Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà trải qua bằng quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, xác lập, phát triển, hoàn thiện, gắn với quá trình hoạt động Cách mạng phong phú của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển qua 5 giai đoạn: 1. Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng Cách mạng 1890 – 1911: Thời trẻ sống trong môi trường gia đình, quê hương, Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của dân tộc, vốn văn hóa quốc học, hán học và bước đầu tiếp thu văn hóa phương Tây, chứng kiến cảnh sống nô lệ lầm than của dân tộc, tiếp thu tinh thần bất khuất của các bậc cha anh, hình thành hoài bão cứu nước cứu dân. 2. Giai đoạn tiến tới khảo nghiệm 1911 – 1920: Đi qua 30 nước, chặng đường 22 vạn km, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn của thế giới, khảo sát cuộc sống của các dân tộc bị áp bức, tiếp xúc với cương lĩnh Lê Nin, tiến thẳng con đường giải phóng dân tộc chân chính. Người đứng hẳn về quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về bản chất tư tưởng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. 3. Giai đoạn hình thành cơ bản TTHCM về con đường Cách Mạng Việt Nam 1920 – 1930: Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp. Sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Xuất bản báo “Leparia“ tuyên truyền chủ nghĩa Mác vào thuộc địa. Ngày 13/6/1924 sang “Mascơva” dự Đại hội 5 quốc tế cộng sản, Đại hội quốc tế nông dân, Đại hội quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, công hội đỏ. Tháng 12/1924 về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, xuất bản báo Thanh Niên, mở lớp huấn luyện hội Cách Mạng đưa về nước hoạt động. Viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Cách Mệnh”. Tháng 2/1930 chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, soạn các văn kiện. Các văn kiện này cùng với tác phẩm bản án… đường Cách Mệnh,… đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh. 4. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường cách mạng được xác định 1930 – 1941: Do không sát tình hình Đông Dương, lại bị chi phối bởi quan điểm tả khuynh của Đại hội 6 (1928) quốc tế Cộng Sản đã chỉ trích đường lối Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội Nghị 3/2/ 1930 (Cải lương, dân tộc chủ nghĩa dẫn tới hẹp hòi, không quan tâm đấu tranh giai cấp, không quan tâm cách mạng thế giới, không thành lập liên bang Đông Dương) Vì thế Hội nghị Trung Ương 10/1930, ra “Án Nghị quyết”, thủ tiêu văn kiện 3/2/1930, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương; thời gian này, Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động ở quốc tế Cộng Sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kiên định bảo vệ quyết định của mình. Đại hội 7 Quốc tế cộng sản (1935) đã tự kiểm điểm, phê bình về khuynh hướng “tả”, “Cô độc”, “hẹp hòi”, dẫn tới buông lơi ngọn cờ dân tộc, dân chủ. Vì thế ĐH 7 chỉ đạo chuyển hướng chiến lược Cách mạng thế giới, tập trung thành lập mặt trận dân chủ chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Đến 1936, Đảng ta càng thấy được những khuynh hướng biệt phái, cô độc, tả khuynh, hẹp hòi trước đây và chuyển dần hướng chỉ đạo chiến lược, từng bước trở về với đường lối văn kiện 3/2 với tư tưởng Hồ Chí Minh. 5. Giai đoạn hiện thực hóa TTHCM: Ngày 28/1/1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo Cách Mạng, Người đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tháng 5/1941, chủ trì Hội Nghị Trung Ương 8 quyết định “tạm gác” khẩu hiệu ruộng đất, xóa bỏ vấn đề liên bang Đông Dương, thành lập mặt trận Việt Minh, đại đoàn kết dân tộc, cơ sở liên minh công nông nhờ đó Cách Mạng Tháng 8 thành công. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của Hồ Chí Minh. Sau cách mạng tháng 8, cả nước phải tiến hành kháng chiến chống Pháp lần 2 và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa giải phóng miền Nam. Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển hoàn thiện, một loạt vấn đề cơ bản gồm: đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện, xây dựng CNXH ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa bởi điều kiện đất nước bị chia cắt, có chiến tranh, xây dựng Đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân, củng cố phong trào cộng sản, CN quốc tế. Trước khi qua đời, Người để lại một bản di chúc thiêng liêng kết tinh những giá trị đạo đức, tư tưởng, nhân cách, tâm hồn cao đẹp của một người lãnh tụ vĩ đại, suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, nhân dân và nhân loại. Di chúc tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh thắng lợi của CMVN, vạch định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi. Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc di sản tinh thần vô giá của Bác Hồ, ĐH 7 đã khẳng định Đảng lấy chủ nghĩa chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự là nguồn gốc trí tuệ, động lực thúc đẩy sự nghiệp CMVN. II. TƯ TƯỞNG HCM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC 1. Vấn đề dân tộc thuộc địa a. Thực chất vấn đề dân tộc thuộc địa: là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến vấn đề dân tộc nói chung mà xuất phát từ thực tiễn ở VN thời bấy giờ là chế độ nửa thuộc địa, nửa phong kiến, nên toàn bộ những nghiên cứu của Bác đều tập trung đến vấn đề dân tộc thuộc địa. Đồng thời, Người cũng xác định độc lập dân tộc gắn với CNXH, là con đường lựa chọn xuyên suốt của cách mạng VN để xây dựng đất nước sau giải phóng. b. Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa - Theo tư tưởng HCM, tất cả các dân tộc trên thế giới đều có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc. Trong bản TNĐL, Bác Hồ đã viết “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”. Đây là những quyền lần đầu tiên xuất hiện tại VN vào năm 1945, nhưng trước đó đã được biết đến qua tuyên ngôn của Pháp và của Mỹ. Bác đề cập đến những quyền này vì Pháp nêu ra nhưng tại Việt Nam lại không thực hiện, “gậy ông đập lưng ông”, và Bác cũng muốn nhấn mạnh đây là những quyền cơ bản, quan trọng, tiến bộ trên thế giới mà mọi dân tộc đều có quyền chính đáng có được. - Theo tư tưởng HCM, độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc với chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Quyền tự do được Bác Hồ nâng lên từ một quyền bình thường thành một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, nó xuất phát từ một thực tế là dân tộc chúng ta bị chiến tranh, bị xâm phạm quyền tự do rất nhiều trong lịch sử. - Theo tư tưởng HCM, một nền độc lập thật sự, toàn diện phải được thể hiện đầy đủ trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khi nói đến sự phát triển của một quốc gia, chúng ta thường nói đến 4 yếu tố trên, và 4 yếu tố này có mqh chặt chẽ với nhau. Và khi nói đến độc lập của một dân tộc phải được khẳng định đầy đủ trên 4 yếu tố này, nếu như thiếu 1 trong 4 yếu tố thì không thể gọi là độc lập. Độc lập về mặt chính trị phải do người dân bầu ra, và mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước ấy phải có quyền tự quyết, không có sự can thiệp đến từ bên ngoài. Và có độc lập về mặt chính trị mới có độc lập về mặt văn hóa, kinh tế, xã hội, mới được tự do phát triển bền vững theo xu hướng của mình. - Một dân tộc muốn được độc lập tự do phải tự đứng lên đấu tranh giải phóng cho chính mình. Trong “Bài nói chuyện tại hội nghị chiến tranh du kích”, ngày 13 tháng 7 năm 1952, Người đã nhấn mạnh “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp – Mỹ của nhân dân ta là trường kỳ gian khổ nhưng lại phải tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. - Độc lập tự do phải gắn với cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Là một dân tộc thuộc địa bị đế quốc thực dân thống trị, bóc lột, nhân dân phải sống trong cảnh lầm than, cơ cực, đói rét nên Người luôn tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. c. Chủ nghĩa dân tộc là nguồn động lực lớn của sự phát triển đất nước. Chủ nghĩa dân tộc theo tư tưởng HCM là ý chí, tinh thần đấu tranh của toàn thể dân tộc VN, trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Chính ý chí và tinh thần đấu tranh ấy đã tạo nên nguồn sức mạnh vô tận để chiến thắng mọi kẻ thù, giành độc lập cho dân tộc. 2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp - Vấn đề dân tộc và giai cấp là hai vấn đề quan trọng hàng đầu ở Việt Nam. HCM rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Bối cảnh lịch sử xã hội Vn trong thời kỳ này tồn tại hai mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp (mâu thuẫn dân tộc), và mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến (mâu thuẫn giai cấp). Giải quyết được mâu thuẫn dân tộc sẽ giải quyết đc mâu thuẫn giai cấp, bởi khi đánh đuổi được thực dân pháp, các thế lực tay sai sẽ mất chỗ dựa, mâu thuẫn giai cấp sẽ dễ xử lí. - Giải phóng dân tộc phải được đặt lên trên hết, trước hết. Giải phóng dân tộc tạo điều kiện, tiền đề để giải phóng giai cấp. Và chính vì thế cho nên, năm 1930, sau khi thành lập Đảng CSVN, Bác Hồ đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên trước, quan điểm đó trái với quan điểm của quốc tế cộng sản nên Bác bị quốc tế cộng sản nghi ngờ và không giao cho nhiệm vụ gì. Vì thế, năm 1938, Bác có viết một bức thư gửi cho một đồng chí: Hôm nay là kỉ niệm 7 năm ngày tôi bị bắt ở Hồng Kong, và năm nay cũng là kỉ niệm 8 năm ngày tôi không được Quốc tế Cộng sản giao cho bất cứ một nhiệm vụ gì, tôi mong các đồng chí hãy giao cho tôi một nhiệm vụ gì đó, nếu không, tôi cảm thấy tôi là người ở trong Đảng mà dường như người đang đứng ngoài Đảng. - Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của dân tộc khác với phương châm: Giúp bạn là tự giúp mình, thắng lợi của Cách Mạng VN sẽ góp phần vào thắng lợi chung của toàn thế giới. Theo quan điểm của Bác muốn xác lập quan hệ quốc tế, trước hết phải xác lập quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là các nước trong bản đảo Đông Dương: VN, Lào, Capuchia. Trong quá trình quan hệ với các nước khác, phải rất tế nhị, khôn khéo xử lý tình huống đúng đắn, Năm 1960, mâu thuẫn giữa LX và TQ rất căng thẳng. Nhưng lúc bấy giờ, với QH ngoại giao rất khéo léo của Bác, Bác đã hóa giải những mâu thuẫn ấy để nó không ảnh hưởng đến chúng ta, Chúng ta vẫn nhận được nguồn viện trợ từ TQ lẫn LX. Với phương châm này, trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, chúng ta nhận nhiều sự hỗ trợ đến từ bên ngoài, và đồng thời thực hiện sự hỗ trợ với đất nước khác. Trong lịch sử, ta ko chỉ đón nhận sự hỗ trợ của các bạn mà ta đã giúp cho nước bạn Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng Pôn pốt. Ngày nay, vẫn còn tượng đài quân tình nguyện bộ đội VN đã anh dũng hy sinh ở Campuchia.
