẳng phải là
31 một sử cố vĩ đại đệ nhất trần đời hay sao, chẳng phải chỉ là một công
32 lớn cho thời đại nhà Trần nhưng đó còn là công lớn trùm đời sau nữa.
33 Thử không có Hưng Đạo vương thì cõi Nam Giao nầy chắc đã phải
34 cột tóc đuôi sam18 mất rồi. "

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:


35
1
Kỷ Tín: Hán vƣơng Lƣu Bang bị Sở vƣơng Hạng Võ bao vây ở thành
36 Huỳnh Dƣơng, Kỷ Tín giả làm Lƣu Bang ra hàng Sở vƣơng để cho Lƣu
37 Bang trốn thoát còn Kỷ Tín thì bị Hạng Võ thiêu sống.
38
2
Do Vu: trong thời Xuân Thu ở Trung Hoa, khi nƣớc Sở bị vua nƣớc
39 Ngô là Hạp Lƣ đánh, Chiêu vƣơng nƣớc Sở phải chạy sang Vân Mộng,
40 trong lúc đang nằm ngủ có kẻ lẻn vào để ám sát, lúc ấy Do Vu nằm bên

VSTK - 357
1 cạnh đã lấy thân mình che cho Chiêu vƣơng. Do Vu bị ngọn giáo nhọn
2 đâm trúng vai nhƣng Chiêu vƣơng thoát nạn.
3
3
Dự Nhƣợng: thời Chiến Quốc bên Trung Hoa, Trí Bá bị Triệu Tƣơng
4 Tử giết, Dự Nhƣợng tìm kế để giết Tƣơng Tử báo thù cho Trí Bá: ám
5 sát lần đầu bị bắt nhƣng đƣợc tha. Dự Nhƣợng lại giả làm ngƣời bị
6 phong hủi, làm cho giọng nói đổi khác đi dể ám sát Triệu Tƣơng Tử lần
7 thứ nhì nhƣng cũng bị bắt. Cuối cùng Dự Nhƣợng xin cho đánh vào cái
8 áo Tƣơng Tử đang mặc để trả thù; quân hầu mang cái áo của Tƣơng Tử
9 ra, Dự Nhƣợng kêu trời ba lần, vừa kêu vừa đánh vào cái áo rồi tự sát.
10
4
Thân Khoái: ngƣời thời Xuân Thu, thuộc hạ giữ việc chăm sóc ao cá
11 của Tề Trang Công. Trang Công bị Thôi Trƣ giết, Thân Khoái tự tử
12 chết theo.
13
5
Uất Trì Cung Kính Đức: ngƣời đời Tùy Đƣờng, một viên tƣớng có
14 sức mạnh hơn ngƣời của Lý Thế Dân Đƣờng Thái Tông. Uất Trì rất
15 giỏi về môn đánh giáo và rất khéo tránh né gƣơm đao của quân địch
16 trong khi đánh trận, thƣờng một mình một ngựa xong pha vào trận địa,
17 giặc tập trung bao vây, Uất Trì Cung chẳng những không bị thƣơng mà
18 lại còn cƣớp đƣợc gƣơm giáo của giặc để giết giặc. Lúc Lý Thế Dân
19 đem 500 quân ra trận để nghênh chiến, bị Vƣơng Thế Sung đem hơn
20 chục ngàn quân bao vây. Tƣớng của Vƣơng Thế Sung là Đơn Hùng Tín
21 rƣợt đuổi và dùng ngọn giáo đâm Lý Thế Dân, Uất Trì Cung phóng
22 ngựa tới đoạt giáo và đâm Đơn Hùng Tín ngả ngựa khiến cho quân của
23 Vƣơng Thế Sung phải khiếp sợ tháo chạy, nhờ vậy Lý Thế Dân mới
24 thoát khỏi vòng vây.
25
6
Nhan Cảo Khang: quan của nhà Đƣờng, giữ chức vụ thái thú ở
26 Thƣờng Sơn. Vào lúc An Lộc Sơn tạo phản, Cảo Khang khởi binh đánh
27 An Lộc Sơn nhƣng thua và bị bắt. Lộc Sơn dụ hàng. Cảo Khanh không
28 chịu hàng mà còn mắng chửi Lộc Sơn vì thế bị mang ra cắt lƣỡi và
29 hành hạ cho tới chết.
30
7
Thành Điếu Ngƣ: Vƣơng Công Kiên, tri châu Hợp Châu (Tứ Xuyên),
31 đã huy động quân dân nhà Tống đón đánh đoàn đại quân Mông Cổ ở
32 vùng núi Điếu Ngƣ và kéo dài trong mấy tháng liền, cho tới lúc tên
33 tƣớng chỉ huy của Mông Cổ là Mông Kha bị ốm chết, quân Mông Cổ
34 phải rút lui.
35
8
Ngột Lƣơng Hợp Thai: tức Uriyangqadai, tƣớng giỏi của Mông Cổ
36 đã từng đánh chiếm nƣớc Nam Chiếu (tức vùng Vân Nam) rồi tiến quân
37 xâm lăng Đại Việt vào năm 1258.
38 8bis Nam Chiếu: Năm 1253, Hốt Tất Liệt và Ngột Lƣơng Hợp Thai vƣợt

39 sông Kim Sa và chỉ trong một tuần đã đánh chiếm nƣớc Đại Lý. Vua
40 nƣớc Đại Lý là Đoàn Hƣng Trí bị bắt và đầu hàng. Nam Chiếu tức là
41 nƣớc Đại Lý, nay là vùng Vân Nam của Trung Hoa.
42
9
Tể phụ: là những chức quan cao rất đƣợc trọng vọng, thƣờng nắm giữ
43 những chức vụ đầu não then chốt của triều đình.

VSTK - 358
1
10
Vân Nam vƣơng: sau khi chiếm nƣớc Đại Lý, năm 1267 Hốt Tất Liệt
2 cử con trai là Hugodi (Hốt Kha Xích) làm Vân Nam vƣơng đem quân
3 đi đóng giữ nƣớc Đại Lý nay là vùng Vân Nam.
4
11
Đòi hỏi mèo nheo: tức là đƣa ra những điều kiện khó khăn và tốn
5 kém để bắt buộc vua nhà Trần phải phục tùng làm theo chẳng hạn nhƣ:
6 ấn định những sản phẩm địa phƣơng phải cống nạp, nộp học trò giỏi,
7 thợ khéo, thầy thuốc hay; Nguyên Mông có quyền đặt thái thú để kiểm
8 soát việc cai trị nƣớc Đại Việt, vua nhà Trần phải đích thân sang chầu
9 vua Nguyên Mông, phải đƣa con em của vua nhà Trần sang Trung Hoa
10 làm con tin, phải kê khai nhân khẩu, cung cấp quân số và nộp thuế cho
11 họ.
12
12
Đặt mồi lửa dƣới đống củi làm mối nguy cơ, nên lấy việc sợ canh
13 nóng mà lại đi thổi rau nguội: Trong sách Hán thƣ có câu: "Ôm mồi
14 lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy tới đống củi
15 cho nên vẫn tưởng là êm thắm an toàn". Lấy từ trong sách Sở từ : "kẻ
16 sợ canh nóng thường thổi cả rau nguội".
17
13
Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật giỏi có biệt tài bắn cung trong
18 truyện xƣa của Trung Hoa.
19
14
Bài hịch: là một bài văn viết đƣa ra các lý lẽ phải trái, để kêu gọi,
20 khuyên bảo, khơi động lòng lòng trung nghĩa của ngƣời khác.
21
15
Nhân lời trối: cha của Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn là An Sinh
22 vƣơng Trần Liễu có sự xung đột hận thù riêng với Trần Thái Tông. Lúc
23 sắp chết Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn trối lại bảo Quốc Tuấn
24 phải cƣớp lấy ngôi vua của nhà Trần. Lúc đó Quốc Tuấn chỉ biết gật
25 đầu nhƣng rồi chỉ giữ riêng một mình điều đó ở trong lòng cho đến lúc
26 vận nƣớc ngửa nghiêng, Quốc Tuấn mới đem lời trối của Trần Liễu nói
27 với 2 tùy tƣớng của mình Dã Tƣợng và Yết Kiêu. Hai ngƣời tùy tƣớng
28 nầy khuyên Quốc Tuấn không nên nghe theo và Quốc Tuấn cũng đồng
29 ý.
30
16
Hoa di: tức là dân tộc Trung Hoa; dân tộc kém văn minh chậm tiến
31 thì ngƣời Hoa gọi là Man di.
32
17
Mông Cổ: dân tộc Mông Cổ (Mongolia) ở về phía Bắc nƣớc Trung
33 Hoa, gồm nhiều bộ lạc sống bằng nghề chăn nuôi, săn bắn, cỡi ngựa, rất
34 hùng mạnh và rất giỏi đánh trận. Vào thế kỷ thứ 13, Gengiskhan
35 (Thành Cát Tƣ Hãn) thống nhất các bộ lạc Mông, rồi mang quân tràn
36 sang Trung Á (Midle East), Mãn Châu (Cao Ly hay Triều Tiên 1201),
37 Tây Hạ (1209), A Phú Hãn (Afganistan), Ba Tƣ (Iran hay Perse), Tân
38 Cƣơng Nga (1224), và một phần Đông Âu (Eastern Europe, 1241) gồm
39 có Nga (Russia), Đức (Germany), Bảo Gia Lợi (Bungaria), Hung Gia
40 Lợi (Hungaria), Ba Lan (Poland). Thành Cát Tƣ Hản mất, ngƣời con
41 thứ ba là Agotai (A Loa Thai) lên làm vua Mông. A Loa Thai truyền
42 ngôi cho Gouyouk (Quý Đô). Khi Quý Đô mất, ngôi vua Mông Cổ
43 truyền cho một chi họ khác là Mong Ké (Mong Kha) cũng là cháu nội
44 của Thành Cát Tƣ Hãn. Trong khi em của Mong Kha là Hốt Tất Liệt

VSTK - 359
1 đang đánh nhà Tống của nƣớc Tàu thì Mong Kha chết. Hốt Tất Liệt
2 phải rút quân về để tranh ngôi vua với một ngƣời em khác của Mong
3 Kha. Hốt Tất Liệt lên ngôi vua đổi quốc hiệu là nhà Nguyên rồi năm
4 1279 tiêu diệt luôn nhà Tống, làm chủ cả nƣớc Trung Hoa. Lúc chƣa
5 lên ngôi vua và đang trên đƣờng tiến quân đánh nhà Tống, Hốt Tất Liệt
6 đã sai tƣớng Ngột Lƣơng Hợp Thai sang đánh chiếm nƣớc Đại Lý và
7 tiện đƣờng đánh thẳng vào Đại Việt, chiếm thành Thăng Long rồi lật
8 đật rút lui nhanh vì không chuẩn bị đầy đủ và nhất là vì quân Mông
9 không chịu đƣợc khí hậu và thời tiết ở Thăng Long.
10
18
Cột tóc đuôi sam: Nguyên Mông để tóc dài từ nửa phía trên đầu trở
11 về sau và cột thắt thành bím dài giống nhƣ cái đuôi của con sam.

VSTK - 360
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ

CHƢƠNG V

TRẦN MINH TÔNG ( 1314 - 1329 )


Niên hiệu : Đại Khánh (1314-1323)
Khai Thái (1324-1329)

1 Năm Giáp Dần, ngày 18 tháng 3 (1314), Trần Mạnh lên


2 ngôi vua tức là Trần Minh Tông, đổi niên hiệu là Đại Khánh
3 năm thứ 1, suy tôn cha Trần Anh Tông làm thái thƣợng
4 hoàng, tôn vợ cả của Trần Anh Tông làm Thuận Thánh Bảo
5 Từ thái thƣợng hoàng hậu và tôn mẹ sinh Trần thị Huy Tƣ
6 làm Chiêu Thánh thái thƣợng hoàng phi.
7 Tháng 10, thi Thái học sinh. Sai Nguyễn Trung Ngạn và
8 Phạm Ngộ sang báo cáo với nhà Nguyên Mông về việc lên
9 ngôi của Trần Minh Tông.
10 Ất Mão, Đại Khánh năm thứ 2 (1315), xuống chiếu lệnh
11 cấm ngƣời trong họ hàng không đƣợc kiện cáo nhau bao
12 gồm cả hàng gia nô.
13 Tháng 6, đại hạn.
14 Bính Thìn, Đại Khánh năm thứ 3 (1316), xét duyệt lại
15 phẩm trật hàng quan văn để ấn định mức ban cấp số hộ khẩu
16 thu bổng lộc.
17 Mậu Ngọ, Đại Khánh năm thứ 5 (1318), Tuyên Từ đại
18 thái hậu1 chết, chôn cạnh mộ lăng của Trần Nhân Tông.
19 Kỷ Mùi, Đại Khánh năm thứ 6, ngày 17 tháng 5 (1319),
20 thái tử Trần Vƣợng2 sinh; tháng 11, thái tử Trần Nguyên
21 Trác sinh.
22 Canh Thân, Đại Khánh năm thứ 7, ngày 16 tháng 3
23 (1320), Trần Anh Tông mất.
24 Tháng 6, tháng 8, thủy tai, gió bão.
25 Tháng 11, Phạm Ngũ Lão mất, thọ 66 tuổi. Tháng 12, dân
26 chúng bị nạn đói.
27 Quý Hợi, Đại Khánh năm thứ 10 , tháng 8 (1323), thi
28 Thái học sinh.
29

VSTK - 361
1 Tháng 12, lập con gái Huệ Vũ vƣơng Trần Quốc Chân là
2 Huy Thánh công chúa làm Lệ Thánh hoàng hậu. Vợ thứ của
3 Trần Minh Tông là Lê thị Minh Tƣ3, mẹ đẻ của Trần Vƣợng.
4 Giáp Tý, Khai Thái năm thứ 1, (1324) tháng 4, phong cho
5 Trần Quốc Chân chức Quốc phụ thƣợng tể, phong cho Trần
6 Nhật Duật làm Tá thánh thái sƣ.
7 Mậu Thân, Khai Thái năm thứ 5, (1328) tháng 3, Trần
8 Minh Tông bắt giam Trần Quốc Chân và bỏ đói cho chết:
9 con trai của Trần Nhật Duật hợp bè đảng với Trần Khắc
10 Chung để đƣa Trần Vƣợng lên nắm ngôi hoàng thái tử với lý
11 do là hoàng hậu Lệ Thánh không có con trai nhƣng Trần
12 Quốc Chân cản trở bảo phải chờ đến chừng nào Lệ Thánh có
13 con rồi mới bàn định chuyện thiết lập ngôi vị hoàng thái tử
14 và vì thế cho nên bọn Khắc Chung đã gian xảo tố cáo Quốc
15 Chân âm mƣu tạo phản. Nhƣng sau đó Trần Minh Tông mới
16 rõ là Trần Quốc Chân bị oan ức.

VSTK - 362
CHƢƠNG VI

TRẦN HIẾN TÔNG ( 1329 - 1341 )


Niên hiệu : Khai Hựu (1329-1341)

1 Năm Kỷ Tỵ Khai Thái năm thứ 6, ngày mồng 7 tháng 2


2 (1329), Trần Minh Tông sách phong Trần Vƣợng làm
3 Hoàng Thái Tử.
4 Ngày 15 tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1329), Trần Minh Tông
5 nhƣờng ngôi vua cho Trần Vƣợng.
6 Trần Vƣợng lên ngôi vua tức là Trần Hiến Tông, tôn Trần
7 Minh Tông làm thái thƣợng hoàng; vợ chánh của Trần Minh
8 Tông là Lệ Thánh làm Huệ Từ thái thƣợng hoàng hậu, đổi
9 niên hiệu là Khai Hựu năm thứ 1.
10 Thƣợng hoàng Trần Minh Tông đích thân cầm quân đi
11 dẹp giặc Ngƣu Hống4 ở đạo Đà Giang5, giặc thua nhƣng dƣ
12 đảng vẫn còn tiếp tục quấy phá.
13 Canh Ngọ, Khai Hựu năm thứ 2, tháng 7 (1330), Thuận
14 Thánh Bảo Từ6 đại hoàng thái hậu Trần thị, vợ cả của Trần
15 Anh Tông mất.
16 Thái sƣ Chiêu Văn vƣơng Trần Nhật Duật mất, thọ 77
17 tuổi.
18 Trần Khắc Chung7 chết.
19 Giáp Tuất, Khai Hựu năm thứ 6 (1334), thƣợng hoàng
20 Trần Minh Tông tự cầm quân đánh Ai Lao nhƣng chƣa đánh
21 quân Ai Lao đã rút chạy trƣớc. Trần Minh Tông sai Phạn
22 Trung Ngạn đục núi ghi chiến công8 để tuyên truyền cho
23 cuộc hành quân nầy rồi đem quân về.
24 Ất Hợi, Khai Hựu năm thứ 7 (1335), thƣợng hoàng Trần
25 Minh Tông cùng Đoàn Nhữ Hài lại đem quân đánh Ai Lao ở
26 Nam Nhung9 nhƣng lần nầy bị thua, Đoàn Nhữ Hài bị chết
27 chìm.
28 Bính Tý, Khai Hựu năm thứ 8, tháng 10, ngày 19 (1336),
29 thái tử Hạo, con của thƣợng hoàng Trần Minh Tông sinh
30 (sau nầy là Trần Dụ Tông).
31 Đinh Sửu, Khai Hựu năm thứ 9, tháng 6 ngày mồng 2
32 (1337), thái tử Kính, con của thƣợng hoàng Trần Minh

VSTK - 363
1 Tông sinh (sau nầy là Trần Duệ Tông).
2 Tân Tỵ, Khai Hựu năm thứ 13, ngày 11 tháng 6 (1341),
3 Trần Hiến Tông mất, ở ngôi vua 13 năm, thọ 23 tuổi.
4 Thƣợng hoàng Trần Minh Tông không lập con trƣởng của
5 mình là Cung Túc vƣơng Trần Dục lên kế ngôi vua vì Trần
6 Dục có tính ngông cuồng.
7 Tháng 8, Trần Hạo mới 6 tuổi đƣợc Trần Minh Tông đƣa
8 lên nối ngôi vua tức là Trần Dụ Tông.
CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

9
1
Tuyên Từ đại thái hậu: cũng là vợ của Trần Nhân Tông mà cũng là
10 dì ruột của Anh Tông. Mẹ của Anh Tông là vợ cả của Nhân Tông và là
11 chị của Tuyên Từ (hai chị em cùng là vợ của Trần Nhân Tông).
12
2
Trần Vƣợng: con của vợ thứ Trần Minh Tông.
13
3
Lê thị Minh Tƣ: mẹ đẻ Trần Vƣợng; ngƣời cùng làng Giáp Sơn với
14 Trần Khắc Chung. Khắc Chung cũng là thầy dạy Trần Vƣợng.
15
4
Giặc Ngƣu Hống: tên một tộc ngƣời Mán. Theo Hưng Hóa phong
16 thổ ký của Hoàng Trọng Chinh đời Hậu Lê thì ngôn ngữ và chữ viết của
17 tộc Ngƣu Hống cũng giống nhƣ của nƣớc Ai Lao. Ngƣu Hống nay là
18 Yên Châu, tỉnh Hƣng Hóa.
19
5
Đà Giang: thuộc tỉnh Hƣng Hóa. Đời nhà Lý gọi là đạo Lâm Tây.
20 Khi thuộc Minh gọi là châu Gia Hƣng, nhà Lê đổi là phủ Gia Hƣng,
21 thời Minh Mạng nhà Nguyễn cũng gọi là phủ Gia Hƣng.
22
6
Thuận Thánh Bảo Từ đại hoàng thái hậu: vợ cả của Trần Anh
23 Tông, mẹ đích của Minh Tông, tức là bà nội đích của Hiến Tông. Ở đây
24 VSTK dùng chữ đại hoàng thái hậu tức là bà của vua để phân biệt với
25 hoàng thái hậu là mẹ vua.
26
7
Trần Khắc Chung: nguyên là họ Đỗ, ngƣời làng Giáp Sơn thuộc Hải
27 Dƣơng, làm việc ở chi hậu cục, ngƣời hầu của Trần Nhân Tông. Năm
28 1285, khi quân Nguyên kéo tới Đông Bộ Đầu, Trần Nhân Tông muốn
29 sai ngƣời đi dò xem tình hình quân Nguyên hƣ thực ra sao nhƣng không
30 có ai dám tình nguyện ra đi, Đỗ Khắc Chung đã tình nguyện nhận công
31 tác đi sang trại quân Nguyên đối mặt với tƣớng Ô Mã Nhi để xin
32 ngƣng chiến. Việc làm nầy của Khắc Chung đƣợc Trần Nhân Tông
33 khen ngợi nhƣ sau: "Ai ngờ trong đám ngựa kéo xe muối, lại có được
34 ngựa kỳ, ngựa ký như thế", ý nói ngƣời ở hàng quan thấp kém mà có
35 lòng trung nghĩa, có can đảm và tài năng hơn ngƣời. Sử cũ cũng viết
36 rằng ngay cả tƣớng nhà Nguyên là Ô Mã Nhi cũng phải khâm phục và
37 khen ngợi sự dũng cảm và tài ứng đối khéo léo của Khắc Chung. Nhờ
38 có công trạng nhƣ thế, cho nên sau khi đánh đuổi hết quân Nguyên,

VSTK - 364
1 năm 1289 Khắc Chung đƣợc ban cho chức đại hành khiển và đƣợc
2 mang họ Trần. Năm 1298 đƣợc Trần Anh Tông bổ dụng làm Đại an
3 phủ sứ ở kinh đô Thăng Long. Năm 1303 đƣợc thăng chức nhập nội
4 hành khiển tức là tể tƣớng. Năm 1306, chính Trần Khắc Chung tán
5 thành việc bán gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân để
6 đổi lấy hai châu Ô, Lý. Năm 1307, Trần Khắc Chung đƣợc cử đi giải
7 cứu Huyền Trân khỏi bị thiêu sống chết theo vua Chiêm Chế Mân
8 nhƣng trên đƣờng về nƣớc lại thông dâm với Huyền Trân. Vì mối tình
9 vụng trộm nầy giữa Huyền Trân và Khắc Chung mà bố vợ của Trần
10 Anh Tông là Hƣng Nhƣợng vƣơng Trần Quốc Tảng (con trai của Trần
11 Quốc Tuấn) rất ghét Khắc Chung. Năm 1326 Khắc Chung lại đƣợc gia
12 phong làm Thiếu Bảo và gia hàm chức Bình Chƣơng Sự tức là một
13 chức quan tột đỉnh lớn nhất trong hàng các quan ở triều đình. Nhƣ vậy,
14 Khắc Chung là một viên quan thuộc hàng đại thần trải qua 4 triều đại:
15 Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông và
16 khi chết còn đƣợc truy tặng chức Thiếu sƣ.
17
8
Đục núi ghi chiến công: bài văn nầy khắc ở núi Thành Nam, thôn
18 Trầm Hƣơng, huyện Tƣơng Dƣơng, tỉnh Nghệ An.
19 Theo KĐVSTGCM thì nét chữ khắc to bằng bàn tay, sâu vào trong
20 vách đá hơn một tấc. Đây chỉ là một cách phô trƣơng láo lếu chiến công
21 "không đánh mà thắng" để tuyên truyền và bôi vẽ cho chế độ mà thôi.
22
9
Nam Nhung: ấp Nam Nhung, huyện Tƣơng Dƣơng, tỉnh Nghệ An.

KHẢO LUẬN:

 Về âm mƣu đƣa Trần Vƣợng lên ngôi hoàng


thái tử và giết hại Trần Quốc Chân :

23 ĐVSKTT chép việc nầy nhƣ sau: "Bấy giờ vua (Trần Minh Tông) ở
24 ngôi được 15 năm, tuổi đã cao mà chưa lập thái tử. Cha hoàng hậu là
25 Trần Quốc Chân giữ ý định đợi hoàng hậu có con rồi sẽ lập. Cương
26 Đông vương Hiến Hầu là con của Tá Thánh thái sư Trần Nhật Duật,
27 muốn đánh đổ hoàng hậu để lập hoàng tử Vượng (con của Lê thị, thứ
28 phi của Trần Minh Tông), mới đem 100 lượng vàng hối lộ đút lót cho
29 gia nô của Quốc Chân là Trần Phẫu xúi giục hắn vu cáo Quốc Chân
30 âm mưu phản loạn. Vua tin là thật, giam Quốc Chân ở chùa Tư Phúc
31 rồi đem chuyện đó hỏi Thiếu Bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung về
32 hùa cùng với Văn Hiến, hơn nữa, mẹ đẻ của Vượng là người cùng làng
33 Giáp Sơn với Khắc Chung và Khắc Chung còn là thầy dạy của Vượng.
34 Vì thế Khắc Chung đã xúi Trần Minh Tông rằng: "Bắt hổ thì dễ, thả hổ
35 về rừng thì nguy" (Tróc hổ dị, phóng hổ nan). Vua nghe thế mới bắt
36 Quốc Chân tự tử bằng cách tuyệt đối cấm không cho ăn uống. Hoàng
37 hậu lén lấy áo tẩm nước mặc vào mình rồi thừa lúc được vào thăm vắt
38 nước cho Quốc Chân uống, uống xong thì chết. Rất nhiều người bị liên
39 lụy bắt bớ và chịu án phạt, tù đày một cách oan ức.

VSTK - 365
1 Vài năm sau, chuyện ăn hối lộ và cáo gian của tên Trần Phẫu bị
2 phát giác.Tên Phẫu bị xử phạt lăng trì nhưng chưa kịp hành hình thì
3 gia nô của Quốc Chân đã ăn sống hết cả thịt của nó. Văn Hiến (tức
4 Hiến Hầu) được miễn tội chết nhưng bị giáng xuống làm thường dân,
5 xóa tên trong sổ của dòng họ hoàng tộc ". (Hình phạt lăng trì: đây là
6 một loại hình phạt dã man và ghê rợn nhất ở thời đại phong kiến: trƣớc
7 hết chặt hai chân, hai tay; đàn ông, con trai thì cắt bộ phận sinh dục,
8 đàn bà, con gái thì lấy cọc nhọn đóng vào âm hộ rồi mổ bụng, moi hết
9 ruột gan ra, thịt da bị cắt xẻo từ từ thành từng miếng lớn nhỏ, xong rồi
10 hốt bỏ vào ngâm cho thối rửa ra giống nhƣ ngƣời ta ngâm làm mắm.
11 KĐVSTGCM cũng chép giống nhƣ thế.
12 Đây cũng lại là một vụ án mờ ám khác trong dòng họ nhà Trần và
13 cái chết của Trần Quốc Chân cũng tƣơng tựa nhƣ cái chết của Lý Huệ
14 Tông trƣớc đây: sử cũ chép rằng: Quốc Chân đƣợc con gái vắt nƣớc
15 cho uống nhƣng sau khi uống xong thì ngã lăn ra chết. Lý do cái chết
16 của Quốc Chân thật là đơn giản và rất khó tin. Những kẻ thù của dòng
17 họ nhà Trần thƣờng bị bí mật giết chết hoặc thủ tiêu một cách mờ ám
18 rồi viện dẫn bày ra những lý do ngoại lai để giải thích về cái chết của
19 những kẻ thù nạn nhân của họ. Hoặc đây cũng lại là một màn đạo diễn
20 giả tạo sắp xếp để diệt trừ Trần Quốc Chân mà trong đó có cả sự tham
21 dự của Trần Minh Tông. Tại sao?
22 Trƣớc hết Trần Quốc Chân là em trai của Trần Anh Tông tức là chú
23 ruột của Trần Minh Tông. Nếu ngày xƣa Anh Tông chết sớm hoặc
24 không có con trai thì ngôi vua đã chuyển sang chi họ Trần Quốc Chân.
25 Đến nay, Trần Quốc Chân vẫn còn có khả năng lên ngôi vua nếu Trần
26 Minh Tông chết đi một cách bất thần mà chƣa có con trai để lập thái tử.
27 Vì thế, Trần Minh Tông xem Quốc Chân là mối đe dọa thƣờng xuyên
28 cho ngôi vua của mình. Ngoài ra cách xử sự cố chấp không khéo léo
29 của Trần Quốc Chân khiến cho Trần Minh Tông càng vững tin rằng
30 trƣớc sau gì rồi thì Trần Quốc Chân cũng tạo phản cƣớp ngôi vua cho
31 nên đã cùng Trần Khắc Chung dàn cảnh để khử trừ Trần Quốc Chân.
32 Một sự kiện khác củng cố thêm cho nghi án là sau khi Trần Quốc Chân
33 vừa mới chết, Trần Vƣợng (Trần Hiến Tông) đã đƣợc truyền ngôi vua
34 một cách hấp tấp; rồi sau khi Trần Quốc Chân đƣợc giải oan, kẻ đồng
35 mƣu với Trần Minh Tông là Trần Khắc Chung vẫn không bị hề hấn gì
36 mà kể từ lúc đó còn đƣợc thăng quan tiến chức đều đều.
37 Sử cũ lấp liếm hành vi chủ mƣu mờ ám của Trần Minh Tông bằng
38 cách viết rằng Minh Tông "kém thông minh", không nhận biết mƣu
39 gian của Khắc Chung khiến Quốc Chân phải chết oan.

 Khảo luận về Trần Khắc Chung :

40 Ngô Sĩ Liên viết về Trần Khắc Chung nhƣ sau: "Thói gian tà của Trần
41 Khắc Chung thực quá quắt lắm! Không những hắn bày trò chó lợn ở đây (chỉ
42 việc Khắc Chân thông dâm với công chúa Huyền Trân) mà sau nầy còn vào

VSTK - 366
1 hùa với Văn Hiến vu hãm quốc phụ thƣợng tể (tức Trần Quốc Chân) vào tội
2 phản nghịch, làm liên lụy và chết oan đến hơn trăm ngƣời. Thế mà hắn đƣợc
3 trọn đời phú quý.
4 Khổng Tử nói: Kẻ gian tà được sống sót là may mà thoát tội
5 chăng?".
6 ĐVSKTT viết: "Khắc Chung là người cố làm ra vẻ khác đời để cầu
7 tiếng khen chứ không phải vì dân vì nước. Tất cả việc làm của hắn đều
8 là giả dối. Thường hay cờ bạc suốt sáng thâu đêm với Nguyễn Sĩ Cố
9 hai, ba ngày liền không ngơi nghỉ. Tiệc tùng nào mời gọi cũng tới. .
10 .Hắn là người xu thời giả tạo, chỉ có mỗi một việc đi cầu hòa với quân
11 Nguyên Mông là được nổi danh và khiến cho người đời lầm lẫn mà
12 khen hắn là người tài giỏi. Khi chết, đưa về chôn ở làng Giáp Sơn, bị
13 gia nô của Trần Quốc Chân quật mồ băm nát thây ra ".

VSTK - 367
Tờ 11b Tờ 11a

Hịch tƣớng sĩ của Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn


chép trong ĐVSKTT/Bản K›/Q.5/Tờ 11
(Đọc từ cột trái sang phải, từ trên xuống dƣới)

VSTK - 368
Tờ 12b Tờ 12a

Hịch tƣớng sĩ của Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn


chép trong ĐVSKTT/Bản K›/Q.5/Tờ 12
(Đọc từ cột trái sang phải, từ trên xuống dƣới)

VSTK - 369
Tờ 13a Tờ 13b

Hịch tƣớng sĩ của Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn


chép trong ĐVSKTT/Bản K›/Q.5/Tờ 13
(Đọc từ cột trái sang phải, từ trên xuống dƣới)

VSTK - 370
Tờ 14b Tờ 14a

Hịch tƣớng sĩ của Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn


chép trong ĐVSKTT/Bản K›/Q.5/Tờ 14
(Đọc từ cột trái sang phải, từ trên xuống dƣới)

VSTK - 371
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ
CHƢƠNG VII

TRẦN DỤ TÔNG (1341 - 1369 )


Niên hiệu : Thiệu Phong (1341-1357)
Đại Trị (1358-1369)

1 Năm Tân Tỵ, tháng 8, ngày 21 (1341), con thứ 10 của


2 Trần Minh Tông là Hạo lên ngôi vua tức Trần Dụ Tông, đổi
3 niên hiệu là Thiệu Phong năm thứ 1. Dụ Tông lúc đó mới
4 đƣợc 6 tuổi, mẹ đẻ là vợ cả của thƣợng hoàng Trần Minh
5 Tông tức Lệ Thánh.
6 Nhâm Ngọ, Thiệu Phong năm thứ 2, tháng 4 (1342), bổ
7 dụng Cung Tỉnh vƣơng Trần Nguyên Trác làm Thái Úy.
8 Tháng 7, tôn mẹ đẻ Lệ Thánh lên làm Hiến Từ hoàng
9 thái hậu.
10 Quý Mùi, Thiệu Phong năm thứ 3, tháng 5, tháng 6
11 (1343), hạn hán; tháng 11, dân bị nạn đói.Giáp Thân, Thiệu
12 Phong năm thứ 4 (1344), phục hồi quan tƣớc cho Trần Quốc
13 Chân.Đặt 20 đoàn quân đặc biệt ở các lộ chuyên lo việc
14 đánh bắt trộm cƣớp đang nổi lên khắp nơi. Mất mùa, đói
15 kém không dứt, dân phải đi làm gia nô hoặc cạo đầu làm sƣ
16 sải để kiếm sống.
17 Ất Dậu, Thiệu Phong năm thứ 5 (1345), thi Thái học sinh;
18 đại hạn; sai Phạm Sƣ Mạnh đi sứ sang triều đình nhà
19 Nguyên để thảo luận về cột đồng biên giới ngày trƣớc của
20 Mã Viện.
21 Bính Tuất, Thiệu Phong năm thứ 6 (1346), quân nƣớc Ai
22 Lao quấy nhiễu ở biên giới, dẹp yên đƣợc.
23 Mậu Tý, Thiệu Phong năm thứ 8 (1348) tháng Giêng, lấy
24 Đỗ Tử Bình1 làm thị giảng2 .
25 Hạn hán; rồi lại lũ lụt.
26 Kỷ Sửu, Thiệu Phong năm thứ 9 tháng 10 (1349), Trần
27 Dụ Tông lập con gái Huệ Túc vƣơng là Trần thị làm Nghi
28 Thánh hoàng hậu.
29 Tân Mão, Thiệu Phong năm thứ 11 tháng 7 (1351), lũ lụt
30 lớn.

VSTK - 372
1 Trần Dụ Tông nghe lời hƣớng dẫn quái dị của một tên
2 thầy thuốc Bắc3 tên là Trâu Canh4, giết đứa bé trai để lấy
3 mật uống rồi thông dâm với chị ruột mình là công chúa
4 Thiên Ninh4bis để chữa bệnh liệt dƣơng5.
5 Nhâm Thìn, Thiệu Phong năm thứ 12 tháng 7 (1352), lũ
6 lụt lớn làm vỡ đê Bát Tràng và Thổ Khối6, mất mùa lớn ở
7 Khoái Châu7, Hồng Châu8 và Thuận An9.
8 Giáp Ngọ (1354), giặc loạn ở Lạng Châu và Nam Sách.
9 Đinh Dậu, Thiệu Phong năm thứ 17 tháng 2 (1357),
10 thƣợng hoàng Trần Minh Tông mất, ở ngôi vua 15 năm, làm
11 thái thƣợng hoàng 28 năm, thọ 58 tuổi.
12 Mậu Tuất (1358), giặc cƣớp Ngô Bệ trƣớc đây (năm Giáp
13 Thân/1344) quấy nhiễu ở vùng núi Yên Phụ10 bị dẹp tan nay
14 lại tụ tập dƣ đảng làm loạn.
15 Kỷ Hợi, Đại Trị năm thứ 2 tháng 4 (1359), Chiêu Từ (tức
16 Huy Từ, mẹ đẻ của Trần Minh Tông) hoàng thái phi mất.
17 Canh Tý, Đại Trị năm thứ 3 (1360) tháng 3, tƣớng giặc
18 cƣớp Ngô Bệ cùng 30 đồng đảng bị quân triều đình bắt giải
19 về kinh đô xử chém.
20 Ở Trung Quốc, nhà Nguyên bắt đầu suy. Con của Trần
21 Ích Tắc là Trần Hữu Lƣợng tự xƣng là Hán đế lấy niên hiệu
22 là Đại Nghĩa để tranh giành làm chủ nƣớc Trung Hoa với
23 Chu Nguyên Chƣơng lúc nầy cũng nổi lên đánh phá và tự
24 xƣng là Minh đế.
25 Tân Sửu, Đại Trị năm thứ 4 (1361) tháng 2, Chu Nguyên
26 Chƣơng đánh Trừ Châu, chiếm Kim Lăng, đánh nhau với
27 Trần Hữu Lƣợng ở Long Châu11, Bằng Tƣờng12, Hữu Lƣợng
28 thua phải rút quân cố thủ Vũ Xƣơng và cho ngƣời sang Đại
29 Việt xin viện quân nhƣng Trần Dụ Tông từ chối.
30 Trần Dụ Tông bắt đầu ăn chơi, xƣớng hát, cờ bạc, rƣợu
31 chè sai sƣa với đám quan thần trong triều, xây hồ thả cá, sửa
32 sang vƣờn hoa cây kiển, nuôi chim lạ.
33 Giáp Thìn, Đại Trị năm thứ 7 (1364) tháng 10, Cung Túc
34 vƣơng Nguyên Dục13 mất.
35 Bính Ngọ, Đại Trị năm thứ 9 (1366) tháng 6, Trần Dụ
36 Tông đi chơi đêm bị cƣớp mất hết ấn kiếm, cho là điềm

VSTK - 373
1 chẳng lành14 cho nên lại càng bung thùa hƣởng thụ, ăn chơi
2 dâm dật nhiều hơn.
3 Ở Trung Hoa, Trần Hữu Lƣợng đánh nhau với Chu
4 Nguyên Chƣơng. Hữu Lƣợng bị Nguyên Chƣơng giết tại
5 trận ở vùng hồ Phiên Dƣơng, con của Hữu Lƣợng là Trần Lý
6 phải đầu hàng.
7 Đinh Mùi, Đại Trị năm thứ 10 (1367), Chu Nguyên
8 Chƣơng diệt luôn nhà Nguyên, chiếm trọn hết nƣớc Trung
9 Hoa, khởi đầu triều đại nhà Minh.
10 Tháng 12, Trần Dụ Tông sai Trần Thế Hƣng và Đỗ Tử
11 Bình đi đánh Chiêm Thành ở Chiêm Động, bị thua to, thiệt
12 hại nặng nề. Thế Hƣng bị Chiêm Thành bắt.
13 Mậu Thân, Đại Trị năm thứ 11 (1368) tháng 4, Chu
14 Nguyên Chƣơng lên ngôi đế ở Kim Lăng bên Trung Hoa
15 tức là Minh Thái Tổ, lấy niên hiệu là Hồng Vũ, sai sứ sang
16 Đại Việt thông báo.
17 Tháng 8, Đại Việt sai Lễ bộ thị Lang Đào Văn Đích sang
18 Trung Hoa đáp lễ với vua nhà Minh.
19 Kỷ Dậu, Đại Trị năm thứ 12 (1369) ngày 25 tháng 5,
20 Trần Dụ Tông chết, không có con trai để nối ngôi. Theo di
21 chiếu15 để lại, truyền ngôi vua cho tên Dƣơng Nhật Lễ16.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:


22

23
1
Đỗ Tử Bình: sử cũ không ghi đƣợc lý lịch của ngƣời nầy. Có sách
24 ghi rằng ở huyện Cổ Lan có vƣờn Tử Bình. Huyện Cổ Lan tức là Đông
25 Quan, thời Minh Mạng thuộc tỉnh Nam Định, nay thuộc Đông Hƣng,
26 tỉnh Thái Bình.
27
2
Thị giảng: một chức quan làm việc ở viện Hàn Lâm, chuyên lo soạn
28 thảo những chiếu, chế, cáo, chỉ của vua.
29
3
Thầy thuốc Bắc: tức là những ngƣời đến từ nƣớc Trung Hoa (Bắc
30 phƣơng) chuyên làm nghề khám bệnh cho toa hốt thuốc. Về sau lại có
31 thêm thầy thuốc Nam tức là những ngƣời thầy thuốc ở phía Nam nƣớc
32 Tàu; ngƣời đƣợc xem nhƣ là ông tổ thầy thuốc Nam cổ truyền của Việt
33 Nam là Lãng Thƣợng Lão Ông.
34
4
Trâu Canh: Trong khoảng những năm 1251-1257, một tên lính
35 Nguyên Mông tên là Trâu Tôn bị quân nhà Trần bắt nhƣng vì biết nghề
36 chẩn mạch hốt thuốc để chữa bệnh cho dòng họ nhà Trần nên đƣợc tha
37 chết. Trâu Canh là con trai của Trâu Tôn. Lúc Trần Dụ Tông còn nhỏ,
38 đi chơi rong bị té xuống nƣớc gần ngừng thở, Trâu Canh đã dùng thuật

VSTK - 374
1 châm cứu để cứu sống Dụ Tông cho nên càng đƣợc tin dùng. Khi Trần
2 Dụ Tông lên ngôi vua thì vì ăn chơi quá độ nên mắc phải bệnh yếu
3 đƣờng sinh lý; Trâu Canh khám bệnh hốt thuốc nói rằng đây là bệnh
4 liệt dƣơng, muốn chữa khỏi thì Dụ Tông phải thông dâm với chị hoặc
5 em gái ruột của mình thì phƣơng thuốc đặc biệt của hắn mới hiệu
6 nghiệm. Trần Dụ Tông nghe lời làm theo lời dạy của tên lang băm,
7 thông dâm với chị ruột là công chúa Thiên Ninh. Sau khi lên ngôi vua,
8 Trần Dụ Tông đem gả Thiên Ninh Chính Túc vƣơng Kham.
9 4 bis Thiên Ninh: là con vợ thứ của Trần Minh Tông.

10
5
Bệnh liệt dƣơng: KKĐVS viết rằng lý do bệnh liệt dƣơng của Trần
11 Dụ Tông là vì lúc 4 tuổi đi chơi rong bị té xuống nƣớc suýt bị chết
12 nhƣng có thể cứu sống bằng cách châm cứu tuy nhiên theo lời cố vấn
13 của tên thầy thuốc Bắc Trâu Canh thì sau nầy Dụ Tông sẽ bị liệt dƣơng;
14 liệt dƣơng theo sử cũ có lẽ là nói về việc Dụ Tông không thể có con
15 chứ không phải hiểu theo nghĩa mất khả năng giao cấu ăn nằm với đàn
16 bà; bằng chứng là sau nầy Dụ Tông đã làm tình với chị ruột của mình
17 và nhất là sau khi bị mất ấn tín và kiếm lệnh, tin là điềm xấu sẽ chết
18 sớm cho nên Dụ Tông càng ăn chơi dâm dật bung thùa nhiều hơn. Cũng
19 cần lặp lại rằng, dòng họ nhà Trần cùng chung huyết tộc thƣờng chung
20 chạ lấy nhau lẫn lộn vì thế có thể ảnh hƣởng tai hại cho khả năng tạo
21 sinh thụ thai, gây ra bệnh hiếm muộn không có con hoặc nếu có con thì
22 tuổi thọ của những đứa con loại nầy thƣờng không sống dài lâu; đa số
23 các vua nhà Trần đều có tuổi thọ dƣới 70 và có ngƣời chết rất sớm.
24
6
Đê Bát Tràng và Thổ Khối: tên 2 xã ở huyện Gia Lâm, Hà Nội.
25
7
Khoái Châu: nay là các huyện Châu Giang, Kim Thì và Phù Tiên
26 tỉnh Hải Hƣng.
27
8
Hồng Châu: gồm các huyện Mỹ Văn, Cẩm Bình, Ninh Thanh, Tứ
28 Lộc tỉnh Hải Hƣng.
29
9
Thuận An: gồm huyện Thuận Thành, Gia Lƣơng của tỉnh Hà Bắc,
30 huyện Văn Giang của tỉnh Hải Hƣng và huyện huyện Gia Lâm, Hà Nội.
31
10
Yên Phụ: ở huyện Kim Môn, tỉnh Hải Hƣng.
32
11
Huyện Long Châu: thuộc tỉnh Quảng Tây ở Trung Hoa, giáp tỉnh
33 Lạng Sơn của Đại Việt.
34
12
Bằng Tƣờng: tức động Bằng Tƣờng; đời Minh là Thổ châu; nay là
35 huyện Bằng Tƣờng, tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa.
36
13
Cung Túc vƣơng Nguyên Dục: con trai dòng đích của Trần Minh
37 Tông (mẹ là Hiến từ hoàng thái hậu) tức là anh trai của Trần Dụ Tông
38 (con thứ 10 của Minh Tông).
39
14
Điềm chẳng lành: sử cũ viết rằng bị mất ấn kiếm đối với Dụ Tông là điềm
40 xấu báo ngày sắp chết đã gần kề.
41
15
Theo di chiếu: ĐVSKTT viết nhƣ sau: Ngày vua (Trần Dụ Tông)
42 sắp băng, vì không có con, xuống chiếu đón Nhật Lễ vào nối đại
43 thống". Một đoạn khác lại viết: Lúc nầy thái hậu Hiến Từ (có sách gọi
44 là Huệ Từ) bảo các quan rằng: "Nguyên Dục là con đích trưởng mà

VSTK - 375
1 không được nối ngôi vua, lại sớm lìa đời; vậy Nhật Lễ chẳng phải là
2 con của Nguyên Dục hay sao." Bèn đón Nhật Lễ lập làm vua. Cứ theo
3 cách viết nầy thì chính hoàng thái hậu Hiến Từ đã đứng ra sắp xếp để
4 cho Nhật Lễ lên ngôi vua mặc dù Nhật Lễ không phải là máu mủ thật
5 sự và chính tông của dòng họ nhà Trần. Tuy nhiên, thông thƣờng, khi
6 hoàng thái hậu còn sống thì đa số trƣờng hợp quyền hạn của thái hậu
7 bao trùm trên tất cả quyền hạn những ngƣời khác kể cả quyền hạn của
8 ngƣời con đang làm vua. Trong chuyện sắp xếp nầy, phản phất nhƣ có
9 một điều ẩn khuất nào đó khiến cho Hiến Từ hành động nhƣ vậy để
10 thoả lòng căm tức chôn dấu trong lòng từ lâu kể từ khi Trần Dụ Tông
11 lên ngôi vua. Nhất định Hiến Từ biết rõ việc làm của mình sẽ làm sụp
12 đổ dòng họ nhà Trần nhƣng vẫn cứ làm và nhƣ vậy nhất định là phải có
13 một lý do sâu xa nào đó mà sử cũ không viết ra; lý do đó rất có thể là
14 việc Trần Minh Tông chọn con dòng thứ là Vƣợng (tức Trần Hiến
15 Tông) để nối ngôi vua rồi tiếp theo lại chọn Hạo (tức Trần Dụ Tông) để
16 nối ngôi vua mà không chọn con đích là Cung Túc vƣơng Trần Nguyên
17 Dục, ngƣời đƣợc thái hậu Hiến Từ thƣơng yêu.
18
16
Dƣơng Nhật Lễ: con của một kép hát tuồng tên là Dƣơng Khƣơng.
19 Mẹ Nhật Lễ cũng là một ả đào hát tuồng; trong tuồng "Vương mẫu hiến
20 bàn đào"; ả đào hát tuồng nầy đang có thai Nhật Lễ, thủ vai vƣơng
21 mẫu, Cung Túc vƣơng Trần Nguyên Dục quá mê thích nên chiếm lấy
22 làm vợ. Đến khi đẻ, Nguyên Dục nhận Nhật Lễ làm con mình.

KHẢO LUẬN :
Về việc Trần Dụ Tông thông dâm với chị của mình là công chúa
Thiên Ninh:
23

24 Đây lại là một trò dâm loạn vô luân khác của dòng họ họ nhà Trần
25 nhƣng lần nầy thì lại càng thô bỉ và đốn mạc hơn những trƣờng hợp
26 trƣớc đây và đƣợc che đậy dƣới màn thầy thuốc lang băm chữa bệnh
27 liệt dƣơng. Không còn lời lẽ nào để phê bình đƣợc nữa bởi vì dòng nào
28 thì giống nấy, không có gì phải ngạc nhiên.
29 Tự Đức có lời phê nhƣ sau: "Phong hóa nhà Trần không nghiêm
30 chỉnh lại còn tệ hơn phong hóa nhà Đường ở bên Tàu". [phụ chú: ngày
31 trƣớc ở bên Trung Hoa, Đƣờng Thái Tông Lý Thế Dân sau khi đã giết
32 em ruột là Nguyên Cát lấy luôn vợ của Nguyên Cát là Dƣơng thị, sau
33 đẻ con tên là Minh cho thừa tự Nguyên Cát. Đƣờng Thái Tông Lý Thế
34 Dân mất, con là Trị lên nối ngôi tức là Đƣờng Cao Tông lại lấy vợ thứ
35 của cha là Vũ Chiếu rồi lập làm hoàng hậu tức là Vũ Tắc Thiên. Đến
36 đời Đƣờng Huyền Tông thì lại cƣớp vợ (Dƣơng Thái Chân) của con trai
37 mình (Thọ vƣơng) đem vào hoàng cung lập làm quý phi].
Phan Phú Tiên bàn nhƣ sau: "Tam cương, ngũ thường (vua tôi, cha
con, vợ chồng, anh em và bạn bè), đó là luân lý trọng đại của loài

VSTK - 376
người. . . . .Suốt đời nhà Trần, quen thói dâm loạn chung chạ lẫn nhau
kể cả việc Trần Dụ Tông dâm loạn càn bậy chính là do từ Trần Thái
Tông đã làm đầu têu từ trước". Ngô Thời Sĩ cũng có lời bàn: "Cả một
đời nhà Trần vẫn gọi là không có nghi lễ ".

VSTK - 377
CHƢƠNG VII /PHỤ

DƢƠNG NHẬT LỄ ( 1369 - 1370 )


Niên hiệu: Đại Định

1 Kỷ Dậu, Đại Định năm thứ 1, tháng 8 (1369), Nhật Lễ lên


2 ngôi, đổi niên hiệu là Đại Định năm thứ 1, tôn Hiến Từ làm
3 Hiến Từ Tuyên Thánh đại1 hoàng thái hậu, tôn vợ Trần Dụ
4 Tông là Nghi Thánh làm Huy Từ Tá Thánh hoàng thái hậu;
5 lập con gái Cung Định vƣơng Trần Phủ làm hoàng hậu. Phủ
6 là con vợ thứ Lê thị2 và là con trai thứ 3 của Trần Minh
7 Tông.
8 Dùng Cung Tỉnh vƣơng Nguyên Trác3 làm thƣợng tƣớng
9 quốc thái tể4; Cung Định vƣơng Phủ làm thái sƣ tả tƣớng
10 quốc; Cung Tuyên vƣơng Cảnh5 làm hữu tƣớng quốc.
11 Tháng 12, Dƣơng Nhật Lễ giết6 Hiến Từ Tuyên Thánh
12 đại hoàng thái hậu để đƣợc nắm trọn quyền ngôi vua không
13 bị ràng buộc dƣới uy quyền7 của Tuyên Thánh.
14 Kể từ khi đoạt ngôi vua, Nhật Lệ ngày ngày ăn chơi, rƣợu
15 chè, dâm dật, hát xƣớng suồng sã với bọn vô loại và mƣu
16 định thiết lập vƣơng triều cho dòng họ Dƣơng, tiêu diệt dòng
17 họ nhà Trần.
18 Canh Tuất, Đại Định năm thứ 2, tháng 9 (1370), thái tể
19 Nguyễn Trác và con trai Nguyễn Tiết hợp cùng với 2 ngƣời8
20 con của công chúa Thiên Ninh định mƣu trừ diệt Nhật Lễ
21 nhƣng thất bại, nhóm khởi xƣớng gồm cha con Nguyễn Trác
22 và nhiều ngƣời khác tất cả 18 ngƣời đều bị Dƣơng Lễ giết
23 chết. Cung Định vƣơng Phủ cũng chạy trốn lên trấn Đà
24 Giang rồi cùng với các em là Cung Tuyên vƣơng Kính,
25 Chƣơng Túc thƣợng hầu Nguyên Đáng, Thiên Ninh Công
26 chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại La9, phủ Thanh Hóa để dấy
27 quân diệt trừ Dƣơng Nhật Lễ với sự tiếp trợ ngầm của Trần
28 Ngô Lang từ bên trong nội bộ của Nhật Lễ.
29 Tháng 11, Cung Định vƣơng Phủ kéo quân hƣớng về
30 Kinh đô; ngày 13 đến phủ Kiến Hƣng10, tuyên lệnh phế Nhật
31 Lễ xuống làm Hôn Đức Công.
32 Ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất, Cung Định vƣơng
33 Phủ lên ngôi vua tức Trần Nghệ Tông, đổi niên hiệu, mọi

VSTK - 378
1 công việc đều theo lệ cũ từ niên hiệu Khai Thái11 của Trần
2 Minh Tông.
3 Ngày 21, Nhật Lễ nghe lời dụ của Trần Ngô Lang ra quy
4 phục nhận tội với Trần Nghệ Tông; sau đó biết đƣợc Ngô
5 Lang làm nội tuyến cho Nghệ Tông, Nhật Lễ lập mƣu giết
6 Ngô Lang và do đó bị Nghệ Tông xử phạt đánh chết bằng
7 trƣợng, Trần Ngô Lang đƣợc truy phong tƣớc vƣơng.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:


8
1
Đại hoàng thái hậu: sử cũ gọi là thái hoàng thái hậu, tức bà nội của
9 vua. Cách gọi theo sử cũ làm cho ngƣời đọc bối rối, khó hiểu. Đại
10 hoàng thái hậu là cách gọi của VSTK tức là bà của vua để phân biệt với
11 hoàng thái hậu là mẹ đích hoặc mẹ đẻ của vua đang tại vị.
12
2
Con vợ thứ Lê thị: ĐVSKTT viết là con trai thứ 3 của Trần Minh
13 Tông, mẹ đẻ là thứ phi Lê thị. Viết nhƣ thế có nghĩa là Lê thị có rất
14 nhiều con với Minh Tông. Con trai lớn nhất của Lê thị và Minh Tông là
15 Trần Hiến Tông Vƣợng. Thứ phi Lê thị là em gái cùng mẹ, khác cha
16 với Hiến Từ; cả hai đều là vợ của Trần Minh Tông.
17
3
Cung Tỉnh vƣơng Nguyên Trác: giữ chức thái úy và tả tƣớng quốc
18 dƣới thời Trần Dụ Tông, là con vợ thứ của Trần Minh Tông. Con gái
19 của Nguyên Trác tên là Triều Môn, thứ phi của Trần Dụ Tông.
20
4
Quốc thái Thƣợng tƣớng tế: tƣớng lớn tuổi nhất triều đình, đứng
21 vào hàng ông, bác hay chú của vua.
22
5
Cung Tuyên vƣơng Cảnh: sử cũ không cho biết là con dòng đích
23 hay thứ của Trần Minh Tông mà chỉ nói là em của Trần Minh Tông
24 (BK.VII, 31b).
25
6
Nhật Lễ giết Hiến Từ: ĐVSKTT không nói lý do tại sao Hiến Từ bị
26 giết. KĐVSTGCM viết: "Khi Nhật Lễ đã lên ngôi rồi, bà Hiến Từ
27 hoàng hậu thường hối hận rằng hắn không phải là con của Cung Túc
28 Vương Dục. Nhật Lễ bèn ngầm đầu độc giết chết Hiến Từ"(CB/ X,23).
29
7
Uy quyền của Tuyên Thánh: sử cũ không nói tới điều nầy nhƣng
30 chắc chắn rằng Tuyên Thánh muốn áp dụng quyền hạn của một ngƣời
31 thái hậu đã có công đƣa Nhật Lễ lên ngôi vua nhƣng thất bại và ân hận
32 vì không nắm giữ và điều khiển đƣợc Nhật Lễ theo ý mình.
33
8
Hai ngƣời con của công chúa Thiên Ninh: sử cũ không nói rõ tên
34 của 2 ngƣời con nầy và ai là cha của họ; có thể một trong hai ngƣời là
35 con của Trần Dụ Tông với Thiên Ninh khi Dụ Tông uống mật xanh của
36 đứa trẻ nít và làm chuyện tà dâm với chị ruột mình là Thiên Ninh để
37 chữa bệnh liệt dƣơng không thể có con. Sử cũ cũng chép rằng kiểu
38 chữa bệnh liệt dƣơng nầy có công hiệu, công hiệu ở đây phải chăng là
39 Dụ Tông đã có thể tạo thai với Thiên Ninh và để khỏi bị tiếng đời gièm
40 pha dị nghị Dụ Tông đã gả Thiên Ninh cho Chính Túc vƣơng Kham

VSTK - 379
1 vào năm 1342. Còn ngƣời con thứ nhì là con của Thiên Ninh và Chinh
2 Túc vƣơng Kham.
3
9
Sông Đại Lại: là dòng sông phụ của sông Lƣơng (sông Mã) thuộc địa
4 phận tỉnh Thanh Hóa.
5
10
Phủ Kiến Hƣng: nay là các vùng đất ở các huyện Vụ Bản, Nghĩa
6 Hƣng và Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh.
7
11
Đời Khai Thái: niên hiệu Thời Trần Minh Tông (1324-1328).

VSTK - 380
QUYỂN II

THỜI ĐẠI TỰ CHỦ

CHƢƠNG VIII

TRẦN NGHỆ TÔNG ( 1370 - 1372 )


Niên hiệu : Thiệu Khánh
1 Tên húy là Phủ, con thứ ba của Trần Minh Tông. Mẹ cả là
2 Hiến Từ hoàng hậu của Minh Tông, mẹ đẻ là Minh Từ họ Lê
3 em gái cùng mẹ khác cha với Hiến Từ, thứ phi của Minh
4 Tông.
5 Ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất (1370), Thiệu Khánh
6 năm thứ 1, Trần Phủ lên ngôi vua ở phủ Kiến Hƣng, trở về
7 thủ đô, bắt giết Dƣơng Ngọc Lễ; trừng trị ngƣời trong vƣơng
8 tộc là Trần Nhật Hạch đã a dua theo Ngọc Lễ mƣu đồ lật đổ
9 nhà Trần.
10 Quốc Tử giám tƣ nghiệp Chu An1 mất.
11 Tân Hợi, Thiệu Khánh năm thứ 2 (1371), truy tôn mẹ đẻ
12 Lê thị làm Minh Từ hoàng thái phi. Phong cho công chúa
13 Ngọc Ninh làm Lạng Quốc thái trƣởng công chúa.
14 Bỏ lệ chiếm lấn đất bãi gần sông có đất phù sa bồi đắp do
15 đám dòng họ vƣơng tộc thƣờng tự tiện áp dụng.
16 Ra lệnh kiểm kê di sản của các nhà giàu có quyền quý đã
17 chết để giao nạp cho cho nhà nƣớc, không đƣợc tự do chia
18 cho con cháu nhƣ trƣớc.
19 Tháng 3 nhuận, Chiêm Thành theo cửa biển Đại An2 vào
20 cƣớp phá kinh đô Thăng Long, Nghệ Tông phải chạy sang
21 Đông Ngàn.
22 Tháng 4, Trần Nghệ Tông từ Đông Ngàn trở về kinh đô
23 rồi lập em là Cung Tuyên vƣơng Kính làm hoàng thái tử.
24 Kính là con của Đôn Từ họ Lê, cung phi của Trần Minh
25 Tông.
26 Tháng 5, lấy ngƣời họ ngoại là Lê Quý Ly3 làm Khu mật
27 đại sứ4. Hai chị em Minh Từ và Đôn Từ là bà cô của Lê Quý
28 Ly.
29 Tháng 8, sai Quý Ly vào Nghệ An bình định biên giới và
30 chiêu an dân chúng, khi trở về đƣợc gia phong tƣớc Trung
31 Tuyên quốc thƣợng hầu.

VSTK - 381
1 Tháng 10, sai lang trung bộ lễ Phan Nghĩa soạn định các
2 tiết mục về chế độ pháp luật và lễ nghi5.
3 Nhâm Tý, Thiệu Khánh năm thứ 3 (1372) tháng 4, dùng
4 Đỗ Tử Bình làm Hành khiển6, tham mƣu quân sự trấn nhậm
5 Nghệ An.
6 Tháng 11, truyền ngôi cho thái tử Kính.

CHƢƠNG IX

TRẦN DUỆ TÔNG ( 1372 - 1377 )


Niên hiệu: Long Khánh

7 Tên húy là Kính, con thứ 11 của Trần Minh Tông, em của
8 Trần Nghệ Tông, mẹ đẻ là Đôn Từ họ Lê; lên ngôi vua ngày
9 mùng 9 tháng 11 năm Nhâm Tý (1372) tức Trần Duệ Tông.
10 Truy tôn Đôn Từ làm hoàng thái phi.
11 Quý Sửu, Long Khánh năm thứ 1 (1373), đổi niên hiệu là
12 Long Khánh năm thứ 1. Lập Lê thị Hiển Trinh, em gái con
13 nhà chú bác của Lê Quý Ly làm Gia Từ hoàng hậu.
Tháng 8, thao luyện binh sĩ, đóng sửa chiến thuyền, tích trữ
quân lƣơng, đặt thêm quân hiệu để chuẩn bị đánh Chiêm
Thành. Ra lệnh cho quân dân nộp thuế để đƣợc ban chức
tƣớc. Giặc cƣớp nổi dậy nhiều nơi.
14 Giáp Dần, Long Khánh năm thứ 2 (1374) tháng 2 thi tiến
15 sĩ: Đào Sƣ Tích đậu trạng nguyên. Đào vét các sông ở
16 Thanh - Nghệ .
17 Ất Mão, Long Khánh năm thứ 3 (1375), tháng Giêng,
18 dùng Lê Quý Ly làm tham mƣu quân sự; xếp đặt lại các lộ ở
19 Hoan Châu, Diễn Châu và phủ Lâm Bình rồi cử quan triều
20 đình lùa bắt dân sửa sang đƣờng sá từ lộ Cửu Chân đến
21 huyện Hà Hoa7. Tháng 8, bắt lính. Lệnh cho những nhà giàu
22 ở các lộ phải nộp thuế bằng thóc để đƣợc ban phẩm tƣớc.
23 Bính Thìn, Long Khánh năm thứ 4 (1376), tháng 5, sau
24 khi ăn chận và dấu yểm 10 mâm vàng của vua Chiêm Thành
25 Chế Bồng Nga dâng cống cho vua nhà Trần, trấn thủ Nghệ
26 An Đỗ Tử Bình báo cáo man trá về triều rằng vua Chiêm
27 Thành ngạo mạng, khinh nhờn, vô lễ, cần đƣa quân đánh

VSTK - 382
1 phạt. Duệ Tông tin lời liền ra lệnh chuẩn bị quân binh, khí
2 giới, chiến thuyền để tự mình chỉ huy đi đánh Chiêm Thành.
3 Triều thần can gián nhƣng Duệ Tông không nghe. Sai quân
4 và dân ở Thanh Hóa, Nghệ An chuyển vận lƣơng thực vào
5 Hóa Châu để dự trữ nuôi quân rồi cùng thƣợng hoàng Nghệ
6 Tông duyệt binh thủy, bộ ở vùng sông Bạch Hạc.
Tháng 12, từ Thăng Long xuất quân đánh Chiêm Thành,
sai Lê Quý Ly bắt dân phu khuân vác, vận tải lƣơng thực
cho quân đội. Đến cửa biển Di Luân8, đoàn chiến thuyền
tiếp tục tiến quân theo đƣờng biển. Một cánh quân do Trần
Duệ Tông đích thân chỉ huy đổ bộ lên bờ rồi đi theo ven
biển đến đóng doanh trại ở vùng cửa biển Nhật Lệ9, thao
diễn, tập trận hơn một tháng ở đó.
Đinh Tỵ, Long Khánh năm thứ 5 (1377) tháng Giêng,
thuyền chiến của Trần Duệ Tông tiến vào cửa biển Thị
Nại10, đổ quân đánh hạ đồn Thạch Kiều11 và động Ỷ Mang12
rồi kéo quân vây hãm kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành.
Chế bồng Nga lập đồn phòng thủ, phục kích bên ngoài thành
Đồ Bàn13, cho ngƣời trá hàng sang trại quân của Trần Duệ
Tông phóng tin rằng vua Chiêm đã bỏ thành chạy trốn.
Duệ Tông tin lời tên trá hàng, ra lệnh tiến quân chiếm
thành Đồ Bàn, không đếm xỉa gì đến những lời can ngăn, cố
vấn của đám thuộc hạ dƣới quyền. Quân mai phục của
Chiêm Thành bất thần đổ ra tập kích, Trần Duệ Tông bị vây
hãm, chết tại trận; các tƣớng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp và Phạm
Huyền Linh cũng bị tử trận, Ngự Câu vƣơng Húc14 đầu hàng
và đƣợc vua Chiêm gả cho con gái. Đỗ Tử Bình chỉ huy
đoàn hậu quân không lên tiếp cứu; Lê Quý Ly nghe tin bại
trận quá sợ hãi vội trốn về một mình bỏ rơi dân phu bị Quý
Ly bắt theo để làm lao công chiến trƣờng khuân vác quân
lƣơng. Đỗ Tử Bình chỉ bị thƣợng hoàng Trần Nghệ Tông
phạt tội đồ làm lính dù rằng đáng xử tội chết. Lê Quý Ly
không bị quở phạt.

VSTK - 383
CHƢƠNG X

TRẦN ĐẾ HIỆN ( 1377 - 1388 )


Niên hiệu: Xương Phù

1 Đinh Tỵ, Long Khánh năm thứ 5, ngày 13 tháng 5 (1377),


2 Trần Nghệ Tông lập con trƣởng của Duệ Tông là Hiện lên
3 nối ngôi vua tức là Trần Đế Hiện15 còn gọi là Trần Phế Đế16.
4 Đinh Tỵ, Xương Phù năm thứ 1, tháng 6 (1377), Chiêm
5 Thành sang cƣớp phá kinh đô Thăng Long. Thƣợng hoàng
6 Trần Nghệ Tông đã sai Cung Chính vƣơng Sƣ Hiền giữ cửa
7 biển Đại An18 nhƣng quân giặc lại chuyển hƣớng xăm nhập
8 quân vào cửa biển Thần Phù18 rồi tiến chiếm kinh đô. Sau
9 khi cƣớp phá, vơ vét, giết hại dân chúng và thiêu hủy công
10 thự, nhà cửa, Chiêm Thành rút quân về, qua cửa biển Đại
11 An gặp sóng gió lớn bị chết chìm rất nhiều.
12 Tháng 9, lập con gái của Trần Nghệ Tông là công chúa
13 Thiên Huy làm hoàng hậu. Sai sứ sang Trung Hoa để báo
14 tang với nhà Minh về cái chết của Trần Duệ Tông. Nhà
15 Minh sai sứ giả trá sang điếu tang để dọ thám, tính chuyện
16 xăm lăng.
17 Mậu Ngọ, Xương Phù năm thứ 2, tháng 5 (1378), Chiêm
18 Thành đƣa Ngự Câu vƣơng Húc về đánh chiếm phủ Nghệ
19 An, tự xƣng vua, chiêu dụ dân chúng đi theo rất nhiều rồi từ
20 cửa sông Đại Hoàng19 tiến quân về hƣớng kinh đô. Đỗ Tử
21 Bình đã đƣợc trọng dụng trở lại, đƣa quân đánh chận nhƣng
22 bị thua phải rút chạy. Quân Chiêm vào Thăng Long cƣớp
23 của, bắt ngƣời rồi rút đi. An phủ sứ Lê Giốc bị quân Chiêm
24 bắt giết.
25 Dân bị lụt lội lớn, đói kém nhƣng vua nhà Trần nghe
26 theo lời cố vấn của Đỗ Tử Bình áp dụng việc thu thuế
27 đinh19bis đánh vào cả đám dân nghèo để chi dùng vào việc
28 quân sự. Hồi đầu đời Trần, dù có thu thuế đinh nhƣng đánh
29 vào tầng lớp dân nhà giàu có ruộng đất mà thôi; nay chỉ có
30 binh lính mới đƣợc miễn thuế.
31 Kỷ Mùi, Xương Phù năm thứ 3 (1379) mùa Hạ, hạn hán,
32 dân chúng bị nạn đói lớn. Vua nhà Trần không lo việc chỉnh
33 đốn phòng bị chống quân Chiêm lại lo mang tiền của, vàng

VSTK - 384
1 bạc, châu báu đem đi giấu vào núi Thiên Kiện20 và nơi tầng
2 dƣới tháp chùa Khả Lãng ở Lạng Sơn.
3 Tháng 10, Cung Tín vƣơng Trạch mất. Trạch là con trai
4 thứ 3 của Trần Minh Tông.
5 Canh Thân, Xương Phù năm thứ 4 (1380), biết quan quân
6 nhà Trần suy nhƣợc, Chiêm Thành lại sang đánh phá Thanh
7 Hóa. Trần Nghệ Tông sai Lê Quý Ly và Đỗ Tử Bình đem
8 quân thủy bộ đến trấn giữ vùng Ngu Giang21 thuộc huyện
9 Hoằng Hóa, lộ Thanh Hóa và đẩy lui đƣợc quân Chiêm.
10 Đỗ Tử Bình từ đó cáo bệnh xin thôi nhiệm vụ binh quyền
11 để trốn tránh khỏi phải ra trận đánh trận và sau đó lại đƣợc
12 thăng chức làm nhập nội hành khiển, tả tham tri chính sự
13 kiêm Kinh lƣợc sứ Lạng giang, đƣợc vài năm thì chết, đƣợc
14 truy tặng Thái Bảo và đƣợc thờ phụng ở Văn Miếu22. Còn
15 Lê Quý Ly thì đƣợc ban chức nguyên nhung chỉ huy quân sự
16 vùng Hải Tây23, một vùng lãnh thổ suốt từ Thanh Hóa trở
17 vào phía Nam đến Thuận Hóa.
18 Tân Dậu, Xương Phù năm thứ 5 (1381), tháng 2, thi Thái
19 học sinh.
20 Nhâm Tuất, Xương Phù năm thứ 6 (1382), Chiêm Thành
21 lại đƣa quân đánh Thanh Hóa. Lê Quý Ly cùng với tƣớng
22 Nguyễn Đa Phƣơng đem quân đón đánh. Nguyễn Đa
23 Phƣơng phá đƣợc quân Chiêm ở cửa biển Thần Đầu24, đuổi
24 đánh đến đất Nghệ An rồi về.
25 Quý Hợi, Xương Phù năm thứ 7 (1383), tháng Giêng, sai
26 Lê Quý Ly mang thủy binh đi đánh Chiêm Thành nhƣng bị
27 gió bão ở eo biển Ô Tôn25 nơi vùng biển Lại Bộ Nƣơng26
28 làm hƣ hại nhiều thuyền chiến, phải quay trở về.
29 Tháng 6, vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga cùng tùy
30 tƣớng La Khải đƣa bộ binh đi theo đƣờng núi tiến ra lộ
31 Quảng Oai26bis . Tƣớng nhà Trần là Lê Mật Ôn đƣợc lệnh
32 đem quân chận đánh ở vùng Tam Kỳ27 nhƣng bị quân Chiêm
33 phục kích bắt sống. Thủ đô Thăng Long trong tình trạng báo
34 động; Trần Nghệ Tông và Trần Đế Hiện chạy trốn sang
35 Đông Ngàn28. Có ngƣời khẩn cầu hai vua nhà Trần ở lại
36 cùng quân dân chiến đấu chống giặc nhƣng Nghệ Tông vì
37 quá khiếp sợ nên bỏ mặc, không nghe.

VSTK - 385
1 Tháng 12, Chiêm Thành rút quân, Trần Nghệ Tông không
2 về thủ đô nhƣng qua ở nơi cung Bảo Hoà và tại đây đã sai
3 Nguyễn Mậu Tiên và Phan Nghĩa ghi chép những chuyện đã
4 qua và soạn thành 8 quyển Bảo Hòa Dƣ Bút do Đào Sƣ Tích
5 đề lời tựa.
6 Giáp Tý, Xương Phù năm thứ 8 (1384), tháng hai, Nghệ
7 Tông cho mở khoa thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc trên
8 núi Tiên Du29.
9 Ở Trung Quốc, nhà Minh đã diệt đƣợc nhà Nguyên và bắt
10 đầu dòm ngó, hạch sách, đòi hỏi đủ điều, có ý muốn xăm
11 lấn lãnh thổ Đại Việt: năm Giáp Tý (1384) sai sứ sang bắt
12 Đại Việt phải cung cấp và chuyển vận 5,000 thạch lƣơng
13 cho quân nhà Minh trên đƣờng tiến chiếm Vân Nam; năm
14 Ất Sửu (1385), bắt Đại Việt phải dâng nạp sang Kim Lăng
15 20 sƣ tăng; năm Bính Dần (1386) lại bắt cống nạp các loại
16 cây quý, voi đánh trận, lƣơng thực đƣa đến Vân Nam và bắt
17 ép phải cho mƣợn đƣờng ngang qua lãnh thổ Đại Việt để
18 quân Minh tiến đánh Chiêm Thành.
19 Cũng trong năm Bính Dần (1386), Nghệ Tông lấy Hồ
20 Tông Thốc30 làm Hàn lâm học sĩ phụng chỉ.
21 Đinh Mão, Xương Phù năm thứ 11 (1387), tháng 2, Trần
22 Nghệ Tông trở về thủ đô Thăng Long, phong cho Lê Quý Ly
23 chức Đổng bình chƣơng sự31.
24 Mậu Thìn, Xương Phù năm thứ 12 (1388), tháng 8, Trần
25 Đế Hiện thấy quyền lực của Lê Quý Ly càng ngày càng nới
26 rộng bèn bàn định với Thái úy Ngạc tìm cách trừ khử. Lê
27 Quý Ly biết đƣợc liền trình tấu với Nghệ Tông truất ngôi
28 Trần Đế Hiện, giáng Trần Đế Hiện xuống làm Linh Đức
29 vƣơng, lập Chiêu Định vƣơng Ngung là con của Nghệ Tông
30 lên nối ngôi vua. Các tùy tƣớng của Đế Hiệu đƣa giáp binh
31 vào cứu nhƣng Đế Hiện ngăn lại không cho và yêu cầu giải
32 giáp32; sau đó Nghệ Tông cho ngƣời đƣa Đế Hiện ra phủ
33 Thái Dƣơng rồi thắt cổ cho chết; các tùy tƣớng và binh sĩ
34 trung thành với Đế Hiện đều bị giết hoặc đƣa đi đày ở các
35 vùng biên giới xa xôi. Riêng thái úy Ngạc cũng là con trai
36 của Nghệ Tông, chối không nhận âm mƣu lật đổ Quý Ly cho
37 nên không bị giết33.

VSTK - 386
CHƢƠNG XI

TRẦN THUẬN TÔNG ( 1388 - 1398 )


Niên hiệu: Quang Thái

1 Trần Nghệ Tông sau khi nghe theo lời cố vấn của Lê Quý
2 Ly giết Đế Hiện đã lập Cung Định vƣơng Ngung lên ngôi
3 vua tức là Trần Thuận Tông, đổi niên hiệu là Quang Thái.
4 Lập con gái lớn của Quý Ly34 làm hoàng hậu; phong cho
5 thái úy Trang Định vƣơng Ngạc làm đại vƣơng.
6 Nghe theo lời cố vấn và đề nghị của Lê Quý Ly, Nghệ
7 Tông chọn Phạm Cự Luận làm Thiêm thƣ Khu mật viện35 sự
8 và đƣa tùy thuộc vây cánh của Quý Ly vào nắm giữ các
9 chức vụ chỉ huy trong quân đội.
10 Giặc giã trong nƣớc nổi lên khắp nơi: ở Thanh Hóa có
11 Nguyễn Thanh tự xƣng vua ở vùng sông Lƣơng36, ở Nông
12 Cống37 có Nguyễn Kỵ tự xƣng là Lỗ vƣơng.
13 Kỷ Tỵ, Quang Thái năm thứ 2 (1389), tháng 10, vua
14 Chiêm Thành Chế Bồng Nga vào cƣớp phá Thanh Hóa. Lê
15 Quý Ly đƣợc cử đi đánh dẹp nhƣng bị thất trận thua to, thiệt
16 hại rất nhiều, Quý Ly bỏ trốn về bỏ mặc cho các tuỳ tƣớng ở
17 lại cầm cự với quân Chiêm ở Ngu Giang38. Quý Ly xin Nghệ
18 Tông thêm quân tăng viện không đƣợc bèn tự ý rời bỏ nhiệm
19 vụ chỉ huy quân đội. Nghệ Tông phải cử đô tƣớng Trần Khát
20 Chân lên thay và đem quân ra đón chận nhƣng quân Chiêm
21 đã tiến đến địa phận Hoàng Giang39. Khát Chân rút quân về
22 lập tuyến phòng thủ ở vùng sông Hải Triều40.
23 Để chạy tội thất trận và đào ngũ, Lê Quý Ly trút hết tội
24 cho đồng bọn của mình là Nguyễn Đa Phƣơng, Nghệ Tông
25 tin theo, bắt Đa Phƣơng phải tự tử.
26 Tháng 12, một ngƣời sƣ tên Phạm Sƣ Ôn nổi loạn, vây
27 hãm Kinh đô; quan quân nhà Trần bỏ chạy lên Bắc Giang
28 rồi phải điều động đoàn quân của tƣớng Hoàng Phụng Thế
29 từ mặt trận Chiêm Thành quay về để bất thần chận đánh, bắt
30 đƣợc Phạm Sƣ Ôn cùng đồng bọn và giết đi.
31 Canh Ngọ, Quang Thái năm thứ 3 (1390), ngày 23 tháng
32 Giêng, nhờ có tin tức nội tuyến từ phía quân Chiêm41, tƣớng
33 Trần Khát Chân dùng súng lôi hỏa giết đƣợc Chế Bồng Nga
34

VSTK - 387
1 rồi ra lệnh tiến đánh, quân Chiêm tan rã; tƣớng giặc La Ngai
2 thiêu xác Chế Bồng Nga42, rút tàn quân về nƣớc rồi tự xƣng
3 làm vua mới của nƣớc Chiêm Thành.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:


4

5
1
Chu An: hay Chu Văn An (1292-1370), quê ở thôn Văn, xã Thanh
6 Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội. Ông là ngƣời
7 cƣơng nghị, thẳng thắn, trong sạch, có tiết tháo của một nhà nho chính
8 danh. Ông dạy học trò rất kỹ luật, nghiêm minh và có nhiều học trò đỗ
9 đạt đại khoa nhƣ Phạm Sƣ Mạnh và Lê Bá Quát. Ông nổi tiếng với tờ
10 sớ tấu yêu câu Trần Dụ Tông chém 7 tên nịnh thần "thất trảm sớ"
11 nhƣng không có hiệu quả, ông bèn bỏ chức quan về quê sinh sống. Thời
12 Trần Minh Tông, ông đƣợc mời làm Quốc tử giám tƣ nghiệp (ngang
13 hàng với chức phó viện trƣởng đại học ngày nay) để dạy học cho hoàng
14 thái tử. Ông đƣợc ban tên thụy là Văn Trinh và đƣợc cúng thờ ở Văn
15 Miếu.
16
2
Cửa biển Đại An: còn gọi là cửa Liêu hay Đại Nha, ở xã Quần Liêu,
17 huyện Đại An, nay là huyện Nghĩa Hƣng, tỉnh Hà Nam Ninh.
18
3
Lê Quý Ly: tự là Lý Nguyên. Ông Tổ của Quý Ly là Hồ Hƣng Dật
19 ngƣời tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Thời Ngũ Quý bên Trung Hoa
20 (907-959), Hồ Hƣng Dật chạy sang Giao Châu khai hoang lập ấp ở
21 hƣơng (làng) Bào Đột, Diễn châu (nay là huyện Quỳnh Lƣu, tỉnh Nghệ
22 An). Cháu đời thứ 12 là Hồ Liêm di cƣ sang ở hƣơng Đại La, Thanh
23 Hóa rồi thành con nuôi của Lê Huấn cho nên mang họ Lê (Lê Liêm) từ
24 lúc đó. Quý Ly là cháu 4 đời của Hồ Liêm (hay Lê Liêm).
25
4
Khu mật đại sứ: giống nhƣ thành viên hội đồng an ninh của nhà
26 nƣớc hiện nay.
27
5
Soạn định chế độ pháp luật và lễ nghi: đời Trần Thái Tông, năm
28 Kiến Trung thứ 6 (1230) đã soạn định Quốc triều thông chế và hình luật
29 lễ nghi gồm 20 quyển. Đến nay có thể là chỉ duyệt định lại để cho hợp
30 với thời gian hiện tại.
31
6
Hành khiển: điều khiển hành chánh, giống nhƣ chức thủ tƣớng ngày
32 nay.
33
7
Hà Hoa: nay là Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, thuộc tỉnh Hà Tỉnh.
34
8
Cửa biển Di Luân: xã Di Luân, huyện Bình Chánh, nay là cửa Ròn,
35 huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình.
36
9
Cửa biển Nhật Lệ: ở xã Động Hải, huyện Phong Lộc tức cửa sông
37 Nhật Lệ ở Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình bây giờ.
38
10
Cửa biển Thị Nại: nay là hải cảng Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
39
11
Thạch Kiều: không rõ ở đâu.
40
12
Động Ỷ Mang: theo KĐVSTGCM thì động nầy có thể là ở vùng núi
41 thôn Phú Hòa vì nơi đây có một đồn lũy rất xƣa cổ còn tồn tại.

VSTK - 388
1
13
Đồ Bàn: hay Chà Bàn, là kinh đô của nƣớc Chiêm Thành hồi đó. Nay
2 dấu tích vẫn còn ở tỉnh Bình Định.
3
14
Ngự Câu vƣơng Húc: cũng là con trai của Trần Nghệ Tông. Sử cũ
4 không viết rõ ràng thân thế của Húc mà chỉ đƣa ra 2 sự kiện có liên
5 quan tới nhân vật nầy :
6 1/ Năm 1377 cùng với Trần Duệ Tông đánh Chiêm Thành, Duệ
7 Tông tử trận, Húc đầu hàng quân Chiêm và đƣợc Chế Bồng Nga gả cho
8 con gái. Năm 1378, Chiêm Thành đƣa Húc trở về chiếm Nghệ An, Húc
9 tự xƣng vƣơng, tiến chiếm Thăng Long, cƣớp phá rồi rút đi: sử cũ viết
10 là rút về nhƣng có lẽ là Húc ở lại lập triều đình ở Nghệ An và kể từ lúc
11 đó Nghệ An là điểm xuất quân của Húc dƣới sự yểm trợ quân sự của
12 Chiêm Thành để đánh phá Thanh Hoá và tiến về kinh đô. Năm 1380,
13 Chiêm Thành tiến đánh Thanh Hóa (từ Nghệ An) nhƣng bị Hồ Quý Ly
14 và Đỗ Tử Bình chận đánh; trong trận nầy sử cũ viết là Chế Bồng Nga
15 thua trận trốn về (Chiêm Thành). Năm 1381, Đế Hiện chiêu dụ Húc ra
16 đầu thú và vì Húc là con của thƣợng hoàng Nghệ Tông cho nên đƣợc
17 phong cho tƣớc Quan Phục hầu nhƣng đất Nghệ An vẫn còn dƣới
18 quyền kiểm soát của những tay chân bộ hạ ngƣời Chiêm Thành và
19 chính vì thế khi quân Chiêm bị đánh bại vào năm 1382, Lê Quý Ly và
20 Nguyễn Đa Phƣơng chỉ truy đuổi đến Nghệ An rồi rút về.
21 2/ Cuối năm 1381, Quan Phục hầu Húc bị Đế Hiện giết chết có thể
22 là sợ Húc làm nội ứng cho Chiêm Thành trong trận chiến 1382. Hành
23 động sát nhân nầy của Trần Đế Hiện đã khiến thƣợng hoàng Nghệ
24 Tông rất căm giận. KĐVSTGCM có lời cẩn án rằng: "Sử cũ chép nhà
25 vua (Trần Đế Hiện) dụ Quan Phục Hầu đại vương Húc mà giết chết, và
26 chép liền với sự kiện bà Gia Từ mất (Gia Từ là vợ của Duệ Tông và là
27 mẹ đẻ của Đế Hiện) nhưng lý do vì sao mà dụ sát thì bỏ qua không
28 chép, nay chép riêng ra đợi sẽ khảo về sau ".
29
15
Trần Đế Hiện: còn gọi là Trần Phế Đế.
30
16
Trần Phế Đế: để gọi Đế Hiện sau khi bị Trần Nghệ Tông truất phế
31 ngôi vua.
32
17
Cửa biển Đại An: xem chú giải 2.
33
18
Cửa biển Thần Phù: tên cũ là Thần Đầu, ở địa giới huyện Yên Mô,
34 tỉnh Ninh Bình; nay là cửa Chính Đại.
35
19
Sông Đại Hoàng: tức là con sông ở xã Đại Hữu, huyện Gia Viễn,
36 tỉnh Ninh Bình.
37 19bis Thuế đinh: giống nhƣ thuế thân dƣới thời Pháp thuộc.