III. TƯ TƯỞNG HCM VỀ CM GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc có nội dung thể hiện qua hệ thống các luận điểm cơ bản như sau: 1. Cách Mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường CM vô sản. Trong rất nhiều yếu tố quan trọng dẫn đến thành công của Cách Mạng, Bác đặt yếu tố con đường lên hàng đầu vì những lý do: trong giai đoạn cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, có rất nhiều phong trào yêu nước diễn ra chống lại thực dân Pháp theo khuynh hướng khác nhau ( Ptrao Cần Vương, Yên Thế, Đông Du,... ) chứng tỏ dân ta có tinh thần yêu nước mạnh mẽ, thế nhưng tất cả những con đường ấy đều thất bại vì đường lối đấu tranh chưa đúng đắn, vì thế cho nên Bác Hồ mới ra đi tìm kiếm con đường cứu nước. HCM khẳng định Cách Mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường CM vô sản. Ở VN, phần lớn nhân dân thuộc tầng lớp vô sản, nông nhân, công nhân. Khi áp dụng CM vô sản mới giải phóng được toàn bộ dân tộc. Trong quá trình ra đi tìm kiếm con đường cứu nước giải phóng dân tộc, HCM đã nghiên cứu về các cuộc CM khác nhau ở trên thế giới như CM tư sản Anh, CM Pháp, CM tháng 10 Nga. Bác chỉ ra những thành công và hạn chế đến từ các cuộc CM này và từ đó quyết định lựa chọn giải phóng dân tộc theo con đường CM vô sản. Đây là con đường CM sẽ giải phóng được những người lao động bị áp bức trong xã hội, đồng thời cũng là con đường mà CM tháng 10 Nga đã thực hiện thành công. Các cuộc CMTS hiện đại Anh, Pháp được Người cho là những CM “ko đến nơi”, tức ko triệt để và nửa vời. 2. Cách Mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng Sản lãnh đạo Trong tác phẩm Đường Cách Mệnh, khi nói đến vai trò lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định Cách Mạng trước hết phải có Đảng lãnh đạo để trong thì vận động dân chúng, ngoài thì liên lạc với vô sản giai cấp bị áp bức mọi nơi. Đảng có vững thì Cách Mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt : “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đảng có những yếu tố giúp cho Cách Mạng thành công do Đảng là tập hợp những con người có tinh thần yêu nước, có lý tưởng, sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho tổ quốc. Sự thành công của 1 cuộc CM phụ thuộc vào lực lượng lãnh đạo CM rất nhiều, kịp thời đưa ra điều chỉnh, có đường lối, chính sách đúng đắn. Trong thực tiễn, HCM đã xây dựng được 1 Đảng Cách Mạng tiên phong, Đảng đã lãnh đạo đất nước tiến hành Cách Mạng Giải Phóng dân tộc thành công và từng bước đưa đất nước phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. 3. Lực lượng Cách Mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc Trong cương lĩnh đầu tiên của CMVN, HCM đã xác định một thành phần tham gia Cách Mạng rộng lớn, trong đó bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp của dân tộc VN như tiểu tư sản, tri thức, trung nông, công nhân, nông dân. Trong đó công nông được xác định là những giai cấp có tinh thần CM nhất. Bác cho rằng CM giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của 1 - 2 người. Trong thực tiễn, HCM đã tập hợp được một đại đoàn kết dân tộc rộng lớn trong cuộc đấu tranh chung chống lại kẻ thù, giành độc lập cho dân tộc. Bác không đề cập đến lực lượng tham gia Cách Mạng là giai cấp nào cụ thể mà Bác dùng từ rất chung là toàn dân tộc, không loại trừ bất cứ một giai cấp tầng lớp nào cả, để từ đó tạo được một nguồn sức mạnh to lớn, đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng kẻ thù. 4. CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước CM vô sản ở chính quốc. Đây là luận điểm sáng tạo của HCM về vấn đề CM giải phóng dân tộc Là người dân sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nên Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ CM thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt, người dân trong các dân tộc thuộc địa có khả năng tiến hành CM to lớn. Mối quan hệ giữa CM thuộc địa và CM chính quốc là mối quan hệ bình đẳng cùng hỗ trợ cho nhau để phát triển, chứ không phải quan hệ chính phụ. Theo quan điểm chỉ đạo của quốc tế CS có nói rằng, CM giải phóng dân tộc ở tất cả các thuộc địa chỉ có thể thành công khi CM ở chính quốc thành công. Nhưng theo quan điểm này của Bác, chúng ta có thể thành công trước CM ở Pháp. Bác đưa ra quan điểm này dựa trên các lý do: ở các nước thuộc địa thì nhân dân bị áp bức nhiều hơn là ở các nước chính quốc, có những phương thức mà chủ nghĩa thực dân dám áp dụng với người dân ở nước thuộc địa nhưng không dám áp dụng ở nước chính quốc. Chính vì người dân ở các nước thuộc địa bị áp bức nhiều, dồn họ đến đường cùng, cho nên tinh thần đấu tranh của họ rất mạnh mẽ, và khi tinh thần đấu tranh mạnh mẽ ấy có liên kết với nhau thì chắc chắn rằng CM của thuộc địa sẽ thành công trước CM của chính quốc. Nước đế quốc có trong tay nhiều nước thuộc địa, nếu như các nước thuộc địa có sự liên kết lại với nhau, phong trào đấu tranh của các nước thuộc địa sẽ giành được thắng lợi trước CM đế quốc. Để nói về vấn đề này, Bác Hồ có sử dụng hình ảnh: chủ nghĩa đế quốc được ví như một con đỉa hai vòi, một vòi thì bám vào nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, một vòi thì bám vào nhân dân lao động ở các nước chính quốc, để giết con đỉa cần phải cắt đồng thời cả hai vòi của nó đi. Nếu như cắt 1 vòi thì con đỉa đó sẽ tiếp tục hút máu người và sống lại. Bác nói như vậy để nhấn mạnh vai trò CM ở các nước thuộc địa, đồng thời, Bác cũng có nói thêm rằng: Nếu các đồng chí coi thường Cách Mạng ở các nước thuộc địa, không khác gì các đồng chí đang đánh rắn vào đuôi, nọc độc và sức sống của con rắn độc thực dân hiện giờ đang tập trung ở các nước thuộc địa nhiều hơn là các nước chính quốc. Vì vậy nên nếu như có điều kiện, có thời cơ thì CM thuộc địa hoàn toàn có thể diễn ra và thành công trước CM ở chính quốc. Đây là 1 trong những đóng góp, cống hiến của chủ tịch HCM về vấn đề CMGP dân tộc vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin 5. CM Giải Phóng dân tộc cần được tiến hành bằng con đường bạo lực Người khẳng định “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền.”, vì chủ nghĩa đế quốc dùng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp phong trào đấu tranh yêu nước của ND thuộc địa Theo tư tưởng HCM, bạo lực là hình thức tất yếu của 1 cuộc CM, tuy nhiên, cần tùy vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để quyết định hình thức đấu tranh, trong đó sự kết hợp hài hòa chính trị, quân sự, ngoại giao và việc tiến hành chiến tranh chỉ như giải pháp cuối cùng khi không còn khả năng hòa hoãn khi kẻ thù kiên quyết bám giữ lập trường xâm lược.
IV. TƯ TƯỞNG HCM VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Con đường hình thành tư duy HCM về chủ nghĩa xã hội HCM đến với chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng cho dân tộc: Có yêu nước thì Bác mới ra đi tìm đường cứu nước, và trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước ấy, thì Bác đã đến với mô hình XHCN từ một mô hình xây dựng rất thành công lúc bấy giờ là Liên Xô HCM đến với chủ nghĩa xã hội từ lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin mà trực tiếp là học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác. Trong học thuyết ấy, Mác chỉ ra rằng xã hội loài người đã, đang và sẽ trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau đó là: công xã nguyên thủy - chiếm hữu nô lệ - PK - TBCN - Cộng sản. Giai đoạn đầu của XH Cộng sản là chủ nghĩa xã hội. Nhìn vào những hình thái KT-XH ấy, có những giai đoạn đã qua, và có những giai đoạn sẽ tiến đến, chính vì thế cta lựa chọn xây dựng CNXH. Khi ta lựa chọn xây dựng CNXH, xuất phát điểm của nước ta lúc bấy giờ là giai đoạn phong kiến, để lên đến CNXH, ta bỏ qua tư bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa những điều tích cực trong TBCN. Chúng ta vẫn học tập những cái gì hay, cái gì tốt đẹp của CNTB theo quan điểm phủ định biện chứng. HCM đến với chủ nghĩa xã hội từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam: Những giá trị truyền thống của dân tộc VN giống với đặc trưng của CNXH. Khi Bác quyết định áp dụng mô hình CNXH ở VN, mô hình ấy ko phải thiết kế dựa trên các nước Châu Á như VN, nhưng Bác Hồ đã nói mô hình ấy áp dụng còn tốt hơn ở VN vì trong lòng XH VN đã có những giá trị VH giống các nét đặc trưng của CNXH 2. Tư tưởng HCM về đặc trưng, bản chất của CNXH ở VN - Đó là một chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ: được thể hiện trên các lĩnh vực: người dân 18 tuổi trở lên được bầu cử, tham gia vào dự thảo Hiến pháp, chủ thể xây dựng pháp luật là người dân. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công-nông-trí thức do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. - Đó là một chế độ xã hội có sự phát triển cao về kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất là chủ yếu. Kinh tế là yếu tố đánh giá sự giàu có của 1 quốc gia, nên ta hướng tới xây dựng 1 nền kinh tế giàu mạnh. Cụ thể, CNXH có một nền kinh tế phát triển, dựa trên cơ sở năng suất lao động cao, sức sản xuất luôn luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa học kỹ thuật, ứng dụng những thành tựu hiệu quả của nhân loại. - Đó là một chế độ xã hội có sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức. Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao dộng chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện. - Đó là một chế độ xã hội không còn tình trạng người bóc lột người: hướng đến xây dựng XH hài hòa nhân văn theo chủ tịch HCM. Trong xã hội này, con người thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng và hợp lý. 3. Tư tưởng HCM về mục tiêu, động lực xây dựng CNXH a. Mục tiêu - Chính trị: Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chính quyền về tay nhân dân. + Nhà nước của dân là nhà nước mà mọi quyền hành trong nước đều là của dân, mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước đều do nhân dân quyết định. Trong bộ máy nhà nước ấy, nhân dân là người làm chủ và có quyền làm tất cả mọi điều trong khuôn khổ pháp luật không ngăn cấm. Người dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, để đảm bảo trật tự kỉ cương và đảm bảo sự an toàn cho người dân lương thiện. Chúng ta có quyền làm rất nhiều việc nhưng phải tuân theo quy định của pháp luật. + Nhà nước do dân là nhà nước do nhân dân bầu ra, do nhân dân đóng thuế để bộ máy nhà nước chi tiêu hoạt động. Nhân dân không chỉ là những người bầu ra cán bộ mà nguồn ngân sách để nhà nước hoạt động đến từ tiền thuế của nhân dân: thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Do đó, nếu ai tham nhũng tiền của nhà nước là tham nhũng tiền của nhân dân, đó là lý do tại sao trong bản Hiến Pháp năm 1946, đối với tội tham ô, Bác Hồ và các nhà soạn thảo Hiến Pháp đã đề ra biện pháp xử lí rất nặng. + Nhà nước vì dân là nhà nước mà từ chủ tịch nước trở xuống đều hết lòng phục vụ nhân dân. Theo Bác Hồ nói, cán bộ là con bộc, là đầy tớ của dân. Bác có nói thêm rằng: những người được nhân dân tin tưởng giao cho nhiệm vụ trở thành cán bộ trong bộ máy nhà nước đừng vào đấy để biến nó thành tổ chức làm quan phát tài, biến nó trở thành nơi mưu cầu danh lợi, cán bộ trong bộ máy phải luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân. Nếu như chính phủ để cho dân đói, dân rét thì chính phủ ấy có lỗi với dân. Nhiệm vụ của chính phủ là phải làm cho dân có mặc, làm cho dân có ăn, làm cho dân có làm, có làm được thế thì đó mới là bộ máy nhà nước vì dân. Những điều ấy Bác đã nói từ rất lâu rồi nhưng hiện nay vẫn còn giá trị cho nhân dân ta. Thời Bác còn sống, Bác còn luôn quan tâm đến đời sống của những người khác, như năm 1965 khi Mỹ bắn phá miền Bắc rất ác liệt, Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ sử dụng tiền tiết kiệm của mình để mua nước ngọt cho các chiến sỹ uống. Với số tiền đó, các đơn vị trực chiến được uống nước ngọt miễn phí trong vòng một tuần. Hay Bác từng gửi một bức thư cho bác sỹ Vũ Đình Tụng có người con trai duy nhất đi ra kháng chiến và mất trên chiến trận, nội dung bức thư: Bác sĩ biết đấy, tôi không có gia đình nên gia đình của tôi là Việt Nam, thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mỗi khi có một thanh niên Việt Nam hi sinh tôi cảm thấy như mất đi một phần cơ thể. - Kinh tế: Hướng tới xây dựng một nước Việt Nam có nền kinh tế công-nông nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến. Trong quá trình phát triển đất nước, Việt Nam phần lớn gắn với nông nghiệp, “dĩ nông vi bản”, phải lấy nông nghiệp làm gốc, phải coi nông nghiệp và công nghiệp là cái chân của con người, hoạt động hài hòa với nhau. Đây là mục tiêu được đặt ra rất sớm từ năm 1960 khi cta bắt đầu xây dựng CNXH ở miền Bắc, nhưng chúng ta không còn vốn và tiềm lực kinh tế để thực hiện cn hóa, nên chúng ta được Liên Xô viện trở 800 triệu rúp và cử chuyên gia sang viện trở đất nước ta, từ đó bộ mặt công nghiệp hóa của chúng ta có những thay đổi nhất định, điển hình như khu công nghiệp cao xu, xà phòng, thuốc lá tại Thanh Xuân, Hà Nội. - Văn hóa xã hội: phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xoá nạn mù chữ, bài trừ mọi thủ tục lạc hậu, tuyên truyền mê tín dị đoan. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. HCM nhắc nhở phải làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời phải có bề sâu. Trong khi đáp ứng về mặt giải trí thì không được xem nhẹ nâng cao tri thức của quần chúng, đồng thời Người luôn nhắc nhở phải làm cho văn hóa gắn với lao động sản xuất. b. Động lực - Trong tất cả các yếu tố để tạo thành nguồn động lực với sự phát triển của xã hội thì Động lực quan trọng nhất là động lực con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công - nông - trí. Yếu tố con người là yếu tố mang lại sự phát triển bền vững nhất. Trên thế giới có rất nhiều đất nước ko có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng thành công trong việc phát huy yếu tố con người, điển hình như Nhật Bản. Trong suốt thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, yếu tố con người đã trở thành một yếu tố quan trọng để dẫn đến thắng lợi của dân tộc ta. Ví dụ, sau cách mạng thành công, đất nước ta gặp nhiều khó khăn về tài chính, kho bạc nhà nước thì cạn kiệt, nhà nước không có ngân sách để hoạt động, đất nước đứng trước nhiều loại giặc,.. chính phủ ta đã phát động tuần lễ vàng, chỉ trong vòng 1 tuần dưới sự kêu gọi của Bác, nhân dân đã ủng hộ 360 cân vàng. - Kết hợp giữa sức mạnh cá nhân và sức mạnh tập thể. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, đây là nguồn động lực chính và chủ yếu trong xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời cũng phát huy sức mạnh của cá nhân con người thông qua tác động vào lợi ích. - Hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ, công chức. Chính vì vậy, BH đã nói “ cán bộ là gốc rễ của mọi công việc.. cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên..” - HCM rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh giải phóng mọi năng lực sản xuất làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân: phải tạo mọi điều kiện để nền kinh tế phát triển, tiến nhanh tiến kịp với các nước trên thế giới. - HCM quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần của CNXH: “ Đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Trong giai đoạn trước đây, dù thời kháng chiến, ta vẫn chủ trương xây dựng giáo dục, xây dựng trường đại học tại Việt Nam. - Chủ trương đường lối của Đảng phải phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là hạt nhân trong hệ thống động lực của CNXH - Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế. Sự phát triển giữa tất cả các quốc gia trên TG là phụ thuộc và nhau. Trước đây, thời kháng chiến cứu nước, chúng ta tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để tăng thêm nguồn lực cho chúng ta cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong thời kì kinh tế hội nhập hiện nay có những điều mà QG này cần nhưng lại thiếu thì họ phải hợp tác với những quốc gia khác để đôi bên cùng có lợi, cùng PT
V. TƯ TƯỞNG HCM VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng - Theo tư tưởng HCM, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, bởi trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ CM khác nhau nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn được xác định là vấn đề có ý nghĩa sống còn quyết định sự thành công của CM - Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của Đảng, của Cách Mạng. Mục tiêu và nhiệm vụ ấy luôn có sự thay đổi để phù hợp với từng giai đoạn của Cách Mạng. Trước năm 1954, chúng ta đề ra mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc để đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Sau năm 1954, mục tiêu ấy đã thay đổi thành đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, để đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 2. Nội dung đại đoàn kết dân tộc - Theo tư tưởng HCM, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân, không phân chia dân tộc, đảng phái, tôn giáo, giàu nghèo, người VN trong nước và nước ngoài. Thành phần đại đoàn kết ở đây đã được Bác Hồ mở rộng một cách tối đa, tất cả các giai cấp tầng lớp tham gia Cách Mạng thì Đảng sẽ tập hợp được một khối đoàn kết rộng lớn, tạo thành một nguồn sức mạnh to lớn. Cụ thể hơn, Bác Hồ lựa chọn tập hợp thành phần đại đoàn kết rộng lớn như thế này vì Bác nói rằng: Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Có những người tinh thần yêu nước hiện rõ như chiếc bình pha lê để trong tủ kính để ai cũng nhìn thấy, nhưng có những người tinh thần yêu nước được cất giấu kín ở trong rương, trong hòm, và nhiệm vụ của những người làm cách mạng là phát hiện tinh thần yêu nước ẩn chứa trong mỗi người và đánh thức họ theo cách mạng. Và chính vì xuất phát từ điều này cho nên Bác Hồ đã cố gắng đánh thức tinh thần yêu nước trong mỗi một người dân VN dù ở trong nước hay nước ngoài. Ví dụ, sau năm 1945 sau khi CM tháng 8 thành công, Bác Hồ có viết một bức thư gửi cho tất cả các huyện, các tỉnh, các làng, Bác nói rằng: Nước nhà cần phải kiến thiết, mà kiến thiết cần phải có nhân tài, vậy ở đâu biết có người tài đức thì mời ra giúp nước giúp dân. Và Bác đã viết thư mời cụ Bùi Bằng Đoàn ra giúp đất nước. Và khi Bác sang Pháp để đàm phán thì rất nhiều trí thức yêu nước đã theo Bác về nước, ví dụ như bác sĩ Trần Hữu Tước, kĩ sư Trần Đại Nghĩa - Để thực hiện đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, điều kiện của dân tộc, đồng thời phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, có niềm vào con người, niềm tin vào nhân dân. Cụ thể, khoan dung độ lượng là một nội dung rất quan trọng trong tư tưởng HCM, Bác có sử dụng hình ảnh: sông sâu biển rộng tại sao chứa được nhiều nước, bởi vì độ và lượng của nó sâu và rộng, cái chén cái đĩa nhỏ tại sao chức được ít nước, bởi vì độ và lượng của nó nông và hẹp. Lòng người mà không có tinh thần khoan dung độ lượng, giống như cái chén, cái đĩa nhỏ, một chút nước đổ vào thôi là đã đầy. Và khoan dung là một yếu tố vô cùng quan trọng để thu phục được lòng người, và chính vì thế cho nên, trong bộ máy chính phủ năm 1945, thì chúng ta đã sử dụng những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến cũ, là vu Bảo Đại, sử dụng vào vị trí cố vấn cho chính phủ. 3. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc - Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện thông qua mặt trận dân tộc thống nhất + Năm 1930, mặt trận phản đế Đồng Minh Đông Dương làm nhiệm vụ đấu tranh chống đế quốc + Năm 1936, mặt trận dân chủ Đông Dương, đòi các quyền dân chủ + Năm 1941, mặt trận Việt Minh bao gồm rất nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau + Năm 1946, mặt trận Liên Việt + Năm 1955, mặt trận tổ quốc Việt Nam (ở miền Bắc) + Năm 1960, mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam (ở miền Nam), đóng vai trò như một bộ máy chính quyền cách mạng ở miền Nam, chỉ đạo ptrao ở Miền Nam, do luật sư Nguyễn Hữu Thọ sáng lập. Đây là một mặt trận có vai trò rất lớn, vì không chỉ đảm nhận vai trò lãnh đạo cách mạng miền Nam VN mà trong việc đàm phán hiệp định Paris từ năm 1968 -1973 thì mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam đóng vai trò chuyên trách là 1 bên độc lập của quá trình đàm phán, đại diện là bà Nguyễn Thị Bình. + Từ năm 1976 cho đến nay, cả nước có chung 1 mặt trận là mặt trận tổ quốc Việt Nam - Nguyên tắc tổ chức và hành động của mặt trận dân tộc thống nhất + Nguyên tắc tổ chức phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông trí, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng + Nguyên tắc tổ chức hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân + Nguyên tắc tổ chức trên cơ sở nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền chắc + Nguyên tắc tổ chức là khối đoàn kết, chặt chẽ, lâu dài, chân thành trên tinh thần giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. VI. TƯ TƯỞNG HCM VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN 1. Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng HCM 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước a. Về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước - Nhà nước do Đảng lãnh đạo, Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân . Đảng lãnh đạo mọi lĩnh vực của đời sống XH, trong đó có NN - Bản chất giai cấp công nhân của NN thể hiện ở tính định hướng XHCN của sự phát triển đất nước (Độc lập dân tộc gắn với CNXH là 1 mục tiêu xuyên suốt của CM VN , bản chất GGCN ở đây cũng đc thể hiện ở tính định hướng đi lên CNXH, ngày hôm nay ta vẫn vững bước đi lên CNXH) - Bản chất GGCN của NN được thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ (Tập trung: thiểu số phục tùng đa số, số ít phục tùng số nhiều, dân chủ là mọi người được quyền bày tỏ, ý kiến, tình cảm của mình, tập trung dựa trên cơ sở của sự dân chủ, dân chủ phải có sự tập trung- bàn bạc xong rồi phải chốt đc ý kiến cuối cùng) b. Bản chất GGCN thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc của NN - NN ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của người VN, vậy nên phải thống nhất về lợi ích giữa tất cả giai cấp tầng lớp, thống nhất giữa toàn thể nhân dân ở trong XH với nhau. Cuộc đấu tranh của chúng ta là kháng chiến toàn dân, chiến tranh nhân dân. Để có được 1 Nhà nước như ngày hôm nay là sự hi sinh xương máu của nhiều thế hệ VN đã ngã xuống, chính vì vậy cho nên cần phải có sự thống nhất hài hòa giữa các tầng lớp trong XH - Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc là cơ bản. Tư tưởng lấy dân làm gốc là tư tưởng xuyên suốt trong tư tưởng HCM, Bác Hồ đã từng nói rằng : “ Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Những nội dung của Bác về NN của dân, do dân, vì dân với những nội hàm ta đã tìm hiểu khẳng định rằng NN luôn bảo vệ lợi ích của nhân dân - NN đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, lãnh đạo nhân dân, tiến hành kháng chiến, xây dựng một nhà nước VN hòa bình, thống nhất, giàu mạnh Kết quả là ta đã thống nhất được toàn bộ đất nước, đạt được sự tăng trưởng trong quá trình phát triển đất nước
3. Tư tưởng HCM về nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
- Để 1 nhà nước ra đời cần có 2 điều kiện là hợp hiến và hợp pháp. + Hợp hiến: nhà nước ấy khi ra đời phải có 1 bản hiến pháp và bản hiến pháp ấy được xem là gốc của mọi bản hiến pháp sau này. Bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta ra đời năm 1946, sau khi cuộc Tổng Tuyển cử diễn ra thành công, nhà nước VNDCCH ra đời, và bản hiến pháp với rất nhiều tư tưởng tiến bộ, như quyền bình đẳng nam nữ nhằm tạo điều kiện nâng cao vai trò của phụ nữ,... Qua rất nhiều cuộc cải cách hiến pháp thì bản hiến pháp năm 1946 đặt nền móng cho những bản hiến pháp sau này. +Hợp pháp: nhà nước ra đời phải thông qua tổng tuyển cử và phải có số phiếu của trên 50% cử tri dân số trên cả nước. Phải đáp ứng những điều kiện trên thì bộ máy nhà nước mới được coi là hợp pháp, chính vì thế mà năm 1946 chúng ta mới phát động cuộc tổng tuyển cử để nhà nước VNDCCH ra đời 1 cách hợp pháp. Cuộc tổng tuyển cử gặp vô cùng nhiều khó khăn: thù trong giặc ngoài, giặc đói, giặc dốt,... Lúc bấy giờ, có người nói với Bác rằng đa số dân chúng không biết chữ, nếu ko bầu cho Bác thì sao. Bác đã trả lời: “ Dân chúng sẽ phải là những người biết mình bỏ phiếu cho ai”. Mặc dù những thế lực thù địch ở VN ngăn cản, ko cho cuộc Tổng tuyển cử diễn ra. Ở HN, quân Tưởng bắn vào những người đi bỏ phiếu, ở Miền Nam, Quân Pháp sử dụng máy báy ném bom địa điểm bỏ phiếu, các cán bộ MN đã phải mang hòm phiếu đến từng gia đình một. Nhưng cuối cùng cuộc tổng tuyển cử diễn ra thành công, với hơn 90% số