38
20
Núi Thiên Kiện: còn gọi là núi Địa Cận, xã Thiên Kiện, huyện
39 Thanh Liêm nay thuộc tỉnh Hà Nam.
40
21
Ngu Giang: là một nhánh của sông Mã nằm ở địa phận huyện
41 Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa, nay gọi là sông Lạch Trƣờng.
42
22
Văn Miếu: là nơi dùng để thờ phụng những nhân tài nho học có
43 công trạng. Phan Phú Tiên viết: "Bậc danh nho các đời giữ được đạo
44 thống thì mới được thờ phụng ở Văn Miếu nhằm tỏ rạng đạo họ có gốc

VSTK - 389
1 có cội nguồn. Trần Nghệ Tông cho Chu Văn An, Trương Hán Siêu được
2 thờ phụng ở đó vì Hán Siêu là là người cứng cỏi, bài xích mê tín dị
3 đoan, còn Chu Văn An là người trong sạch, có khí tiết, bất cầu vinh
4 hiển quan tước, thì còn tạm được. Còn như tên Đỗ Tử Bình là thứ đồ
5 nhảm nhí, tham lam bòn vét, là kẻ gian thần hại nước hại vua thì sao
6 lại được cho len lỏi vào nơi thờ phụng quý trọng đó?"
7
23
Hải Tây: vùng đất ven biển Đông trở vào thì coi là ở phía Tây nên
8 gọi là Hải Tây. Sau nầy, nhà Lê (1428) có đặt một đạo gọi là đạo Hải
9 Tây.
10
24
Cửa biển Thần Đầu: xem chú giải 18 ở trên.
11
25
Eo biển Ô Tôn: tức là eo biển Vĩnh Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh
12 Quảng Bình.
26
Vùng biển Lại Bộ Nƣơng: là cửa biển Nƣơng Loan, huyện Kỳ
Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
26bis Lộ Quảng Oai: gồm một phần đất của huyện Lƣơng Sơn tức là

phủ Anh Sơn (hay Anh Đô, nằm giữa trấn Nghệ An) và một phần đất
của huyện Tùng Thiện (tức là huyện Minh Nghĩa của trấn Sơn Tây).
Nhƣ vậy Quảng Oai nằm giữa Sơn Tây và Nghệ An.
13
27
Vùng Tam Kỳ: Sử cũ không ghi rõ địa điểm nầy. Theo LTHCLC
14 của Phan Huy Chú thì: khi Lê Quý Ly ép buộc Trần Thuận Tông dời về
15 Tây Đô ở động An Tôn (thuộc huyện Vĩnh Phúc, gồm có 75 xã, ) thì
16 phủ Thanh Hoa đổi làm Thiên Xƣơng, hợp với phủ Cửu Chân và Ái
17 Châu phụ thuộc Tây Đô gọi là kinh kỳ tam phụ. Nhƣ thế, vùng tam kỳ
18 có lẽ là 3 vùng Thanh Hoa, Cửu Chân, và Ái Châu. (Thành Tây Đô:
19 rộng ƣớc hơn 300 mẫu, đƣờng đi lối ngang lối dọc đều lát đá hoa, móng
20 thành bốn mặt đều xây đá xanh, từ mặt đất trở lên xây gạch, vuông vắn
21 dày dặn, rất bền vững, hai bên trái, bên phải của thành gần sát núi đá,
22 sông Mã sông Lƣơng họp lại chảy về phía trƣớc; đến nay vẫn còn thấy
23 chân móng sót lại).
24
28
Đông Ngàn: tức là sông Thiên Đức, còn gọi là sông Diên Uẩn, nay
25 là sông Chiêm Đức, tỉnh Bắc Ninh.
26
29
Chùa Vạn Phúc trên Núi Tiên Du: tức là chùa Phật Tích, ở núi
27 Phật Tích, thuộc xã Phật Tích, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.
28
30
Hồ Tông Thốc: ngƣời Thổ Thành ở Diễn Châu (Nghệ An), xã Vô
29 Ngại, huyện Đƣờng Hào (nay là Mỹ Hào, Hƣng Yên), đậu Thái học
30 sinh đời Trần Nghệ Tông, có sang sứ Tàu.. Năm 1386 đƣợc bổ làm
31 Hàn Lâm học sĩ phụng chỉ kiêm thẩm hình viện sứ. Đến khi Lê Quý Ly
32 tiếm ngôi vua của nhà Trần, ông lui về ẩn dật, uống rƣợu làm thơ Thảo
33 Nhàn Hiệu Tần Tập, viết sử Việt Sử Cương Mục và tập Việt Nam Thế
34 Chí ; thọ 80 tuổi.
35
31
Đổng bình chƣơng sự: ngang với chức tể tƣớng.
36
32
Giải giáp: giải tán giáp binh.

VSTK - 390
1
33
Thái úy Ngạc không bị giết: sử cũ viết rằng Lê Quý Ly đánh tiếng
2 phao đồn Ngạc muốn kế ngôi vua của Đế Hiện nhƣng Ngạc không nhận
3 vì thế Quý Ly đề nghị Nghệ Tông phong cho tƣớc đại vƣơng.
4
34
Con gái lớn của Lê Quý Ly: tên là Lê Thánh Ngân.
5
35
Thiêm Thƣ Khu mật viện: một chức quan ở viện khu mật, đƣợc
6 tham gia bàn bàn thảo những việc cơ mật của triều đình, giống nhƣ hội
7 đồng an ninh quốc gia ở các nƣớc tiên tiến ngày nay.
8
36
Vùng sông Lƣơng: sông Lƣơng còn gọi là Lƣơng Giang hay sông
9 Chu ở Thanh Hoá. Lƣơng Giang cũng là huyện Lƣơng Giang ở Thanh
10 Hoá, sau đổi là huyện Thụy Nguyên, rồi Thiệu Hoá; nay là một phần
11 đất huyện Thiệu Yên, Thanh Hoá.
12
37
Nông Cống: tức là huyện Tƣ Nông, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hoá.
13
38
Ngu giang: tức sông Lƣơng; theo KĐVSTGCM là một nhánh của
14 sông Mã ở địa phận huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hoá ngày nay.
15
39
Hoàng Gang: ở huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam.
16 Huyện Nam Xang cách Thăng Long 2 ngày đƣờng.
17
40
Hải Triều: nay là sông Luộc, khúc sông chảy qua các huyện Phù
18 Tiên, Hải Hƣng và Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình.
19
41
Tin tức nội tuyến từ phía quân Chiêm: hai bộ sử cũ đều viết rằng
20 Chế Bồng Nga cùng với hàng tƣớng Nguyên Diệu (Diệu là em của Đế
21 Hiện, vì muốn báo thù cho nên qua đầu hàng quân Chiêm Thành) kéo
22 hơn trăm chiến thuyền để thị sát chiến trƣờng. Một kẻ gia nô của Chế
23 Bồng Nga bị trách phạt, sợ bị giết cho nên chạy qua doanh trại Trần
24 Khát Chân đầu hàng và làm điềm chỉ viên nhận diện chiếc thuyền do
25 Chế Bồng Nga đứng chỉ huy. Trần Khát Chân liền ra lệnh đội súng hỏa
26 pháo nhắm hƣớng bắn chết Chế Bồng Nga. Quân Chiêm sợ hãi tan vỡ.
27 Nguyên Diệu thừa cơ hội cắt lấy đầu Chế Bồng Nga có ý định lập công
28 trở về đầu thú với quân nhà Trần nhƣng bị ngƣời của Trần Khát Chân
29 giết chết và cƣớp lấy đầu của Chế Bồng Nga đƣa về. Khát Chân liền sai
30 bỏ vào hòm gửi về cho Nghệ Tông hiện đang đóng bản doanh ở Bình
31 Than.
32
42
La Ngai thiêu xác Chế Bồng Nga: ĐVSKTT viết: "La Ngai dẫn
33 tàn quân chạy đến bờ sông Lô hỏa táng xác Bồng Nga rồi ngày đêm đi
34 bộ men theo chân núi để rút quân về nước". KĐVSTGCM cũng viết
35 tƣơng tựa.

VSTK - 391
TRẦN THUẬN TÔNG (tiếp theo)
1 Kể từ tháng 2 năm Canh Ngọ, Quang Thái năm thứ 3
2 (1390), sau khi trận chiến với Chiêm Thành tạm yên, quyền
3 lực, vây cánh của Lê Quý Ly càng ngày càng mạnh hơn.
4 Tân Mùi (1391), Quý Ly ngầm sai bộ hạ giết Trang Định
5 vƣơng Trần Ngạc rồi báo cáo láo với Nghệ Tông rằng Ngạc
6 quá bạo ngƣợc với quân binh ở trại Vạn Ninh nên bị họ giết
7 chết, sau đó Nghệ Tông biết mình lầm nhƣng đã muộn. Các
8 tƣớng trấn giữ Hóa Châu là Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khê
9 cũng bị Quý Ly sát hại rồi đƣa bộ hạ là Đặng Tất thay thế.
10 Nhâm Thân (1392), Nghệ Tông nghe lời xúi giục của
11 Quý Ly giết tôn thất Trần Nhật Chƣơng.
12 Quý Dậu (1393), Quý Ly đƣa tay chân bộ hạ là Hồ
13 Cƣơng lên chỉ huy quân Tả Thánh Dực để mƣu đồ việc tiếm
14 nghịch về sau. Trong năm nầy đại hạn, động đất, thủy tai,
15 dịch sâu bọ phá hoại mùa màn xảy ra khắp nơi.
16 Nghệ Tông tiếp tục tin cẩn Quý Ly một cách mù quáng,
17 ngƣời nào có ý chống đối Quý Ly thì Nghệ Tông đều báo
18 cho Quý Ly biết. Vì thế, những trung thần không ai còn dám
19 hé môi can gián hoặc cố vấn cho Nghệ Tông nữa. Ngoài ra,
20 Quý Ly còn khóc lóc thề thốt trung thành, hứa hẹn xa xôi
21 khiến Nghệ Tông tin tƣởng nhiều hơn.
22 Ngày 15 tháng 12 năm Giáp Tuất, Quang Thái năm thứ 7
23 (1394), thƣợng hoàng Trần Nghệ Tông mất, ở ngôi vua 3
24 năm, giữ ngôi thƣợng hoàng 27 năm, thọ 74 tuổi.
25 Ất Hợi, Quang Thái năm thứ 8 (1395), Quý Ly sai giết
26 các ngƣời trong vƣơng tộc là Nguyên Uyên, Nguyên Dận và
27 nhân sĩ Nguyễn Phù nhƣng lại đƣợc Trần Thuận Tông
28 phong chức phụ chính thái sƣ, đƣợc vào ở trong cung điện
29 làm thầy dạy vua.
30 Bính Tuất (1396), Quý Ly ban hành tiền giấy gọi là tiền
31 thông bảo để đổi và thu hồi tiền bằng đồng đúc đang xài
32 trong dân chúng; định thể lệ mới cho việc thi cử gọi là thi tứ
33 trƣờng; quy định thể lệ mũ và áo may mặc để phân biệt quan
34 với dân thƣờng.

VSTK - 392
1 Đinh Sửu (1397), Quý Ly sai ngƣời đi Thanh Hóa xây cất
2 thủ đô mới. Đặt một số phủ, lộ thành trấn cùng quy lại định
3 chức quan giữ việc ở lộ, phủ, châu, huyện: ở lộ đặt an phủ
4 sứ chánh và phó, ở phủ đặt trấn phủ sứ chánh và phó, ở châu
5 đặt thông phán và thiêm phán, ở huyện đặt lệnh úy và chủ
6 bạ; lộ thống trị phủ, phủ thống trị châu, châu thống trị
7 huyện. Ở mỗi lộ đều có sổ sách ghi chép về thuế má, hộ tịch,
8 kiện tụng và mỗi năm lộ phải tổng kết báo cáo về trung
9 ƣơng ở thủ đô. Về mặt an ninh, quân sự thì Quý Ly đặt ra
10 các chức đô đốc, đô hộ, đô thống, tổng quản, thái thú để giao
11 cho vây cánh của mình ở các lộ, phủ. Ở các phủ, châu đều
12 đặt viên quan chuyên lo về việc giáo dục. Hạn chế quyền
13 làm chủ ruộng đất của dân thƣờng, không đƣợc quá 10 mẫu.
14 Tháng 11 năm Đinh Sửu, Quý Ly bắt ép Trần Thuận
15 Tông dời kinh đô đến Thanh Hoá.
16 Mậu Dần, Quang Thái năm thứ 11 (1398), Quý Ly sai bộ
17 hạ là tên đạo sĩ Nguyễn Khánh khuyến dụ Trần Thuận Tông
18 từ bỏ ngôi vua để tu đạo tiên. Nghệ Tông nghe theo, truyền
19 ngôi cho con trƣởng là hoàng thái tử An tức Trần Thiếu Đế
20 rồi ra cung Bảo Thanh ở phía Tây Nam núi Đại Lại ở huyện
21 Vĩnh Lộc, Thanh Hóa để thực hiện việc tu hành.

VSTK - 393
CHƢƠNG XII

TRẦN THIẾU ĐẾ ( 1398 - 1400 )


Niên hiệu: Kiến Tân

1 Quý Ly tự xƣng là Khâm Đức Hƣng Liệt đại vƣơng.


2 Kỷ Mão (1399), Quý Ly ép Thuận Tông phải ra tu ở quán
3 Ngọc Thanh thôn Đạm Thủy, huyện Đông Triều, lộ Hải
4 Dƣơng và cho ngƣời theo mƣu sát bằng thuốc độc, rồi lại bỏ
5 đói nhƣng vẫn chƣa thể giết đƣợc. Quý Ly bèn sai Phạm
6 Khả Vĩnh đem Thuận Tông đi thắt cổ cho chết. Nhóm trung
7 thành với nhà Trần là Thái bảo Trần Nguyên Hảng, và
8 thƣợng tƣớng Trần Khát Chân lập mƣu hội thề để giết Quý
9 Ly nhƣng cơ mƣu bại lộ, cả hai bị Quý Ly giết chung với
10 thân thuộc tất cả gần bốn trăm mạng ngƣời, gia sản bị tịch
11 thu.
12 Diệt xong nhóm đối lập, Quý Ly tự xƣng là Quốc tổ
13 chƣơng hoàng, vào ở cung Nhân Thọ, dùng nghi vệ dành
14 riêng cho bậc vua. Con Quý Ly là Hán Thƣơng tự phong
15 chức quyền nhiếp Thái phó và vào ở điện Hoàng Nguyên;
16 phong cho Hồ Nguyên Trừng làm Tƣ đồ.
17 Canh Thìn, Kiến Tân năm thứ 3 (1400), tháng 2 ngày 28
18 Quý Ly bức Trần Thiếu Đế phải nhƣờng ngôi và bắt buộc
19 các ngƣời trong vƣơng tộc nhà họ Trần và triều thần phải ba
20 lần dâng biểu cầu cạnh Quý Ly mới chịu lên ngôi vua.
21 Trần Thiếu Đế là cháu ngoại của Quý Ly cho nên không
22 bị giết mà chỉ bị truất xuống làm Bảo Ninh đại vƣơng.
23 Nhà Trần mất.

KHẢO LUẬN VỀ TRIỀU ĐẠI NHÀ TRẦN

1. TRẦN THÁI TÔNG

Ngƣời khoan hậu, thích văn học, đặt khoa thi, trọng dụng ngƣời có
tài, chế triều nghi lễ bái, áp đặt luật pháp và hình phạt để cai trị,

VSTK - 394
1 quy định điển chƣơng cho chế độ. Quá sùng tín và thiên lệch về mặt
2 đạo giáo.
3 Không chủ động trong các kế hoạch trị nƣớc và giữ nƣớc, quá tin
4 tƣởng ngƣời thân thuộc đến mức yếu mềm quỵ lụy, khiến mọi quyền
5 hành đều tập trung vào tay của kẻ gian tà Trần Thủ Độ.
6 Phong hóa và đạo lý của vƣơng tộc nhà Trần bị hủ bại và suy đồi là
7 do Trần Thái Tông khởi xƣớng.
8 Dùng thủ đoạn ám sát ma giáo để đoạt ngôi vua và tiêu diệt dòng họ
9 nhà Lý.
10 Về mặt kinh tế và dân sinh thì chỉ có công tác đắp đê hai bờ sông
11 Hồng để phòng chống lũ lụt. Thuế khóa đặt ra nhiều hơn để vơ vét tiền
12 bạc của dân chúng ngay cả những mặt nhu yếu cần thiết nhƣ tôm, cá,
13 rau, quả cũng bị đánh thuế.
14 Về mặt quân sự thì cũng không có chiến công nào lừng lẫy.

2. TRẦN THÁNH TÔNG

15 Chỉ có một thành tích đặc biệt là hoàn thành bộ Đại Việt Sử Ký do Lê Văn
16 Hưu biên soạn.
3. TRẦN NHÂN TÔNG

17 Là một ngƣời thông minh, quả quyết, có trí lƣợc, biết huy động toàn
18 quân toàn dân đoàn kết để chống giặc ngoại xâm, là một ngƣời lãnh đạo
19 biết chịu đựng gian khổ để chiến đấu bên cạnh binh sĩ ngoài trận mạc.
20 Tạo dựng đƣợc hai thành tích rạng rỡ và tiêu biểu là phát khởi chiến
21 dịch chống ngoại xâm qua việc triệu tập quốc hội Diên Hồng và ba lần
22 đại phá quân xâm lƣợc Nguyên Mông. Triều đại nầy sản xuất đƣợc
23 nhiều tƣớng lãnh vƣơng tộc dũng cảm, mƣu lƣợc, tài giỏi và trung hiếu,
24 nổi bật nhất là Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn.
25 Thành tích cải thiện kinh tế, dân sinh không có.

4. TRẦN ANH TÔNG

26 Không có thành tích nào đặc biệt ngoài việc bán gả Huyền Trân cho
27 vua Chiêm đổi lấy châu Ô và châu Lý để rồi sau đó lại tráo trở, thất
28 ƣớc, sai Trần Khắc Chung cƣớp lại Huyền Trân đem trở về, tạo dịp cho
29 việc dụng trộm tai tiếng giữa Khắc Chung và Huyền Trân cũng nhƣ
30 gây thù hận dây dƣa với dân tộc Chiêm Thành.

5. TRẦN MINH TÔNG

31 Không có thành tích nào đáng kể ngoại trừ việc u mê nghe lời gian
32 thần Trần Khắc Chung giết hại ngƣời ngay là công thần Trần Quốc
33 Chân.

VSTK - 395
6. TRẦN HIẾN TÔNG

1 Không có thành tích gì đặc biệt.

7. TRẦN DỤ TÔNG

2 Là hiện thân của hoang dâm, đồi trụy và vô luân bậc nhất trong
3 dòng họ vƣơng tộc nhà Trần. Cơ nghiệp nhà Trần suy sụp bắt đầu kể từ
4 đây.

8. TRẦN NGHỆ TÔNG

5 Có công khôi phục ngôi vua của Nhà Trần từ tay tên ngoại tộc
6 Dƣơng Nhật Lễ nhƣng là một ngƣời nhu nhƣợc, u mê, không có óc xét
7 đoán, không biết phân biệt gian thần với tôi trung khiến cho quân xâm
8 lƣợc nƣớc ngoài lấn cƣớp kinh đô, trong thì phản thần Lê Quý Ly ngắp
9 nghé ngôi vua, đất nƣớc suy tàn.

9. TRẦN DUỆ TÔNG

10 Là kẻ ƣơng gàn, cố chấp, ấu trĩ, không nghe lời can ngăn cố vấn của
11 ngƣời có kinh nghiệm, xem thƣờng quân giặc cho nên mang họa vào
12 thân, dù vì nƣớc bỏ mình nhƣng không đáng đƣợc coi là anh hùng liệt
13 sĩ của dân tộc Đại Việt.

10. TRẦN ĐẾ HIỆU

14 Chỉ là một kẻ u mê, nhu nhƣợc, một hình nộm bù nhìn của nhóm bội
15 phản Lê Quý Ly.
16

11. TRẦN THUẬN TÔNG

17 Là một kẻ ăn bám sống nhờ, đần độn, trên thực tế thì chỉ còn có Lê
18 Quý Ly sắp xếp điều khiển mọi việc trong nƣớc. Đầu óc mê muội, mơ
19 màng, muốn trở thành tiên thánh cho nên bị dụ dỗ bỏ ngôi để đi tu, phủi
20 sạch trọng trách của một ngƣời công dân đứng hàng đầu nêu gƣơng
21 chống giặc và xây dựng đất nƣớc. Dù bị gian thần ám hại, nhƣng ngƣời
22 đời sau không thấy tội nghiệp hay thƣơng tiếc.

12. TRẦN THIẾU ĐẾ

23 Chỉ là đứa trẻ con ngơ ngáo mới có 3 tuổi, chẳng biết gì tới việc của
24 những ngƣời lớn đang làm và sẽ làm.

VSTK - 396
1 Tóm lại:
2 Họ Trần dùng mƣu gian chƣớc quỉ để đoạt ngôi vua của ngƣời
3 thì nay lại có kẻ khác dùng phƣơng cách gian hùng để cƣớp ngôi
4 vua của nhà Trần, rất hợp với câu: kẻ nào gieo gió thì sẽ gặt bão, ác
5 nhân không chóng thì chầy rồi cũng phải gặp quả báo và đền tội.
6 Các chiến công bình Chiêm, phá Nguyên dù lẫy lừng vang dội cũng
7 không thể xóa đi những vết nhơ nhớp về mặt đạo lý của cả dòng họ
8 nhà Trần từ trên xuống tới dƣới.

 Tên gọi của địa danh Tam Kỳ trong hai bộ sử cũ:


9

10 ĐVSKTT viết: "Thượng hoàng sai tướng chỉ huy quân Hoa Ngạch là
11 Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ.. Mật Ôn đến Tam Kỳ châu định bày
12 trận chống giữ. Nhưng giặc đã mai phục từ trước, quân voi đều xong
13 ra, quan quân thua chạy, Mật Ôn bị giặc bắt sống.." Chữ châu viết theo
14 chữ Hán có nghĩa là bãi ( giống nhƣ bãi biển, bãi sông, cù lao) nhƣ vậy
15 Tam Kỳ châu có nghĩa là bãi Tam Kỳ (bãi sông hoặc bãi biển Tam Kỳ).
16 Theo KDVSTGCM thì viết chữ châu theo nghĩa chia đất ra từng khu
17 (châu quận).
18 Tham khảo LTHCLC của Phan Huy Chú thì đời Trần cho tới đầu
19 năm 1400 không thấy có địa danh nào gọi là châu hay quận Tam Kỳ
20 nhƣ KDVSTGCM đã viết.
21 Hồ Hán Thƣơng làm vua, đánh Chiêm Thành lấy đƣợc Chiêm Động
22 và Cổ Lũy đặt ra 4 châu là châu Thăng, châu Hoa, châu Tƣ, châu
23 Nghĩa. Sau nầy nhà Lê hợp hai châu Thăng và châu Hoa để lập thành
24 phủ Thăng Hoa và trong phủ Thăng Hoa nầy có huyện Hà Đông. Đời
25 nhà Lê (sau nhà Hồ), phủ Thăng Hoa trở thành thừa tuyên Quảng Nam
26 và vẫn giữ nguyên huyện Hà Đông. Đời nhà nhà Nguyễn (Gia Long)
27 gọi là tỉnh Quảng Nam và huyện Hà Đông vẫn giữ tên cũ. Có ngƣời cho
28 rằng huyện Hà Đông sau đó đổi thành huyện Tam Kỳ. Trong huyện Hà
29 Đông có cửa biển Tân Áp. Cửa biển nầy là bãi tụ nƣớc của hai con sông
30 Bản Giang và sông Tam Kỳ. Nhƣ vậy có thể suy diễn theo 2 cách:
31 1. Các chữ Tam Kỳ châu dùng trong ĐVSKTT là đúng và có nghĩa
32 là ở vùng bãi đất cửa sông Tam Kỳ chảy ra biển. Sự suy đoán nầy có
33 thể chấp nhận đƣợc, bởi vì vào thời nhà Trần, vùng cửa sông Tam Kỳ,
34 huyện Hà Đông và phủ Thăng Hoa vẫn là vùng đất của Chiêm Thành
35 và trong trận đánh nầy (1383), điểm xuất quân của Chế Bồng Nga là từ
36 Chiêm Động (tức là phủ Thăng Hoa) nơi mà tƣớng nhà Trần Lê Mật Ôn
37 đem quân chận đánh nhƣng bị quân Chiêm phục kích bắt sống. Sau đó
38 quân Chiêm tiến về lộ Quảng Oai (một vùng nằm giữa Sơn Tây-Nghệ
39 An) khiến cho quan quân nhà Trần kinh hãi phải bỏ kinh đô Thăng
40 Long chạy lánh sang Đông Ngàn

VSTK - 397
1 2. ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết rằng quân Chiêm tiến ra lộ
2 Quảng Oai. Nhƣ vậy có nghĩa là Nghệ An, Thanh Hoa đã mất và quân
3 Chiêm đã tiến chiếm thêm một phần đất của lộ Quảng Oai nằm ở phía
4 Bắc Thanh Hoa. Đời nhà Lê (sau nhà Hồ và hậu Trần) Quảng Oai trở
5 thành phủ Quảng Oai thuộc Sơn Tây (còn gọi là Tam Giang) và con
6 sông có tên là Tam Kỳ cũng nằm trong thừa tuyên nầy.
7 Nhƣ vậy, sông Tam Kỳ có thể có một đoạn sông chảy ngang qua
8 một vùng nằm giữa Sơn Tây và Thăng Hoa tức là vùng Quảng Oai lúc
9 đó và cũng vào thời nầy có một bãi đất phù sa do sông Tam Kỳ bồi đắp
10 gọi là Tam Kỳ châu. Tƣớng của nhà Trần là Lê Mật Ôn đem 3 quân ra
11 chận đánh quân Chiêm của Chế Bồng Nga tại nơi nầy nhƣng bị thua và
12 bị quân Chiêm bắt sống.

VSTK - 398
THÀNH NHÀ HỒ

Thành nhà Hồ ở Thanh Hóa. Hình từ trên cao chụp xuống.


Trong khung thành hình vuông, dấu vết các bờ tường thành vẫn còn tồn tại.
(Hình trích đăng từ tập san BVH, số 1/2, năm 1934) (True type fonts)

VSTK - 399
QUYỂN II

NHÀ HỒ
CHƢƠNG I
HỒ QUÝ LY ( 1400 )
Niên hiệu : Thánh Nguyên

1 Canh Thìn, Kiến Tân năm thứ 3 (1400) tháng hai, Lê


2 Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế xuống làm Bảo Ninh đại
3 vƣơng rồi tự xƣng vua, đổi họ là Hồ1, đặt niên hiệu là Thánh
4 Nguyên, đặt quốc hiệu là Đại Ngu2, lập con là Hán Thƣơng
5 làm thái tử.
6 Đặt các chức thanh tra3 ở các lộ để kiểm soát đức độ và
7 theo dõi cách thức làm việc, tinh thần phục vụ cho dân
8 chúng của các quan lại ở địa phƣơng; kể từ đó quan chức địa
9 phƣơng4 thƣờng đƣợc thay đổi luôn cho hợp với dân tình.
10 Tháng 8, mở khoa thi Thái học sinh. Nguyễn Trãi5, Lý
11 Tử Tấn6, Vũ Mộng Nguyên7 đều đỗ trong kỳ thi nầy.
12 Sai các tƣớng Trần Tùng, Đỗ Mẫn đem quân thủy bộ
13 đánh Chiêm Thành nhƣng thất bại. Trần Tùng phải tội đày
14 làm lính.
15 Hồ Quý Ly nhƣờng ngôi cho Hồ Hán Thƣơng rồi tự
16 xƣng là thƣợng hoàng cùng với Hồ Hán Thƣơng nắm giữ
17 quyền cai tri.

VSTK - 400
CHƢƠNG II

HỒ HÁN THƢƠNG ( 1401 - 1407 )


Niên hiệu : Thiệu Thành (1401-1402)
Khai Đại (1403-1407)

1 Hồ Hán Thƣơng phong cho cung phi Trần thị làm Hiến
2 Gia Hoàng hậu. Hán Thƣơng là con thứ của Quý Ly, em của
3 Hồ Nguyên Trừng8. Mẹ Hán Thƣơng là công chúa Huy
4 Ninh9, con gái của Trần Minh Tông.
5 Sai sứ sang nhà Minh báo cáo sai là dòng họ nhà Trần
6 đã tuyệt tự và hiện nay Hán Thƣơng là cháu ngoại của Trần
7 Minh Tông tạm quản nhiệm công việc cai trị trong nƣớc.
8 Đánh thuế các thuyền buôn và xếp thành 3 hạng: hạng
9 cao đánh thuế mỗi tay chèo10 là 5 quan; hạng trung 4 quan,
10 hạng thấp 3 quan.
11 Tân Tỵ, Thiệu Thành năm thứ 1 (1401), kiểm tra hộ tịch
12 và kê khai lại nhân khẩu, từ 2 tuổi đều phải ghi vào sổ hộ,
13 kiểm kê nhân số trong hạng tuổi từ 15 đến 60, tăng nhiều
14 hơn trƣớc, do đó bắt lính đƣợc nhiều hơn.

CHÚ GIẢI:
15

16
1
Đổi trở lại họ Hồ: Quý Ly còn có tên là Lý Nguyên, tự cho rằng ông tổ của
17 mình là Hồ Hƣng Dật, gốc ngƣời Hoa ở Chiết Giang, đời hậu Hán (947-950)
18 thời Ngũ Quý (còn gọi là Ngũ Đại, một giai đoạn ghi trong sử của Trung Hoa
19 gồm có 5 triều đại: Hậu Lƣơng, Hậu Đƣờng, Hậu Tần, Hậu Hán, Hậu Chu),
20 sang làm thái thú ở Diễn Châu. Đến đời cháu thứ 12 tên là Hồ Liêm dời đến ở
21 hƣơng Đại Lại trấn Thanh Hoa, làm con nuôi của Lê Huấn mới đổi theo họ Lê;
22 Quý Ly là cháu đời thứ 4 của Hồ Liêm, nay lên ngôi vua lấy trở lại họ
23 Hồ.(VSKTT/ BK VIII/ 33a và (LTHCLC/ Nhân Vật Chí).
24
2
Đại Ngu: ngày xƣa ở Trung Hoa, con của Ngu Yên tên là Vỉ Mãn đƣợc Chu
25 Vũ vƣơng phong tƣớc, cấp đất cho và đƣợc gọi là Hồ Công, sau đó Ngu Vỉ
26 Mãn dùng chữ Hồ làm họ. Vì thế Quý Ly tự nhận là con cháu của Ngu Yên
27 cho nên mới đổi là họ Hồ và lấy quốc hiệu là Đại Ngu.
28
3
Thanh tra: KKĐVSTGCM gọi là Liêm phóng sứ. Thời Pháp thuộc cũng có
29 loại cơ quan nầy và cũng đƣợc gọi là sở liêm phóng tƣơng tựa nhƣ công tác
30 công an, mật vụ ngày nay.
31
4
Quan chức địa phƣơng: hai bộ sử cũ gọi là thú lệnh để gọi chung những
32 chức quan đứng đầu ở phủ, châu, huyện. Thú tức là thái thú; lệnh tức là lệnh
33 doãn.

VSTK - 401
1
5
Nguyễn Trãi: (1379-1442) tên hiệu là Ức Trai, ngƣời huyện Thƣờng
2 Phúc, trấn Sơn Nam, nay là huyện Thƣờng Tín, tỉnh Hà Tây. Là con
3 Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại Trần Nguyên Đán. Ông là tác giả Ngọc
4 Đường Thi Tập. Bị án tru di tam tộc (giết hết 3 họ) trong vụ án mơ hồ
5 Nguyễn thị Lộ (Thị Lộ là vợ nhỏ của Nguyễn Trải, ăn nằm với Lê Thái
6 Tông, triều đình đổ tội cho Thị Lộ dùng thuốc độc giết vua cho nên
7 Nguyễn Trãi cũng bị kết án là đồng mƣu với Thị Lộ). Thọ 63 tuổi.
8
6
Lý Tử Tấn: (1381-1461) ngƣời làng Triều Đông, huyện Thƣợng
9 Phúc, Hà Đông; sau nầy theo Lê Lợi, rồi làm quan từ đời Lê Thái Tông
10 đến đời Lê Nhân Tông. Là tác giả của tập Chuyết Âm tập. Thọ 80 tuổi
11 (giả định rằng Tử Tấn đỗ thái học sinh vào lúc 19 tuổi, suy ra năm sinh
12 là 1400 -19 =1381; thọ 80 tuổi, mất vào năm 1381+80= 1461).
13
7
Vũ Mộng Nguyên: tên hiệu là Vi Khê, ngƣời làng Đông Sơn, huyện Tiên
14 Du, Bắc Ninh (nay là huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh). Khi Hồ Quý Ly tiếm ngôi
15 nhà Trần, ông bỏ đi ẩn dật; sau lại đƣợc Lê Lợi vời gọi trở lại làm quan.
16
8
Hồ Nguyên Trừng: con trai đầu của Hồ Quý Ly. Năm 1394 đƣợc Hồ Quý
17 Ly cho giữ chức Phán tƣ sự (kiểm soát việc thi hành pháp luật hay còn gọi là
18 kiểm pháp quan); Năm 1399, khi Quý Ly tự xƣng Quốc Tổ chƣơng hoàng thì
19 Nguyên Trừng đƣợc Quý Ly phong cho giữ chức Tƣ Đồ. Không đƣợc lập làm
20 thái tử vì không qua đƣợc cuộc trắc nghiệm ứng đáp của Quý Ly.
21
9
Công chúa Huy Ninh: là con gái Trần Minh Tông, em gái của Trần
22 Nghệ Tông. Năm 1371, Nghệ Tông cử Hồ Quý Ly làm khu mật viện
23 đại sứ và đem Huy Ninh vừa mới góa chồng để gả cho. Huy Ninh làm
24 vợ Hồ quý Ly và sinh ra Nguyên Trừng và Hán Thƣơng.
25
10
Tay chèo: xếp hạng thuyền tùy theo số ngƣời dùng để chèo thuyền
26 gọi là tay chèo.


HỒ HÁN THƢƠNG (tiếp theo)

27 Từ năm Tân Tỵ, Thiệu Thành năm thứ 1 (1401), nhà Hồ


28 sửa đổi và áp dụng những chính sách nhƣ sau :
29 -Hạn chế số gia nô và bớt số ruộng riêng của hàng vƣơng
30 tộc từ các triều trƣớc, chiếu theo phẩm cấp.
31 -Lập kho dự trữ gạo gọi là thƣờng bình để ổn định giá cả
32 thị trƣờng lúa gạo: khi đƣợc mùa thì thu mua để dự trữ, khi
33 thất mùa đói kém thì bán ra cho dân với giá rẻ.
34 -Lệnh cho các lộ sản xuất gạch để dùng vào việc trùng tu
35 thành Tây Đô.

VSTK - 402
1 -Định lại quan chế và hình luật cho nƣớc Đại Ngu.
2 Nhâm Ngọ, Thiệu Thành năm thứ 2 (1402), xét duyệt
3 quân đội.
4 Đắp sửa hệ thống đƣờng lộ từ Tây Đô đến Hóa Châu gọi
5 là đƣờng thiên lý đồng thời xây cất thêm phố xá và trạm liên
6 lạc, đƣa thƣ dọc theo hai bên đƣờng.
7 Tháng 7, đƣa quân đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm sợ
8 hãi dâng đất Chiêm Động1 và Cổ Lũy2 để xin Hồ Hán
9 Thƣơng rút quân. Sau đó chia cắt hai vùng lãnh thổ vừa mới
10 thu đƣợc thành 4 châu Thăng, Hoa, Tƣ, Nghĩa. Đặt An phủ
11 chánh sứ và phó sứ để cai trị bằng cách điều động An phủ sứ
12 lộ Thanh Hóa là Nguyễn Cảnh Chân đến nắm giữ lộ Thăng
13 Hoa3 và bổ dụng ngƣời Chiêm Chế Ma Nô Đã Nan làm Cổ
14 Lũy thƣợng hầu trấn giữ 2 châu Tƣ, Nghĩa để lấy lòng, vỗ
15 về, chiêu dụ dân chúng ngƣời Chiêm ở 2 châu đó.
16 Quy định lại các loại thuế ruộng đất4 tƣ và thuế đinh5.
17 Quý Mùi, Khai Đại năm thứ 1 (1403), áp dụng chính
18 sách di dân bám trụ6, đƣa dân của Đại Ngu từ các lộ về định
19 cƣ tại các vùng vừa mới chiếm đƣợc của Chiêm Thành ở lộ
20 Thăng Hoa; chính sách tái định cƣ nầy gây xáo động7 trong
21 dân chúng.
22 Cung cấp trâu8 cày cho những ngƣời mới đến định cƣ ở
23 Thăng Hoa.
24 Ấn định bốn vùng lãnh thổ xung quanh trực thuộc Tây
25 đô8bis gọi là tứ phụ kinh kỳ gồm có: phủ Thiên Xƣơng9, phủ
26 Linh Nguyên10, Cửu Chân và Ái Châu.
27 Đặt chức thị giám trông coi các nơi buôn bán; ban hành
28 mẫu mực về cân, đo, đong, đếm; ấn định giá xuất tiền giấy
29 lƣu hành trong dân chúng; ngƣời nào không xài tiền giấy
30 theo đúng quy định của nhà nƣớc thì sẽ bị tội và cấm không
31 cho tiếp tục buôn bán.
32 Sứ nhà Minh sang dò xét hƣ thực về dòng họ nhà Trần,
33 ngầm điều tra xem còn có ai là huyết tộc của nhà Trần hay
34 không để đối chiếu với sự báo cáo của Hán Thƣơng trƣớc
35 đây. Nhƣng nhà Hồ đã khôn khéo che giấu11 vì thế nhà Minh
36 rốt cuộc cũng phải tin và phong cho Hán Thƣơng tƣớc An

VSTK - 403
1 Nam quốc vƣơng.Đặt ra cơ quan Y tế12 để chăm sóc và chữa
2 bệnh cho ngƣời dân bằng phƣơng pháp châm cứu.
CHÚ GIẢI:

3
1
Chiêm Động: trƣớc thuộc quận Nhật Nam; từ thời nhà Đƣờng của
4 Trung Hoa trở đi gọi là Chiêm Thành, đời Trần và Hồ là phủ Thăng
5 Hoa, nay là phủ Thăng Bình, Quảng Nam.
6
2
Cổ Lũy: xƣa là địa phận quận Nhật Nam; từ đời Đƣờng trở đi là đất
7 Chiêm Thành. Hồ Hán Thƣơng đánh chiếm đƣợc đặt thành hai châu:
8 châu Tƣ, châu Nghĩa; nhà Lê hợp lại thành một phủ gọi là phủ Tƣ
9 Nghĩa; nay là tỉnh Quảng Ngãi.
10
3
Thăng Hoa: nay là tỉnh Quang Nam.
11 3(bis) Chế Ma Nô Đà Man: con của vua Chiêm Chế Bồng Nga theo lời

12 chua trong KĐVSTGCM.


13
4
Thuế ruộng đất: mỗi mẫu ruộng thâu 5 thăng lúa (nhà Trần chỉ thâu
14 có 3 thăng), đất bãi trồng dâu chia ra 3 bậc: 5 quan, 4 quan và 3 quan
15 trên mỗi mẫu (nhà Trần chỉ đánh nhắm chừng 9 quan hoặc 7 quan trên
16 mỗi mẫu).
17
5
Thuế đinh: hay thuế đinh nam, cũng gọi là thuế lƣợc dịch; căn cứ
18 trên số ruộng để đánh thuế: trên 2 mẫu phải đóng thuế 3 quan; dƣới hai
19 mẫu đƣợc chƣớc giảm. Ngƣời không ruộng, mồ coi hoặc góa bụa đƣợc
20 châm chƣớc hoặc miễn bị đánh thuế nầy.
21
6
Chính sách di dân bám trụ: tức là nƣớc xâm lăng sau khi đã đánh
22 chiếm đƣợc vùng nào của ngoại quốc thì đƣa thƣờng dân của nƣớc xăm
23 lăng đến nơi đó định cƣ để vừa giữ đất vừa sản xuất với ý định giữ và
24 sáp nhập vĩnh viễn vùng mới chiếm vào lãnh thổ của nƣớc xâm lăng.
25
7
Gây xáo động trong dân chúng: ĐVSKTT cũng nhƣ KĐVSTGCM
26 đều viết rằng Hồ Hán Thƣơng áp dụng chính sách di dân bám trụ bằng
27 cách ép bắt những ngƣời có tiền (tức là nhà giàu hay còn gọi là tƣ sản)
28 từ những vùng thị tứ đông dân đến định cƣ ở các vùng đất mới xa xôi
29 hẻo lánh để khai phá, sản xuất, cải thiện kinh tế. Chính sách nầy tƣơng
30 tựa nhƣ khu trù mật, khu kinh tế mới mà nhiều chế độ chính trị hiện tại
31 đã hoặc đang áp dụng. Vì có tính cách ép buộc cho nên chính sách nầy
32 thƣờng gây phẫn uất và xáo động cho những ngƣời giàu có quen ăn
33 sung mặc sƣớng ở thành thị nay lại bị chính quyền đƣa đi làm việc cày
34 bừa chân tay, thiếu thốn, khổ sở ở những nơi thâm sơn cùng cốc.
35 ĐVSKTT viết: "Hán Thương đem những người không có ruộng mà có
36 của dời đến Thăng Hoa, tổ chức thành đội ngũ (giống nhƣ dân quân).
37 Quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện chia đất cho họ ở. Người ở châu
38 nào (tức là những châu mới chiếm đƣợc từ đất Chiêm Thành) thì thích
39 hai chữ tên châu ấy vào hai cánh tay để làm dấu hiệu (để nhận diện
40 truy bắt những ngƣời bỏ trốn không chịu chính sách định cƣ). Đến năm
41 sau đưa vợ con đi theo, gặp nhiều trắc trở giữa đường, đau yếu chết

VSTK - 404
1 chóc, dân phần nhiều ta thán. Hán Thương lại bắt dân cung cấp trâu để
2 giao cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa.( tức là bắt đám ngƣời bị ép
3 buộc đi định cƣ ở Thăng Hoa phải làm việc cày bừa sản
4 xuất)"(ĐVSKTT/ BK/ VIII/ 42b).
5
8
Cung cấp trâu cày: xem chú giải (7) trên.
6 8bis Thành Tây đô: rộng khoảng hơn 300 mẫu, đƣờng đi lối ngang lối

7 dọc đều lát đá hoa, móng thành bốn mặt đều xây bằng đá xanh, từ mặt
8 đất trở lên xây gạch, vuông vắn dày dặn, rất bền vững, hai bên trái, bên
9 phảỉ của thành gần sát núi đá, sông Mã, sông Lƣơng hợp lại chảy về
10 phía trƣớc; đến nay vẫn còn thấy dấu tích chân móng của thành nầy.
11
9
Thiên Xƣơng: tức là phủ Thanh Đô, ở phía cực Tây trấn Thanh Hoa,
12 phần nhiều theo tục Man (Mƣờng), liền núi, gần sông, tiếp giáp nƣớc
13 Ai Lao.
14
10
Linh Nguyên: tức là phủ Diễn Châu, ở về phía bắc Nghệ An, giáp
15 liền với Thanh Hoa.
16
11
Nhà Hồ che dấu: KĐVSTGCM viết về việc nầy nhƣ sau: "Sứ nhà
17 Minh là Dương Bột sang dỗ dụ các quan triều của Hồ Hán Thương và
18 phụ lão trong nước Đại Ngu để dò xét lời tâu của Hán Thương thực
19 hay láo. Hán Thương lại sai sứ sang triều đình nhà Minh dâng nạp tờ
20 báo cáo cam đoan của quan triều và phụ lão nhận là đúng như lời tâu
21 trước đây của Hán Thương: Hán Thương đã tâu là dòng dõi họ Trần bị
22 tuyệt tự, Hán Thương tự lấy tư cách là cháu ngoại tạm giữ công việc
23 trong nước. Vua nhà Minh tin là thật, phong Hán Thương làm An Nam
24 quốc vương ".
25
12
Cơ quan Y tế: hai bộ sử cũ đều gọi là cơ quan Quảng Tế.

HỒ HÁN THƢƠNG (tiếp theo)

26 Giáp Thân, Khai Đại năm thứ 2 (1404), tháng 2, sai sứ


27 sang cống nhà Minh.
28 Định lại phép thi cử.
29 Sửa đổi quân hiệu.
30 Đào đắp lũy phòng thủ Liên Cảng1 nối Tân Bình với
31 Thuận Hóa nhƣng không thành công.
32 Đóng thuyền chiến bằng đinh sắt nhƣng bên ngoài ngụy
33 trang giống nhƣ thuyền chuyên chở hàng hóa lƣơng thực để
34 che mắt gián điệp của quan quân nhà Minh.

VSTK - 405
1 Sứ nhà Minh là Lý Kỳ sang Đại Ngu tra hỏi về sự bạo
2 nghịch và lừa dối của cha con nhà Hồ. Lý Kỳ trở về báo cáo
3 cho vua nhà Minh tất cả tình trạng gian dối của nhà Hồ do
4 đó nhà Minh có cớ để đòi hỏi và gây hấn với Đại Ngu.
5 Ất Dậu, Khai Đại năm thứ 3 (1405), nhà Minh sai sứ sang
6 đòi lại đất Lộc Châu vì cho rằng trƣớc đây Lộc Châu là đất
7 thuộc châu Tƣ Minh của Trung Hoa. Nhà Hồ giao cho
8 Hoàng Hối Khanh nhiệm vụ giải quyết chuyện nầy. Hối
9 Khanh đem đất 59 thôn ở Cổ Lâu2 trả cho nhà Minh. Nhà
10 Hồ bất mãn và ân hận về việc phải trả lại đất quá nhiều cho
11 nên sai ngƣời ngầm giết hết những quan cai trị do nhà Minh
12 bổ nhiệm đến trấn thủ ở các vùng đất vừa mới đƣợc nhà Hồ
13 trao trả.
14 Để chuẩn bị chống quân xâm lƣợc nhà Minh, tháng 6,
15 Hán Thƣơng ra lệnh thiết đặt các kho vũ khí để sửa chữa,
16 chế tạo binh khí và đồ quân dụng.
17 Tháng 7, đi thanh sát các nơi xung yếu để lập phòng
18 tuyến an ninh.
Tháng 9, tổ chức, chấn chỉnh quân ngũ, đắp thành Đa
Bang3 và sai đóng cọc ở sông Bạch Hạc để án ngữ quân
Minh từ mặt Tuyên Quang tiến sang.
19 Hội hợp các quan văn võ cả nƣớc để bàn định kế hoạch
20 đối phó với quân ngoại xâm. Trong cuộc hợp bàn nầy Hồ
21 Nguyên Trừng nói: " Không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân có
22 theo hay không mà thôi ".
23 Bính Tuất, Khai Đại năm thứ 4 (1406), tháng 4, nhà Minh
24 sai bọn Hàn Quan và Hoàng Trung đem 5,000 quân hộ tống
25 tên Trần Thiêm Bình4 tự nhận là con của Trần Nghệ Tông
26 trở về Đại Ngu để đòi lại ngôi vua. Hồ Nguyên Trừng đƣa
27 quân đón chận ở ải Chi Lăng, bắt đƣợc Thiêm Bình giết đi,
28 quân Minh thua, bỏ chạy về Trung Hoa. Trong trận đánh
29 nầy, 4 tƣớng5 của nhà Hồ bị tử trận.
30 Để tránh chiến tranh, Hồ Hán Thƣơng cử sứ giả sang cầu
31 hoà với nhà Minh và chịu triều cống nhƣng nhà Minh không
32 chấp nhận, bắt giữ sứ giả không cho về.
33 Để chuẩn bị chiến tranh, Hồ Hán Thƣơng ra lệnh bắt lính,
34 gọi các quan của triều cũ chờ lệnh trƣng dụng, đóng cọc

VSTK - 406
1 nhọn để lập tuyến phòng thủ ở bờ phía Nam sông Nhị, đặt
2 chƣớng ngại vật ở các cửa sông và cửa biển, lập chiến khu
3 bên bờ phía Nam sông Phú Lƣơng dự phòng cho việc rút lui
4 và trƣờng kỳ6 kháng chiến.
5 Tháng 9, nhà Minh sai các tƣớng Chu Năng, phó tƣớng
6 Trƣơng Phụ, phó tƣớng Mộc Thạnh đem 800,000 quân sang
7 đánh, xuất phát từ 2 hƣớng Quảng Tây và Vân Nam.
8 Trên đƣờng tiến quân, tƣớng chỉ huy Chu Năng chết ở
9 Long Châu7, Trƣơng phụ lên thay. Trƣơng Phụ từ Quảng
10 Tây theo đƣờng Bằng Tƣờng8 đƣa quân vƣợt cửa ải Pha Lũy
11 tiến thẳng đến sông Phú Lƣơng; Mộc Thạnh từ hƣớng Vân
12 Nam tiến đánh cửa ải Phú Lệnh9 rồi kéo quân thẳng đến
13 sông Thao. Hai đạo quân nhà Minh cùng tụ hội ở phía Bắc
14 bờ sông Bạch Hạc.
15 Hồ Hán Thƣơng hạ lệnh cho tƣớng Hồ Nguyên Trừng và
16 Hồ Đỗ đem quân thủy bộ ra cầm cự. Quân giặc dùng chiến
17 dịch tuyên truyền chia rẽ10 khiến cho quân binh, tƣớng tá bất
18 mãn với nhà Hồ bỏ hàng ngũ đón quân Minh để đầu hàng rất
19 nhiều nhƣng quân Minh vẫn không phá đƣợc những tuyến
20 phòng thủ ở các bờ sông sông Nhị và sông Thao.
21 Bính Tuất, tháng 12 (1406), đoàn quân xâm lƣợc chuyển
22 hƣớng tấn công, đem toàn bộ lực lƣợng vây hãm và đánh
23 phá thành Đa Bang từ hai hƣớng Đông Nam và Tây Bắc.
24 Quan quân nhà Hồ cố thủ và phản công nhƣng thua. Thành
25 Đa Bang bị mất vào tay quân Minh; quân binh của nhà Hồ
26 phòng thủ ở các bờ sông đều tan vỡ nhanh chóng; Hồ
27 Nguyên Trừng lui về vùng sông Hoàng Giang; quân Minh
28 dọc theo sông Phú Lƣơng kéo xuống, tiến thẳng vào Đông
29 đô Thăng Long, cƣớp bóc, tịch thu lƣơng thực, giết hại và
30 hãm hiếp không nƣơng tay.
31 Đinh Hợi, Khai Đại năm thứ 5 (1407), tháng 2, quân
32 Minh bị quân nhà Hồ cầm cự ngày đêm ở cửa Muộn11, lại bị
33 thời tiết trái chƣớng không hạp cho nên chuyển quân về
34 đóng ở bến Hàm Tử. Hồ Nguyên Trừng lại đƣa quân tới
35 Hoàng Giang để hợp với quân của Hồ Hán Thƣơng từ Tây
36 đô đến, chuẩn bị phản công quân Minh ở bến Hàm Tử.

VSTK - 407
1 Tháng 3, Hồ Nguyên Trừng chỉ huy hơn 70 ngàn12 quân
2 thủy, bộ phản công, đánh vào bến Hàm Tử nhƣng bị quân
3 Minh phục kích đánh tan rã. Vua quan nhà Hồ kéo tàn binh
4 trốn chạy về Thanh Hoá. Quân Minh truy đuổi ráo riết, đến
5 Lỗi Giang13 thì quân nhà Hồ bị tiêu diệt gần hết. Quý Ly
6 cùng Hán Thƣơng chạy vào Nghệ An.
7 Tháng 5, quân Minh kéo đến cửa biển Kỳ La 14, bắt đƣợc
8 Hồ Nguyên Trừng rồi tiến đánh Vĩnh Ninh15, bắt đƣợc Hồ
9 Quý Ly vào ngày 11 tháng 5. Ngày hôm sau, Hồ Hán
10 Thƣơng cùng con trai là thái tử Hồ Nhuế bị bắt ở núi Cao
11 Vọng16. Quan quân nhà Hồ, ngƣời ra hàng17, ngƣời bị bắt18,
12 ngƣời tự tử. Nhà Hồ mất.
13 Nƣớc Đại Ngu mất vào tay ngƣời nhà Minh: đoàn quân
14 xâm lƣợc nầy đã chiếm đƣợc 48 châu, phủ; 168 huyện; kiềm
15 toả hơn 3 triệu hộ dân; thu 112 voi, 420 ngựa; hơn 35,000
16 trâu bò và gần 9,000 ghe thuyền.

CHÚ GIẢI:
17
1
Liên Cảng: trong ĐVSKTT và KĐVSTGCM hai chữ Liên Cảng có
18 thể dùng để chỉ một con sông đào hoặc là một con kinh đào nối liền phủ
19 Tân Bình với trấn Thuận Hóa.
20 Liên Cảng cũng có thể là một thành lũy đắp chạy dọc theo ven bờ
21 biển, từ cửa biển Nhật Lệ (ở huyện Lệ Thủy) và cửa biển Minh Linh (ở
22 châu Minh Linh) phủ Tân Binh đến địa giới trấn Thuận Hóa (ĐVSKTT
23 viết: từ Tân Bình đến địa giới Thuận Hóa nhưng không nói rõ là địa
24 giới phía Nam hay phía Bắc) nhằm mục đích kiểm soát và ngăn chận
25 quân Chiêm Thành và quân xâm lƣợc từ nƣớc Trung Hoa tiến vào nội
26 địa của Đại Ngu bằng đƣờng biển.
27 ĐVSKTT viết: "Hán Thương khai Liên Cảng từ Tân Bình đến địa
28 giới Thuận Hóa" nhƣng không nói rõ là địa giới phía Nam hay phía Bắc
29 của Thuận Hóa: nếu từ Tân Bình (nay là Quảng Bình) trở về phía Nam
30 giáp giới với châu Tƣ (nay là Quảng Nam, địa giới phía Nam của
31 Thuận Hóa) thì thành lũy Liên Cảng thời nhà Hồ chạy dài từ các cửa
32 biển Nhật Lệ, Minh Linh ở tỉnh Quảng Bình ngày nay xuống về phía
33 Nam đến tận địa phận của tỉnh Quảng Nam bây giờ. Và nếu đúng nhƣ
34 thế thì đây là cả một công trình đào đắp quy mô, vĩ đại; tuy nhiên vì
35 xây trên nền cát bùn ven biển không có nền móng vững chắc cho nên bị
36 sụp đổ liên miên, thất bại.
Địa dƣ chí của Phan Huy Chú viết: "Huyện Lệ Thủy và huyện Minh
Linh đều giáp cửa biển Lũy Thầy trên từ đỉnh Động Hồi dưới đến cửa
biển Nhật Lệ: lũy cao 7 trượng 5 thước, dài hơn 3,000 trượng ngoài lũy

VSTK - 408
cắm rào và cọc lim, trong đắp đất, trên lũy cao đến 5 tầng, mỗi tầng
cao 1 thước 5 tấc, voi ngựa đi ở trên được (tức là có thể dùng bờ lũy
nầy trong việc giao thông chuyên chở)". Lũy nầy đƣợc đắp vào thời
Hiếu Văn vƣơng Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Nguyễn). LTHCLC cũng
viết "Cửa Minh Linh ở châu Minh Linh. Có cửa ải đóng quân để phòng
giữ, vì là chỗ xung yếu; từ cửa Nhật Lệ đi 2 ngày đến đấy ".
1 Nhƣ thế, sự suy đoán của VSTK cho rằng Liên Cảng là một bờ lũy
2 phòng thủ mặt biển đƣợc nhà Hồ đào đắp là một suy đoán có thể chấp
3 nhận đƣợc.
4
2
Cổ Lâu: nay thuộc tỉnh Quảng Tây ở Trung Hoa.
5
3
Thành Đa Bang: theo KDVSTGCM thì thành nầy ở xã Cổ Pháp,
6 huyện Tiên Phong tỉnh Sơn Tây; nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Tây.
7
4
Trần Thiêm Bình: Trần Khang là gia nô, bè đảng với Trần Tôn
8 Nguyên. Tôn Nguyên trƣớc giữ chức thiếu bảo triều nhà Trần, lúc
9 Chiêm Thành sang cƣớp phá Đại Việt, Tôn Nguyên ngầm thông mƣu
10 với quân Chiêm. Khi quân Chiêm rút lui, Trần Thuận Tông ra lệnh truy
11 bắt Tôn Nguyên để trị tội, Tôn Nguyên nhảy xuống nƣớc tự tử còn bè
12 đảng là Trần Khang chạy trốn sang Lão Qua (Lào) rồi sang Trung Hoa,
13 theo đƣờng Vân Nam đến Yên Kinh đổi tên là Trần Thiêm Bình và nói
14 sai mình là con của Trần Nghệ Tông, tố cáo với nhà Minh về việc tiếm
15 nghịch lừa đảo của Quý Ly và xin nhà Minh đƣa lục quân (tức là 6
16 quân của nhà vua, mỗi quân có 12, 500 ngƣời: thời cổ thì thiên tử mới
17 có 6 quân, còn các vua chƣ hầu, nếu là nƣớc lớn thì đƣợc 3 quân, nƣớc
18 cỡ trung thì đƣợc 2 quân, nƣớc nhỏ chỉ đƣợc quyền có 1 quân) hộ tống
19 trở về đòi lại ngôi vua của nhà Trần bị Quý Ly cƣớp đoạt.; nhà Minh vì
20 thế mới sai Lý Kỳ sang Đại Ngu để điều tra.
21
5
Bốn tƣớng của nhà Hồ bị tử trận: ĐVSK kể tên 4 tƣớng là Phạm
22 Nguyên Khôi, Chu Bỉnh Trung, Trần Nguyên Huyên, Trần Thái Bộc.
23
6
Trƣờng kỳ: hạn kỳ dài, lâu.
24
7
Long Châu: thuộc tỉnh Quảng Tây bên đất Trung Hoa, tiếp giáp với Lạng
25 Sơn.
26
8
Bằng Tƣờng: thuộc Quảng Tây, tiếp giáp với Lạng Sơn.
27 8bis Phả Lũy: ở xã Đồng Đăng, huyện Văn Huyên, Lạng Sơn bây giờ

28 là Mục Nam Quan.


29
9
Phú Lệnh: thuộc Tuyên Quang.
30
10
Tuyên truyền chia rẽ: với chiến dịch tuyên truyền nầy, quân Minh
31 phao tin vào hàng ngũ quan quân nhà Hồ rằng sẽ diệt nhà Hồ và đem
32 con cháu của nhà Trần trở lại ngôi vua. Vì thế, quan quân của nhà Hồ
33 vốn đã oán hận chính sách cai trị gò bó, hà khắc của nhà Hồ từ lâu, nay
34 nghe lời phao đồn nhƣ thế thì không còn chí khí để chiến đấu nữa.
35
11
Cửa Muộn: là cửa sông Hồng ở địa phận huyện Giao Thủy, Nam
36 Định; nay đã thành bãi đất bồi lấn ra biển.
37
12
70 ngàn quân thủy, bộ: nhƣng quân nhà Hồ lại phao đồn là 210 ngàn
38 để phô trƣơng thanh thế và dọa hù quân Minh.

VSTK - 409
1
13
Lỗi giang: một nhánh sông phụ của sông Mã ở huyện Vĩnh Lộc,
2 Thanh Hoa, hạ lƣu sông nầy thông với sông Đại La.
3
14
Cửa biển Kỳ La: ở huyện Kỳ Anh, phủ Đức Quang (nay là Hà
4 Tỉnh), trấn Lâm An (tức Nghệ An).
5
15
Vĩnh Ninh: thời nhà Trần và nhà Hồ là huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu
6 Thiên, trấn Thanh Đô (Thanh Hoa) nơi đó Hồ Quý Ly xây dựng Tây
7 Đô ở động An Tôn; nay là huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
8
16
Núi Cao Vọng: cùng một vùng với cửa biển Kỳ La.
9
17
Ngƣời ra hàng: trong số ngƣời ra hàng quân Minh từ khởi đầu cuộc
10 chiến có Nguyễn Phi Khanh. Phi Khanh tên thật là Ứng Long ngƣời
11 làng Nhị Khê, huyện Thƣờng Phúc, Hà Đông; đỗ thái học sinh đời Trần
12 Duệ Tông (1374), lấy con gái Trần Nguyên Đán, bị Trần Nghệ Tông
13 chê là xuất thân từ hàng dân nghèo hèn nên không trọng dụng. Sau
14 đƣợc Hồ Hán Thƣơng cất nhắc và bổ dụng làm Hàn Lâm Viện học sĩ và
15 cho đổi tên là Phi Khanh. Nguyễn Phi Khanh là tác giả Nhị Khê thi tập
16 và cũng chính là cha ruột của Nguyễn Trãi. ĐVSKTT và KĐVSTGCM
17 đều chép Nguyễn Phi Khanh đầu hàng quân Minh từ trƣớc nhƣng trong
18 sách Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dƣơng Quảng Hàm lại ghi rằng
19 Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt giải về Trung Hoa rồi chết ở bên
20 đó.
21
18
Ngƣời bị bắt: ngoài gia đình, con cháu nhà Hồ, quân Minh còn bắt đƣợc các
22 tƣớng Hồ Đồ, Đoàn Bồng, hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ. Tất
23 cả đều bị giải qua Kim Lăng giao nạp cho vua nhà Minh.

 KHẢO LUẬN VỀ NHÀ HỒ

 Thái độ và dƣ luận của thời phong kiến đối với nhà Hồ:
24 Theo quan niệm phong kiến, những dòng họ cƣớp ngôi thì không
25 đƣợc coi là chính thống.
26 Những sử gia thời phong kiến phần lớn bị áp lực của những ngƣời
27 làm vua đã phải nhắm mắt đi theo quan niệm đó để phân định vua nào
28 là thuộc triều đại chính thống và vua nào là thuộc về ngụy triều hay
29 nhuận triều. Chỉ có những triều đại chính thống mới đƣợc chép riêng
30 thành kỷ nhƣ kỷ Hồng Bàng, Kỷ họ Thục, kỷ họ Triệu, kỷ Trƣng
31 vƣơng, kỷ Sĩ vƣơng, kỷ thuộc Ngô, Tống, Tề, Lƣơng, Kỷ Tiền Lý, Kỷ
32 Triệu Việt vƣơng, kỷ nhà Đinh, Kỷ nhà Lê, kỷ nhà Lý, Kỷ nhà Trần. .
33 .vân. . .vân.
34 Triều nhà Hồ và triều nhà Mạc sau nầy không đƣợc coi là triều đại
35 chính thống nên không đƣợc chép thành Kỷ Nhà Hồ và Kỷ nhà Mạc.
36 ĐVSKTT viết: "Sử cũ đem hai người họ Hồ chép từng năm thành
37 kỷ, nay truất bỏ và sửa cho đúng "(BK/VIII/33a). Phần đề mục viết ở
38 phía trên thì viết: " Phụ: Hồ Quý Ly và Hán Thương ".
39 Sự phân biệt chính thống triều và nhuận triều hay ngụy triều
40 chỉ là một sản phẩm của bọn vua chúa kiêu căng, tham quyền cố vị

VSTK - 410
1 và là một ý niệm mơ hồ không có một nền tảng vững chắc, không
2 có một tiêu chuẩn nhất định, có tính chất độc quyền và kỳ thị rõ
3 rệt.
4 Nếu cho rằng những kẻ cƣớp ngôi vua của ngƣời khác phải bị
5 coi là bọn ngụy thì những kẻ đƣợc gọi là chính thống trong sử cũ kể
6 từ sau đời nhà Đinh đến đầu đời nhà Hồ đều là ngụy cả: Lê cƣớp
7 ngôi nhà Đinh, Lý cƣớp ngôi nhà Lê, Trần cƣớp ngôi nhà Lý. Đó là
8 chƣa kể đến những phƣơng thuật tinh ma quỉ quái, xảo trá, lƣơng lẹo và
9 tàn độc mà họ đã dùng để tranh ngôi đoạt vợ của ngƣời khác.
Về mặt đạo đức, phong hoá thì những kẻ tự cho mình là chính thống
lại chính là những hạng ngƣời vô địch về hoang dâm vô độ, loạn luân
bừa bãi, phung phí của công để thoả mãn dục vọng riêng tƣ, không thấy
làm đƣợc một việc gì có ích lợi nâng cao mức sống cho dân chúng
trong suốt thời gian bọn họ nắm quyền cai trị.
10 Lê Đại Hành mƣu mô cƣớp ngôi nhà Đinh nhƣng lại đƣợc Lê Tung
11 khen trong Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận nhƣ sau: "có mưu lược
12 to lớn của bậc đế vương ".
13 Lý Công Uẩn dùng mê tín dị đoan dọn đƣờng rồi cƣớp ngôi nhà Lê
14 thì lại đƣợc viết rằng: "hiệp điềm tốt sét đánh chuyển lời vào thân cây,
15 ứng mệnh trời, thuận lòng người, thừa thời cơ mở vận nghiệp vua ".
16 Nhờ âm mƣu gian tà của Trần Thủ Độ, nhà Trần cƣớp ngôi nhà Lý
17 nhƣng Trần Thái Tông lại đƣợc xem là ngƣời "ứng mệnh trời trao cho".
18 Đối với nhà Hồ, soạn giả VGTKTL viết:" Còn như Hồ Quý Ly dựa
19 thế thân thích ở nội cung mà tích chứa tội ác gian thần, thả sức bạo
20 ngược hại dân, lừa dối vua để cướp ngôi báu, tội oán chất chồng, lòng
21 dân ta thán lìa xa, giặc Minh xăm lấn, nước mất nhà tan, thân tù tội,
22 chết làm ma đất khách, cuối cùng chỉ để lại tiếng cười chê cho đời
23 sau..Hồ Hán Thương nối ngôi thoáng đoạt, chính trị bạo ngược, ức hại
24 đoạ đày dân chúng; giặc Minh xăm lăng, đất nước, bờ cõi tan hoang;
25 lưới trời rộng lớn bao la tuy thưa thớt mà khó chui qua để thoát ".
26 Trong Phàm Lệ về việc biên soạn sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ
27 của Ngô Sĩ Liên, có đoạn viết: "Dương Tam Kha và hai họ Hồ trước
28 (chỉ Hồ Quý Ly), họ Hồ sau (chỉ Hồ Hán Thƣơng), đều theo như lệ
29 Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, chỉ chép tên, là để đè nén kẻ tiếm
30 nghịch ".
31 Phạm Công Trứ viết trong bài tựa sách Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Tục
32 Biên nhƣ sau: " Phàm phần tục biên thì dưới chỗ chép năm, nếu là niên
33 hiệu không phải chính thống hoặc là niên hiệu của triều đình phương
34 Bắc (tức triều đình bên Tàu) ) thì đều chia ra chua làm 2 dòng. Đó là
35 để tôn chính thống mà truất tiếm ngụy, nêu lên giường mối lớn để làm
36 gương khuyên răn ".
37 Ngô Sĩ Liên là ngƣời chống đối nhà Hồ mạnh mẽ nhất, đến mức độ
38 gọi quân Minh và Chiêm Thành là nước láng giềng hoặc người láng
39 giềng vì theo Ngô Sĩ Liên thì những kẻ xâm lăng nầy đã có công

VSTK - 411
1 trạng tiêu diệt nhà Hồ. Ngô Sĩ Liên nói: "Họ Hồ giết Trần Thuận
2 Tông mà cướp lấy nước. Nhưng bọn loạn thần tặc tử thì ai ai cũng có
3 thể giết chúng được và trời không dung, đất không tha ! Người trong
4 nước giết chúng không được, thì người nước láng giềng có thể giết,
5 người nước láng giềng giết không được thì người Di người Địch có thể
6 giết được. Vì thế người Minh mới có thể giết được chúng ".
7 Trên đây là thái độ và dƣ luận của những ngƣời viết sử có liên hệ
8 với bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ.
9 Còn những ngƣời trong quốc sử quán triều Nguyễn Gia Long,
10 những ngƣời giữ trọng trách biên soạn bộ Khâm Định Việt Sử Thông
11 Giám Cƣơng Mục thì thái độ của họ ra sao?
12 Trong bản Tấu Nghị ngày 10 tháng 6 năm Tự Đức thứ 9
13 (11/7/1856), ngay từ lúc bắt đầu, nhóm sử gia trong bộ biên tập của
14 quốc sử quán đã đề cập ngay vấn đề chính thống nhƣ sau: " Chúng tôi
15 trộm nghĩ: trong công việc soạn sửa lịch sử, không có gì trọng đại hơn
16 là làm sáng tỏ được nền chính thống " (phiên âm bản viết chữ Tàu: Các
17 đăng nhân, thần đẳng thiết tu sử chi sự, mạc đại ư minh chính thống).
18 Quan niệm Chính thống của nhóm quốc sử quan triều Nguyễn đặt
19 trên tiêu chuẩn nào?
20 Bản Tấu Nghị, viết rõ ràng là họ đã lấy tiêu chuẩn chính thống của
21 ngƣời Tàu từ đời nhà Tống để đem áp dụng vào KĐVSTGCM. Bản tấu
22 nghị viết: "Mười hai sứ quân nổi lên tranh quyền ngang nhau, chưa
23 phải là chính thống. Đến Bộ Lĩnh là Đinh Tiên Hoàng mới hợp làm
24 một. Chúng tôi vâng nghĩ nên đặt Đinh Tiên Hoàng vào chính thống để
25 nối theo nền chính thống của vua Hùng. Nay chúng tôi vâng lệnh tra
26 cứu Phàm lệ của sách Cương Mục (sách của một tác giả ngƣời Hoa,
27 đời nhà Tống) thì thấy chính thống có các triều nhà Chu, nhà Tần, nhà
28 Hán, nhà Tấn, nhà Tùy, nhà Đường. Và thể lệ biên chép về chính thống
29 như sau:
30 Triều đại nào hợp được thiên hạ vào một mối thì gọi là chính thống,
31 niên hiệu của triều đại đó được chép bằng chữ lớn; trái lại triều đại
32 nào không thống nhất được thiên hạ thì niên hiệu sẽ được ghi chú
33 thành 2 hàng chữ nhỏ.
34 Triều đại nào, mặc dù có thống nhất thiên hạ thực sự, nhưng vì vua
35 không phải là dòng dõi chính hoặc là một người đàn bà thì niên hiệu
36 cũng được chép thành 2 hàng.
37 Chúng tôi cũng có tra cứu thể lệ biên chép về những người thừa cơ
38 hội loạn lạc mà cướp nước, soán ngôi: Lê Đại Hành là tôi nhà Đinh
39 nhưng thừa cơ nguy yếu để cướp ngôi. Đến con là Lê Ngọa Triều làm
40 chuyện cướp ngôi, hoang dâm ngang , hung tàn bạo ác. Bàn về phương
41 diện được nước thì xếp ngang với Vương Mãn và Tào Tháo; về mặc
42 dẹp loạn thì công trạng không bằng nhà Tần và nhà Tùy. Sách Cương
43 Mục Tục Biên đã xếp tất cả vào hạng phản thần, con nghịch.

VSTK - 412
1 Vậy mà sử cũ (chỉ ĐVSKTT và các bộ sử trƣớc ĐVSKTT) lại chép
2 (nhà họ Lê) là chính thống, như thế thì còn lấy gì để phân biệt nêu
3 gương răn dại cho người đời sau? Chúng tôi vâng nghĩ, về đời Tiền Lê
4 thì nên lấy thể lệ áp dụng cho những đời vua chiếm đoạt nước trong
5 sách Cương Mục mà chép niên hiệu của triều đó bằng hai hàng chữ
6 nhỏ .
7 Lý Thái Tổ vào lúc nhà họ Lê (Tiền Lê) hỗn loạn rối ren, nghe theo
8 lời của nhiều người thúc đẩy rồi nhận sự suy tôn thì việc lấy được ngôi
9 vua nầy cũng giống như Thái Tổ nhà Tống (tức là Triệu Khuông Dẫn,
10 vua đầu tiên của triều nhà Tống bên Tàu từ năm 960 đến năm 976).
11 Đến Trần Thái Tông, cũng có điều đáng dị nghị chỉ trích. Xét kỹ
12 nguyên nhân được nước của họ nhà Trần thì cũng không tàn tệ quá lắm
13 so với nhà họ Tiền Lê. Vậy xin cho phép chép chữ lớn theo thể lệ sách
14 Cương Mục dành cho các triều đại chính thống."
15 Mặc dù không thấy nhóm quốc sử quán triều Nguyễn đề cập gì tới
16 trƣờng hợp của nhà Hồ trong bản tấu nghị của họ, nhƣng khi viết về
17 việc Hồ Quý Ly truyền ngôi vua cho Hồ Hán Thƣơng họ đã dùng hai
18 chữ ngụy vị (ngôi vua giả dối) và đó đây, qua những lời bút phê của
19 Tự Đức ngƣời ta có thể thấy rằng Nhà Hồ đã không đƣợc những
20 ngƣời làm sử thời phong kiến triều Nguyễn (Gia Long) đánh giá
21 một cách khách quan và đúng mức. Tại sao?
22 Bởi vì họ chịu hai áp lực lớn khi viết sử: áp lực của kẻ đang làm
23 vua và áp lực nhồi sọ của Nho giáo trong đó có phổ biến một quan
24 điểm sai lầm tai hại là phải trung thành với với vua trước nhất rồi kế
25 đến mới yêu tổ quốc: trung quân, ái quốc; phải chết vì vua: quân xử
26 thần tử, thần bất tử bất trung; đó là một sản phẩm ngoại lai từ nƣớc
27 Trung Hoa xâm nhập và ăn sâu vào đầu óc của các nhà nho và dân
28 chúng thời phong kiến, vì thế cho nên họ chép ngôi vua của Quý Ly
29 là ngụy vị.

 Thái độ khách quan và nghiêm minh về nhà Hồ :

30 Trong suốt quá trình hơn 30 năm nắm giữ quyền chính từ triều nhà
31 Trần qua đến triều nhà Hồ (1371-1407), Hồ Quý Ly đã thực hiện một
32 cuộc sửa đổi rộng lớn và mới mẻ trên nhiều lãnh vực khác nhau của
33 nƣớc Đại Việt và Đại Ngu thời bấy giờ.
34 * Về mặt tổ chức hành chánh lãnh thổ địa phƣơng, những lộ ở
35 các vùng xa xôi Hồ Quý Ly đổi thành trấn, đặt thêm quan chức chuyên
36 lo về việc trị an ở các lộ, phủ, châu, huyện thống thuộc theo chiêu dọc
37 từ trên xuống dƣới: lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Lộ nào
38 cũng phải có sổ sách ghi chép về những việc đinh điền, kiện tụng và
39 hằng năm phải báo cáo tình hình địa phƣơng về chính quyền trung

VSTK - 413
1 ƣơng ở thủ đô và đặc biệt hơn hết là tại mỗi vùng lãnh thổ hành chánh
2 quan trọng nhƣ lộ, trấn, Hồ Quý Ly còn đặt ra một cơ quan an ninh mật
3 vụ do Liêm phóng sứ điều hành để theo dõi và dò xét mọi hành vi hoạt
4 động của quan, quân và dân chúng.
5 * Về mặt kinh tế, tài chánh, một chính sách đổi mới quan trọng
6 nhất của nhà Hồ là việc hạn chế quyên chiếm hữu ruộng đất và quyền
7 sở hữu gia nô của đám ngƣời quyền quý và đám vƣơng tộc.
8 - Sửa đổi chính sách thuế má, đặt mức thuế đinh đánh trên ngƣời
9 nghèo nhẹ hơn các chế độ trƣớc.
10 - Phát hành tiền giấy, thu hồi hết các loại tiền kim khí nhằm giảm
11 bớt mức tiêu xài tiền bạc trong dân chúng.
12 * Về mặt văn hóa xã hội, Hồ Quý Ly không chấp nhận lối học sáo
13 rỗng, chỉ có lý thuyết suông, không thể áp dụng đƣợc trên thực tế để
14 giúp ích cho đời.
15 - Quý Ly soạn sách Minh Đạo trong đó phê phán rằng: những lời truyền
16 dạy học trò trong sách Luận Ngữ cũng có những điểm đáng nghi ngờ
17 và dị nghị; danh nho Hà Dũ đời nhà Đường bên Trung Hoa là một kẻ
18 ăn trộm, một tên "đạo nho" ngoài miệng nói đạo nghĩa thánh hiền
19 nhưng hành động như tên trộm cắp bởi vì Hàn Dũ trong khi kịch liệt
20 bài bác đạo Phật nhƣng lại giao du rất thân mật với một nhà sƣ chùa
21 Phật có tên là Đại Diên, lời nói hành động trái ngƣợc nhau cho nên Quý
22 Ly cho là đạo nho (đạo có nghĩa là ăn cắp); đám ngƣời Hoa đƣợc gọi là
23 "ngƣời hiền" nhƣ Chu Mậu Thúc, Trình Hiệu, Trình Di, Dƣơng Quy
24 Sơn, La Trọng Tố, Lý Diên Bình, Chu Tử thì Hồ Quý Ly xép vào hạng
25 ngƣời có học nhƣng chỉ là học đƣợc những điều viển vông, không sát
26 với thực tế, chỉ là sao chép góp nhặt văn chƣơng của ngƣời xƣa.
27 Đó là một cái nhìn đúng mức và sáng suốt của Hồ Quý Ly nhƣng
28 Ngô Sĩ Liên lại cho rằng Quý Ly là kẻ không biết tự lƣợng sức mình,
29 dám đại ngôn khinh xuất bàn bạc và phê luận về Khổng Tử. Ngƣời ta
30 không cần phải bàn bạc gì về lời nhận định của Ngô Sĩ Liên nhƣng chỉ
31 cần nhớ rằng bản thân Khổng Tử là một ngƣời đã chẳng đƣợc một nƣớc
32 nào trọng dụng để trao cho trọng trách cai trị bằng mớ lý thuyết mơ hồ,
33 xa rời thực tế của ông ta.
34 - Nhà Hồ rất quan tâm tới việc giáo dục: mở mang thêm trƣờng
35 học; các thầy dạy học đều đƣợc cấp ruộng; đặt cơ quan chăm lo về giáo
36 dục ở các lộ, phủ, châu; định lại cách thức thi cử để đƣa vào nề nếp.
37 - Cơ quan Y tế chăm lo sức khoẻ và chữa bệnh cho ngƣời dân
38 lần đầu tiên đƣợc thành lập dƣới thời Hồ Quý Ly nắm giữ quyền
39 lực.
40 * Vấn đề tiêu chuẩn hóa các hệ thống đo lƣờng cũng chỉ mới
41 đƣợc xuất hiện trong thời Hồ Quý Ly và đây là một đóng góp đáng kể
42 rất có giá trị cho trình độ tiến bộ văn minh của dân chúng nƣớc Đại
43 Ngu.

VSTK - 414
1 * Thời nhà Hồ có 2 công trình kiến trúc quy mô vĩ đại có tính cách
2 chiến lƣợc về mặt quốc phòng: đó là công trình xây dựng Tây Đô và
3 công trình đào đắp chiến lũy Liên Cảng.
4 Thủ đô Thăng Long còn gọi là Đông đô, trải qua nhiều thời đại là
5 một mục tiêu gần rất dễ bị đánh chiếm đối với quân xâm lƣợc đến từ
6 Trung Hoa và cứ mỗi lần họ tràn qua thì vua quan và dân chúng kéo
7 nhau mà chạy tứ tán hết nơi nầy đến chỗ khác, không có đƣợc một
8 phòng tuyến vững chắc dành cho việc rút lui về phòng thủ và tổ chức
9 công cuộc chống cự lâu dài với quân ngoại xăm.
10 Ở mặt phía Nam, trải qua nhiêu đời, Chiêm Thành đã biết bao nhiêu
11 lần xâm nhập từ mặt biển vào đánh phá các vùng Nghệ An, Thanh Hóa
12 rồi tiến thẳng ra Thăng Long nhƣ vào chỗ không ngƣời. Quân ngoại
13 xâm phƣơng Bắc cũng dùng mặt biển để áp tải quân lính và lƣơng thực
14 tiếp tế và tăng cƣờng cho đoàn quân của viễn chinh của họ từ hƣớng
15 Bắc tiến sâu xuống về phía Nam.
16 Kinh nghiệm cho thấy, quân ngoại xâm từ phƣơng Bắc thƣờng bị
17 đánh bại mỗi khi họ tiến quân sâu xuống phía Nam mà không đƣợc tiếp
18 tế lƣơng thực và thuốc men để phòng chống bệnh hoạn chết chóc do
19 phong thổ và thời tiết gây ra. Trong lúc quân xâm lƣợc ở trong khí thế
20 hung hăng, quân cụ, quân nhu đầy đủ thì thành Thăng Long rất khó
21 chống giữ với họ từ lúc khởi chiến; họ chỉ dám tiếp tục đánh ép sâu về
22 phía Nam nếu họ có đƣợc lực lƣợng hổ trợ tăng viện xăm nhập từ mặt
23 biển đánh thốc ngƣợc lên phía Bắc.
24 Nhƣ vậy, Tây đô nhất định phải là một phòng tuyến lý tƣởng để rút
25 lui, một chiến khu để trƣờng kỳ kháng chiến, chờ dịp phản công khi
26 Xâm lƣợc cạn nguồn tiếp tế, đói khát, mệt mỏi, bệnh tật vì sơn lam
27 chƣớng khí. Còn ở mặt biển thì chận sự xăm nhập của quân ngoại nhập
28 (từ Trung Hoa hoặc từ Chiêm Thành) bằng bờ lũy Liên Cảng chạy dài
29 dọc theo bờ biển từ Quảng Nam ở phía Nam ra tới Quảng Bình ở phía
30 Bắc. Bờ lũy Liên Cảng nhất định phải có một tầm mức quan trọng
31 rất lớn về mặt phòng thủ và phát triển kinh tế liên vùng. Do đó, Lê
32 Thánh Tông sau nầy trong khoảng những năm của niên hiệu Quang
33 Thuận (1460-1469) đã khơi vét và sửa chữa lại công trình Liên Cảng
34 của nhà Hồ chạy suốt từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa (KDVSTGCM/
35 CB/ XXI/ 10,11).
36 * Về mặt Quân Sự & Quốc Phòng, biết trƣớc ngƣời nhà Minh thế
37 nào cũng sẽ kiếm chuyện gây hấn xăm lƣợc Đại Ngu, Hồ Quý Ly đã
38 tập trung mọi nguồn nhân lực lo việc quân sự hầu đối phó .
39 - Để có một đội quân hùng hậu một triệu ngƣời, Hồ Quý Ly kiểm tra
40 nhân khẩu và lập sổ hộ tịch, buộc mọi công dân từ 2 tuổi trở lên phải
41 đăng ký, kẻ nào trốn tránh thì bị án phạt. Nhờ đó, số ngƣời trong hạn
42 tuổi bắt đi lính (từ 15 tuổi đến 60) tăng lên một cách đáng kể.
43 - Hồ Quý Ly cũng sắp xếp lại hàng ngũ quân đội, cải thiện thủy quân
44 và đội thuyền chiến, chế tạo và dự trữ các kho vũ khí; ở các cửa biển và

VSTK - 415
1 những nơi hiểm yếu trên các vùng sông lớn đều đóng cọc nhọn để
2 phòng ngự. Có một điểm đáng lƣu ý là số quân cấm vệ dùng để bảo vệ
3 an ninh riêng cho gia đình nhà Hồ chỉ có 5 đội tức là chƣa tới 100 binh
4 sĩ (1 dội có 18 ngƣời) và cũng chịu dƣới quyền điều động của tổng tƣ
5 lệnh quân đội chứ không phải dành riêng cho vua độc quyền sai khiến
6 trong nội vi cung đình nhƣ ở các triều đại trƣớc.
7 KĐVSTGCM cho biết rằng tháng 9 năm Ất Dậu (1405) Hồ Hán
8 Thƣơng đã tổ chức và chấn chỉnh lại hàng ngũ quân đội nhƣ sau:
9 -Nam và Bắc chia làm 12 vệ,
10 -Đông và Tây chia làm 8 vệ; mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 ngƣời.
11 -Đại quân 30 đội, trung quân 20 đội, doanh 15 đội, đoàn 10 đội.
12 -Quân bảo vệ hoàng cung tại thủ đô nơi vua ở (thƣờng gọi là cấm vệ
13 đô) 5 đội (tức chỉ có 90 quân lính).(KĐVSTGCM/CB/ Q XII/ 8).
14 Điều nầy càng cho thấy rằng Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thƣơng đã coi
15 sự an nguy của nƣớc Đại Ngu quan trọng hơn là sự an ninh cá nhân của
16 dòng họ vƣơng tộc nhà Hồ: tận dụng tối đa nhân lực cho quân đội để
17 bảo vệ đất nƣớc.
18 Nhà Hồ đã thực hiện những sự thay đổi nhƣ vừa kể với một ý chí cả
19 quyết, một tài năng hiếm có với một bản lĩnh đáng khâm phục.
20 Nhƣng tại sao nhà Hồ lại thất bại?
21 Có dƣ luận cho rằng, những chính sách cải cách kinh tế xã hội của
22 nhà Hồ chỉ dùng để tƣớc đoạt thế lực của họ nhà Trần đồng thời làm lợi
23 riêng cho họ nhà Hồ nhiều hơn là vì lợi ích nhân dân. Những chính
24 sách nầy gồm có chính sách hạn điền, hạn nô và phát hành tiền giấy.
25 Tháng 6 năm Đinh Sửu (1397), với chức vụ phụ chính thái sƣ, Lê
26 Quý Ly đã thảo định chính sách hạn điền để thƣợng hoàng Trần Nghệ
27 Tông và vua Trần Thuận Tông ban hành (KĐVSTGCM/CB/ Q.XI/ 30).
28 Chính sách hạn điền nầy không phải chờ đến lúc nhà Hồ nắm giữ
29 ngôi vua mới có: năm Tân Hợi (1371), lúc mà Lê Quý Ly chỉ là một
30 quan hầu cận chƣa nắm giữ một chức vụ quan trọng nào trong việc điều
31 hành triều chính thì Trần Nghệ Tông đã ra lệnh "Trừ bỏ thói lệ sa châu
32 tiệt cước (nghĩa là xắn lấy chân bãi bên sông có đất phù sa mới bồi) "
33 (CB/Q.X/29,30) bởi vì ngày trƣớc các dòng họ vƣơng tộc thƣờng tự
34 động cắt lấy những bãi phù sa mới bồi ở ven sông để chiếm làm ruộng
35 đất riêng của mình hoặc bắt dân làm nô lệ đắp đê ngăn nƣớc mặn các
36 vùng đất ven biển để khai khẩn làm ruộng hay làm trang trại riêng. Dù
37 đã có lệnh bãi bỏ của Trần Nghệ Tông nhƣng tệ trạng nầy vẫn kéo dài
38 hơn 20 năm (1371-1397) cho đến khi Lê Quý Ly lên giữ chức vụ phụ
39 chính thái sƣ (năm Ất Hợi/1395).
40 Nhƣ vậy, chính sách hạn điền năm Đinh Sửu (1397) chỉ là một
41 chính sách cũ của nhà Trần đƣợc lặp lại nhƣng với chi tiết rõ ràng hơn
42 để thi hành và đồng thời cũng để chấm dứt tình trạng chiếm đoạt của
43 công bừa bãi và vô hạn định để dùng làm của riêng trong hàng tôn thất
44 nhà Trần. Với chính sách mới nầy thì trong dòng họ tôn thất chỉ có

VSTK - 416
1 ngƣời nào đƣợc phong tƣớc đại vƣơng hoặc là công chúa trƣởng mới
2 đƣợc quyền có nhiều ruộng đất; dƣới hai hạng ngƣời nầy, dù là thuộc
3 dòng họ tôn thất thì cũng chỉ đƣợc chiếm hữu có 10 mẫu giống nhƣ các
4 tầng lớp thƣờng dân ngoài xã hội. Ngƣời nào có ruộng quá số quy định
5 10 mẫu thì phải trả lại số ruộng dƣ cho nhà nƣớc hoặc dùng để chuộc
6 tội nếu bị phạm pháp. Có thể nói rằng chính sách hạn điền năm 1397 là
7 một chính sách đƣợc áp dụng một cách khá công bình và toàn diện bởi
8 vì vào thời đó thử hỏi có bao nhiêu đại vƣơng và công chúa trƣởng
9 trong vƣơng tộc họ nhà Trần nếu không nói là đếm trên đầu ngón tay.
10 Còn ngƣời dân thƣờng ngoài xã hội thì lúc đó rất ít ngƣời có ruộng
11 tƣ trên số 10 mẫu, đa số là dân nghèo trắng tay, làm thuê hoặc làm nô lệ
12 cho bọn tôn thất để kiếm sống, không có đƣợc một mảnh đất cắm dùi
13 huống hồ là có đến 10 mẫu ruộng. Ngay cả Lê Quý Ly và gia đình thân
14 tộc lúc đó cũng không có ai là đại vƣơng hoặc là công chúa trƣởng để
15 đƣợc hƣởng quyền chiếm hữu ruộng đất một cách vô giới hạn nhƣ
16 chính sách hạn điền mới quy định. Vã lại, lúc đó Lê Quý Ly đã nắm
17 trọn quyền hành, muốn làm gì lại không đƣợc, cần gì phải vẽ vời bày
18 trò lập phép nầy lệ nọ để thu tóm ruộng đất tài vật về cho mình hoặc để
19 giúp cho dòng họ đƣợc phú quý giàu sang. Chính sách nầy có mục tiêu
20 chính yếu là thu ngắn lại hố cách biệt giàu nghèo trong xã hội lúc đó
21 đồng thời hạn chế lòng tham vô bờ của đám quý tộc từ các triều đại cũ
22 ngày trƣớc.
23 Sau khi ban hành chính sách hạn điền (1397), năm Mậu Dần (1398),
24 Lê Quý Ly tiến hành việc kiểm kê đo đạc ruộng cho dân, những ruộng
25 bỏ hoang hoặc có chủ nhƣng không đƣợc khai khẩn trồng trọt đều phải
26 xung vào của công, ngƣời nào có ruộng phải khai báo số mẫu ruộng,
27 trên mặt ruộng phải cắm bản đề tên của ngƣời chủ ruộng; các quan ở lộ,
28 phủ, châu, huyện đều phải lập ra một hội đồng theo dõi, kiểm xét công
29 tác đo đạc và ghi chép vào sổ sách. Đây là một công tác cải cách điền
30 địa quy mô kéo dài 5 năm mới xong (1398-1402). Cuộc cải cách điền
31 địa nầy đã đụng chạm đến quyền lợi bất chính của đám quan lại hủ lậu,
32 chậm tiến của triều đình nhà Trần khiến cho tên hành khiển Hà Đức
33 Lân phải sốt ruột lên tiếng chỉ trích: "Đặt ra phép nầy chỉ để đoạt cướp
34 ruộng đất của dân chúng đấy thôi"
35 (ĐVSKTT/BK/Q.III/32b; KĐVSTGCM/CB/Q.XI/6; ĐVSKTB/Nguyễn Tây
36 Sơn/BK/Q.IX/24b).
*
37 Cuối năm Canh Thìn (1400), vua Hồ Quý Ly truyền ngôi vua cho
38 con trai thứ là Hồ Hán Thƣơng. Mẹ của Hán Thƣơng, Huy Ninh công
39 chúa, nguyên là con gái của Trần Minh Tông. Nhƣ vậy trên thực tế, Hồ
40 Hán Thƣơng là cháu ngoại của Trần Minh Tông lên làm vua kế tục
41 triều đại nhà Trần còn chính đáng hơn là những kẻ khác dòng máu cƣớp
42 ngôi vua của nhiều ngƣời từ các triều đại trƣớc kia chẳng hạn nhƣ Lê
43 Đại Hành, Lý Công Uẩn, Trần Cảnh.

VSTK - 417
1 Năm Tân Tỵ (1401), vua Hồ Hán Thƣơng lập phép hạn chế việc bắt
2 dân làm nô lệ riêng tƣ cho đám quý tộc, quan lại và những kẻ giàu có từ
3 chế độ cũ. Chính sách hạn nô quy định hạng ngƣời nào đƣợc phép dùng
4 nô lệ, tùy theo chức bậc mà dùng nhiều ít khác nhau. Số nô lệ dƣ thừa
5 theo quy định phải giao trả cho nhà nƣớc quản trị và cắt đặt phối trí vào
6 những công tác có lợi ích chung cho cả nƣớc chứ không phải nhƣ ý
7 kiến sai lầm cho rằng ngƣời dân nô lệ bị chuyển chủ, từ đám quý tộc tƣ
8 nhân sang làm nô lệ cho nhà nƣớc, trƣớc sau vẫn hoàn toàn không đƣợc
9 giải phóng.
10 - Chính sách tiền giấy bắt đầu thi hành dƣới triều đại nhà Trần từ
11 năm 1396: theo sự cố vấn của thiếu bảo Vƣơng Nhữ Chu, thái sƣ Lê
12 Quý Ly cho phát hành bảy loại tiền giấy gọi là "thông bảo hội sao" và
13 ấn định hối xuất đổi tiền đồng ra tiền giấy. Trong lịch sử nƣớc Việt
14 Nam, đây là lần đầu tiên tiền giấy xuất hiện và là kế hoạch lần đầu áp
15 dụng để phục hồi một nền tài chánh yếu kém èo uột của nhà nƣớc do
16 chế độ phong kiến thối nát nhà Trần tạo ra. Chính sách nầy còn có một
17 mục đích khác nữa là thu hồi đồng về để dùng trong việc chế tạo vũ
18 khí.
19 Sử sách cũ khi viết về nhà Hồ không có chỗ nào cho thấy là dòng họ
20 nhà Hồ chiếm công vi tƣ, ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ, tiêu phí của
21 công vào những công trình vô bổ nhƣ các triều đại trƣớc đã làm. Xây
22 dựng Tây Đô, đắp thành An Bang, đắp lũy Liên Cảng, động viên dân đi
23 lính và giảm tiêu xài phung phí, giản dân tới các vùng đất mới để tăng
24 cƣờng tiềm lực kinh tế, tất cả những chính sách đó đều đƣợc làm vì một
25 mục tiêu khẩn thiết: đất nƣớc trong tình trạng chuẩn bị chiến tranh, toàn
26 quân, toàn dân đều phải chịu khó, hy sinh lợi ích cá nhân để cùng lo
27 việc chống ngoại xăm phong kiến phƣơng Bắc đang đe doạ nền độc lập
28 của nƣớc Đại Ngu.
29 Nhà Hồ đã đi đúng chiều hƣớng đó; so sánh với nhà Trần thì
30 nhà Hồ vƣợt trội hơn nhiều nhƣng lại thất bại! Tại sao? Cái gì đã
31 xảy ra? Nhà Hồ đã khiếm khuyết thành tố nào trong công cuộc
32 chống giặc ngoại xâm và giữ nƣớc?
33 Nhà Trần thành công vì nhà Trần biết để yên cho dân ngủ. Nhà Hồ
34 bắt dân phải tỉnh ngủ và đƣa dân vào khuôn khổ cho nên không đƣợc
35 lòng dân. Con trai cả của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đã thấy đƣợc
36 điều đó khi tuyên bố rằng: "Đánh với quân giặc không ngại, chỉ sợ lòng
37 dân có theo hay không mà thôi."

* Nhà Hồ không đƣợc lòng dân ở những điểm nào?

38 Có ngƣời cho rằng nhà Hồ không chiếm đƣợc lòng dân vì đã dùng bạo
39 lực đoạt chính quyền và tiến hành chính sách đổi mới một cách quá
40 khắt khe: trong cuộc tàn sát dòng họ nhà Trần và những kẻ đối lập, Hồ
41 Quý Ly đã sát hại, thủ tiêu gần 400 mạng ngƣời, gián tiếp và trực tiếp

VSTK - 418
1 giết nhiều vua của triều cũ và vẫn tiếp tục thanh lọc, loại trừ những
2 mầm móng chống đối trong những năm kế tiếp khiến cho mọi ngƣời
3 vào thời đó cho nhà Hồ là gian xảo, sát nhân. Dân chúng bị các nhà nho
4 hũ lậu, ngủ gục phổ cập và nhồi sọ mớ kinh tụng bá láp "trung quân, ái
5 quốc" khiến cho nhà Hồ bị ngƣời đời coi nhƣ là những kẻ phản tặc giết
6 vua, đáng chết, mặc dù các ông vua bị nhà Hồ hạ bệ là những ông vua
7 tồi tệ đáng quăng vào chuồng cho hổ dữ ăn thịt. Thử hỏi, nếu họ Hồ
8 không ra tay sớm và cứ để mặc tình cho chế độ thối nát của nhà Trần
9 tiếp tục cai trị thì nƣớc nhà lúc đó sẽ ra sao? Nhà Hồ không khởi xƣớng
10 thì liệu đám triều thần hèn kém, lơ láo vào cuối đời nhà Trần có ai dám
11 đứng ra gánh vác hay không? Tất cả đều trốn tránh trách nhiệm và lẩn
12 trốn hết đến độ Hồ Hán Thƣơng phải xuống chiếu mời gọi họ trở lại để
13 chờ lệnh bổ dụng.
14 Ngoại trừ Ngô Quyền và Đinh bộ Lĩnh, các triều Lê, Lý, Trần đều là
15 những triều đại tiếm nghịch cả và chƣa chắc hẳn là những triều đại đó
16 đƣợc lòng dân: vào thời phong kiến, ngƣời dân ở dƣới bất cứ triều vua
17 nào cũng là những kẻ khốn cùng bất hạnh, những ngƣời nô lệ thấp cổ
18 bé họng và mặc dù thế, nô lệ ngƣời trong nhà còn hơn là làm tôi tớ cho
19 giặc ngoài cho nên ngƣời dân mới câm nín chịu đựng chứ không phải vì
20 đƣợc hay mất lòng dân.
21 Tiêu diệt đối lập, áp dụng chính sách bắt dân thắt lƣng buộc bụng,
22 làm lụng cật lực để phát triển quốc gia, những chính sách nhƣ thế thì
23 ngay cả trong thời đại văn minh hiện đại vẫn còn hàng khối nƣớc trên
24 thế giới đang áp dụng.
25 Không phải vì dùng bạo lực cƣớp ngôi nhà Trần, mà cũng không
26 phải vì đã áp dụng chính sách cai trị đày đọa đã làm cho nhà Hồ mất
27 lòng dân.
28 Nhà Hồ bị mất lòng dân của nƣớc Đại Việt bởi vì nhà Hồ đã
29 chối bỏ tƣ cách công dân nƣớc Đại Việt của mình và tự tuyên bố
30 mình là ngƣời đến từ một nƣớc cừu địch thƣờng xuyên với nƣớc
31 Đại Việt: đổi họ thay tên, xóa quốc hiệu, biến Đại Việt thành Đại
32 Ngu, chẳng khác gì tự nhận mình nhƣ là một tiểu quốc ở bên
33 Trung Hoa, do một thái thú ngƣời Hoa họ Hồ cai trị, nhƣ thế thì
34 làm sao lôi kéo đƣợc lòng dân Đại Việt. Đấy là một sự kiêu hãnh
35 mù quáng về nguồn gốc và gia thế của mình. Nếu Hồ Quý Ly
36 không thay họ, xóa bỏ quốc hiệu Đại Việt thì tình thế có lẽ đã đổi
37 khác.
38 Trên thực tế, thì những chính sách sau đây thƣờng làm mất lòng dân
39 mặc dù có lý do và mục tiêu chính đáng :
40 - Lật đổ chính quyền hiện hữu bằng bạo lực hoặc do ngƣời nƣớc
41 ngoài cầm đầu khởi xƣớng;
42 - Cải cách thuế khóa, bắt dân phải nộp thuế, đóng góp nhiều hơn;
43 - Bắt dân chúng quen sống nhàn hạ sung túc ở các nơi thị tứ, tức là
44 những thành phần giàu có, đƣa đi vào các vùng xa xôi hẻo lánh để khai

VSTK - 419
1 phá và sản xuất. Về việc nầy sử gia Ngô Thời Sĩ có bàn luận nhƣ sau:
2 "Lúc bấy giờ người Chiêm Thành dâng đất mà không có dân, cho nên
3 Hán Thương mới làm kế di dân cho kín nơi biên giới. Không biết rằng
4 chính sách di dân xưa đã có nhiều và thời đó có lẽ là chỉ chiêu mộ
5 những kẻ vô lại tình nguyện di chuyển, cấp cho trâu bò để cày bừa, khí
6 cụ để làm ruộng và gặt hái lúa thóc, cung cấp giống, lựa nơi đất tốt để
7 cấp phát, khiến cùng nhau ở thành thôn xóm, khai khẩn ruộng hoang
8 chứ chưa từng thấy cưỡng ép dân giàu có khiến họ phải xa quê hương
9 chuyển dịch vợ con bắt phải đến đấy xum họp; huống hồ đất Thăng
10 Hoa là vùng mới được đáng lẽ phải đặt đồn trại canh giữ, sao không
11 dùng mưu kế đưa quân giả dạng thường dân đến trú đóng, phát lương
12 hậu và cấp giấy chứng nhận, cho phép dìu dắt cả vợ con đi theo làm
13 việc thì có ai lại không muốn đi, đâu cần phái thúc ép. Sinh sản sum
14 họp 10 năm, đều trở thành người bản xứ, tuy là dân mà nằm trong số
15 quân, thì có chỗ nào sơ hở phải đáng lo? Tiếc thay vua tôi Hán Thương
16 không đủ kiến thức thấy được như thế mà lại nghỉ rằng cứ dùng mệnh
17 lệnh và bạo lực trong nhất thời để thúc ép, thì về lâu rồi cũng sẽ yên."
18 - Bắt dân thi hành bổn phận đi lính, đánh giặc.
19 - Bắt dân phục dịch để xây dựng những công trình kiến trúc rộng
20 lớn, quy mô.
21 - Tiêu diệt, cầm tù đối lập.
22 - Không dùng mà giam nhốt những ngƣời thuộc chế độ cũ.
23 Dùng chính sách cai trị kiềm kẹp bằng lực lƣợng liêm phóng công an,
24 mật vụ.
25 - Áp dụng chính sách bè phái, gia đình trị.
26 Tất cả những chính sách vừa kể là nội dung của một xu hƣớng tất
27 nhiên và thƣờng có của những ngƣời làm chính trị đang nắm giữ vận
28 mạng quốc gia trong tình trạng khẩn cấp.
29 Hồ Quý Ly là một ngƣời có tài thao lƣợc. Việc nhà Hồ thay thế nhà
30 Trần thối nát là một việc làm hợp thời thế. Chính sách cai trị của nhà
31 Hồ là một chính sách đúng và cần thiết vào tình hình khẩn trƣơng lúc
32 đó.
33 Tuy nhiên việc thay họ, đổi quốc hiệu là một tính toán sai lầm
34 nghiêm trọng làm mất tất cả hậu thuẫn của nhân dân nƣớc Đại Việt.
35 Trong trận chiến, nhà Hồ không biết khích động quan quân nhƣ
36 ngày trƣớc Trần Quốc Tuấn đã làm. Tƣớng giỏi của nhà Hồ đếm trên
37 đầu ngón tay, chỉ đƣợc mỗi một Hồ Nguyên Trừng cô đơn xong pha
38 gánh gồng trên khắp các mặt trận chính yếu.
39 Về cách dùng binh, nhà Hồ không có đƣợc sự kiên nhẫn chờ đợi
40 nhƣ quan quân nhà Trần ngày trƣớc nhất là không chịu ép mình rút lui
41 chờ thời cơ. Khi rút lui khỏi Đông đô Thăng Long thì không phá hủy
42 kho tàng, lƣơng thực để cho quân xâm lƣợc tịch thu dùng làm nguồn
43 tiếp tế để tiến sâu xuống phía Nam: về chiến lƣợc lâu dài thì nhà Hồ rất
44 sáng tạo, hơn hẳn nhà Trần nhƣng về chiến thuật đánh trận thì nhà Hồ

VSTK - 420
1 thua xa quan quân của nhà Trần. Nếu nhà Hồ có đƣợc vài ngƣời nhƣ
2 Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải thì tình thế có lẽ đã đổi khác. Nhà
3 Trần đại thắng quân Nguyên Mông ở mặt trận Hàm Tử. Nhƣng cũng tại
4 mặt trận Hàm Tử, hơn 200 ngàn quân của nhà Hồ đã bị đại bại tan tát
5 dƣới sức tấn công của quân xâm lƣợc hung bạo nhà Minh.
6 Cuối cùng, nếu khách quan và công bình thì hậu thế phải dành
7 cho nhà Hồ một vị trí xứng đáng trong lịch sử nhất là về việc gia
8 đình nhà Hồ đã chiến đấu đến cùng để rồi bị quân xâm lƣợc nhà
9 Minh bắt giữ chứ không hèn yếu đầu hàng, chạy trốn hay tự thiêu
10 khi đất nƣớc đang ở trong tình thế nguy cấp tuyệt vọng.

VSTK - 421
QUYỂN II

THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG


QUÂN XÂM LƢỢC NHÀ MINH

NHÀ HẬU TRẦN

CHƢƠNG I

GIẢN ĐỊNH ĐẾ TRẦN NGỖI


( 1407 - 1409 )
Niên hiệu: Hưng Khánh

1 Đinh Hợi, Khai Đại năm thứ 5 (1407), tháng 5 và tháng 6,


2 tƣớng chỉ huy của quân Minh là Mộc Thạnh sau khi bắt giải
3 gia tộc nhà Hồ đƣa qua Kim Lăng liền sai Trƣơng Phụ tiến
4 chiếm Nghệ An, cƣớp bóc vơ vét rồi rút quân.
5 Phạm Thế Căng một quan lại cũ của nhà Trần đầu hàng
6 quân Minh nay đƣợc Trƣơng Phụ giao cho chức tri phủ Tân
7 Bình.
8 Đại Tri Châu Đặng Tất vì thế cô phải chịu ép mình tạm
9 thời đầu hàng và đƣợc cho cai quản Hóa Châu.
10 Con của Trần Nguyên Đán là Trần Thúc Dao đƣợc quân
11 nhà Minh giao cho giữ đất Diễn Châu.
12 Cựu trào nhà Trần là Trần Nhật Chiêu cũng đầu hàng,
13 đƣợc cho trấn giữ Nghệ An.
14 Tháng 7, quân Minh truy lùng những ngƣời có tài năng của
15 Đại Việt không chịu hợp tác và đang lẩn trốn, bắt đƣa qua
16 Kim Lăng ở Trung Hoa, về dụ ngọt, tuyên truyền nhồi sọ,
17 trao phong quan chức rồi đƣa trở về Đại Việt để làm tay sai
18 ở các phủ, châu, huyện. Thừa dịp nầy, bọn ngƣời hám danh,
19 vọng ngoại đã ra đầu thú rất đông để đƣợc làm quan và hợp
20 tác với quân xâm lƣợc
21 Tháng 8, Trƣơng Phụ và Mộc Thạnh rút quân Minh về
22 nƣớc chỉ để lại Lữ Nghị và Hoàng Phúc trấn giữ Đại Việt.
23 Đinh Hợi, Khai Đại năm thứ 5 (1407), tháng 10, đƣợc
24 Trần Triệu Cơ chiêu mộ dân chúng ở Thiên Trƣờng đi theo,

VSTK - 422
1 con trai thứ của Trần Nghệ Tông là Giản Định vƣơng Ngỗi
2 tự lập làm vua ở bến Yên Mô, xƣng là Giản Định đế, đặt
3 niên hiệu là Hƣng Khánh.
4 Đinh Hợi, Hưng Khánh năm thứ 1 (1407), giặc Minh đem
5 quân tới đánh; dân quân mới chiêu tập chƣa đƣợc huấn
6 luyện của Giản Định đế đánh không lại, tự tan rã. Giản Định
7 chạy về Nghệ An.
8 Đặng Tất ở Hoá Châu nghe tin liền nổi dậy, giết quan sứ
9 của nhà Minh trấn nhậm ở đó rồi đem quân đi theo Giản
10 Định, đánh chiếm Nghệ An và Hoá Châu, bắt đƣợc Trần
11 Thúc Dao và Trần Nhật Chiêu cùng đám thuộc hạ hơn 500
12 ngƣời giết đi. Đặng Tất dâng con gái cho Giản Định và đƣợc
13 Giản Định phong làm quốc công.
14 Tháng 12, Giản Định sai các tƣớng Trần Nguyên Tôn,
15 Trần Dƣơng Đình, Trần Ngạn Chiêu và Phạm Chấn đƣa
16 quân tiến về Bình Than nhƣng bị quân Minh đón đánh nên
17 phải rút lui về Nghệ An.
18 Mậu Tý, Hƣng Khánh năm thứ 2 (1408), tƣớng nhà Minh
19 là Trƣơng Phụ lại đƣợc phái trở sang Đại Việt để phụ trách
20 việc bình định đánh dẹp quân nhà Trần.
21 Tháng 4, Trƣơng Phụ đánh vào Diễn Châu, quân nhà
22 Trần chống cự không nổi phải rút chạy về Nghệ An. Quân
23 Minh trí trá dùng chính sách khoan hồng để thu phục lòng
24 dân chúng Đại Việt.
25 Tháng 6, Đặng Tất nhà Trần đánh Phạm Thế Căng1 ở cửa
26 biển Nhật Lệ, bắt đƣợc Thế Căng đƣa về giao nạp cho Giản
27 Định xử chém.
28 Tháng 10, Giản Định sai Đặng Tất điều động quân ở các
29 lộ Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu và Thanh
30 Hóa tiến đánh thành Đông Đô. Các quan thuộc cũ của nhà
31 Trần và nhân dân Đại Việt các nơi hƣởng ứng đi theo rất
32 đông, thế quân trở thành mạnh.
33 Vua nhà Minh phải sai tƣớng Mộc Thạnh đem 40 ngàn
34 quân từ Vân Nam trở sang tăng viện, hợp với quân của Lữ
35 Nghị ở bến Bô Cô2 để chận đánh quân nhà Trần.

VSTK - 423
1 Quân nhà Trần lại dùng chiến thuật đóng cọc ở lòng sông,
2 dụ địch rồi tung quân phục kích từ các bờ lũy ven sông ùa ra
3 đánh.
4 Quân Minh thua rút chạy, tƣớng Lữ Nghị và Lƣu Tuấn bị
5 chết tại trận. Mộc Thạnh thoát chạy về thành Cổ Lộng.
6 Giản Định nhân khí thế của quân binh đang lên muốn tiến
7 nhanh, đánh mạnh để chiếm thành Đông Quan3 nhƣng Đặng
8 Tất trù trừ muốn dồn toàn lực để tiêu diệt hết tàn quân của
9 Mộc Thạnh ở Cổ Lộng4. Quan quân nhà Trần còn chƣa
10 quyết định dứt khoát thì quân Minh trấn đóng ở Đông Quan
11 đã đến cứu viện, đón Mộc Thạnh vào thành. Quân Nhà Trần
12 mất dịp tốt đoạt thành Đông Quan, bây giờ chỉ còn có thể
13 chia quân vây hãm các châu, phủ, lộ quanh Đông Quan. Kể
14 từ lúc đó rồi từ đó bắt đầu có hiềm khích mâu thuẫn giữa
15 Giản Định đế và Đặng Tất.
16 Kỷ Sửu, Hưng Khánh năm thứ 3 (1409), tháng 2, Giản
17 Định nghe lời gièm pha của tên hoạn quan Nguyễn Quỹ giết
18 Đặng Tất và tham mƣu quân sự Nguyễn Cảnh Chân.
19 Con của Đặng Tất là Đặng Dung cùng với con của
20 Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị tức giận bèn đem
21 quân Thuận Hóa về Thanh Hóa, rƣớc con của Trang Định
22 vƣơng Ngạc là Trần Quý Khoách đƣa vào Nghệ An lập làm
23 vua.

CHƢƠNG II

TRÙNG QUANG ĐẾ TRẦN QUÝ KHOÁCH


( 1409 - 1413 )
Niên hiệu: Trùng Quang

24 Quý Khoách lên ngôi ở Chi La6, đổi niên hiệu là Trùng
25 Quang , dùng Nguyễn Súy làm Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị
26 làm Thái Bảo và Đặng Dung làm Đồng bình chƣơng sự.

VSTK - 424
1 Trong khi Giản Định ở Ngự Thiên7 dang chống cự với
2 quân Minh, Nguyễn Súy đem quân đánh úp và bắt đƣợc
3 Giản Định đem về Tam Chế7bis ở Nghệ An. Trần Quý
4 Khoách đón rƣớc theo vai bậc chú cháu và tôn Giản Định
5 làm thái thƣợng hoàng để cùng nhau hợp lực đánh đuổi quân
6 xâm lƣợc nhà Minh, khôi phục nhà Trần.
7 Kỷ Sửu Trùng Quang năm thứ 1 (1409), tháng 7, quân
8 nhà Hậu Trần tiến chiếm các châu huyện, hào kiệt các lộ
9 hƣởng ứng đi theo; thƣợng hoàng Giản Định cầm quân
10 chiếm đóng Hạ Hồng8; Quý Khoách chỉ huy quân binh tiến
11 chiếm Bình Than; quân Minh cố thủ Đông Quan chờ viện
12 binh.
13 Vua nhà Minh hay tin tƣớng Mộc Thạnh đại bại ở Bô Cô
14 liền sai tƣớng Trƣơng Phụ và phó tƣớng Vƣơng Hữu đem
15 quân sang tiếp cứu. Thế lực trở nên mạnh, quân Minh liền
16 tiến đánh mặt Hạ Hồng. Giản Định không thể chống cự phải
17 theo đƣờng thủy chạy về trấn Thiên Quan9; Trƣơng Phụ truy
18 đuổi đến Mỹ Lƣơng10 bắt đƣợc Giản Định giải về Kim Lăng.
19 Tháng 8, Quý Khoách giao cho Đặng Dung đƣa quân ra
20 trấn giữ bến Hàm Tử nhƣng vì thiếu lƣơng thực cho nên
21 không thể cầm cự lâu ; Hàm Tử bị quân Minh chiếm; quan
22 quân nhà Hậu Trần bỏ Bình Than, rút chạy về Nghệ An cố
23 thủ và chấn chỉnh lực lƣợng. Các kinh, lộ, phủ, huyện từ
24 Thanh Hóa trở ra phía Bắc khắp nơi lần lƣợc bị quân Minh
25 tiến chiếm, đốt phá, cƣớp bóc, tàn sát, chém giết dã man, tàn
26 bạo vô số dân lành; những ngƣời dân còn sống sót thị bị bắt
27 làm nô lệ và đem đi bán tan tác khắp nơi11. Bọn ngƣời hèn
28 nhát hám danh ra đón quân Minh để đầu hàng: đa số đều
29 đƣợc quân Minh trao cho quan chức.
30 Canh Dần, Trùng Quang năm thứ 2 (1410), quân Minh
31 khai thác các đồn điền ở những vùng ven Đông Quan, bắt
32 dân gặt hái rồi tịch thu hết lúa thóc ở các phủ Tuyên Hóa,
33 Thái Nguyên và Tam Giang để làm kho lƣơng thực dự
34 phòng cho binh đội xăm lƣợc của họ.
35 Quân Hậu Trần chƣa đƣợc củng cố hàng ngũ và tổ chức
36 đúng mức thì lại nhận đƣợc lệnh tiến đánh Hồng Châu, bị
37 thất bại, phải rút chạy về Nghệ An.

VSTK - 425
1 Quý Khoách sai sứ sang cầu hòa nhƣng quân Minh bắt
2 giam sứ giả và giết đi.
3 Tân Mão, Trùng Quang năm thứ 3 (1411), Trƣơng Phụ
4 đƣợc lệnh vua nhà Minh áp dụng chiến dịch vỗ về, ve vuốt
5 để lấy lòng dân ở các vùng quân Minh đang chiếm đóng.
6 Tháng 9, Quý Khoách lại sai sứ sang nhà Minh cầu hoà
7 và xin phong tƣớc. Nhà Minh nhân cơ hội dọ hỏi các sứ
8 giả tình hình nội bộ của quan quân nhà Hậu Trần rồi giả trá
9 phong tƣớc cho Quý Khoách chức Giao Chỉ Bố Chính Sứ.
10 Quý Khoách biết đƣợc manh tâm của ngƣời Minh nên
11 chuẩn bị quân lực để tiếp tục chiến đấu.
12 Nhâm Thìn, Trùng Quang năm thứ 4 (1412), tháng 6,
13 Trƣơng Phụ và Mộc Thạnh dẫn quân tiến đánh Nghệ An.
14 Đặng Dung, Nguyễn Súy đem quân ra bến Yên Mô11bis chận
15 đánh nhƣng không chận đƣợc sức tấn công của quân Minh;
16 quân của Hậu Trần bị thua bỏ chạy tứ tán khắp nơi.
17 Tháng 7, quân sĩ và lƣơng thực lại đƣợc chuyển từ Quảng
18 Đông sang tăng viện cho quân Minh để tiến công đánh Nghệ
19 An: Thanh Hóa, Diễn Châu đều bị quân Minh vây hãm.
20 Quý Tỵ, Trùng Quang năm thứ 5 (1413), tháng 4, Trƣơng
21 Phụ đƣa quân tiến đánh Nghệ An, quân của Quý Khoách đã
22 bị hao tổn quá nhiều lại không có lƣơng thực tiếp tế, phải bỏ
23 Nghệ An rút chạy đến Hóa Châu và sai Nguyễn Biểu12 vào
24 Nghệ An điều đình cầu hoà. Trƣơng Phụ bắt giữ Nguyễn
25 Biểu và giết đi.
26 Tháng 9, quân Minh bị Nguyễn Súy chận đánh ở cảng Sái
27 Già13, Đặng Dung đánh úp doanh trại, suýt bắt sống đƣợc
28 Trƣơng Phụ nhƣng vì binh ít thế yếu cho nên bị quân Minh
29 phản công, quân của Đặng Dung tan vỡ, rút chạy. Quan
30 quân nhà Hậu Trần phải lẩn trốn ẩn núp trong rừng, tàn
31 quân tan rã.
32 Tháng 12, quân Minh truy đuổi và bắt đƣợc Quý Khoách,
33 Đặng Dung, Nguyễn Súy và Nguyễn Cảnh Dị.
34 Cảnh Dị lúc vừa bị bắt đã mắng chửi Trƣơng Phụ thậm tệ
35 cho nên bị phanh thây.
36 Dân tộc Đại Việt lại rơi vào ách cai trị của đoàn quân
37 xăm lƣợc đến từ phƣơng Bắc.

VSTK - 426
CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:
1
1
Phạm Thế Căng: trƣớc đây, quân của Trƣơng Phụ kéo đến cửa biển
2 Bố Chính, Phạm Thế Căng đón đƣờng xin đầu hàng, đƣợc trao giữ chức
3 tri phủ ở Tân Bình; sau đó thừa lúc tình trạng hỗn độn xôi đậu, tụ họp
4 bè đảng chiếm cứ luôn đất Tân Bình rồi tự xƣng là Duệ Vũ đại vƣơng.
5 Đặng Tất đem quân đến đánh, bắt đƣợc Thế Căng ở cửa biển Nhật Lệ
6 giải giao cho Giản Định đế trị tội.
7
2
Bô Cô: tên một bến đò ở địa phận huyện Phong Doanh, tỉnh Nam
8 Định ngày trƣớc, nay là xã Hiếu Cổ, tỉnh Nam Hà.
9
3
Thành Đông Quan: tức Đông đô (Thăng Long); quân Minh đem
10 Đông đô làm phủ lỵ Giao Châu, gọi Đông đô là thành Đông Quan.
11
4
Cổ Lộng: thành do quân nhà Minh xây đắp, ở xã Bình Cách, Huyện
12 Ý Yên, tỉnh Nam Định cũ, nền cũ vẫn còn, tục gọi là thành Cách.
13
5
Trần Quý Khoách: ĐVSKTT và KĐVSTGCM đều viết là Trần Quý
14 Khoáng, con thứ của Mẫn vƣơng Trần Ngạc, cháu nội của Trần Nghệ
15 Tông, cháu gọi Giản Định đế Trần Ngỗi bằng chú.
16
6
Chi La: tên huyện, sau là La Sơn nay thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà
17 Tĩnh.
18
7
Ngự Thiên: tức huyện Ngự Thiên trƣớc là làng Đa Cƣơng; vì có mộ
19 tổ của dòng họ nhà Trần ở đó cho nên mới đổi gọi là Ngự Thiên; nhà
20 Lê vẫn giữ tên ấy, đời nhà Nguyễn Gia Long đổi là Hƣng Nhân thuộc
21 tỉnh Hƣng Yên; ngày nay thuộc huyện Hƣng Hà tỉnh Thái Bình.
22 7bis Sông Tam Chế: đoạn sông Lam ở gần chân núi Hồng Lĩnh, tỉnh Hà

23 Tỉnh.
24
8
Hạ Hồng: xƣa thuộc Hồng Châu. Hồng Châu đời Lê là 2 phủ Thƣợng
25 Hồng và Hạ Hồng, nay là hai phủ Bình Giang, Ninh Giang, đều thuộc
26 tỉnh Hải Dƣơng.
27
9
Trấn Thiên Quan: tức là phủ Trƣờng Yên, Hồ Quý Ly đổi thành trấn
28 Thiên Quan.(KĐVSTGCM/CB/Q.XI/ 27).
29
10
Mỹ Lƣơng: tên huyện, thuộc Sơn Tây giáp giới với Nho Quan, nay là
30 một phần huyện Chƣơng Mỹ (Hà Tây) và huyện Lƣơng Sơn (Hòa
31 Bình)
32
11
Quân Minh tàn sát dã man: quân Minh đi tới đâu giết hại rất nhiều,
33 có nơi thây chất thành núi, có chỗ moi ruột quấn vào cây hoặc rán thịt
34 ngƣời lấy mỡ, dùng cột đồng bôi mỡ cho trơn, dƣới cột đồng đốt lữa
35 cháy hừng hực rồi bắt ngƣời phải ôm cột đồng trơn trợt mà trèo lên phía
36 ngọn cột, nếu bị rơi vào đống lửa ở phía dƣới chết thiêu thì quân Minh
37 khoái chí reo hò. (Trò chơi rừng rú nầy gọi là nhục hình bào lạc do vua
38 Trụ từ đời nhà Thƣơng bên Trung Hoa sáng chế ra để làm trò vui cho
39 ngƣời vợ của Trụ tên là Đắc Kỹ). Quân Minh còn bắt đàn bà đang có
40 thai mổ bụng lấy thai để cắt lấy tai của mẹ, tai của con mang về lãnh
41 thƣởng bởi vì số tai mang về càng nhiều thì càng chứng tỏ là giết đƣợc
42 nhiều quân địch. (ĐVSKTT/BK/Q.IX/14b), (KĐVSTGCM/CB/ Q.XII/ 31).
43 11bis Yên Mô: nay ở xã Yên Mô, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

VSTK - 427
1
12
Nguyễn Biểu: ngƣời ở Bình Hồ, La Sơn, Nghệ An. Bị tƣớng nhà
2 Minh Trƣơng Phụ bắt giữ lại, Nguyễn Biểu giận mắng rằng:" Trong
3 bụng bọn bây thì âm mưu đánh chiếm nước người, ngoài mặt bọn bây
4 thì lại giả bộ rêu rao nhân nghĩa, trước thì nói lập lại ngôi vua cho nhà
5 Trần nay lại tráo trở đặt quận huyện, cướp bóc của cải, giết hại tàn sát
6 thường dân vô tội, chúng bây đúng là loài giặc dữ bạo ngược". Trƣơng
7 Phụ nổi giận, sai giết Nguyễn Biểu đi.
8
13
Sái Già: hay sông Thái Già; không truy cứu đƣợc là ở đâu.
9 KĐVSTGCM dẫn theo sách Minh sử và Minh sử ký sự của ngƣời Hoa
10 Cốc Ƣng Thái chép về việc nầy đều nói đánh nhau ở sông Ái Tử, nhƣ
11 thế Thái Già có thể là chỗ nầy. Theo Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu của
12 Đặng Xuân Bảng chú giải thì Ái Tử nay là huyện Đăng Xƣơng, Quảng
13 Trị.

KHẢO LUẬN:
14 Hậu Trần Giản Định đế Ngỗi và Hậu Trần Trùng Quang đế Quý
15 Khoách là con cháu dòng họ nhà Trần. Vì thế, mục tiêu của các cuộc
16 nổi dậy của họ trƣớc hết là khôi phục ngôi vua của nhà Trần đồng thời
17 phải chống chọi sự xâm lăng của quân binh nhà Minh. Cuộc nổi dậy đã
18 tập hợp đƣợc đám tôn thất và quan lại cũ của nhà Trần cũng nhƣ ngƣời
19 dân trong một số vùng trƣớc đây đã bỏ lơ không ủng hộ nhà Hồ trong
20 giai đoạn ngƣời Minh mới khởi sự xâm lăng nƣớc Đại Ngu. Ở đây
21 ngƣời ta mới nhận thấy đƣợc ảnh hƣởng của quan niệm trung
22 quân ái quốc hủ lậu đã thâm nhiễm vào đầu óc của ngƣời dân lúc
23 đó đã đƣa tới một hậu quả tai hại nhƣ thế nào: dƣới con mắt của
24 ngƣời dân Đại Việt, nhà Hồ là kẻ phản quốc vì họ Hồ cƣớp ngôi
25 nhà Trần và nhà Trần dù mất ngôi vua nhƣng dân chúng vẫn tiếp
26 tục ủng hộ và coi nhà Trần nhƣ là ngƣời chủ chính danh và hợp
27 pháp của nƣớc Đại Việt. Nếu ngày đó, nhà Hồ có đƣợc sự ủng hộ
28 của đám quý tộc cũng nhƣ dân chúng chịu mở mắt thấy đƣợc sự
29 thối nát và bất lực của chế độ cũ thì tình thế có lẽ đã khác đi.
30 Những cuộc nổi dậy nầy có lúc đã giải phóng đƣợc khu vực từ
31 Thanh Hóa trở vào Nam và từ đó mở nhiều cuộc đánh phá ra Bắc, gây
32 nhiều tổn thất cho quân Minh. Đặc biệt, ngày 14 tháng 12 năm Mậu Tý
33 (1408), quân dân của Giản Định đế Ngỗi do quốc công Đặng Tất chỉ
34 huy đã chiến thắng một trận lớn ở bến Bô Cô (nay thuộc tỉnh Nam Hà),
35 chém đƣợc một số tƣớng giỏi của quân Minh, chỉ có tƣớng xăm lƣợc
36 Mộc Thạch thoát chết chạy về thành Cổ Lộng. Nhƣng rồi mâu thuẫn,
37 bất hoà, nghi kỵ trong hàng ngũ lãnh đạo của vua quan nhà Hậu Trần,
38 đƣa đến tình trạng tiêu diệt lẫn nhau, tạo ra sự chia rẽ, không còn uy tín
39 để đoàn kết toàn dân cho nên cuối cùng đi tới thảm bại và bị tiêu diệt.

VSTK - 428
CHƢƠNG III

NHỮNG PHONG TRÀO NỔI DẬY CHỐNG


QUÂN XÂM LƢỢC MINH TRONG KHOẢNG NHỮNG NĂM
( 1414 - 1420 )

1 Giáp Ngọ, tháng Giêng (1414), quân Minh làm sổ hộ tịch


2 ở Tân Bình và Thuận Hóa, chia đặt quan cai trị cùng làm
3 việc với các thổ hào địa phƣơng.
4 Tháng 4, tƣớng Trƣơng Phụ bắt đƣợc Trùng Quang đế
5 Quý Khoách cùng với Nguyễn Súy,Đặng Dung từ Lão Qua
6 mang về Đông Quan để giải giao qua Yên Kinh.
7 Trùng Quang đế giữa đƣờng nhảy xuống nƣớc chết; Đặng
8 Dung nhảy xuống nƣớc chết theo.
9 Nguyễn Súy sau khi lừa đập chết tên cai tù xong cũng
10 nhảy xuống nƣớc tự tận.
11 Tháng 8, Trƣơng Phụ trở về Trung Hoa, bắt mang theo rất
12 nhiều đàn bà và phụ nữ.
13 Quân Minh bắt các phủ, châu, huyện lập Văn Miếu1 và
14 đàn thờ Bách thần2 nhƣ đàn xã tắc, sông núi, gió mây và phải
15 cúng tế thời tiết theo kiểu mẫu của ngƣời Trung Hoa.
16 Tháng 10, quân Minh đặt nhà học ở các phủ, châu, huyện
17 để tuyên truyền, phổ biến văn hóa ngƣời Trung Hoa nhằm
18 xóa đi nền văn hóa cổ truyền của dân Đại Việt. Lại cấm con
19 trai, con gái Đại Việt không đƣợc cắt tóc. Phụ nữ phải mặc
20 áo ngắn, quần dài, hoàn toàn theo thói ăn mặc của Trung
21 Hoa.
22 Bắt dân khai khẩn ruộng và lấy thuế gấp ba lần3 ngày
23 trƣớc, mỗi mẫu đất bãi thu 2 lạng tơ, mỗi cân tơ thu vào thì
24 dệt đƣợc một tấm lụa. Bắt dân phu mở công trƣờng đào xới
25 đãi đất tìm mỏ vàng, mỏ bạc, vào rừng bắt voi trắng,
26 xuống biển lặn mò ngọc trai, thuế má rất nặng, dân Đại Việt
27 không còn gì để sống.
28 Lại đặt quy chế về việc lấy nƣớc biển làm ruộng muối, ấn
29 định việc tồn trữ, xử dụng muối, cấm dân không đƣợc tự tiện
30 sản xuất và bán muối; ngƣời nào nấu lậu hoặc bán lậu muối
31

VSTK - 429
1 đều phải tội nhƣ nhau. Các trạm thu thuế đặt khắp nơi để thu
2 góp, bóc lột, vơ vét.
3 Tháng 10, vua nhà Minh lại cử Trƣơng Phụ sang trấn giữ.
4 Trƣơng Phụ liền đặt các trạm kiểm soát giao thông thủy bộ:
5 đƣờng thủy nối liền Khâm Châu ở Quảng Đông qua châu
6 Vạn Ninh, Đông Triều, Chí Linh để đi đến thành Đông
7 Quan; Từ Sơn4 , Gia Lâm5 đều đặt trạm kiểm soát trên đƣờng
8 bộ vận chuyển bằng lừa, ngựa.
9 Bính Thân, tháng 2 (1416), Trƣơng Phụ quy định: cứ 2
10 hoặc 3 suất đinh thì bắt 1 suất lính tức là một phần ba dân
11 đinh trai tráng của Đại Việt phải đi quân dịch cho đội quân
12 chiếm đóng của nhà Minh.
13 Đinh Dậu, tháng 2 (1417), vua nhà Minh nghe theo lời tấu
14 trình của Mã Kỳ, gọi Trƣơng Phụ về nƣớc vì sợ Trƣơng Phụ
15 làm phản rồi cử Phong Thành hầu Lý Bân sang thay, giao
16 cho Mã Kỳ giữ chức giám quân. Kể từ lúc nầy quan quân
17 nhà Minh mặc tình tham lam, bòn rút, Mã Kỳ càng tệ hại
18 làm nhiều điều trái phép, vơ vét trân châu vàng ngọc, dân
19 Đại Việt bị trị chịu muôn ngàn khổ đau, lòng ngƣời xáo
20 động, quân, dân nổi loạn khắp nơi, quân Minh không còn
21 cách nào để khống chế, dập tắt đƣợc nữa.
22 Mậu Tuất, tháng Giêng (1418), Lê Lợi, ngƣời Thanh Hóa
23 dấy quân ở hƣơng Lam Sơn, xƣng là Bình Định Vƣơng.
24 Tƣớng Mã Kỳ đƣa quân Minh đến bức bách, Lê Lợi lui binh
25 đóng ở Lạc Thủy5bis và mai phục. Quân Mã Kỳ tràn tới, quân
26 mai phục do các tƣớng của Lê Lợi là Lê Thạch, Lê Ngân và
27 Lê Lý đổ ra chận đánh, Mã Kỳ thua chạy. Một vài ngày sau,
28 có kẻ nội phản tên Ái dẫn đƣờng cho quân Minh đánh úp từ
29 phía sau, quân của Lê Lợi bị tan vỡ phải bí mật rút về ẩn náu
30 ở núi Chí Linh6.
31 Tháng 7, quân Minh dựng công trƣờng mò ngọc trai ở hải
32 phận Tỉnh Yên6bis và Vân Đồn, ngày ngày bắt hàng ngàn dân
33 địa phƣơng lặn hụp dƣới biển sâu để mò ngọc dâng nạp. Lại
34 hạch sách, vơ vét cho đầy túi tham không đáy; bắt dân thu
35 hoạch giao nộp tiêu hột, hƣơng liệu, săn bắt hƣu trắng, ngựa
36 trắng, voi trắng, vƣợn mặt trắng, chim muôn, thú rừng để
37 chuyển đƣa về Yên Kinh bên Trung Hoa . Dân chúng Đại

VSTK - 430
1 Việt điêu linh, náo động.
2 Kỷ Hợi, tháng 2 (1419), quân Minh ra lệnh phổ biến các
3 loại kinh sách nhƣ Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tính Lý Đại Toàn do
4 ngƣời Hoa viết để bắt dân Đại Việt phải nghiền ngẫm học
5 tập.
6 Tịch thu các sử sách và thƣ tịch của Đại Việt từ thời nhà
7 Trần trở về trƣớc đƣa về Kim Lăng7.
8 Tháng 4, Lê Lợi đánh chiếm đồn Nga Lạc8, bắt giết đƣợc
9 chỉ huy của quân Minh là Nguyễn Sao rồi lại rút về Chí
10 Linh. Quân Minh lại kéo tới vây hãm Chí Linh. Đô tổng
11 quản Lê Lai phải liều mình, giả dạng Lê Lợi xong ra đón
12 chận, đánh lạc hƣớng quân Minh để Lê Lợi thoát hiểm.
13 Chiến đấu kiệt sức, Lê Lai bị bắt và giết chết. Quân Minh rút
14 quân về Tây Đô, Lê Lợi lại trở về Chí Linh.
15 Tháng 7, ngƣời Minh tri phủ Nghệ An là Phan Liêu bị Mã
16 Kỳ bức hiếp đòi hỏi phải gia tăng việc thu nộp trân châu
17 ngọc quý cho nên làm phản; Phan Liêu đem quân vây thành
18 Nghĩa Liệt9 của quân Minh ở Nghệ An. Tƣớng Lý Bân đem
19 quân tới dẹp. Phan Liêu chống cự không lại, bỏ chạy trốn
20 sang Ai Lao.
21 Tháng 11, Trịnh Công Chứng và Lê Hành ở Hạ Hồng,
22 Phạm Thiện ở Tân Minh10, Nguyễn Đặc ở Khoái Châu,
23 Nguyễn Đa Cấu và Trần Nhuế ở Hoàng Giang đồng loạt dấy
24 binh, ngƣợc dòng sông Lô11, đánh phá cầu phao11bis, vây hãm
25 Đông Đô nhƣng bị tƣớng Lý Bân dẹp tan.
26 Phong trào chống Minh nổi lên nhƣ ong, châu huyện rối
27 bời, chỉ còn có Tam Giang, Tuyên Quang, Hƣng Hóa đƣợc
28 tạm yên hơn các nơi khác mà thôi.
29 Canh Tý, tháng 6 (1420), thổ hào ở Đồ Sơn, Phụng Hóa12
30 là Trần Thái Xung, Phạm Ngọc cũng khởi binh nổi dậy
31 nhƣng bị Lý Bân dẹp tan.
32 Lê Ngã tự nhận là cháu 5 đời của Trần Duệ Tông từ Lão
33 Qua về, đƣợc Bế Thuấn, tù trƣởng đạo Đan Ba13 gả con gái
34 cho rồi lập lên ngôi thủ lãnh, chiêu mộ đƣợc hàng vạn ngƣời
35 theo ủng hộ, tự xƣng là Thiên thƣợng hoàng đế, lấy niên
36 hiệu là Vĩnh Thiên, đặt quan chức, đúc tiền, đốt phá thành
37 Xƣơng Giang14, chiếm cứ trại Bình Than; tàn quân của Trịnh

VSTK - 431
1 Công Chứng, Phạm Ngọc đều về theo, thanh thế rất mạnh.
2 Tƣớng nhà Minh Lý Bân đem quân thủy bộ đến đánh, Lê
3 Ngã và Bế Thuấn bị đánh bại phải bỏ trốn.
4 Nguyễn Thuật, ngƣời Kiến Xƣơng khởi binh đánh Hoàng
5 Giang bắt đƣợc ngƣời của quân Minh là Hầu Bảo giết đi.

CHÚ GIẢI:
6
1
Văn Miếu: đây là văn miếu của quân Minh lập ở các phủ, huyện để
7 bắt ngƣời dân Đại Việt phải tôn thờ các loại quỉ thần mơ hồ hiện đang
8 đƣợc thờ lạy, cúng bái ở Trung Hoa.
9
2
Đàn thờ Bách thần: tức là đàn thờ nhiều loại thần của ngƣời Hoa
10 tƣởng tƣợng ra.
11
3
Lấy thuế ruộng gắp 3 lần ngày trƣớc: quân Minh khai thác ruộng
12 để thu góp lƣơng thực, mỗi hộ một mẫu thì tính thành 3 mẫu để đánh
13 thuế; mỗi mẫu thu 5 thăng (thăng là một đơn vị cân đong ngày xƣa,
14 thƣờng là một loại thúng lớn bằng tre nứa). Ép buộc dân chúng phải
15 tăng gia sản xuất lúa gạo bằng cách tính tăng lên số ruộng đã có của
16 mỗi hộ gia đình là 10 mẫu (3 sào thì tính là 1 mẫu, do đó, 10 mẫu thực
17 ra chỉ là 3 mẫu).
18
4
Từ Sơn: là đất của châu Cổ Pháp xƣa; quân Minh gọi là huyện Từ
19 Sơn; triều Lê (Bình Định Vƣơng) nâng lên thành phủ, triều Nguyễn Gia
20 Long cũng gọi là phủ Từ Sơn, thuộc tỉnh Bắc Ninh.
21
5
Gia Lâm: huyện Gia Lâm thuộc phủ Thuận Thành, Kinh Bắc
22 (LTHCLC/Phan Huy Chú).
23 5bis Lạc Thủy: tức Cử Long, tên của một dân tộc Mán. Nhà Đinh, nhà

24 Tiền Lê (Lê Đại Hành) gọi là Mán Cử Long, nhà Lý khống chế và sát
25 hại bộ tộc nầy. Năm Thuận Thiên (1428-1433), nhà Lê đặt là huyện Lạc
26 Thủy; năm Quang Thuận (1460-1469) đổi là Cẩm Thủy; triều Nguyễn
27 (Gia Long) vẫn gọi là Cẩm Thủy, thuộc phủ Quảng Hòa, tỉnh Thanh
28 Hóa.
29
6
Núi Chí Linh: ở địa phận Mƣờng Giao Lão, đất phủ Trấn Định, Nghệ
30 An.
31 6bis Tỉnh Yên: xƣa là châu Vĩnh An; triều Nguyễn (Gia Long) gọi là

32 Quảng Yên, cũng gọi là Quảng Yên. Quảng Yên, Vân Đồn nay đều
33 thuộc tỉnh Quảng Ninh.
34
7
Tịch thu sử sách của Đại Việt mang về Kim Lăng: (Kim Lăng là
35 địa phận thành phố Nam Kinh và huyện Giang Kinh ở Trung Hoa).
36 Theo LTHCLC/Văn tịch chí của Phan Huy Chú thì từ đời nhà Trần trở
37 về trƣớc có những loại thƣ tịch sau đây đã bị ngƣời Minh tịch thu mang
38 về Trung Hoa:
39 Tên sách Số quyển Thời gian xuất bản
40 Hình thư 3 Lý Thái Tông

VSTK - 432
1 Quốc triều thông lễ 10 Trần Thái Tông
2 Hình Luật 1 Trần Thái Tông
3 Kiến trung thường lễ 10 Trần Thái Tông
4 Khóa hư tập 1 Trần Thái Tông
5 Ngự thi 1 Trần Thái Tông
6 Di hậu lục 2 Trần Thánh Tông
7 Cơ cừu lục 1 Trần Thánh Tông
8 Thi tập 1 Trần Thánh Tông
9 Trần triều đại điển 2 Trần Dụ Tông
10 Trùng hưng thực lục 2 Trần Nhân Tông
11 Thi tập 1 Trần Nhân Tông
12 Thi tập 1 Trần Minh Tông
13 Thủy vân tùy bút 2 Trần Anh Tông
14 Bảo hoà điện dư bút 8 Trần Nghệ Tông
15 Thi tập 1 Trần Nghệ Tông
16 Binh gia yếu lược 1 bộ Hƣng Đạo vƣơng
17 Vạn kiếp bí truyền 1 bộ Trần Quốc Tuấn
18 Tứ thư thuyết ước 1 bộ Chu Văn Trinh (An)
19 Tiều ẩn thi 1 tập Linh Sơn tiều ẩn tức
20 Chu Văn Văn An
21 khi về ẩn dật ở núi
22 Chí Linh
23 Sầm lâu tập 1 quyển Trần Quốc Tuy
24 Lạc đạo tập 1 Trần Quang Khải
25 Băng hồ Ngọc phức tập 1 Trần Nguyên Đán
26 Giới hiên thi tập 1 Nguyễn Trung Ngạn
27 Hiệp thạch tập 1 Phạm Sƣ Mạnh
28 Cúc Đường di thảo 2 Trần Nguyên Đào
29 Thảo nhàn hiệu tập 1 Hồ Tông Thốc
30 Việt Nam thế chí 1 bộ Hồ Tông Thốc
31 Việt Sử cương mục 1 bộ Hồ Tông Thốc
32 Đại Việt sử ký 30 quyển (?) Lê Văn Hƣu
33 Nhị Khê thi tập 1 Nguyễn Phi Khanh
34 Phi sa tập 1 Hàn Thuyên
35 Việt Điện u linh 1 Lý Tế Xuyên
36 Những sách kê trên đây quân Minh đã tịch thu, vơ vét đƣa hết về
37 bên Trung Hoa nay không còn vết tích gì để kê cứu về nội dung của các
38 sách ấy.
39 8 Đồn Nga Lạc: ở gần Lam Sơn, vào khoảng vùng Bái Thƣợng, Nga
40 Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
41 9 Thành Nghĩa Liệt: còn gọi là Lam thành do quân Minh xây đắp ở xã
42 Nghĩa Liệt, huyện Hƣng Nguyên.
43 10 Tân Minh: tức huyện Tiên Minh, nay là đất huyện Tiên Lãng, Hải
44 Phòng.

VSTK - 433
1 11 Sông Lô: tức sông Nhị Hà
2 11bisCầu phao: Theo sách Đại Thanh Nhất Thống Chí trong khoảng
3 những năm 1403-1424, giặc phƣơng Bắc là Trƣơng Phụ làm cầu phao ở
4 bến Đông Tân, sông Nhị.
5 12 Phụng Hóa: tức huyện Phụng Hóa, phủ Thiên Quan, còn gọi là Nho
6 Quan, nằm về phía Tây Bắc trấn Thanh Hoa. Một nửa đất nầy thuộc về
7 ngƣời Man, ngƣời Lạo chƣa đƣợc khai hóa nhiều cho nên phong tục và
8 con ngƣời khác rất nhiều với ngƣời miền xuôi. {LTHCLC/Địa dƣ chí/
9 Phan Huy Chú}.
10 13 Đan Ba: tức huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
11 14 Xƣơng Giang: thành Xƣơng Giang do quân Minh đắp, ở xã Thọ
12 Xƣơng, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh. Nay thuộc thị
13 Xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

KHẢO LUẬN :
 Chính sách cai trị đồng hóa bóc lột của quân xâm lƣợc
nhà Minh và những hậu quả của nó.

14 Sau khi đánh bại nhà Hồ, quân Minh thực hành ngay thủ đoạn thủ
15 tiêu nền độc lập và cơ cấu chính quyền của nƣớc Đại Ngu để tái lập lại
16 chế độ quận huyện của những thờì kỳ Bắc thuộc ngày trƣớc.
17 Tháng 6 năm Đinh Hợi (1407), quân Minh đổi nƣớc Đại Ngu thành
18 quận Giao Chỉ, lập phủ, huyện, đặt quan lại do ngƣời của họ đƣa sang
19 nắm quyền cai trị, dụ dỗ, mua chuộc một số quan lại cũ của nƣớc Đại
20 Ngu ham sống, sợ chết, hám danh, cầu lợi và bọn thổ hào bất tín ở
21 nhiều địa phƣơng trƣớc đây ra hợp tác và làm tay sai điềm chỉ viên cho
22 đoàn quân xâm lƣợc đến từ lãnh thổ Trung Hoa.
23 Ngoài số quân viễn chinh từ mẫu quốc, ngƣời Minh tăng cƣờng và
24 bổ xung đoàn quân xăm lƣợc bằng cách bắt một phần ba số dân đinh
25 địa phƣơng ở tại các vùng bị chiếm đóng phải phục dịch trong đoàn
26 quân chiếm đất của họ.
27 Họ dùng những chính sách trấn áp, khủng bố tàn bạo.Thành lũy, đồn
28 ải, trạm kiểm soát đƣờng thủy, đƣờng bộ dựng lên khắp cùng.
29 Trong các cuộc đánh chiếm, ngoài việc cƣớp bóc, hãm hiếp, quân
30 Minh còn dùng những thủ đoạn trả thù hèn hạ, dã man, rừng rú thật ghê
31 rợn nhƣ mổ bụng đàn bà có thai, cắt lỗ tai ngƣời để lãnh thƣởng, thiêu
32 sống dân vô tội để mua vui làm trò, rán thịt ngƣời lấy mỡ v.v. ..
33 Về mặt kinh tế, quân Minh áp dụng thẳng tay chính sách và đƣờng
34 lối khai thác, bóc lột, vơ vét, tham ô, vô nhân đạo. Khi vừa mới tiêu
35 diệt đƣợc nhà Hồ, họ đã lo lùa bắt vô số trâu bò, tịch thâu vô số thóc
36 gạo, của cải để tuồng về nƣớc mẹ của họ. Sau khi thiết lập đƣợc chính
37 quyền đô hộ thì bộ máy bóc lột của họ càng đƣợc tổ chức có hệ thống
38 quy mô và hiệu quả hơn. Mọi thứ sƣu cao, thuế nặng đều đƣợc áp dụng
39 để đặt lên đầu lên cổ của ngƣời dân bị trị.

VSTK - 434
1 Ngƣời nhà Minh nắm quyền kiểm soát và hạn chế việc sản xuất và
2 tiêu dùng các loại nhu yếu phẩm nhƣ gạo, thóc, muối ăn nhằm kiềm tỏa
3 đời sống hằng ngày của dân chúng.
4 Bắt ngƣời dân trắng tay làm nô lệ để lặn xuống biển mò ngọc trai,
5 vào rừng bắt thú dữ để dâng nạp cho họ.
6 Ra sức tiêu hủy các di sản văn hóa của dân tộc Đại Việt và thi hành
7 chính sách đồng hóa một cách gắp rút và liên tục bằng cách hủy bỏ mọi
8 phong cách, tục lệ, thói quen lâu đời để thay vào bằng những thói ăn
9 mặc, cƣ xử, thờ phụng, tín ngƣỡng y hệt phong tục tập quán và nếp
10 sống của ngƣời Hoa nghèo khốn, tôi đòi, nô lệ ngay trên đất nƣớc tổ
11 tiên của họ.
12 Quân Minh đã kết hợp vũ lực xâm lƣợc cùng với phƣơng pháp áp
13 bức bóc lột bằng bạo lực đàn áp,song song với thủ đoạn nham hiểm
14 thâm độc để đồng hóa, chia rẽ.
15 Ngƣời dân bị trị bị kiềm hãm, chà đạp, gánh chịu muôn vàn khổ
16 đau, lòng ngƣời xáo động, thân phận còn tệ hơn là kẻ bị tù đày nô lệ.

 Những cuộc nổi dậy chống quân xâm lƣợc nhà Minh

17 Quân Minh xâm lƣợc và đánh bại nhà Hồ.


18 Tuy nhiên, với tình yêu tổ quốc tha thiết, với ý chí quật khởi kiên
19 cƣờng đã đƣợc tích lũy và nung đúc hằng bao nhiêu đời trƣớc tạo thành
20 nền quốc thống và niềm kiêu hãnh dân tộc, nay đứng trƣớc một cơn thử
21 thách vô cùng ngặt nghèo ảnh hƣởng to tác đến sự mất còn của đất
22 nƣớc, nền độc lập tự quyết dân tộc và quyền sống có phẩm giá, có tình
23 nghĩa con ngƣời, trong khi mà các thế lực thống trị mê muội tham
24 quyền cố vị chỉ muốn làm lợi riêng cho dòng họ của mình, mặc cho dân
25 tình chịu nhục nhã, sống chết mặc bây thì ngƣời dân Đại Việt (Đại
26 Ngu) khắp các miền của đất nƣớc, từ các hạng quan binh yêu nƣớc
27 xuống đến hạng ngƣời nông dân nô dịch, từ miền kinh đến miền
28 thƣợng, nơi đồng bằng hay ở miền núi, khắp mọi nơi đều nổi dậy chống
29 đối và đánh trả quân xâm lƣợc hung bạo bằng nhiều hình thức: đánh
30 phá các nơi quân Minh đồn trú hoặc các chốt mà họ đã dựng lên để
31 kiểm soát cai trị dân chúng; tiêu diệt các quan cai trị của nhà Minh ác
32 nhân và những hạng ngƣời phản bội thừa cơ đón gió hợp tác với quân
33 ngoại xâm, phá ngục giải thoát ngƣời dân bị giam nhốt một cách oan
34 ức; giựt sập, phá hủy cầu đƣờng, đốt phá doanh trại của quân Minh.
35 Tầm vóc của những cuộc nổi dậy lớn nhỏ có khác nhau nhƣng tất cả
36 đều quy hƣớng về một mục tiêu duy nhất: đánh đuổi quân Minh xâm
37 lƣợc ra khỏi bờ cõi đất nƣớc Đại Việt.
38 Từ cuối đời nhà Hồ (1407), có rất nhiều cuộc nổi dậy lớn có tổ chức
39 và có tầm hoạt động lan rộng nhƣ cuộc khởi dậy của nhà Hậu Trần do
40 Trần Ngỗi (1407-1409) và Trần Quý Khoách (1409-1413) chủ xƣớng
41 và phát động; của Phạm Ngọc (1419-1420), của Lê Ngã (1419).

VSTK - 435
1 Tất cả những cuộc nổi dậy trên dù không thành công nhƣng chính là
2 những ngọn gió thổi đầu tiên khơi dậy ngọn lửa đấu tranh đang cháy
3 âm ỷ trong tiềm thức của dân tộc Đại Việt để rồi bùng cháy dữ dội với
4 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi.

VSTK - 436
NHỮNG PHONG TRÀO NỔI DẬY CHỐNG
QUÂN XÂM LƢỢC NHÀ MINH

CHƢƠNG IV
BÌNH ĐỊNH VƢƠNG LÊ LỢI1
( 1418 - 1428 )

1 Lê Lợi ngƣời làng Lam Sơn2, huyện Lƣơng Giang3, trấn


2 Thanh Hóa, sinh ngày mùng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385)
3 tại làng Chủ Sơn4 , huyện Lôi Dƣơng5.
4 Sau khi diệt đƣợc nhà Hồ, quân Minh xăm lƣợc dùng
5 pháp luật hà khắc, hình phạt tàn độc, thuế nặng, sƣu cao.
6 Biết rằng Lê Lợi đƣợc lòng dân, quân Minh đã dùng
7 phƣơng cách dụ dỗ, lấy quan tƣớc, lợi lộc để lôi kéo nhƣng
8 Lê Lợi không chịu khuất phục nghe theo, tiếp tục ẩn náu nơi
9 rừng núi, chiêu mộ nghĩa sĩ, thu nạp những ngƣời tài trí, tụ
10 hợp những ngƣời dân phiêu bạt, chọn lựa ngƣời biết cầm
11 quân xong trận rồi cùng với các tƣớng tá Lê Lai, Lê Thạch,
12 Lê Liễu, Lê Ngân, Lê Lý, Đinh Lễ, Đỗ Bí và Lê Xí, và
13 Nguyễn Trãi từ Lam Sơn khởi xƣớng cuộc nổi dậy vào mùa
14 xuân năm Mậu Tuất (1418), tự xƣng là Bình Định vƣơng, ra
15 quân đánh bại và đuổi chạy tƣớng Mã Kỳ ở Lạc Thủy6 rồi
16 tạm rút lui về ẩn náu ở núi Chí Linh7.
17 Kỷ Hợi, tháng 4 (1419), Lê Lợi đánh đồn Nga Lạc8, bắt
18 giết đƣợc tƣớng Minh là Nguyễn Sao rồi lại lui về giữ núi
19 Chí Linh.
Quân Minh đƣa đại binh đến đánh úp, Lê Lai9 phải liều
mình giả dạng Lê Lợi đánh lạc hƣớng quân Minh bằng cách
đƣa nghĩa quân xung phong phá vòng vây, quân Minh đuổi
theo bắt đƣợc. Tƣởng rằng đã bắt đƣợc Lê Lợi, quân Minh
kéo quân trở vào Tây Đô. Lê Lợi và nghĩa binh ở Chí Linh
đƣợc tạm yên để chỉnh đốn hàng ngũ.
20 Canh Tý, tháng 6 (1420), quân Minh cử tham tƣớng Trần
21 Trí đến trấn nhậm vùng Phụng Hóa10.
22 Nghĩa quân Lam Sơn chiếm đóng Mƣờng11 Thôi. Lý Bân
23 biết đƣợc kéo quân từ Tây Đô vào đánh úp nhƣng bị nghĩa
24 quân mai phục chận đánh ở Thi Lang12. Nghĩa quân lại tiến
25 chiếm sách Ba Lẫm13 thuộc Lỗi Giang14. Quân Minh phải

VSTK - 437
1 chia lực lƣợng đóng ở Nga Lạc và Quan Du15 để bảo vệ Tây
2 Đô.
3 Tháng 10, nghĩa quân từ Ba Lẫm đánh chiếm các đồn lũy
4 ở Nga Lạc, quân Minh rút lui, cố thủ trại Quan Du. Lê Lợi
5 sai các tƣớng Lê Sát và Lê Hào đánh úp vào trại Quan Du,
6 gây thiệt hại nặng nề cho quân Minh khiến cho khí thế quân
7 Minh bị sa sút tột cùng.
8 Tân Sửu, tháng 9 (1421), vua nhà Minh cử Trần Trí thay
9 Lý Bân.
10 Tháng 11, tƣớng Trần Trí đem hơn 100,000 quân đến
11 vây đánh nghĩa quân ở Ba Lẫm16. Lê Lợi dùng phục binh
12 đánh bại quân Minh ở Đèo Ống17, Trần Trí phải rút lui.
13 Thừa cơ nghĩa quân đang bận rộn chống trả quân Minh,
14 tù trƣởng nƣớc Ai Lao là Mãn Sát đem quân và voi trận bất
15 thần tấn công nghĩa quân, bị Lê Lợi dùng binh thế gọng kềm
16 đánh tan và tiêu diệt nhƣng tƣớng giỏi Lê Thạch bị sụp hầm
17 chong nhọn tử trận.
18 Nhâm Dần, tháng 12 (1422), từ Ba Lẫm nghĩa quân tiến
19 đến Quan Du; bị quân Minh liên hợp với quân Lào đánh hai
20 mặt trƣớc sau, nghĩa quân đánh không lại phải chạy lui về
21 giữ sách Khôi18. Quân Minh tập hợp quân bao vây bốn phía
22 rất nguy khốn; Lê Lợi xao xuyến, khích lệ tƣớng sĩ thuộc
23 quyền liều chết phá vòng vây khiến 2 tƣớng Mã Kỳ và Trần
24 Trí phải tháo chạy còn quân Ai Lao phản phúc cũng rối loạn
25 lẩn trốn.
26 Lê Lợi rút lui về Chí Linh lần thứ ba, quân binh bị hao
27 tổn, lƣơng thực thiếu thốn, binh sĩ phải kiếm rau, hái cỏ mà
28 ăn, phải giết cả ngựa, voi để lấy thịt nuôi quân, tinh thần
29 nghĩa quân kiệt quệ, thể lực suy yếu, mọi ngƣời đều muốn
30 ngƣng chiến, Lê Lợi bất đắc dĩ phải sai Lê Trăn xin hòa
31 hoãn với quân Minh. Quân Minh ƣng thuận, có ý dùng các
32 phƣơng cách vuốt ve, mua chuộc để dụ hàng Lê Lợi, Lê Lợi
33 cũng giả cách cầu hòa, thân thiện ngoài mặt nhƣng vẫn
34 ngầm chỉnh đốn hàng ngũ nghĩa quân.
35 Quý Mão, tháng 4 (1423), Lê Lợi quay về Lam Sơn, đóng
36 quân ở Lô Sơn18, cắt đứt chính sách hoà hoãn giao hảo với
37 quân Minh.

VSTK - 438
1 Giáp Thìn, tháng 9 (1424), Lê Lợi hợp các tƣớng bàn bạc
2 kế hoạch tiến công diệt Minh. Thiếu úy Nguyễn Chích đề
3 nghị đánh chiếm Trà Lung19bis làm bàn đạp tiến chiếm Nghệ
4 An để khai thác nguồn nhân lực và tài lực dồi dào ở đó rồi
5 tiến đánh Đông Đô. Lê Lợi nghe theo, đƣa quân vào Nam,
6 đánh úp đồn Đa Căng20: trấn thủ đồn là Lƣơng Nhữ Hốt21
7 thua, bỏ đồn chạy thoát.
8 Nghĩa quân tiến vào vùng lãnh giới Nghệ An. Đại quân
9 Minh tăng viện do Trần Trí, Phƣơng Chính chận đánh hai
10 mặt trƣớc sau ở Quỳ Lạp22 nhƣng bị phục binh của Lê Lợi
11 đánh bại, quân Minh chạy về thành Nghệ An.
12 Giáp Thìn, tháng 11 (1424), nghĩa quân bao vây Trà
13 Lung. Tri phủ Trà Lung là Cầm Bành chờ viện binh không
14 thấy tới, phải ra hàng. Trà Lung bị nghĩa quân chiếm đóng.
15 Lê Lợi vào Trà Lung, vỗ an dân tình, chiêu mộ thêm đƣợc
16 rất nhiều nghĩa binh, thế quân rất mạnh.
17 Trần Hiệp trình báo sự thua trận liên tục của quân Minh
18 và thế lực ngày càng lan rộng của nghĩa quân Lam Sơn, vua
19 Minh khiển trách và ra lệnh cho Trần Trí, Phƣơng Chính
20 phải gắp rút dẹp yên. Quân Minh đƣa quân thủy bộ vây cửa
21 ải Khả Lƣu23 nhƣng bị thua, Trần Trí, Phƣơng Chính lại phải
22 lui quân về cố thủ thành Nghệ An.
23 Ất Tỵ, tháng Giêng (1425), Lê Lợi tiến quân đến Đa Lôi24
24 thuộc huyện Thổ Du25, dân chúng mừng vui tiếp đón, cung
25 cấp lƣơng thực, thức ăn cho nghĩa quân. Tri phủ của nhà
26 Minh ở Ngọc Ma26 đem quân và voi đến quy thuận, đƣợc Lê
27 Lợi phong làm thái úy.
28 Ra lệnh nghiêm cấm nghĩa quân không đƣợc xăm phạm
29 đến tài sản của dân chúng trong các vùng của giặc vừa mới
30 đƣợc nghĩa quân giải phóng.
31 Nghĩa quân bao vây thành Nghệ An. Tƣớng Lý An đƣa
32 quân Minh từ Đông Quan27 vƣợt biển đến tăng viện cho
33 Trần Trí để phối hợp lực lƣợng phản công nhƣng Lê Lợi đặt
34 quân phục kích ở cửa sông Đỗ Gia28 cả phá đƣợc quân
35 Minh. Trần Trí chạy về Đông Quan, Lý An rút chạy vào
36 thành Nghệ An cố thủ.

VSTK - 439
1 Tháng 5, tƣớng Trƣơng Hùng dùng đƣờng biển chở lƣơng
2 thực từ Đông Đô tiếp tế cho quân Minh ở thành Diễn
3 Châu29, gặp phục binh của nghĩa quân do tƣớng Đinh Lễ chỉ
4 huy đánh chận cƣớp lấy thuyền lƣơng, đuổi Trƣơng Hùng
5 chạy trốn vào Tây Đô. Thừa thắng, Lê Lợi tuyển quân và voi
6 trận, sai Lê Sát và Lƣu Nhân Chú hợp quân với Đinh Lễ tiến
7 sát Tây Đô, chiêu an dân chúng, chuẩn bị vũ khí, chiến cụ để
8 phá thành. Dân chúng Thanh Hóa dắt dìu nhau đến và đi
9 theo nghĩa quân rất đông.
10 Tháng 7, Lê Lợi điều động thuyền chiến do Lê Ngân chỉ
11 huy từ Nghệ An vƣợt biển vào hội với quân của Trần Hãn và
12 Lê Nỏ để tấn công và đánh hạ 2 thành Tân Bình30 và Thuận
13 Hoá31. Quân dân ở đó đều ra hàng phục. Trần Hãn32 chiêu
14 mộ đƣợc thêm rất nhiều nghĩa quân, đặt ngƣời trấn giữ rồi
15 kéo quân về. Từ đây, các tƣớng tôn gọi Lê Lợi là Đại thiên
16 hành hóa đại vƣơng33.
17 Bính Ngọ, tháng 4 (1426), hay tin nghĩa quân của Lê Lợi
18 đã chiếm đóng Trà Lung và các tƣớng Trần Trí, Phƣơng
19 Chính bị đánh bại liên miên, vua Minh liền cử Thành Sơn
20 hầu Vƣơng Thông làm tổng binh, đô đốc Mã Anh làm tham
21 tƣớng, chuẩn bị đem quân tiếp ứng cho Đông Quan.
22 Bính Ngọ, tháng 8 (1426), thấy quân Minh tập trung cả
23 lực lƣợng nồng cốt và tinh nhuệ để bảo vệ Nghệ An nhƣng
24 lơi lỏng việc phòng thủ Đông Đô, Lê Lợi liền điều động
25 nghĩa quân chuyển hƣớng tấn công vào các vùng lãnh thổ ở
26 mạn Bắc:
27 - Các tƣớng Phạm Văn Xảo, Lê Triện, Lê Khả, Lê Nhƣ
28 Huân, Lê Bí đƣa quân đi bình định và đóng chốt ở các vùng
29 Thiên Quan34, Quảng Oai35, Quốc Oai36, Gia Hƣng37, Quy
30 Hóa38, Đà Giang39, Tam Đái40, Tuyên Quang41 để cắt đứt
31 đƣờng viện binh quân Minh từ Vân Nam sang.
32 - Các tƣớng Lƣu Nhân Chú, Bùi Bị kéo nghĩa quân từ
33 Thiên Quan42 ra bình định và đóng chốt ở các vùng Thiên
34 Trƣờng, Kiến Xƣơng43, Tân Hƣng44, Thƣợng Hồng, Hạ
35 Hồng, Lạng Giang để cắt đứt đƣờng tiếp viện của quân
36 Minh từ Quảng Đông, Quảng Tây tiến sang.

VSTK - 440
1 - Đinh Lễ và Nguyễn Xí thống lãnh đoàn nghĩa binh tinh
2 nhuệ đánh thẳng vào Đông Quan để phô trƣơng thanh thế.
3 - Lê Triện từ mạn Quốc Oai, Tam Đái tiếp tục tiến quân
4 ra uy hiếp thành Đông Quan.
5 Tƣớng nhà Minh Trần Trí đƣa quân chận đánh ở mạn
6 Ninh Kiều45, Ứng Thiên46 nhƣng bị thua trận phải rút chạy.
7 Liên quân của Lê Triện, Lê Khả, Lê Bí truy đuổi rồi tiến
8 đóng ở phía Tây sông Ninh Giang47. Trần Trí phải đào thêm
9 hầm lũy để phòng ngự thành Đông Quan và gọi quân của Lý
10 An, Phƣơng Chính từ Nghệ An ra tăng cƣơng phòng thủ
11 Đông Quan, để thành Nghệ An cho Thái Phúc chống giữ.
12 Tháng 9, một vạn viện binh đầu tiên của nhà Minh do
13 Vƣơng An Lão từ Vân Nam kéo sang nhƣng bị nghĩa quân
14 đón đánh ở cầu Xa Lộc48 thuộc lộ Tam Giang, quân Minh
15 phải rút chạy vào thành Tam Giang49 cố thủ. Lê Triện và
16 nghĩa quân đuổi theo cánh quân của Trần Trí, đánh nhau ở
17 cầu Nhân Mục50, bắt sống tƣớng Minh Vi Lƣợng rồi rút
18 quân về Ninh Giang51.
19 Lê Lợi sai các tƣớng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê
20 Thận và Lê Văn Linh ở lại tiếp tục vây hãm thành Nghệ An
21 còn đích thân Lê Lợi thống suất đại quân thủy bộ đuổi theo
22 Lý An, Phƣơng Chính. Nghĩa quân ra đến Thanh Hóa, vây
23 hãm Tây Đô nhƣng quân Minh cố thủ, Lê Lợi phải dừng
24 quân đóng bản doanh ở Lỗi Giang.
25 Tháng 10, hai tƣớng Vƣơng Thông và Mã Anh điều động
26 50,000 quân sang giải cứu Đông Quan. Trần Trí và Phƣơng
27 Chính bị vua nhà Minh cách chức và đặt dƣới quyền xử
28 dụng của Vƣơng Thông và Mã Anh, còn Trần Hiệp đƣợc
29 cho giữ chức tham táng quân vụ. Vƣơng Thông tập hợp
30 quân binh cũ mới đƣợc 100,000 quân, cùng với Trần Hiệp,
31 Phƣơng Chính chia thành 3 cánh quân cùng tiến đánh:
32 1. Vƣơng Thông từ Khâu Ôn52 tới, qua cầu Tây Dƣơng53
33 và lập bản doanh ở bến Cổ Sở54.
34 2. Phƣơng Chính tiến quân từ cầu Yên Quyết55 và lập
35 doanh trại ở cầu Sa Đôi56.
36 3. Mã Kỳ và Sơn Thọ đóng quân ở cầu Thanh Oai57.

VSTK - 441
1 Khí thế của của quân Minh rất hung hăng, đồn lũy của
2 giặc xếp đặt liên tiếp nối nhau dài hàng chục dặm, cờ xí,
3 gƣơm giáo rực trời.
4 Lê Triện, Lê Bí đặt nghĩa quân mai phục từ Ninh Kiều58
5 đến Cổ Lãm59, cho quân tiền sát60 đánh phá trại binh của Mã
6 Kỳ rồi giả thua bỏ chạy. Quân Minh đuổi theo đến cầu Tam
7 La61 bị phục binh của nghĩa quân đánh cắt ngang đội hình,
8 quân Minh tan vỡ, chạy bừa, sa lầy, tử vong vô số. Nghĩa
9 quân truy kích đến cầu Nhân Mục, xác chết quân Minh nằm
10 la liệt khắp nơi, tù binh bị bắt hàng ngàn, Mã Kỳ bỏ hàng
11 ngũ chạy trốn một mình. Nghĩa quân thừa thắng tiến đánh
12 bọc hậu doanh trại của Phƣơng Chính nhƣng Phƣơng Chính
13 nhân đêm tối đã ngầm rút lui về hội quân với Vƣơng Thông.
14 Ngày hôm sau, nghĩa quân của Lê Triện bao vây quân của
15 Vƣơng Thông quanh vùng Cổ Sở62 nhƣng quân Minh đào
16 hầm chong đánh phục kích, Lê Triện phải rút lui về giữ Cao
17 Bộ64 và cấp báo với Đinh Lễ và Lê Xí mang quân từ Thanh
18 Đàm65 đến tăng viện, chia quân phục kích ở Tốt Động66 và
19 Chúc Động67.
20 Bắt và khai thác quân thám báo của đối phƣơng, nghĩa
21 quân biết đƣợc mƣu định và kế hoạch hành quân của Vƣơng
22 Thông: Vƣơng Thông ra lệnh phải đợi đến khi nghe có tiếng
23 súng nổ báo hiệu, lực lƣợng kỵ binh của quân Minh sẽ bất
24 thần pháo kích, đánh bọc hậu các tuyến bố phòng của nghĩa
25 quân đồng thời đoàn chính binh của Vƣơng Thông từ Ninh
26 Kiều sẽ vƣợt qua sông đánh thẳng vào mặt trƣớc.
27 Đinh Lễ và Lê Triện dùng mƣu chƣớc của địch để dụ
28 địch: lệnh cho nghĩa quân phải án binh bất động khi nghe
29 thấy có tiếng pháo hiệu. Đinh Lễ giả cho nổ súng ở các nơi
30 hiểm yếu để đánh lừa đối phƣơng. Quân Minh nghe tiếng
31 súng liền đồng loạt tiến kích bất kể mƣa gió lầy lội.
32 Đinh ninh nghĩa quân đang rút chạy, quân Minh truy lùng
33 ráo riết đến Tốt Động, phục binh của nghĩa quân ở Tốt Động
34 bốn phía đánh ập lại, chém chết tƣớng Trần Hiệp và Lý
35 Lƣợng, quân Minh rút chạy,giày xéo lên nhau chết rất nhiều,
36 rơi xuống nƣớc xác đầy sông. Nghĩa quân bắt sống đƣợc vô
37 số tù binh, tịch thu vũ khí, quân nhu nhiều vô kể. Phƣơng

VSTK - 442
1 Chính, Mã Kỳ lo chạy thoát lấy thân, Vƣơng Thông bị
2 thƣơng cũng chạy trở vào Đông Quan.
3 Nghĩa quân thừa thắng tiến quân bao vây thành Đông
4 Quan. Quân Minh trong thành phải phá hủy chuông Quy
5 Điền68 và vạc Phổ Minh69 để rèn đút thêm vũ khí, quân dụng
6 đang bị thiếu thốn trầm trọng sau lần bại trận vừa qua.
7 Lê Lợi từ Lỗi Giang, Thanh Hóa đƣợc tin thắng trận ở
8 mạn Bắc liền hội các đạo nghĩa quân ở Hải Tây cùng với voi
9 trận hƣớng ra Đông Quan, tới Tây Phù Liệt70, các tƣớng ra
10 đón mừng. Tƣớng Trần Hãn điều động thủy quân và hơn
11 trăm thuyền chiến theo sông Đại Lũng71 ra cửa sông Hát72,
12 xuôi dòng xuống đến bến Đông Bộ Đầu73 trên sông Lô74.
13 Bùi Bị đem 10,000 bộ binh bí mật chiếm đóng khu vực
14 cầu Tây Dƣơng75.
15 Đích thân Lê Lợi chỉ huy đạo nghĩa quân chủ lực tiến ra
16 vây hãm thành Đông Quan, bắt đƣợc rất nhiều thuyền chiến
17 của đối phƣơng. Đông Quan bị nghĩa quân bao vây, cô lập,
18 quân Minh phải đào thêm hào lũy để cố thủ. Dân chúng ở
19 khắp các phủ huyện, các tù trƣởng vùng biên trấn, hào kiệt ở
20 các kinh lộ hƣởng ứng đi theo nghĩa quân rất đông ; Lê Lợi
21 chiêu an phủ dụ, thƣởng ngƣời trung nghĩa, phạt kẻ phản
22 bội, xử dụng, bố trí mọi ngƣời tùy theo khả năng tài trí, pháp
23 chính nghiêm minh, mọi ngƣời cảm kích, nghĩa quân đi tới
24 đâu đều đƣợc lòng dân hƣởng ứng, yểm trợ.
25 Lê Lợi tạm thời chia đặt các kinh lộ trấn dƣới quyền kiểm
26 soát của nghĩa quân thành 4 đạo75bis, cắt đặt các chức quan
27 văn võ trong ngoài và tuần kiểm ở các cửa biển để canh
28 phòng kiểm soát, theo dõi mọi hoạt động tình báo của những
29 kẻ theo hợp tác làm gián điệp cho quân Minh.
30 Bính Ngọ, tháng 11(1426), quân Minh muốn ngừng chiến
31 nhƣng sợ mang tiếng bại trận cho nên đề nghị với Lê Lợi
32 tìm lập con cháu nhà Trần theo lời chiếu cũ của vua nhà
33 Minh ngày trƣớc. Lê Lợi muốn dân tình thoát cảnh binh lửa
34 và bảo toàn binh lực cho nên ƣng thuận đề nghị của quân
35 Minh.
36 Ngày trƣớc, ở châu Ngọc Ma có tên Hồ Ôn mạo xƣng là

VSTK - 443
1 cháu ba đời của Trần Nghệ Tông (1370-1372), Lê Lợi giả
2 trá cho đón Hồ Ôn về, đổi tên là Trần Cảo để kế tục ngôi
3 vua của nhà Trần, đặt cho niên hiệu là Thiên Khánh, cũng
4 lập cung dinh cho ở vùng núi Không Lộ76, nhƣng đặt Lê
5 Quốc Hƣng kề cận để kiểm soát vua bù nhìn Trần Cảo.
6 Lê Lợi lúc nầy tự xƣng là Vệ quốc công, thay Trần Cảo
7 gửi biểu thƣ đƣa sang vua Minh xin công nhận và tƣớc
8 phong cho vua Trần Cảo.
9 Các tƣớng Vƣơng Thông, Sơn Thọ trong thành Đông
10 Quan sai ngƣời đến bàn định ngừng chiến và rút quân Minh
11 về nƣớc. Lê Lợi ƣng thuận, yêu cầu Vƣơng Thông ra lệnh
12 cho quân Minh ở các thành Nghệ An, Diễn Châu, Thanh
13 Hóa phải đình chiến và tập kết về Đông Quan để rút lui toàn
14 bộ về Trung Hoa.
15 Ngay lúc nầy, những ngƣời của nƣớc Đại Việt đi theo và
16 hợp tác với quân xâm lƣợc nhà Minh là Trần Phong77,
17 Lƣơng Nhƣ Hốt và Trần An Vinh78 lo sợ sau khi quân Minh
18 rút hết về Trung Hoa thì họ sẽ bị ngƣời Đại Việt trả thù hết
19 đƣờng sống sót, cho nên họ ngấm ngầm tạo nghi ngờ ly
20 gián, phá hoại cuộc hoà đàm đình chiến, bằng cách nêu lên
21 trƣờng hợp ngày trƣớc Ô Mã Nhi bị thua trận ở sông Bạch
22 Đằng phải chịu đầu hàng, Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn
23 cho hàng rồi dùng mƣu lấy thuyền lớn đƣa Ô Mã Nhi cùng
24 tùy thuộc về nƣớc nhƣng lại bí mật cho ngƣời đục thủng
25 thuyền nhận chìm chết tất cả các tƣớng của nhà Nguyên.
26 Vƣơng Thông tin lời, đem lòng ngờ vực, đổi ý, bề ngoài giả
27 bộ cầu hoà, nhƣng lại tiếp tục đào hào, thả chông, ngầm sai
28 ngƣời đƣa tin về vua Minh để xin viện binh.
29 Lê Lợi bắt đƣợc mật thƣ tráo trở của Vƣơng Thông liền
30 hủy bỏ cuộc hòa đàm và ra lệnh tiếp tục tiến công, vây hãm
31 các thành của quân Minh đang trú đóng:
32 - Lê Quốc Hƣng đánh 2 thành Điêu Diêu78bis và đƣợc thêm
33 quân tăng viện của Lê Chích từ Nghệ An đƣa ra để phối hợp
34 cùng đánh thành Thị Cầu97.
35 - Trịnh Khả, Lê Khuyển đánh thành Tam Giang.
36 - Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lý, Lê Lãnh và Lê Triện đánh thành
37 Xƣơng Giang80.

VSTK - 444
1 Lê Lựu, Lê Bôi đánh thành Khâu Ôn.
2 Tuyển những nhân sĩ đặt làm an phủ sứ ở 24 lộ và viên
3 ngoại lang81 ở 6 bộ khi còn tạm thời đóng bản doanh hành
4 chánh ở Bồ Đề82.
5 Đinh Mùi, tháng Giêng (1427), Lê Lợi tiến quân đóng ở
6 bờ Bắc sông Nhị Hà, doanh trại, đồn lũy nghĩa quân áp sát
7 thành Đông Quan.
8 Trịnh Khả đánh phá và chận quân Minh ở cửa Đông,
9 Đinh Lễ đóng quân ở cửa Nam, Lê Chửng chỉ huy vây hãm
10 cửa Tây và Lê Triện án ngữ cửa Bắc. Toàn bộ nghĩa quân
11 thủy bộ, thuyền chiến đều đƣợc duyệt khảo, chuẩn bị quân
12 khí, chế tạo chiến xa đặc biệt83, đài cao bằng gỗ dùng để
13 đánh phá tƣờng thành, thao tập trận thế, sẵn sàng tổng tấn
14 công đánh chiếm thành Đông Quan.
15 Lê Lợi cũng tìm ngƣời có mƣu lƣợc để làm cố vấn, cũng
16 nhƣ ban thƣởng để cổ động dân chúng cung cấp thóc gạo,
17 lƣơng thực cho nghĩa quân.
18 Tƣớng giữ thành Nghệ An và Diễn Châu là Thái Phúc và
19 Tiết Tụ đều ra hàng. Hai thành nầy vào tay của nghĩa quân,
20 uy thế quân Minh càng lúc càng bị cô lập.
21 Lê Lợi lại cử ngƣời mang thƣ vào thành Đông Quan dụ
22 hàng Vƣơng Thông. Thƣ dụ hàng do Nguyễn Trãi viết nhƣ
23 sau: <<Đại nhân được lệnh vua Minh ủy nhiệm giữ binh
24 quyền vượt cửa ải, lấn biên cương, đáng lý nên xử sự thành
25 thật uy tín, vậy mà lại lừa dối, trí trá, phỉnh gạt, tự kiêu, cao
26 ngạo, như thế thì tín nghĩa ở đâu? Nếu như giữ lời hứa thì
27 hãy ra lệnh rút quân về cho trọn tình giao hảo trước đây,
28 còn phần ta cũng sẽ giao trả những người đã đầu hàng và
29 các binh sỉ đã bị bắt làm tù binh. Nếu không thế, đại nhân
30 cứ thử đem đám quân binh đầy lòng cừu hận chất chứa lâu
31 nay từ các thành về đây cùng quyết chiến với ba mươi vạn
32 nghĩa quân thân thuộc của ta dưới chân thành Đông Quan
33 nầy để xem đại nhân xử trí như thế nào?
34 Bổ nhiệm Nguyễn Trãi làm Lại bộ thƣợng thƣ, nhập nội
35 hành khiển kiêm khu mật viện sứ. Những lời cố vấn, bàn
36 bạc, của Nguyễn Trãi đƣợc Lê Lợi tin tƣởng nghe theo. Các

VSTK - 445
1 chiếu, lệnh nội bộ, các loại văn bản giao dịch bên ngoài đều
2 giao cho Nguyễn Trãi soạn thảo.
3 Trần Lựu đánh chiếm thành Khâu Ôn, tƣớng Minh Tụ bỏ
4 thành chạy trốn.
5 Các tƣớng Minh Trƣơng Lân, Trần Vân ra hàng, thành
6 Điêu Diêu vào tay của nghĩa quân.
7 Tháng 2, tƣớng Phƣơng Chính ngầm đem quân đánh úp
8 xã Cảo Động, huyện Từ Liêm; tƣớng nghĩa quân Lý Triện bị
9 tử trận, Đỗ Bí bị quân Minh bắt làm tù binh.
10 Sứ nƣớc Chiêm Thành sang cống, Lê Lợi gởi Hà Lật sang
11 Chiêm đáp lễ.
12 Tƣớng Minh thành Đƣờng Bảo Trinh đầu hàng, thành Thị
13 Cầu thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân.
14 Đƣa số lƣợng đông đảo tù binh, tƣớng tá của quân Minh
15 bị nghĩa quân bắt hoặc ra đầu hàng vào các trại tập trung ở
16 Lam Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình.
17 Chiêu dụ và ban quan tƣớc cho các tù trƣởng trấn thủ ở
18 các vùng biên giới. Sửa sang tu bổ lăng miếu các đời trƣớc
19 bị hƣ hại vì nạn binh lửa.
20 Tháng 3, sai Nguyễn Trãi ra thành Tam Giang dụ đƣợc
21 tƣớng Minh thành Lƣu Thanh ra hàng và dâng nạp thành
22 Tam Giang cho nghĩa quân.
23 Vƣơng Thông đƣa quân Minh tinh nhuệ từ trong thành
24 Đông Quan đánh úp Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt84. Lê Lợi sai
25 Đinh Lễ, Lê Xí đi cứu, đánh nhau ở My Động85: bị thua,
26 Đinh Lễ, Lê Xí đều bị bắt. Đinh Lễ không chịu khuất phục,
27 bị giết, Lê Xí nhân trời tối dùng mƣu trốn thoát.
28 Trƣớc đây, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), quân Minh bị
29 nghĩa quân đánh bại ở mặt trận Tụy Động, tƣớng Minh Trần
30 Hiệp và Lý Thƣợng bị giết tại trận, Vƣơng Thông phải xin
31 vua Minh cho thêm quân tăng viện để giải vây thành Đông
32 Quan. Vua Minh cử con trai Liễu Thăng cùng các đại tƣớng
33 Lƣơng Minh, Thôi Tụ, Lý Khánh, Hoàng Phúc và Nguyễn
34 Đức Huân thống lĩnh 100,000 quân binh và 20,000 ngựa
35 chiến từ Quảng Tây tiến đánh cửa ải Phả Lũy86.
36 Mặt khác, vua nhà Minh cũng cử tƣớng Mộc Thạnh cùng
37 với các tƣớng Từ Hanh, Đàm Trung từ Vân Nam tiến đánh

VSTK - 446
1 cửa ải Lê Hoa.
2 Các tƣớng sĩ của Lê Lợi nghe tin đại quân cứu viện của
3 nhà Minh sắp kéo sang, phần đông đều thúc hối Lê Lợi nên
4 đánh dứt điểm thành Đông Quan để tránh tình trạng đối
5 phƣơng dùng chiến thuật ngoài đánh vào, trong đánh ra. Lê
6 Lợi cho rằng chỉ cần chận đánh và tiêu diệt quân cứu viện
7 của ngƣời Minh đang mệt mỏi thì thành Đông Quan không
8 cần đánh cũng sẽ về tay nghĩa quân. Kể từ lúc đó, Lê Lợi
9 một mặt đốc thúc nghĩa quân vây đánh các thành trì còn do
10 quân Minh cố thủ, một mặt vẫn tiếp tục bao vây Đông Quan
11 và củng cố hàng ngũ quân dân bằng cách ban hành và áp
12 dụng thật nghiêm minh các luật lệnh, biện pháp trong tình
13 trạng chiến tranh khẩn cấp nhƣ:
14 - Cấm tả đạo bày trò ma quỉ để lƣờng gạt dân chúng.
15 - Lệnh đƣa dân chúng phiêu bạt vì binh lửa trở về nguyên
16 quán làm ăn nhƣ cũ.
17 - Cho phép những kẻ hợp tác với quân xâm lƣợc trƣớc đây
18 đƣợc lấy tiền để chuộc tội sau khi bị nghĩa quân bắt hoặc đã
19 tự ý ra hàng.
20 - Đƣa hơn 6,000 tù binh ngƣời Minh đến các trại tập trung ở
21 Thiên Trƣờng, Lý Nhân, Kiến Xƣơng và Tân Hƣng.
22 - Ban bố 3 điều huấn lệnh áp dụng cho các quan: không tắc
23 trách khinh nhờn, không lơ là thờ ơ, không gian tà tham
24 nhũng.
25 - Quy định 10 điều kỹ luật quân đội87 để áp dụng trong hàng
26 ngũ các tƣớng lãnh và nghĩa quân.
27 - Ấn định tƣớng hiệu88 lúc xuất quân đánh trận.
28 Kế đến, Lê Lợi sắp xếp việc phòng thủ một cách nghiêm
29 mật hơn:
30 - Ra lệnh cho dân chúng các lộ Lạng Giang, Bắc Giang,
31 Tam Đái, Tuyên Quang, Huy Hóa tiêu hủy đồng ruộng hoa
32 màu89 và di tản đi nơi khác để tránh né viện binh của quân
33 xâm lƣợc tràn tới.
34 - Ra lệnh cho nghĩa quân phải chờ cho đến lúc quân Minh
35 thấm mệt vì đƣờng xa tới mới đƣợc tấn công khi có hiệu
36 lệnh.
37 - Sai các tƣớng Lê Sát, Lƣu Nhân Chú, Lê Thụ, Lê Linh,

VSTK - 447
1 Đinh Liệt đem 10,000 nghĩa quân và voi trận mai phục ở ải
2 Chi Lăng90.
3 - Đặt các tƣớng Lê Lý và Lê Văn An chỉ huy 30,000 nghĩa
4 quân dùng làm lực lƣợng tấn kích trừ bị.
5 Tháng 9, ngày mồng 8, năm Đinh Mùi (1427), các tƣớng
6 Trần Hãn, Lê Sát đánh hạ thành Xƣơng Giang trƣớc khi viện
7 binh của Liễu Thăng tràn tới. Các tƣớng Minh thủ thành là
8 Kim Dận, Lý Nhâm đều tự sát.
9 Tháng 9, ngày 18, năm Đinh Mùi (1427), tƣớng Liễu
10 Thăng, Lƣơng Minh, Thôi Tụ, Lý Khánh, Hoàng Phúc,
11 Nguyễn Đức Huân với 100,000 quân và 20,000 ngựa trận
12 đánh vào Phả Lũy.
13 Các tƣớng Mộc Thạnh, Từ Hanh, Đàm Trung thúc 50,000
14 quân Minh cùng với 10,000 ngựa chiến tràn sang cửa ải Lê
15 Hoa.
16 Lê Lựu giữ cửa ải Pha Lũy thấy uy thế của quân Minh
17 quá hung hảng liền lui binh về giữ cửa Ái Lƣu91 rồi lại giả
18 thua lui về Chi Lăng. Đối phƣơng lầm tƣởng đƣợc thắng thế
19 nên cứ rầm rộ tiến quân thẳng tới uy hiếp ải Chi Lăng.
20 Nghĩa quân vẫn tiếp tục giả thua tháo chạy.
21 Ngày 20, Liễu Thăng và quân Minh rơi vào ổ phục kích
22 của nghĩa quân ở Chi Lăng. Quân mai phục của Lê Sát và
23 Lƣu Nhân Chú từ bốn phía ào ra chém giết, quân Minh đại
24 bại, Liễu Thăng bị chém chết ở núi Mã Yên92, xác quân
25 Minh nằm la liệt khắp nơi.
26 Ngày 25, đạo quân trừ bị 30,000 ngƣời của Lê Lý và Lê
27 Văn An cũng kéo tới Chi Lăng xung kích quân Minh, chém
28 tại trận tƣớng Lƣơng Minh.
29 Ngày 28, tƣớng Minh Lý Khánh không có đƣờng chạy
30 thoát, phải tự vẫn. Thôi Tụ, Hoàng Phúc miễn cƣỡng đôn
31 đốc quân Minh tiến lên nhƣng cũng bị đánh bại và rút chạy
32 về hƣớng Xƣơng Giang, lại bị nghĩa binh của Lê Sát đón
33 đánh. Quân Minh bị tiêu diệt vô số, nghĩa quân tịch thu rất
34 nhiều lừa, ngựa, trâu bò, quân dụng, quân nhu. Thôi Tụ và
35 Hoàng Phúc phải đào hào, đắp lũy ngoài đồng trống để cầm
36 cự với nghĩa quân.

VSTK - 448
1 Lê Lợi ra lệnh quân thủy, bộ bao vây, chận đƣờng tiếp tế
2 lƣơng thực của đố phƣơng , đem 30,000 nghĩa quân của các
3 tƣớng Phạm Vấn, Lê Khôi, Lê Xí đến tăng cƣờng. Phòng
4 tuyến cố thủ của quân Minh rối loạn, nghĩa quân giết đƣợc
5 hàng nghìn quân xâm lƣợc, bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc.
6 Thôi Tụ không chịu hàng phục cho nên bị giết chết.
7 Tƣớng Minh lão luyện nhiều kinh nghiệm Mộc Thạnh khi
8 đem quân tiến vào cửa ải Lê Hoa thì chạm trán ngay với các
9 tƣớng của Lê Lợi là Phạm Văn Xảo, Lê Khả, Lê Trung, Lê
10 Khuyến. Theo kế hoạch, nghĩa quân ở mặt trận nầy phải áp
11 dụng chiến thuật mai phục, chờ xem phản ứng và động tĩnh
12 của đối phƣơng mà ứng biến, không đƣợc có những hành
13 động nông nổi bộc phát khi chƣa đƣợc lệnh.
14 Sau khi giết đƣợc Liễu Thăng, Lê Lợi chọn kẻ tùy tƣớng
15 của Liễu Thăng bị nghĩa quân bắt đƣa qua hành doanh của
16 Mộc Thạnh, mang theo sắc thƣ, ấn tín của tƣớng Liễu
17 Thăng. Nhìn thấy các tín vật của Liễu Thăng, Mộc Thạnh
18 kinh hoàng, mất hết nhuệ khí vội vã bỏ trốn thoát thân lấy
19 một mình, mặc cho đoàn quân Minh hoang mang, nhốn
20 nháo. Các tƣớng Phạm Văn Xão, Lê Khả đƣợc lệnh tiến
21 công, nghĩa quân ào ra chém giết, truy kích, quân Minh lớp
22 bị giết, lớp bị bắt sống nhiều vô số kể, nghĩa quân thu đoạt
23 rất nhiều chiến lợi phẩm.
24 Lê Lợi lại sai Đặng Hiếu giải tƣớng Minh là Hoàng Phúc
25 bị nghĩa quan bắt sống ở Xƣơng Giang trƣớc đây cùng với
26 binh phù của Liễu Thăng, dấu ấn, cờ kiếm, sổ sách của các
27 tƣớng Lý Khánh (đã tự sát) và Hoàng Phúc, cho ngƣời đƣa
28 vào thành Đông Quan trong khi bên ngoài thành thì nghĩa
29 quân vẫn tiếp tục ào ạt đổ tới vây hãm.
30 Đồng thời, Lê Lợi sai tƣớng Nguyễn Lôi mang thƣ dụ
31 hàng các thành Cổ Lộng và Tây Đô lúc đó cũng đang bị
32 nghĩa quân trùng điệp bao vây.
33 Trong thành Đông Quan, Vƣơng Thông và Sơn Thọ kinh
34 hoàng bối rối, phải dụng kế hoà hoãn, rồi lại tiếp tục phản
35 công nhƣng cuối cùng cũng phải hàng phục cho ngƣời mang
36 thƣ đến xin giảng hòa. Lê Lợi chấp thuận nhƣng bắt Quân
37 Minh phải hội thề ở phía Nam thành Đông Quan để cam kết

VSTK - 449
1 không đƣợc tráo trở xóa bỏ hoà ƣớc đã đƣợc hai bên thỏa
2 thuận, hẹn đến tháng 12 âm lịch thì đoàn quân Minh xâm
3 lƣợc phải rút hết về Trung Hoa.
4 Ra lệnh cho nghĩa quân giải toả vòng vây các thành Tây
5 Đô, Cỗ Lộng và Chí Linh, cho phép quân Minh đƣợc tập
6 kết93 ra thành Đông Quan thi hành việc rút quân.
7 Cũng sai Nguyễn Trãi mƣợn danh nghĩa của vua bù nhìn
8 Trần Cảo viết tờ biểu, kèm theo lễ vật, sổ sách kê khai tù
9 binh và chiến lợi phẩm sẽ đƣợc trao trả lại cho nhà Minh, rồi
10 cho ngƣời đƣa sang Yên Kinh để báo cáo và yêu cầu vua
11 nhà Minh phong vƣơng tƣớc cho Trần Cảo.
12 Vua nhà Minh xem biểu biết là giả dối nhƣng vì đa số
13 triều thần nhà Minh đều muốn chấm dứt binh đao cho nên
14 phải chịu phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vƣơng, bãi
15 bỏ cơ quan đại diện cai trị Bố Chính sứ của nhà Minh đặt ở
16 Giao Chỉ94, ra lệnh rút hết quân Minh về nƣớc.
17 Dân, quân trong nƣớc vì căm hận quân Minh tàn bạo
18 muốn trả thù, nhƣng nghe theo cố vấn của Nguyễn Trãi, và
19 vì lợi ích hòa bình lâu dài của dân tộc và đất nƣớc trong
20 tƣơng lai, Lê Lợi chẳng những tha chết cho quan binh xăm
21 lƣợc của nhà Minh mà còn cung cấp phƣơng tiện vận
22 chuyển thủy bộ, sửa chữa cầu đƣờng và hộ tống cho tƣớng
23 tá, quan binh của họ đƣợc an toàn rút lui về nƣớc95.
24 Đất nƣớc đã đại định96, sạch bóng quân xâm lƣợc đến từ
25 phƣơng Bắc kể từ ngày 17 tháng 12 âm lịch năm Đinh Mùi
26 (1427). Sai Nguyễn Trãi soạn bản Đại cáo97 để tƣờng trình
27 khắp thiên hạ.

CHÚ GIẢI & KHẢO LUẬN:

28
1
Lê Lợi: Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn viết về lai lịch của Lê
29 Lợi nhƣ sau: "Vương họ Lê, tên húy là Lợi, người làng Lâm Giang, phủ
30 Thanh Hoa. Tằng tổ của vương (tức Lê Lợi) tên là Hối, tính tình chất
31 phát ngay thẳng, hiền hậu, ít nói nhưng hiểu biết rất sâu sắc, có thể
32 đoán trước được việc sẽ xảy ra. Khi dạo chơi dưới núi Lam Sơn, nhìn
33 thấy thế đất ở đây giống như một đám người tụ hội cho nên nghĩ rằng
34 đây là nơi đất lành, bèn dời nhà đến ở đấy, khai phá ruộng vườn, tự
35 chăm lo cày cấy, chằng bao lâu thì thành sản nghiệp, từ đấy, đời đời là

VSTK - 450
1 hùng trưởng một phương. Sau nầy vương dựng đô mở nước chính thực
2 cũng gây nền từ ở chốn đó.
3 Hoằng tổ (tức ông nội) của vương tên là Thinh nối được cơ nghiệp
4 tiền nhân, có lòng thương người, thiên hạ gần xa đều kéo nhau tới quy
5 phụ, trong nhà lúc nào cũng đông đúc hàng ngàn người. Bà nội của
6 vương là Nguyễn thị, tên Quách, sinh được hai con trai, con trưởng là
7 Tòng, con thứ tên Khoáng là cha ruột của vương. Cha của vương lấy lễ
8 nghĩa nuôi dưỡng tân khách, thương yêu dân lành, giúp đỡ nuôi dưỡng
9 kẻ khốn cùng nghèo khó, săn sóc người bệnh tật, cả một vùng đều mến
10 phục nghĩa khí. Mẹ của vương là Trịnh thị, tên Ngọc Thương, sinh hạ 3
11 con trai, con trưởng là Học, con thứ là Trừ, con trai út tức là vương
12 (Lợi). Khi lớn lên, vương thông minh dũng lược, khoan dung độ lượng
13 hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng dũng kiện tráng, mắt sáng mồm
14 rộng; sống mũi cao, xương mi mắt nhô lên; vai bên trái điểm 7 nốt
15 ruồi, bước đi bệ vệ như rồng như hổ; tiếng nói vang vang như tiếng
16 chuông. Người thức giả nhìn thấy đều biết ngay vương là một nhân vật
17 phi thường.
18 Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, vương ở quê nhà đọc sách, nghiền
19 ngẫm binh pháp, ép mình chờ thời vận. Đến khi giặc Minh sang đánh
20 bắt họ Hồ mang về Kim Lăng, đặt nước ta thành quận huyện, vương
21 ngầm có chí khôi phục non sông nên hạ mình tôn người hiền, bỏ tiền
22 của ra nuôi binh sĩ, chiêu nạp những kẻ tội đồ trốn lánh hoặc chống
23 đối, được nhiều người đến xin quy phục.
24 Các vua Hậu Trần Hưng Khánh và Trùng Quang nối tiếp khởi binh
25 chống giặc Minh, lấy danh nghĩa là khôi phục ngôi vua nhà Trần, được
26 nhiều người hưởng ứng nhưng vương biết rõ thời thế, cho rằng sẽ
27 không thành công và vì thế không tham gia, tiếp tục hết sức ẩn dấu lý
28 lịch hình tích, không lộ tiếng tăm.
29 Những hào kiệt thời ấy như Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc
30 Hưng, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu, Lê Xa
31 Lôi đều kẻ trước người sau đến quy phục, tất cả đều được vương kính
32 cẩn đón tiếp, cùng nhau bí mật mưu việc khởi nghĩa".
33
2
Lam Sơn: nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
34
3
Lƣơng Giang: nay là huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, Thanh
35 Hóa.
36
4
Chủ Sơn: còn gọi là Thủy Chú, huyện Lôi Dƣơng, nay thuộc xã Xuân
37 Thắng, huyện Thọ Xƣơng, Thanh Hóa.
38
5
Lôi Dƣơng: nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
39
6
Lạc Thủy: theo KĐTGCM là Cử Long, một vùng của tộc ngƣời Mán.
40 Nhà Đinh, nhà Tiền Lê gọi là mán Cử Long, nhà Lý diệt đƣợc và chiêm
41 cứ. Năm Thuận Thiên (1428-1433) nhà Lê (Lê Lợi) đặt là huyện Lạc
42 Thủy; năm Quang Thuận (1460-1469) đổi là Cẩm Thủy, nay thuộc phủ
43 Quang Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Có thuyết cho là một địa điểm ở vùng
44 thƣợng lƣu sông Chu, phía trên Lam Sơn .

VSTK - 451
1
7
Núi Chí Linh: tức là núi Pù Rinh, thuộc xã Giao An, huyện Lang
2 Chánh, tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
3
8
Nga Lạc: ĐVSKTT và VSCMTY ghi chú thì đồn Nga Lạc ở gần Lam
4 Sơn, thuộc vùng Bái Thƣợng ngày nay. KDVSTGCM chua là huyện
5 Nga Sơn thuộc phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Theo sách Thiên hạ
6 quận quốc lợi bệnh toàn thƣ của nhà Minh thì ải nầy thuộc
7 huyện Nga Lạc
8
9
Lê Lai: ngƣời xã Dậng Tú, huyện Thụy Nguyên. ĐVTS ghi: ông
9 người thôn Dậng Tú, sách Đức Giang, huyện Lương Giang (Ghi chú
10 trong LTHCLC thì Lƣơng Giang là huyện Thụy Nguyên).
11
10
Phụng Hóa: tức Thiên Trƣờng
12
11
Mƣờng: trong các sử sách cũ ghi chép bằng tiếng Hán thƣờng gặp rất
13 nhiều từ không quen thuộc, ít khi đƣợc nghe thấy dùng để gọi các vùng
14 địa hạt hành chánh chẳng hạn nhƣ: mƣờng, man, mọi, động, sách, tuần,
15 vạn, trang, trại, sở, nha, đội, quán, nguyên, châu, ải, quan...vân...vân.
16 Việt Sử Tân Khảo cố gắng truy cứu nghĩa của các từ không quen
17 thuộc nầy để liệt kê thành một số định nghĩa tổng quát tuy nhiên mức
18 độ chính xác của những định nghĩa nầy thì còn phải chờ nhiều ý kiến
19 đóng góp.
20 Mường: địa hạt của dân tộc thiểu số chiếm cứ, tƣơng đƣơng với một
21 thôn hoặc ấp ở miền xuôi. Thí dụ: mƣờng Thôi, là thôn Thôi, nay là
22 huyện Man Xôi, phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa giáp ranh nƣớc Lào.
23 Man: hay Mán, một bộ tộc dân thiểu số. Thí dụ: man Mang Hổ ở
24 Sầm Châu, sau gọi là Sầm Nứa, ở về phía Tây Nam Thanh Hóa, giáp
25 giới với Ai Lao.
26 Mọi: để chỉ chung nhóm tộc thiểu số chƣa đƣợc khai hóa nhiều so
27 với ngƣời Kinh.
28 Động: địa hạt của dân tộc thiểu số chiếm cứ, thƣờng là ở các vùng
29 núi ở biên giới, có thể lớn bằng nhiều làng dƣới miền xuôi của ngƣời
30 kinh. Thí dụ: động An Bang, động Hóa Long, theo chú giải của
31 KĐVSTGCM thì các động nầy ở châu An Bình, thuộc phủ Thái Bình,
32 trấn Sơn Nam, tên các động nầy nay đã thay đổi nhƣng không thể tra
33 cứu.
34 Sách: xóm dân cƣ miền sơn cƣớc, thƣờng đƣợc rào và cắm cọc
35 chung quanh để ngăn ngừa thú dữ hoặc ngƣời lạ; còn đƣợc coi là một
36 địa hạt hành chánh của dân tộc thiểu số ngày trƣớc, giống nhƣ đơn vị
37 thôn, xã của ngƣời Kinh. Thí dụ: sách Nguyệt Ấn nay thuộc huyện
38 Thụy Nguyên (trƣớc là huyện Lƣơng Giang), phủ Thiệu Thiên, Thanh
39 Hóa.
40 Tuần: địa điểm xung yếu có đặt cơ quan chính quyền để kiểm soát
41 và đánh thuế đồng thời cũng đảm trách việc canh phòng an ninh.
42 Vạn: địa hạt miền bờ biển có đông dân cƣ chuyên nghề chài lƣới,
43 đánh bắt thủy sản.

VSTK - 452
1 Trang: thôn ấp hay một vùng đất riêng do một đại điền chủ hoặc do
2 những kẻ có uy quyền lập ra rồi cho ngƣời khác thuê mƣớn để khai thác
3 thƣơng mại, hoặc trồng trọt. Thí dụ: trang Vân Đồn.
4 Trại: xóm ngƣời ở nơi một vùng đất hoang xa xôi hẻo lánh hay ở
5 những nơi phù sa đất bồi để khai khẩn. Chữ trại còn có thể đƣợc dùng
6 những nơi nào không phải là kinh đô. Thí dụ: Kinh trạng nguyên, Trại
7 trạng nguyên.
8 Sở: Nơi tập hợp ngƣời làm công, thợ thuyền, phu phen để xây dựng
9 hoặc làm công tác trồng trọt, canh nông một cách quy mô rộng lớn. Thí
10 dụ: Sở trồng trà, sở trồng và chế biến cao su. Dƣới thời Tự Đức nhà
11 Nguyễn, có Sở Vạn Niên là nơi tập trung nhiều thợ và phu để xây lăng
12 tẩm kéo dài nhiều năm liền.
13 Nha: Thí dụ nhƣ Nha môn, thƣờng là nơi làm việc của các quan phủ
14 huyện.
15 Đội: Một đơn vị trong tổ chức binh đội ngày xƣa thƣờng gồm có
16 100 ngƣời. Danh từ đội còn có nghĩa là một nhóm, một toán ngƣời cùng
17 chung làm một việc gì.
18 Quán: Nơi để hành khách ở trọ, ăn uống. Nhà học trong làng cũng
19 đƣợc gọi là Thôn quán.
20 Nguyên: Nguồn, chẳng hạn nhƣ nguồn nƣớc thủy nguyên; chỗ khởi
21 đầu chẳng hạn nhƣ nguyên thủy; còn có nghĩa là nơi bắt đầu vào một
22 vùng có lập quán xá và có dân chúng cƣ ngụ gọi là nguyên đầu.
23 Châu: một cồn đất hay cồn cát hay một bãi đất sông thƣờng nổi lên
24 có nƣớc bọc chung quanh ngăn cách với đất liền nhƣng không phải là
25 một cù lao.
26 Ải: thí dụ nhƣ cửa ải, tức là một vị trí đi vào hoặc đi ra biên giới của
27 một nƣớc, thƣởng có đặt binh lính để kiểm soát việc xuất, nhập ngƣời
28 và hàng hóa. Thí dụ: Ải quan.
29
12
Thi Lang: không thể tra cứu.
30
13
Ba Lẫm: tên một Sách. ĐVSKTT chú thích và cho rằng có lẽ là vùng
31 Chiền Lẫm ở xã Điền Lƣ, thuộc huyện Bá Thƣớc, tỉnh Thanh Hóa.
32
14
Lỗi Giang: tức là một nhánh phân lƣu của sông Mã, ở huyện VĨnh
33 Lộc, tỉnh Thanh Hóa, hạ lƣu của sông Lỗi Giang thông với sông Đại
34 Lại.
35
15
Quan Du: tên một trại xƣa, nay là châu Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
36
16
Ba Lẫm: xem chú thích 13 trên.
37
17
Đèo Ống: nguyên là Úng Ải; ở xã Thiết Ống , tả ngạn sông Mã.
38
18
Sách Khôi: tức là huyện Khôi, thuộc trấn Thiên Quan, ở giữa 2 huyện
39 Nho Quan tỉnh Ninh Bình và huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
40
19
Lô Sơn: ở khoản giữa hai xã Trịnh Điện và Hựu Thủy, cách châu
41 Quan Hóa gần 100 dặm về phía Tây.
42 19bis Trà Lung: có sách chép là Trà Long hay Trà Lân, đất huyện Con

43 Cuông, Tƣơng Dƣơng, tỉnh Nghệ An ngày nay.

VSTK - 453
1
20
Đa Căng: có thể là đồn nầy ở Bất Căng, thuộc xã Thọ Nguyên, nằm
2 trên hữu ngạn sông Chu ở Thanh Hóa.
3
21
Lƣơng Nhữ Hốt: ngƣời ở Trạo Vịnh, thuộc Hoằng Hóa, Thanh Hóa;
4 theo hợp tác với quân Minh làm đến chức tham chính. Sau khi quân
5 Minh bị đánh đuổi về nƣớc, Nhữ Hốt cùng với Trần Phong, An Vinh,
6 Trung, Tồn, Sĩ Văn, Xác và Sùng Lể lại trở về đầu hàng nghĩa quân,
7 đƣợc Lê Lợi khoan hồng tha tội hợp tác với quân ngoại xâm nhƣng sau
8 họ lại mƣu phản, định cấu kết với quân Minh một lần nữa để làm nội
9 ứng cho nên ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (1428) đều bị giết cả.
10 (ĐVSKTT/BK/Q.X/ 25a,62a,62b)
11
22
Quỳ Lạp: còn gọi là Bồ Lạp, Bồ Cứ, Bồ Đằng, đó là một ngọn núi ở
12 xã Châu Nga, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
13
23
Cửa ải Khả Lƣu: ở phía Bắc sông Lam, nay thuộc xã Vĩnh Sơn,
14 huyện Anh Sơn, tỉnh nghệ An.
15
24
Đa Lôi: nay là xã Nam Kinh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
16
25
Thổ Du: tên huyện, nay là huyện Thanh Chƣơng thuộc tỉnh Nghệ An.
17
26
Ngọc Ma: châu Ngọc Ma, nay là phủ Trấn Định thuộc tỉnh Nghệ An.
18
27
Đông Quan: tức thành Thăng Long còn gọi Đông Đô, bị quân Minh
19 chiếm đóng bị đổi tên là Đông Quan.
20
28
Cửa sông Đỗ Gia: tên huyện xƣa, nay là huyện Hƣơng Sơn, thuộc
21 Nghệ An.
22
29
Thành Diễn Châu: còn có tên là thành Trài, nay còn dấu vết ở xã
23 Diễn Hồng, Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, cách quốc lộ số 1 chừng 400
24 thƣớc về phía Đông và cách Cửa Vạn khoảng 2 cây số.
25
30
Thành Tân Bình: tên phủ thời quân Minh chiếm đóng, nay gồm đất
26 các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Lệ Ninh, Tuyên Hóa, Bến Hải, tỉnh
27 Quảng Bình.
28
31
Thành Thuận Hóa: tên phủ thời quân Minh, gồm các huyện Triệu
29 Hải, Hƣơng Điền, Hƣơng Phú, Hƣơng Hóa, Phú Lộc, tỉnh Quảng Trị và
30 tỉnh Thừa Thiên/ Huế ngày nay.
31
32
Trần Hãn: có sách chép là Trần Nguyên Hãn, ngƣời làng Sơn Đông,
32 huyện Lập Thạch (nay thuộc Vĩnh Phúc), là dòng họ Trần Nguyên Đán,
33 sau đƣợc ban cho mang họ Lê.
34
33
Đại thiên hành hóa : tức thay trời tiến hành việc giáo hóa.
35
34
Thiên Quan: vùng đất huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình hiện nay.
36
35
Quảng Oai: thuộc Sơn Tây.
37
36
Quốc Oai: thuộc Sơn Tây.
38
37
Gia Hƣng: thuộc Hƣng Hóa.
39
38
Quy Hóa: thuộc Hƣng Hóa.
40
39
Đà Giang: thuộc Hƣng Hóa.
41
40
Tam Đái: bây giờ là Vĩnh Tƣờng, Sơn Tây.
42
41
Tuyên Quang: thời kỳ bị quân Minh xâm chiếm gọi là Tuyên Quang
43 phủ; thời Minh Mệnh (nhà Nguyễn/ Gia Long) gọi là tỉnh Tuyên Quang.
44 Tuyên Quang phía Tây giáp giới tỉnh Vân Nam của nƣớc Trung Hoa,

VSTK - 454
1 phía Đông giáp Sơn Tây, phía Bắc liền với Thái Nguyên, phía Nam tiếp
2 cận Hƣng Hóa.
3
42
Thiên Quan: xem chú thích 34 trên.
4
43
Kiến Xƣơng: nay thuộc tỉnh Nam Định.
5
44
Tân Hƣng: nay là phủ Tiên Hƣng thuộc tỉnh Thái Bình.
6
45
Ninh Kiều: nay thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Chƣơng Mỹ, tỉnh Hà Tây,
7 nằm trên đƣờng đi từ Đông Quan vào Thiên Quan và Thanh Hóa.
8
46
Ứng Thiên: nay là phủ Ứng Hòa, thuộc Hà Tây.
9
47
Ninh Giang: phía trên liền với với cửa sông Hát, phía dƣới đổ vào
10 sông Xá (tục gọi là Thá tức là chỗ Ngã Ba Thá) rồi thông với Châu
11 Giang chảy vào sông Hoàng Giang (tức là sông Hồng). Ngày nay là
12 đoạn sông Đáy chảy qua Hà Tây, Nam Hà rồi theo sông Mỹ Đô chảy
13 vào sông Hồng.
14
48
Cầu Xa Lộc: ngày trƣớc quen gọi là cầu Ròng Fọc ở gần làng Tứ Xã,
15 huyện Lâm Thao cũ, nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.
16
49
Thành Tam Giang: là trị sở của phủ Tam Giang, nằm ở phía Bắc ngã
17 ba Hạc, có thể là thành cổ Dục Mỹ, ở gần cầu Xa Lộc.
18
50
Cầu Nhân Mục: tức là cống Mộc, ở xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm
19 (nay là quận Thanh Xuân) Hà Nội. Cầu bắc ngang qua sông Tô Lịch,
20 trên đƣờng từ Đông Quan đến Ninh Kiều.
21
51
Ninh Giang: xem chú thích 47 trên.
22
52
Khâu Ôn: còn gọi là Kheo Ôn, nay thuộc tỉnh Lạng Sơn.
23
53
Cầu Tây Dƣơng: tức cầu Giấy bắc ngang sông Tô Lịch, huyện Từ
24 Liêm, Hà Nội ngày nay.
25
54
Bến Cổ Sở: tức bến Giá ở xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Tây ngày
26 nay.
27
55
Cầu Yên Quyết: tức cống Cót ở Hạ Yên Quyết, gần Láng, Hà Nội.
28
56
Cầu Sa Đôi: phía tây xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội. cầu nầy
29 bắt ngang sông Nhuệ.
30
57
Cầu Thanh Oai: bắc qua sông Động ở xã Bình Minh, huyện Thanh
31 Oai, tỉnh Hà Tây ngày nay.
32
58
Ninh Kiều: xem giải thích 45 ở trên.
33
59
Cổ Lãm: là tổng Thắng Lãm, còn gọi là Số, nay gồm các xã Phú
34 Lãm, Phú Cƣờng, Văn Khê, huyện Thanh Oai, Tỉnh Hà Tây.
35
60
Quân tiền sát: quân đi trƣớc để quan sát và tìm nơi quân địch phục
36 kích hoặc trú đóng để báo về cho quân chính quy tới để đánh.
37
61
Cầu Tam La: tức Ba La, còn gọi là Ba La Bông Đỏ, sát thị xã Hà
38 Đông, trên đƣờng đi Thanh Oai và Vân Đình, nay thuộc tỉnh Hà Tây.
39
62
Cổ Sở: xem chú thích 54 trên.
40
63
(không có chú thích 63).
41
64
Cao Bộ: còn có tên là Bụa, thuộc xã Trung Hoà, huyện Chƣơng Mỹ,
42 tỉnh Hà Tây ngày nay.
43
65
Thanh Đàm: là huyện Thanh Trì. Trị sở ngày xƣa ở Đông Nam Văn
44 Điển, Hà Nội.

VSTK - 455
1
66
Tốt Động: còn gọi là làng Rét, một vùng đất thấp và lầy lội, cũng là
2 một vùng đồng chiêm trũng.
3
67
Chúc Động: cách Tốt Động 6 km về phía Đông Bắc và phía Tây Ninh
4 Kiều. Hai con đƣờng từ Ninh Kiều đến Cao Bộ đều phải đi qua vùng
5 Chúc Động, nay là Chúc Sơn, xã Ngọc Sơn, huyện Chƣơng Mỹ Hà
6 Tây.
7
68
Chuông Quy Điền: ở thôn Thanh Bảo, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài
8 Đức, tỉnh Hà Nội có chùa Một Cột. Sử cũ về đời nhà Lý có viết rằng:
9 nhà Lý đúc quả chuông lớn đặt ở chùa Một Cột nhƣng đánh không có
10 tiếng kêu ngân cho nên đem vứt chuông đó xuống ruộng rùa; ruộng nầy
11 trũng, ẩm thấp nên có nhiều rùa cho nên gọi là ruộng tụ hợp của loại
12 rùa tức Quy Điền (quy là rùa. điền là ruộng).
13
69
Vạc Phổ Minh: là chiếc vạc lớn để ở chùa Phổ Minh, gần thành phố
14 Nam Định, tỉnh Nam Hà. Chùa nầy đƣợc xây vào năm 1262, đời Trần
15 Thánh Tông.
16
70
Tây Phù Liệt: thuộc huyện Thanh Trì ngày nay.
17
71
Sông Đại Lũng: là sông Đáy hiện nay.
18
72
Sông Hát: ở xã Hát Môn, huyện Phú Thọ
19
73
Đông Bộ Đầu: tức là bến Đông Tân sông Nhị Hà, nay ở khoảng dốc
20 Hàng Than, phía trên cầu Long Biên, Hà Nội.
21
74
Sông Lô: tức sông Hồng ngày nay.
22
75
Cầu Tây Dƣơng: là cầu Giấy ngang qua sông Tô Lịch, huyện Từ
23 Liêm, Hà Nội.
24 75bis Bốn Đạo: 1-Tây Đạo gồm có Tam Giang, Tuyên Quang, Hƣng Hóa

25 Hóa,Gia Hƣng; 2- Đông Đạo gồm có các lộ Hồng Sách thƣợng, Hồng
26 Sách hạ, và trấn Yên Bang; 3- gồm có lộ Bắc Giang và trấn Thái
27 Nguyên; 4- Nam Đạo gồm các lộ Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hƣng,
28 Kiến Xƣơng và Thiên Trƣờng.
29
76
Núi Không Lộ: ở huyện Thạch Thất, trên một ngọn núi ở tỉnh Sơn
30 Tây có chùa Lạc Lâm, đời nhà Lý có nhà sƣ tên là Không Lộ tu ở đó vì
31 vậy lấy tên nhà sƣ đặt cho ngọn núi (trích dẫn cƣớc chú trong
32 ĐVSKTT/BK/Q.X/24b).
33
77
Trần Phong: ngƣời xã Ma Thiện, huyện Chí Linh, đầu hàng và đƣợc
34 quân Minh ban cho chức Đô ty.
35
78
Trần An Vinh: đầu hàng và đƣợc quân Minh ban cho chức Đô chỉ
36 huy.
37 78 bis Thành Điêu Diêu: ở huyện Gia Lâm, Hà Nội.

38
79
Thành Thị Cầu: nay thuộc thị xã Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc.
39
80
Thành Xƣơng Giang: nay là thị xã Bắc Giang, tỉnh Hà Bắc.
40
81
Ngoại Lang: một chức quan ở hàm tòng lục phẩm không có nhiệm vụ
41 cố định, đƣợc quyền tham dự bàn chính sự. Sáu bộ là: Lại bộ, Binh bộ,
42 Lễ bộ, Công bộ, Hộ bộ, Hình bộ.
43
82
Bồ Đề: ở phía bắc sông Hồng, ở thôn Phú Hữu, huyện Gia Lâm ,vì có
44 cây bồ đề nên mới gọi nhƣ vậy.

VSTK - 456
1
83
Chiến xa đặc biệt: ĐVSKTT gọi các xe nầy là xe phần ôn, xe phi mã.
2 Xe Phần ôn là loại xe có 4 bánh, căng dây làm khung che bằng da trâu,
3 bên dƣới có thế núp ẩn đƣợc chục ngƣời; sắt, lửa, đá, gỗ không thể
4 xuyên phá nổi xe nầy. Xe phi mã cũng là một loại xe để đánh thành.
5
84
Tây Phù Liệt: xem chú thích 70 ở trên.
6
85
My Động: xã Hoàng Mai, huyện Thọ Xƣơng (nay thuộc quận Hai Ba
7 Trƣng), Hà Nội.
8
86
Cửa ải Phả Lũy: Ở xã Đồng Đăng, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn,
9 nay là Nam Quan còn gọi là Mục Nam Quan.
10
87
Mƣời điều kỹ luật quân đội: còn gọi là quân kỹ. Mƣời điều quân kỹ
11 áp dụng cho nghĩa binh của Lê Lợi nhƣ sau:
12 1. Trong hàng quân huyên náo, không nghiêm.
13 2. Vô cớ gây kinh động, mê hoặc lòng quân.
14 3. Lúc ra trận không nghe theo tiếng trống hoặc nhì theo cờ hiệu để
15 tiến tới.
16 4. Không nghe hiệu lệnh dừng quân.
17 5. Không chịu lui quân khi nghe hiệu chiêng.
18 6. Phòng thủ lỏng lẻo, rời bỏ điếm canh phòng, đào ngũ, bỏ trốn.
19 7. Không thi hành nghĩa vụ quân sự, lén mƣớn ngƣời khác đi thay.
20 8. Tham ô ăn tiền đút lót để không bắt lính.
21 9. Theo thói ƣa ghét riêng làm đảo lộn công tội của ngƣời.
22 10. Gian ác, trộm cƣớp.
23
88
Tƣớng hiệu: là mẫu mực ra hiệu lệnh để cho các tƣớng áp dụng trong
24 hàng quân của mình. Các tƣớng hiệu nầy nhƣ sau:
25 1. Nghe một tiếng súng lớn mà không có tiếng chiêng thì phải đến
26 ngay để nhận lệnh của cấp trên;
27 2. Nghe hai hoặc ba tiếng súng lớn có kèm theo tiếng chiêng là báo
28 động;
29 3. Khi có báo động khẩn cấp thì viên chấp lệnh (nhỏ cấp bậc hơn viên
30 chánh đốc) phải nhanh chóng chỉnh đốn hàng ngũ, viên thiếu úy (nhỏ
31 cấp bậc hơn đại tƣ mã) phải trình diện ngay để nhận lệnh;
32 4. Lúc lâm trận, kẻ nào lùi chạy, bỏ trốn, không tiếp cứu đồng đội thì
33 bị chém; 5. Nếu hợp sức lo đem xác của đồng đội để mang về thì không
34 có tội.
35
89
Tiêu hủy đồng ruộng, hoa màu: tức là áp dụng biện pháp vƣờn
36 không nhà trống nhằm mục đích để cho giặc vào chiếm đóng nhƣng
37 giặc sẽ không còn gì để sinh sống sử cũ gọi là dùng kế thanh dã.
38
90
Cửa ải Chi Lăng: một cửa ải rất trọng yếu trên đƣờng từ Phả Lũy
39 đến Đông Quan, cách Phả Lũy khoảng 60 km, nay thuộc xã Chi Lăng,
40 huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
41
91
Cửa Ái Lƣu: trên đƣờng từ Khâu Ôn đến Chi Lăng, nằm ở khoảng
42 Lạng Nắc, vùng giáp giới hai xã Nhân Lý và Sao Mai, huyện Chi Lăng
43 ngày nay.

VSTK - 457
1
92
Núi Mã Yên: tức là gò Đảo Mả, còn gọi là núi Yên Ngựa, một hòn
2 núi nhỏ không cao lắm, vào khoảng 40m cao, chu vi 300m, nằm ở phía
3 Nam cánh đồng Chi Lăng. Dƣới chân núi là đồng nƣớc lầy lội, muốn
4 lên núi thì phải bắc cầu mới qua đƣợc.
5
93
Tập kết: gom tụ tất cả về một nơi nhất định.
6
94
Giao Chỉ: tên gọi ngƣời Trung Hoa Tàu thƣờng dùng để chỉ nƣớc Đại
7 Việt, thời thuộc Minh đổi gọi là Giao Châu.
8
95
Cung cấp phƣơng tiện vận chuyển thủy bộ: gồm có 500 chiếc
9 thuyền cho bọn Phƣơng Chính, Mã Kỳ lãnh nhận. Trên bộ, cấp phát
10 lƣơng thảo cho bọn Sơn Thọ, Hoàng Phúc lãnh nhận. Giao trả hàng
11 ngàn tù binh, hàng ngàn xe, ngựa do Mã Anh lãnh nhận.
12
96
Đại định: hoàn toàn ổn định, hòa bình, độc lập và tự chủ.
13
97
Đại cáo: tƣờng trình, báo cáo tất cả mọi sự việc đã làm..

KHẢO LUẬN:

1. Về việc Lê Lai liều mình cứu Lê Lợi

14 Chuyện Lê Lai liều mình cứu Lê Lợi, bị quân Minh bắt đƣợc hầu hết
15 sử sách cũ ghi chép nhƣng lại không thấy nói tới trong ĐVSKT. Rất có
16 thể là những điều viết về Lê Lai của các sử sách viết sau ĐVSKTT đã
17 không phản ảnh đúng sự thật để che dấu một hành động nhầm lẫn hay
18 một quyết định quá tay nào đó của Lê Lợi trong việc đối xử với các
19 công thần đã từng nằm gai nếm mật, chung lƣng đấu cật đánh đuổi giặc
20 Minh và ngay cả việc hy sinh tính mạng của mình liều chết để cứu vớt
21 Lê Lợi trong lúc nguy kịch ngặt nghèo. Lê Lai bị giặc bắt giết hay
22 chính tay Lê Lợi đã lấy mạng sống của Lê Lai?
23 Các sách, sử cũ nhƣ KĐVSTGCM và VSCMTY đều viết rằng rằng
24 Lê Lai bị quân Minh bắt và giết đi.
25 ĐVSKTB/thời Tây Sơn thì lại viết rằng quân Minh bắt Lê Lai về xử
26 cực hình.
27 ĐVTS/ Liệt Truyện/Chƣ Thần Truyện/Lê Quý Đôn cũng viết là Lê
28 Lai bị quân Minh bắt và xử cực hình. Nhƣng trƣớc đó, trong phần
29 ĐVTS/ Đế kỷ viết về Lê Lợi có chép chuyện Lê Lai và viết: ". . .Lê Lai
30 chống cự đến kiệt sức thì bị bắt, quân Minh dẫn Lê Lai về thành Đông
31 Quan giết chết, chúng bèn lui quân, ta được thoát nạn".
32 LTHCLC/Nhân vật chí của Phan Huy Chú có lời án nhƣ sau: "Còn
33 như Lê Thạch làm tiên phong thường thắng; Lê Lai vì nước bỏ mình;
34 Lê Triệu; Lê Lễ bày mưu lạ phá giặc đều là tướng giỏi có tiếng một
35 thời, tiếc rằng chết vì việc nước, so với các tướng khác được cùng với
36 nước cùng hưởng vui sướng thì có phần thiệt thòi, cho nên không riêng
37 chép ra, chỉ nhân thể chép phụ vào sau thôi "; và phần phụ chú (b) thì

VSTK - 458
1 viết về Lê Lai nhƣ sau :". . .Ông xin đi. Bèn mặc áo bào, đem quân
2 xong vào hàng trận của giặc, đánh đến đuối sức, bị bắt. Vua (Lê Lợi)
3 nhân dịp trốn thoát ".
4 Nhƣ vậy, chỉ có một điều chắc chắn là Lê Lai có bị quân Minh bắt
5 nhƣng Lê Lai có bị quân minh giết hay không thì sách sử cũ đã viết
6 lách tiền hậu bất nhất: chỗ nầy thì viết một cách mơ hồ là Lê Lai bị
7 quân Minh áp dụng cực hình nhƣng không nói loại cực hình gì bởi lẽ
8 bị áp dụng cực hình không nhất thiết là phải bị giết; chỗ khác thì lại
9 viết rằng Lê Lai bị quân Minh giết nhƣng không nói rõ họ giết Lê Lai ở
10 đâu, rồi họ vứt xác hoặc chôn vùi xác Lê Lai ở đâu?
11 Lại nữa, tại sao Phan Huy Chú khi viết về Lê Lai thì lại dùng lối
12 than thở tiếc rằng chết vì nƣớc và cái chết của Lê Lai có phần thiệt thòi
13 so với các tƣớng khác? Chết vì nƣớc thì có gì gọi là đáng tiếc và thiệt
14 thòi? Nhất định Phan Huy Chú không muốn hậu thế hiểu nhƣ thế. Tiếc
15 rẻ và thiệt thòi có thể là vì cái chết của Lê Lai là một cái chết oan uổng,
16 bất công, và mờ ám. Cái chết đến với Lê Lai bởi vì Lê Lai quá nôn
17 nóng lo âu cho vận mạng và tiền đồ của đất nƣớc đến mức độ bất đồng
18 chính kiến, muốn đi ngƣợc lại chủ trƣơng và đƣờng lối của một ngƣời
19 thƣợng cấp đầy quyền lực lúc đó hay nói khác đi, Lê Lai chết không
20 phải vì bị quân xâm lƣợc nhà Minh bắt giết nhƣng Lê Lai chết là do
21 chính Lê Lợi đã tuyên bản án tử hình cho ngƣời bạn trung nghĩa đã
22 từng dám hy sinh cả mạng sống để cứu thoát Lê Lợi khỏi nanh vuốt của
23 quân xâm lƣợc phƣơng Bắc.
24 Tại sao lại đƣa ra nghi vấn nầy?
25 Bởi vì trong ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên cũng nhƣ trong ĐVTS của
26 Lê Quý Đôn khi chép về những sử cố xảy ra trong tháng Giêng năm
27 Đinh Mùi (1427) đều có một đoạn viết đáng đƣợc khảo xét nhƣ sau:
28 "Ngày 13, giết Tư mã Lê Lai; tịch thu gia sản, vì Lai cậy có chiến công,
29 nói năng khinh mạn".(ĐVSKTT/BK/Q.X/27b), (ĐVTS/Q.I/Đế Kỷ Đệ
30 nhất/27b/Lê Quý Đôn Toàn Tập). Tƣ mã Lê Lai nầy là ai? Còn Đô tổng
31 quản Lê Lai chịu chết thay cho Lê Lợi là ai?
32 Phải chăng là có 2 Lê Lai khác nhau hay là 2 ngƣời nầy trƣớc sau
33 chỉ là một? Hoặc là vì có sách sử viết đúng, có sách sử viết sai? Tại sao
34 trong KĐVSTGCM và ĐVKTB/Tây Sơn không chép về việc Lê Lợi
35 giết tƣ mã Lê Lai vào thời kỳ tháng Giêng năm Đinh Mùi (1427)? Sách
36 sử nào ghi chép đúng, trung thực và sách sử nào luồn lách, bao che viết
37 sai sự thật?
38 ĐVSKTT cho biết rằng: Lê Lợi là ngƣời đa nghi, hiếu sát,
39 (BK/Q.X/1a và 75 a).
40 ĐVTS của Lê Quý Đôn viết: "Vua cảm động vì lòng trung nghĩa
41 của ông (Lê Lai), trước hết sai người ngầm tìm di hài ông, đem về mai
42 táng ở Lam Sơn" (Lê Quý Đôn Toàn tập/ĐVTS/Liệt Truyện/Chƣ Thần
43 Truyện/108a).

VSTK - 459
1 Việc tìm thấy đƣợc di hài của Lê Lai sau khi bị quân Minh bắt đem
2 đi rồi giết chết là một chuyện mò kim đáy biển, khó tin.
3 Năm Đinh Mùi (1427) là năm mà Lê Lợi ban hành tình trạng chiến
4 tranh khẩn trƣơng và áp dụng luật pháp quân sự một cách cứng rắn cho
5 tất cả mọi ngƣời không phân biệt quan quân hay thƣờng dân, không vị
6 tình đối với bất cứ ngƣời nào.
7 Riêng đối với các hàng quan và tƣớng lãnh thì Lê Lợi có ba điều răn
8 dạy :
9 1- Chớ vô tình;
10 2- Chớ khinh nhờn;
11 3- Chớ gian tham.
12 Trong khung cảnh đó, Lê Lợi đã thẳng tay trừng trị để răn đe và làm
13 gƣơng những ngƣời vi phạm quân pháp, dù kẻ bị trừng trị là đại công
14 thần cũng không đƣợc tƣ vị hay gia giảm tội.
15 Rất có thể sau khi đã dụ đƣợc quân Minh rƣợt theo mình để cho Lê
16 Lợi thoát thân thì Lê Lai vẫn còn sống sót thoát khỏi sự truy đuổi của
17 quân Minh, Lê Lai đã trở về vùng căn cứ an toàn của nghĩa quân và
18 đƣợc Lê Lợi ban cho chức tƣ mã. Sau đó, ỷ mình có công lao cứu mạng
19 cho Lê Lợi, Lê Lai đã không giữ ý tứ và xử sự không đúng theo thứ bậc
20 của mình trong những cuộc bàn định chống quân xâm lƣợc, đi đến mức
21 khinh nhờn, bất đồng chính kiến với Lê Lợi khiến cho Lê Lợi phẫn nộ
22 giết đi. Sau đó, để cho Lê Lợi không bị mang tiếng vong ân bội nghĩa,
23 giết hại công thần, thì trong sử sách của đình thần triều Hậu Lê phải
24 viết ra chuyện Lê Lai liều mình cứu chúa, bị quân Minh bắt giết đi.
25 Dù sao, những điều khảo luận kể trên về cái chết của Lê Lai cũng
26 chỉ là một nghi án nêu lên để ngƣời đi sau sáng suốt hơn có thể tìm ra
27 đƣợc một giải đoán thích đáng và chính xác về trƣờng hợp có tới 2
28 nhân vật lịch sử cùng có tên là Lê Lai nầy. Việt Sử Tân Khảo theo ý
29 kiến cho rằng chỉ có một Lê Lai liều mình cứu chúa, còn tƣ mã Lê Lai
30 bị Lê Lợi giết là một viên tƣớng nào đó cũng đƣợc mang họ Lê nhƣng
31 tên không phải là Lai nhƣ ĐVSKTT đã nhầm lẫn viết là Lê Lai. Bản
32 ĐVTS của Lê Mạnh Liên, phần chữ hán chép tay lƣu trữ trƣớc đây tại
33 viện khảo cổ Sài Gòn dƣới số VS.15 chỉ ghi nhƣ sau: "Viên tư mã họ
34 Lê, cậy có chiến công. . .", không có chữ "Lai".
35 Trong Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sĩ cũng viết rằng: " Lê Lai
36 khiêu chiến với quân Minh rồi chết" và không chép chuyện viên tƣ mã
37 họ Lê (Bản dịch năm 1960 của hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Á
38 Châu). Việt Sử Tân Khảo ngày nay cũng không chính thức ghi lại
39 chuyện của viên tƣ mã họ Lê mơ hồ nầy.

2. Về cuộc chiến tranh của ngƣời dân đại việt để dành


độc lập, tự do từ 1407 đến 1427

VSTK - 460
1 * Sử thần Ngô Thời Sĩ bàn: "Người Minh đặt nước ta làm quận
2 huyện, tự cho rằng uy lực có thể áp chế được, sẽ không có người nào
3 dám ngu động.Nhưng từ tháng 5 năm Đinh Hợi (1407), bắt được họ
4 Hồ; tháng 8, Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân về, tháng 10 vua Hậu
5 Trần Giản Định lên ngôi, rồi tiếp đến vua Trùng Quang, đâu đâu các
6 hào kiệt cũng kéo nhau ra hưởng ứng, xé quần áo làm cờ, vác cuốc làm
7 binh khí. Người ngã xuống thì cứ ngã, người đứng lên cũng cứ đứng
8 lên, suốt 5,6 năm chiến tranh không dứt, giặc Minh mới biết là khó bình
9 định, do đấy (giặc) mới ban chiếu sắc cầm quyền hoặc ủy dụ quân dân,
10 hoặc khen thưởng an ủi thổ dân (thổ dân: là ngƣời dân địa phƣơng của
11 lãnh thổ bị giặc chiếm đóng). Đến bây giờ lại ban dụ cho các quan bố
12 chánh phủ, huyện, và các hạng kỳ lão quan lại nhân dân những lòng
13 nhân tha lỗi, những chính sách ca ngợi bậc trung lương những điều
14 khoản giáo hóa để cho dân trở thành tục tốt tràn đầy sử sách. Nhưng
15 Trương Phụ đi đến đâu cũng tàn nhẫn như hổ dữ nuôi con, lệnh của
16 Hoàng Phúc đầy dẫy như lông bò. Vua Minh ở nơi thâm cung ngồi
17 khoanh tay xa xôi hàng vạn dặm không biết rằng những bang nội thuộc
18 đang khổ sở với quan văn tướng võ như vậy."
19 Ở một đoạn khác Ngô Thời Sĩ cũng viết: "Vua Giản Định, vua
20 Trùng Quang đều là con cháu của Trần Nghệ Tông, vua Giản Định nhu
21 nhược, mê muội tài trí đều kém. Trần Triệu Cơ tôn phò lên để nối lại
22 cái cơ nghiệp đã bị dứt, bọn Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân dìu dắt để
23 chống lại nước láng giềng đương mạnh; chiến thắng ở Bô Cô đã hơi
24 gây được thanh thế, nhưng lại đi nghi người trung nghĩa, nghe kẻ nịnh,
25 bỏ vuốt nanh của mình cho kẻ thù được khoái chí, tự chuốc lấy bại
26 vong chẳng đáng bàn tới nữa. Vua Trùng Quang trổi dậy trong bước
27 đường cô quạnh. Người nâng bên hữu, người đỡ bên tả cũng chỉ có hai
28 tướng họ Nguyễn họ Đặng nhưng khi đem quân đi đánh thì sơ hở, khi
29 lui giữ thì chỉ giữ được một góc xứ Nghệ An, Diễn Châu ngoài ra
30 không còn có đất dụng võ. Chiến thắng ở Bến La, Bình Than không đủ
31 để bù được thất bại ở Linh Trường, Nguyệt Thường. Vua Trùng Quang
32 đánh nhau với giặc Minh thường bị thua ở cửa biển Linh Trường và ở
33 sông Nguyệt Thường. Nghĩa quân thì gần như tan rã, sứ gởi đi cầu
34 phong thì không thấy về (chỉ việc Nguyễn Biểu đi sứ mắng chửi giặc bị
35 giặc giết). Chí khí của Đặng Dung, Nguyễn Súy tuy không nhụt nhưng
36 bọn giặc bạo ngược thường chiếm mất sự thuận tiện.. . .Vua chết vì
37 nước, bề tôi chết vì vua.
38 Sau thời hai vua Hồ, nhà Trần lại chưa mất được 7 năm vì trời đã
39 phát sinh ra cha con Đặng Tất, Đặng Dung, Cảnh Chân, Cảnh Dị và
40 Nguyễn Súy làm người phụ tá cho Hưng Khánh, Trùng Quang. Không
41 có 5 người ấy thì nhà Trần không thể hồi phục dù là chỉ tạm thời nhưng
42 nếu 5 người đó chưa chết thì nhà Trần cũng chưa mất.. Cứ xem Đặng
43 Tất, Cảnh Chân bị hại vì Hưng Khánh; Đặng Dung, Cảnh Dị lại lập
44 một vua, cố sức với dòng họ nhà Trần, lặn lội vất vả, liều sống liều

VSTK - 461
1 chết, chỉ biết có nước mà chẳng nghĩ tới tình nhà, chỉ biết có vua mà
2 quên cả bản thân mình.. Đặng Dung tự mình nhảy lên thuyền giặc suýt
3 bắt sống được giặc nhưng tiếc thay không tìm được tướng giặc ở đâu;
4 Nguyễn Súy sai người đi ám sát giặc Trương Phụ, một người đầu
5 thuyền, một người mũi thuyền, gươm giáo chật đất, sức cùng lực kiệt
6 mà chí khí vẫn hăng; đùa với rồng rắn, hét với hổ lang, coi thường như
7 nắm đồ vật trong tay, thề sống chết với bọn giặc, thực là dũng cảm
8 oanh liệt! Bậc anh hùng cái thế không lập được công nghiệp phi
9 thường mà đành ôm hận với cái chết, hàng trăm đời sau có ai là không
10 phục cái chí khí, cái tiết tháo quyết liệt và thanh cao của các ông?"
11 * Sử thần Ngô Sĩ Liên cũng có lời bàn về thời Kỳ Hậu Trần nhƣ
12 sau: "Vua Trùng Quang với một lữ quân mong khôi phục nước, trong
13 lúc loạn lạc lưu ly, cũng như lấy một cây gỗ để chống cả một tòa nhà
14 đã nghiêng đổ. Há lại không biết rằng, thế không thể cứu vãn được hay
15 sao? Nhưng hãy làm hết trách nhiệm mà mình nên làm, may ra có thể
16 kéo lại thời mệnh. Còn như bị giặc bắt đem về, giữ nghĩa không chịu
17 nhục đành nhảy xuống nước chết, cùng mất với Nước đúng như câu nói
18 "Quốc quân chết vì xã tắc". Vua thực là người như thế. Còn các bề tôi
19 của vua như Cảnh Dị chửi giặc muốn cho chóng bị giết; Nguyễn Biểu
20 kể tội ác của giặc rồi chết, tất cả đều rạng rỡ đáng khen.. Ôi, những kẻ
21 bề tôi trung với nước dù chết vì nghĩa cũng không có tội gì, mà tiếng
22 thơm còn mãi; những kẻ bất trung phản quốc cũng chẳng tránh được
23 cái chết mà còn lại tiếng xấu đến nghìn năm. Đúng như thế
24 đấy"(ĐVSKTT/BK/Q.IX/24a,24b).
25 3. Về cuộc tụ nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi
26 từ năm 1416 đến 1427
27

28 Có những lời bàn luận nhƣ sau:


29 * Ngô Sĩ Liên nói: "Loạn lạc tột cùng thì trị bình sẽ tới, đó là vận
30 hành của trời. Sự loạn lạc bờ cõi nước Việt ta thì chưa có thời nào
31 cùng cực như thời ấy, các lần dấy nghiệp đế vương chưa bao giờ khó
32 khăn như thời ấy. Triệu Vũ Đế nhân nhà Doanh Tần loạn lạc, Trung
33 Quốc không có người đứng đầu, bọn hùng trưởng tranh giành nhau để
34 tranh dành đất đai thì cũng chưa gọi là khó. Đinh Tiên Hoàng nhân khi
35 họ Ngô mất nước, 12 sứ quân tản mác cát cứ không có kỷ cương mà
36 gây dựng cơ nghiệp thì cũng chưa gọi là khó. Nhà Lê (chỉ nhà Tiền Lê
37 do Lê Hoàn sáng lập) thay nhà Đinh, nhà Lý thay nhà Lê, nhà Trần
38 thay nhà Lý đều là thời nối theo buổi thái bình, nhân có suy loạn thì
39 càng dễ lắm. Đúng ra, tất cả đều là cướp ngôi dành nước của người ta
40 chứ chẳng phải là hành động nhân nghĩa có thể để lại tiếng thơm cho
41 thiên hạ hay dùng làm gương sáng cho mọi người noi theo giống như
42 gương sáng của vua Thang, vua Vũ đã làm sự đổi đời. Nhà Hồ cướp
43 ngôi, tự chuốc lấy bại vong, giặc Minh bạo tàn gian giảo hòng thay đổi
44 bờ cõi, giả nhân giả nghĩa để diệt nước người ta, giết hại, làm càn, thả

VSTK - 462
1 tay chém giết dân ta, con thơ mọn mắc vòng thảm họa gươm đao chết
2 chóc, quăng xác, mổ thây.. Người lớn thì thì chạy sang Chiêm Thành về
3 phía Nam, phía Tây trốn sang Đại Lý, làng xóm hoang tàn, xã tắc
4 thành gò đống làm hang làm ổ cho thỏ ở, làm bãi cho hưu ăn, bãi
5 hoang cho chim đậu, núi cao cho hổ náu mình. Rồi giặc chia châu, đặt
6 huyện, đào hào, đắp lũy đưa quân sang đồn trú trấn thủ ở hơn 20 năm,
7 đổi phong tục thành người phương Bắc tóc dài trắng răng (phong tục
8 của ngƣời Tàu để tóc dài, răng trắng, phong tục của ngƣời Đại Việt lúc
9 đó là tóc ngắn, răng nhuộm đen). Thật là loạn lạc tột cùng chưa từng
10 thấy có!
11 Vương (chỉ Lê Lợi) sinh vào thời buổi ấy, bẩm chất văn võ bẩm
12 sinh, đương buổi trời đất đoái nhìn, không thể ngồi yên lấy mắt ngó
13 nhìn dân chúng lầm than, quân giặc ngang ngược. Nghĩ rằng việc nhân
14 nghĩa thay trời đánh giặc nếu không là vương đảm trách thì còn ai dám
15 cán đáng. Nhưng vẫn lo rằng vận hội chưa thông, việc khó khăn cùng
16 tột khó có thể thành đạt, làm nên tức khắc, cho nên mới tụ hội bầy tôi
17 cùng chung một chí hướng, rèn kiếm, ẩn náu nơi Lam Sơn, đợi thời cơ,
18 chờ địch sơ hở. Gặp việc thì đắn đo suy xét không hấp tấp làm càng,
19 tìm nơi hiểm yếu mà đặt binh, lấy quân ít đánh địch nhiều, tùy tình hình
20 mà ứng biến thay đổi. Tịch thu, gom góp khí cụ lương khô của giặc để
21 dùng đánh lại giặc, củng cố xây dụng lực lượng trong 10 năm bằng tất
22 cả tâm trí nghị lực. Chính nhờ ở mưu sâu, tính kỹ cho nên hể đánh thì
23 thắng, vây thành thì hạ được. Đánh một trận dẹp yên Hoan châu, Hóa
24 châu; trận thứ hai thì bình định châu Diễn, châu Ái. Khi phất cờ đại
25 nghĩa thì khí thế nghiêm minh. Vượt biển thúc quân khiến cho quân
26 giặc từ Cổ Lộng, đến Chí Linh đều khiếp vía, hành quân trèo đèo vượt
27 suối mà giặc ở Tam Giang, Đông Quan phải bay hồn. Các tướng giặc
28 Vương Thông, Phương Chính thế cùng lực tận co ro chờ viện binh tiếp
29 cứu. Liễu Thăng hướng Bắc, Mộc Thạnh phía Tây ào quân xăm lấn
30 mong tiếp nối việc hung tàng bạo ngược của thời Hạ Kiệt. Nực cười
31 cho hai đạo viện binh, khác gì mang càng châu chấu cho đá xe, đúng là
32 lũ điên khùng chẳng khác gì đem thân tự trói. Giặc giống như ác thú đã
33 bị bắt nhốt vào chuồng, vẩy đuôi hiền thục xin thương, thì vương cũng
34 mở lưới khoan nhân mà tha cho, mười vạn quân đầu hàng được toàn
35 tính mạng cho trở về phương Bắc. Lấy chí nhân thay cường bạo, bốn
36 biển khắp nơi đều sợ uy chăm lo tiến cống, mọi người chiêm ngưỡng
37 nhớ ơn vì được sống lại, tốt đẹp biết nhường nào ! Thế mới biết, khi cực
38 loạn thì đời trị càng thịnh, lòng nhân sâu thi người nhớ tất xa".
39 (ĐVSKTT/BK/Q.X/52b, 53a,b, 54a,b).
40 * Sử thần Ngô Thời Sĩ bàn: "Khi giặc Minh xâm lấn Phương Nam
41 thì bọn chúng cho vùng Lạng Sơn là chỗ yết hầu liền đắp nhiều thành
42 lũy, xếp đất đá mà làm thật cao rộng, kiên cố, Phả Lũy và Chi Lăng có
43 thành xây bằng gạch. Thành Chi Lăng dựa lưng vào núi đá, qua một
44 cái khe thi mới tới được vòng thành, cửa Nam của thành có một hòn đá

VSTK - 463
1 nằm khắc hàng chữ "Hoàng tráng nhị thập đội" trông như mới. Bên
2 cạnh hòn đá thì gạch nung chất đống như gò; hào, ao thì chỗ nào cũng
3 có. Đó là công tác xây hào đắp lũy của giặc Minh làm kế cố thủ và từ
4 đó có thể suy ra được rằng các thành khác của giặc đều tương tựa như
5 thế. Xét ra việc đặt nơi hiểm trở xung yếu dĩ nhiên là việc cần thiết
6 không thể lơ là thiếu sót, tuy nhiên được lợi về địa thế thì không thể
7 cùng sánh với việc được lòng dân, giặc Minh muốn chiếm đất nhưng lại
8 không lo đến việc vỗ về ngời dân trong những nơi bị chúng chiếm đóng.
9 Người dân đã cùng cực dưới chính sách cai trị cứng rắn của Hồ quá
10 lâu, rồi thì bệnh tật, đói khát binh đao liên miên, thương vong, chết
11 chóc gần hết. Bấy giờ bọn quan lại của giặc Minh không một chút
12 thương sót dân lành, mệnh lệnh thì dày đặc như lông bò, chính sự thì
13 hà khắc như loài hùm dữ mọc thêm cánh, bắt dân khẩn hoang làm
14 ruộng, đặt lệnh cấm và giới hạn tư nhân sản xuất và tiêu dùng muối,
15 nông dân, thương nhân thống khổ; thổ quan, thổ lại, nhà nho, thầy
16 thuốc, thầy bói lần lượt bị đuổi; từ học trò, người có học cho đến thứ
17 dân đều bị khổ ải bắt làm lụng xây cất cho giặc; đường thủy bộ đi sang
18 Yên Kinh thì chia thành trạm để kiểm soát việc đi lại của người dân;
19 bắt đãi vàng bạc, lặng mò trân châu, bòn vét tài nguyên ở rừng núi,
20 biển khơi; chặt đốn cây hương liệu, bắt voi trắng khiến cho chim
21 muông, thú rừng bị khuấy động tuyệt giống. Thế mà còn mưu toan củng
22 cố thành lũy, chia quan ty, đặt thủ bị để mãi mãi có quận huyện đất
23 lành tức là đã không đạt được điều căn bản mà chỉ dấy lên nhất thời,
24 để thỏa mãn dục vọng trong khi còn vắng bóng người lãnh đạo chân
25 chính. Chẳng bao lâu vương (Lê Lợi) ứng vận ở Lam Sơn, nghĩa quân
26 đi tới đâu thì giặc Minh không thể cự đương được, thành giặc cướp
27 được nhưng giặc lại không thể giữ được. Quan quân văn võ độc ác của
28 giặc Minh hoặc bỏ chạy, hoặc bị giết; tướng giặc Hoàng Phúc cũng bó
29 tay bị bắt làm tù binh, hả được lòng oán hận của quỉ thần, nhân dân đã
30 rửa nhục cho đất nước. Đến nay di tích của giặc Minh cũ chỉ còn lũy
31 hoang, thành đổ, lau cỏ mọc đầy, gai góc khắp nơi. Quan binh của giặc
32 xăm lăng không trở về nước Tàu còn tới vài chục vạn, đời đời đồng hóa
33 với dân nước ta, người Tàu cho là điều sỉ nhục và ân hận lâu đời không
34 thể gột rửa. Tham công lớn, ích lợi tiêu tan!" (ĐVSKTB/TBK/Tây Sơn/ Q.X/
35 54b, 55a, b, 56a).
36 * Tự Đức trong KĐVSTGCM có lời phê nhƣ sau: Bình Định vương
37 là bậc tài trí sáng suốt, lại giỏi dụng binh, các tướng chẳng ai sánh kịp.
38 Vì thế cho nên chiến thắng được quân địch mạnh lớn, khai sáng được
39 cơ nghiệp, dõi truyền được quốc thống: thật là xứng đáng!"
40 (CB/Q.XIV/20)
41 * Lê Quý Đôn trong ĐVTS có lời bàn rằng: "Vua Thái Tổ ta (chỉ Lê
42 Lợi), có tài dùng binh, khi mới dựng cờ khởi nghĩa, chỉ vỏn vẹn có hai
43 trăm quân thiết đột, hai trăm dũng sĩ và với ba trăm nghĩa binh. Thế
44 mà phía Tây, Ai Lao phải thần phục, phía Bắc dẹp hết giặc Ngô (giặc

VSTK - 464
1 Ngô là tiếng gọi thƣờng đƣợc dùng trong sử cũ của Việt Nam để chỉ
2 chung những đoàn quân xâm lƣợc đến từ Trung Hoa). Xét về kế mật,
3 mưu kỳ, phần nhiều là do tài thao lược. Vua lại tinh tường việc chính
4 trị; khi mới đến hành doanh Bồ Đề, đã tuyển chọn hiền tài để xử dụng,
5 đặt quan chia chức, trừ tàn cấm bạo, thương yêu quân dân, thu hút các
6 bộ lạc, phòng bị nơi biên cương. Thực đã có ngay một quy mô đại định
7 thiên hạ (Lê Quý Đôn Toàn Tập/ĐVTS).
8 * Thiện Đình Đặng Xuân Bảng trong VSCMTY xét: "Từ khi quân
9 nhà Trần bắt Ô Mã Nhi đến nay, Phương Nam (chỉ nƣớc Đại Việt) đắc
10 chí với Phương Bắc (chỉ nƣớc Trung Hoa), chưa bao giờ có thắng lớn
11 như lúc nầy" (tức là lúc nghĩa quân của Lê Lợi bắt đƣợc các tƣớng của
12 quân Minh là Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng với hơn 3 vạn tù binh).
13 4. Chiến thắng Lịch sử Chi Lăng - Xƣơng Giang
14 Chi Lăng là một cửa ải hiểm yếu nằm trên đƣờng từ Lạng Sơn đến
15 Đông Quan. Đó là một thung lũng nhỏ có diện tích vào khoảng 4 km
16 vuông. Phía Tây là một dãy núi đá vôi lởm chởm, sƣờn núi thẳng đứng,
17 phía Đông là núi rừng dày đặc trùng điệp. Giữa thung lũng Chi Lăng có
18 5 ngọn núi nhỏ cùng với những vũng, đầm lầy lội.
19 Với vị trí và địa hình nhƣ thế, Chi Lăng là mồ chôn thƣờng xuyên
20 các đạo quân xâm lƣợc đến từ Trung Hoa nhƣ quân Tống, quân Nguyên
21 trƣớc đây. Tuy nhiên trận Chi Lăng nổi tiếng và vang vội nhất trong
22 lịch sử là do chiến công của nghĩa quân Lam Sơn vào tháng 9 âm lịch,
23 năm Đinh Mùi (1427). Quân binh của Lê Lợi đã bố trí trận địa mai
24 phục sẵn trong ải và sắp xếp quân đánh dụ địch từ trên đƣờng tiến quân
25 của địch để dẫn đƣa địch lọt vào vào ổ phục kích.
26 Tƣớng Minh Liễu Thăng với 10 vạn quân dƣới quyền đã tỏ ra chủ
27 quan, kiêu căng và khinh địch. Khi tiến gần tới cửa ải, tƣớng giặc đơn
28 thân chỉ huy một đội quân cỡi ngựa xung trận tiến lên trƣớc để mở
29 đƣờng.
30 Ngày 20 tháng 9 âm lịch, năm Đinh Mùì (1427), toàn bộ đoàn quân
31 mã tiên phong mở đƣờng của Liễu Thăng lọt vào trận địa mai phục của
32 nghĩa quân do Lê Sát và Lƣu Nhân Chú chỉ huy, quân Minh hoảng hốt,
33 đội ngũ rối loạn, bị tiêu diệt gọn, Liễu Thăng bị chém chết bên sƣờn núi
34 Mã Yên. Nghĩa quân thừa thắng tiến công liên tục, tiêu diệt hàng vạn
35 quân Minh.
36 Kế tiếp, quân Minh cố chấn chỉnh đội ngũ, tiến về Đông Quan. Phó
37 tƣớng Lƣơng Minh lên thay thế Liễu Thăng để chỉ huy.
38 Ngày 25 tháng 9 âm lịch, năm Đinh Mùi (1427), quân Minh lại bị
39 chận đánh quyết liệt ở Cầu Trạm (nay là vùng Kép và một ở một số
40 xóm phía Tây Nam xã Hƣơng Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc
41 ngày nay), tƣớng Lƣơng Minh bị chém chết tại trận.

VSTK - 465
1 Ngày 28 tháng 9 âm lịch, 2 tƣớng của nhà Minh là Thôi Tụ và Lý
2 Khánh dẫn đám quân tơi tả gắng gƣợng tiến về thành Xƣơng Giang vì
3 đinh ninh thành nầy vẫn còn ở trong tay của quân Minh.
4 Với trận phục kích của nghĩa quân ở một vùng đồi đất giữa Cầu
5 Trạm và Xƣơng Giang (vùng Phố Cát, khoảng xã Xƣơng Lâm, huyện
6 Lạng Giang, Hà Bắc ngày nay) khiến tƣớng Lý Khánh quá khiếp sợ
7 nên phải tự sát vào ngày 28 tháng 9 âm lịch năm Đinh Hợi (tức ngày 18
8 tháng 10 dƣơng lịch năm 1427). Thôi Tụ một mình dẫn đám tàn quân
9 hƣớng nhanh về Xƣơng Giang nhƣng đến nơi thì mới vỡ lẽ là thành
10 Xƣơng Giang đã vào tay của nghĩa quân 10 ngày trƣớc khi quân Minh
11 tràn vào biên giới Đại Việt.
12 Quân Minh ngơ ngác kinh hoàng, phải đóng quân lại ngay giữa
13 cánh đồng trống trải. Nghĩa quân đƣa quân tăng cƣờng trùng điệp bao
14 vây.
15 Ngày 15 tháng 10 âm lịch, năm Đinh Mùi (ngày 3 tháng 11 dƣơng
16 lịch, năm 1247), nghĩa quân đồng loạt tấn kích, tiêu diệt gọn toàn bộ
17 quân Minh, bắt sống tất cả các tƣớng chỉ huy, thu đƣợc vô số vũ khí,
18 quân trang và lƣơng thực. Các quân binh ngƣời Minh nào chạy thoát thì
19 lại gặp ngƣời dân quê địa phƣơng tóm gọn, trong vòng 5 ngày không
20 sẩy chạy một ai. Sử cũ Đại Việt viết rằng: những quân giặc chạy trốn
21 thì trong khoảng không đến năm ngày đều bị những dân chăn trâu,
22 những người dân kiếm củi bắt bằng hết, không sót tên nào).
23 Chƣa đầy một tháng, phòng tuyến Chi Lăng-Xƣơng Giang đã đè bẹp
24 và tiêu diệt hầu hết 100,000 ngàn quân tiếp viện của đoàn quân xâm
25 lƣợc. Chiến thắng vang vội nầy là kết quả sáng tạo khôn khéo của một
26 bộ tham mƣu tài giỏi, có kỹ luật, dùng chiến lƣợc lấy ít đánh nhiều phối
27 hợp với kỹ thuật đánh phục kích đầy biến hóa, hiệu nghiệm, chiến đấu
28 với một lòng dũng cảm hy sinh vô song của toàn thể vua, quan, tƣớng,
29 lính và dân chúng.
30 Chiến thắng Chi Lăng-Xƣơng Giang là chiến thắng quyết định cho
31 công cuộc chiến tranh đuổi giặc ngoại xâm và giải thoát nhân dân Đại
32 Việt khỏi ách nô lệ của ngoại bang bởi vì, nghe tin đạo quân của Liễu
33 Thăng bị tiêu diệt, đạo quân của tƣớng già đầy kinh nghiệm Mộc Thạnh
34 đang dằn co với nghĩa quân ở vùng biên giới đã phải kinh hồn bạt vía
35 vội tháo chạy. Nghĩa quân truy kích giết đƣợc hàng vạn , bắt sống hàng
36 ngàn quân nhà Minh.
37 Hai đạo viện binh của ngƣời Minh bi tiêu diệt mất tăm hơi khiến cho
38 tƣớng giặc còn kẹt lại ở Đông Quan là Vƣơng Thông và nhiều tƣớng
39 khác của nhà Minh tại những thành khác hoàn toàn bị cô lập và tuyệt
40 vọng, phải xin đầu hàng và chịu gục đầu thề ƣớc để dƣợc quân dân Đại
41 Việt tha chết cho rút quân về Trung quốc.
42 Không những cho quân xâm lƣợc đƣợc rút lui an toàn về nƣớc,
43 quân và dân Đại Việt còn cung cấp cho họ lƣơng thực, và phƣơng tiện
44 vận chuyển để họ thi hành hoà ƣớc rút quân. Đây là một nghệ thuật kết

VSTK - 466
1 thúc chiến tranh hết sức ngoạn mục thể hiện ý chí hoà bình và tình cảm
2 nhân đạo hiếm có của dân tộc Đại Việt, có thể nói đó là lần đầu tiên xảy
3 ra ở vùng đất Á Châu xa xôi nầy.
4 Ngày 17 tháng 12 âm lịch năm Đinh Mùi tức vào khoảng ngày 3
5 tháng 1 đƣơng lịch năm 1428, kẻ xâm lƣợc cuối cùng bị quét sạch ra
6 khỏi bở cõi nƣớc Đại Việt.

7 5. Nguyễn Trãi và bản Bình Ngô Đại Cáo


8 Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380 tại Thăng Long, quê
9 vốn ở làng Chi Ngại (Chí Linh, Hải Hƣng), nhƣng sau dời về làng Nhị
10 Khê, huyện Thƣợng Phúc, Hà Đông (Thƣờng Tín, Hà Tây) là con của
11 Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại Trần Nguyên Đán, đỗ tiến sĩ (Thái học
12 sinh) năm 21 tuổi vào cuối đời nhà Trần (1400), có ra làm quan dƣới
13 triều đại nhà Hồ. Lúc quân Minh xâm lăng, cuộc kháng chiến của nhà
14 Hồ thất bại, Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt nhƣng Nguyễn Trãi
15 thoát đƣợc, sau đó tƣớng nhà Minh là Trƣơng Phụ bắt ép Nguyễn Phi
16 Khanh phải viết thƣ gọi ông ra đầu thú rồi giam lỏng ông ở thành Đông
17 Quan để tìm cách dụ dỗ, mua chuộc nhƣng ông nhất định không chịu
18 hợp tác, và suýt bị Trƣơng Phụ giết chết. Khi các phong trào chống
19 Minh trong nƣớc bắt đầu nổi dậy, Nguyễn Trãi mới tìm cách trốn đi,
20 lặng lội vào Thanh Hóa tìm gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang với tập Bình Ngô
21 Sách, trong đó vạch rõ những đƣờng lối và phƣơng hƣớng cơ bản để
22 chống quân ngoại xâm , giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nƣớc
23 Đại Việt.
24 Mùa Xuân, năm Đinh Mùi (1247), Nguyễn Trãi đƣợc Lê Lợi cho
25 giữ chức triều liệt đại phu, nhập nội hành khiển, thƣợng thƣ bộ Lại,
26 làm việc viện Khu mật. Các thƣ từ đi lại giao dịch với quân Minh và
27 những bài hiểu dụ gửi cho các tƣớng của quân Minh trú đóng trong các
28 thành do họ chiếm đƣợc đều do ông soạn. Sau Khi Lê Lợi nghe theo lời
29 cố vấn của ông tha cho đoàn quân bại trận nhà Minh về nƣớc , ông
30 vâng mệnh soạn bài Bình Ngô Đại Cáo, một bản tuyên ngôn độc lập
31 của một dân tộc nhỏ bé nhƣng rất anh hùng trong vùng trời châu Á.
32 Sau chiến thắng của nghĩa quân trên hai mặt trận Tốt Động và Chúc
33 Động, quân Minh càng ngày càng bị lún sâu vào thế phòng thủ, thụ
34 động, không dám lựa chọn một chiến trƣờng nhất định nào để tranh đua
35 với nghĩa quân nữa, trong khi nghĩa quân Lam Sơn thừa thắng phát
36 động mạnh mẽ các cuộc vây bủa, tiến công trên khắp các chiến trƣờng.
37 Thành Đông Quan và nhiều thành khác do quân xâm lƣợc tạm thời
38 chiếm đóng nay đang trong tình trạng sôi bỏng, sống dở chết dở, tiến
39 thối đều tắt nghẽn, đành phải ngóng ngồi chờ viện binh cứu viện từ
40 Trung Quốc đồng thời cũng giả trá xin cầu hòa thƣơng lƣợng để dùng
41 kế sách hoãn binh. Nguyễn Trãi đƣợc Lê Lợi trao trọng trách thƣơng
42 lƣợng với giặc. Mặc dù biết quân Minh man trá dùng kế hoãn binh để

VSTK - 467
1 chờ ngƣời của họ tiếp cứu, nhƣng Nguyễn Trãi vẫn đƣợc lệnh tiếp tục
2 cuộc đàm phán. Trong công tác nói chuyện phức tạp nầy, Nguyễn Trãi
3 lúc nào cũng cho quân xâm lƣợc thấy chính nghĩa và thế nhất định phải
4 thắng của toàn dân Đại Việt, đồng thời lột trần bản chất phi nhân, phi
5 nghĩa, tàn bạo, của quân Minh để rồi nói cho họ biết rõ lý do tại sao họ
6 chắc chắn sẽ bị thảm bại:"Nay tính dùm cho các ông thì thấy có 6 điều
7 sau đây khiến các ông phải thua: Nước lụt ngập tràn, tường rào nghiên
8 đổ, lương khô rơm cỏ túng cùng, ngựa chết, quân đau. Đó là điều phải
9 thua thứ nhất.
10 Xưa Đường Thái Tông chỉ cần bắt được Kiến Đức thì Thế Sung
11 phải ra hàng. Nay ở những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân voi của
12 nghĩa quân đồn giữ, thảng viện binh các ông có tới thì nhất định phải
13 thua. Viện binh đã thua thì bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua
14 thứ hai.
15 Nước Trung Hoa của các ông hiện nay, quân hùng tướng mạnh,
16 ngựa tốt đều tập trung đưa lên mạn phía Bắc để phòng bị quân Nguyên,
17 còn hơi đâu nữa để mà ghé mắt dòm ngó che đỡ cho các ông ở phía
18 Nam nầy. Đó là điều phải thua thứ ba.
19 Luôn luôn gây chiến, dấy động can qua, người sống không vui, nhao
20 nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư.
21 Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia
22 đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm.
23 Nay chúng tôi dấy nghĩa binh, trên dưới một lòng, anh hùng lừng
24 lẫy, quân hùng tướng giỏi, khí giới sáng ngời, vừa cày ruộng vừa đánh
25 giặc còn trong thành thì quân binh của các ông đầu đau lưng mỏi, chờ
26 giờ thảm bại diệt vong. Đó là điều phải thua thứ sáu" (Nguyễn Trãi Toàn Tập)
27 Trong giai đoạn chuẩn bị đón đánh đoàn quân cứu viện của quân
28 Minh đến từ mạn Bắc, công tác vận động, kêu gọi và thuyết phục kẻ
29 địch đƣợc đẩy mạnh để hỗ trợ cho cuộc tấn công toàn diện bằng quân
30 sự của nghĩa quân. Nguyễn Trãi đƣợc giao nhiệm vụ trực tiếp điều hành
31 và thực hiện công tác dân vận và địch vận một cách linh hoạt và hiệu
32 quả.
33 Đối với quân xâm lƣợc hung hăng, lì lợm, hiếu chiến nhƣ Phƣơng
34 Chính thì Nguyễn Trãi vạch mặt chỉ tên, đả kích không nhân nhƣợng:
35 "Ta nói với ngươi, tên giặc dữ Phương Chính kia: đạo làm tướng thì
36 phải dùng nhân nghĩa làm gốc, trí dũng giúp thêm. Nay lũ ngươi
37 chuyên lừa dối phỉnh gạt, giết hại người vô tội, xô đẩy người vào chỗ
38 chết mà không biết xót thương. Các việc làm đó của lũ bây thì trời
39 không dung, đất không tha, quỉ thần phẫn nộ, người đời oán ghét, cho
40 nên dù cứ năm tháng chinh phạt liên miên, nhưng đánh chỗ nào thì
41 thua chỗ đó".
42 Đối với kẻ ngoại thù thì giọng lƣỡi của Nguyễn Trãi thật đanh đá
43 và sôi nổi. Nhƣng đối với những kẻ bỏ dân tộc theo quân ngoại xâm thì
44

VSTK - 468
1 Nguyễn Trãi lại kiên trì, nhẫn nại và ôn hòa thuyết phục để kêu gọi,
2 đánh thức lƣơng tri những kẻ đi lầm đƣờng hãy quay trở về với dân tộc.
3 Tình cảm quê hƣơng, tình yêu tổ quốc giống nòi, tình yêu gia đình đƣợc
4 Nguyễn Trãi khơi dậy để kêu gọi những hạng ngƣời vong bản phải tự
5 cứu mình, cứu gia đình mình và cứu tổ quốc mình: Người xưa có câu:
6 Chim quạ bay xa, quay về tổ cũ, cáo chồn lúc chết quay đầu hướng về
7 núi xưa. Loài cấm thú còn như thế huống nữa là người! Các ngươi vốn
8 người Âu Việt, thuộc dòng giống văn minh. Trước nhân nhà Hồ mất
9 nước giặc Ngô lăng loàn, có người thì thân bị giam hãm ở tặc đình, có
10 người thì hám danh nên bị ràng buộc vì quan chức, tất cả đều là những
11 chuyện chẳng đặng đừng mà các ngươi bất đắc chí phải làm chứ tự
12 trong thâm tâm của các ngươi thì không phải thế.. . Nay, nếu bọn các
13 ngươi biết sửa lòng đổi dạ, bỏ nghịch mà trờ về với thuận, hoặc cứ ở
14 lại làm nội ứng cho quân ta, hoặc ra đầu hàng với nghĩa quân thì các
15 ngươi không những rửa được mối hổ thẹn ngày trước mà cũng được
16 phần soi xét về sau. Ví bằng các ngươi còn tiếc tham quyền chức của
17 giặc thí cho mà tiếp tục chống cự nghĩa binh, khi thành bị quân ta
18 chiếm đóng thì tội các ngươi tất nặng hơn bọn giặc Ngô đấy" (Nguyễn
19 Trãi Toàn Tập).
20 Trƣớc sự vây hãm trùng điệp và tấn công quân sƣ liên tục của nghĩa
21 quân kết hợp với chiến dịch chiêu dụ và địch vận của Nguyễn Trãi,
22 quân Minh trong các thành Nghệ An, Diễn Châu, Tam Giang, Điêu
23 Diêu, Thị Cầu đều lục tục ra hàng. Hai thành Khâu Ôn và Xƣơng
24 Giang, hai điểm kháng cự cuối cùng của quân Minh cũng bị tiêu diệt
25 trƣớc khi viện binh của họ tràn sang biên giới Đại Việt.

6. Bản Bình Ngô Đại Cáo

26 Nguyễn Trãi là một thiên tài lỗi lạc, một đại công thần dựng nƣớc.
27 Ông có văn chƣơng mƣu lƣợc, tài ba thao lƣợc, kinh bang tế thế. Ông
28 đã đem hết sở trƣờng, tài năng của mình để phục vụ cho tổ quốc với cả
29 con tim và nghị lực. Ông là một ngƣời anh hùng của dân tộc, một nhà
30 nho chân chính, một tƣớng lãnh phi phàm, một nhà cố vấn tham mƣu
31 đại tài với đầy đủ nhân, trí, dũng, hiếu, trung.
32 Bản Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là một thiên hùng ca vang
33 vội làm cho bất cứ loại quân xăm lƣợc nào khi nghe nói tới đều phải e
34 dè suy nghĩ.
35 Toàn væn bản Đại Cáo của Nguyễn Trãi nhÜ sau:

VSTK - 469
Bình Ngô Đại Cáo

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

VSTK - 470
Bình Ngô Đại Cáo

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

VSTK - 471
Bình Ngô Đại Cáo

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

VSTK - 472
Bình Ngô Đại Cáo

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

VSTK - 473
Bình Ngô Đại Cáo
1 2 3 4 5

VSTK - 474
Phiên âm bài
Bình Ngô Đại Cáo

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
1 Cái hiến Hán thủ vãng ngã , trọng giao đắc cực
2 văn: chi ĐÜ©ng bại cổ dân quỷ khoa long dĩ thổ
3 nhân bang Tống , , ; kế hậu nhi toại mộc
4 nghĩa , Nguyên nhi quyết ngụy cái liễm hoàn kỳ chi
5 chi sÖn nhi Triệu hữu đảng thiên , yêu sinh cô
6 cử xuyên các Tiết minh hoài vạn sÖn thộn , ,
7 , chi đế hiếu trÜng gian trạng trạch hải quan dĩ
8 yếu phong nhất đại . , ; mỹ . quả sùng
9 tại vực phÜÖng dĩ Khoảnh cánh liên hữu Nhiễu diên công
10 an ký . xúc nhân dĩ binh kiết dân liên tÜ
11 dân thù Tuy vong Hồ mãi kết di thiết câu chi
12 ; , cÜ©ng , chính ngã hấn , huyền bất giải
13 điếu nam nhÜ®c Toa chi quốc , Khai lộc hoạch vũ
14 phạt bắc thì Đô phiền . nẫm kim chi dĩ ,
15 chi chi hữu ký hà Hân ác trÜ©ng hãm an châu
16 sự phong bất cầm , thÜng đãi , tịnh kỳ lý
17 , tục đồng Ü trí sinh nhị tắc , sÖ chi
18 mạc diệc , Hàm sử Ü thập mạo diễn , chinh
19 tiên dị nhi Tử nhân ngÜ®c niên lam vật Tuấn dao
20 khử . hào quan tâm diễm . chܧng chức sinh trọng
21 bạo Tự kiệt , chi , Bại nhi thúy dân khốn
22 . Triệu thế Ô oán hảm nghĩa phủ cầm chi ,
23 duy Đinh vị Mã bạn xích thÜÖng sÖn chi huyết lÜ
24 ngã Lý thÜ©ng Hựu , tử nhân Çào võng , diêm
25 Đại Trần phạp ế Cuồng Ü , sa la dĩ chi
26 Việt chi . Ü Minh họa kiền ; . nhuận trữ
27 chi triệu Cố Bạch tứ khanh khôn thái Côn kiệt trục
28 quốc tạo LÜu Đằng khích . ky minh trùng liệt giai
29 . ngã Cung hải , Khi hồ châu thảo chi không
30 thực quốc tham , nhân thiên dục , mộc vẫn .
31 vi , công Kê dĩ võng tức tắc giai nha Quyết
32 văn dữ dĩ chÜ độc dân ; xúc bất ; Đông

Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2.
Thí dụ cột số 1: Cái văn: nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sÜ, mạc tiên
khử bạo duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn. Đọc tiếp cột số 2: hiến chi bang, sÖn
xuyên chi phong. . . .

VSTK - 475
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
1 hải địa , chi thì mƣu cấp vị giáng tử dĩ
2 chi chi Thống thƣ , mô cấp diệt quyết chi đại
3 thủy sở tâm ; chính duy dĩ , nhâm binh nghĩa ,
4 bất tật tức tặc ác hƣ niệm , nhất nhi
5 bất dung thủ cổ thế giả tả quốc cố tâm thắng
6 túc , giả nghiệm phƣơng hựu . bộ dƣ . hung
7 dĩ Dƣ thƣờng kim trƣơng quả Nhiên chi ích Dĩ tàn
8 trạc phấn thập , chi kỳ kỳ lao lệ nhƣợc ,
9 kỳ tích dƣ tế nhật trợ đắc truân chi chế dĩ
10 ô Lam niên suy . . nhân . dĩ cƣờng chí
11 ; Sơn , cứu Nại Đặc chi Linh tế , nhân
12 Khánh , - hƣng dĩ dĩ hiệu Sơn vu hoặc nhi
13 Nam thê thƣờng vong nhân cứu , chi nạn công dịch
14 sơn thân đảm chi tài dân mang thực . nhân cƣờng
15 chi hoang ngọa lý thu chi nhƣợc tận Yết chi bạo
16 trúc dã tân . diệp niệm vọng kim can bất .
17 , . giả Đồ , , dƣơng tuần vi bị Bồ
18 bất Niệm cái hồi tuấn mỗi ; , kỳ ; Đằng
19 túc thế phi chi kiệt uất do Khôi , dĩ chi
20 dĩ thù nhất chí thần uất kỷ huyện manh quả đình
21 thƣ khởi nhật , tinh nhi chi chi lệ địch khu
22 kỳ khả . ngộ . dục thành chúng chi chúng điện
23 ác cộng Phát mỵ Bôn đông , vô đồ , xiết
24 . đái phẩn bất tẩu ; thậm nhất tứ thƣờng ,
25 Thần , vong vong tiền cố ƣ lữ tập thiết Trà
26 nhân thệ thực , hậu ƣ chửng . ; phục Lân
27 chi nghịch , Đƣơng giả đãi nịch Cái đầu dĩ chi
28 sở tặc mỗi nghĩa ký hiền . thiên giao xuất trúc
29 cộng nan nghiên kỳ phạp chi Phẩn dục hƣởng kỳ phá
30 phẩn dữ đàm sơ kỳ xa hung khốn sĩ . khôi
31 , câu thao khởi nhân , đồ ngã , Tốt phi
32 thiên sinh lƣợc chi , thƣờng chi dĩ phụ năng .

Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2.

VSTK - 476
1 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
2 Sĩ dĩ thành Lý Bỉ , ƣ cửu ký quân sơn
3 khí thâu xuyên Lƣợng trí khởi thiên nguyệt tuyển sở .
4 dĩ sinh , tặc cùng ý hạ , binh công Nhị
5 chi . lƣu chi nhi phục . Liễu tắc , thập
6 ích Thừa tình gian lực tác Toại Thăng hiểm kế ngũ
7 tăng thắng vạn đố tận nghiệt lệnh toại dĩ đọa nhật
8 , trƣờng lý , , dĩ Tuyên dẫn tồi ƣ ,
9 quân khu ; hựu thúc tốc Đức1 binh kỳ Chi Bảo
10 thanh , Tụy bộc thủ cô chi do phong Lăng định
11 dĩ Tây Động quyết đãi . giảo Khâu , chi bá
12 chi kinh chi thi vong Chấp đồng Ôn dƣ dã Lƣơng
13 đại ký thi . ; nhất , nhi hậu ; Minh
14 chấn vi tích Vƣơng ngã kỷ độc tiến tái bản trận
15 . ngã dã Thông mƣu chi binh ; diều nguyệt hãm
16 Trần hữu , lý phạt kiến vô bản binh nhị nhi
17 Trí ; di loạn vi , yếm niên tiệt thập táng
18 Sơn tuyển xú nhi tâm dĩ ; bản lộ nhật khu
19 Thọ phong thiên phần công giá nhƣng nguyệt dĩ , ;
20 , tiến niên giả , họa mệnh , đoạn Liễu nhị
21 văn thủ . ích bất ƣ Liễu2 Mộc kỳ Thăng thập
22 phong , Trần phần chiến tha Thăng Thạnh thực vi bát
23 nhi Đông Hiệp , tự nhân chi diệc . ngã nhật
24 trỉ Đô tặc Mã khuất ; nhụ3 phân Bản quân ,
25 phách tận chi Anh . Tham tƣớng đồ nguyệt sở thƣợng
26 ; phục phúc cứu Vị nhất , tự thập bại thƣ
27 Lý cựu tâm đấu bỉ thì dĩ Vân bát , Lý
28 An cƣơng , nhi tất chi du Nam nhật thân Khánh
29 Phƣơng . ký nộ dịch công cứu nhi , tử kế
30 Chính Ninh kiêu giả tâm , phần lai Liễu ƣ cùng
31 , Kiều kỳ ích nhi dĩ . . Thăng Mã nhi
32 dả chi thủ nộ cải di Đinh Dƣ vi Yên vẫn
33 tức huyết ; . lự tiếu vị tiền ngã chi thủ

Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2.
1Tuyên Đức: vua nhà Minh. 2Liễu: nguyên bản chữ Hán ở đây chép Thạnh Thăng tức là Mộc
Thạnh và Liễu Thăng; riêng bản phiên âm nầy thay chữ Thạnh bằng chữ Liễu . 3Nhụ tƣớng: có
ngƣời dịch là tƣớng nhát. Liễu Thăng không phải là một tƣớng nhát. Chữ nhụ còn có nghĩa là tùy
thuộc vào, tức có ý nói Liễu Thăng là tùy tƣớng tƣớng thân cận của vua Tuyên Đức.

VSTK - 477
1 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
2 . điễn cổ Tụ Bình tự thoát lộ điệu , mã
3 Ngã diệt nhi tất Than đỗng thân cứu ngạ tiên sổ
4 toại . kình hàng Chi nghi . binh hổ cấp thiên
5 nghinh Viên khô nhi thủy hƣ Lãnh , khất hạm dƣ
6 nhận tuyển ngạc tống . hát Câu ký liên ngũ thất
7 nhi tùy đoạn khoản Phong nhi chi bất chi bách ,
8 giải hƣu , , Vân tiên huyết tuyền vỹ dƣ dĩ
9 , chi tái thƣợng vị dĩ xử chủng ; sƣu hoàn
10 bỉ sĩ cổ thƣ chi phá phiêu nhi thần , quốc
11 tự , nhi Hoàng biến đảm , câu vũ ký nhi
12 đảo thân điểu Phúc sắc . giang bại bất độ ích
13 qua mệnh tán diện , Kỳ thủy ; sát hải tự
14 tƣơng trảo quân phƣợc nhật Mộc vị các , nhi cổ
15 công nha kinh dĩ nguyệt Thạnh chi thành dƣ do lật
16 , chi . tựu thảm chúng ô cùng diệc thả tâm
17 kế thần Quyết cầm dĩ văn yết khấu thể hồn kinh
18 nhi . hội . vô Thăng ; , thƣợng phi .
19 tứ Ẩm nghị Cƣơng quang quân Đan diệc đế phách Bỉ
20 diện tƣợng ƣ thi . đại Xá tƣơng hiếu táng ký
21 thiêm nhi băng tắc Kỳ bại chi giải sinh . úy
22 binh hà đê Lạng Vân ƣ thi giáp chi Tổng tử
23 dĩ thủy , Giang Nam Cần sơn dĩ tâm binh tham
24 bao can chấn Lạng binh Trạm tích xuất . Vƣơng sinh
25 vi , cƣơng Sơn vi , , hàng Tham Thông ,
26 , ma phong chi ngã toại dã . tƣớng , nhi
27 kỳ đao ƣ đồ quân lận thảo Tặc Phƣơng tham tu
28 dĩ nhi cảo , sở lạ vị thủ Chính chính hiếu
29 thập sơn diệp Chiến ách bôn chi thành , Mã hữu
30 nguyệt thạch . huyết ƣ hội ân cầm nội Anh thành
31 trung khuyết Đô xích Lê nhi hồng , quan , ;
32 tuần . đốc Xƣơng Hoa cận . bỉ Mã hựu dƣ
33 nhi Nhất Thôi Giang , đắc Lƣỡng ký Kỳ cấp dĩ

Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2

VSTK - 478
1 1 2 3 4 5
2 toàn tắc vạn , .
3 quân dĩ thế nhi Bá
4 vi chi thái trí cáo
5 thƣợng điện bình nhiên hà
6 , an chi dã nhĩ
7 nhi , cơ . ,
8 dục sơn , Ô hàm
9 dân xuyên vu hô sử
10 đắc dĩ di ! væn
11 tức chi tuyết Nhất tri
12 . cãi thiên nhung .
13 Phi quán cổ đại
14 duy . vô định
15 kế Kiền cùng ,
16 mƣu khôn chi ngật
17 chi ký sỉ thành
18 cực bỉ . vô
19 kỳ nhi Thị cạnh
20 thâm phục do chi
21 viễn thái thiên công * Bài phiên âm nầy trình bày
22 , , địa , theo kiểu viết của bài Bình Ngô Đại
23 cái nhật tổ tứ Cáo chữ Hán đƣợc sao chép
24 diệc nguyệt tông hải theo nguyên văn từ tập Hoàng Việt
25 cổ ký chi vĩnh Văn Tuyển.
26 kim hối linh thanh
27 chi nhi , ,
28 sở phục hửu đản
29 vị minh dĩ bố
30 kiến . mặc duy
31 văn Vu tƣơng tân
32 . dĩ âm chi
33 xã khai hựu cáo

Chú ý: đọc từ trên xuống, đọc hết cột số 1 rồi trở lên bắt đầu đọc tiếp cột số 2.

VSTK - 479
Bản dịch bài
Bình Ngô Đại Cáo

1 Cái văn: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,


2 Quân cứu nước trước lo trừ bạo.
3 Xét như nước Đại Việt ta,
4 Đích thật là một quốc gia văn hiến,
5 Núi sông cương vực có riêng,
6 Về phong tục thì Bắc, Nam cũng khác.
7 Từ các đời Ngô1, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,
8 Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, riêng làm chủ một phương.
9 Tuy nước ta lúc mạnh, lúc yếu khác nhau,
10 Nhưng về hào kiệt thì không bao giờ thiếu.
11 Như Lưu Cung ngày trước tham công mà đại bại,
12 Triệu Tiết hám lợi danh to mà tan tành mất xác.
13 Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
14 Sông Bạch Đằng Ô Mã Nhi bị giết.
15 Lần dở chuyện xưa, chứng cớ rõ ràng :
16 Thừa lúc nhà Hồ chính sự không yên,
17 Khiến lòng người phản kháng kêu la,
18 Giặc Minh loạn cuồng thừa dịp hại dân ta.
19 Cùng đám gian tà âm mưu bán nước,
20 Đốt dân đen trong lửa hồng bạo ngược,
21 Chôn con đỏ xuống hầm tai ách.
22 Láo với trời, đảo lừa người thế, với muôn ngàn quỉ kế,
23 Binh hợp gây hấn, lỗi ác chứa đầy, hai mươi năm ch¤n.
24 Phá tan đạo nghĩa, thương tổn con người, đất trời tựa hồ muốn dứt;
25 Thuế khóa vét đầy, núi khe sạch nhẵn.
26 Mỏ vàng khai phá, chướng khí xong pha, đãi bùn đục núi;
27 Đáy biển mò châu, giao long phó mặc, dây dòng quẳng biển.
28 Bức dân đào lỗ bẫy bắt nai đen,
29 Hại vật lưới giăng, chim trời bẫy sập.
30 Bọ sâu cây cỏ, mất chốn tựa nương .
31 Góa bụa khốn cùng không nơi yên ổn.
32 Hút máu dân lành, miệng giặc tham ác, béo nhờn răng nanh,

1Ngô: nguyên bản chữ Hán, các bản phiên âm và các bản dịch cũ đều viết là Triệu tức
Triệu Đà. Triệu Đà cũng là một kẻ xâm lƣợc từ phƣơng Bắc. Những ngƣời khởi đầu
triều đại Việt Nam trƣớc nhà Đinh là Trƣng Trắc, là Ngô Quyền chứ không phải là
ngƣời Hoa Triệu Đà.Việt Sử Tân khảo chọn Ngô Quyền để thế chỗ của úy Đà.

VSTK - 480
1 Công trình tráng lệ, dân đen nhọc sức,
2 Dựng cây đắp đất, xây cất tư dinh.
3 Chốn châu huyện sưu cao nặng thuế,
4 Nơi xóm làng bỏ phế dệt đan.
5 Tát cạn nước bể xanh, mùi tanh không thể rửa,
6 Dù đẳng sạch trúc núi Nam,
7 Tội ác đầy trời cũng không nơi ghi chép.
8 Thần linh căm giận, người trần uất ức,
9 Trời không dung, đất không tha.
10 Từ Lam Sơn vết chân ta khởi phát,
11 Chốn đồng hoang đất trống ẩn thân.
12 Dưới gầm trời cùng giặc khó kết bạn gần
13 Thề không đội trời cùng quân cướp nước.
14 Tâm lao đau nhức 10 năm khổ sầu,
15 Mật nếm gai nằm phải đâu một buổi.
16 Giận quên ăn, ngẫm nghiền sách lược,
17 Lấy gương trước suy bước tương lai.
18 Lẽ hưng vong nghiệm nay suy cũ,
19 Chí phục thù, ngày đêm khó ngủ.
20 Lúc đương thì phát khởi nghĩa quân,
21 Cũng là thời giặc ác hung hăng.
22 Thế mà : hùng kiệt khó khăn,
23 Nhân tài khan hiếm lá thu mò tìm.
24 Trốn trước tránh sau, kẻ che bao không thấy,
25 Tham mưu rập bẫy cũng chưa mấy người dâng.
26 Mưu cứu dân để dạ, háo hức muốn về Đông ,
27 Người hiền giả xe chờ đón rước,
28 Ghế trái ngồi vẫn được sóc chăm.
29 Mịt mù biển sóng tuấn nhân khó tìm.
30 Bản thân hung đúc nhân điềm,
31 Gắp hơn cứu đuối cho người trôi sông.
32 Giận hung đồ chưa diệt sạch,
33 Buồn vận nước còn gian truân
34 Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần,
35 Lúc Khôi huyện quân tàn binh thiếu.
36 Bởi trời trao khốn cho ta,
37 Gán cho trách nhiệm phong ba gánh gồng.
38 Bền gan lướt vượt cuồng phong,
39 Nhấc cao gậy chống thế trông hiệu cờ.
40 Bốn phương dân kéo đến chờ,
41 Rượu nồng cùng uống, thân sơ một lòng.
42 Lấy binh ít đánh giặc đông,
43 Phục kích ngầm thắng lơi lỏng.
44 Thế nên, đem đại nghĩa chống hung tàn,

VSTK - 481
1 Lấy chí nhân đập tan cường bạo.
2 Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
3 Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
4 Khắp quân trường sĩ khí hăng say,
5 Trương thanh thế binh oai càng mạnh.
6 Trần Trí, Sơn Thọ nghe tin mất vía,
7 Phương Chính, Lý An, cầu toàn nín thở.
8 Nghĩa binh thắng thế ruổi giong,
9 Tây kinh giặc trú quân ta chiếm về.
10 Binh hùng tuyển chọn tiến lên,
11 Đông thành đất cũ quy hoàn tay ta.
12 Bến Ninh Kiều sông pha máu đậm,
13 Nước tanh hôi muôn dặm trôi qua.
14 Trận Tụy Động thây giặc phơi cùng khắp ,
15 Xác chướng sình phủ lắp ngàn năm.
16 Chém bêu đầu Trần Hiệp tâm phúc giặc yêu,
17 Giết sâu mọt Lý Lương cùng một lúc.
18 Vương Thông càng gỡ rối, lửa nóng càng sôi sục,
19 Mã Anh sang tiếp cứu, oán hận chất càng cao.
20 Đã tới hồi giặc mòn hao kiệt sức,
21 Đứng bó tay chờ thần chết mang đi.
22 Với riêng ta: mưu chiến bằng con tim,
23 Không cần đánh mà giặc ngoài phải khuất.
24 Cứ tưởng rằng giặc ăn năn nghĩ lại,
25 Nào ngờ chúng vẫn ác hại gây tai.
26 Cố chấp ý riêng phiền gây đổ vạ,
27 Hám danh một thời thiên hạ cười chê.
28 Vua non Tuyên Đức không dứt động binh,
29 Thuộc tướng Thạnh, Thăng cầm quyền chinh. chiến.
30 Đinh Mùi tháng chín dẫn binh,
31 Khâu Ôn xuất phát Liễu Thăng tràn vào.
32 Mộc Thạnh lãnh ấn theo mau,
33 Cùng năm tháng ấy, từ Vân Nam kéo đến.
34 Nghĩa binh phục yểm từ lâu,
35 Tiền binh giặc tới hầm sâu lọt nhào;
36 Điều binh giáp chận đường vào tiếp tế.
37 Cánh quân ta, ngày mười tám đánh thế chận ngăn.
38 Ải Chi Lăng giặc hăng thua kế.
39 Ngày hai mươi Liễu Thăng đại bại,
40 Núi Mã Yên thân hoại mất thây.
41 Hai mươi lăm, ta đến bủa vây,
42 Lương Minh trận hãm phơi thây chiến hào.
43 Hai mươi tháng tám đánh theo,
44 Kế cùng Lý Khánh thắt treo thoát đời.

VSTK - 482
1 Thừa khí thế ta vung đao bén,
2 Khiến giặc thù chèn nén đạp nhau.
3 Bốn bề binh nghĩa phủ bao,
4 Cùng diệt giặc tháng mười sau xóc tới.
5 Thế cho nên binh hùm tuyển mộ,
6 Gọt vuốt nanh, chư tướng hộ thân.
7 Voi uống nước, sông tràn cạn đáy.
8 Núi đá hao, mài bén kiếm đao.
9 Một hồi trống sạch bao kình ngạc,
10 Trống lần hai tan tác chim muôn.
11 Khơi lỗ hỏng sụp tan đê vỡ.
12 Cơn gió lùa lá khô rụng hết.
13 Đô đốc Thôi quỳ lết xin tha,
14 Thượng thư Hoàng bước ra chịu trói.
15 Lạng Sơn, Giang thây thối đầy đường,
16 Chốn Xương, Bình máu tuông đỏ nước.
17 Gió mây kia trôi lướt đổi màu,
18 Trời, trăng sáng cũng u sầu đen tối.
19 Giặc Vân Nam tới Lê Hoa nghẽn lối,
20 Vỡ mật, kinh hồn bối rối khó xoay.
21 Từ Cần Trạm tin tướng Liễu bỏ thây,
22 Quân Mộc Thạnh xéo nhau quay đầu chạy.
23 Lãnh Câu suối máu, nước chảy sông gào,
24 Miền Đan Xá thây cao chất núi.
25 Đồng hoang cỏ nội, tắm gội máu đỏ.
26 Cứu binh hai ngõ, binh nỏ chưa bung,
27 Tìm đường trốn chạy lung tung.
28 Giặc khốn trong thành, dâng nhanh binh giáp,
29 Thủ thành tự nạp, hổ cạp vẫy đuôi cầu sống.
30 Vũ uy vang vọng, khoan hồng không giết.
31 Thể lòng trời đất, tỏ đức hiếu sinh,
32 Tha cho Phương, Mã, hàng binh,
33 Thôi không gây hấn được quay về cố thổ.
34 Năm trăm thuyền chuyên chở đưa theo,
35 Ra biển cả giặc vẫn còn đem theo ác mộng.
36 Vương Thông, tham chính Mã Anh,
37 Trăm xe ngàn ngựa cấp nhanh cho về.
38 Thoát thân nhờ có ước thề,
39 Trở về nước mẹ chưa hề yên tâm.
40 Giặc hèn sợ chết sống tham,
41 Gục đầu tập kết rõ ham hiếu hòa.
42 Cũng vì muốn quân dân ngơi nghỉ,
43 Nên đã dùng chước kế mưu sâu.
44 Chước thần từ trước có đâu,

VSTK - 483
1 Xã tắc được bình an từ đó,
2 Khắp núi sông chuyện cũ bỏ từ đây.
3 Càn khôn bỉ cực đến nay an lành.
4 Trời, trăng trả lại bình minh,
5 Bỏ công gầy dựng, thái bình trăm năm.
6 Điều sỉ nhục ngàn thu nay đã rửa,
7 Đất Trời, tổ tông nơi cửa linh thiêng.
8 Chắc cũng có dự phần phá giặc.
9 Ôi !
10 Một gươm đại định, công trạng vô song,
11 Bốn biển lặng yên, đổi thay ban lệnh.
12 Xa gần đại cáo, thông báo người nghe
.
(VSTK phỏng dịch)

KHẢO LUẬN:
13 Bình Ngô Đại Cáo là một thiên anh hùng ca độc nhất vô nhị, một
14 bức tranh vẽ tài tình, sống động và chính xác ghi lại cả một quá trình 10
15 năm dài kiên trì tranh đấu liên tục để giành lại chủ quyền, độc lập cho
16 ngƣời dân Đại Việt dƣới tài lãnh đạo tài ba, mƣu lƣợc của Lê Lợi cùng
17 với nhà tham mƣu sáng tạo, đa năng Nguyễn Trãi.
18 Sự hoà hợp nhuần nhuyễn của đôi nhân tài anh hùng Lê Lợi -
19 Nguyễn Trãi đã đƣợc ghi lại thật đậm nét trong bản đại cáo.
20 Tác phẩm còn là mộ bản văn kiệt tác, một bản tổng kết rất đại thể về
21 con ngƣời của nƣớc Đại Việt với đầy đủ phẩm chất độc đáo cao quý và
22 hằng cửu cùng với những kinh nghiệm mà tổ tiên của dân tộc nầy
23 truyền lại từ hàng ngàn năm về trƣớc. Những phẩm chất cao quý của
24 dân tộc Đại Việt luôn luôn đƣợc phát huy tột mức trong bất kỳ cuộc
25 chiến tranh chống lại đám quân ngoại xăm đến từ bốn phƣơng, tám
26 hƣớng, nêu cao truyền thống độc lập, tự do, ý chí quật cƣờng bất khuất
27 và đặc biệt hơn hết là tinh thần tha thứ nhân đạo không giết quân xâm
28 lƣợc khi họ đã bị đánh bại ngã ngựa.

VSTK - 484
Chân dung Nguyễn Trãi (Tranh vẽ trên lụa)

VSTK - 485
Thành của quân Minh bị nghĩa quân bao vây

Thành của quân Minh bị nghĩa quân tái chiếm

Khởi nghĩa Lam Sơn 1418 – 1427

VSTK - 486
Nghĩa quân tấn công
Nghĩa quân mai phục
Tuyến phòng ngự của nghĩa quân
Nghĩa quân bao vây
Thành, đồn quân Minh bị tiêu diệt
Quân Ming bị đánh tan
Hƣớng tiến của quân Minh

Chiến thắng ở mặt trận Chi Lăng và Xương Giang

VSTK - 487
Bia Vĩnh Lăng (Lam Sơn, Thanh Hóa)

VSTK - 488
Thành nhà HÒ

Đông Môn, hướng Đông Nam thành nhà Hồ.


Những khối đá xây cổng thành đa số nặng trên 15 tấn.
(Hình trích đăng từ tập san BAVH, số 1/2, năm 1934)

VSTK - 489
QUYỂN II

THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ


CHƢƠNG I
LÊ THÁI TỔ ( 1428 - 1433 )
Niên hiệu: Thuận Thiên

1 Năm Mậu Thân, ngày 10 tháng Giêng (1428), vua bù


2 nhìn Trần Cảo tự ý theo đƣờng biển lén trốn vào châu Ngọc
3 Ma, bị quan quân của Lê Lợi đuổi theo bắt đem về thành
4 Đông Quan, xử tội chết bằng thuốc độc1.
5 Sai sứ sang triều đình nhà Minh thông báo về việc Trần
6 Cảo đã chết.
7 Tháng Tƣ năm Mậu Thân (1428) tại Đông Đô, Bình
8 Định vƣơng Lê Lợi lên ngôi vua tức là Lê Thái Tổ, lấy quốc
9 hiệu là Đại Việt2, đổi niên hiệu là Thuận Thiên năm thứ
10 nhứt.
11 Thƣởng công, ban chức tƣớc cho các quan binh, tƣớng sĩ
12 có công lao theo Lê Lợi từ hồi ở Lũng Nhai3: phong cho con
13 trai là Lê Nguyên Long làm Lƣơng quận công. Phong tƣớc
14 hầu cho Nguyễn Trãi; Trần Nguyên Hãn làm tả tƣớng quốc;
15 Phạm Văn Xảo làm thái úy Lê Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, Lê Ồ,
16 Lê Bồ, Lê Liệt, Lê Khả, Lê Trễ, Lê Nghiễn và nhiều ngƣời
17 khác trong đội quân thiết đột4, tất cả trên 200 ngƣời đều
18 đƣợc ban chức đại phu, đƣợc mang họ Lê, và đƣợc ban danh
19 hiệu công thần.
20 Truy phong cho những tƣớng đã bỏ mình vì đất nƣớc
21 trong trận đánh ở My Động: Đinh Lễ làm nhập nội tƣ đồ, Lý
22 Triện làm nhập nội Tƣ Mã.
23 Chia nƣớc lại thành 5 đạo5. Đặt vệ quân do Tổng quản,
24 Đô tổng quản và Ty tổng quản chỉ huy chia theo cấp bậc trên
25 dƣới.
26 Ở mỗi đạo đều có chức hành khiển, tham tri, đồng tri,
27 chủ bạ và các thuộc chức khác.
28 Đại xá trong toàn cả nƣớc: ngƣng thâu hai năm các loại
29 thuế điền tô, thuế vàng, bạc, đầm nƣớc, đồi nƣơng, bãi dâu;
30 miễn sai dịch cho ngƣời già trên 70 tuổi; miễn sƣu dịch cho

VSTK - 490
1 gia đình hiện đang có ngƣời thân trong quân ngũ và cho các
2 nạn nhân bị thiệt hại vì binh lửa.

3
1
Xử tội chết Trần Cảo bằng thuốc độc: đây là một trong ba hình phạt
4 tử hình áp dụng riêng cho hàng vƣơng tộc thƣờng gọi là tam ban triều
5 điển và gồm có: 1-thuốc độc, 2- dao ngắn, 3- đoạn vải dài để thắt cổ;
6 ngƣời bị xử tội đƣợc phép lựa một trong 3 loại hình phạt nầy. ĐVSKTT
7 viết: "Có thuyết nói: Cảo tự biết người trong nước không phục, bèn
8 dùng bọn Văn Nhuệ lén vượt biển trốn đến ải Cổ Lộng. Nhà vua sai
9 người đuổi theo giết đi". KDDVSTGCM chép theo ĐVSKTT: "Cảo,
10 khi đã được lập làm chúa, đóng dinh ở núi Không Lộ, sau dời đi Ninh
11 Giang, rồi lại dời đến thành Cổ Lộng.
12 Triều thần đều nói với Bình Định Vương rằng: Cảo không có công
13 cán gì, sao lại được ở ngôi cao, ăn trên ngồi trước người ta, nên sớm
14 trừ đi. Nhà vua (Lê Lợi) cũng biết như vậy nhưng không nỡ, đãi ngộ
15 càng hậu hơn. Cảo tự biết người trong nước không phục theo cho nên
16 lẻn vượt biển trốn vào châu Ngọc Ma, quan quân đuổi theo bắt được
17 đem về Đông Quan, Cảo phải uống thuốc độc chết."
18 (ĐVSKTT/BK/QX/55a,b.) (KDDVSTGCM/CB.XV/1)
19
2
Đại Việt : theo ĐVSKTB/Tây Sơn thì quốc hiệu Đại Việt đã đƣợc
20 Lƣu Nham (ĐVSKTB/ Tây Sơn gọi là Lƣu Nghiễm) dùng vào năm
21 917. Năm ấy, Lƣu Nham sau khi nối nghiệp anh là Lƣu Ẩn để giữ
22 chức Nam Hải vƣơng đƣợc nhà Lƣơng bên Trung Quốc tiến phong; ít
23 lâu sau tự xƣng đế tại Quảng Châu và đặt quốc hiệu là Đại Việt, niên
24 hiệu là Kiền Hanh (hay Càn Hanh) năm thứ 1 rồi sau lại đổi quốc hiệu
25 là Nam Hán (Nam Hán là một trong nhiều nƣớc vào thời Ngũ đại ở
26 Trung Quốc. Nam Hán bao gồm tỉnh Quảng Đông, một phần phía Nam
27 tỉnh Quảng Tây và phía Nam tỉnh Phúc Kiến ngày nay trị vì đƣợc 5 đời
28 vua. Vua cuối cùng của triều đại Nam Hán là Lƣu Xƣởng (958-970).
29 Đại Việt cũng đƣợc Lý Thánh Tông chọn làm quốc hiệu vào tháng 10
30 năm Giáp Ngọ (1054).
31
3
Lũng Nhai: tức là thôn Lũng Uy, xã Lam Sơn. Tại đây, vào tháng 2
32 năm Bính Thân (1416) có cuộc hội thề của những ngƣời tiên phong
33 theo Lê Lợi để xƣớng nghĩa chống quân Minh xâm lƣợc. Những ngƣời
34 có công lao khó nhọc ở Lũng Nhai là những ngƣời tiên phong tham gia
35 cuộc xƣớng nghĩa Lam Sơn từ lúc khởi đầu
36
4
Quân thiết đột : đây là đạo quân đầu tiên đƣợc thành lập của Lê Lợi,
37 về sau chia làm trung quân (ở giữa), tiền quân (ở trƣớc), tả quân (phía
38 cánh trái), hữu quân (phía cánh mặt). Tiếp đến lại đổi thành 14 quân
39 vệ, trong đó đạo quân thiết đột đầu tiên là một vệ, mỗi vệ có các chức
40 thƣợng tƣớng quân, đại tƣớng quân, tƣớng quân, đô chỉ huy sứ và hoả
41 đầu, hoả thủ.{LTHCLC/Binh Chế Chí/ Quân hiệu/ Phan Huy Chú}.

VSTK - 491
1
5
Chia nƣớc lại thành 5 đạo: ĐVSKTT viết: "Chia cả nƣớc làm 3 đạo
2 "{BK/q.X/ 57b} nhƣng không nói rõ là những đạo nào. Theo ghi chú
3 trong LTHCLC/ Dƣ Địa Chí thì 5 đạo là: Nam, Bắc, Đông, Tây và đạo
4 Hải Tây. Mỗi đạo gồm có các phủ, huyện, lộ, trấn. Các trấn nhƣ Tam
5 Giang, Tuyên Quang, Hƣng Hóa, Gia Hƣng thuộc đạo Tây; các lộ
6 Thƣợng Hồng, Hạ Hồng, Thƣợng Sách và trấn An Bang thuộc đạo
7 Đông. Các trấn và lộ nhƣ Bắc Giang, Lạng Giang, Thái Nguyên thuộc
8 đạo Bắc; các lộ Khoái Châu, Lỵ Nhân, Tân Hƣng, Kiến Xƣơng, Thiên
9 Trƣờng thuộc đạo Nam. Các lộ Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận
10 Hóa thuộc đạo Hải Tây.
11 Trƣớc đây, khi Lê Lợi đến Đông Đô thì tạm chia cả nƣớc thành 4
12 đạo. Nay lại đặt thêm đạo Hải Tây; lấy Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình
13 (Quảng Bình) và Thuận Hóa (Thừa Thiên, Quảng Trị) sáp nhập vào đạo
14 Hải Tây.
KHẢO LUẬN:

15 Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi vua
16 nƣớc Đại Việt, sáng lập ra triều Hậu Lê, lo củng cố những thành quả
17 đạt đƣợc và nền thống trị của giai cấp phong kiến cũng nhƣ lo bảo vệ
18 những đặc quyền đặc lợi của nhóm thống trị. Đây là khuynh hƣớng tất
19 nhiên của những ngƣời làm chính trị từ ngàn xƣa. Ngay cả trong thời
20 buổi văn minh hiện đại, khuynh hƣớng củng cố quyền lực vào một
21 nhóm ngƣời thống trị vẫn còn thấy xảy ra ở rất nhiều nơi trên thế giới
22 bởi vì những ngƣời đƣợc gọi là kẻ chiến thắng, có công, không dễ gì bỏ
23 đi những ngày tháng cơ cực đấu tranh, nằm gai nếm mật để đoạt cho
24 bằng đƣợc chính quyền để rồi sau đó lại để mặc tình ngƣời dân áp dụng
25 các hình thức dân chủ tự do. Rốt cuộc rồi thì ngƣời dân vẫn tiếp tục là
26 những ngƣời nô lệ, lần nầy không phải là nô lệ cho giặc ngoại xâm
27 nhƣng là nô lệ cho cho một tập đoàn quyền lực phong kiến khác vừa
28 mới nổi lên ngay trong đất nƣớc của mình.

VSTK - 492
CHƢƠNG I
LÊ THÁI TỔ ( 1428 - 1433 )
Niên hiệu: Thuận Thiên
(tiếp theo)
1 Bắt đầu áp dụng các biện pháp truy lùng, bắt bớ, giam
2 nhốt, thanh trừng những kẻ hợp tác với quân Minh1 bằng
3 cách hạ lệnh cho các đại thần, thiếu úy, chấp lệnh, các quan
4 chức ở các lộ nếu thấy những kẻ hợp tác với quân xâm lăng
5 ngoại quốc, những quan lại địa phƣơng theo ngƣời Minh
6 đang ẩn trốn thì phải bắt nộp. Bất cứ ai dung túng và che
7 chở hoặc để sẩy chạy những hạng ngƣời nầy thì sẽ bị tội
8 chém.
9 Quy định luật lệ về kiện tụng2, điển lệ về việc phong tƣớc
10 và phẩm trật3.
11 Tháng 10 năm Mậu Thân (1428), ra lệnh kiểm kê và tịch
12 thu tài sản, ruộng đất của các quan ty và của các gia đình bề
13 thế từ triều đại nhà Trần, của những ngƣời tuyệt tự, của
14 những kẻ hợp tác với quân Minh, của các quan, quân binh
15 bỏ hàng ngũ nghĩa quân trong thời kháng chiến chống
16 Minh. Nếu ai giấu giếm hoặc chiếm lấy làm của tƣ, biến
17 không thành có thì sẽ bị xử tội đồ hoặc tội lƣu, biếm chức
18 hoặc bãi chức. Ra lệnh kê khai đầy đủ, rõ ràng nguyên liệu
19 cùng với những sản vật do địa phƣơng sản xuất.
20 Tháng 11, ngày 24, năm Mậu Thân (1428), trị tội những
21 kẻ phản quốc Trần Phong, Lƣơng Nhữ Hốt4 và những kẻ
22 làm gián điệp cho quân Minh.
23 Xuống chiếu ra lệnh lập sổ ruộng đất và sổ hộ tịch.
24 Đặt chức xã quan: xã lớn từ 100 dân trở lên thì đặt 3 xã
25 quan, xã bậc trung từ 50 dân trở lên thì có 2 xã quan, xã nhỏ
26 dƣới 50 dân thì có 1 xã quan.
27 Ra lệnh miễn cho tất cả những con cháu của nghĩa quân
28 Lam Sơn5 khỏi phải thi hành nghĩa vụ quân dịch và làm dân
29 công tạp dịch cho chính quyền của triều Lê.
30 Đúc tiền Thuận Thiên và ấn định hối xuất tiền tệ6.
31 Kỷ Dậu, tháng Giêng (1429), ra lệnh cấm say sƣa rƣợu
32 chè, ăn thua cờ bạc: đánh bạc thì bị chặt 3 phân ngón tay;
33 đánh cờ chặt 1 phân. Không có việc gì mà lại tụ tập chè chén

VSTK - 493
1 uống rƣợu thì bị phạt đánh 100 trƣợng. Ngƣời chứa chấp bị
2 tội kém một bậc.
3 Đem số ruộng đất tịch thâu từ đám ngƣời giàu có ăn ở
4 không chẳng giúp đƣợc gì cho công cuộc kháng chiến chống
5 Minh nhập với các loại ruộng đất của chính quyền hiện có
6 để phân phối cho quan quân đã theo Lê Lợi từ ngày khởi
7 nghĩa ở Lam Sơn.
8 Lập con là Tƣ Tề làm quốc vƣơng và Nguyên Long làm
9 hoàng thái tử7.
10 Tháng 3 năm Kỷ Dậu (1429), thao diễn binh đội. Sau đó
11 chia mỗi vệ quân thành 5 năm phiên: một phiên lƣu lại tại
12 ngũ còn 4 phiên làm ruộng8 lo việc sản xuất.
13 Đặt chức quan Ngự sử đài.
14 Nghi kỵ và loại trừ công thần Trần Nguyên Hãn9.
15 Phong tƣớc hầu9bis cho 93 công thần đã theo Lê Thái Tổ
16 từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Truy thƣởng những ngƣời có
17 công bị bỏ sót. Chiêu mộ và kêu gọi ngƣời có tài ra làm việc
18 với triều đình. Thi minh kinh10 và khảo hạch các tăng sĩ và
19 đạo sĩ11.
20 Truy phong chức thái úy cho Lê Lai12.
21 Sai Đào Công Soạn13, Lê Đức Huy đi sứ sang triều đình
22 nhà Minh.
23 Năm Canh Tuất, tháng 6 (1430), đổi Đông Đô gọi là
24 Đông Kinh; Tây Đô gọi là Tây Kinh.
25 Tháng 11, nịnh thần bí mật báo rằng Thái úy Phạm Văn
26 Xảo ngầm tổ chức phản nghịch. Lê Thái Tổ tin lời vu cáo,
27 bắt Văn Xảo phải chết13bis.
28 Thổ tù Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái ở châu Thạch
29 Lâm14 thuộc Thái Nguyên tranh quyền nhau. Lê Thái Tổ lấy
30 cớ những kẻ nầy ngày trƣớc cấu kết với Trần Nguyên Hãn
31 để mƣu việc phản nghịch15 cho nên nhân dịp rối loạn nầy Lê
32 Thái Tổ bèn quyết định đích thân tuyển chọn quân ở Bồ Đề
33 đi đánh dẹp.
34 Năm Tân Hợi, tháng Hai (1431), quân của Lê Thái Tổ
35 đánh châu Thạch Lâm, bắt đƣợc Nông Đắc Thái mang về
36 kinh còn Bế Khắc Thiệu thua bỏ chạy rồi chết.

VSTK - 494
1 Tháng Ba, Lê Thái Tổ trở về kinh đô. Đem tội trạng của
2 Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái báo cáo khắp kinh đô và
3 ở các lộ.
4 Tháng 12, năm Tân Hợi (1431), sách Lam Sơn Thực
5 Lục16 do Lê Thái Tổ xuống chiếu cho các nho thần tu soạn,
6 nay đã hoàn tất. Sách trình bày, ca tụng những công trạng
7 của Lê Lợi gây dựng cơ nghiệp đế vƣơng. Lê Lợi viết đề tựa
8 cho sách và tự xƣng là Lam Sơn động chủ.
9 Lại cho rằng thổ tù Đèo Cát Hãn ở châu Mƣờng Lễ17
10 thông đồng với Phạm Văn Xảo làm loạn, liên kết với ngƣời
11 Ai Lao là Kha Lại để đánh phá biên giới Đại Việt, Lê Thái
12 Tổ sai tƣớng Lê Sát và quốc vƣơng Tƣ Tề dẫn quân đi đánh
13 nhƣng rồi lại đích thân cầm quân đi dẹp.
14 Năm Nhâm Tý, tháng Giêng (1432), quân của Lê Thái
15 Tổ đánh hạ Mƣờng Lễ, Kha Lại bị giết, Đèo Cát Hãn trốn
16 thoát, tất cả dƣ đảng đều bị bắt, Mƣờng Lễ bị đổi thành châu
17 Phục Lễ. Tháng 3 kéo quân trở về.
18 Tháng 11, Đèo Cát Hãn và con là Mạnh Vượng xin
19 quy hàng, được Lê Thái Tổ tha tội và ban cho tước tư mã.
20 Năm Quý Sửu, tháng Tám (1433), xuống chiếu giáng Tƣ
21 Tề xuống chức quận vƣơng với lý do: Tƣ Tề không trung
22 hiếu với cha mẹ, ngƣợc đãi quần thần, lỗi đạo với trời đất và
23 các tiên vƣơng. Lại ra chiếu cho thái tử Nguyên Long đƣợc
24 quyền cai trị nƣớc và thừa kế ngôi vua18.
25 Ngày 22 tháng Tám nhuận, năm Quý Sửu (1433), Lê
26 Thái Tổ mất, ở ngôi 6 năm, thọ 49 tuổi.

CHÚ GIẢI :

27
1
Áp dụng các biện pháp truy lùng, bắt bớ những ngƣời hợp tác với
28 quân Minh: về việc nầy, chỉ có ĐVSKTT ghi chép (BK/Q.10/tờ 56.a).
29 KDDVSTGCM không chép. ĐVTS của Lê Quý Đôn ghi: “Ra lệnh trị
30 tội các ngụy quan đã theo giặc.” (ĐVTS/Q.II/ tờ 44b).
31 Những chuyện bắt bớ giam cầm những ngƣời cùng trong một nƣớc
32 nhƣng ở về phía đối nghịch thì ngay cả trong thời buổi văn minh hiện
33 nay vẫn còn thấy xảy ra. Đây là một chủ trƣơng sai lầm nghiêm trọng
34 chẳng những rất có hại cho việc đoàn kết và hòa giải dân tộc, lại còn
35 làm mất đi sự hợp tác của những ngƣời có tài năng mà trƣớc đây vì một

VSTK - 495
1 hoàn cảnh hay vì lầm lẫn nào đó bắt buộc phải chấp nhận hợp tác với
2 quân quân ngoại xâm. Khi bắt bớ, giam cầm những ngƣời đồng hƣơng
3 không cùng một chiến tuyến, dù che dấu dƣới bất cứ hình thức nào thì
4 hành động thất sách nầy của kẻ chiến thắng vẫn bị dƣ luận lên án là một
5 hành động trả thù theo kiểu nói: thắng là vua thua là giặc.
6
2
Quy định luật lệ về kiện tụng: sử cũ không nói rõ quy định luật lệ
7 kiện tụng nhƣ thế nào. Tuy nhiên, trong buổi giao thời ngƣời ta thấy
8 triều đại Lê Lợi vẫn tiếp tục dùng luật pháp đã có sẵn từ đời nhà Trần
9 với một vài sự sửa đổi. Chẳng hạn nhƣ luật ấn định án phạt chặt tay
10 những kẻ cờ bạc thì cũng giống nhƣ luật của nhà Trần bắt chƣớc theo
11 luật pháp tàn độc của nhà Đƣờng, nhà Tống bên Trung Quốc theo hình
12 thức án phạt chặt ngón chân hoặc cho voi giày đạp chết những kẻ phạm
13 tội trộm cấp.
14
3
Điển lệ phong tƣớc và phẩm trật: lúc mới khởi nghĩa, Lê Lợi tự
15 xƣng là Bình Định vƣơng, quân thần thì đặt các chức thái úy, thiếu úy,
16 thái bảo, tƣ đồ, tƣ không, tƣ mã, bình chƣơng sự, thƣợng tƣớng quân, tả
17 hữu bộc xạ, lục bộ thƣợng thƣ, hàn lâm thừa chỉ, nhập nội hành khiển,
18 xu mật đại sứ và thái giám; khi mới đến Đông Đô thì chia các lộ, trấn
19 thành 4 đạo, đặt các chức quan văn, quan võ từ trung ƣơng đến dịa
20 phƣơng, đặt các cấp quân sự, các thị vệ và chức tuần kiểm hải quan nơi
21 các cửa biển, còn các vệ quân đội ở các lộ, phủ thì cử các cấp quan lớn
22 làm kiêm tri, tổng tri, đồng tri để cai quản và thi hành theo mệnh lệnh
23 của chính quyền trung ƣơng; ở những nơi gọi là vùng trấn thủ thì có
24 chức quan sát và phòng ngự; ở các vùng hang, sách, động, rừng, núi thì
25 có chức thủ ngữ và đoàn luyện.
26 Lúc về Đông Đô, Lê Lợi lại chia nƣớc thành 5 đạo, mỗi đạo đặt vệ
27 quân dƣới quyền chỉ huy của viên chức tổng quản, lại có thêm chức
28 hành khiển giữ sổ sách quân và dân. Ở các cửa sông, cửa biển đều đặt
29 chức trấn thủ; ở trung ƣơng thì có chức thiết đột ngũ quân tổng quản,
30 ngự tiền lục quân tri quân sự, điện tiền đô hiệu điểm và đô chỉ huy, các
31 chức quan văn, quan vỏ trong triều đình; ở các lộ, phủ và huyện thì đặt
32 chức xã quan. Một cách tổng quát thì quan chức từ đầu đời nhà Lê /Lê
33 Lợi đều phỏng theo chế độ quan chức nhà Trần mà nhà Trần theo nhà
34 Lý, nhà Lý thì rập khuôn theo chế độ quan chức của nhà Tống ở Trung
35 Quốc (Kiến Văn Tiểu Lục/Q.II/ Thể lệ thƣợng/Quan chức/Lê Quý
36 Đôn).
37 Theo LTHCLC của Phan Huy Chú thì Lê Lợi khi mới dựng nƣớc, đặt
38 quan có các tên gọi nhƣ bình chƣơng, tƣ đồ (về sau lại gọi là đại tƣ đồ),
39 đại tƣ không, đại tƣ mã, khu mật đại sự, thiếu úy, thƣợng tƣớng, đại
40 tƣớng, á hầu, thông hầu, quan phục hầu, trƣớc phục hầu. Đến khi tiến ra
41 Đông Đô, đặt bày ra các chức quan, cắt đặt lại các lộ ở Đông Đô làm 4
42 đạo (chƣa có đạo Hải Tây), đặt các chức văn võ liêu thuộc ở bên trong
43 kinh đô và phía ngoài các đạo thì lúc đó mới có các chức bộc xạ, thị
44 trung, thiếu bảo, hành khiển, thƣợng thƣ, hàn lâm.

VSTK - 496
1 là tổng tri quân dân sự miền Quốc Oai, Tam Đái, Quảng Oai; Bùi Văn
2 Đài làm kiêm tri cai quản sổ sách và công việc quân dân ở Đông Đạo.
3 Đặt các ngạch chức của cơ quan Mật viện: viên chánh giữ chức mật
4 viện sứ, viên phó là quan chức thừa hành làm các công việc của viện,
5 dƣới thì có các chức thiêm tri, thiêm sự. Chức quan ở các bộ thì đứng
6 đầu là thƣợng thƣ chẳng hạn nhƣ Lại bộ thƣợng thƣ Nguyễn Trãi, Lễ bộ
7 thƣợng thƣ Bùi Văn Đài; dƣới thì có các chức lang trung, viên ngoại.
8 Chức quan ở các sảnh nhƣ thƣợng thƣ sảnh, môn hạ sảnh tả hữu hỏa
9 sau đổi là ta hữu ty. Chức quan ở viện hàn lâm có các chức thừa chỉ,
10 học sĩ, đãi chế, chủ thƣ thị sử, chủ thƣ sứ, nội lệnh sứ, quốc tử bác sĩ.
11 Các cơ quan ở hình viện thì có các chức nhƣ thẩm hình viện sứ, thẩm
12 hình viện phó sứ, phán đại lý chính.
13 Ở mỗi vệ quân đều có chức tổng lĩnh đứng đầu. Cấp chỉ huy cầm
14 quân có các chức đốc quản, chánh đốc, chấp lệnh, giám quân.
15 Các quan chức ở ngoài các đạo thì có các chức gọi là sứ: quan sát
16 sứ, phòng ngự sứ, tuyên úy sứ, an phủ sứ, đều là những chức nhiệm ở
17 các trấn, châu, huyện. Lại đặt chức tuần kiểm ở các cửa biển và các
18 chức thủ ngữ, đoàn luyện; phong cho các tù trƣởng ở các nơi ngoại
19 phiên. Các chức nhƣ nhập nội, tƣ không, bình chƣơng sự, thƣợng tƣớng
20 quân, đại tƣớng quân cũng đƣợc dùng để ban cấp cho các tù trƣởng về
21 quy thuận hoặc có công lớn với triều đình. Nếu ai dâng kế sách hợp với
22 ý nhà vua thì đƣợc phong là quân sƣ. Đối với với các quan văn võ cận
23 thần thân tín của vua thì đƣợc ban kèm thêm hai chữ "nhập nội" nhƣ
24 nhập nội tƣ mã, nhập nội hành khiển.
25 Sau khi dẹp yên quân xâm lƣợc nhà Minh, định công thƣởng chức
26 cho các công thần mới đặt các chức tƣớng quốc thí dụ nhƣ tả tƣớng
27 quốc Trần Nguyên Hãn, hữu tƣớng quốc Tƣ Tề; thái bảo (Phạm Văn
28 Xảo), thái úy. Ở các vệ quân thì có chức tổng quản, đô tổng quản, đồng
29 tổng quản, trên dƣới liên hệ hệ nhau, lớn nhỏ giữ gìn kiểm soát nhau.
30 Lại đặt chức hành khiển ở 5 đạo chia giữ việc sổ sách và từ tụng của
31 quân dân, dƣới hành khiển thì đến các chức tham tri, đồng tri, chủ bạ,
32 đạo thuộc và các chức đô tri tả hữu để giữ của cải chứa trong .
33 Lại định quan các lộ, các huyện: lộ thì đặt tri phủ, chƣởng ấn thứ
34 đến là các chức trấn phủ sứ, an phủ sứ, tuyên phủ sứ, chiêu thảo sứ; ở
35 huyện thì đặt tuần án, chƣởng ấn, thứ đến chuyển vận chánh và phó sứ.
36 Các nơi hiểm yếu thì đặt quan trấn thủ.
37 Định chức phẩm các quan văn võ, mỗi phẩm trật đều có chánh, có
38 tòng. Quan võ thì từ tổng quản, tổng lĩnh, đồng tri xuống đến đại đội
39 trƣởng, đội trƣởng; quan văn thì từ hành khiển, thƣợng thƣ xuống đến
40 thất phẩm. Ở các xã thì có xã quan (LTHCLC/Quan Chức Chí/Chia đặt
41 quan chức qua các đời/q.XIII/Phan Huy Chú).

VSTK - 497
1
4
Trị tội những kẻ phản quốc Trần Phong, Lƣơng Nhữ Hốt: những
2 kẻ nầy đã từng đầu hàng về với quân Minh, đƣợc Lê Lợi tha tội nhƣng
3 sau đó lại ngầm sai thuộc hạ lén đem thƣ bí mật ƣớc hẹn sẽ làm nội ứng
4 khi quân Minh trở lại xăm lƣợc Đại Việt. Âm mƣu phản bội của họ bị
5 khám phá. Lê Thái Tổ cho báo cáo khắp các nơi trong kinh đô và ngoài
6 lộ đƣợc hay biết rồi giết hết những kẻ phản bội. ( Lƣu ý: xin xem thêm
7 phần phụ chú ở trang 637)
8
5
Miễn nghĩa vụ quân dịch và dân công cho con cháu của nghĩa
9 quân Lam Sơn: ĐVSKTT (BK/q.X/63a,b) có chép rằng: “Tháng 12,
10 ngày mồng 7 năm Mậu Thân (1428) ra lệnh chỉ cho các quan văn võ:
11 người nào đã đưa vợ con lên lẩn tránh ở núi rừng cùng với trẫm (vua
12 tự gọi mình để xƣng hô) mưu lo việc nước, từ Mường Thôi đến ở Bồ
13 Đằng, Chí Linh, Khả Lam thì con hoặc cháu được miễn các việc quân
14 dịch và dân dịch. Nếu đã làm quan thì không thuộc lệ nầy. Con cháu
15 của kẻ nào đã bỏ đạo nghĩa, cầu an, hàng giặc thì không được nhận. Ai
16 làm trái thì xử tội biếm hay bãi chức". Đây là một ƣu đãi, một đặc ân có
17 tính cách bè phái dành riêng cho tập đoàn đang nắm quyền cai trị trong
18 nƣớc mà ngày nay ngƣời ta vẫn còn thấy tồn tại ở một số nƣớc chậm
19 tiến trên thế giới. Thời buổi nào thì cũng có những hạng con ông, cháu
20 cha nhƣ thế. Chỉ có ngƣời dân đen là phải gánh chịu mọi điều cơ cực vì
21 dân công, quân dịch.
22
6
Đúc tiền Thuận Thiên và ấn định hối xuất tiền tê cũ: cứ 50 đồng là
23 một tiền. Trƣớc đây, thời Trần Thái Tông, năm Kiến Trung thứ 2
24 (1226) có chiếu ấn định tỷ lệ hối xuất (tức là tỷ lệ giá trị của đồng tiền)
25 áp dụng cho ngƣời dân thƣờng thì mỗi tiền là 69 đồng; còn dùng tiền
26 chính thức cho việc công (sử cũ gọi là chính dụng) thì mỗi tiền là 70
27 đồng. Nhƣ vậy, dƣới thời Lê Thái Tổ, không có sự ƣu đãi hối xuất tiền
28 tệ cho nhà nƣớc và cả nƣớc chỉ có một hối xuất chung là 50 đồng để đổi
29 lấy một tiền.
30
7
Lập con Tƣ Tề làm quốc vƣơn : đây là một hình thức vua cha
31 nhƣờng ngôi vua cho con để lên làm thái thƣợng hoàng giống nhƣ các
32 triều đại trƣớc. Tuy nhiên ở đây, Lê Lợi vẫn giữ quyền chỉ định hoàng
33 thái tử và vẫn nắm giữ tất cả mọi quyền lực khác, Tƣ Tề chỉ là một
34 quốc vƣơng bù nhìn, chỉ có tiếng mà không có quyền. Có lẽ vì lý do
35 nầy khiến cho Tƣ Tề trở thành đứa con ngỗ nghịch, bất hiếu và vô đạo.
36
8
Chia phiên quân binh làm ruộng: chia mỗi vệ quân ra 5 phiên, lƣu
37 lại một phiên lo việc phòng thủ và bảo vệ lãnh thổ còn 4 phiên lo việc
38 làm ruộng, tức là hơn 70 phần trăm quân số.

VSTK - 498
1 Sử sách cũ không nói rõ là số ngƣời nầy đƣợc đƣa đi làm ruộng lo
2 việc sản xuất trong một thời hạn bao lâu và khi hết thời hạn cày cấy sản
3 xuất thì có trở lại quân ngũ làm nhiệm vụ quốc phòng để phiên khác ra
4 thay thế theo thể thức xoay vòng hay không? KDDVSTGCM có viết về
5 việc nầy nhƣ sau: “Trước kia, khi ra Đông Đô nhà vua có dụ bảo tướng
6 sĩ rằng: Số quân hiện tại của ta nay có 35 vạn, đợi khi nào khôi phục
7 được Đông Đô thì bấy giờ sẽ cho 25 vạn về làm ruộng, chỉ để lại 10
8 vạn quân ở lại làm việc phòng thủ và bảo vệ đất nước”(CB/q.XV/ tờ
9 19). Nhƣ vậy có thể là số quân cho về làm ruộng là số quân đƣợc giải
10 ngũ để trở về đời sống dân sự sau khi đất nƣớc hoà bình.
11
9
Loại trừ công thần Trần Nguyên Hãn: Trần Nguyên Hãn là dòng
12 dõi tƣ đồ Trần Nguyên Đán, có học thức, thao lƣợc quân sự. Khi nghe
13 tin Lê Lợi tụ nghĩa ở Lam Sơn, Hãn vào Thanh Hóa gia nhập cuộc khởi
14 nghĩa. Lê lợi nhận biết đƣợc Hãn là ngƣời tài lƣợc cho nên đối đãi rất
15 hậu, cho đƣợc hợp bàn những việc tham mƣu, Hãn lập đƣợc rất nhiều
16 công trạng, đƣợc lên đến chức tƣ đồ. Khi Lê Lợi đã thành công lên ngôi
17 vua, nghe lời gièm pha của những kẻ xu nịnh tố cáo Hãn âm mƣu làm
18 phản, Lê Lợi bèn ra lệnh đến bắt nhƣng nhƣng thuyền chở Hãn về giao
19 nạp bị gió bảo lật chìm và Hãn chết (ĐVTS/ Liệt truyện/Lê Quý Đôn),
20 (KDDVSTGCM/CB/ XV/20a). LTHCLC/Nhân vật chí/Phan Huy Chú và
21 VSCMTY/ Q.IV của Đặng Xuân Bản đều có ghi việc nầy. Tuy nhiên,
22 trong ĐVSKTT bản Chính Hòa thứ 18 (1697), không thấy ghi chép về
23 việc Lê Lợi loại trừ Trần Nguyên Hãn và đây là nghi vấn sẽ đƣợc cứu
24 xét trong phần khảo luận.
25 9bis Phong tƣớc hầu cho 93 công thần: theo LTHCLV của Phan Huy
26 Chú: Thái tổ phong tƣớc liệt hầu cho các công thần. Đứng đầu là huyện
27 thƣợng hầu, thứ đến á thƣợng hầu, thứ nữa đến đình thƣợng hầu, thứ
28 nữa đến huyện hầu, thứ nữa đến á hầu, rồi đến quan nội hầu, quan phục
29 hầu, trƣớc phục hầu, tất cả gồm 9 bậc.
30
10
Thi minh kinh: KDDVSTGCM viết: ". . Đến đây nhà vua mở khoa
31 minh kinh".
32 ĐVSKTT chép một cách tổng quát nhƣng không gọi là thi minh kinh.
33 ĐVTS của Lê Quý Đôn ghi chép hơi khác với 2 bộ chính sử cũ:
34 “Ngày 28 tháng 11 năm Mậu Thân (1428), ban mệnh lệnh cho quan
35 viên và quân nhân khắp thiên hạ, cho biết đến tháng 5 sang năm, tới
36 Đông kinh dự thi: ban văn thi kinh sử, ban võ thi về võ kinh cùng pháp
37 lệnh và kỳ thư ". Năm Kỷ Dậu (1429), DVTS tiếp theo ghi rằng: “Ngày
38 26 (tháng 5 năm Kỷ Dậu), vua ban mệnh cho quân nhân các phủ, các lộ
39 và những kẻ sĩ ẩn dật nơi sơn lâm, có ai thông kinh sử, giỏi văn học,
40 ngày 28 (tháng 5 năm Kỷ Dậu) thảy đều tới sảnh đường ghi danh đợi
41 đến ngày định kỳ thi sẽ vào thi. Ai trúng tuyển sẽ được bổ dụng làm
42 quan. Lại ban mệnh cho các quan văn võ, có ai tinh thông kinh sử, từ tứ
43 phẩm trở xuống thảy đều tới sảnh đường dự hội thí vào ngày 29 tháng
44 này (tháng 5 năm Kỷ Dậu) "(ĐVTS/tờ 47b và 48 a).

VSTK - 499
1 Từ những cách ghi chép trên của sử sách cũ, có thể suy luận rằng
2 ngày 29 tháng 5 năm Kỷ Dậu (1429), Lê Lợi đã mở một kỳ thi lớn cho
3 tất cả quan, quân và thƣờng dân trong cả nƣớc để chọn ngƣời bổ dụng
4 vào những chức vụ quan trọng.
5 Đặc biệt trong kỳ thi nầy, những quan quân từ hàng tứ phẩm trở
6 xuống đến hàng binh sĩ đã đi theo Lê Lợi từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
7 nay muốn đƣợc trọng dụng hoặc thăng quan tiến chức thì cũng phải ghi
8 danh dự kỳ thi nầy.
9
11
Khảo hạch các tăng sĩ và đạo sĩ: ngày 10 tháng 6 năm Kỷ Dậu
10 (1429), ra lệnh cho các tăng sĩ, đạo sĩ ngƣời nào thông kinh điển, trong
11 sạch, giữ tiết hạnh thì phải đến sảnh đƣờng trình diện vào ngày 20
12 tháng này để đƣợc duyệt xét cho thi khảo hạch.; ai đỗ thì cho tiếp tục
13 làm tăng sĩ, đạo sĩ, ai không đỗ thì phải trở về đời sống dân thƣờng
14 để lao động sản xuất.
15
12
Truy phong chức thái úy cho Lê Lai: khi trong nƣớc vừa yên, Lê
16 Lợi truy phong cho Lê Lai tƣớc Thiếu úy Lũng Nhai công thần. Đến
17 nay lại tặng phong thêm tƣớc Thái úy.
18
13
Đào Công Soạn: có tên tự là Tân Khanh, ngƣời làng Thiện Phiến,
19 huyện Tiên Lữ (nay là xã Thiện Phiến, huyện Phù Tiên, tỉnh Hƣng
20 Yên). Năm Bính Ngọ (1426), Lê Lợi ra Đông Đô, mở cuộc thi tìm
21 ngƣời giỏi, Soạn đƣợc đỗ thứ nhất. Ông có tài ngoại giao cho nên
22 thƣờng đƣợc cử đi sứ sang triều đình nhà Minh. Làm quan đến chức
23 thƣợng thƣ bộ Lễ và nhiều lần đƣợc giữ chức nhập nội đại hành khiển.
24 Ông là ngƣời ôn hòa, lễ độ, cần kiệm liêm chính. Thơ ông cũng thanh
25 thoát, ý tứ dồi dào. Khi chết, tuổi 78 (có lẽ chết vào năm Bính Tý /
26 1456 hoặc năm Đinh Sửu / 1457).
27 13bis Loại trừ công thần Phạm Văn Xảo: đây lại thêm một trƣờng hợp
28 khác về việc Lê Lợi sát hại những ngƣời công thần tƣơng tựa nhƣ
29 trƣờng hợp của Trần Nguyên Hãn.
30
14
Châu Thạch Lâm: tức Thông Nông, thuộc Thái Nguyên, nay thuộc
31 Cao Bằng.
32
15
Nhóm thổ tù ở châu Thạch Lâm cấu kết với Trần Nguyên Hãn để
33 làm phản: chuyện nầy đƣợc ghi chép trong Đại Việt Thông Sử của Lê
34 Quý Đôn. ĐVSKTT, KDDVSTGCM, VSCMTY không chép là nhóm
35 thổ tù nầy liên kết với Trần Nguyên Hãn mƣu phản. Đây là chi tiết rất
36 đáng đƣợc khảo xét vì nó có liên quan đến việc Lê Lợi loại trừ những
37 công thần đã từng sống chết với mình từ lúc khởi nghĩa Lam Sơn.
38
16
Sách Lam Sơn Thực Lục: sách ĐVSKTT chép về việc soạn sách Lam
39 Sơn Thực Lục đời Lê Thái Tổ (Lê Lợi) rất sơ sài nhƣ sau: “Năm Tân
40 Hợi, niên hiệu thuận thiên thứ tƣ tháng 12, ngày mồng 6 (tức vào khoản
41 ngày 9 tháng 1 năm 1432 dƣơng lịch) sai làm sách Lam Sơn thực lục;
42 vua tự làm bài tựa, đề tên là Lam Sơn động chủ" (đoạn viết nầy bằng
43 chữ hán đƣợc phiên âm ra nhƣ sau: Tân Hợi, Thuận Thiên, tứ niên thập
44 nhị nguyệt lục nhật, đế mệnh tác Lam Sơn thực lục, đế tự tác tựa, chƣớc

VSTK - 500
1 Lam Sơn động chủ) (BK/Q.10/73b). Theo cách viết nầy của ĐVSKT
2 thì Lê Lợi sai ngƣời khác làm ra (đế mệnh tác) sách LSTL còn Lê Lợi
3 chỉ viết lời tựa cho sách mà thôi (tự tác tựa). Tuy nhiên, nếu đọc nội
4 dung lời tựa do Lê Lợi viết trong sách LSTL thì thấy rằng sách nầy do
5 đích thân Lê Lợi chép (nãi bút vu thƣ = liền chép thành sách). Thời
6 điểm viết bài tựa nầy cũng khác với ĐVSKTT: “ngày tốt tháng trọng
7 Đông (tức tháng 11 âm lịch) niên hiệu Thuận Thiên thứ tƣ (tháng 12
8 năm 1431 dƣơng lịch), Lam Sơn động chủ Thuận Thiên tứ niên, trọng
9 đông nguyệt cốc nhật, Lam Sơn động chủ tự”. Nhƣ vậy có thể hiểu ý
10 nghĩa của cách viết trong ĐV SKTT về sách LSTL nhƣ sau: Vào lúc
11 khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lề Lợi tự tay viết lấy những chuyện xảy ra tuần
12 tự theo thời gian vào một tập nhật ký nào đó. Đến khi đã đuổi hết quân
13 Minh ra khỏi bờ cõi nƣớc Đa,i Việt rồi lên ngôi vua, Lê Lợi liền ra lệnh
14 cho các nho thần đem sách nhật ký đó sửa lại cấu trúc, lời văn và đặt
15 tên cho quyển nhật ký là Lam Sơn Thực Lục, Lê Lợi viết thêm bài tựa.
16
17
Châu Mƣờng Lễ: trƣớc là châu Ninh Viễn, sau đổi là châu Phục Lễ,
17 là vùng đất tỉnh Lai Châu ngày nay.
18
18
Trao quyền cai trị nƣớc và thừa kế ngôi vua : đây cũng giống nhƣ
19 hình thức vua và thái thƣợng hoàng trong triều đại nhà Trần ngày trƣớc.
KHẢO LUẬN:
Sử gia phê luận về Lê Lợi:

20 Khởi đầu kỷ nhà Lê, ĐVSKTT viết nguyên văn nhƣ sau: <<Vua họ
21 Lê, tên húy là Lợi, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn
22 Thanh Hóa. Ở ngôi 6 năm, thọ 51 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng. Vua hăng
23 hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh. Sau 10 năm thì thiên hạ đại
24 định. Đến khi lên ngôi, đã ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa
25 thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập
26 sách vở, mở mang trường học, có thể gọi là có mưu kế xa rộng mở
27 mang cơ nghiệp. Song đa nghi, hiếu sát, đó là chỗ kém.>>(ĐVSKTT/BK/Q.X/
28 1a).
29 Sau khi Lê Thái Tổ (Lê Lợi) mất, ở tờ 75 a và b của ĐVSKTT có
30 đoạn Lời bàn cũng viết tƣơng tựa nhƣ đoạn khởi đầu kỷ nhà Lê nói
31 trên. Lời bàn:"Song đa nghi và hiếu sát, đó là chỗ kém" không biết là
32 do ai ở vào triều đại nhà Hậu Lê đã táo bạo ghi chép lời phê luận một
33 các tách bạch và khá thẳng thắn nhƣ thế đối với ông tổ của triều đại
34 nầy. Đa số những lời bàn khác đều là những lời tâng bốc khen ngợi hết
35 lời về công đức to lớn của Lê Lợi. KDDVSTGCM cũng có đoạn viết
36 tƣơng tựa: ". . . . nhưng hay nghi kỵ đa sát: đó là chỗ kém của nhà vua
37 Lê " (CB/ q.XV/ 32). Ở đây cũng cần lƣu ý rằng, trong ĐVSKTT/ Bản
38 Kỷ/ q.X không có kê khai tên của sử gia nào biên soạn hoặc tu sửa (thí
39 dụ ở phần Ngoại Kỷ/ q.I, khởi đầu tờ 1 có ghi pho Triều Liệt Đại phu,
40 quốc tử giám tƣ nghiệp kiêm sử quan tu soạn thần Ngô Sĩ Liên biên
41 soạn. Ở phần ĐVSKTT/Bản Kỷ Thực Lục/ q.XI/ tờ 1 cũng có ghi rõ

VSTK - 501
1 tác giả là Ngô Sĩ Liên biên soạn). Nhƣ vậy, có thể suy luận rằng,
2 ĐVSKTT/BK/ q.X là do Ngô Sĩ Liên khởi phát nhƣng sau đó đã có
3 nhiều ngƣời tu soạn, viết đi viết lại và thêm vào những đoạn viết mở
4 đầu hoặc lời phê luận táo bạo nhƣ trên. Nhóm sử gia cuối cùng tu soạn
5 và viết nối tiếp bộ ĐVSKTT là nhóm của Hồ Sĩ Dƣơng và kế tiếp là Lê
6 Hy. Trên thực tế, nhà Hậu Lê chỉ còn là một triều đại bù nhìn kể từ khi
7 Lê Anh Tông (1556-1573) và Lê Kính Tông (1600-1619) bị Trịnh Tùng
8 bức tử lần lƣợc trƣớc sau vào năm Quý Dậu (1573) và năm Kỷ
9 Mùi(1619), rồi từ đó việc cai trị hoàn toàn do phủ chúa Trịnh nắm giữ.
10 Nhóm Lê Hy là quan thần của phủ chúa Trịnh.Lúc bấy giờ Lê Hy giữ
11 chức thƣợng thƣ bộ Hình từ năm 1693, cùng Nguyễn Quán Nho giữ
12 chức thƣợng thƣ bộ binh đều trực thuộc làm việc với chức vụ
13 Thamtụng bên phủ chúa Trịnh. Lê Hy đã vâng lệnh của chúa Trịnh Tạc
14 (thời Lê Hy Tông từ 1676-1705) hoàn chỉnh bộ ĐVSKTT và soạn tiếp
15 cho đến năm 1675. Cùng tham gia tu sửa và biên soạn với Lê Hy còn
16 có các quan chức cao cấp khác của phủ chúa Trịnh Tạc nhƣ các bồi
17 tụng Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Công Đổng, Vũ Thanh, Hà Tông Mục
18 và Nguyễn Hành. Do đó, ĐVSKTT kể từ Lê Hy thì không còn lý do gì
19 để e dè sợ sệt trong việc nhận định và phê phán những triều đại cũ từ
20 trƣớc nhất là đối với triều đại nhà Hậu Lê. Cần viết thêm rằng, từ thời
21 Lê Huyền Tông (1663-1671), uy quyền của Trịnh Tạc lấn lƣớt hết uy
22 quyền của vua Lê, ra vào gặp mặt vua không cần bái lại, sớ tấu không
23 cần viết tên, ghế ngồi thiết triều của Trịnh Tạc đặt ngang ở phía trái ghế
24 ngồi của vua Lê. Trong bài tựa Sử Ký Tục Biên, Lê Hy viết: “Bèn nhân
25 lúc nhàn rỗi sai bọn hạ thần khảo đính sử cũ, chỗ nào sai thì sửa lại, chỗ
26 nào đúng thì chép lấy. . . . . . . . .."(ĐVSKTT/Tựa ĐVSKTB/q.Thủ/ 2b).
27 Tóm lại, nếu có những nhận xét phê phán ngay thẳng đúng mức trong
28 ĐVSKTT thì những nhận xét phê phán đó chỉ có thể là bút phê của một
29 trong các chúa Trịnh hoặc là do các sử quan trong nhóm Lê Hy viết
30 thêm vào vì họ không bị áp lực nặng nề của dòng họ nhà Hậu Lê. Còn
31 thời gian trƣớc Lê Hy, các sử quan nhƣ Lê Tung, Phạm Công Trứ, Vũ
32 Quỳnh, Ngô Sĩ Liên, Phan Phu Tiên, tất cả chỉ là những con cá nằm
33 trên thớt của một triều đại nhà Hậu Lê đang lúc thịnh vƣợng và đầy
34 quyền uy sinh sát: những cung cách phê phán của họ chỉ có thể là "xấu
35 che, tốt khoe" chứ không thể có những phê phán "phạm thƣợng" để tự
36 mang họa vào thân .Lời bàn của Lê Quý Đôn trong Đại Việt Thông Sử
37 cũng chỉ có lời khen tâng bốc nhƣng không thấy đá động gì đến các lầm
38 lỗi của Lê Lợi trong việc sát hại, loại trừ các công thần. Chuyện nầy
39 cũng dễ hiểu, bởi vì Lê Quý Đôn không bao giờ đứng hẳn về một phía
40 với phủ chúa Trịnh mà cũng chƣa bao giờ đƣợc chúa Trịnh (Trịnh Sâm,
41 rồi Trịnh Doanh) tin dùng để giao phó cho việc tu sửa chính sử (chính
42 sử tức là loại sách sử đƣợc chính quyền công nhận, do chính quyền phát
43 hành, in ấn và cho phép phổ biến trong dân gian).

VSTK - 502
1 Nhóm sử gia Hồ Sĩ Dƣơng trong bài tựa sách Trùng San Lam Sơn
2 Thực Lục cũng chỉ có những lời tâng bốc khen ngợi. Phan Huy Chú
3 trong LTRHCLC cũng không thấy có đoạn nào chê trách Lê Lợi.
4 Nhóm sử gia trong quốc sử quán triều Nguyễn (Tự Đức) chỉ chép lại
5 những phê phán "phạm thƣợng" đã có sẵn trong ĐVSKTT.
6 VSCMTYcủa Đặng Xuân Bảng chỉ ghi lại giống nhƣ KDDVSTGCM
7 và chép thêm lời bàn khen tụng của Lê Quý Đôn trong ĐVTS chứ
8 không có ý kiến riêng.

 Quan điểm khách quan về Lê Lợi:

9 Dƣ luận cho Lê Lợi là một ngƣời đa nghi, hiếu sát đã căn cứ vào đâu
10 để đƣa ra những phê phán nhƣ vậy?

11 Nhất định là việc giết hại và loại trừ các công thần đã đƣa đến sự
12 phê phán đó. Mặc dù chủ trƣơng loại trừ các phe phái đối nghịch là một
13 hành vi tất yếu và cần thiết của những kẻ đang nắm độc quyền cai trị,
14 nhƣng nếu chủ trƣơng loại trừ, giam nhốt nầy bắt nguồn từ sự thù hận,
15 từ khuynh hƣớng trả thù hay vì nghi kỵ nghe theo những kẻ xu nịnh bợ
16 đỡ thì sự giết hại đó rất đáng chê trách. Hơn nữa, nếu tạo ra những
17 duyên cớ mờ ám, hoặc đặt bày, vẽ chuyện để chụp mũ rồi buộc tội và
18 xử tội những ngƣời mà mình không thích hoặc bị nghi ngờ thì lại còn
19 đáng phải mang tiếng thêm là một hạng thủ lãnh tiểu nhân, nhỏ nhen,
20 hôn quân vô đạo.

21 Cái chết của công thần Trần Nguyên Hãn có vẻ nhƣ không phải do
22 chính tay Lê Lợi ra lệnh nhƣng nó cũng giống nhƣ cái chết có vẻ tự
23 nhiên của tƣớng giặc Ô Mã Nhi ngoài biển khơi vào thời nhà Trần mặc
24 dù thuyền chở Ô Mã Nhi đã bị Trần quốc Tuấn bí mật cho bộ hạ đục
25 thủng cho chìm. Lê Lợi nêu rõ lý do cái chết của Nguyên Hãn là vì Hãn
26 cấu kết với thổ mục ở biên giới để làm phản nhƣng trong thâm tâm Lê
27 Lợi dƣ biết rõ Trần Nguyên Hãn thuộc dòng họ nhà Trần mà nếu không
28 lo tuyệt trừ thì sẽ tai hại về sau giống nhƣ ngày xƣa nhà Trần đã tiêu
29 diệt sạch dòng họ nhà Lý theo phƣơng châm nhổ cỏ thì phải nhổ cho
30 tận gốc.
31 Về cái chết của Phạm Văn Xảo, Lê Quý Đôn ghi trong ĐVTS nhƣ sau:
32 “Nguyên là khi vua Thái Tổ (Lê Lợi) tuổi già, nhiều bệnh, con trưởng là
33 quận vương Tư Tề thì điên cuồng bậy bạ, vua Thái Tông thì còn nhỏ mà
34 Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo đều là các bề tôi mở nước có công
35 đầu, rất được người đương thời trọng vọng. Nguyên Hãn lại là con
36 cháu tông tộc nhà Trần, mà văn Xảo cũng là người Kinh lộ. Vua Thái
37 Tổ sợ rằng ngày sau chúa nhỏ cầm quyền thì hai người nầy sẽ sinh lòng
38 phản nghịch đoạt ngôi. Vì thế, bề ngoài thì lấy lễ ý tôn sùng trọng vọng
39 nhưng trong lòng vẫn nghi ngờ. Bọn Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí,

VSTK - 503
1 Trình Hoàng Bá, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư đón biết ý vua, tranh
2 nhau dâng mật sớ khuyên vua nên sớm quyết ý trừ đi. Những người mà
3 bọn Lê Quốc Khí không bằng lòng đều bị vu cáo cho là bè đảng của
4 Nguyên Hãn và Văn Xảo, bị án xử tử và tù giam rất nhiều”. Qua đoạn
5 văn nầy ngƣời ta thấy thêm đƣợc Lê Lợi cũng là một con ngƣời bình
6 thƣờng nham hiểm, thâm độc và giả hình.

 Về việc truất phế Tƣ Tề năm 1433


7 Tới đây lại thêm một cách viết mờ ám của sử cũ: không viết rõ Tƣ Tề
8 ngỗ nghịch, bất hiếu và vô đạo nhƣ thế nào. Rất có thể đây cũng là một
9 âm mƣu phế lập giữa hai phe con trƣởng, con thứ và Lê Lợi là ngƣời
10 nghe theo những kẻ nịnh thần gièm pha để truất bỏ quyền kế vị ngôi
11 vua của ngƣời con trƣởng là Tƣ Tề để chọn con thứ Nguyên Long làm
12 hoàng thái tử.
13 Ngƣời ta thƣờng thấy trong sử cũ, cứ mỗi lần có sự phế lập về việc
14 thừa kế ngôi vua thì liền ngay sau đó vua cha chết: ở đây, theo
15 ĐVSKTT và KDDVSTGCM thì vào tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê
16 Lợi giáng con trƣởng Tƣ Tề từ chức quốc vƣơng xuống chức quận
17 vƣơng rồi ra tờ chiếu truyền ngôi vua cho con thứ Nguyên Long và
18 cùng một lúc lại phong cho Lê Sát chức đại tƣ đồ nhận lãnh di chiếu
19 làm phụ chính để giúp vua nhỏ Nguyên Long lúc đó chỉ mới đƣợc 11
20 tuổi (tức Lê Thái Tông).
21 KDDVSTGCM viết rằng: “Bấy gìờ nhà vua đau nặng, thái tử còn
22 nhỏ tuổi, Lê Sát là kẻ công thần tín cẩn , định giao cho công việc nhận
23 lãnh di chiếu làm phụ chính để giúp vua nhỏ, cho nên nay có mệnh lệnh
24 phong cho chức nầy “(CB/q.XV/ tờ 31) và tháng 8 nhuận (năm Quý
25 Sửu có hai tháng 8) Lê Lợi mất. Những ngƣời sắp chết, thần trí trở nên
26 mê muội chính là lúc những trò thay ngôi đổi chủ thƣờng xảy ra dƣới
27 hình thức những lời trăn trối trong di chiếu: vào những giờ phút nhƣ thế
28 thì các phe phái đối nghịch thƣờng lợi dụng danh nghĩa của ngƣời sắp
29 chết để kéo bè kéo phe, sắp xếp việc thừa hƣởng ngôi vua. Cần lƣu ý
30 một điểm là đám công thần thân tín của Lê Lợi từ thuở Lam Sơn khởi
31 nghĩa không đƣợc Tƣ Tề ƣa thích kể luôn cả Lê Sát.Nhƣ vậy thì ngƣời
32 ta có thể suy luận rằng: Lê Sát và những ngƣời cùng một nhóm của ông
33 ta rất có thể đã đạo diễn việc hạ bệ Tƣ Tề để đƣa cậu bé con Nguyên
34 Long lên kế vị ngôi vua của Lê Lợi để họ có thể mặc tình thao túng
35 lộng quyền trong việc triều chính. Tiểu sử của Lê Sát cho thấy ông ta là
36 một ngƣời cố chấp, tham quyền cố vị, có khuynh hƣớng độc tài và lấn
37 áp quyền của vua. Khi Lê Thái Tông (Nguyên Long) lớn khôn, đã có óc
38 hiểu biết phán đoán thì thấy đƣợc chân tƣớng của Lê Sát và không dùng
39 ông ta nữa.

VSTK - 504
1 Để kết luận, có thể nói rằng:

2 1- Tất cả những yếu điểm của Lê Lợi là hình ảnh chung và trung thực
3 của lớp vua chúa và các hàng lãnh đạo trong thời đại phong kiến ngày
4 xƣa và vẫn còn tồn tại ở nhiều quốc gia chậm tiến ngày nay trên thế
5 giới.
6 2 - Dù sao thì những khía cạnh bất toàn kể trên cũng không thể làm
7 cho hậu thế không công nhận Lê Lợi là một ngƣời anh hùng của nƣớc
8 Đại Việt, một nhà quân sự tài ba, một nhà lãnh đạo khôn khéo nhiều
9 mƣu lƣợc và nếu so sánh với các vua có tài và có công với đất nƣớc từ
10 trƣớc kể từ Ngô Quyền thì Lê Lợi là ngƣời đáng đƣợc dân tộc Đại Việt
11 tôn vinh và nhớ ơn rất nhiều.

VSTK - 505
QUYỂN II

THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ


CHƢƠNG II
LÊ THÁI TÔNG ( 1433 - 1442 )
Niên hiệu: Thiệu Bình (1434-1439), Đại Bảo (1440-1442)

1 Ngày mồng 8 tháng 9 năm Quý Sửu, năm Thuận Thiên


2 thứ 6 (1433), thái tử Nguyên Long, 11 tuổi, lên ngôi vua tức
3 Lê Thái Tông, đổi niên hiệu dùng cho năm tiếp theo là Thiệu
4 Bình năm thứ 16 . Nguyễn Trãi vâng lệnh soạn văn bia Vĩnh
5 Lăng1 kể lại công trạng và sự nghiệp đánh đuổi quân xâm
6 lƣợc nhà Minh của Lê Lợi.
Xây điện Lam Kinh2.
7 Giáp Dần, Thiệu Bình năm thứ 16, tháng Giêng (1434),
8 sai sứ sang Tàu để đƣa trả tù và nạp cống cho nhà Minh3.
9 Ra lệnh cho con cháu của các quan từ lục phẩm trở lên
10 phải vào học ở Quốc tử giám. Lại khảo thí học sinh ở các lộ
11 chia làm 3 hạng: hạng nhất và hạng nhì thì đƣợc đƣa vào học
12 Quốc tử giám, hạng ba vẫn đƣợc tiếp tục học ở các lộ, tất cả
13 đều đƣợc miễn sai dịch4 .
14 Lê Sát giữ chức tể tƣớng, lập mƣu giết Lƣu Nhân
15 Chú và biếm chức em của Chú là hành khiển Nam đạo
16 Lƣu Khắc Phục, đày giám sinh Nguyễn Đức Minh ra
17 châu xa.
18 Nịnh thần Trình Hoành Bá trƣớc đây đã bị Lê Lợi đuổi
19 đi không dùng nay Lê Sát lại đƣợc nâng đỡ kéo trở về theo
20 phe mình nhƣng Lê Thái Tông không thuận.
21 Lê Sát lại giáng chức nhập nội thiếu bảo Trịnh Khả vì
22 ghét Khả.
23 Bắt lính: con trai của hàng dân và của các gia đình quân
24 binh5 đều phải trình diện để qua cuộc tuyển chọn.
25 Con của các hàng quan văn võ đang tại chức từ lục
26 phẩm trở lên, cũng nhƣ các sinh viên trƣờng quốc tử giám
27 đƣợc miễn trình diện tuyển lính. Nhà nào có 3 con trai thì
28 chỉ đƣợc miễn 1 ngƣời.
29 Tháng 4, mùa hạ, không mƣa, hạn hán.

VSTK - 506
1 Tháng 5, quy định lại thuế bãi dâu còn các loại thuế
2 khác vẫn theo lệ năm Quý Sửu (1433)6.
3 Lê Sát có chuyện bất hòa với Nguyễn Trãi7.
4 Lê Thái Tông truy tôn mẹ là Phạm thị Ngọc Trân, vợ
5 lẻ của Lê Lợi, làm cung từ quốc thái mẫu.
6 Mùa thu tháng 7, mở hội Vu Lan8.
7 Tháng 8, định thể lệ thi và kỳ hạn khoa thi tiến sĩ: năm
8 Thiệu Bình thứ 5 sắp tới (1448) sẽ thi Hƣơng ở các đạo, năm
9 Thiệu Bình thứ 6 (1449) thi Hội ở sảnh đƣờng tại kinh đô.
10 Từ đó trở đi, cứ 3 năm một lần thi lớn, coi nhƣ đây là một
11 quy định lâu dài, ngƣời nào thi đỗ thì đƣợc ban danh hiệu
12 tiến sĩ xuất thân9.
13 Thể lệ thi chia thành 4 kỳ: kỳ thứ nhất thi tứ thƣ10 và
14 ngũ kinh11, mỗi thƣ một bài, mỗi kinh một bài, mỗi bài từ
15 300 chữ trở lên; kỳ thứ hai: thi chế, chiếu, biểu; kỳ thứ ba:
16 thi thơ, phú; kỳ thứ tƣ: thi 1 bài văn sách từ 1,000 chữ trở
17 lên.
18 Lệnh các trƣởng quan khảo hạch công trạng và đạo đức
19 của các quan chức thuộc hạ rồi lập bản tƣờng trình đầy đủ
20 chi tiết11bis.
21 Tháng 9, vua mới của nƣớc Ai Lao là Dụ Quần12 dâng
22 nạp vàng bạc và voi xin hàng phục Đại Việt.
23 Sứ Chiêm Thành sai sứ mang cống vật sang để cầu hoà.
24 Tháng 10, sâu bọ phá hoại ruộng lúa.
25 Tháng 11, sứ nhà Minh sang điếu tang Lê Lợi.
26 Tháng 12, Lê Thụ bị xử phạt vì cƣới thêm vợ lẻ và lén
27 lút bắt lính xây dựng dinh phủ riêng cho mình trong khi
28 khắp nƣớc còn đang để tang Lê Lợi13.
29 Cho phép nộp vàng chuộc tội.
30 Ất Mão, Thiệu Bình năm thứ 2, tháng 2 (1435), nhà
31 Minh sai sứ phong chức quyền thự An Nam quốc sự cho Lê
32 Thái Tông.
33 Tháng 3, đúc sáu loại ấn triện bằng vàng, bạc và gồm
34 có: ấn "thuận thiên thừa vận"14 dùng cho việc truyền ngôi,
35 ấn "đại thiên thành hóa"15 dùng trong khi đƣa quân đi bình
36 định dẹp loạn, ấn "chế cáo" dùng cho các loại chế chiếu, ấn
37 "sắc mệnh" dùng cho các sắc dụ và các hiệu lệnh thƣởng

VSTK - 507
1 phạt, ấn "ngự tiền" dùng để đóng dấu trên các giấy tờ, sổ
2 sách, ấn "ngự tiền tiểu bảo" dùng cho các giấy tờ kín mật.
3 Còn việc hành chánh bình thƣờng thì vẫn dùng những ấn
4 triện làm bằng ngà voi nhƣ lệ cũ.
5 Sai ngƣời đi điều tra tình trạng tham nhũng của các quan
6 chức trong ngoài sau đó bắt giữ và cho điều tra xét hỏi hơn
7 50 ngƣời.
8 Cuối năm Ất Mão (1435), sai quân đội vét sông Đông
9 Ngàn.
10 Bính Thìn, Thiệu Bình năm thứ 3 (1436), cử sứ sang
11 Trung Quốc xin nhà Minh phong tƣớc vƣơng cho Lê Thái
12 Tông.
13 Đinh Tỵ, Thiệu Bình năm thứ 4 (1437), vua nhà Minh
14 sai sứ sang Đại Việt ban tƣớc An Nam quốc vƣơng cho Lê
15 Thái Tông.
16 Tháng 5, giao cho Nguyễn Trãi và Lƣơng Đăng chế tác
17 lễ nhạc. Những đề nghị của Nguyễn Trãi trong việc nầy
18 không đƣợc Lê Thái Tông nghe theo do đó Nguyễn Trãi xin
19 thôi nhiệm vụ nầy, Lƣơng Đăng tiếp tục việc chế tác: về lễ
20 có những lễ đại triều nhƣ lễ tế trời, lễ cáo miếu, lễ ngày sinh
21 của vua, lễ ngày mồng một Tết âm lịch; về nhạc thì có nhạc
22 tế giao16, nhạc tế miếu, nhạc tế ngũ tự17, nhạc dùng khi có
23 nhật thực hay nguyệt thực, nhạc đại triều, thƣờng triều, đại
24 yến, nhạc trong cung vua.
25 Tháng 6, Lê Thái Tông tự thanh lọc và sắp xếp lại quan
26 chức triều đình:
27 - loại ra ngoài Lê Ê và Lê Hiển là đồng bọn tay chân bộ
28 hạ của Lê Sát; phục chức cho Trịnh Khả trở về coi cấm
29 quân;
30 - cách hết chức tƣớc của Lê Sát với lý do là Lê Sát đã
31 chuyên quyền, ganh ghét ngƣời hiền tài, giết Lƣu Nhân Chú,
32 truất Trịnh Khả, đày Ƣ Đài, đuổi Cầm Hổ ;
33 - đổi Đặng Đắc đi Lạng Sơn vì là kẻ bay mƣu lập kế cho
34 Lê Sát, sau đó tống giam Đắc vào ngục và xử tội chết ;
35 - hạ chức Lê Văn Linh và Lê Ê .
36 - phục hồi chức Trung thừa cho Bùi Cầm Hổ.

VSTK - 508
1 Tháng 7, bắt Lê Sát phải tự tử, tịch thu hết gia sản, phế
2 ngôi vị nguyên phi con gái của Sát là Lê thị Ngọc Dao
3 xuống hàng cung tần không có thứ bậc. Lập con gái của đô
4 đốc Lê Ngân lên hàng Huệ phi.
5 Phan Thiên Tƣớc, Lê Bồ, Lê Lao, Lê Lỗi đều bị bãi
6 hoặc giáng chức vì là bộ hạ thân tín của Lê Sát.
7 Tham nghị Nguyễn Liễu bị đày đi châu xa vì phê phán
8 hoạn quan Lƣơng Đăng trong việc chế tác lễ nhạc.
9 Tháng 12, giết nhập nội đại đô đốc Lê Ngân, tịch thu
10 gia sản, giáng truất Huệ phi18, con gái của Lê Ngân, xuống
11 làm tƣ dung19. Lý do: Lê Ngân thờ tƣợng phật Quan Âm
12 trong nhà để cầu nguyện cho con gái là Huệ phi đƣợc vua
13 thƣơng yêu chiều chuộng nhiều hơn. Ngƣời đàn bà lo việc
14 cúng thờ tƣợng Quan Âm ở nhà Lê Ngân cũng bị đày đi
15 châu xa.
16 Ra lệnh cho ngƣời Hoa sinh sống ở Đại Việt phải ăn
17 mặc theo kiểu của ngƣời Đại Việt và phải cắt tóc ngắn20.
18 Mậu Ngọ, Thiệu Bình năm thư 5, tháng 2 (1438), vét các
19 sông ở Trƣờng Yên, Thanh Hóa và Nghệ An.
Phế quận vƣơng Tƣ Tề xuống làm dân thƣờng21.
Tháng 12, sứ nhà Minh sang đòi lại hai động An Bang
và Hóa Long thuộc châu An Bình của Trung Quốc. Lê Thái
Tông cũng sai sứ sang Trung Quốc đòi lại các động ở Vũ
Đức của Đại Việt22 .
20 Kỷ Mùi, Thiệu Bình năm thứ 6, tháng 3 (1439), quy định
21 hối xuất tiền đồng, kích thƣớc vải vóc và giấy viết: 60 đồng
22 là một tiền. Lụa mỗi tấm dài 30 thƣớc, ngang từ 1 thƣớc 5
23 tấc trở lên. Vải gai nhỏ mỗi tấm dài 24 thƣớc, ngang từ 1
24 thƣớc 3 tấc trở lên. Vải gai mỗi tấm dài 24 thƣớc. Vải bông
25 thô mỗi tấm dài 22 thƣớc. Giấy thì cứ mỗi xấp là 100 tờ.
26 Tháng 8, bắt lính.
27 Tháng 10, hoàng tử Lê Nghi Dân sinh.
28 Đổi niên hiệu là Đại Bảo năm thứ 1.
29 Canh Thân, Đại Bảo năm thứ 1 tháng Giêng (1440), lập
30 con trƣởng Lê Nghi Dân làm hoàng thái tử. Mẹ đẻ của Nghi
31 Dân là thần phi Dƣơng thị Bí.

VSTK - 509
1 Tháng 6, phong cho Ngô thị Ngọc Giao làm tiệp dƣ23,
2 đƣợc vào ở cung Khánh Dƣơng.
3 Tân Dậu, Đại Bảo năm thứ 2, tháng 5 (1441), hoàng tử
4 Bang Cơ sinh. Mẹ sinh Bang Cơ là thần phi Nguyễn thị
5 Anh.
6 Tuyển gái đẹp ở các nơi đƣa vào cung hầu hạ vua.
7 Vợ của Nguyễn Trãi là Nguyễn thị Lộ24 tấu với vua là
8 cần phải bắt giam những hạng đàn bà kiêu căng, ghen tƣơng,
9 ngỗ nghịch.
10 Giáng thần phi Dƣơng thị Bí, mẹ của hoàng thái tử Nghi
11 Dân xuống hạng vợ thứ vì cho rằng Dƣơng thị ngỗ nghịch,
12 đức độ không tốt. Nghi Dân vì là con của Dƣơng thị cho nên
13 cũng bị giáng xuống làm Lạng Sơn vƣơng, lập Bang Cơ làm
14 hoàng thái tử và Khắc Xƣơng25 làm Tân Bình vƣơng.
15 Nhâm Tuất Đại Bảo năm thư 3 (1442) tháng 3, tổ chức
16 thi Hội: Nguyễn Trực, Nguyễn Nhƣ Đỗ, Lƣơng Nhƣ Hộc đỗ
17 tiến sĩ cập đệ26; Trần Văn Huy và 6 ngƣời khác đỗ tiến sĩ
18 xuất thân27; 23 ngƣời đỗ đồng tiến sĩ xuất thân28 trong đó có
19 Ngô Sĩ Liên29. Sai dựng bia đề tên những ngƣời đỗ tiến sĩ.
20 Bia tiến sĩ bắt đầu có từ đây.
21 Tháng 7, hoàng tử Tƣ Thành sinh. Mẹ sinh Tƣ Thành là
22 tiệp dƣ Ngô thị Ngọc Giao.
23 Lê Thái Tông đi tuần miền Đông. Đến Chí Linh đƣợc
24 Nguyễn Trãi mời đến du ngoạn ở chùa Côn Sơn30.
25 Tháng 8, trên đƣờng trở về, Lê Thái Tông dừng lại ở
26 trại Vải31, huyện Gia Định, xã Đại Lại32, bên bờ sông Thiên
27 Đức, truy hoan suốt đêm với vợ của Nguyễn Trãi là Nguyễn
28 thị Lộ rồi chết ở đó. Triều đình dấu kín chuyện nầy, lặng lẽ
29 đƣa xác Lê Thái Tông về kinh đô rồi hai ngày sau tức ngày
30 mồng 6 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442) mới truyền rao tin
31 vua chết cho mọi ngƣời hay và công bố rằng Nguyễn thị Lộ
32 mƣu hại Lê Thái Tông.
33 Hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi, lúc đó mới 2 tuổi.
34 Nguyễn thị Lộ bị triều đinh xử tội chết. Nguyễn Trãi cũng bị
35 xử tội chết và tru di 3 họ.

CHÚ GIẢI:

VSTK - 510
1
1
Văn bia Vĩnh Lăng: nói về sự nghiệp, chiến công và thành tích của
2 Lê Lợi. Bài văn nầy do Nguyễn Trãi soạn tháng 10 năm Quý Sửu
3 (1438) và khắc lên bia đặt nơi chôn Lê Lợi ở Vĩnh Lăng.
4
2
Điện Lam Kinh: theo lời chua của KĐVSTGCM trích dẫn Hoàng
5 Việt địa dƣ chí thì điện nầy ở xã Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ
6 Thiệu Hóa, nay là Xuân Lam huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (CB
7 .XV/33).
8
3
Trả tù và nộp cống cho nhà Minh: trƣớc đó nhà Minh sai sứ sang
9 sang hỏi về tù binh ngƣời Minh còn bị giam nhốt ở Đại Việt và số vàng
10 phải nộp cống cho vua nhà Minh.
11
4
Ra lệnh các quan chức phải đƣa con cháu vào Quốc tử Giám để
12 học: đây là một chính sách ƣu đãi đặc biệt có tính cách phân biệt giai
13 cấp và phe phái đối với ngƣời dân thƣờng bởi vì, ngƣời dân thƣờng
14 muốn tiến thân thì trƣớc hết phải thi đỗ để đƣợc vào học quốc tử giám
15 trong khi các hạng con cháu của các quan lại cao cấp thì đƣợc miễn thi.
16 Một điểm cần lƣu ý ở đây là chính sách miễn sai dịch đƣợc áp dụng để
17 khuyến khích việc rèn luyện, học tập của giới trẻ nhằm tạo dựng nhân
18 tài cho tƣơng lai .
19
5
Bắt lính: chỉ có con em thƣờng dân và của các gia đình binh sĩ bị bắt
20 phải trình diện đi lính, còn con cái của các hàng quan lại thì đƣợc miễn.
21
6
Theo thể lệ thuế quy định ở năm Quý Sửu (1433): các ngạch thuế
22 khác đã đƣợc quy định vào năm Quý Sửu (1433) nhƣng thuế bãi dâu thì
23 chƣa đƣợc quy định cho nên nay mới quy định rõ ràng.
24
7
Lê Sát có chuyện bất hòa với Nguyễn Trãi: Nguyễn Trãi thảo văn
25 thƣ để cho sứ mang sang Trung Quốc cầu phong. Ngƣời của Lê Sát
26 muốn sửa đổi văn thƣ, bị Nguyễn Trãi chê là hạng xu nịnh và làm cho
27 cả nƣớc bị thiên tai. Lê Sát hay đƣợc trách Nguyễn Trãi, cho rằng thiên
28 tai là do lỗi của vua và tể tƣớng (Lê Sát lúc đó là tể tƣớng của triều
29 đình), Nguyễn Trãi chê bai nhƣ thế tức là nói lời quá đáng với vua và tể
30 tƣớng .
31
8
Hội Vu Lan: tức hội Vu Lan Bồn của đạo Phật tổ chức vào ngày 15
32 tháng 7 Âm lịch hằng năm. Kinh phật chép rằng, mẹ của Mục Liên phải
33 sống trong địa ngục, ăn uống gì đều hóa thành lửa, ăn không đƣợc nên
34 bị đói khát ở địa ngục. Phật bảo Mục Liên làm hội Vu Lan bồn vào
35 ngày rằm tháng 7 (tức ngày 15 tháng 7 Âm lịch), dùng một cái bồn lớn
36 đựng nhiều loại thức ăn để cúng dƣờng chƣ Phật khắp nơi thì mẹ của
37 Mục Liên sẽ đƣợc giải thoát. Các đời sau, lễ Vu Lan bồn là để cúng thí
38 cho các hạng cô hồn đói khát đau khổ và là dịp để con cái báo hiếu cho
39 cha mẹ.
40
9
Tiến sĩ xuất thân: tức là bằng cấp tiến sĩ dùng để ra làm quan. Đây là
41 kiểu thi phỏng theo kiểu thi của ngƣời Tàu từ thời nhà Tống: vua Tống
42 Chân Tông định điều lệ thi tiến sĩ, chia ngƣời đỗ làm 5 bậc: bậc nhất,
43 bật nhì gọi là cập đệ, bậc ba là xuất thân, bậc năm là đồng xuất thân.

VSTK - 511
1
10
Tứ thƣ: là 4 quyển sách của ngƣời Nho học: Đại Học, Trung Dung,
2 Luận Ngữ và Mạnh Tử.
3
11
Ngũ kinh: năm cuốn sách kinh. Trƣớc kia có 6 kinh nhƣng sau chiến
4 dịch đốt sách của Tần Thủy Hoàng (246-249) thì Kinh Nhạc (âm nhạc)
5 hầu nhƣ hoàn toàn bị tiêu hủy và chỉ còn đƣợc có một thiên và sau nầy
6 đƣợc nhập vào sách Lễ Ký để đặt thành thiên Nhạc Ký. Năm cuốn kinh
7 còn lại gồm có :1- Thi (thơ), do Khổng Tử sƣu tập và lựa chọn. 2- Thƣ
8 (ghi chép), cũng do Khổng Tử sƣu tập các loại điển (phép tắc), mô
9 (Mƣu mô, kế sách), huấn (dạy dỗ, giao huấn), cáo (bố cáo, lời truyền
10 rao), thệ (lời răn bảo tƣớng lãnh và binh sĩ), mệnh (lệnh truyền, mệnh
11 lệnh) của các vua, quan ngƣời Tàu kể từ các đời vua Nghiêu, vua Thuấn
12 đến đời Đông Chu tức từ năm 2357 đến 771 TCN. 3- Dịch : (chuyển
13 đổi), viết về bói toán và lý học, giải thích sự thay đổi của trời đất và và
14 sinh hoạt của muôn vật. 4- Lễ ký (chép về lễ nghi), lễ nghi trong gia
15 đình, trong các nhóm đảng hoặc trong triều đình nhà vua. 5- Xuân Thu
16 (mùa Xuân và mùa Thu), là sách viết về sử ký của nƣớc Lỗ, đƣợc
17 Khổng Tử sửa đổi và chép lại theo thể ghi chép từng năm (biên niên) từ
18 đời Lỗ Ẩn Công đến đời Lỗ Ai Công (722-481 TCN).
19 11bis Khảo hạch công trạng và đạo đức các quan chức thuộc hạ: tức
20 là điều tra và kê khai lý lịch, đức hạnh nhân viên của mình. Ở huyện,
21 lộ, trấn thì do hành khiển ở đạo khảo sát và điều tra; ở các trấn do tổng
22 quản đạo đảm trách; thuộc viên các sảnh, viện, cục thì do thiếu bảo và
23 hữu bật xét; thuộc viên các tả, hữu ban do áp nha và nội mật viện xét.
24 Hình thức kiểm tra lý lịch và thành tích cá nhân nầy ngày nay vẫn còn
25 thấy áp dụng nơi các đảng phái, hội đoàn chính trị nhất là trong những
26 nƣớc theo thể chế độc đảng cầm quyền cai trị. Phiếu lý lịch nầy thƣờng
27 đƣợc đem ra cứu xét để định công ban thƣởng hoặc phạt tội.
28
12
Dụ Quần: tên vua mới của nƣớc Ai Lao. Vua cũ của Ai Lao là Côn
29 Cô bị một triều thần tên là Nữu Tại giết và phế bỏ rồi lập Dụ Quần lên
30 làm vua.
31
13
Lê Thụ bị xử phạt: trong khi Đại Việt có quốc tang Lê Lợi, thì trong
32 cả nƣớc mọi ăn chơi xa xí đều bị cấm bất luận là quan quân hay dân
33 thƣờng. Lê Thụ vi phạm lệnh cấm nầy nên bị xử phạt. Đây là phản ảnh
34 của một nền pháp chế độc tài, ấu trĩ và bất công bắt chƣớc theo luật lệ
35 ngoại bang từ phƣơng Bắc. Đã thế, sau khi Lê Thụ nộp vàng hối lộ thì
36 lại đƣợc tha. Nhƣ vậy luật nầy đặt ra chỉ để áp dụng cho hạng ngƣời
37 dân cùng khổ không có vàng để hối mại, chuộc tội.
38
14
Thuận thiên thừa vận: thuận theo ý trời để tiếp nhận vận mệnh của
39 đất nƣớc.
40
15
Đại thiên hành hóa: thay trời để thi hành việc dạy dỗ ngƣời dân.
41
16
Nhạc tế giao: loại nhạc dùng trong những dịp lễ tế trời đất.
42
17
Ngũ tự: theo thiên viết về Nguyệt lệnh trong Kinh Lễ thì ngũ tự là 5
43 loại lễ tế các thần: thần hộ (thần giữ cửa), thần táo (bếp), thần trung lựu

VSTK - 512
1 (thần giữ nhà chính giữa), thần môn (thần giữ các cửa lớn, cổng lớn),
2 thần hành (thần giữ các đƣờng đi). Thuyết khác lại cho rằng ngũ tự gồm
3 có các thần câu mang (thần cây cối), thần nhục du (thần kim loại), thần
4 huyền minh (thần nƣớc), thần chúc dung (thần lửa), thần hậu thổ (thần
5 đất) còn gọi là thần ngũ hành: mộc, kim, thủy, hỏa, thổ.
6
18
Huệ phi: là một trong các hàng phi, vợ thứ của vua.
7
19
Tƣ dung: một chức vị của vợ lẻ vua (không phải là vợ thứ thuộc hàng
8 phi). Có ba hạng tƣ: tƣ nghi, tƣ dung, tƣ viện; chức vị nhỏ hơn hàng
9 tam chiêu: chiêu nghi, chiêu dung, chiêu viện nhƣng lớn hơn hàng tam
10 sung: sung nghi, sung dung, sung viện. Cả ba cấp chiêu, tƣ, sung đều
11 gọi là chín hạng tần cho nên những ngƣời vợ của vua thƣờng gọi là phi
12 hoặc tần ngoại trừ vợ chính thức gọi là hoàng hậu. Dƣới hạng cữu (9)
13 tần còn có sáu chức cung giai nhƣ tiệp dƣ, dung hoa, tuyên vinh, tài
14 nhân, lƣơng nhân, mỹ nhân rồi cuối cùng còn có 6 cấp nữ quan xếp từ
15 cấp nhất, nhì. . . đến cấp sáu. Ngoài ra các hạng ngƣời nữ hầu hạ phục
16 dịch trong cung vua, cung hoàng hậu, cung phi, cung tần thì gọi là cung
17 nữ hay tì cung. Tất cả những hạng phụ nữ vừa kể trên đều thuộc quyền
18 xử dụng tùy thích của vua, số lƣợng có khi lên đến hàng trăm, hàng
19 nghìn trong cung vua. Truyện xƣa của Trung Quốc có kể rằng, Tề
20 Tuyên vƣơng, vì số ngƣời đàn bà quá đông đảo, cho nên mỗi đêm Tề
21 Tuyên vƣơng phải ngồi trên xe dê kéo đi vòng quanh các phòng, con dê
22 dừng lại ở phòng nào thì vua sẽ vào ngủ với ngƣời đàn bà ở phòng đó.
23 Vì thế, cứ mỗi đêm, những phi tần, cung nữ đều tranh nhau rải bông và
24 lá sua đũa trƣớc cửa phòng mình để hấp dẫn cho con dê dừng lại vì
25 giống dê rất thích ăn bông và lá sua đũa.
26
20
Ăn mặc và cắt tóc ngắn theo ngƣời Đại Việt: chỉ có ĐVSKTT ghi
27 chép về việc nầy.
28
21
Phế quận vƣơng Tƣ Tề xuống hàng dân thƣờng: Tƣ Tề là anh của
29 Lê Thái Tông; trƣớc kia Tƣ Tề đã bị biệt lập, cấm không cho ngƣời
30 giao dịch, tiếp xúc; đến nay phế hẳn làm dân thƣờng.
31
22
Sứ nhà Minh sang đòi trả đất: hai bên chiếm lấn đất đai ở biên giới
32 giữa hai nƣớc, nay nhà Minh sai sứ sang đòi lại.
33
23
Tiệp dƣ: xem chú giải (19) ở trên.
34
24
Nguyễn Thị Lộ: ngƣời huyện Hải Triều, huyện ngự Thiên nay là xã
35 Tân Lễ, huyện Hƣng Hà tỉnh Thái Bình, là vợ của Nguyễn Trãi, ngƣời
36 đẹp và có học thức. Lê Thái Tông để ý ƣa thích liền vời vào cung lấy
37 tiếng là phong cho quan chức làm Lễ nghi học sĩ nhƣng thực sự là để
38 hầu hạ riêng tƣ và ăn nằm với Lê Thái Tông. Việc nầy rất có thể làm
39 cho thần phi Dƣơng thị Bí ghen tức và tỏ thái độ hung hăng khiến cho
40 Nguyễn thị Lộ gièm pha với Lê Thái Tông qua lời cố vấn "cần phải bắt
41 giam những hạng đàn bà kiêu rông, ghen tương và ngỗ nghịch
42 "(ĐVSKTT/BK/Q.XI/54a), và Lê Thái Tông đã nghe theo lời cố vấn

VSTK - 513
1 nầy để giáng phế chức thần phi Dƣơng thị Bí khiến cho con trai của
2 Dƣơng thị Bí là hoàng tử Nghi Dân cũng vạ lây bị tƣớc bỏ chức hoàng
3 thái tử mặc dù Nghi Dân là con trai trƣởng của Lê Thái Tông.
4
25
Khắc Xƣơng: theo Lê Quý Đôn thì sau Khi Lê Nghi Dân cƣớp ngôi
5 cải phong cho Khắc Xƣơng làm Cung vƣơng. Ngƣời rất phong nhã,
6 đạm bạc, ăn mặc, chi dùng rất cần kiệm, chất phát nhƣ một nho sinh.
7 Cuối năm Diên Ninh (1549), nhóm đại thần Lê Lăng sau khi đã diệt
8 đƣợc Nghi Dân, muốn đƣa Khắc Xƣơng lên ngôi vua nhƣng Khắc
9 Xƣơng từ chối và vì thế họ mới rƣớc Lê Thánh Tông để lập làm vua. Lê
10 Thánh Tông rất tức giận về chuyện nầy cho nên về sau nghe theo lời
11 gièm pha giết Lê Lăng và trong lòng rất ghét Khắc Xƣơng. Năm Hồng
12 Đức thứ 7 (1476), có kẻ tố cáo Khắc Xƣơng mƣu đồ làm phản, Lê
13 Thánh Tông bèn hạ chiếu tới bắt, Khắc Xƣơng quá lo lắng mà chết.
14 Không biết mẹ ruột của Khắc Xƣơng là ai. Rất có thể đây là con của Lê
15 Thái Tông và Nguyễn Thị Lộ nhƣng vì là kết quả của một cuộc tình
16 vụng trộm vô luân cho nên sử cũ không dám viết ra? Phải chăng
17 Nguyễn thị Lộ bị giết là vì bị nghi ngờ là đã mƣu phản giết hại Lê Thái
18 Tông để đƣa con trai của Nguyễn thị Lộ là Khắc Xƣơng lên ngôi vua?
19 Sau nầy Lê Thánh Tông có thể khơi lại chuyện phản nghịch của
20 Nguyễn Thị Lộ để rồi vinh vào đó cũng ghép tội cho Khắc Xƣơng là
21 mƣu phản nghịch? Đây là một nghi án rất đáng đƣợc truy cứu bởi vì
22 thói quen trong sử cũ, mỗi khi dòng họ vƣơng tộc có xảy ra điều dâm ô
23 nhơ nhớp thì các sử gia thƣờng viết vẽ vòng vo, luồng lách, dối trá để
24 che mắt thế gian và hậu thế.
25
26
Tiến sĩ cập đệ: tức là tiến sĩ hạng nhất và hạng nhì; hạng ba gọi là
26 tiến sĩ xuất thân; hạng tƣ, hạng năm gọi là đồng tiến sĩ xuất thân.
27
27
Tiến sĩ xuất thân: xem chú giải 9 ở trên.
28
28
Đồng tiến sĩ xuất thân: xem chú thích 9 ở trên.
29
29
Ngô Sĩ Liên: đƣợc xem nhƣ là một trong những tác giả của sách Đại
30 Việt Sử Ký Toàn Thƣ mà cũng chính là sử gia đầu tiên đƣa vào chính
31 sử phần Ngoại kỷ chép lịch sử từ họ Hồng Bàng cho đến hết đời An
32 Dƣơng Vƣơng.
33
30
Chùa Côn Sơn: còn gọi là chùa Tƣ Quốc. Chùa đƣợc xây ở núi Côn
34 Sơn còn gọi là núi Hun, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hƣng ngày nay.
35
31
Trại Vải: nguyên văn chữ Hán là "Lệ chi viên". Theo Bắc Kỳ tạp
36 biên của Ngô Cao Lãng thì trại nầy ở xã Đại Lai.
37
32
Đại Lai: tên xã, thuộc huyện Gia Bình, nay là huyện Gia Lƣơng, tỉnh Bắc
38 Ninh.

KHẢO LUẬN:

39 ĐVSKTT/Kỷ nhà Lê, phần mở đầu viết về Lê Thái Tông Văn Hoàng
40 Đế nhƣ sau: " ..Vua thiên tƣ sáng suốt, nối vận thái bình; bên trong ức
41 chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp Di địch. Trọng đạo sùng nho, mở

VSTK - 514
1 khoa thi chọn hiền sĩ; xử tù, xét án phần nhiều tha thứ khoan hồng.
2 Cũng là bậc vua tài giỏi biết nối giữ cơ đồ. Song đam mê tửusắc, đến
3 độ chết bất ngờ ở ngoài cung đình thì đó lại là tự mình tự gánh lấy họa
4 vào thân"(BK/q.XI/1a).

5 Một lời bàn không biết rõ là của ai cũng viết: "Nữ sắc làm hại
6 người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu
7 người đàn bà đó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy người đó làm vợ
8 mà 3 họ phải bị diệt" (BK/q.XI/ 56a).
9 Lời phê của vua Tự Đức trong KĐVSTGCM: "Đời Lê Thái Tông,
10 vua thì sàm sở buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. Nguyễn Trãi nếu
11 thực là người sáng suốt thì lẽ ra phải biết rút lui , ẩn náu tung tích để
12 bảo toàn danh thơm của mình. Thế mà lại đi đón mời và thả lỏng cho
13 vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sĩ với Lê Thái Tông.. Cái vạ tru di tam
14 tộc là do Nguyễn Trãi tự gây ra" (KĐVSTGCM/CB/q.XVII/23).
15 Phan Huy Chú trong LTHCLC/Nhân Vật chí, khi viết về Nguyễn
16 Trãi có đoạn nhƣ sau: "Năm Đại Bảo, Nhâm Tuất (1442),ông 63 tuổi, vì
17 có vợ là Nguyễn thị Lộ vào hầu vua rồi dùng thuốc độc giết vua, triều
18 đình kết án phải giết ba họ. . . .Đời truyền rằng trong một cái gò lớn ở
19 làng của Nguyễn Trãi có một con rắn lớn. Nơi đó cây cối um tùm
20 nhưng người làng không ai dám đụng tới để dọn dẹp. Ông nội của
21 Nguyễn Trãi thấy nơi đó phong thủy hạp ý mới dựng nhà học trên cái
22 gò đó, sai người chặt cây cỏ để dọn dẹp, nhỡ giết phải con rắn ấy. Con
23 rắn ấy mang thù oán mới đầu thai thành Thị Lộ về làm vợ Nguyễn Trãi
24 để trả thù dòng họ nhà Nguyễn. Người ta cho rằng rắn báo oán ".
25 Đặng Xuân Bảng trong VSCMTY có nhận xét: "Trãi là công thần
26 tá mệnh, làm tể phụ của hai triều, hết lòng trung thành, dạy dỗ vua nhỏ,
27 đứng đầu công thần thời Lê Sơ. Vào cuối đời mình, Nguyễn Trãi không
28 còn luyến tiếc công danh, địa vị quyền thế nữa. Chỉ vì Thị Lộ mà đến
29 nỗi cả ba họ bị giết. Đàn bà đẹp muôn đời vẫn là loài cọp dữ dưới lớp
30 phấn son, lời nói nầy thực là đúng" (VSCMTY/q.IV).
*
31 Đúc kết những nhận định và phê luận, ngƣời ta có thể thấy đƣợc
32 rằng, đời Lê Thái Tông ngoài những cải cách không mấy quan trọng
33 nhƣ chỉnh đốn việc thi cử, ban nhiều đặc quyền cho con cháu của các
34 công thần, ấn định lại giá trị tiền tệ, kỳ dƣ thì không thấy có một chính
35 sách kinh tế xã hội nào tạo lợi ích thiết thực cho ngƣời dân. Những
36 ngƣời cầm quyền đƣơng thời lại là những võ quan già vô học, tham
37 quyền, bè phái, ganh tị từ thời Lê Lợi để lại, chỉ biết lo kình chống,
38 thanh toán lẫn nhau chứ chẳng góp ích gì cho việc an sinh xã hội Đại
39 Việt. Ngƣời đứng đầu đất nƣớc là Lê Thái Tông chỉ là một thanh niên
40 bồng bột, tự tung tự tác, chỉ biết làm theo ý riêng của mình không đếm
41 xỉa gì tới những lời khuyên ngăn, cố vấn của những ngƣời lớn tuổi có
42 học thức, nhiều kinh nghiệm dƣới quyền. Khiếm khuyết lớn nhất của

VSTK - 515
1 Lê Thái Tông là tính háo sắc dâm dục và là một con ngƣời vô luân khi
2 giựt vợ của thuộc hạ mình.

VSTK - 516
QUYỂN II

THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ

CHƢƠNG III
LÊ NHÂN TÔNG ( 1442 - 1459 )
Niên hiệu: Thái Hoà (1443-1453)
Diên Ninh (1454-1459)

1 Tên húy là Bang Cơ, mới đƣợc 2 tuổi, con thứ ba của Lê
2 Thái Tông, mẹ là Nguyễn thị Anh ngƣời xã Bố Vệ, huyện
3 Đông Sơn, thần phi của Lê Thái Tông. Đƣợc Trịnh Khả, Lê
4 Thụ, Nguyễn Xí, Lê Liệt, Lê Bôi, Tạ Thanh đƣa lên ngôi
5 vua vào ngày 12 tháng 8 Âm lịch, năm Nhâm Tuất (1442)
6 tức là Lê Nhân Tông, lấy năm sau Quý Hợi (1443) làm niên
7 hiệu Thái Hoà năm thứ 1.
8 Quý Hợi, Thái Hòa năm thứ 1, tháng Giêng (1443), Thái
9 hậu Nguyễn thị Anh nắm quyền chính sự triều đình vì Lê
10 Nhân Tông còn quá nhỏ.
11 Tháng 11, sứ nhà Minh sang tế điếu Lê Thái Tông và
12 phong cho Lê Nhân Tông tƣớc An Nam quốc vƣơng. Lê
13 Nhân Tông sai Lƣơng Nhữ Hộc sang tạ ơn vua Minh về
14 việc tế điếu. Khi trở về nƣớc Nhữ Hộc mang theo nghề khắc
15 ván gỗ để in truyền dạy lại cho dân.
16 Kể từ năm Giáp Tý, Thái Hoà năm thứ 23 , (1444) cho
17 đến năm Bính Dần, Thái Hoà năm thứ 4 (1446), vua Chiêm
18 Thành là Bí Cái thƣờng xuyên đem quân đánh phá châu
19 Hoá. Quân triều đình phải tốn công sức nhiều lần đánh dẹp
20 nhƣng vua Chiêm vẫn tiếp tục gây rối.
21 Tháng 2, năm Bính Dần (1446), Triều đình sai Lê Thụ,
22 Lê Khả đem quân vào đánh Chiêm Thành, đánh thẳng đến
23 cửa Thị Nại1, tiến chiếm thành Chà Bàn2, phá tan quân
24 Chiêm, bắt sống Bí Cái cùng phi tần, tƣớng tá thuộc hạ,
25 ngựa voi, vũ khí mang về Đại Việt rồi lập Ma Ha Quý Lai
26 lên làm vua mới của Chiêm Thành; Bí Cái cùng với gia đình
27 thì bị giam nhốt ở Đại Việt.
28 Nhà Minh can thiệp, xuống chiếu lệnh buộc triều đình
29 Đại Việt phải trả tự do cho Bí Cái. Triều đình Đại Việt lại

VSTK - 517
1 phải cử sứ sang Tàu để trình bày về việc gây hấn của giặc
2 Chiêm Thành.
3 Mậu Thìn, Thái Hoà năm thứ 6, (1448), tháng 4, ra lệnh
4 cấm quan, quân, dân không đƣợc chiếm ruộng đất công làm
5 của riêng. Giảm bớt quân số đội vệ sĩ và số tƣớng hiệu ở các
6 vệ quân để tiết kiệm công quỹ.
7 Tháng 7, miền Tây Đạo gồm các trấn Tam Giang, Tuyên
8 Quang, Hƣng Hóa và Gia Hƣng là những miền rừng núi cằn
9 cỗi, thƣờng hay bị nạn đói. Triều đình lấy thóc trong kho
10 nhà nƣớc cho dân vay theo lời trình tấu của Tri Tây đạo
11 Nguyễn Phú.
12 Sáp nhập xứ Bồn Man vào lãnh thổ Đại Việt, đổi thành
13 châu Quy Hợp, thuộc phủ Lâm An. Đất nầy phía Đông Nam
14 giáp Nghệ An và Quảng Bình, phía Tây Bắc giáp Hƣng Hóa.
15 Cấm dân không đƣợc dùng y phục màu vàng và có thêu vẽ
16 hình rồng, phƣợng.
17 Tháng 11, đem em gái của Lê Nhân Tông là công chúa
18 Vệ Quốc, mới 10 tuổi, bị câm gả cho Lê Quát con trai thái
19 úy Lê Thụ.
20 Kỷ Tỵ, Thái Hòa năm thứ 7 (1449), tháng Giêng, nới
21 rộng việc miễn quân dịch cho con cháu của các hàng quan
22 lại của triều đình xuống tới hàng thất phẩm và bát phẩm; các
23 hoạn quan cũng cho miễn 1 ngƣời thân thuộc. Trƣớc đây chỉ
24 cho miễn xuống đến hàng quan lục phẩm mà thôi.
25 Sai Trịnh Khắc Phục đôn đốc quân, dân đào nối thêm
26 sông Bình Lỗ3 bắt đầu từ Lãnh Canh3bis thuộc Thái Nguyên
27 đến cầu Phù Lỗ ở huyện Kim Anh4, thông suốt đến Bình
28 Than5 ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng để làm phƣơng tiện
29 giao thông đƣờng sông giữa Thái Nguyên và Hải Dƣơng.
30 Ở Chiêm Thành, Quý Do cƣớp ngôi vua của Ma Ha Quý
31 Lai rồi cử sứ sang Đại Việt xin công nhận nhƣng bị từ
32 khƣớc.
33 Tháng 11, con trai của đại đô đốc Lê Khuyển là Quán
34 Chi tụ hợp bè đảng cùng với bọn con cháu hoang đàng của
35 các quan quyền khác đánh nhau khiến xảy ra án mạng chết
36 ngƣời nhƣng vì là con của đại thần, Quán Chi không bị ghép
37 tội đánh chết ngƣời mà chỉ phạt tiền bồi thƣờng mà thôi.

VSTK - 518
1 Biếm chức thiếu úy Lê Lan vì không biết dạy con để cho
2 hắn tụ hợp bọn bất lƣơng tổ chức đánh bạc, ăn cƣớp rồi thủ
3 tiêu, giết ngƣời bịt miệng6.
4 Quy định chính thức 14 điều luật về ruộng đất7.
5 Tân Mùi, Thái Hoà năm thứ 9 (1451), tháng 7,
6 hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh quy tội mƣu phản để
7 giết cha con Lê Khả và cha con Lê Khắc Phục hầu ém
8 nhẹm chuyện trƣớc đây Lê Khả và Lê Khắc Phục cùng
9 với hoạn quan Tạ Thanh đã từng âm mƣu với hoàng thái
10 hậu truất phế mẹ con Nghi Dân để lập Bang Cơ, con đẻ
11 của Nguyễn thị Anh lên ngôi hoàng thái tử8.
12 Nhâm Thân, Thái Hoà năm thứ 10 (1452), tháng tƣ, bắt
13 giam thái úy Lê Thụ vì tội không dạy và kiểm soát đƣợc con
14 để hắn làm những chuyện dị đoan phù chú bùa ếm.
15 Năm Quý Dậu, Thái Hoà năm thứ 11(1453), đổi niên
16 hiệu là Diên Ninh năm thứ 1 từ tháng Giêng năm Giáp Tuất
17 (1454). Hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh không còn trực tiếp
18 nắm chính quyền9.
19 Giáp Tuất, Diên Ninh năm thứ 1 (1454), tháng Giêng,
20 phát hành tiền đúc Diên Ninh.
21 Ất Hợi, Diên Ninh năm thứ 2 (1455), sai quốc tử bác sĩ
22 Phan Phú Tiên sửa chữa và soạn lại bộ Đại Việt Sử Ký, chép
23 từ đời Trần Thái Tông (1225-1257) cho đến khi ngƣời Minh
24 rút về nƣớc (1427), gồm có 10 quyển.
25 Bính Tý, Diên Ninh năm thứ 3 (1456), tháng Giêng, tổ
26 chức tiệc lớn ban thƣởng cho các quan và triều thần; Lạng
27 Sơn vƣơng Nghi Dân cũng đƣợc mời về tham dự10.
28 Tháng 5, cấp tiền lƣơng hằng năm cho các quan11.
29 Mậu Dần, Diên Ninh năm thứ 5 (1458), thi Hội. Nguyễn
30 Văn Nễ đỗ tiến sĩ xuất thân12.
Kỷ Mão, Diên Ninh năm thứ 6 (1459), tháng 10, Lạng
Sơn vƣơng Nghi Dân cùng với Phạm Đồn, Phan Ban và
Trần Lăng bất thần đột nhập vào cung thành, bên trong đã có
Lê Đắc Ninh chỉ huy đoàn quân hộ vệ làm nội ứng, giết chết
Lê Nhân Tông và phó chƣởng Đào Biểu; hôm sau giết luôn
hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh. Lê Nhân Tông ở ngôi vua

VSTK - 519
đƣợc 17 năm, thọ 19 tuổi.

CHÚ GIẢI:

1
1
Cửa biển Thị Nại: cửa biển Qui Nhơn, tỉnh Bình Định.
2
2
Thành Chà Bàn: kinh đô của nƣớc Chiêm Thành, nay vẫn còn dấu
3 tích ở Bình Định.
4
3
Sông Bình Lỗ: theo chú thích trong Địa dƣ chí của Nguyễn Trãi thì
5 từ đời nhà Lý đã đào sông Bình Lỗ để tiện đƣờng đi lại ở Thái Nguyên.
6 Nhƣ vậy sông Bình Lỗ không thể là sông Cà Lồ trong huyện Sóc Sơn,
7 Hà Nội. Rất có thể sông Bình Lỗ đƣợc đào khơi thêm để nối vào sông
8 Cà Lồ và về sau nầy chỉ gọi một tên là sông Cà Lồ.
9 3bis Lãnh Canh: hay Lãnh Kinh, có sách cho rằng vùng nầy ở khoảng
10 gần Đáp Cầu, tỉnh Hà Bắc ngày nay. Còn cầu Phù Lỗ bắt ngang qua
11 sông Cà Lồ ở xã Phù Lỗ, huyện Kim Anh cũ, nay thuộc huyện Sóc Sơn,
12 Hà Nội.
13
4
Kim Anh: nay là huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
14
5
Bình Than: thuộc huyện Chí Linh, Hải Dƣơng.
15
6
Thủ tiêu, giết ngƣời bịt miệng: về chuyện nầy ĐVSKTT viết:
16 "Chém bọn bộ hạ của Lê Nhân Lập ở chợ Tây. Nhân Lập là con của
17 thiếu úy Lê Lan tụ hợp với bọn người kinh do Nguyễn Thọ Vực đầu
18 đảng để cờ bạc, trộm cướp. Nhân Lập sợ chuyện làm sái quấy của
19 đám bộ hạ bị tiết lộ cho nên sai chúng đến tận nhà thủ tiêu bọn Nguyễn
20 Thọ Vực. Việc giết người bịt miệng nầy bị phát giác, cả bọn Nhân Lập
21 bị bắt giam và xử chém cả " (BK/Q.XI/ tờ 81a).
22
7
14 điều luật về ruộng đất: trƣớc kia Lê Lợi chỉ chú tâm vào việc áp
23 dụng chính sách quân điền cho nên không có những luật lệnh quy định
24 cho các loại ruộng đất của tƣ nhân. Đến nay mới quy định bổ xung vào;
25 tuy nhiên nếu xét kỹ thì thấy đây là những điều luật quy định về việc
26 thừa kế ruộng đất của tƣ nhân chứ không hẳn là luật lệ về điền sản đúng
27 nghĩa của nó.
28
8
Âm mƣu của hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh: Đại Việt Thông Sử
29 của Lê Quý Đôn ghi lại lời tuyên bố của Nghi Dân sau khi tiếm ngôi
30 vua của Lê Nhân Tông nhƣ sau: " Trẫm (tức Lê Nghi Dân) là con
31 trưởng của Thái Tông Văn hoàng đế (Lê Thái Tông), trước đã ở ngôi
32 hoàng thái tử. Không may tiên đế đi tuần ở miền Đông, bổng băng ở
33 ngoài. Nguyễn thái hậu muốn vững quyền vị, ngầm sai bọn nội quan là
34 Tạ Thanh dựng Bang Cơ làm vua, cho trẫm làm phiên vương. Đến sau
35 Tạ Thanh tiết lộ âm mưu ấy, việc liên lụy đến thái úy Trịnh Khả và tư
36 khấu Lê Khắc Mục. Họ bị Nguyễn thái hậu đem giết cả để hết người nói
37 ra"(ĐVTS/Nghịch thần truyện/Nghi Dân/tờ 157a,157b).

VSTK - 520
1
9
Hoàng thái hậu Nguyễn thị Anh không còn trực tiếp nắm chính
2 quyền ở: sử sách cũ ghi rằng: " Ngày 21 tháng tháng 2 năm Quý Dậu
3 (1453). . .vua (tức Lê Nhân Tông) bắt đầu đích thân coi chính sự, đổi
4 miếu hiệu, đại xá ". Đây là một chuyện vô lý, khó tin bởi vì đến năm
5 Quý Dậu (1453), Lê Nhân Tông vẫn còn là một đứa trẻ con mới đƣợc
6 12, 13 tuổi làm gì có đủ khả năng và đầu óc để tự một mình đảm đang
7 việc chính sự. Rất có thể ở vào thời điểm nầy, thái hậu Nguyễn thị Anh
8 muốn xoa dịu dƣ luận đang nghi ngờ về những việc làm mờ ám của bà,
9 cho nên phải tung tin giả ra ngoài rằng Lê Nhân Tông bắt đầu tự nắm
10 quyền cai trị không còn tùy thuộc vào hoàng thái hậu nữa nhƣng thực
11 sự thì phía sau, mọi chính sách, kế hoạch, đƣờng lối vẫn do thái hậu
12 nắm giữ nhƣ cũ.
13
10
Nghi Dân đƣợc mời tham dự tiệc: chỉ thấy ĐVSKTT có ghi chép
14 việc nầy.
15
11
Cấp tiền lƣơng hằng năm cho các quan: trƣớc kia các hàng vƣơng
16 tộc, công chúa, đại thần văn võ đều chiếu theo phẩm trật cao thấp mà
17 đƣợc hƣởng số hộ để ăn lộc. Đến nay lại cấp thêm lƣơng bổng hằng
18 năm tùy theo phẩm trật khác nhau. Theo Kiến Văn Tiểu Lục của Lê
19 Quý Đôn thì đầu đời nhà Hậu Lê, chế độ bổng lộc nhƣ sau: "hoặc ban
20 cho 50 hộ hay 100 hộ để người được hưởng cứ thu thuế từ các hộ ấy
21 mà hưởng. Có khi lại ban thêm lộc điền nữa. Lại quy định thêm: phàm
22 các vương, công chúa và các đại thần văn võ bách quan, hằng năm,
23 được cấp tiền bổng có hơn kém khác nhau: quốc công 127 quan, quận
24 công 120 quan, tước hầu 113 quan, tước bá 106 quan, phò mã 92 quan,
25 chanh nhất phẩm 85 quan, tòng nhất phẩm 82 quan, vân.vân...thân
26 vương 200 quan. Về phần quan văn thì tùy theo đỗ cao thấp mà cấp cho
27 hộ suất; tiến sĩ 35 hộ suất, hoàng giáp 42 suất, thám hoa 45 suất, bảng
28 nhãn 50 suất, trạng nguyên 55 suất. . . huy ." (Kiến Văn Tiểu Lục/Chế
29 độ bổng lộc/ Lê Quý Đôn Toàn Tập.)
30
12
Thi hội năm Mậu Dần (1458): chỉ thấy ĐVSKTT có ghi chép việc
31 nầy.

KHẢO LUẬN:

32 Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ/BK/Q.XI/tờ 96b, 97a, 97b có trích dẫn


33 bài Trung Hƣng Ký năm Quang Thuận, một đoạn viết rất đáng chú ý
34 về sử cố Nghi Dân cƣớp ngôi. (Có thể tác giả bài Trung Hƣng Ký nầy
35 là do Thân Nhân Trung cùng với Đỗ Nhuận viết vào những năm Quang
36 Thuận thời Lê Thánh Tông = đây là ghi chú riêng của Việt Sử Tân
37 Khảo). Bài ký đó viết: "Nhân Tông mới lên hai tuổi đã sớm nối ngôi
38 vua. Thái hậu Nguyễn thị là gà mái gáy sớm, đô đốc Lê Khuyển như thỏ
39 khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn thâm
40 khuê, bọn họ ngoại lòng tham, khoác lác hoành hành khắp cõi, kẻ thân

VSTK - 521
1 thuộc nắm giữ quyền vị, nạn hối lộ tỏ rõ công khai. Việc giáo dục thì
2 lặng lẽ như băng hàn, người hiền từ phải xếp cánh. Đám nho thần hiểu
3 biết như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì cho ngồi chơi xơi nước không
4 được xử dụng đúng chỗ; đám ngu si dốt đặc thì ồn ào khua môi múa
5 mõm như đàn ong vở tổ, như chó chuột nhe răng. Tể thần như Lê Sát,
6 Lê Sủng thì tối tâm dốt nát không phân biệt đâu là sáu loại súc vật.
7 Chưởng binh Lê Điên, Lê Luyện thì mù tịt không biết được một năm có
8 mấy mùa. Bậc lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa tìm
9 cách giết đi, người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tuyên thì đẩy vào vòng tai
10 họa. Oan uổng không chỗ kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát. Văn giai
11 như Đào Công Soạn tuổi gần 80, tể thần như Lê Ê không biết một chữ.
12 Bọn trẻ không biết nghĩ làm bậy ngông cuồng, người già chẳng chết đi,
13 trở thành mối họa. Buôn quan bán chức, mua chuộc kiện cáo, ưa giàu
14 ghét nghèo. Bọn nịnh hót được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử. Lòng
15 người sôi động, đường sá xôn xao. . . ."

16 Đó là sự phát họa của một thời kỳ suy đồi dƣới sự cầm quyền của
17 thái hậu Nguyễn thị Anh: bè phái, kình địch, tranh giành quyền lực,
18 thanh toán nội bộ, tƣớng tá vô học cầm quyền cai trị, con cháu quan
19 quyền thì ăn không ngồi rồi, chơi bời cờ bạc, kết bè đảng để cƣớp giật,
20 chém giết. Lê Nhân Tông chỉ là một đứa trẻ con vô tƣ, mặc tình cho
21 thái hậu Nguyễn thị Anh tự tung tự tác. Cho đến lúc Lê Nhân Tông có
22 thể gọi là biết suy nghĩ xét đoán thì hậu quả của những sự thối nát do bà
23 mẹ gây ra đã trở thành ung thối không còn thuốc nào chữa đƣợc nữa.
24 Trong trƣờng hợp Nghi Dân không làm chuyện cƣớp ngôi thì có lẽ
25 cũng sẽ có một nhóm nào đó đứng ra để phế bỏ quyền lực ma giáo của
26 thái hậu Nguyễn thị Anh. Nạn nhân đáng tội nghiệp ở đây chính là vua
27 trẻ Lê Nhân Tông và những ngƣời đã từng tiếp tay với thái hậu để cƣớp
28 đoạt quyền lực để rồi lại bị ngƣời đàn bà nầy thủ tiêu một các oan ức.

29 Về mặt xây dựng, kinh tế, thì chỉ thấy có đƣợc một công trình đào vét
30 sông Bình Lỗ để cải thiện phƣơng tiện lƣu thông giữa Thái Nguyên và
31 Hải Dƣơng. Về mặt xã hội an sinh thì chỉ có một lần xuất lúa thóc từ
32 kho chứa của nhà nƣớc để cho dân bị nạn đói ở các vùng rừng núi khô
33 cằn vay mƣợn chứ không phải cứu đói bằng cách cho không. Về mặt
34 văn hóa giáo dục thì có Phan Phu Tiên tu soạn đƣợc 10 quyển Đại Việt
35 Sử Ký để rồi bị bỏ xó ở một góc trong nhà chứa sách, chẳng đƣợc triều
36 đại nhà Lê ban hành.
37 Tóm lại, thời đại Lê Nhân Tông là một thời đại xấu, không có gì đáng
38 đƣợc tuyên dƣơng.

VSTK - 522
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ
CHƢƠNG IV
LÊ NGHI DÂN ( 1459 - 1460 )
Niên Hiệu: Thiên Hưng (1459-1460)

1 Ngày mùng 7 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459), Lạng Sơn


2 vƣơng Lê Nghi Dân tự lập, lên ngôi vua, đại xá, đổi niên
3 hiệu là Thiên Hƣng năm thứ 1. Ban ơn rộng rãi và thăng
4 chức cho tất cả các quan văn võ của cựu trào nhà Hậu Lê
5 mỗi ngƣời 1 tƣ.
6 Sai Lê Cảnh Huy, Nguyễn Nhƣ Đỗ, Hoàng Thanh,
7 Nguyễn Nghiêu Tƣ đi cống sứ theo thƣờng lệ của triều trƣớc
8 và yêu cầu triều đình nhà Minh hủy bỏ ƣớc khoản buộc triều
9 đình Đại Việt mò ngọc trai để tiến cống.
10 Lại sai Trần Bá Linh sang nhà Minh cầu phong. (Lƣu ý:
11 xin xem thêm phần phụ chú ở trang 637)
12 Canh Thìn, Thiên Hưng năm thứ 2 (1460) tháng 2,
13 phong cho Lê Khắc Xƣơng làm Cung vƣơng và phong cho
14 Bình nguyên Tƣ Thành làm Gia vƣơng (theo ĐVTS của Lê Quý
15 Đôn/ Nghịch thần truyện)
16 Bàn đặt quan chức ở phủ, huyện, châu, tổ chức lại các
17 bộ ở kinh đô từ 2 bộ là bộ Lại và bộ Lễ của chế độ trƣớc,
18 nay thêm các bộ: Hộ, Binh, Hình, Công và 1 thƣ, 5
19 khoa:Trung thƣ, Hải Khoa, Đông khoa, Tây khoa, Nam khoa
20 và Bắc khoa.
21 Ở 5 đạo ngoài kinh đô đều đặt hành khiển giữ việc quân
22 sự và dân sự. Các quan chức ở phủ, lộ, trấn, huyện châu đều
23 thống thuộc vào chức quyền hành khiển.
24 Tháng 5, các cựu thần Đỗ Bí, Lê Ê, Lê Ngang, Lê Thụ
25 âm mƣu lật đổ Lê Nghi Dân, việc bại lộ tất cả bị giết.
26 Những sự thay đổi trong đƣờng lối và chính sách cai trị
27 của Lê Nghi Dân kèm theo việc tiêu diệt thanh toán hàng
28 ngũ những ngƣời cũ để ngăn ngừa mầm móng chống đối
29 phản loạn đã khiến cho nhóm đại thần của cựu trào nao
30 núng, lo sợ vì ngày xƣa họ đã từng cùng thái hậu Nguyễn thị
31 Anh âm mƣu, xếp đặt truất phế Lê Nghi Dân để đƣa Lê
32 Nhân Tông lên ngôi vua. Nay, các nhóm nầy do Nguyễn Xí,

VSTK - 523
1 Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Nhân Thuận cầm đầu phải cùng
2 nhau liên kết để đối phó với tập đoàn cai trị mới của nhà
3 Hậu Lê dƣới quyền của vua Lê Nghi Dân.
4 Canh Thìn, Thiên Hưng năm thứ 2, ngày mồng 6 tháng 6
5 âm lịch (1460), sau buổi chầu triều với vua Nghi Dân, nhóm
6 cựu trào của Nguyễn Xí đang khi dự phiên hội quan triều ở
7 nhà nghị sự đã bất thần bắt giết Phạm Đồn và Phan Ban rồi
8 sai Lê Nhân Thuận, Lê Nhân Khoái thống lĩnh cấm binh
9 lùng bắt Trần Lăng cùng hơn trăm thuộc hạ, giết hết. Nhóm
10 chủ xƣớng đảo chính tự quyền lấy quyết định truất phế Lê
11 Nghi Dân xuống làm Lệ Đức hầu rồi xử tội chết bằng hình
12 phạt thắt cổ.
13 Phân chia bè phái trong nội bộ nhóm đảo chính về việc
14 tìm ngƣời đặt lên ngôi vua: nhóm Lê Lăng, Lê Nhân Thuận
15 muốn phò lập Cung vƣơng Khắc Xƣơng; nhóm Nguyễn Xí,
16 Lê Niệm, Đinh Liệt mạnh hơn ủng hộ Gia vƣơng Tƣ Thành,
17 đem xe kiệu đến đón Tƣ Thành và đặt lên làm vua tức Lê
18 Thánh Tông.

KHẢO LUẬN:
19 Tất cả sách sử cũ đều đồng loạt lên án và nguyền rủa cuộc đảo chính
20 của Lê Nghi Dân. Những ngƣời viết sử dƣới thời đại Hậu Lê dĩ nhiên là
21 phải lên án hành vi đoạt ngôi của Lê Nghi Dân chứ không thể nào viết
22 khác hơn đƣợc. Những ngƣời viết sử nối tiếp theo sau và đến mãi thời
23 đại dân chủ văn minh ngày nay, Lê Nghi Dân luôn luôn vẫn bị xem là
24 kẻ phản loạn, tiếm nghịch đáng chết.
25 Với một cái nhìn khách quan và bình tỉnh hơn, ngƣời ta sẽ không
26 ngạc nhiên nhiều về biến cố Lê Nghi Dân bởi vì kể từ thời Lê Thái
27 Tông những âm mƣu trong bóng tối, những xung đột giữa các phe phái
28 đƣợc gọi là đại công thần để tranh giành, cƣớp đoạt quyền lực đã diễn
29 ra thật gay gắt mà sử cũ đã ém nhẹm không viết ra. Đó là hậu quả do
30 chế độ phong kiến chuyên chế tạo ra và trở thành một loại bệnh kinh
31 niên của loại chế độ chính trị nầy vào lúc giai cấp thống trị bắt đầu thụ
32 hƣởng sau khi đã hoàn thành công cuộc chiếm đoạt chính quyền qua
33 những gian truân, vất vả đấu tranh và những năm tháng dài khát khao
34 quyền lực. Các cuộc xung đột đó diễn ra triền miên, có khi thì âm thầm
35 hiểm độc, có lúc thì bùng nổ khốc liệt dƣới nhiều hình trạng khác nhau.
36 Từ trong nội bộ triều Lê, nhất là dƣới triều đại của Lê Thái Tông,
37 dần dần đã hình thành những phe phái đối kháng riêng rẽ để âm mƣu,
38 lộng quyền và tiếm đoạt.

VSTK - 524
1 Ngƣời đáng quy trách nhiệm tạo ra những phe phái, những sự rối
2 ren trong cung đình trong thời buổi sơ khởi của nhà Hậu Lê chính là Lê
3 Thái Tông, một con ngƣời háo sắc, dâm ô, vô đạo. Khởi đầu là chuyện
4 quan phụ chính vô học Lê Sát cậy quyền, trái phép, kiêu ngạo, tham
5 quyền cố vị, triệt hạ những ngƣời không cùng phe. Rồi đến phiên Lê
6 Thái Tông mê đấm tửu sắc, đƣợc vợ mới nới vợ cũ, nghe lời đàn bà
7 ghen tuông xúi giục bỏ con trƣởng lập con thứ. Bốn ngƣời con trai của
8 của Lê Thái Tông với bốn bà mẹ khác nhau, ganh ghét, ghen tuông,
9 rình rập nhau, mỗi bà kéo theo một phe nhóm cận thần riêng để mƣu
10 tính chuyện đoạt ngôi vua về cho con trai của mình.
11 Lê Nghi Dân là nạn nhân đầu tiên trong cuộc chạy đua tranh giành
12 nầy. Nghi Dân chẳng có một lầm lỗi nào nhƣng lại bị truất ngôi hoàng
13 thái tử một cách bất công, vô lý chỉ vì mẹ của Nghi Dân là thần phi
14 Dƣơng thị Bí bị Lê Thái Tông chán chê ruồng bỏ. Kể từ đây, Lê Nghi
15 Dân với sự yểm trợ của Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng và Lê Đắc
16 Ninh tạo thành một nhóm áp lực đảo chính thƣờng xuyên đang tạm thời
17 ép mình trong bóng tối chờ thời cơ hành động.
18 Nạn nhân thứ 2 trong cuộc tranh giành ngôi vua nầy là nhóm
19 Nguyễn thị Lộ, Nguyễn Trãi và Tân Bình vƣơng Lê Khắc Xƣơng. Sử
20 cũ không nói rõ mẹ đẻ của Lê Khắc Xƣơng là ai và chỉ viết một cách
21 mơ hồ Khắc Xƣơng là con của Lê Thái Tông, khiến ngƣời ta có quyền
22 nghi ngờ Nguyễn thị Lộ, vợ lẻ cuả Nguyễn Trãi, chính là mẹ đẻ của Lê
23 Khắc Xƣơng. Rải rác đó đây trong sử cũ ngƣời ta đọc đƣợc những đoạn
24 viết ngắn nói về những hành vi cố vấn châm chọc, xúi bẩy nhỏ to của
25 ngƣời đẹp trí thức Nguyễn thị Lộ từ khi đƣợc vào cung cận kề đêm
26 ngày bên cạnh Lê Thái Tông nhằm mục đích hạ bệ lần lần và êm thắm
27 những ngƣời vợ khác và loại bỏ đám võ quan vô học lộng quyền của
28 Lê Thái Tông, dọn đƣờng nối ngôi vua cho con trai mình là Lê Khắc
29 Xƣơng. Tuy nhiên, ý đồ và tham vọng của Nguyễn thị Lộ không thể
30 qua mắt đƣợc đối phƣơng, cho nên Nguyễn thị Lộ mới bị đối phƣơng
31 giết, kéo theo cái án tru di ba họ của Nguyễn Trãi. Còn Lê Khắc Xƣơng
32 vì là máu mủ của Lê Thái Tông cho nên chƣa bị hại.
33 Nhóm thứ ba trong cuộc tranh giành thừa kế ngôi vua Lê Thái Tông
34 là nhóm của tiệp dƣ Ngô thị Dao mẹ đẻ của Gia vƣơng Tƣ Thành, con
35 trai thứ tƣ của Lê Thái Tông (Sinh ngày 20 tháng 7 âm lịch năm Nhâm
36 Tuất , Đại Bảo năm thứ 3/1442). Nhóm nầy đƣợc Lê Lăng, Lê Nhân
37 Thuận ủng hộ nhƣng lại là nhóm yếu thế.
38 Nhóm thứ tƣ là nhóm Tạ Thanh, Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ, Lê
39 Liệt, Lê Bôi theo về phe của thần phi Nguyễn thị Anh, mẹ đẻ của Bang
40 Cơ. Sau khi Lê Nghi Dân bị Lê Thái Tông phế bỏ ngôi vị hoàng thái tử
41 vào năm Tân Dậu (1441), cùng lúc Bang Cơ vừa mới sinh, nhóm nầy
42 đã gây áp lực để Lê Thái Tông lập Bang Cơ làm hoàng thái tử.
43 Đây là nhóm có uy quyền bao trùm lấn lƣớt luôn uy quyền của nhà
44 vua và chính nhóm nầy đã đặt đứa trẻ 2 tuổi Bang Cơ lên ngôi vua bù

VSTK - 525
1 nhìn dƣới chiêu bài nhận di mệnh của Lê Thái Tông. Cũng nhóm nầy
2 chủ động đạo diễn tung tin Nguyễn thị Lộ đầu độc giết hại Lê Thái
3 Tông rồi tự quyền ra lệnh giết Thị Lộ và tru di 3 họ của Nguyễn Trãi.
4 Sự thật ai là kẻ thủ phạm đã gây ra cái chết của Lê Thái Tông?
5 Trong những giờ phút chót của Lê Thái Tông chuyện gì đã xảy ra?
6 Một chi tiết rất nhỏ nhƣng rất quan trọng chỉ đƣợc chép lại trong Đại
7 Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn ở phần Liệt thần truyện khi viết về
8 Trịnh Khả nhƣ sau: "Khi vua Thái Tông đi tuần phía Đông, mắc bệnh
9 nguy kịch, ông (tức Trịnh Khả) hầu hạ thuốc men không rời lúc nào.
10 Vua mất, ông nhận cố mệnh, rước quan tài về kinh sư, phò lập Nhân
11 Tông, ông được trao thêm chức nhập nội tư mã" (ĐVTS/Liệt thần
12 truyện/tờ 145b). Một đoạn khác cũng khá quan trọng đƣợc Lê Quý Đôn
13 viết nhƣ sau: "Khi Quang Thục hoàng thái hậu (tức Ngô thị Dao, mẹ
14 của Lê Thánh Tông) còn là tiệp dư của Lê Thái Tông, đã từng vì trái ý,
15 bị vua Thái Tông bỏ tù ở Vườn hoa. Ông (Trịnh Khả) cứu bà thoát nạn.
16 Cho nên vua Lê Thánh Tông nhớ lại ơn trước, nhắc dùng con cháu ông,
17 có ưu đãi hơn các bề tôi khác ."(ĐVTS/ Liệt thần truyện/ tờ 147a).
18 Sau hết, khi lên ngôi vua, Lê Nghi Dân ban tờ đại xá trong đó có
19 đoạn viết: "Diên Ninh (tức Bang Cơ Lê Nhân Tông) tự biết không phải
20 là con của tiên đế (tức Lê Thái Tông), vã lại lòng người lìa tan, ngày
21 mồng 3 tháng 10 năm nay muốn trẫm (tức Lê Nghi Dân) thay
22 ngôi"(ĐVTS/Nghịch thần truyện/ 157b,158a). Những chi tiết quan
23 trọng nầy không thấy một sử gia nào của triều Hậu Lê đƣa vào
24 quyển chính sử ĐVSKT, KĐVSTGCM và những sách sử từ đó trở
25 về sau cũng chẳng thấy có ai đề cập tới 3 chi tiết quan trọng nầy.
26 Nhƣ vậy, với 3 chi tiết do Lê Quý Đôn viết về Trịnh Khả ngƣời ta
27 có thể thấy rõ ràng là trong những giờ phút cuối cùng của Lê Thái Tông
28 có hai nhân vật quan trọng lẩn quẩn bên giƣờng bệnh của ông vua trác
29 táng. Hai nhân vật đó là Nguyễn Thị Lộ và Trịnh Khả: một ngƣời là nữ
30 lƣu văn nho tay yếu chân mềm trói gà không nổi, còn một bên là một kẻ
31 võ biền vô học hiện đang quản lĩnh đội quân thiết đột Thánh Dực hậu
32 đội kiêm chức thái giám. Khỏi cần phải suy nghĩ nhiều, ngƣời ta thấy
33 đƣợc ngay cuộc tranh chấp đƣa ngƣời lên ngôi vua trong những giờ
34 phút chót của Lê Thái Tông là một cuộc tranh chấp không cân xứng.
35 Diễn tiến cuộc tranh chấp nầy có thể suy diễn nhƣ sau: sau cuộc tuần du
36 miền Đông với sự hộ tống của đội quân thiết đột Thánh Dực do Trịnh
37 Khả chỉ huy, trên đƣờng trở về kinh đô, Lê Thái Tông ghé lại Vƣờn Vải
38 để truy hoan với Nguyễn thị Lộ rồi bất thần ngã bệnh rất nguy kịch. Rất
39 có thể trong lúc nầy Lê Thái Tông đã trối với Nguyễn thị Lộ và Trịnh
40 Khả để lập Khắc Xƣơng lên ngôi vua bởi vì Bang Cơ không phải là con
41 của Lê Thái Tông. Trịnh Khả không thể nào chấp nhận di mệnh nầy bởi
42 vì, nếu nhóm văn nho học thức Khắc Xƣơng, Nguyễn thị Lộ, Nguyễn
43 Trãi cầm quyền triều chính thì quyền uy đám quan võ biền vô học của
44 Trịnh Khả sẽ tan thành mây khói. Do đó sau khi Lê Thái Tông chết,

VSTK - 526
1 nhóm Trịnh Khả đã giết ngay Nguyễn thị Lộ để bịt miệng, đƣa ngay
2 Bang Cơ lên ngôi vua rồi loan truyền trong ngoài là Nguyễn thị Lộ đã
3 cùng Nguyễn Trãi âm mƣu đầu độc Lê Thái Tông để thực hiện việc
4 phản nghịch.
5 Lê Nhân Tông lên ngôi, thái hậu Nguyễn thị Anh đƣợc nhóm Trịnh
6 Khả trao cho việc nắm quyền cai trị nhƣng thực tế chỉ là một con rối do
7 nhóm Trịnh Khả giựt dây.
8 Lần lần thái hậu Nguyễn thị Anh cất nhắc những ngƣời thân thích
9 họ hàng lên nắm giữ những chức vị quan trọng trong triều đình và bắt
10 đầu diệt vây cánh và kiềm chế uy quyền của đám đại thần võ quan của
11 nhóm Trịnh Khả: trƣớc tiên là thanh toán Tạ Thanh vì Tạ Thanh không
12 đƣợc Nguyễn thị Anh trọng dụng đã rao truyền, thổ lộ lý lịch mẹ con
13 Lê Nhân Tông và âm mƣu của nhóm Trịnh Khả kéo bè với thái hậu
14 trong việc hạ bệ Nghi Dân trƣớc đây; kế đến tƣớc chức, giam nhốt thái
15 phó Lê Liệt (1444), tiếp theo là tƣớc chức và giam ngục đô đốc Nguyễn
16 Xí (1445) một thời gian rồi đuổi ra khỏi triều chính. Năm Tân Mùi
17 (1451), Trịnh Khả biết rằng sẽ đến lƣợt mình bị thái hậu Nguyễn thị
18 Anh tìm cách loại trừ để diệt hết tang chứng cho nên Trịnh Khả mới kết
19 bè cùng Lê Khắc Phục để lật đổ thái hậu nhƣng âm mƣu bị khám phá,
20 cha con Trịnh Khả và cha con Lê Khắc Phục tất cả đều bị giết. Cho đến
21 lúc nầy, nhóm ủng hộ Nguyễn thị Anh nay chỉ còn có Lê Bôi, Lê Lăng,
22 Lê Niệm là chƣa bị thanh toán. Vào năm Canh Ngọ (1456), thái hậu
23 đem công chúa Đà Quốc gả cho cho con trai của Lê Lăng là Lê Bộc và
24 ban cho Lê Bộc chức phò mã (ĐVSKTT/BK/q.XI/93b).
25 Nhƣ vậy, cho đến lúc nầy, trƣớc khi Lê Nghi Dân đoạt ngôi vua, các
26 cựu đại thần ngày trƣớc ủng hộ thái hậu Nguyễn thị Anh và Lê Nhân
27 Tông đã tách thành 2 nhóm rõ rệt: nhóm bị thái hậu cách chức hoặc
28 giam nhốt gồm có Nguyễn Xí, Đinh Liệt và nhóm trung thành với thái
29 hậu gồm có Lê Lăng, Lê Niệm, Lê Thụ, Lê Bôi.
30 Sau khi Nghi Dân cƣớp ngôi, Lê Thụ cùng Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê
31 Ngang âm mƣu lật đỗ, bị Nghi Dân giết chết hết.
32 Nhóm Nguyễn Xí - Đinh Liệt, nhóm Lê Niệm - Lê Bôi, nhóm Lê
33 Lăng - Lê Nhân Thuận và tất cả hàng quan lại dƣới triều Lê Nhân Tông
34 đều đƣợc Nghi Dân thăng cấp và cho tiếp tục ở lại làm việc. Mặc dù
35 có sự chia rẽ trong nội bộ của ba nhóm võ quan cựu thần kể trên mà
36 trƣớc đây cũng đã có tham dự vào việc phế bỏ Nghi Dân để phò lập
37 Bang Cơ Lê Nhân Tông, nhƣng đứng trƣớc nguy cơ bị Nghi Dân trả thù
38 tiêu diệt các nhóm nầy lại phải liên kết với nhau để lật đổ Lê Nghi Dân
39 vào ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch, năm Canh Thìn (1460).
40 Sau khi đã diệt trừ Lê Nghi Dân, lại có sự chia rẽ, bất đồng giữa
41 nhóm cựu thần cầm đầu cuộc đảo chính: Nhóm Lê Lăng, Lê Nhân
42 Thuận, đề nghị đƣa Cung vƣơng Lê Khắc Xƣơng lên ngôi vua nhƣng
43 nhóm Nguyễn Xí, Đinh Liệt không đồng ý và đƣa kiệu đến rƣớc Gia
44 vƣơng Tƣ Thành để đƣa lên ngôi vua tức là Lê Thánh Tông. Chính về

VSTK - 527
1 việc chia rẽ bất đồng nầy, sau khi lên ngôi vua, Lê Thánh Tông không
2 ƣa nhóm Lê Lăng và Lê Nhân Thuận, để rồi vu cáo bọn họ mƣu làm
3 phản mà giết đi.
4 Nói tóm lại, sử cố Nguyễn thị Lộ và Lê Nghi Dân là hai nghi án rất
5 tăm tối mù mịt. Hai biến cố quan trọng nầy đã bị các nhà viết sử ở thời
6 đại phong kiến, nhất là những sử gia dƣới triều đại nhà Hậu Lê, đã cố
7 tình lấp liếm bƣng bít để che đậy bản chất thuổng nát, vô đạo, tham
8 quyền của những kẻ vua chúa cùng các bọn quần thần ngu dốt đang
9 nắm giữ chính quyền và những cuộc chém giết giành giựt uy quyền bẩn
10 thiểu trong các triều đại phong kiến ngày xƣa.
11 Một nhóm ngƣời không dám mang tên tộc thực sự của mình, bỏ tên
12 họ riêng, để đƣợc mang họ Lê, giống nhƣ những kẻ ở trong rừng, từ các
13 hang động thời sơ khai nay ra thành thị đƣợc tắm rửa sạch sẻ và đƣợc
14 đặt vào những chỗ ăn trên ngồi trƣớc đã mặc tình quậy phá, thao túng
15 triều chính, bỏ bê con cái không dạy dỗ để cho bọn chúng bung thùa, ỷ
16 thế, cậy quyền của cha ông mà kết băng đảng lêu lỏng, bài bạc, cƣớp
17 giật, gây án mạng, tạo nhiều ung thối cho xã hội. Những đám ngƣời
18 nhƣ thế không thể nào dung hợp đƣợc với những kẻ đƣợc giáo dục, có
19 đầu óc tiến bộ nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Khắc Xƣơng.
20 Chế độ phong kiến của nhà Hậu Lê có thể đƣợc cải thiện nếu Lê Nghi
21 Dân không bị bọn cựu đại thần quân phiệt vô học của Lê Lợi, đã ăn lộc
22 thƣởng của Nghi Dân để rồi lại tiếp tục những trò phản phúc trở giáo.
23 Sử cũ lên án Lê Nghi Dân, bởi vì những ngƣời viết sử cũ chỉ là những
24 hạng nho sĩ bồi bút của triều đại Hậu Lê.
*
Phần phụ chú:

25 Tất cả sử sách cũ đều viết rằng Lê Nghi Dân sai Trần Phong,
26 Lƣơng Nhƣ Học và Trần Bá Linh sang nhà Minh để cầu phong.
27 Tuy nhiên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của nhà Lê, Khâm Định Việt
28 Sử Thông Giám Cương Mục của quốc sử quán triều Nguyễn và Việt Sử
29 Cương Mục Tiết Yếu của Đặng Xuân Bảng đều viết rằng Trần Phong
30 và Lƣơng Nhƣ Hốt đã bị Lê Lợi giết chết vào ngày 21 tháng 11 năm
31 Mậu Thân (1428) vì tội phản quốc làm gián điệp cho quân xâm lƣợc
32 nhà Minh (xin đọc lại VSTK ở trang 594). Riêng Đại Việt Thông Sử
33 của Lê Quý Đôn thì chỉ viết rằng Lê lợi "Ra lệnh trị tội các ngụy quan
34 đã theo giặc", không nêu rõ tên các kẻ bị Lê Lợi Trị tội.
35 Qua đến đời Lê Thánh Tông lại có thiếu bảo Trần Phong bị Lê
36 Thánh Tông giết (xin đọc VSTK, trang 648)
37 Nhƣ vậy, Trần Phong, Lƣơng Nhƣ Học thời Lê Nghi Dân (1459)
38 phải chăng là Trần Phong, Lƣơng Nhƣ Hốt thời Lê Lợi (1428)? VSTK
39 nêu lên sự kiện nầy để chờ sự truy cứu và giải thích của những nhà
40 nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong tƣơng lai.

VSTK - 528
QUYỂN II

THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ


CHƢƠNG V
LÊ THÁNH TÔNG ( 1460 - 1497 )
Niên Hiệu: Quang Thuận (1460-1469)
Hồng Đức (1470-1497)

1 Tên húy là Tƣ Thành, 18 tuổi, con thứ tƣ của Lê Thái


2 Tông; mẹ sinh là tiệp dƣ1 Ngô Thị Dao. Ngày mồng 8 tháng
3 6 âm lịch, năm Canh Thìn (1460) lên ngôi vua tức Lê Thánh
4 Tông, tự xƣng là Thiên Nam động chủ2, đổi niên hiệu là
5 Quang Thuận năm thứ 1; tôn mẹ Ngô thị Dao làm Quang
6 Thục hoàng thái hậu.
7 Bổ dụng Nguyễn Xí và Đinh Liệt làm tể tƣớng3 nhập nội
8 thái phó, kèm thêm tƣớc quận công.
9 Truy thăng một tƣ4 cho nội quan Đào Biểu bị Lê Nghi
10 Dân giết và ban cho 5 mẫu ruộng công để thờ cúng. Trị tội
11 Lê Đắc Ninh vì đã về phe với Lê Nghi Dân.
12 Ra lệnh luyện tập võ bị trong các hàng ngũ quân binh.
13 Tháng 8, cho quân lính và thƣờng dân đƣợc dùng thóc để
14 mua quan tƣớc5.
15 Tháng 10, lập bản danh sách những ngƣời có công trong
16 cuộc đảo chánh hạ bệ Lê Nghi Dân và phò tá Lê Thánh
17 Tông lấy đƣợc ngôi vua. Trong bảng danh sách nầy, Lê
18 Thánh Tông đã gạt bỏ tên của Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê
19 Ngang vì cho rằng những ngƣời nầy vô tài, bất lực, đã thất
20 bại trong việc âm mƣu lật đỗ Lê Nghi Dân và bị Nghi Dân
21 giết chết
22 Thƣởng cấp ruộng đất cho 30 quan thần có công: Lê
23 Lăng 300 mẫu, Lê Niệm 200 mẫu, Lê Nhân Thuận 130
24 mẫu.
25 Tháng 12, bắt lính theo nhƣ lệ cũ6 từ trƣớc.
26 Tân Tỵ, Quang Thuận năm thứ 2 (1461), tháng 3, ra lệnh
27 cho các quan ở phủ, huyện, lộ, trấn, xã đốc thúc dân chúng
28 lo cày cấy, sản xuất, không đƣợc ăn không, lƣời biếng tìm
29 nghề rỗi. Không đƣợc xây cất thêm chùa miếu.

VSTK - 529
1 Nhâm Ngọ, Quang Thuận năm thứ 3 (1462), tháng Giêng,
2 ấn định thể thức lễ bái và thủ tục lễ tế: cứ đầu mỗi mùa xuân
3 thì làm lễ tế Giao6bis tức là tế lạy trời đất.
4 Nhân dịp nầy, Lê Thánh Tông đã phê phán nghiêm khắc
5 Ngô Sĩ Liên và Nghiên Nhân Thọ: hai ngƣời nầy không tán
6 thành việc tế Giao vì cho rằng đây là thói tệ của những
7 nhóm dân tộc thiểu số chậm tiến7 chƣa đƣợc khai hoá ở các
8 miền hang động, rừng núi, hoặc ở nơi các vùng biên cƣơng
9 xa xôi; Lê Thánh Tông cũng nhắc lại việc Ngô Sĩ Liên và
10 Nghiên Nhân Thọ ham tƣớc lộc đã cuối đầu thần phục hợp
11 tác với Lê Nghi Dân nhƣng khi Nghi Dân bị loại trừ thì hai
12 ngƣời nầy lại không trung tiết chết theo; mắng Sĩ Liên và
13 Nhân Thọ là bọn gian thần bán nƣớc.
14 Tháng 4, ấn định điều kiện thi Hƣơng: chỉ những ngƣời
15 có lý lịch tốt và rõ ràng mới đƣợc ghi danh dự thi. Những
16 hạng ngƣời bất hiếu, bất nghĩa, loạn luân, điêu ngoa, xƣớng
17 ca, con hát, những kẻ phản nghịch, bản thân quan quân và
18 con cháu của họ hoặc dân thƣờng trƣớc đây hợp tác tích cực
19 với Lê Nghi Dân, những hạng nầy dù văn hay chữ tốt, tất cả
20 đều bị cấm không đƣợc dự thi8.
21 Tháng 8, vu cáo cho Lê Lăng tội âm mƣu làm phản rồi
22 giết đi9.
23 Tháng 9, ấn định hạng tuổi thôi làm quan: 65 tuổi cho các
24 hàng quan văn và quan vỏ; 60 tuổi cho các sinh viên tại quốc
25 tử giám (gọi là giám sinh), học sinh con cháu của quan viên
26 (gọi là nho sinh), những ngƣời đỗ đạt sau khi đã trải qua 3
27 kỳ thi Hƣơng (gọi là sinh đồ).
28 Tháng 12, Lê Thánh Tông sai sứ sang nhà Minh để xin
29 sách phong tƣớc An Nam Quốc vƣơng và xin ban mũ áo.
30 Lập con là Tranh làm hoàng thái tử.
31 Thăng chức cho Nguyễn Xí làm nhập nội hữu tƣớng
32 quốc.
33 Quý Mùi, Quang Thuận năm thứ 4, (1463) tháng Giêng,
34 ấn định kỳ hạn ba năm thi Hội một lần.
35 Tháng 7, đại hạn, động đất.
36 Giáp Thân, Quang Thuận năm thứ 5, (1464) tháng 7, ban
37 cho Anh Vũ, con trai của Nguyễn Trãi, chức quan huyện

VSTK - 530
1 để bù lại việc giết oan Nguyễn Trãi trƣớc đây.
2 Biếm chức Binh bộ tả thị lang Nguyễn Đình Mỹ và nói
3 với Đình Mỹ rằng: "Dùng đồ thì cần đồ mới, dùng người thì
4 nên tìm người cũ. Nho thần kỳ cựu như bọn nhà ngươi nay
5 rất hiếm hoi. Nay nhà ngươi phạm tội đáng bãi chức nhưng
6 vì tiếc tài của ngươi nên chỉ biếm chức thôi. Luật của nước
7 nhà thì vua, quan, mọi người đều phải tuân phục, ngươi
8 phải nhớ lấy ".
9 Tháng 12, cấm các quan chức địa phƣơng không đƣợc vô
10 cớ về kinh đô.
11 Bãi bỏ việc cho phép con cháu của các cựu quan đại thần
12 đƣợc tiếp tục mang họ Lê và phải trở về họ gốc tổ của mình.
13 Ất Dậu, Quang Thuận năm thứ 6 (1465) tháng ba, đổi sáu
14 bộ thành sáu viện, mỗi viện đều đặt chức thƣợng thƣ10 và tả
15 hữu thị lang. Các khoa cũ Trung, Hải, Đông, Tây, Nam, Bắc
16 thành các khoa Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công; bãi bỏ chức
17 hành khiển ở các đạo, thay thế bằng tuyên chính sứ, dƣới là
18 tham chính, tham nghị, dƣới nữa thì có chủ sự.
19 Tháng Tƣ, cấm ngƣời dân không đƣợc thừa dịp cầu cúng
20 hoặc lợi dụng mùa lễ Vu Lan để tổ chức đình đám, ăn uống,
21 vui chơi.
22 Xây cất điện Cần Đức.
23 Tháng 10, Nguyễn Xí mất, đƣợc Lê Thánh Tông truy tặng
24 chức thái sƣ, gia phong thêm tƣớc Cƣơng quốc công.
25 Tháng 11, đại xá, cho miễn thuế nhân dịp khánh thành hai
26 điện Kính Thiên và Cần Đức đƣợc xây xong.
27 Bính Tuất, Quang Thuận năm thứ 7 (1466) tháng Giêng,
28 bắt dân trả lại các phần thuế đƣợc miễn trong dịp ân xá vào
29 tháng 11 năm trƣớc (1465).
30 Thi Hội, lấy đỗ tiến sĩ 27 ngƣời.
31 Tháng 4, sửa đổi cơ cấu tổ chức quân sự thành 5 phủ11.
32 Đổi đặt 6 viện thành sáu bộ và 6 tự11bis.
33 Tháng 5, phân phối cho một nửa quân số trở về làm
34 ruộng12.
35 Tháng 6, quy định màu sắc y phục cho các quan văn võ.
36 Chia lại các vùng lãnh thổ từ 5 đạo trƣớc kia nay thành 12
37 thừa tuyên13, nhập chung 2 huyện Quảng Đức, Thọ Xƣơng

VSTK - 531
1 vào phủ Trung Đô14.
2 Ra lệnh cho khắp nơi tra xét hình thế sông núi cùng truy
3 cứu các sách vở viết về địa dƣ, ghi sự tích xƣa nay của hạt
4 mình, vẽ sơ phác bản đồ, ghi chú rõ ràng, gửi về bộ Hộ để
5 chuẩn bị lập bản đồ cho cả nƣớc15.
6 Các lộ, trấn đổi gọi là phủ: an phủ sứ đổi là tri phủ, trấn
7 phủ sứ là đồng tri phủ; phòng ngự sứ là tri châu; chuyển vận
8 sứ là tri huyện; tuần sát sứ làm huyện thừa; xã quan là xã
9 trƣởng.
10 Tháng 10, thay đổi tổ chức bộ Hình để cho việc điều tra và
11 xử án đƣợc nhanh chóng và phù hợp với khả năng chuyên
12 ngành của quan viên làm việc ở bộ nầy.
13 Đinh Hợi, Quang Thuận năm thứ 8 (1467) tháng 2, tịch
14 thu đất đai của những ngƣời giàu có ở Lam Sơn16 để ban cấp
15 cho các ngƣời trong dòng họ vƣơng tộc và các quan viên có
16 công trạng đƣợc mang họ vua từ hàng nhất phẩm xuống đến
17 thất phẩm với lý do Lam Sơn là đất riêng của vua17.
18 Dùng công quỹ mua thuốc chữa bệnh cho dân chúng nhân
19 có bệnh dịch ở vùng Quốc Oai và Tam Đới và kể từ đó, nơi
20 nào có bệnh, hay bị dịch thì sẽ áp dụng việc mua thuốc để
21 chữa bệnh cho dân.
22 Tháng 3, ra lệnh tìm các tác phẩm, thơ, văn của Nguyễn
23 Trãi bị thất thoát.
24 Lấy Trần Phong18 giữ chức Hình bộ thƣợng thƣ, Nguyễn
25 Cƣ Đạo19 giữ chức ngự sử đài Đô Ngự sử kiêm nhiệm chức
26 thƣợng thƣ Hộ bộ.
27 Thổ tù Thuận Châu là Cầm Đồng liên kết với giặc Ai Lao
28 quấy nhiễu chiếm động Cƣ Lộng20 ở Thuận Châu21. Triều
29 đình sai tổng binh Khuất Đả đem quân đánh dẹp yên.
30 Vì số sinh viên ở quốc tử giám theo học về Ngũ kinh rất
31 đông cho nên bổ nhiệm chức Ngũ kinh bác sĩ để giảng dạy.
32 Tháng 4, in và phát sách ngũ kinh cho sinh viên quốc
33 tử giám. Lệnh buộc tất cả quan quân phải học tập để biết
34 đọc sách.
35 Tháng 5, thổ tù nhà Minh là Tống Thiệu quấy nhiễu cửa
36 ải Tỏa Thoát22. Thái sƣ Đinh Liệt và quần thần cố vấn chỉ
37 nên chống giữ chứ không nên gây hấn với nhà Minh.

VSTK - 532
1 Cho phép các ngƣời mang họ vua Lê đƣợc trở về họ gốc
2 của mình.
3 Tháng 6, khởi sự công trình in bản đồ địa dƣ23.
4 Sa thải các thầy giáo dạy con trai vua ở Đông cung là Vũ
5 Nguyên Tiềm và Tạ Bƣu vì trình độ văn hóa của họ bị Lê
6 Thánh Tông cho là kém.
7 Bãi chức đô đốc Lê Thiệt vì không kiểm soát quân lính và
8 thuộc hạ của mình, để chúng dọa nạt cƣớp bóc dân chúng
9 trong cuộc hành quân tuần tiểu ở châu Thoát.
10 Ra lệnh cho sử quan23bis Lê Nghĩa trình nhật lịch24 cho
11 vua xem.
12 Giá gạo ở thủ đô tăng vọt vì đồng ruộng thiếu nƣớc, bị
13 hạn hán. Ra lệnh trƣng thu gạo từ Nghệ An để cung cấp cho
14 thủ đô.
15 Sửa đổi toàn thể tổ chức quân đội: trong kinh có 66 ty và
16 19 vệ và ở 12 thừa tuyên có tất cả là 26 vệ. Mỗi Ty là 100
17 quân; mỗi vệ có 5 hoặc 6 sở. Mỗi sở có 20 đội. Mỗi đội có
18 20 quân. Tổng cộng quân số toàn quốc lúc nầy là: 31,600
19 quân ở kinh đô và 62,400 quân ở 12 thừa tuyên cộng chung
20 là 94,000 quân24bis .
21 Bão lụt lớn ở các phủ Nam Sách, Giáp Sơn, Thái Bình,
22 Kiến Xƣơng, đê điều bị phá vỡ, ruộng lúa bị ngập lụt, dân
23 chúng bị nạn đói. Các huyện vùng ven biển ở Nghệ An bị
24 thiệt hại nặng.
25 Bãi bỏ chức vụ kiêm nhiệm hành chánh của Tổng binh
26 quân sự ở các đạo để giao nhiệm vụ nầy cho những quan văn
27 đảm trách.
28 Tháng 10, sứ nƣớc Ai Lao xin phụ nhập vào Đại Việt
29 nhƣng Lê Thánh Tông từ chối, chê dân tộc nƣớc nầy là tráo
30 trở, mê muội.
31 Tháng 11, khảo hạch lại những nho quan đã đậu tiến sĩ:
32 thị chế tiến sĩ Phạm Nhƣ Châu bị hạ chức vì không trao dồi
33 trí thức, không tiến bộ, bị suy thoái.
34 Kiểm tra hộ khẩu kiều dân Chiêm Thành sinh sống ở Đại
35 Việt.
36 Tháng 12, khôi phục quan chức cho Lê Thiệt.
37 Mở khoa thi hoành từ25: quan viên từ hạng tứ phẩm trở

VSTK - 533
1 xuống đều đƣợc dự thi.
2 Giám sát Ngự sử Nam Đạo Lê Bá Trân bị giáng chức và
3 thuyên chuyển công tác ở Lộng Nguyên26 vì đã thẳng thắn
4 vạch bày những khuyết điểm về chính sách cai trị của triều
5 đình khiến Lê Thánh Tông tức giận.
6 Mậu Tý, Quang Thuận năm thứ 9 (1468) tháng 4, quy
7 định các hình thức giao dịch văn kiện, khế ƣớc cầm thế, mua
8 bán ruộng đất.
9 Tháng 10, Lê Bô phạm tội; hình bộ thƣợng thƣ Trần
10 Phong can thiệp để Lê Bô dùng tiền chạy tội khỏi bị vạch
11 chữ lên mặt. Lê Thánh Tông không thích27 Trần Phong từ
12 lâu, bèn nhân dịp nầy quy tội Trần Phong không tôn trọng
13 luật pháp của triều đình, ra lệnh bắt giam Trần Phong giao
14 cho quan hình sự xét xử.
15 Kỷ Sửu, Quang Thuận năm thứ 10 (1469) tháng 2 nhuận,
16 cấm tàng trữ vũ khí bất hợp pháp.
17

18 Tháng 3, định và in xong bản đồ cả nƣớc. Bản đồ gồm có


19 12 thừa tuyên:
20

21 Thừa tuyên: số Phủ: số Huyện: số Châu: Cƣớc chú:


22 Thanh Hóa 4 6 4
23 Nghệ An 8 1 2
24 Thuận Hóa 2 7 4
25 Nam Sách 4 18 - đổi gọi là Hải Dƣơng
26 Thiên Trƣờng 11 42 - " Sơn Nam
27 Quốc Oai 6 24 - " Sơn Tây
28 Bắc Giang 4 19 - " Kinh Bắc
29 An Bang 1 3 4
30 Tuyên Quang 1 2 5
31 Hƣng Hóa 3 4 17
32 Lạng Sơn 1 - 7
33 Thái Nguyên 3 8 7 " Ninh Sóc
34 Trung Đô phủ - 2 - " Phụng Thiên
35 Cộng: 48 163 50

36 Canh Dần, Hồng Đức năm thứ 1 (1470) tháng Giêng,


37 nhắc lại lệnh cấm tiệc tùng, chè chén, cờ bạc trong khi đang
38 có tang chế.
39 Quy định nghi thức lễ hỏi và lễ cƣới.
40 Tháng 8, Chiêm Thành đánh phá Hóa Châu.

VSTK - 534
1 Tháng 10, sai Nguyễn Đình Mỹ và Quách Đình Bảo sang
2 sứ nhà Minh để báo cáo việc Chiêm Thành đánh phá vùng
3 biên giới Hóa Châu.
4 Tháng 11, Lê Thánh Tông ra lệnh động viên để tăng
5 cƣờng quân số rồi đích thân thống lĩnh 260,000 quân chuẩn
6 bị đánh Chiêm Thành. Sai thái sƣ Đinh Liệt và thái bảo Lê
7 Niệm chỉ huy thủy quân đi trƣớc.
8 Tân Mão, Hồng Đức năm thứ 2 (1471) tháng 2, quân của
9 Lê Thánh Tông bao vây thành Đồ Bàn28.
10 Ngày mồng 1 tháng 3, quân nhà Lê hạ thành Đồ Bàn, bắt
11 sống vua Chiêm Trà Toàn và 3 vạn tù binh và dân Chiêm.
12 Sau đó chia cắt phần đất chiếm đƣợc của Chiêm Thành ra
13 làm hai nƣớc nhỏ là, Hoa Anh29 và Nam Bàn30. Một phần
14 năm còn lại của đất Chiêm Thành cũ từ Phan Lung31 trở vào
15 Nam thì đã bị tƣớng của Trà Toàn là Bô Trì32 chiếm giữ rồi
16 tự xƣng là vua Chiêm Thành, chịu thần phục và nộp cống,
17 đƣợc Lê Thánh Tông phong cho tƣớc vƣơng. Lê Thánh
18 Tông cũng phong tƣớc vƣơng đặt ngƣời cho cai trị hai nƣớc
19 mới Hoa Anh và Nam Bàn.
20 Các tù trƣởng ở vùng biên giới phía Tây nƣớc Đại Việt
21 lần lƣợt sang triều cống ngay sau khi cuộc chiến tranh giữa
22 Đại Việt và Chiêm Thành chấm dứt.
23 Tháng 4, Lê Thánh Tông ra lệnh rút quân. Cắt đầu vua
24 Chiêm Trà Toàn33, cắt tai34 của số tù binh Chiêm bị bắt để
25 làm lễ dâng tù ở thái miếu.
26 Tháng 6, sáp nhập các phần đất đã chiếm đƣợc từ trƣớc
27 tới nay của nƣớc Chiêm Thành để đặt thành thừa tuyên
28 Quảng Nam, gồm có 3 phủ, 9 huyện.
29 Thái sƣ Đinh Liệt chết, đƣợc truy phong là Trung
30 Mục vƣơng. Đinh Liệt là công thần của họ nhà Hậu Lê
31 trải qua 4 triều vua; thời Lê Thánh Tông làm tể tƣớng
32 gần 10 năm và đƣợc Lê Thánh Tông rất tin dùng.
33 Bắt đầu đặt chức hiến sát sứ35 ở 12 đạo. Lập con thứ 5 là
34 Tân làm Kiến vƣơng. Tháng 9, quy định chế độ quan chức
35 của triều đại nhà Hậu Lê. Sai sứ sang nhà Minh báo cáo lý
36 do về việc quân binh nhà Hậu Lê xăm lăng nƣớc Chiêm
37 Thành từ tháng 2 vừa rồi.

VSTK - 535
1 Ấn định kích thƣớc đo đạc ruộng đất: mỗi mẫu là 10 sào 6
2 thƣớc 5 tấc. Ấn định thuế bãi dâu, chia thành 3 bậc tùy theo
3 số mẫu trồng dâu để đánh thuế. Ấn định thuế nhân đinh, mỗi
4 ngƣời nộp 8 tiền.
5 Tháng 11, em của Trà Toàn là Trà Toại ngày trƣớc trốn
6 vào rừng núi, nay tự xƣng vua nƣớc Chiêm Thành khởi binh
7 chống lại triều đình nhà Hậu Lê. Lê Thánh Tông sai Lê
8 Niệm đi dẹp, bắt đƣợc Trà Toại mang về Đông đô.
9 Chuyển Ngô Sĩ Liên từ chức Đô ngự sử xuống làm Sử
10 quan tu soạn; Đỗ Nhuận, Quách Đình Bảo làm Đông các
11 hiệu thƣ.
12 Nhâm Thìn, Hồng Đức năm thú 3 (1472) tháng 3, ấn định
13 cách thức thi Hội và định ngạch chức35bis cho những ngƣời
14 đỗ tiến sĩ.
15 Tháng 10, ấn định kích thƣớc đo đạc của 1 sào là 16
16 thƣớc 5 tấc.
17 Quý Tỵ, Hồng Đức năm thứ 4 (1473) tháng 4, quy định
18 nhiệm vụ và quyền hạn của các quan chức Ngự sử đài và
19 Hiến sát ty.
20 Tháng 7, thi y khoa36, đề thi bao gồm 4 môn.
21 Giáp Ngọ, Hồng Đức năm thứ 5 (1474) tháng 4, định thể
22 lệ thừa tự37 của con cháu các công thần tự hy sinh vì nhiệm
23 vụ.
24 Tháng 10, tu bổ, sửa đắp lại Đông Đô.
25 Ất Mùi, Hồng Đức năm thứ 6 (1475) tháng 7, thủy tai lớn
26 làm vỡ đê Tô Lịch.
27 Đặt chức quan chuyên trông lo chăm sóc đê điều, đƣờng
28 sá và chức quan trông lo, đôn đốc dân chúng trong việc cày
29 cấy.
30 Bính Thân, Hồng Đức năm thư 7 (1476) tháng 8, tìm cớ38
31 cáo buộc Cung vƣơng Khắc Xƣơng mƣu phản nghịch để giết
32 đi rồi loan tin Khắc Xƣơng vì quá lo sợ mà chết.
33 Đinh Dậu, Hồng Đức năm thứ 8 (1477).
34 Mậu Tuất, Hồng Đức năm thứ 9 (1478).
35 Kỷ Hợi, 9 Hồng Đức năm thứ 10 (1479) tháng Giêng, sai
36 Ngô Sĩ Liên biên chép bộ Đại Việt Sử Ký, gồm có phần
37 Ngoại Kỷ 5 quyển chép từ đời nhà Hồng Bàng đến đời nhà

VSTK - 536
1 Ngô Quyền; phần Bản Kỷ 10 quyển chép từ đời Đinh Tiên
2 Hoàng đến hết đời Lê Lợi.
3 Tháng 7, Lê Thánh Tông đích thân cầm quân xâm lăng
4 nƣớc Ai Lao.
5 Tháng 8, xâm lăng nƣớc Lão Qua.
6 Tháng 10, sai Lê Niệm đánh Bồn Man.
7 Canh Tý, Hồng Đức năm thứ 11 (1480).
8 Tân Sửu, Hồng Đức năm thứ 12 (1481).
9 Nhâm Dần, Hồng Đức năm thứ 13 (1482).
10 Quý Mão, Hồng Đức năm thứ 14 (1483).
11 Giáp Thìn, Hồng Đức năm thứ 15 (1484) tháng 2, sai Lễ
12 bộ thƣợng thƣ Quách Đình Bảo dựng bia tiến sĩ39 từ khoa
13 năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời Lê Thái Tông
14 (1442) đến khoa Tân Tỵ, niên hiệu Hồng Đức thứ 12 đời Lê
15 Thánh Tông (1481) tất cả gồm có 9 khoa.
16 Hạ lệnh cho những quan văn có trình độ nho học và giỏi
17 viết văn40 chia nhau biên soạn các bài văn bia.
18 Tháng 10, bắt đầu dựng đàn thờ Thần Nông41 và dựng đài
19 cao để cho vua ngồi xem nông dân làm ruộng: trong những
20 dịp nầy vua đích thân đi cày ruộng tƣợng trƣng gọi là cày
21 ruộng tịch điền42.
22 Ất Tỵ, Hồng Đức năm thứ 16 (1485) tháng 3, thái phó Lê
23 Niệm chết. Niệm là cháu của Lê Lai, làm tƣớng cho triều Lê
24 gần 30 năm, lập công trạng rất nhiều cho triều đại nhà Hậu
25 Lê.
26 Giết Thiếu bảo Trần Phong.
27 Bính Ngọ, Hồng Đức năm thứ 17 (1486).
28 Đinh Mùi, Hồng Đức năm thứ 18 (1487) tháng 2, ấn định
29 cách thức xƣng hô theo ngôi thứ, cấp bậc43.
30 Mậu Thân, Hồng Đức năm thứ 19 (1488) tháng 7, ấn định
31 thời hạn tra xét án ngục: án nhỏ 5 ngày, án lớn 10 ngày,
32 không đƣợc xử oan, không đƣợc để chậm trễ ứ đọng.
33 Kỷ Dậu, Hồng Đức năm thứ 20 (1489) tháng 5, đại hạn,
34 ân xá.
35 Canh Tuất, Hồng Đức năm thứ 21 (1490) tháng 2, nạn đói
36 xảy ra ở Đông đạo; phát chẩn gạo cho dân .

VSTK - 537
1 Tháng 4, lại chia nƣớc thành 13 xứ: trƣớc đây chỉ có 12
2 thừa tuyên và Trung Đô phủ, nay sáp nhập các đất chiếm
3 đƣợc của Chiêm Thành để lập thành xứ Quảng Nam và đổi
4 gọi tất cả là 13 xứ gồm 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20
5 hƣơng, 36 phƣờng, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách,
6 40 động, 30 nguồn, 30 trƣờng. Đặt sở thủ ngữ kinh lƣợc
7 sứ44: ở Nghệ An có 7 sở, Thuận Hoá có 6 sở, Yên Bang có 9
8 sở, Tuyên Quang có 5 sở, Hƣng Hoá có 8 sở, Thái Nguyên
9 có 22 sở, Lạng Sơn có 18 sở, Quảng Nam có 2 sở.
10 Tháng 11, sửa và nới rộng thêm chu vi phòng vệ kinh
11 thành để ngăn ngừa các âm mƣu phản loạn đảo chánh giống
12 nhƣ vụ Lê Nghi Dân trƣớc đây.
13 Tân Hợi, Hồng Đức năm thứ 22 (1491) tháng 8, mƣa to
14 nƣớc lũ dâng ngập điện Kính Thiên45.
15 Nhâm Tý, Hồng Đức năm thứ 23 (1492) tháng 12, đói
16 lớn, dân phải đào củ nâu để ăn.
17 Quý Sửu, Hồng Đức năm thứ 24 (1493) .
18 Giáp Dần, Hồng Đức năm thứ 25 (1494).
19 Ất Mão, Hồng Đức năm thứ 26 (1495) tháng 11, soạn 9
20 bài thơ ca gọi là 9 khúc ca trong vƣờn Quỳnh "Quỳnh Uyển
21 cửu ca". Đầu đề 9 bài thơ đó là: 1- Phong niên46, 2- Quân
22 đạo47, 3- Thần tiết48, 4- Minh lƣơng49 , 5- Anh hiền50, 6-
23 Kỳ khí51, 7- Thƣ thảo52, 8- Văn nhân53, 9- Mai hoa54. Lê
24 Thánh Tông tự xƣng là Tao đàn55 nguyên soái56 và viết bài
25 tựa cho tập thơ nầy.
26 Bính Thìn, Hồng Đức thứ 27, (1496) tháng 2, hoàng thái
27 hậu57 mất, thọ 76 tuổi.
28 Tháng 8, mƣa lớn ngập lụt, phá hủy nhà cửa, ruộng vƣờn
29 của dân.
30 Tháng 11, Lê Thánh Tông ngã bệnh nặng58.
31 Đinh Tỵ, Hồng Đức năm thứ 28 (1497) tháng Giêng:
32 -Ngày mồng 29, truyền ngôi vua cho hoàng thái tử
33 Tranh;
34 -Ngày 30, Lê Thánh Tông chết ở điện Bảo Quang, ở ngôi
35 38 năm, thọ 56 tuổi, chôn ở Chiêu Lăng. Có 14 ngƣời con
36 trai59.

VSTK - 538
BẢN ĐỒ NƢỚC VIỆT NAM THỜI LÊ THÁNH TÔNG

1 Bản đồ nầy có thể là bản in sau khi Lê Thánh Tông đã sửa đổi một
2 lần nữa các khu vực lãnh thổ hành chánh vào năm Canh Tuất, niên
3 hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) thành 13 thừa tuyên gồm có: 52 phủ, 178
4 huyện, 50 châu. Một cách đại cương thì có thể bản đồ nầy cũng giống
5 như bản đồ của niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469) mà nhiều người
6 ngày trước thường gọi là Thiên Hạ Bản Đồ.
7 *Lung Lăng (số 2): có thể là phiên âm từ chữ Ran Ran, một nước
8 nhỏ trong vương quốc Chiêm Thành.
9 * An Kỳ Sinh (số 58): tên một người Hoa thời Tần Thủy Hoàng sang
10 làm nghề bán dạo thuốc Bắc ở Đại Việt. Người dân mê tín dị đoan thời
11 đó bị người Hoa nhồi sọ phao đồn tên bán thuốc dạo đã đắc đạo thành
12 thần tiên tại vùng địa danh nầy.

VSTK - 539
BẢN ĐỒ TRUNG ĐÔ PHỦ

VSTK - 540
GHI CHÚ:

1
1
Tiệp dƣ: một chức bật ban cho vợ nhỏ của vua.
2
2
Thiên Nam động chủ: đây là một cách tự xƣng có tính cách cao
3 ngạo và có nghĩa là chủ nhân những động ở vùng trời miền Nam. Lê
4 Lợi trƣớc đây cùng tự xƣng là Lam Sơn động chủ. Chữ Động thƣờng
5 đƣợc dùng để chỉ những vùng đất nơi biên cƣơng rừng núi xa xôi hiểm
6 trở hoặc ở những nơi phiên trấn và thƣờng chỉ có các bộ tộc ngƣời thiểu
7 số gọi chung là ngƣời Mọi hoặc ngƣời Thƣợng sinh sống ở những nơi
8 đó.
9
3
Tể tƣớng: hàng quan võ đứng đầu ở triều đình.
10
4
Truy thăng 1 tƣ: giống nhƣ cấp, bậc, hay một thứ điểm (points,
11 marks) ghi trên hồ sơ cá nhân để dùng trong những dịp thăng thƣởng
12 hoặc trách phạt
13
5
Cho dân chúng mua quan tƣớc: các chức tƣớc thuộc loại mua bán
14 nầy chỉ có danh suông mà thôi chứ không đƣợc nắm giữ trách vụ gì
15 trong chính quyền. Từ việc mua quan bán tƣớc nầy ngƣời ta có thể thấy
16 đƣợc chính sách cai trị của Lê Thánh Tông là một chính sách bóc lột,
17 vơ vét tiền bạc, của cải, vật chất của dân chúng để cung phụng cho một
18 thiểu số cầm quyền cai trị và thoả mãn một số hạng ngƣời giàu có ngu
19 dốt muốn có danh vị trong xã hội.
20 6bis Lễ tế Giao: theo Lê triều hội điển, nghi lễ tế Giao hồi khởi đầu triều
21 Hậu Lê đƣợc tổ chức nhƣ sau: đắp đàn ở phía Nam kinh đô: đàn chính
22 ở giữa dài 15 thƣớc, cao 5 tấc, dùng để tế trời, đất; đàn bên trái và bên
23 phải, mỗi đàn dài 16 thƣớc, cao 3 tấc, dùng để tế các ngôi sao và thần
24 núi. Bốn phía xung quanh đàn trồng cây, phía trƣớc đàn mở 3 cửa.
25
6
Bắt lính theo lệ cũ: tức là theo lệ đã có từ đời Lê Thái Tông. Theo lệ
26 nầy thì con cháu của những ngƣời có chức vị trong xã hội thời đó, con
27 của các quan võ từ lục phẩm trở lên, sinh viên quốc tử giám mà đa số là
28 con cái của quan lại, con cái của những nô tỳ hầu hạ vua hoặc nô tỳ của
29 của các hàng vƣơng tƣớc, quan quyền, tất cả đều đƣợc miễn quân dịch.
30 Tức là chỉ có con cái của hạng dân đen cùng khổ, con em của những
31 hạng binh lính hạ cấp mới đƣợc chính quyền Lê Thánh Tông chiếu cố
32 bắt đi làm nghĩa vụ quân sự.
33
7
Dân tộc thiểu số, chậm tiến: thƣờng là những bộ tộc sinh sống trong
34 các hang, động, buông, sóc nơi các miền rừng núi ở các vùng biên giới
35 xa xôi hẻo lánh hoặc ở những nơi vùng cao rất khó đi lại. Sử cũ Việt
36 Nam gọi những bộ tộc nầy là Phiên bang. Ngƣời Hoa gọi họ là dân
37 Man di, Mọi rợ.
38
8
Cấm không đƣợc ghi danh dự thi: đây là một chính sách thi cử theo
39 lý lịch, không cần đếm xỉa gì đến tài năng và sự ăn năng hối cải của
40 những ngƣời đã có lầm lỗi trong quá khứ.

VSTK - 541
1
9
Vu cáo và giết Lê Lăng: Lê Thánh Tông đã ngầm ghét Lê Lăng từ
2 lâu bởi vì nhóm Lê Lăng ngày trƣớc đề nghị phò lập Cung vƣơng Khắc
3 Xƣơng lên ngôi vua không ủng hộ Lê Thánh Tông, nhƣng lúc đó nhờ
4 có nhóm Nguyễn Xí mạnh hơn phù trợ cho nên Lê Thánh Tông mới
5 chiếm đƣợc ngôi vua sau khi Lê Nghi Dân bị hạ bệ.
6
10
Thƣợng thƣ: ngang với chức tổng, bộ trƣởng trong các tổ chức chính
7 quyền ngày nay trên thế giới.
8
11
Sửa đổi cơ cấu tổ chức quân sự thành 5 phủ:
9 -Thanh Hóa, Nghệ An thuộc phủ Trung quân, gồm có 31 sở.
10 -Nam Sách, An Bang thuộc phủ Đông quân, gồm có 31 sở.
11 -Thiên Trƣờng, Thuận Hóa thuộc phủ Nam quân, gồm có 31 sở.
12 -Quốc Oai, Hƣng Hoá thuộc phủ Tây quân, gồm có 30 sở.
13 -Bắc Giang, Lạng Sơn thuộc phủ Bắc quân, gồm có 31 sở.
14 Mỗi phủ có 6 vệ, mỗi vệ có 5 hoặc 6 sở, mỗi sở gồm có 400 quân số.
15 Còn hai đạo Thái Nguyên và Tuyên Quang thuộc quân phụng trực.
16 11bis Sáu bộ và 6 tự:
17 -Sáu bộ là: bộ lại, bộ hộ, bộ binh, bộ hình, bộ công.
18 -Sáu tự là: đại lý, thái thƣờng, quang lộc, thái bộc, hồng lô, thƣợng
19 bảo. Các tự nầy giống nhƣ các cục hay tổng cục trong các chính phủ
20 thời buổi ngày nay để chuyên lo về một lãnh vực đặc biệt , thí dụ nhƣ
21 cục vé số kiến thiết, cục an ninh tình báo. . .
22
12
Một nửa quân số trở về làm ruộng: nhằm mục đích tăng gia mức
23 sản xuất lúa gạo trong nƣớc đồng thời cũng giảm miệng ăn cho cho quân
24 đội.
25
13
Mƣời hai thừa tuyên: Từ thời Lê Lợi, lãnh thổ hành chánh quân sự
26 đƣợc chia thành 5 đạo. mỗi đạo chia thành lộ, trấn, châu, huyện và xã.
27 Nay Lê Thánh Tông chia thành 12 đơn vị hành chánh quân sự gọi là
28 thừa tuyên. Ở mỗi thừa tuyên đặt 2 ty: đô ty do tổng binh và phó tổng
29 binh quân sự nắm giữ, cai quản về mặt an ninh và phòng thủ lãnh thổ,
30 an sinh xã hội; thừa ty thì có thừa tuyên chính sứ và thừa tuyên chính
31 phó sứ coi về hành chánh, hộ tịch, tranh tụng luật pháp. Đổi lộ thành
32 phủ, đổi trấn thành châu. An phủ sứ nay là tri phủ; trấn phủ sứ là đồng
33 tri phủ, phòng ngự sứ là tri châu, chuyển vận sứ là tri huyện, tuần sát sứ
34 là huyện thừa, xã quan là xã trƣởng.
35
14
Phủ Trung Đô: là một đơn vị lãnh thổ hành chánh ở kinh đô giống
36 nhƣ các toà đô chính ở nhiều nƣớc trên thế giới hiện nay. Phủ Trung Đô
37 có các chức phủ doãn, thiếu doãn và thị trung.
38
15
Lập bản đồ cho cả nƣớc: đây là dự thảo bản đồ sẽ đƣợc in và phát
39 hành trong niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469) và có thể bản in nầy
40 đƣợc nhiều sử sách cũ gọi là Thiên hạ bản đồ.
41
16
Tịch thu đất đai ở Lam Sơn: để phân phát cho các cận thần mang
42 họ của nhà Hậu Lê.

VSTK - 542
1
17
Lam Sơn là đất của vua: ĐVSKTT chép về việc nầy nhƣ sau: “Lê
2 Thánh Tông ra dụ chỉ cho dân chúng và các quan rằng: "Lam kinh
3 (Lam Sơn) là đất căn bản nơi quê vua (Lê Lợi ), không thể để hỗn tạp
4 như các đất đai ở những kinh sư khác được. Những nhà giàu có chiếm
5 đất ở đây để làm của riêng, trong khi các công chúa không có được một
6 tấc đất để hưởng dụng. Đáng lẽ phải dùng pháp luật ghép tội những kẻ
7 chiếm hữu đất của vua, nhưng nghĩ rằng nên dùng lễ nghĩa báo trước
8 (tức là chỉ cần tịch thu đất đai và giải thích cho những ngƣời có ruộng
9 đất bị tịch thâu biết đây là đất riêng của dòng họ nhà Hậu Lê), sao cho
10 họ vua ngày một đông đúc, có chỗ mà nương thân“(BKTL/q.XII/ 27b).
11
18
Trần Phong: lý lịch của nhân vật nầy sử cũ không ghi rõ nhƣng
12 không phải là Trần Phong theo quân Minh làm đến chức đô ti và bị Lê
13 Lợi xử tội chết vào năm Mậu Thân (1428). Trần Phong thời Lê Thánh
14 Tông là một nhân vật khác, không làm đẹp lòng Lê Thánh Tông cho
15 nên bị Lê Thánh Tông xử tội.
16
19
Nguyễn Cƣ Đạo: ngƣời làng Đông Khối, huyện Gia Bình, đỗ đồng
17 tiến sĩ năm Nhâm Tuất (1442).
18
20
Cƣ Lộng: sử sách cũ không ghi rõ chi tiết; không thể tra cứu, rất có
19 thể là một động trong vùng Thuận Châu.
20
21
Thuận Châu: còn gọi châu Mỗi, thuộc phủ Gia Hƣng, Hƣng Hoá;
21 nay là huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
22
22
Cửa ải Toả Thoát: ở huyện Quảng Uyên, Cao Bằng, nay là cửa ải
23 quả Thoát;còn huyện Quảng Uyên nay là huyện Quang Hoà.
24
23
Khởi sự in bản đồ: xem chú thích 15.
25 23bis Sử quan: tên gọi một giới chức giữ việc ghi chép các việc chính trị
26 trong nƣớc, kể cả những lời nói việc làm của vua chúa, quan quân tại
27 triều đƣơng thời, dù đúng hay sai đều phải ghi chép một cách trung
28 thực để sau nầy đƣa vào chính sử. Trong thực tế, sử quan phải ghi chép
29 một cách nịnh bợ, giấu giếm, bóp méo sự thật để làm đẹp lòng nhà vua
30 đang trị vì lúc đó.
31
24
Nhật lịch: tập sách ghi hằng ngày những công việc vua và triều
32 quan bàn luận hoặc thi hành chính sách cai trị trong nƣớc cũng nhƣ ghi
33 chép tƣờng tận những lời nói, việc làm của vua rồi cuối ngày giao cho
34 sử quan niêm phong cất giữ.
35 24bis Sửa đổi cơ cấu tổ chức quân đội: Sử cũ viết về vấn đề nầy rất là
36 lộn xộn. Những con số đƣa ra trong Việt Sử Tân Khảo là dựa theo sách
37 Hồng Đức thiên Nam dư hạ tập và tham khảo phần Binh chế chí/Ngạch
38 quân/triều Hậu Lê trong LTHCLC của Phan Huy Chú.
39
25
Thi hoành từ: gồm có các môn thi nhƣ: thơ, phú, tán, tụng, ca
40 châm; không có thể thức nhất định.

VSTK - 543
1
26
Lộng Nguyên: từ đời nhà Lý trở về trƣớc gọi là châu Quảng
2 Nguyên; niên hiệu Quang Thuận, Lê Thánh Tông đổi là châu Lộng
3 Nguyên, niên hiệu Hồng Đức lại đổi là Quảng Uyên; ngày nay là huyện
4 Quảng Uyên hợp với huyện Phú Hòa thành huyện Quảng Hoà, thuộc
5 tỉnh Cao Bằng.
6
27
Trần Phong bị Lê Thánh Tông ghét bỏ, giam ngục: Trần Phong
7 giao dịch thân cận với bố và anh vợ của Lê Thánh Tông để đƣợc họ
8 nâng đỡ bao che. Lê Thánh Tông cho rằng Trần Phong chỉ nhờ bợ đỡ
9 nịnh hót “doãn ung thị trĩ “ nghĩa là liếm mụn, mút ung thối cho cha và
10 anh vợ của vua để đƣợc quyền quý giàu sang, thăng quan tiến chức; vì
11 thế cho nên Thánh Tông không ƣa Trần Phong.
12
28
Thành Đồ Bàn: kinh đô của nƣớc Chiêm Thành, nay là huyện Tuy
13 Phƣớc, tỉnh Bình Định. Thời Nguyễn Huệ/Tây Sơn gọi là hoàng đế
14 thành; thời Nguyễn Ánh/ Gia Long đổi gọi là thành Bình Định.
15
29
Hoa Anh: không thể tra cứu tƣờng tận đƣợc. Bộ tộc Hoa Anh nầy
16 có thể là một sắc dân thiểu số ở vùng đất thuộc các tỉnh Phú Yên,
17 Khánh Hoà tức tỉnh Phú Khánh ngày nay.
18
30
Nam Bàn: lời chua trong KĐVSTGCM ghi: "từ trước cho đến đầu
19 thời Hậu Lê, Nam Bàn là lãnh thổ của Chiêm Thành, đến khi Lê Thánh
20 Tông đánh Chiêm Thành, mở đất đai đến núi Thạch Bi, phong dòng dõi
21 chúa cũ Chiêm Thành làm Nam Bàn quốc vương và chia cho giữ đất
22 đai từ núi Thạch Bi trở về phía Tây, từ phủ Hoài Nhơn (phủ Hoài Nhơn
23 ở phía Nam trấn Quảng Nam tức là tỉnh Qui Nhơn hiện nay) đi theo
24 đường thượng đạo .(thƣợng đạo có lẽ muốn nói là đƣờng vòng theo núi
25 cao = ghi chú của VSTK) thì phải đi 14 ngày mới đến nước nầy
26 "(CB/q.XXII/tờ 5).
27 Theo Địa dƣ chí/ Phan Huy Chú thì nƣớc nầy vào thời đó có đến
28 hơn 50 thôn. Ở giữa có núi Bà Nam rất cao và lớn rộng làm vách chắn
29 biên cƣơng cho một nƣớc. Trong nƣớc chia ra hai nƣớc nhỏ gọi là Thủy
30 Xá và Hoả Xá cai trị bởi 2 vua Thủy, vua Hỏa chia ở bên Đông và bên
31 Tây núi Bà Nam. Dân tộc Nam Bàn ở nhà sàn cất cao khỏi mặt đất, ở
32 tựu tập thành từng thôn, sóc (thôn, sóc = một nhóm vài trăm ngƣời,
33 ngƣời Kinh thƣờng gọi là sóc mọi, thôn mọi), dùng dao, mát xới đất để
34 trồng trọt, đốt cỏ, phá rừng để cấy lúa. Tháng Giêng gieo mạ, tháng 5
35 lúa chín, không gặt lúa nhƣng dùng tay tuốt hạt lúa bỏ vào gùi bị mang
36 trên lƣng mang về. Thời đó họ chƣa biết dùng ngày tháng ghi theo
37 trong lịch. Vua cởi voi dắt theo vài chục tùy tùng đi vòng quanh thôn
38 sóc để thu thuế: dân khi nghe 3 hồi chiêng sẽ đến chỗ vua tạm ngừng để
39 nộp thuế, ít nhiều tùy ý chứ không có định mức: nồi đồng, nông sản, vải
40 vóc, sản vật rừng núi đều có thể dùng để nộp thuế. Hai vua đều có màu
41 da đen ngâm và xấu nhƣng vợ và nàng hầu ngƣời nào cũng đẹp, ăn mặc
42 sặc sỡ.

VSTK - 544
1 Khi có vua mới lên nối ngôi thì các tù trƣởng từ các thôn, sóc tề tựu về
2 để lạy chào. Nƣớc Nam Bàn ngày nay là vùng cao nguyên Gia Lai,
3 Pleiku, Kontum, Darlac ở miền Nam nƣớc Việt Nam bây giờ.
4
31
Phan Lung: tức Bình Thuận và Khánh Hoà, nay là Phan Rang
5 thuộc tỉnh Thuận Hải.
6
32
Bô Trì: ĐVSKTT ghi Bố Trì chiếm giữ đƣợc một phần năm (1/5)
7 đất của nƣớc Chiêm Thành cũ.
8
33
Cắt đầu vua Chiêm Trà Toàn: sử sách cũ đều viết rằng vua
9 Chiêm Thành Trà Toàn vì lo buồn mà chết. Lại thêm một trò giết ngƣời
10 dấu tay giống nhƣ nhiều trƣờng hợp khác đƣợc viết ra trong sử cũ. Ở
11 đây, Trà Toàn bị Lê Thánh Tông bắt, đem ra chém đầu tế lễ dâng tù ở
12 thái miếu nhƣng các sử gia dƣới triều đại nhà Hậu Lê lại phải giấu
13 giếm, khuất lấp hành động sát nhân dã man, tàn bạo nầy của Lê Thánh
14 Tông bằng cách cho Trà Toàn bị bệnh lo âu mà chết và do đó Lê Thánh
15 Tông mới cắt bêu đầu để làm lễ dâng tù chứ không phải Lê Thánh Tông
16 ra lệnh giết chết Trà Toàn. Đây là một trò che dấu lấp lửng, hèn hạ và
17 ác độc cần đƣợc phanh phui cho hậu thế.
18
34
Cắt tai của số tù binh bị bắt: Lê Thánh Tông bắt sống đƣợc 3 vạn
19 tù binh Chiêm Thành. Nhƣ vậy, trong lễ dâng tù ở thái miếu, đã có ít
20 nhất là 3 vạn cái tai của tủ binh Chiêm Thành bị cắt đứt một cách tàn
21 ác, vô nhân đạo, một hành động của những hạng ngƣời vô tri, chậm tiến
22 chƣa đƣợc khai hóa.
23
35
Hiến sát sứ: còn gọi là án sát sứ, phụ trách tâu trình các việc đúng
24 sai, điều tra và xét hỏi những việc làm trái phép, tra cứu xét hỏi việc
25 kiên tụng, cứu xét để đề nghị thƣởng phạt cho hàng quan chức và quân
26 binh trong mỗi đạo hoặc thừa tuyên.
27 35bis Ấn định ngạch chức cho những ngƣời đã thi đỗ tiến sĩ: gồm có

28 năm hạng ngạch chức: 1- đệ nhất giáp đệ nhất danh tức là trạng nguyên:
29 đƣợc hàm chánh lục phẩm 8 tƣ; 2- đệ nhị danh tức là bảng nhãn: hàm
30 tòng lục phẩm, 7 tƣ; 3- đệ tam danh tức là thám hoa: hàm chánh thất
31 phẩm, 6 tƣ; 4- đệ nhị giáp tức là hoàng giáp: hàm tòng thất phẩm, 5 tƣ;
32 5- đệ tam giáp tức là tiến sĩ: hàm chánh bát phẩm, 4 tƣ. Tất cả, hạng
33 ngạch khởi đầu đều đƣợc bộ dụng vào viện Hàn Lâm, đƣợc gia một
34 cấp sau đó cứ lấy theo ngạch chức hàm của họ để bổ dụng giữ các chức
35 giám sát ngự sử hoặc tri huyện.
36
36
Thi y khoa: đây là một sử cố rất đặc biệt nhƣng chỉ có ĐVSKTT
37 có ghi chép nhƣng rất sơ lƣợc. Những sách sử khác không thấy ghi về
38 kỳ thi y khoa nầy.
39
37
Định thể lệ thừa tự của con cháu các công thần tự hy sinh vì
40 nhiệm vụ: mỗi công thần sẽ đƣợc ban quan tƣớc cho một ngƣời con
41 hoặc cháu; nếu không có con hay cháu thì cho một ngƣời thân thuộc
42 đƣợc miễn binh dịch và lao dịch để lo việc thờ cúng cho hạng ngƣời
43 công thần nầy.

VSTK - 545
1
38
Lấy cớ cáo buộc Khắc Xƣơng: sau khi Nghi Dân bị hạ bệ, nhóm
2 Lê Lăng, Lê Nhân Thuận định đƣa Khắc Xƣơng lên ngôi vua nhƣng vì
3 nhóm nầy yếu thế cho nên thất bại, phải để cho nhóm Lê Niệm đƣa Lê
4 Thánh Tông lên ngôi; vì vậy Lê Thánh Tông rất ghét nhóm Lê Lăng, Lê
5 Nhân Thuận và Khắc Xƣơng. Sau khi đã vu cáo để giết Lê Lăng và Lê
6 Nhân Thuận, đến nay Lê Thánh Tông lại đặt điều vu cáo cho Khắc
7 Xƣơng là âm mƣu làm phản, tống giam Khắc Xƣơng vào ngục rồi giết
8 đi nhƣng sử quan của Lê Thánh Tông lại lấp liếm viết rằng Khắc
9 Xƣơng vì quá lo âu nên chết bệnh ở trong ngục. Đây là một trò ma giáo
10 giết ngƣời giấu tay mà Lê Thánh Tông thƣờng hay dùng để khỏi bị hậu
11 thế cho mình là kẻ nham hiểm, độc ác và hiếu sát.
12
39
Dựng bia tiến sĩ: các bia nầy bằng đá trinh thạch, một loại đá rất
13 cứng có thể để lâu đời đƣợc. Ngày nay các hàng bia tiến sĩ vẫn còn tồn
14 tại Văn Miếu ở Hà Nội nhƣng đã đƣợc tu bổ và trên có che thêm mái
15 ngói để che nắng mƣa, các hàng cây cổ thụ phía trƣớc các bia nầy đã bị
16 bứng nhổ đi hết để làm lối đi cho khách du lịch.
17
40
Quan văn có trình độ nho học và giỏi viết văn: gồm có Thân
18 Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đào Thuấn Cử, Đàm Văn Lễ chia nhau soạn
19 văn bia.
20
41
Thần Nông: theo truyện cổ tích của ngƣời Hoa, Thần Nông là một
21 ông vua của Trung Quốc thời thƣợng cổ có công dạy cho tổ tiên ngƣời
22 Hoa biết cày cấy trồng trọt.
23
42
Ruộng tịch điền: ở xã Hồng Mai, huyện Thanh Đàm, nay thuộc
24 phƣờng Bạch Mai, quận Hai Bà Trƣng, Hà Nội.
25
43
Ấn định cách thức xƣng hô theo thứ bậc: thân vƣơng tự xƣng là
26 phủ hạ, ngƣời dƣới gọi thân vƣơng là điện hạ; công, hầu, bá, phò mã,
27 nhất phẩm thì kẻ dƣới gọi họ là các hạ; nhị tam phẩm gọi là môn hạ; tứ,
28 ngũ, lục phẩm gọi là đại nhân; thất, bát, cửu phẩm gọi là quan trƣởng.
29 Ai xƣng hô bậy bạ, lộn xộn thì ngƣời gọi và ngƣời nhận đều bị đánh 50
30 roi và phạt 10 quan tiền.
31
44
Sở thủ ngữ kinh lƣợc sứ: thủ ngữ là chức nhiệm trao cho các tù
32 trƣởng ở các vùng biên giới; sở thủ ngữ kinh lƣợc sứ là cơ quan đặt tại
33 một xứ để giám sát việc cai trị những chức nhiệm thủ ngữ.
34
45
Điện Kính Thiên: lời chua trong KDVSTGCM viết: "Theo Cổ Lê
35 dã lục thì điện nầy ở trên đỉnh núi Nùng. Núi Nùng ở trong tỉnh thành
36 Hà Nội "(CB/q.XV/tờ13).
37
46
Phong niên: đƣợc mùa
38
47
Quân đạo: đạo làm vua. .
39
48
Thần tiết: tiết tháo hay tƣ cách của ngƣời làm tôi.
40
49
Minh lƣơng: vua sáng tôi hiền.
41
50
Anh hiền: ngƣời anh tuấn, tài giỏi.
42
51
Kỳ thí: tài lạ.
43
52
Thƣ thảo: viết nhanh, ghi nhanh, phát thảo.
44
53
Văn nhân: là ngƣời có học vấn.

VSTK - 546
1
54
Mai hoa: bông hoa mai..
2
55
Tao đàn: tao là tao nhã, thanh tao, tuyệt diệu; đàn có nghĩa là một
3 hội trƣờng; giống nhƣ văn đàn, tức là một nhóm nhà thơ tao nhã hay
4 nhà văn nổi tiếng lập thành một hội hay một câu lạc bộ.
5
56
Nguyên soái: tức là viên tƣớng chỉ huy, cầm đầu, hay chủ tịch của
6 một tổ chức.
7
57
Hoàng thái hậu chết: là Ngô thị Dao, mẹ ruột của Lê Thánh Tông.
8
58
Lê Thánh Tông ngã bệnh nặng: LTHCLC /Phan Huy Chu viết
9 rằng: "Về già, Lê Thánh Tông vì dâm dục quá nhiều nên mắc tật phong
10 thũng." Vũ Quỳnh khảo luận trong ĐVSKTT nhƣ sau: " Tiếc rằng vua
11 (Lê Thánh Tông) có quá nhiều vợ, phi tần, cung nữ cho nên mắc bệnh
12 nặng. Trường Lạc hoàng hậu Nguyễn thị Hằng (tức là mẹ ruột của vua
13 Lê Hiến Tông) vì bị vua giam nhốt ở cung khác, cho nên đến khi vua
14 ốm nặng mới được cho vào hầu bệnh, bèn ngầm dấu thuốc độc trong
15 tay rồi bôi vào chỗ phong lở trên người của vua, bệnh vua vì thế càng
16 thêm trầm trọng (BK Thực Lục/ q.XIII/tờ 79a,b).
17
59
Mƣời bốn con trai của Lê Thánh Tông: con trƣởng hoàng thái tử
18 tên là Tranh (KDVSTGCM viết là Chanh), các con thứ gồm có 13
19 ngƣời trong đó có một ngƣời tên là Trang (KĐVSTGCM viết là Tranh).
20 Lê Thánh Tông còn có 20 ngƣời con gái, tổng cộng tất cả là 34 ngƣời
21 con.

KHẢO LUẬN:

 LÊ THÁNH TÔNG

22 Từ trƣớc tới nay, ngƣời đọc sử chỉ thấy Lê Thánh Tông là một ông
23 vua đại tài và có ngƣời còn so sánh rằng tài đức của Lê Thánh Tông
24 vƣợt hẳn các vua đƣợc gọi là giỏi của Trung Quốc nhƣ Vũ Đế nhà Hán
25 và Thái Tông nhà Đƣờng; đƣợc sánh ngang với Thiếu Khang nhà Hạ và
26 nối gót Tuyên Vƣơng nhà Chu.
27 Vũ Quỳnh bàn luận về Lê Thánh Tông nhƣ sau: “Vua tư chất cao
28 siêu, anh minh quyết đoán, hùng tài, đại lược, võ giỏi văn hay, siêng
29 năng học tập sách vở của những người hiền, ham đọc sách, bất cứ lãnh
30 vực nào cũng đều thông suốt bao quát. Văn thơ thì vượt hẳn khuôn mẫu
31 của đám văn thần. . .tự xưng là Thiên Nam động chủ, Đạo âm chủ
32 nhân, sùng chuộng nho học, nâng đỡ nhân tài, tuyển chọn được rất
33 nhiều người tài giỏi về cả hai mặt văn, võ để dùng trong việc cai trị,
34 chế tác lễ nhạc, hiệu lệnh văn chương, làm gương cho người đời sau
35 noi theo.
36 Thuở còn làm phiên vương, vua vẫn tự khép giấu tài năng; đến khi
37 nội triều gặp đại biến, các quan thần mới khẩn kíp đến đón lập lên ngôi
38 vua. Hào kiệt lúc khởi đầu đa số đều kính phục. Các tướng lĩnh ỷ công

VSTK - 547
1 cao ngạo lần lượt bị giết nhằm mục đích răn đe triều thần dưới quyền,
2 trong ngoài khắp nơi đều uy nghiêm cẩn mật. Lấy người thân đặt vào
3 các bộ phận chỉ huy, dùng những người bên họ nhà mẹ để đảm trách
4 công việc theo dõi và kiểm soát quân dân. Chọn bề tôi tín cẩn để làm
5 nanh vuốt tay chân bu quanh hầu hạ, vua chỉ cần ra lệnh không cần
6 phải đích thân ra tay mà trong nước vẫn được yên ổn. Vua cho rằng
7 Chiêm Thành là mối đe dọa thường xuyên cho nên cần phải tiêu diệt vì
8 vậy phía Nam thì đánh Trà Toàn để lấn chiếm đất đai của Chiêm
9 Thành, phía Tây thì đánh và quét sạch sào huyệt tộc Nhã Lan, đánh
10 Sơn Man tạo uy thế với phương Bắc, đánh Bồn Man để mở rộng biên
11 giới phía Tây. Quy mô xếp đặt, công nghiệp trung hưng có thể sánh
12 ngang với Thiếu Khang nhà Hạ, nối gót Tuyên Vương nhà Chu mà còn
13 có thể khinh khi Quang Vũ nhà Hán, Hiến Tông nhà Đường là thuộc
14 hạng thấp kém hơn mình vậy.”
15 Trong LTHCLC,Phan Huy Chú viết: “Tư chất và tính khí vua cao
16 sáng, ham học, ham đọc, ham sách vở không biết mệt; kinh sử, lịch số,
17 toán chương đều tinh thông; văn thơ thì lại giỏi hơn các bầy tôi. Về trị
18 nước thì vua tôn trọng Nho thuật, cất nhắc nhân tài, sáng lập chế độ,
19 khôi phục mở mang bờ cõi, van võ tài lược trội hơn các đời trước khiến
20 cho chính trị đời Hồng Đức rất thịnh đạt. Về già vì quá ham mê dâm
21 dục cho nên mắc phải bệnh phong lậu”.
22 Trong KĐVSTGCM, rải rác có những lời phê của vua Tự Đức nhƣ
23 sau:
24 Phê phán việc Lê Thánh Tông vu cáo và giết Lê Lăng: "Vua Thánh
25 Tông còn như thế có lẽ là vì đạo đức chưa được tinh thuần chăng? Thế
26 mà mà cứ ba hoa văn chương, ra điều biện bác để làm gì ?" (CB/q.XIX/
27 tờ 21). Tháng 11 năm Ất Dậu (1465), nhân dịp khánh thành hai điện
28 Kính Thiên và Cần Đức, Lê Thánh Tông ra lệnh đại xá cho dân chúng
29 trong việc nộp tô thuế. Việc nầy, Tự Đức phê là: "Phiếm lạm của công,
30 không thiết thực" (CB/ q.XIX/ tờ 35). Sau đó, vào tháng Giêng năm Bính
31 Tuất (1466), Lê Thánh Tông lại hạ lệnh truy thâu trở lại tô thuế vì Lê
32 Thánh Tông cần tiền để tiêu dùng. Tự Đức phê: "vua Chính lệ đổ nát,
33 mất tín nhiệm với dân" (CB/ q.XX/ tờ 1). Hoặc: "Vua thì mắc bệnh hay
34 thay đổi; bầy tôi thì lại quen thói bợ đỡ đón trước cái ý của nhà
35 vua"(CB/q.XX/ tờ 22).
36 Lê Thánh Tông bắt sử quan phải dâng trình nhật lịch cho mình xem
37 khiến Tự Đức phải phê rằng Lê Thánh Tông là một kẻ hám danh giống
38 nhƣ vua nƣớc Tàu Đƣờng Thái Tông ngày xƣa bắt bầy tôi phải dâng
39 trình nhật lịch để kiểm duyệt việc ghi chép những lời nói và việc làm
40 hằng ngày của vua và triều thần thân cận của vua (CB/q.XX/tờ 27).
41 Hoặc: "Đại để ở đây chép phần nhiều là lời khoa trương" (CB/q.XXII/tờ
42 26).
43 Những nhận định về cá nhân Lê Thánh Tông trong sử sách cũ chỉ

VSTK - 548
1 nói lên đƣợc một cách hời hợt về các thói hƣ tật xấu của Lê Thánh
2 Tông nhƣng lại thổi phòng tài đức và chiến công "xâm lƣợc diệt chủng"
3 của Lê Thánh Tông khiến cho ngƣời đời sau nếu không đào sâu, đọc kỹ
4 thì nhất định là phải gật gù khâm phục và biết ơn công đức của ông vua
5 nầy.
6 Là một kẻ cao ngạo tột bực cho nên Lê Thánh Tông phải nâng cao
7 thân phận và tông tích tộc giống của mình lên ngang hàng với con trời
8 "thiên tử" giống nhƣ những ông con trời bên Trung Quốc bằng cách
9 cho phép Ngô Sĩ Liên đƣa vào chính sử kỷ Hồng Bàng để từ đó cho
10 phối giống giữa thần ma với giống vật bò sát rồng rắn, thuồng luồng mà
11 sinh ra các bậc tiên đế chính thống của dân Đại Việt và từ đó về sau,
12 chỉ có ngƣời nào là con trời, là dòng dõi con rồng, cháu tiên mới có tƣ
13 cách làm vua.
14 Lê Thánh Tông còn là một ngƣời nham hiểm, ác độc, nghi kỵ, hay
15 để tâm trả thù: giết hại oan ức những ngƣời bị coi là không cùng phe
16 nhóm với mình ngay cả anh em cùng một cha với Lê Thánh Tông cũng
17 không nhân nhƣợng. Tệ hại và đáng trách hơn hết là thói xấu giết ngƣời
18 dấu tay của Lê Thánh Tông để khỏi bị mang tiếng là hiếu sát, tàn bạo,
19 phi nhân: cứ mỗi lần thủ tiêu kẻ địch hoặc ngƣời không cùng ý hƣớng
20 với Lê Thánh Tông thì nạn nhân đƣợc ghi là bị đau ốm hoặc vì quá lo
21 lắng mà chết chứ không phải do Lê Thánh Tông ra lệnh giết chết.
22 Lê Thánh Tông là một kẻ hợm mình khoe khoang, tự tôn, tự đại, coi
23 mình nhƣ là bậc thầy trùm khắp thiên hạ bằng các danh xƣng nhƣ Thiên
24 Nam động chủ, Tao Đàn nguyên soái, và bằng các hành động khác nhƣ
25 khảo hạch các ngƣời có học đã đỗ đạt, đánh giá và sa thải các ngƣời
26 thầy dạy học trong hoàng cung. Đối với dân chúng, Lê Thánh Tông
27 không đếm xỉa gì đến họ mà chỉ lo ban phát các đặc quyền đặc lợi cho
28 các bọn cận thần lâu đời giỏi xu nịnh và con cháu của bọn nầy.
29 Trên đây mới chỉ là những nhận xét về cá nhân của Lê Thánh Tông.
30 Chính sách và đƣờng lối cai trị của triều đại Lê Thánh Tông sẽ đƣợc đề
31 cập tới trong phần tổng luận về triều đại nhà hậu Lê.

VSTK - 549
QUYỂN II

THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ


CHƢƠNG VI

L Ê HIẾN TÔNG ( 1497 - 1504 )


Niên hiệu: Cảnh Thống (1498-1504)

1 Đinh Tỵ, tháng 2 (1497), thái tử Tranh lên ngôi tức Lê


2 Hiến Tông, tiếp tục giữ niên hiệu Hồng Đức năm thứ 28, lấy
3 năm kế tiếp Mậu Ngọ (1498) là niên hiệu Cảnh Thống thứ
4 nhất. Tôn mẹ ruột Nguyễn thị Huyên làm hoàng thái hậu ở
5 cung Trƣờng Lạc.
6 Dân Nghệ An bị nạn đói. Lấy lúa từ kho nhà nƣớc cho
7 dân nghèo vay 100 thăng để làm mùa.
8 Đại hạn. Tháng 3, ấn định thể lệ thu thuế mắm muối.
9 Mậu Ngọ, Cảnh Thống năm thứ 1 7 (1428) tháng Giêng,
10 hạ lệnh cho canh giữ cẩn mật các cung điện của vua ở
11 những địa phƣơng ngoài kinh đô gọi là hành tại để mỗi khi
12 vua đi tuần sát đến địa phƣơng nào thì có nơi an toàn và đầy
13 đủ tiện nghi cho vua ở.
14 Tháng 3, định thể lệ nộp thuế tơ tằm.
15 Tháng 5, định thuế bông vải.
16 Tháng 12, ra lệnh các xứ Hải Dƣơng, Sơn Nam, Sơn Tây,
17 Kinh Bắc nộp thóc vào kho chứa ở kinh đô. Mỗi xứ đều phải
18 thu nạp 12,500 học thóc gạo. Các xứ khác, lúa thóc thu nạp
19 đƣợc của dân thì chứa vào kho của nhà nƣớc ở mỗi xứ.
20 Kỷ Mùi, Cảnh Thống năm thứ 2 (1499) tháng 4, định lại
21 điều lệ về thi Hội.
22 Tháng 7, ban hành 24 điều giáo huấn trong kinh đô và
23 ngoài các xứ.
24 Tháng 8, sửa đổi thói lệ về việc mua quan bán tƣớc: từ
25 nay chỉ có những kẻ lƣơng thiện mới đƣợc hƣởng tệ trạng
26 nầy.
27 Cấm không đƣợc kết hôn với đàn bà, phụ nữ ngƣời nƣớc
28 Chiêm Thành để ngƣời Đại Việt đƣợc thuần giống.

VSTK - 550
1 Cấm dân chúng ở Quảng Nam không đƣợc tự tiện mua
2 dân Man làm nô tỳ.
3 Trùng tu chùa Thiên Phúc.
4 Tháng 12, lập con trai thứ ba là Thuần làm hoàng thái tử.
5 Canh Thân, Cảnh Thống năm thứ 3 (1500).
6 Tân Dậu, Cảnh Thống năm thứ 4 (1501) tháng 12, định
7 lại điều lệ thi Hƣơng.
8 Nhâm Tuất, Cảnh Thống năm thứ 5 (1502).
9 Quý Hợi, Cảnh Thống năm thứ 6 (1503), tháng Giêng,
10 tháng 2 hạn hán.
11 Tháng 4 đắp đê sông Tô Lịch, đào cừ Yên Phú.
12 Giáp Tý, Cảnh Thống năm thứ 7 (1504) tháng 5, Lê Hiến
13 Tông vì dâm dục quá độ, ngã bệnh nặng, chết, ở
14 ngôi 7 năm, thọ 44 tuổi, có 6 ngƣời con trai.

KHẢO LUẬN:
15 Vũ Quỳnh viết về Lê Hiến Tông nhƣ sau: “Vua đặc biệt anh minh
16 thông duệ, nhân từ, hòa dịu. Vua thường nói: thánh tổ ta (tức Lê Lợi)
17 v gầy dựng đất nước, vua cha ta sửa trong dẹp ngoài, quy mô đã định
18 sẵn, ta không cần phải thay đổi bày đặt thêm, chỉ cần tuân giữ phép cũ,
19 mở rộng và phát huy thêm để tỏ rõ công đức của ông cha ta mà
20 thôi.”(ĐVSKTT/BK Thực lục/q.14/ tờ 35b).
21 Lời bàn của Vũ Quỳnh quá đầy đủ để cho thấy Lê Hiến Tông chỉ là
22 một ông vua tầm thƣờng không đóng góp đƣợc gì thêm cho đất nƣớc
23 cũng nhƣ không cải thiện đƣợc chút nào cuộc sống cùng khốn của
24 ngƣời dân nghèo lúc đó và cũng lại nối tiếp chính sách kỳ thị và tiêu
25 diệt chủng tộc Chiêm Thành do các vua trƣớc của nhà Hậu Lê chủ
26 xƣớng. Giống nhƣ hầu hết các vua chúa trong các thời đại phong kiến,
27 Lê Hiến Tông rốt cuộc rồi cũng chết vì quá mê đắm sắc dục.

VSTK - 551
QUYỂN II

THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ


CHƢƠNG VII

LÊ TÚC TÔNG ( 1504 - 1505 )


Niên hiệu: Thái Trinh (1505)

1 Tên húy là Thuần, con thứ 3 của Lê Hiến Tông, lên ngôi
2 vua tức Lê Túc Tông, áp dụng niên hiệu mới từ tháng 6 năm
3 Giáp Tý (1504) là Thái Trinh năm thứ 1; tôn bà nội1 là
4 Trƣờng Lạc hoàng thái hậu Nguyễn thị Huyên tƣớc vị đại
5 hoàng thái hậu. Truy tôn cho mẹ ruột đã chết là quý phi
6 Nguyễn thị Ngọc Hoàn2 tƣớc vị Trung Thuận Minh Ý hoàng
7 thái hậu.
8 Giáp Tý, Thái Trinh năm thứ 1 (1504) tháng 12, Lê Túc
9 Tông bệnh nặng, ra di chiếu cho triều thần phò lập con thứ 2
10 của Lê Hiến Tông là Tuấn lên ngôi vua nhƣng đại hoàng
11 thái hậu Nguyễn thị Huyên cho rằng Tuấn là con của ngƣời
12 tỳ thiếp không xứng đáng nối ngôi vua, nhân đó đòi lập một
13 ngƣời con khác của Lê Hiến Tông là Lã Côi vƣơng. Triều
14 thần chỉ yên lặng không bàn luận gì.
15 Giáp Tý, Thái Trinh năm thứ 1, ngày mồng 8 tháng 12 âm
16 lịch (1504), Lê Túc Tông chết, thọ 17 tuổi, ở ngôi chƣa
17 đƣợc 1 năm.
18 Triều thần làm theo di chiếu của Lê Túc Tông, rƣớc
19 ngƣời con thứ 2 của Lê Hiến Tông là Tuấn lên ngôi vua
20 tức Lê Uy Mục.
21
1
Bà nội: tức mẹ ruột của Lê Hiến Tông.
22
2
Nguyễn thị Ngọc Hoàn: ngƣời xã Bình Lăng huyện Thiên Thi thuộc
23 phủ Khoái Châu, nay là huyện Kim Thi, tỉnh Hƣng Yên. Vào hầu cho
24 Lê Hiến Tông từ lúc còn ở cung thái tử. Hiến Tông lên ngôi vua phong
25 cho làm quý phi, sinh ra Lê Hiến Tông nhƣng chết sớm.

VSTK - 552
QUYỂN II

THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ


CHƢƠNG VIII

LÊ UY MỤC ( 1505 - 1509 )


Niên hiệu: Thái Trinh (1505)
Đoan Khánh (1505-1509

1 Ất Sửu, Đoan Khánh năm thứ 1 (1505) tháng 2, Lê Uy


2 Mục lên ngôi vua, truy tôn mẹ Nguyễn thị Cẩn làm Chiêu
3 Nhân Hoằng Ý hoàng thái hậu. Nguyễn thị Cẩn trƣớc đây
4 phải bán mình ở đợ cho ngƣời ta, sau đó bị bắt vào làm nô tỳ
5 trong cung hầu hạ mẹ Lê Hiến Tông; Lê Hiến Tông hám sắc
6 bèn đem về cung cho làm phi, sinh ra Lê Uy Mục rồi chết
7 sớm.
8 Tháng 3, bí mật ám sát Trƣờng Lạc đại hoàng thái hậu
9 Nguyễn thị Huyên vì trƣớc đó bà nầy phản đối việc đặt Lê
10 Uy Mục lên ngôi vua. Để che mắt thế gian về việc làm ám
11 muội nầy, Lê Uy Mục cho nghỉ thiết triều 7 ngày, giả trá
12 chịu tang và cho xây miếu điện để cúng thờ tổ tiên của
13 Nguyễn thị Huyên.
14 Tháng 6, cách chức thƣợng bộ Lễ Đàm văn Lễ và Đô
15 Ngự sử Nguyễn Quang Bật, giam ngục rồi giết đi vì ngày
16 trƣớc vào lúc Lê Hiến Tông sắp chết hai ngƣời nầy đã không
17 phò lập Lê Uy Mục lên ngôi vua nhƣng lại thi hành di chiếu
18 của Lê Hiến Tông để đƣa Lê Túc Tông nối ngôi vua sau khi
19 Lê Hiến Tông chết.
20 Bính Dần, Đoan Khánh năm thứ 2 (1506) tháng Giêng,
21 lập Trần thị Tùng làm hoàng hậu. Trần thị Tùng là con của
22 một ngƣời nguyên là cháu của một vua nhà Trần.
23 Mậu Thìn, Đoan Khánh năm thứ 4 (1508) tháng 2, bổ
24 dụng Mạc Đăng Dung làm đô chỉ huy sứ quản lĩnh vệ quân
25 Thiên Vũ. Dung lúc nhỏ có sức khoẻ, nhà nghèo, làm nghề
26 đánh bắt cá.
27 Đăng Dung thi tuyển đô lực sĩ, đƣợc sung vào đội quân
28 túc trực bảo vệ cung vua, đến nay đƣợc Lê Uy Mục bổ dụng
29 cho chức đô chỉ huy sứ.

VSTK - 553
1 Tháng 10, ngƣời Lô Lô của vƣơng quốc Hắc La La1 đánh
2 phá cửa ải Chu Quan2. Lê Uy Mục sai tƣớng Lê Quýnh và
3 Trần Thúc Mại đem quân đánh dẹp, lập lại ranh giới quan ải
4 rồi rút quân về.
5 Kỷ Tỵ, Đoan Khánh năm thứ 5 (1509) tháng 2, đặt ra hai
6 đội binh voi trận và binh ngựa để hằng ngày biểu diễn đánh
7 nhau làm trò vui giải trí cho Lê Uy Mục. Hằng đêm, Lê Uy
8 Mục chè chén, giởn cợt uống rƣợu đến khi nhừ sai thì rƣợt
9 giết bừa bãi các cung nhân, tỳ nữ.
10 Ở các địa phƣơng thì các thân tộc bên họ ngoại của Lê Uy
11 Mục ỷ thế, dựa hơi mặc tình thao túng, bắt chẹt làm tiền
12 quan lại sở tại, cƣớp giật, giết hại dân chúng, tạo oán hờn
13 khắp nơi.
14 Trong triều thì truy lùng giết hết những cựu thần ngày
15 trƣớc không chịu phò lập Lê Uy Mục.
16 Cho ngƣời ngầm theo dõi những ngƣời trong dòng họ nhà
17 Hậu Lê rồi bắt giam ngƣời anh họ là Giản Tu công Lê Dinh.
18 Kinh vƣơng Lê Kiện con trai út của Lê Thánh Tông mà
19 cũng là chú của Lê Uy Mục vì quá sợ hãi bỏ trốn biệt tích.
20 Nhóm tôn thất và cựu thần đều bị đuổi về xứ Thanh Hóa.
21 Trong triều chỉ còn nhóm họ bên ngoại của Lê Uy Mục tự
22 tung tự tác, làm cho chính sự nghiêng ngửa. Hậu quả là mọi
23 ngƣời vì sống trong tình trạng khủng bố, kìm kẹp, tính mạng
24 luôn bị đe doạ cho nên mầm móng nổi loạn đang âm ỉ manh
25 nha.
26 Lê Uy Mục sai đô đốc Lê Tử Văn, Vũ Cảnh tuần sát
27 vùng đất Quảng Nam và hạ lệnh giết hết các tù binh và
28 ngƣời dân Chiêm Thành hiện bị lƣu đài khổ sai ở đó lấy cớ
29 là kiều dân Chiêm Thành làm nô lệ cho các đám công thần
30 thế gia của nhà Hậu Lê bỏ trốn về nƣớc Chiêm Thành để
31 mƣu định làm phản.
32 Em trai của cố Trƣờng Lạc đại hoàng thái hậu Nguyễn thị
33 Huyên là Nguyễn Văn Lang hợp cùng với tôn thất Lê Năng
34 Cẩn và thủ lĩnh nhóm ngƣời nô lệ ngƣời Chiêm là Chế Mạn,
35 khởi động dân chúng ở ba phủ Tỉnh Gia, Hà Trung, Thiệu
36 Thiên thuộc xứ Thanh Hóa kéo về Tây Đô rồi đem quân trấn
37 giữ cửa biển Thần Phù3 . Giản Tu công Lê Dinh đút lót hối

VSTK - 554
1 lộ cho cai tù và trốn thoát khỏi ngục, chạy thoát đến Tây Đô,
2 đƣợc Nguyễn Văn Lang ra đón lập làm minh chủ4 nhóm
3 khởi xƣớng nổi loạn rồi cùng với Nguyễn Diễn, Ngô Khế,
4 Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm hợp với những viên quan ở Thanh
5 Hoá là tổng binh Nguyễn Bá Tuấn, thừa tuyên sứ Lê Tung,
6 tham chính Nguyễn Thì Ung khởi binh tiến quân về Tây đô,
7 giả xƣng là quân của Cẩm Giang vƣơng Lê Sùng.
8 Lê Uy Mục nghe tin liền bắt mẹ, em trai và anh của Lê
9 Dinh là Cẩm Giang vƣơng Lê Sùng giết đi rồi sai thủ hạ
10 thân cận đem quân triều đình đón đánh quân nổi loạn ở núi
11 Thiên Kiện5 nhƣng quân của Lê Uy Mục bị thua, các tƣớng
12 đều bị quân nổi loạn giết chết.
13 Tháng 12, quân nổi loạn chiếm xã Bảo Đà6 và xã Hồng
14 Mai7. Tình thế nguy cấp, Lê Uy Mục giao quyền chỉ huy
15 quân sự cho hai tƣớng Trình Chí Sâm và Lê Quảng Độ, ra
16 lệnh thả tù nhân rồi đem tiền dụ những tù nhân nầy tình
17 nguyện làm lính đánh giặc nhƣng chẳng ai theo.
18 Lê Uy Mục lại cử ngƣời đi cầu viện binh từ các xứ Lạng
19 Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bang nhƣng không
20 còn kịp vì quân nổi loạn của Lê Dinh đã tiến đến Bồ Đề8 ở
21 bờ phía Bắc sông Nhị Hà, sát Đông Đô. Quan quân triều
22 đình bỏ thành chạy trốn; hoàng hậu của Lê Uy Mục chạy ra
23 xã Hồng Mai rồi tự treo cổ chết. Tƣớng Lê Quảng Độ bấy
24 giờ quay theo nhóm loạn quân làm nội ứng từ trong thành
25 đánh ra, ngoài thành quân của Lê Dinh đánh vào, đuổi Lê
26 Uy Mục chạy sang cửa Bắc thành Đông Đô. Lê Huy Mục
27 chạy đến phƣờng Nhật Chiêu9 thì bị một tên vệ sĩ đi theo bắt
28 trói đem nạp cho Lê Dinh. Lê Dinh vì quá căm hận Lê Huy
29 Mục giết hại mẹ và anh em mình cho nên xử tội Lê Huy
30 Mục hình phạt phanh thây rồi đem thiêu đốt hết hài cốt10, chỉ
31 cho lấy một ít tro tàn của Lê Uy Mục đem chôn mà thôi.Tên
32 vệ sĩ đã bắt nạp Lê Uy Mục cũng bị Lê Dinh giết vì bị khép
33 tội là kẻ bất nghĩa.

34
1
Vƣơng quốc Hắc La La: ngày xƣa ở 1 vùng của tỉnh Vân Nam nƣớc
35 Tàu bây giờ.
36
2
Cửa ải Chu Quan: ở châu Thủy Vĩ, xứ Hƣng Hóa.

VSTK - 555
1
3
Cửa biển Thần Phù: cửa biển nầy ngày nay đã bị đất bồi phủ lấp
2 nhƣng dấu vết cũ vẫn còn tìm thấy ở huyện Yên Mô, nay thuộc huyện
3 Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.
4
4
Minh chủ: ngày xƣa, những nhóm ngƣời cùng liên kết với nhau để
5 thực hiện một chƣơng trình hoặc một mƣu đồ tranh giành quyền lực thì
6 nhóm ngƣời nầy thƣờng uống máu ăn thề đoàn kết: họ chọn một ngƣời
7 nào có uy thế trong nhóm để suy tôn lên chủ trì việc tế lễ thề nguyền và
8 gọi ngƣời đó là minh chủ.
9
5
Núi Thiên Kiện: còn gọi là núi Địa Cận, ở xã Thiên Kiện, huyện
10 Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ngày nay.
11
6
Xã Bảo Đà: thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội; nay thuộc tỉnh Hà Tây.
12
7
Xã Hồng Mai: thuộc huyện Thọ Xƣơng, Hà Nội; nay đổi là Bạch
13 Mai.
14
8
Bồ Đề: tức xã Bồ Đề, ở về phía bờ bắc sông Nhị Hà; nay thuộc huyện
15 Gia Lâm ở ngoại thành Hà Nội.
16
9
Phƣờng Nhật Chiêu : nay là phƣờng Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà
17 Nội.
18
10
Phanh thây, thiêu hủy hài cốt Lê Uy Mục: sử sách cũ đều đồng loạt
19 viết rằng Lê Uy Mục tự tử chết và sau đó bị Lê Dinh dùng súng trọng pháo bắn
20 cho tan xác.

KHẢO LUẬN:
21 Giống nhƣ tất cả các đám vua chúa ở bất cứ thời đại phong kiến
22 nào ngày trƣớc, Lê Uy Mục là một kẻ ăn chơi, dâm dật, bạo ngƣợc, bè
23 phái, gia đình trị, bốc lột và nham hiểm, chẳng làm đƣợc lợi ích gì cho
24 nhân dân.
25 Ngoài ra Lê Uy Mục còn là một kẻ kỳ thị, diệt chủng tàn ác khủng
26 khiếp nhất trong số những kẻ kỳ thị, diệt chủng nổi tiếng của dòng họ
27 nhà Hậu Lê: tàn sát hết một loạt binh lính và kiều dân Chiêm Thành bị
28 bắt làm tù binh đƣa đi các trại tập trung khổ sai ở Quảng Nam; đây là
29 một tội đại ác đối với nhân loại và tạo thành một mối hận thù truyền
30 kiếp giữa hai dân tộc Chiêm Thành và Việt Nam.

VSTK - 556
QUYỂN II

THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ


CHƢƠNG IX

LÊ TƢƠNG DỰC ( 1510 - 1516 )


Niên hiệu: Hồng Thuận (1510-1516)

1 Lê Dinh lên ngôi vua tức Lê Tƣơng Dực, đổi niên hiệu là
2 Hồng Thuận năm thứ 1. Truy tôn cho cha là Kiến vƣơng Lê
3 Tân làm Kiến hoàng đế, cho mẹ là Trịnh thị Tuyên làm
4 hoàng thái hậu. Thƣởng công cho những ngƣời đã theo phò
5 tá Lê Dinh lên ngôi vua, phong cho Nguyễn Văn Lang làm
6 Nghĩa quốc công, Lê Quảng Độ làm Thiệu quốc công, Lê
7 Phụ làm Lƣợng quốc công, Lê Bá Lân làm Uy quốc công,
8 Trịnh Duy Đại làm Văn quốc công, Trịnh Hựu làm Thọ
9 quận công, Lê Tung làm Lại bộ thƣợng thƣ. Trịnh Duy Sản
10 làm Mỹ Huệ hầu và những ngƣời khác đều đƣợc ban thƣởng
11 theo thứ bậc khác nhau.
12 Tháng 4, hoạn quan thái giám Nguyễn Khắc Hài mƣu đảo
13 chính, Lê Tƣơng Dực sai Trịnh Hựu đem quân dẹp trừ, giết
14 hết nhóm đảo chính.
15 Nƣớc Ai Lao xin thần phục nhƣng bị Lê Tƣơng Dực từ
16 khƣớc không nhận.
17 Tháng 10, gọi Lƣơng Đắc Bằng trở lại triều chính và trao
18 chức vụ cho nhƣng Bằng từ chối không nhận mà chỉ đề nghị
19 lên Lê Tƣơng Dực 14 kế hoạch và chính sách cai trị1.
20 Thăng chức thêm nữa cho Lê Quảng Độ làm Bình chƣơng
21 quân quốc trọng sự, nắm giữ tất cả chính quyền trong nƣớc.
22 Tân Mùi, Hồng Thuận năm thứ 3 (1511) tháng 2, Thân
23 Duy Nhạc nổi loạn nhƣng bị bắt đƣa về kinh đô xử tội chết.
24 Tháng 3, thi Hội.
25 Tháng 4, sách Đại Việt thông giám do Vũ Quỳnh biên
26 soạn và hoàn tất, gồm 26 quyển, từ thời Hồng Bàng đến thời
27 12 sứ quân làm Ngoại Kỷ; từ thời Đinh Tiên Hoàng đến

VSTK - 557
1 những năm đầu Lê Lợi Thái Tổ làm Bản Kỷ. Lại sai Lê
2 Tung viết bài Tổng luận cho sách nầy.
3 Phong cho Mạc Đăng Dung tƣớc Vũ Xuyên Bá.
4 Lấy điển lệ của các triều trƣớc có liên hệ đến phong tục
5 tập quán và chính sách cai trị để biên soạn thành sách Trị
6 bình bảo phạm2 phát hành cho cả nƣớc, gồm 50 điều.
7 Tháng 5, phong thêm chức tể tƣớng cho Lê Phụ và
8 Nguyễn Văn Lang.
9 Tháng 11, Trần Tuân ở Sơn Tây nổi loạn, tiến sát đến
10 huyện Từ Liêm. Trịnh Duy Sản đƣợc lệnh đi đánh dẹp, lúc
11 đầu bị thua khiến quân dân kinh đô nhốn nháo, náo động.
12 Nguyễn Văn Lang dự định hộ tống Lê Tƣơng Dực chạy vào
13 Thanh Hóa nhƣng sau đó Trịnh Duy Sản đã tập hợp tàn quân
14 phản công và giết đƣợc Trần Tuân, Nguyễn Văn Lang đƣa
15 quân truy đuổi, loạn quân tan vỡ. Trịnh Duy Sản đƣợc thăng
16 phong làm Nguyên quận Công; quan quân dƣới quyền của
17 Trịnh Duy Sản ai giết và cắt đƣợc nhiều tai của loạn quân
18 trình nộp đều đƣợc ban thƣởng hoặc thăng chức rất trọng
19 hậu: cách xét thƣởng công trong quân đội theo kiểu cắt tai
20 nầy bắt đầu có từ ngày đó.
21 Đỗ Nhạc và 11 ngƣời khác có công ở lại lo việc cố thủ
22 Kinh thành cũng đƣợc biểu dƣơng, khen thƣởng.
23 Định mức thuế vàng và thuế bạc: mỗi năm các nơi trong
24 nƣớc phải thu nộp về riêng cho vua tiêu phí: vàng 10 hạng
25 tốt:449 lạng, vàng 10 hạng thƣờng: 2900 lạng; bạc 10 hạng
26 tốt: 6124 lạng.
27 Nhâm Thân, Hồng Thuận năm thứ 4 (1512) tháng Giêng,
28 sai Đỗ Nhạc tuần tra Sơn Tây, Hƣng Hoá và bình định, tiêu
29 diệt đám quân tàn dƣ của Trần Tuân.
30 Lê Hy, Trịnh Hƣng và Lê Minh Triệt khởi dậy nổi loạn ở
31 Nghệ An. Trịnh Duy Sản và Đỗ Nhạc đƣợc sai đi đánh dẹp,
32 giết đƣợc Lê Minh Triệt, bắt sống Lê Hy và Trịnh Hƣng.
33 Hạn hán; dân bị nạn đói. Ra lệnh bắt dân lao dịch để khởi
34 công xây cất, làm đi làm lại cung điện quy mô và đài cao
35 trăm nóc. Dân công đi lao dịch bị đau ốm chết chóc rất
36 nhiều với công tác xây cất kéo dài nầy.

VSTK - 558
1 Quý Dậu, Hồng Thuận năm thư 5 (1513) tháng Giêng,
2 Nguyễn Văn Lang chết đƣợc truy tặng tƣớc vƣơng.
3 Sứ nhà Minh sang phong tƣớc An Nam quốc vƣơng cho
4 Lê Tƣơng Dực và đƣa lời nhận định rằng Lê Tƣơng Dực đa
5 dâm giống nhƣ loài heo.
6 Tháng 2, xây dựng điện Mục Thanh và hai miếu điện
7 Đông, Tây kề cận với điện Mục Thanh3 để phụng thờ tổ tiên
8 nhà Hậu Lê.
9 Tháng 6, nƣớc lũ làm vỡ đê ở phƣờng Yên Hoa, tràn ngập
10 Hồ Tây.
11 Giáp Tuất, Hồng Thuận năm thứ 6 (1514) tháng 5, đắp bờ
12 thành cao cắt ngang sông Tô Lịch rồi xây cất hoàng thành ở
13 phía trên; cửa thông nƣớc phía dƣới bờ thành xây bằng gạch
14 đá với song sắt chắn ngang suốt khổ rộng của cửa. Lại sai
15 thợ vẽ kiểu làm thuyền chiến, rồi bắt đám nữ nô tỳ trần
16 truồng khỏa thân chèo thuyền du ngoạn trên Hồ Tây.
17 Ất Hợi, Hồng Thuận năm thứ 7 (1515) tháng 2, Lê Tƣơng
18 Dực sau khi xem tập trận ở Định Công4bis, đến nhà Lê thị
19 làm chuyện dâm dật; Lê thị nguyên là một trong những
20 ngƣời vợ cũ của Lê Uy Mục. Lại làm trò dâm dật với vợ lẻ
21 của Kiến vƣơng Lê Tân, cha ruột của Lê Tƣơng Dực.
22 Bính Tý, Hồng Thuận năm thú 8 (1516) tháng Giêng, Lê
23 Tƣơng Dực đích thân đem quân bình định quân nổi loạn
24 Trần Công Ninh ở Yên Lãng5.
25 Tháng 3, Trần Cao6 tự xƣng là Đế Thích, chiêu mộ dân
26 chúng nổi loạn ở xã Hà Lôi, huyện Đông Triều, chiếm các
27 huyện Tiên Du, Quế Dƣơng, Gia Lâm, tiến quân sát đến Bồ
28 Đề. Lê Tƣơng Dực đích thân điều động binh tƣớng chận
29 đánh. Trần Cao thua chạy đến Trâu Sơn7.
30 Trong lúc Lê Tƣơng Dực đang bận rộn đối phó với giặc
31 Trần Cao thì Trịnh Duy Sản, Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm
32 mƣu việc phế lập vì nhóm nầy không đƣợc Lê Tƣơng Dực
33 trọng dụng8. Nhóm âm mƣu sửa soạn thuyền bè, quân lính ở
34 bến Thái Cực9, rêu rao là đi chận đánh giặc Trần Cao rồi vào
35 lúc nửa đêm mang hơn 3,000 binh vào cửa Bắc Thần chận
36 đón giết Lê Tƣơng Dực nơi Hồ Chu Tƣớc10, phƣờng Bích

VSTK - 559
1 Câu11. Vợ của Lê Tƣơng Dực là Khâm Đức hoàng hậu
2 Nguyễn thị Đạo nhảy vào lửa tuẩn tiết.

CHÚ GIẢI:
3
1
Kế Hoạch và chính sách do Lƣơng Đắc Bằng đề nghị: trƣớc đây
4 Lƣơng Đắc Bằng giữ chức thị lang ở bộ Lại xin từ bỏ quan chức vì gia
5 đình có tang. Nay đƣợc Lê Tƣơng Dực mời gọi trở lại làm việc nhƣng
6 Đắc Bằng lấy cớ còn tang chế để từ chối và đƣa ra 14 điều cố vấn cho
7 Lê Tƣơng Dực nhƣ sau: 1) Phải luôn cảnh giác, răn ngừa. 2) Phải thành
8 tâm hiếu đạo. 3) Xa lánh nữ sắc, dâm ô. 4) Không dùng bọn siểm nịnh.
9 5) Không tặng phong quan tƣớc bừa bãi. 6) Kén chọn, bổ dụng quan lại
10 một cách công bằng. 7) Tiết kiệm không phung phí. 8) Khen thƣởng
11 ngƣời tiết nghĩa. 9) Diệt trừ tham ô, hối lộ, đút lót. 10) Chỉnh đốn quân
12 bị. 11) Chọn ngƣời chính trực vào ngự sử đài. 12) Nới nhẹ việc bắt dân
13 lực dịch. 13) Hiệu lệnh phải đúng và uy tín.. 14) Chế độ luật pháp phải
14 nghiêm minh cẩn trọng.
15
2
Sách Trị bình bảo phạm : có nghĩa là sách dạy về những khuôn
16 phép quý báu để bình định và cai trị. Sử sách cũ ghi sách nầy gồm có
17 50 điều nhƣng ĐVSKTT, KĐVSTGCM chỉ ghi ra 6 điều, LTHCLC ghi
18 ra có 4 điều, không thấy có sách nào đề cập nội dung toàn bộ 50 điều
19 của sách nầy. Một cách đại lƣợc, các huấn điều đƣợc ghi ra có nội dung
20 nhƣ: bề tôi phải trung thành với vua, không đƣợc a dua nịnh hót để mƣu
21 cầu lợi lộc, tƣớc vị; công thần đƣợc mang họ vua phải khéo dạy bảo
22 con cái không đƣợc để chúng ỷ thế kiêu căng, nhiễu hại ngƣời dân . . ..
23 …..Ngoài ra, ĐVSKTT và LTHCLC còn có ghi toàn văn bài dụ của Lê
24 Tƣơng Dực ở đầu sách Trị bình bảo phạm. Bài dụ nầy không thấy ghi
25 trong KĐVSTGCM.
26
3
Điện Mục Thanh: ở phía trƣớc điện Phụng Thiên.
27
4
Phƣờng Yên Hoa: nay là phƣờng Yên Phụ, Hà Nội.
28 4 bis Định Công: thuộc huyện Thanh Trì, nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
29
5
Yên Lãng: thuộc phủ Vĩnh Tƣờng, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện
30 Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phú và huyện Sóc Sơn, Hà NộI
31
6
Trần Cao : ngƣời làng Đƣờng Chân, huyện Thủy Đƣờng, nay là
32 huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.
33
7
Trâu Sơn: ở xã Trâu Cầu, huyện Quế Dƣơng, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh
34 nay là huyện Quế Vỏ, tỉnh Hà Bắc.
35
8
Âm mƣu truất phế Lê Tƣơng Dực: Trịnh Duy Sản thƣờng hay can
36 gián làm trái ý và khiến Lê Tƣơng Dực bực tức nổi giận, bắt phạt đánh
37 Duy Sản bằng trƣợng.
38
9
Bến Thái Cực: phƣờng Thái Cực, huyện Thọ Xƣơng, phủ Hoài Đức,
39 Hà Nội; nay là phố Hàng Đào, Hà Nội.
40
10
Hồ Chu Tƣớc: ở phƣờng Bích Câu.

VSTK - 560
1
11
Phƣờng Bích Câu: ở huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, Hà Nội; nay
2 thuộc về quận Đống Đa, Hà Nội.

KHẢO LUẬN:
3 Lời bàn trong ĐVSKTT viết về Lê Tƣơng Dực nhƣ sau: "Linh Ẩn
4 vương (tức Lê Tƣơng Dực sau khi bị giết và giáng chức) gian dâm với
5 vợ lẻ của cha mình, để tang cha mẹ vài ngày cho có lệ, gian ngoa mượn
6 tên anh mình để cướp nước của người khác, xa hoa dâm dục quá độ,
7 hình phạt năng nề, thuế khóa chồng chất, ám sát giết hại thân tộc, giặc
8 loạn nổi lên tứ phía, người thời ấy gọi là con heo làm vua {BKTL/ q.XV/
9 tờ 29a}.
10 Nếu chỉ đọc và xét lời dụ của Lê Tƣơng Dực và 6 điều giáo huấn
11 trong sách Trị bình Bảo phạm thì mọi ngƣời đời phải cuối đầu khâm
12 phục và ghi ơn ông vua nầy. Tuy nhiên, căn cứ vào những điều mà sử
13 sách cũ đã ghi chép, ngƣời đời sau nhất định sẽ phải chán ngán lắc đầu:
14 trong suốt quá trình của thời đại phong kiến, có rất nhiều con heo
15 giống nhƣ con heo Lê Tƣơng Dực; những con heo nầy thƣờng hay
16 mặc áo choàng của ngƣời đạo đức để làm những điều ác độc, dâm ô,
17 trái nghĩa. Qua 14 điều cố vấn của mình, Lƣơng Đắc Bằng đã nhìn thấy
18 rõ đƣợc chân tƣớng của Lê Tƣơng Dực cho nên đã tìm cách thoái thác
19 không hợp tác với loài súc sinh.

VSTK - 561
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ
CHƢƠNG X

LÊ CHIÊU TÔNG ( 1516 - 1526 )


Niên hiệu: Quang Thiệu (1516-1526)

1 Sau khi đã giết Lê Tƣơng Dực, nhóm đảo chính Trịnh


2 Duy Sản đƣa con trai của Mục Ý vƣơng Lê Doanh1 là Lê
3 Quang Trị mới đƣợc 8 tuổi lên ngôi vua.
4 Ba ngày sau, con trai của Nguyễn Văn Lang là An Hoà
5 Hầu Nguyễn Hoằng Dụ nghe tin nhóm Trịnh Duy Sản giết
6 Lê Tƣơng Dực liền nổi giận, đem quân từ Bồ Đề vƣợt sông
7 tiến vào kinh thành Đông Đô đánh phá.
8 Nhóm Trịnh Duy Sản bèn giao Lê Quang Trị cho Trịnh
9 Duy Đại đƣa vào Tây Đô rồi giết đi. Trịnh Duy Sản và Lê
10 Nghĩa Chiêu liền phò lập con trai trƣởng của Cẩm Giang
11 vƣơng Lê Sùng2 tên là Lê Y, lên ngôi vua tức Lê Chiêu
12 Tông, đƣa Lê Chiêu Tông về Tây Đô để né tránh quân binh
13 của Nguyễn Hoằng Dụ.
14 Lê Quảng Độ cũng bỏ chạy đến đầu hàng Trần Cao. Trần
15 Cao liền khởi binh tiến về Đông Đô. Nguyễn Hoằng Dụ
16 không thể chống cự phải rút quân chạy về Tây Đô đầu thú
17 Lê Chiêu Tông. Dân chúng trong Đông Đô náo loạn cƣớp
18 giật, đốt phá khắp nơi.
19 Ngày 11 tháng 4 năm Bính Tý (1516), Trần Cao vƣợt
20 sông Nhị Hà, vào chiếm kinh thành Đông Đô, tự xƣng vua,
21 đổi niên hiệu là Thiên Ứng, phong cho Lê Quảng Độ chức
22 phụ chính cùng cai trị.
23 Lê Chiêu Tông từ Tây Đô hô hào, xƣớng xuất quân dân
24 từ 3 phủ Thiệu đả Thiên3, Hà Trung4 và Tỉnh Gia5 tiến thẳng
25 về bao vây Đông Đô. Trần Cao đóng cửa thành cố thủ
26 nhƣng quân của Trịnh Duy Sản và Nguyễn Hoằng Dụ dốc
27 sức phá thành. Trần Cao không có quân tiếp viện bèn bỏ
28 thành, vƣợt sông Thiên Đức chạy trốn lên Lạng Nguyên6.
29 Ngày 24 tháng 4 năm Bính Tý (1516), Lê Chiêu Tông
30 đóng bản doanh ở xã Thanh Đàm. Ngày 25 Nguyễn Thì Ung

VSTK - 562
1 và Đỗ Nhạc đón Lê Chiêu Tông trở về Đông Đô, đổi niên
2 hiệu là Quang Thiệu năm thứ 1, ra lệnh đại xá.
3 Tháng 11, sai Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ đƣa
4 quân bình định và truy lùng tàn quân của Trần Cao ở vùng
5 núi Trâu, huyện Chí Linh. Trịnh Duy Sản bị Trần Cao bắt,
6 giết đi. Trần Cao thừa thắng tràn quân xuống đến Bồ Đề
7 nhƣng lại bị tƣớng của Lê Chiêu Tông là Trần Chân7 đón
8 đánh tan cho nên Cao lại phải chạy đi trốn lánh ở Lạng
9 Nguyên và từ đó không ra đánh nữa.
Đinh Sửu, Quang Thiệu năm thứ 2(1517) tháng 7,
Nguyễn Hoằng Dụ và em của Trịnh Duy Sản là Trịnh Tuy vì
hiềm khích, đƣa quân lính của mình đánh lẫn nhau. Lê
Chiêu Tông giải hòa không đƣợc, rồi lại nghe lời đồn đãi xúi
giục của Nguyễn Văn Lự sai bắt anh của Trịnh Duy Sản là
Trịnh Duy Đại giết đi.
10 Lê Chiêu Tông lại lần lƣợt sai Nguyễn Công Độ và Mạc
11 Đăng Dung đem quân truy đuổi Nguyễn Hoằng Dụ phải
12 thua bỏ chạy vào xã Thuần Hựu8 ở Thanh Hóa.
13 Con nuôi của Trịnh Duy Sản là Trần Chân9 ủng hộ Trịnh
14 Tuy cũng cất quân đánh Nguyễn Hoằng Dụ và đƣợc Lê
15 Chiêu Tông phong tƣớc Thiết Sơn Bá lại cho nắm giữ nhiều
16 quyền bính. Đặt Trịnh Tuy trấn giữ Sơn Nam.
17 Tháng 12, Lê Quảng Độ bị bắt giải về kinh đô xử tội chết.
18 Đói lớn, dân chúng bị chết khắp nơi nhất là ở các huyện
19 Đông Triều, Giáp Sơn thuộc Hải Dƣơng và ở các huyện Yên
20 Phong, Tiên Du, Đông Ngàn thuộc Kinh Bắc.
21 Mậu Dần, Quang Thiệu năm thứ 2 (1518) tháng 7, Lê
22 Chiêu Tông nghe lời gièm pha, sợ Trần Chân lộng quyền
23 cho nên ra lệnh bắt và giết đi.
24 Bộ hạ bè đảng của Trần Chân là Hoàng Duy Nhạc,
25 Nguyễn Kính, Nguyễn Áng hay tin Trần Chân bị Lê Chiêu
26 Tông giết hại liền tụ tập quân binh xong vào đánh phá kinh
27 thành. Lê Chiêu Tông phải trốn lánh sang dinh Bồ Đề ở Gia
28 Lâm. Nghe kinh thành có bạo loạn, quân của Trịnh Tuy ở
29 Sơn Nam tự động bỏ hàng ngũ đi hết.
30 Lê Chiêu Tông lại cho ngƣời đến huyện Thuần Hựu ở
31 Thanh Hóa để kêu gọi Nguyễn Hoằng Dụ đƣa quân tiếp viện

VSTK - 563
1 ra đánh nhóm nội loạn Hoàng Duy Nhạc nhƣng Nguyễn
2 Hoằng Dụ không hƣởng ứng lời kêu gọi của Lê Chiêu Tông.
3 Cuối cùng, Lê Chiêu Tông phải cầu cứu với Mạc Đăng
4 Dung ở Hải Dƣơng. Mạc Đăng Dung yêu cầu Lê Chiêu
5 Tông dời hành dinh từ xã Dƣơng Quang10 thuộc huyện Siêu
6 Loại11 về Bồ Đề rồi cho ngƣời bí mật điều đình chiêu dụ
7 nhóm nổi loạn12 nhƣng không thành công, đám nổi loạn vẫn
8 không chịu giải tán rút quân ra khỏi kinh thành.
9 Tháng 9, Mạc Đăng Dung đề nghị rút hành dinh từ Bồ Đề
10 về Bảo Châu13 để tránh xa áp lực của quân nổi loạn.
11 Đỗ Nhạc và Nguyễn Dự can gián không nên dời đi. Mạc
12 Đăng Dung sai bộ hạ bắt hai ngƣời giết đi rồi cứ đƣa Lê
13 Chiêu Tông về Bảo Châu.
14 Từ đây mọi quyền hành đều nằm trong tay của họ Mạc.
15 Hay tin Mạc Đăng Dung đã đƣa Lê Chiêu Tông về Bảo
16 Châu, Trịnh Tuy cùng với Nguyễn Sƣ14 liên kết với nhóm
17 làm loạn Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc lập
18 cháu nội của Lê Khắc Xƣơng14bis tên là Lê Bảng15 lên làm
19 vua, lấy niên hiệu là Thiên Đức nhƣng lại truất phế đi rồi
20 đƣa em của Lê Bảng là Lê Do lên ngôi, đổi niên hiệu là
21 Thiên Hiến, đặt quan chức triều đình ở Do Nha16, huyện Từ
22 Liêm.
23 Lê Chiêu Tông từ Bảo Châu lại sai ngƣời vào Thanh Hóa
24 để chiêu dụ và cầu viện binh của Nguyễn Hoằng Dụ.
25 Nguyễn Hoằng Dụ đem quân của mình từ Thanh Hóa về
26 hợp với quân của Mạc Đăng Dung ở Sơn Nam để tiến đánh
27 nhóm Nguyễn Áng, Nguyễn Kính ở Sơn Tây nhƣng bị thua
28 to, Nguyễn Hoằng Dụ bỏ cuộc, rút quân của mình chạy trở
29 về Thanh Hoá, chỉ còn một mình Mạc Đăng Dung cầm cự
30 với nhóm Trịnh Tuy, Nguyễn Áng.
31 Tháng 10, Lê Chiêu Tông giao hết binh quyền cho Mạc
32 Đăng Dung thống lĩnh.
33 Trong nƣớc giờ đây có hai vua, hai triều đình đối địch
34 nhau với 2 niên hiệu khác nhau: triều đình của Lê Chiêu
35 Tông ở Bảo Châu với niên hiệu Quang Thiệu và triều đình
36 Lê Do ở Do Nha với niên hiệu Thiên Hiến.

VSTK - 564
1 Kỷ Mão, tháng Giêng (1519), Lê Chiêu Tông đem lực
2 lƣợng quân bị về Bồ Đề. Trịnh Tuy cho quân bắt cầu vƣợt
3 qua sông đón đánh quân của Lê Chiêu Tông nhƣng Trịnh
4 Tuy bị thua phải đƣa Lê Do chạy về Yên Lãng16bis.
5 Tháng 7, Mạc Đăng Dung đƣa quân thủy bộ vây đánh, bắt
6 đƣợc vua Lê Do, Nguyễn Áng và Nguyễn Sƣ ở Ninh Sơn,
7 đem giết đi. Trịnh Tuy rút chạy về Thanh Hóa. Nguyễn Kính
8 và Hoàng Duy Nhạc đầu hàng đƣợc Mạc Đăng Dung che
9 chở và thu nạp để làm vây cánh.
10 Tháng 9 năm Kỷ Mão, Lê Chiêu Tông trở về Đông Đô.
11 Ra lệnh đại xá, phong cho Mạc Đăng Dung làm Minh quận
12 công.
13 Canh Thìn, Quang Thiệu năm tứ 5 (1520) tháng Giêng,
14 Mạc Đăng Dung đƣợc giao nắm quyền Tổng chỉ huy quân
15 đội trong khắp cả nƣớc và Phạm Gia Mô, thông gia của Mạc
16 Đăng Dung, giữ chức cố vấn quân sự17.
17 Tháng 4, cho dựng bia tiến sĩ khoa Giáp Tuất, niên hiệu
18 Hồng Thuận năm thứ 6 (1514). Tháng 8, truy tặng tƣớc
19 Thiếu Bảo cho Đỗ Nhạc trƣớc đây bị Mạc Đăng Dung giết.
20 Tân Tỵ, Quang Thiệu năm thứ 6 (1521) tháng 7, con của
21 Trần Cao là Trần Cung18 tiếp nối nghiệp cha tự xƣng vua ở
22 Lạng Nguyên. Mạc Đăng Dung đem quân bình định, bắt giết
23 hết vợ con của Trần Cung. Trần Cung một mình chạy trốn
24 vào châu Thất Nguyên.
25 Mạc Đăng Dung đƣợc Lê Chiêu Tông tuyên dƣơng công
26 trạng và thăng tƣớc Thái phó. Hậu thuẫn quân lực của Mạc
27 Đăng Dung càng ngày càng thêm mạnh, đa số triều thần đều
28 khuất phục, lòng ngƣời dân bắt đầu hƣớng về họ Mạc.
29 Nhâm Ngọ, Quang Thiệu năm thứ 7 (1522), uy quyền của
30 Mạc Đăng Dung ngày càng đƣợc củng cố khiến cho Lê
31 Chiêu Tông lo sợ bèn ngầm cùng đám nội quan Phạm Hiến,
32 Phạm Thứ bàn mƣu tính kế để triệt hạ Mạc Đang Dung, bí
33 mật cho ngƣời vào Thanh Hóa cầu viện Trịnh Tuy đem quân
34 ra yểm trợ rồi đến đêm cùng với đám nội quan rời kinh
35 thành chạy ra xã Mộng Sơn19 thuộc huyện Minh Nghĩa, Sơn
36 Tây, bỏ lại mẹ và ngƣời em của Lê Chiêu Tông tên là Xuân.

VSTK - 565
1 Mạc Đăng Dung sai Hoàng Duy Nhạc truy đuổi. Quân
2 hộ vệ Lê Chiêu Tông kháng cự, bắt đƣợc Hoàng Duy
3 Nhạc, giết chết.
4 Mạc Đăng Dung liền cùng với triều thần bàn định lập em
5 của Lê Chiêu Tông là Xuân lên làm vua rồi dời hành dinh
6 đến huyện Gia Phúc20 thuộc Hải Dƣơng, lập phòng tuyến
7 Cẩm Giàng21 và đặt em rể là Vũ Hộ trấn giữ mạng Sơn Tây.
8 Nhóm trung thành với Lê Chiêu Tông22 từ mạn Bắc
9 Giang đƣa viện quân tiến về vùng sông Tây Kiều ở huyện
10 Đông Ngàn để giao tranh với quân binh của Mạc Đăng
11 Dung nhƣng bị Phạm Tại phản bội trở cờ về theo Mạc Đăng
12 Dung quay đánh lại, nhóm trung thành với Lê Chiêu Tông bị
13 thua, bỏ chạy về mạn Bắc.

VSTK - 566
QUYỂN II
THỜI KỲ NHÀ HẬU LÊ
CHƢƠNG XI

LÊ CUNG HOÀNG ( 1522 - 1527 )


Niên hiệu: Thống Nguyên

1 Tháng 8, năm Nhâm Ngọ (1522), Nhóm Mạc Đăng Dung


2 chính thức lập em của Lê Chiêu Tông là Xuân lên ngôi vua
3 tại hành dinh ở Gia Phúc, tức Lê Cung Hoàng, đổi niên hiệu
4 là Thống Nguyên năm thứ 1; tóm thâu hết tiền của, châu
5 báu, vàng bạc chứa cất trong cung thành mang về Gia Phúc.
6 Lê Chiêu Tông hô hào đám cựu thần, chiêu mộ đƣợc
7 nhiều quân binh rồi tiến đánh Lê Cung Hoàng nhƣng bị Mạc
8 Đăng Dung chận đánh, cầm cự ở Gia Lâm, Văn Giang23,
9 Đƣờng Hào24 , Cẩm Giàng và Lang Tài25.
10 Lê Chiêu Tông lại cầu viện với Trịnh Tuy. Trịnh Tuy
11 đem quân 3 phủ Tỉnh Gia, Hà Trung, Thiệu Hóa về cứu viện
12 nhƣng rồi Lê Chiêu Tông lại nghe theo đám xu nịnh giết
13 chết thuộc tƣớng của Trịnh Tuy là Nguyễn Bá Ký. Trịnh
14 Tuy bất mãn bèn bắt Lê Chiêu Tông mang về Thanh Hóa.
15 Triều thần trung thành với Lê Chiêu Tông đều tự sát.
16 Tháng 12, Lê Cung Hoàng trở về Đông Đô.
17 Quý Mùi, (Quang Thiệu năm thứ 8) Thống Nguyên năm
18 thứ 2 (1523) tháng Giêng, Mạc Đăng Dung sai các tƣớng đi
19 đánh Trịnh Tuy ở Thanh Hóa. Trịnh Tuy phải bỏ chạy và bắt
20 theo Lê Chiêu Tông đến châu Lang Chánh26.
21 Tháng 8, Lê Cung Hoàng ban lệnh phế truất Lê Chiêu
22 Tông xuống làm Đà Dƣơng vƣơng.
23 Giáp Thân, (Quang Thiệu năm thứ 9)- Thống Nguyên
24 năm thứ 3 (1524), Mạc Đăng Dung nắm giữ chức bình
25 chƣơng quân quốc trọng sự thái phó Nhân quốc công. Sai
26 em là Mạc Quyết đem quân vào đánh Trịnh Tuy ở Lang
27 Chánh, chiếm hầu hết các quận huyện ở Tây Đô.
28 Trịnh Tuy bị bệnh chết.
29 Ất Dậu, (Quang Thiệu năm thứ 10)- Thống Nguyên năm
30 thứ 4 (1525) tháng 10, Mạc Đăng Dung đích thân cầm quân

VSTK - 567
1 đi bình định Thanh Hoá, bắt đƣợc Lê Chiêu Tông tại động
2 An Nhân27 ở Lang Chánh mang về giam giữ ở phƣờng Đông
3 Hà, huyện Thọ Xƣơng. Quan thần văn võ của Lê Chiêu
4 Tông ngƣời bị giết, ngƣời tự sát, tất cả không còn ai.
5 Bính Tuất, (Quang Thiệu năm thứ 11)- Thống Nguyên
6 năm thứ 5 (1526) tháng 12, Mạc Đăng Dung cho ngƣời ám
7 sát Lê Chiêu Tông ở phƣờng Đông Hà rồi đem xác về chôn
8 trong lăng Vĩnh Hƣng ở Thanh Đàm28.
9 Lê Chiêu Tông giữ ngôi vua đƣợc 11 năm, thọ 26 tuổi.
10 Đinh Hợi, Thống Nguyên năm thứ 6 (1527) tháng 4, Lê
11 Cung Hoàng sai ngƣời đến Cổ Trai29 phong tƣớc cho Mạc
12 Đăng Dung làm An Hƣng vƣơng, cho phép đƣợc hƣởng
13 nghi vệ cửu tích30 của hàng vƣơng tộc.
14 Tháng 5, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào Đông Đô yêu
15 cầu Lê Cung Hoàng nhƣờng ngôi vua.
16 Tháng 6, Mạc Đăng Dung lại vào Đông Đô, đƣợc dân
17 chúng và triều thần ở kinh thành hoan hô, ngƣỡng mộ đón
18 rƣớc. Lê Cung Hoàng thấy lòng dân đã phai nhạt với dòng
19 họ Hậu Lê và bản thân mình chỉ là một ông vua bù nhìn
20 không có quyền lực, bèn thoái vị, xuống chiếu nhƣờng ngôi
21 vua cho Mạc Đăng Dung.

CHÚ GIẢI:
22
1
Lê Doanh: con của Kiến vƣơng Lê Tân tức cháu nội của Lê Thánh
23 Tông.
24
2
Lê Sùng: anh của Lê Doanh.
25
3
Thiệu Thiên : tên phủ , còn gọi là Thiệu Hóa, thuộc tỉnh Thanh Hóa.
26
4
Hà Trung : tên phủ, thuộc tỉnh Thanh Hóa.
27
5
Tỉnh Gia : tên phủ, thuộc tỉnh Thanh Hóa.
28
6
Lạng Nguyên : có thể là vùng đất từ phía Bắc sông Cầu giáp ranh với
29 Lạng Sơn.
30
7
Trần Chân: ngƣời xã La Ninh, huyện Từ Liêm.
31
8
Thuần Hựu: nay là huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa
32
9
Trần Chân, con nuôi của Trịnh Duy Sản: Trịnh Tuy là anh em họ
33 với Trịnh Duy Sản
34
10
Dƣơng Quang: thuộc huyện Siêu Loại.
35
11
Siêu Loại: nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc
36
12
Nhóm nổi loạn: tức là nhóm Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính và
37 Nguyễn Áng.

VSTK - 568
1
13
Bảo Châu: ở huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, nay là Tứ Tổng, ngoại
2 thành Hà Nội.
3
14
Nguyễn Sƣng: ngƣời xã Ly Trai, huyện Yên Lãng, đỗ hoàng giáp.
4 14bisLê Khắc Xƣơng: con của Lê Thái Tông. Sử cũ không nói mẹ sinh
5 của Khắc Xƣơng là ai. Rất có thể đây là con của Lê Thái Tông và
6 Nguyễn thị Lộ (vợ của Nguyễn Trãi).
7
15
Lê Bảng: con của Lê Lộc. Lê Lộc là con trai của Khắc Xƣơng.
8
16
Do Nha: còn gọi là Miêu Nha ở huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức; nay
9 là thôn Miêu Nha, thuộc xã Tây Mỗ, huyện Tử Liêm, Hà Nội.
10 16bis Yên Lãng: thuộc phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây, nay thuộc Vĩnh
11 Phúc.
12
17
Cố vấn quân sự: tức là chức tán lý quân vụ. Phạm Gia mô ngƣời xã
13 Ninh Xá, huyện Nghi Dƣơng nay là thôn Lê Xá, xã Tú Sơn, huyện Kiến
14 Thụy, Hải Phòng.
15
18
Trần Cung: con của Trần Cao, nối nghiệp Trần Cao, lấy niên hiệu là
16 Tuyên Hòa.
17
19
Xã Mộng Sơn: thuộc huyện Minh Nghĩa, Sơn Tây; nay là huyện
18 Tùng Thiện thuộc tỉnh Hà Tây.
19
20
Gia Phúc: nay là huyện Gia Lộc, Hải Dƣơng, nay thuộc tỉnh Hải
20 Hƣng.
21
21
Phòng tuyến Cẩm Giàng: nay là huyện Cẩm Giàng, thuộc tỉnh Hải
22 Hƣng.
23
22
Nhóm trung thành với Lê Chiêu Tông: gồm có Phạm Tại, Hà Phi
24 Chuẩn, Nghiêm Bá Ký, Nguyễn Xí, Nguyễn Kính, Lê Vĩnh, Kiều Bá
25 Khiêm.
26
23
Văn Giang: thuộc Kinh Bắc, nay thuộc Châu Giang, tỉnh Hƣng Yên.
27
24
Đƣờng Hào: thuộc Hải Dƣơng, nay là huyện Mỹ Văn, tỉnh Hƣng Yên
28
25
Lang Tài: thuộc Kinh Băc
29
26
Lang Chán: thuộc Thanh Hóa.
30
27
Động An Nhơn: thuộc Thanh Hóa.
31 27 bis Phƣờng Đông Hà : huyện Thọ Xƣơng, phủ Hoài Đức; nay thuộc

32 quận Hoàn Kiếm, Hà NộI


33
28
Thanh Đàm: nay là Thanh Trì.
34
29
Cổ Trai: huyện Nghi Dƣơng, phủ Kiến Thụy, tỉnh Hải Dƣơng; nay là
35 xã Ngũ Doan, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng, là quê hƣơng của tổ tiên
36 dòng họ Mạc.
37
30
Nghi vệ cửu tích: theo sách Kinh lễ thì cữu tích gồm có 9 thứ: xe
38 ngựa. 2) Y phục. 3) Dụng cụ âm nhạc. 4) Cửa son (đƣợc sơn cửa màu
39 đỏ). 5) Nạp bệ, (theo các chú thích trong sử sách cũ thì đây các bậc
40 thềm dinh đƣợc xây bên trong chứ không phải ở ngoài trời, tuy nhiên,
41 đây có thể hiểu theo một cách khác: ngƣời đƣợc ban ân huệ nầy khi vào
42 chầu vua thì đƣợc phép bái quỳ từ các bậc thềm xây ở bên trong dinh
43 điện của vua chứ không giống nhƣ những quan chức thƣờng khác phải
44 bái lại vua từ các bậc thềm xây ở ngoài trời từ cổng đi vào). 6) Hồ bôn

VSTK - 569
1 (đƣợc phép có lực sĩ làm hộ vệ riêng). 7) Cung, tên. 8) Phủ việt (lƣỡi
2 búa). 9) Cự sƣởng (rƣợu ngon dùng trong việc thờ cúng).Trong các chế
3 độ phong kiến, nghi vệ cửu tích là một thể thức của vua ban tặng những
4 món đồ dùng quý giá và cho phép xử dụng nghi lễ theo cung cách của
5 bậc vua chúa để biểu dƣơng một ngƣời có công lớn với triều đình. Sách
6 Bạch hổ thông chép: “Biết vỗ về yên dân thì ban cho xe, ngựa. Làm cho
7 dân giàu thì ban cho quần áo. Làm cho dân hòa vui thì ban cho nhạc
8 cụ. Làm cho dân số gia tăng thì được dùng cửa son. Biết cố vấn điều
9 hay cho vua thì được nạp bệ. Biết đẩy lùi điều ác của vua thì ban cho
10 quân hồ bôn. Ban cho phủ việt để trừ kẻ phạm tội. Giao cho cung tên
11 đê giết kẻ phản nghịch. Có lòng thảo kính thì ban cho rượu ngon để
12 cúng.” (KĐVSTGCM/CB.XXVII/tờ14).

KHẢO LUẬN VỀ TRIỀU ĐẠI HẬU LÊ

 Sự phát triển của chế độ phong kiến tập quyền thời đại nhà Hậu Lê

13 Sau khi đánh đuổi đƣợc quân xâm lƣợc nhà Minh, Lê Lợi lên ngôi
14 vua, sáng lập ra triều đại Hậu Lê. Triều đại nầy chỉ có một công trạng
15 lớn đối với ngƣời dân Đại Việt lúc đó là hƣớng dẫn toàn quân, toàn dân
16 đánh đuổi quân ngoại xâm và đƣa ngƣời dân Đại Việt ra khỏi ách nô lệ
17 trực tiếp của ngƣời Hoa mặc dù sau đó vẫn phải thần phục triều cống
18 cho triều đình phƣơng Bắc.
19 Nhƣng, cũng giống nhƣ bất cứ chế độ phong kiến nào, triều đại nầy
20 liền bắt đầu việc biến những thành quả đấu tranh của toàn dân nhƣ là
21 chiến lợi phẩm riêng của một thiểu số tầng lớp phong kiến thƣợng tầng
22 để rồi tiến hành ngay việc củng cố những đặc quyền đặc lợi của tầng
23 lớp thống trị nầy. Vào đầu thời đại Hậu Lê, từ thế kỷ thứ 15 đến đầu thế
24 kỷ thứ 16, chế độ phong kiến tập quyền phát triển rất mạnh theo hƣớng
25 độc tài chuyên chế, nhất là vào thời đại của Lê Thánh Tông (1460-
26 1497).
 Việc sản xuất nông nghiệp

27 Từ khi Lê Lợi lên ngôi, ruộng đất đƣợc coi nhƣ là tài sản riêng của
28 vua Lê Lợi, do đó Lê Lợi mặc tình ban phát cho hàng trăm hàng ngàn
29 đám thuộc hạ của mình đã có công phò tá Lê Lợi lên nắm quyền làm
30 chủ toàn vẹn giang sơn Đại Việt.
31 Đám thuộc hạ võ biền nầy ngày trƣớc là hạng dân thƣờng không có
32 tài sản, đất đai, sau những năm tháng lặng lội theo Lê Lợi nơi rừng núi,
33 đến ngày chiến thắng đƣợc mang họ Lê của vua và trở thành những ông
34 chủ ruộng đất giàu sụ. Ở các thời đại trƣớc, chỉ có một thiểu số dòng
35

VSTK - 570
1 họ vƣơng tộc chiếm hữu một số lớn ruộng đất làm của riêng thế mà
2 ngƣời dân ở vào các thời đại đó còn bị chết đói triền miên huống hồ tới
3 thời đại của Lê Lợi, ngoài những ông hoàng, bà chúa, cha mẹ, anh chị
4 em của vua đƣợc chia cho những vùng đất màu mỡ, những ngƣời đƣợc
5 mang họ Lê cũng đƣợc nhà vua ban cấp cho những ân huệ tƣơng
6 đƣơng, coi họ nhƣ là dòng họ phụ của vƣơng tộc. Ruộng đất ban cấp
7 cho bọn ngƣời nầy sử cũ gọi là Lộc điền , một loại đặc quyền dành
8 riêng cho quý tộc tôn thất và hàng ngàn quan lại cao cấp từ hàng tứ
9 phẩm trở lên. Theo các sách LTHCLC, T Hồng Đức Thiên nam dư hạ
10 tập, và Kiến Văn Tiểu Lục Dun thì vào thời niên hiệu Hồng Đức năm
11 thứ 8 (1477), Lê Thánh Tông sửa đổi định lệ cấp ruộng đất cho họ hàng
12 vƣơng tộc và các hàng quan viên cao cấp nhƣ sau:
13 -Thân vƣơng tức là con, anh, em hàng trực hệ với vua: ruộng thế
14 nghiệp 600 mẫu, đất thế nghiệp 40 mẫu, ruộng ban riêng cho để thu lợi
15 hƣởng dụng 1,000 mẫu, đất trồng dâu 150 mẫu, ruộng tế tự 300 mẫu,
16 tổng cộng vào khoảng 2,000 mẫu ruộng đất cho mỗi thân vƣơng đó là
17 chƣa kể đặc quyền thu thuế trên các hộ ngƣời dân sống trên vùng đất
18 của thân vƣơng gọi là thực phong.
19 -Công chúa hàng trực hệ: khoảng 1,200 mẫu.
20 -Những hàng vƣơng tộc dƣới hàng thân vƣơng thì cũng hƣởng điền
21 lộc tƣơng tựa nhƣ thế chỉ kém hơn chút ít.
22 -Quốc công: khoảng hơn 1,100 mẫu, không có thực phong.
-Quận công: khoảng 950 mẫu
23 -Quan chức chánh tứ phẩm: khoảng 40 mẫu.
24 -Ngƣời chủ Lộc điền có quyền cho ngƣời nông dân nghèo thuê
25 mƣớn trồng trọt sản xuất mà khỏi phải đóng góp lại cho nhà nƣớc một
26 xu hào nào cả.
27 -Những hàng binh cấp thấp đã từng theo Lê Lợi thì may mắn hơn so
28 với ngƣời nông dân thƣờng ngoài xã hội.
29 Để giảm bớt việc nuôi ăn, những cựu chiến binh của Lê Lợi đã bị
30 đẩy đi làm ruộng sản xuất theo chính sách quân điền của nhà nƣớc. Sử
31 cũ thời đại hậu Lê không cho biết số lƣợng ruộng đất cấp phát cho
32 những ngƣời cựu chiến binh nầy. Tuy nhiên, LTHCLC của Phan Huy
33 Chú cho biết rằng vào khoảng năm Cảnh Trị thứ 1, Lê Huyền Tông
34 (1663) ra lệnh đo đạc các hạng ruộng đất của nhà nƣớc ở Thanh Hóa và
35 Nghệ Tĩnh rồi cấp cho binh lính mỗi ngƣời 1 mẫu (LTHCLC/ Quốc
36 dụng Chí/ Chế độ ruộng đất).
37 Nhƣ vậy, ở thời Lê Lợi vào thời bình, mỗi ngƣời cựu chiến binh làm
38 ruộng theo chính sách quân điền có thể đƣợc giao cho khoảng từ 1 đến
39 5 mẫu để cày bừa sản xuất cho nhà nƣớc. Đây chỉ là một sự ƣớc định,
40 trên thực tế có thể thấp hơn mức nầy.
41 Sử cũ thời Hậu Lê không nói ngƣời dân thƣờng đƣợc cấp bao nhiêu
42 ruộng đất để mƣu sinh và nộp thuế cho nhà nƣớc nhƣng ngƣời ta có thể
43 suy đoán đƣợc rằng, thân phận và tầm mức ân huệ mà nhà vua ban phát

VSTK - 571
1 cho những ngƣời nông dân thƣờng ngoài xã hội không thể nào vƣợt qua
2 khỏi thân phận và tầm mức ân huệ của các hàng quân binh đã từng bôn
3 ba sống chết với kẻ khai sáng ra nhà Hậu Lê. Ngƣời nông dân cày
4 ruộng đất của nhà nƣớc trên thực tế là ngƣời tá điền của nhà nƣớc, phải
5 nộp thuế, đi lính và lao dịch cho thiểu số tập đoàn thống trị.

6 Chế độ tƣ hữu ruộng đất đƣợc nới rộng nhƣng chỉ nới rộng trong
7 phạm vi nội bộ của tầng lớp thống trị bằng cách tịch thu ruộng đất của
8 ngƣời dân thƣờng giàu có rồi ban phát cho tập đoàn thống trị để gọi là
9 thƣởng công. Chính sách phân phối ruộng đất kiểu nầy chỉ nhằm một
10 mục đích củng cố chế độ trung ƣơng tập quyền cũng nhƣ bảo đảm
11 quyền bóc lột thu địa tô của những nhóm địa chủ mới xuất hiện.

 Mở rộng công cuộc khẩn hoang


12 Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 12 (1481), Lê Thánh Tông ra lệnh bắt
13 ngƣời dân phải dồn hết sức vào việc làm ruộng để kho lẫm tích trữ của
14 nhà nƣớc đƣợc dồi dào và do đó hạ lệnh thiết lập các vùng sản xuất
15 kinh tế gọi là đồn điền mà lực lƣợng lao động chủ yếu là ngƣời dân
16 nghèo không có nơi ăn chốn ở nhất định vì loạn chiến tranh, những đám
17 tù binh Chiêm Thành, các bọn ngƣời phạm pháp và một số quân binh
18 đồn trú ở địa phƣơng. Các sở đồn điền phần lớn là các vùng đất mới
19 chiếm đƣợc của Chiêm Thành về phía Nam, kế đến là những vùng ven
20 biển và vùng Trung du. Rõ ràng đây là một chính sách nô lệ hóa đi đôi
21 với chính sách khai thác, vơ vét, bóc lột công sức ngƣời dân của chế độ
22 nhà Hậu Lê có tác dụng thúc đẩy đà phát triển nông nghiệp nhƣng chỉ
23 là để tạo lợi ích riêng cho thiểu số mà thôi, cuộc sống của ngƣời dân
24 thƣờng trong xã hội thời đó cũng chẳng thấy có gì đƣợc gọi là cải thiện
25 tốt đẹp hơn.

 Củng cố và tăng cƣờng guồng máy cai trị


26 Ở vào thời Lê Lợi, guồng máy chính quyền vẫn tiếp tục một phần
27 nào tổ chức chính quyền của các triều đại trƣớc.
28 Đến thời Lê Thánh Tông thì guồng máy hành chánh và tổ chức
29 quân đội đạt đến mức tinh vi và chặt chẽ hơn trƣớc đặt dƣới quyền điều
30 khiển trực tiếp và độc quyền của nhà vua: bãi bỏ chức tể tƣớng, không
31 ai có quyền có quân binh riêng, cả nƣớc chỉ có một tổ chức quân đội
32 mà tổng tƣ lệnh tối cao là Lê Thánh Tông. Nhà vua đƣợc tôn vinh là
33 con trời, uy quyền nhà vua là tột bực; vua là ngƣời đại diện cho công lý,
34 là chủ muôn dân và muôn loài kể cả thần thánh ma quỉ, mạng sống của
35 ngƣời dân hoàn toàn nằm trong tay của nhà vua, đất nƣớc là của vua vì
36 thế vua hoàn toàn tự do muốn xử dụng cách nào cũng đƣợc. Khuynh
37 hƣớng chuyên quyền, độc đoán, hà lạm càng ngày càng phát triển và có
38 ƣu thế.

VSTK - 572
1 Bộ máy quan lại mở rộng để làm tay sai, để thi hành quyền lực của vua
2 và để bù lại, đám quý tộc, tôn thất rất đƣợc trọng đãi nhƣng đa số chỉ ăn
3 không ngồi rồi để lo xoi bói, bàn mƣu, ngầm hại lẫn nhau..
4 Nhà nƣớc nắm độc quyền tổ chức và xây dựng các lực lƣợng quân
5 sự và cấm tuyệt đối mọi ngƣời dân không đƣợc tàng trữ vũ khí bất hợp
6 pháp. Những ngƣời lính khi hết nhiệm vụ đánh giặc thì lại phải gánh
7 gồng nhiệm vụ sản xuất theo chính sách ngụ binh ƣ nông để cho nhà
8 nƣớc bớt đƣợc miệng nuôi ăn đồng thời để những cấp trên và con cháu
9 của họ đƣợc ngồi không mà yên hƣởng thành quả 10 năm chiến đấu từ
10 cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
 Chính sách đối ngoại
11 Sự phát triển và củng cố chế độ quân chủ chuyên chế của nhà Hậu
12 Lê làm gia tăng sự áp bức bóc lột nhân dân và đƣa tới khuynh hƣớng
13 hiếu chiến, xem thƣờng, lấn áp các quốc gia láng giềng và đƣa đến tội
14 ác diệt chủng: nhà Lê sáp nhập đất Bồn Man của nƣớc Ai Lao vào lãnh
15 thổ Đại Việt để lập thành phủ Trấn Ninh vào năm 1447. Năm 1471 đích
16 thân Lê Thánh Tông cầm quân xâm lăng nƣớc Chiêm Thành, chiếm đất
17 của nƣớc nầy để lập ra đạo Quảng Nam kéo dài xuống tới tỉnh Bình
18 Định ngày nay và tự động lấy đèo Cù Mông làm biên giới phía Nam
19 của nƣớc Đại Việt không cần đếm xỉa gì đến công pháp quốc tế. Tội ác
20 diệt chủng của dòng họ nhà Lê thể hiện qua việc Lê Uy Mục sai Lê Tử
21 Văn và Vũ Cảnh đi tuần tra vùng đất Quảng Nam vào năm Mậu Thìn
22 (1508) để theo lệnh nhà vua tàn sát tập thể hết những tù binh và kiều
23 dân Chiêm Thành bị lƣu đài khổ sai làm nô lệ sản xuất ở nơi đó.

 Văn hóa, giáo dục


24 Về mặt văn hoá, tƣ tƣởng, nhà Hậu Lê, nhất là trong thời đại của Lê
25 Thánh Tông đã tiếp nhận một cách cuồng tín các lý thuyết và ý thức hệ
26 mơ hồ viển vông của Nho giáo và các mẫu mực lễ giáo huyền hoặc mê
27 tín của đám phong kiến ngƣời Hoa đặt bày ra để nhồi nhét vào đầu óc
28 ngƣời dân Đại Việt. Nho giáo trở thành hệ tƣ tƣởng chính thức và trở
29 thành quốc giáo của chế độ phong kiến nhà Hậu Lê bởi vì những kinh
30 điển, những thuyết giảng trong Nho giáo dạy cho con ngƣời phải trung
31 thành tuyệt đối với vua và cũng từ Nho giáo mà uy quyền của nhà vua
32 đƣợc thần thánh hóa và tỏ rõ thứ bậc giữa vua, quan và ngƣời dân
33 thƣờng.
34 Ngƣời học trò đi học muốn tiến thân làm quan, muốn trở thành giai
35 cấp cai trị hay nói khác đi muốn trở thành ngƣời quân tử thì phải thông
36 lào kinh sử của ngƣời Hoa và phải thấm nhuần ý thức hệ Nho giáo, phải
37 theo đúng tiêu chuẩn đạo đức của 72 ông thánh hiền ngƣời Hoa và ông
38 tổ của họ là Khổng Tử. Cách đào tạo theo kiểu cách nhƣ thế sẽ làm cho
39 đầu óc của ngƣời học trò bị cùn nhụt trong nếp suy nghĩ, không còn ý
40 thức độc lập, mất đi sự phê phán sắc bén và vô tƣ để rồi nếu may mắn

VSTK - 573
1 đƣợc đỗ đạt làm quan thì cũng chỉ là những kẻ triều thần khúm núm, lơ
2 láo hoặc trở thành những đầy tớ bồi bút cho cho các đám vua chúa con
3 trời, hoặc cho các tên đại thần quyền uy hung ác. Những nhà nho có
4 tinh thần dân tộc, những học giả uyên bác, những nhà văn, nhà thơ lỗi
5 lạc, những nhà viết sử độc lập khách quan góp phần vào việc xây dựng
6 nền văn hóa chung của dân tộc, rốt cuộc cho tới ngày nay chỉ đếm đƣợc
7 trên đầu ngón tay.
8 Nền văn học của triều đại Hậu Lê là một nền văn học dùng để tô vẽ,
9 thổi phòng và tuyên truyền cho chế độ nhất là dƣới triều đại của Lê
10 Thánh Tông. Hội Tao Đàn với 28 ông ngôi sao và ông nguyên soái Lê
11 Thánh Tông chỉ là một sân khấu giải trí và là chỗ để cho các ông ngôi
12 sao văn hay chữ tốt có dịp tâng bốc và ca ngợi tài đức của Lê Thánh
13 Tông, lại cũng là nơi để cho Lê Thánh Tông có chỗ để khoe khoang và
14 lƣu truyền tài năng thi phú hiếm có của mình cho hậu thế với một số bài
15 thơ cầu kỳ, sáo ngữ, giả hình, khô khan và hợm mình.
 Thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến nhà Hậu Lê
16 Trật tự xã hội của nhà Hậu Lê dựa trên một cấu trúc mẫu mực chung
17 đã và đang đƣợc áp dụng trong các quốc gia ở phƣơng Đông vào thời
18 đó: mẫu mực đó là một chính thể độc tài chuyên chế với một nhà nƣớc
19 chiếm độc quyền làm chủ trên con ngƣời và trên tất cả tài sản của nhà
20 nƣớc mà nhà nƣớc trong chính thể phong kiến độc tài chuyên chế chính
21 là kẻ cầm quyền cao nhất, là ông vua. Quyền sở hữu tối cao của ông
22 vua đã tƣớc đoạt mất hết quyền tƣ hữu của nhân dân khiến nẩy sinh ra
23 tình trạng trì trệ phát triển kinh tế bởi vì ngƣời dân cùng khổ, mặc dù là
24 những nhân tố chính thức và thiết yếu trong việc lao động sản xuất
25 nhƣng chẳng đƣợc hƣởng gì nhiều hơn từ những thành quả do sức lao
26 động của họ bỏ ra làm nô lệ cho nhà nƣớc.
27 Dƣới thời Hậu Lê, tình trạng trì trệ trong sản xuất xảy ra thƣờng
28 xuyên khiến nhà vua đã phải nhiều lần lên tiếng dạy bảo dân chúng
29 không đƣợc trây lƣời, phải chăm lo việc cày cấy, nông tang và đặt thêm
30 một loại quan chức đặc biệt gọi là khuyến nông sứ để theo dõi, đôn đốc
31 và kiểm soát việc sản xuất nông nghiệp để kho lẫm của nhà vua lúc nào
32 cũng đƣợc dồi dào dƣ thừa nhƣng đến những lúc dân gặp nạn đói thì
33 nhà vua chỉ xuất kho cho dân tạm vay mƣợn để làm mùa chứ không
34 phải là nhà vua cứu đói cho không.
35 Ngƣời nông dân và dân chúng cùng khổ trong xã hội nhà Hậu Lê là
36 hạng ngƣời hạ cấp bị bóc lột, áp bức liên tục từ triều vua nầy tới triều
37 vua khác; do đó, mâu thuẫn giữa hạng ngƣời dân cùng đinh nghèo khổ -
38 đa số là thành phần nông dân - với chế độ nhà Hậu Lê là mâu thuẫn cơ
39 bản và phổ cập trên khắp đất nƣớc Đại Việt. Cuối thời Lê Thánh Tông,
40 ngƣời dân đã bắt đầu hƣớng tìm một vị cứu tinh mới để mong có đƣợc
41 một cuộc sống đỡ cơ cực hơn.

VSTK - 574
1 Cũng vào thời đại nhà Hậu Lê với chế độ tập quyền chuyên chế
2 ngƣời ta thấy có một sự thật không thể chối cãi đƣợc: chỉ có những kẻ
3 nắm chính quyền và ở trong chính quyền mới đƣợc phép tham dự vào
4 việc quản lý và xử dụng của cải, tài sản trong xã hội và chính những
5 đặc quyền đặc lợi nầy lại làm phát sinh, nẩy nở ra những màn tranh
6 giành quyền lợi ngay từ trong nội bộ của giai cấp phong kiến đƣa đến
7 nạn kết bè kết phái, mỗi nhóm chiếm lĩnh một phƣơng để gây nội loạn
8 không thua gì thời 12 sứ quân ngày trƣớc.
9 Dấu hiệu suy thoái của nhà Hậu Lê bắt đầu hiện rõ kể từ đời Lê Uy
10 Mục và Lê Tƣơng Dực. Đám ngƣời thống trị bắt đầu ăn chơi, xa xí, đồi
11 trụy, càng ngày càng trở nên mục thối, hủ bại. Lê Uy Mục nổi danh là
12 vua quỉ còn Lê Tƣơng Dực đƣợc gọi là vua heo.
13 Đời sống của ngƣời dân đen càng ngày càng trở nên bần khổ, điêu
14 đứng hơn với sƣu cao, thuế nặng, phu dịch, dân công, đi lính.
15 Nền kinh tế nông nghiệp của vua, của nhóm quý tộc và đám công
16 thần Lam Sơn bị ngƣời nông dân lơ là tẩy chay không còn ai hăng hái
17 châm lo sản xuất cật lực, các công trình đê điều thủy lợi bị hƣ hỏng bỏ
18 bê không ai dòm ngó. Hạn hán, lụt lội, mất mùa, nạn đói xảy ra thƣờng
19 xuyên. Từ trong nội bộ triều Hậu Lê, những phe phái của tập đoàn
20 phong kiến mặc tình lộng quyền, đối chọi nhau, xâu xé nhau bằng binh
21 lực, ai nấy đều có dã tâm làm chuyện đoạt ngôi vua. Dân chúng bạo
22 động nổi lên chống chính quyền khắp nơi; nhiều tổ chức nổi loạn liên
23 tiếp tấn công và đã có lần chiếm đƣợc Đông Đô khiến vua quan nhà
24 Hậu Lê phải trốn chui trốn nhủi, bỏ chạy vào Thanh Hóa.
25 Từ năm Canh Ngọ (1510) với cuộc đảo chánh của thái giám Nguyễn
26 Khắc Hài nhằm lật đổ Lê Tƣơng Dực nhƣng không thành công cho tới
27 năm Nhâm Ngọ (1522), tất cả các phong trào nổi dậy chống chính
28 quyền đã bị triều đình nhà Lê đàn áp và dập tắt phần lớn là do công lao
29 của Mạc Đăng Dung và cũng kể từ lúc nầy, tập đoàn phong kiến do
30 Mạc Đăng Dung càng ngày càng trở nên lớn mạnh và lấn lƣớt trùm
31 khắp triều đình nhà Hậu Lê, khiến cho Lê Chiêu Tông lo ngại tìm cách
32 diệt trừ.
33 Đến đến đây thì chỉ còn có hai thế lực phong kiến chính yếu đối địch
34 nhau để tranh giành quyền làm chủ nhân dân và đất nƣớc Đại Việt.
35 Rồi chính Lê Chiêu Tông của nhà Hậu Lê, vào lúc mà dòng họ nhà
36 nầy đã mất hết lòng dân, lại là kẻ gây hấn khởi xƣớng âm mƣu cuộc
37 đảo chánh để giành quyền lực với Mạc Đăng Dung.
38 Năm Ất Dậu (1525), Mạc Đăng Dung bắt đƣợc Lê Chiêu Tông rồi
39 giết đi: đây là một hậu quả tất nhiên, bởi vì Mạc Đăng Dung không lý
40 do gì lại đi tha chết hoặc tiếp tục phù trợ cho một ông vua phản trắc đã
41 tự ý bỏ cung thành ra ngoài rồi đem quân trở về để tiêu diệt họ Mạc.
Kế tiếp theo là việc Mạc Đăng Dung bắt ép Lê Cung Hoàng thoái vị
và nhƣờng ngôi vào năm Đinh Hợi (1527). Đây cũng chỉ là một kết cục
xảy ra tự nhiên, không có gì phải bàn tán bởi vì nó chính là hậu quả của

VSTK - 575
chế độ phong kiến chuyên chế tạo ra và đã đƣợc lặp đi lặp lại chƣa bao
giờ dứt. Có khác chăng, ở đây, Mạc Đăng Dung đã không dùng những
âm mƣu lừa dối hạ cấp để đoạt ngôi vua của ngƣời khác giống nhƣ
những trƣờng hợp đoạt ngôi vua ở những triều đại phong kiến trƣớc
kia; Mạc Đăng Dung đã đoạt ngôi vua của nhà Hậu Lê một cách thanh
thiên bạch nhật, gọn, nhẹ, không giấu tay. Ngay trong thời đại văn minh
ngày nay, ở nhiều nƣớc trên thế gìới, có bao nhiêu ngƣời lãnh đạo chính
trị làm khác hơn Mạc Đăng Dung nếu họ đặt mình vào trong hoàn cảnh
và thời điểm của họ Mạc?

VSTK - 576
Bản đồ nước Việt Nam thời cổ

VSTK - 577
© 2003 Nguyễn Công Tánh
Soạn giả tự phát hành năm 2003 từ Tây Úc (Western Australia)

Đăng Ký (Legal Deposit): 27 October 2003 (Receipt No 1637)


Battye Library
State Library of Western Australia
Alexander Library Building
Perth Cultural Centre
PERTH WA 6000
Telephone: + 61 (0)8 9427 3107
Facsimile: + 61 (0)8 94273276
email: battref@mail.liswa.wa.gov.au
Title: VIỆT SỬ TÂN KHẢO + ĐỊA DƢ CHÍ TÂN KHẢO CHÚ
GIẢI VÀ KHẢO LUẬN

ISBN 0 - 9 7 5 1 6 5 0 - 0 - 3

VSTK - 578
1

NGUYỄN CÔNG TÁNH


CAO HỌC LUẬT KHOA
Viện Đại Học Sài Gòn
THẠC SỸ THẦN HỌC
Viện Đại Học Notre Dame Úc Châu
D.E.S
Université de Saigon
Faculté de Droit
MATS
The University of NOTRE DAME Australia

VSTK - 579
1

VSTK - 580
1

VSTK - 581
1

VSTK - 582
1

Mục - Lục
Quyển II

THỜI ĐẠI TỰ CHỦ: NHÀ TRẦN Trang


Chƣơng I Trần Thái Tông 293 - 311
Đánh đuổi quân nguyên
lần thứ nhứt 311 - 318

Chƣơng II Trần Thánh Tông 319 - 323

Chƣơng III Trần Nhân Tông


Đánh đuổi quân Nguyên
lần thứ nhì 324 - 334
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ: ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN

Chƣơng III Trần Nhân Tông


Đánh đuổi quân Nguyên
lần thứ ba 335 - 348
Chƣơng IV Trần Anh Tông 349 - 360

Chƣơng V Trần Minh Tông 361 - 362

Chƣơng VI Trần Hiến Tông 363 - 371

Chƣơng VII Trần Dụ Tông 372 - 377

Chƣơng VII/Phụ Dƣơng Nhật Lễ 378 - 380

Chƣơng VIII Trần Nghệ Tông 381 - 382

Chƣơng IX Trần Duệ Tông 382 - 383

Chƣơng X Trần Đế Hiện 384 - 386

Chƣơng XI Trần Thuận Tông 387 - 393

Chƣơng XII Trần Thiếu Đế 394 -


Khảo luận về triều đại
Nhà Trần 394 - 399
THỜI ĐẠI TỰ CHỦ: NHÀ HỒ
Chƣơng I Hồ Quý Ly 400 -

Chƣơng II Hồ Hán Thƣơng 401 - 410

Khảo luận về nhà Hồ 410 - 421

VSTK - 583
ii
KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MINH Trang

Chƣơng I Trần Ngỗi 422 - 424


Chƣơng II Trần Quý Khoách 424 - 428

Chƣơng III Những phong trào


chống quân Minh trong
khoảng 1414 – 1420 429 - 436

Chƣơng IV Lê Lợi 437 - 458

- Khảo luận về việc Lê Lai


Liều mình cứu Lê Lợi 458 - 460
- Khảo luận về cuộcc chiến
Tranh dành độc lập với cuộc
Tụ nghĩa Lam Sơn 460 - 463
- Chiến thắng Chi Lăng 464 - 467
- Nguyễn Trãi và bản
Bình Ngô Đại Cáo 467 -

THỜI ĐẠI NHÀ HẬU LÊ

Chƣơng I Lê Thái Tổ 490 - 505

Chƣơng II Lê Thái Tông 506 - 516

Chƣơng III Lê Nhân Tông 517 - 522

Chƣơng IV Lê Nghi Dân 523 - 528

Chƣơng V Lê Thánh Tông 529 - 549

Chƣơng VI Lê Hiến Tông 550 - 551

Chƣơng VII Lê Túc Tông 552 -

Chƣơng VIII Lê Uy Mục 553 - 556

Chƣơng IX Lê Tƣơng Dực 557 - 561

Chƣơng X Lê Chiêu Tông 562 - 566

Chƣơng XI Lê Cung Hoàng 567 - 576

VSTK - 584
CÁCH IN ẤN VSTKCGKL(A5 size QUYỂN II

- Máy in: HP Laser Jet 8000DN (HP Universal Printing


PCL5 Driver).

- Scaling: A4 paper size


- Finishing: Print on both sides
- Booklet lay out: left binding
- Pages per sheet: 02
- Portrait

- First print out: 16 pages from page numbers


293-308 then next print out (+15)
309-324
325-340
341-356
357-372
373-388
389-404
405-420
421-436
437-452
453-468
469-484
485-500
501-516
517-532
533-548
549-564
565-576

Bìa và Mục Lục: 577-584 (nhớ tạm thời cut page


numbers). Sau khi in xong phần nầy thì click undo và
save toàn bộ.

VSTK - 585
1

VSTK - 586
1

VSTK - 587
1

VSTK - 588

You might also like