phiếu bầu cho Bác giữ 2 vị trí quan trọng là Chủ tịch nước và Chủ tịch Đảng. Nhà nước ra đời hợp pháp nên mới có quyền được đặt quan hệ ngoại giao với các nước khác. Có như vậy thì Pháp mới chịu công nhận nước ta. Trong bất kì văn bản pháp lý nào Pháp kí với Vn trong giai đoạn này đều công nhận Việt Nam là một nước có chính phủ riêng, có nghị viện riêng, có quân đội riêng. Năm 1946, khi ta sang Pháp để đàm phán, họ buộc phải đón tiếp ta với tư cách là 1 nhà nước, chính phủ độc lập. - Nhà nước quản lý đất nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống. Từ khi bắt đầu hình thành NN, từ NN sơ khai đến các NN hiện đại như ngày hôm nay, luôn luôn phải có những bộ luật. Từ thời phong kiến, ta đã có bộ luật Hồng Đức, từ thời nhà Minh. Song hành cùng với đất nước là phải có 1 hệ thống pháp luật để quản lý đất nước, giữ cho đất nước có được kỉ cương - Trong việc thực thi hiến pháp và pháp luật, HCM luôn đảm bảo, chú ý đến tính nghiêm minh và hiệu lực. Dù bất kỳ ai, khi vi phạm pháp luật đều nhận hình thức xử lý như nhau, Chủ tịch nước từng đưa ra bản án tử hình cho 2 cán bộ thoái hoá biến chất, thể hiện tính nghiêm minh của Pháp luật với 2 tội tham ô và nhận hối lỗi. Trước khi đặt bút kí vào 2 bản án tử hình đó, BH đã băn khoăn, trăn trở rất nhiều, sau đó, Bác vẫn giữ nguyên bản án. 4. Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có tính hiệu quả. - Tích cực đẩy mạnh giáo dục, đào tạo đạo đức đi cùng với pháp luật, hài hòa đức trị và pháp trị. Đức trị là lãnh đạo đất nước bằng đạo đức, pháp trị là lãnh đạo đất nước bằng pháp luật, thể hiện sự kết hợp giữa cương và nhu. Đạo đức là yếu tố mềm mỏng, pháp luật là yếu tố cứng rắn. Cần thống nhất hài hòa giữa lí trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung nhưng không bao che cho sai lầm, khuyết điểm. Bác Hồ là người lấy khoan dung làm giáo dục thu phục lòng người, nhưng cũng dùng yếu tố pháp luật rất nghiêm minh. Tinh thần khoan dung trong TTHCM là 1 nội dung thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu, khi nói đến khoan dung, Bác Hồ đã sử dụng một hình ảnh rất đẹp: sông sâu biển rộng tại sao chứa được nhiều nước, bởi vì độ và lượng của nó sâu và rộng, cái chén cái đĩa nhỏ tại sao chức được ít nước, bởi vì độ và lượng của nó nông và hẹp. Lòng người mà không có tinh thần khoan dung, độ lượng, giống như cái chén, cái đĩa nhỏ, một chút nước đổ vào thôi là đã đầy. Do đó phải phối hợp hai yếu tố hợp lý để xây dựng lòng người, tạo nhà nước nghiêm minh về mặt pháp luật. - Tích cực đẩy mạnh đấu tranh chống lại các thứ giặc nội xâm là quan liêu, tham ô, lãng phí. Người viết: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ” nó là: “Kẻ thù khá nguy hiểm vì nó không mang gươm, mang súng mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng mọi việc của ta”. Theo Hồ Chí Minh, trong ba kẻ thù trên, tham ô là kẻ thù nguy hiểm nhất, bởi đó là hành động xấu xa nhất trong xã hội. Nó nguy hiểm đến mức mà Người từng xếp căn bệnh này ngang hàng với tội phản quốc. - Xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên chức nhà nước có đủ đức đủ tài, hăng hái thành thạo công việc, giỏi chuyên môn nghiệp vụ. Đây là một nội dung rất quan trọng để xây dựng nhà nước trong sạch, hđ hiệu quả. Nếu NN như 1 bộ máy thì đội ngũ công chức chính là những người vận hành, bộ máy ấy vận hành có trơn tru, hiệu quả không phụ thuộc nhiều vào cán bộ công chức. Chính vì vậy, từ rất sớm, BH đã nói rằng :” Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”“Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” ● Để xây dựng một người cán bộ công chức đủ đức và tài, cần có các phẩm chất gì : + Phải tuyệt đối trung thành với cách mạng, trung thành với đất nước để phục vụ TQ, phụng sự nhân dân + Hăng hái thành tạo công việc, giỏi chuyên môn “ vừa hồng vừa chuyên “ -vừa tốt phẩm chất đạo đức vừa giỏi chuyên môn + Có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, phải gần dân để thấu hiểu dân, phải lắng nghe tâm tư tình cảm của nhân dân, không hách dịch + Cán bộ công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, thắng không kiêu bại không nản. + Phải thường xuyên thực hiện việc phê bình và tự phê bình. BH đã từng quan niệm “ PB và tự PB như việc đánh răng, rửa mặt hàng ngày”. Bác đặt “Tự phê bình” lên trước phê bình bởi trước khi muốn phê bình người khác thì mình phải phê bình bản thân trước VII. TƯ TƯỞNG HCM VỀ ĐẠO ĐỨC a) Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức - Theo tư tưởng HCM, đạo đức là gốc của con người, đặt biệc là người làm CM. Bác Hồ nói rằng: “Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Trong CM thì vấn đề đạo đức CM luôn được đặt lên hàng đầu. Vì làm CM thì phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, nguy hiểm. Thậm chí khi bị địch phát hiện, bọn chúng sẽ tra tấn bằng mọi thủ đoạn. Nếu như trong hoàn cảnh ấy, người CM không giữ vững được đạo đức CM thì chắc chắn không thể bảo vệ cho các cơ sở CM. - Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH: ta hướng tới xây dựng 1 xã hội nhân văn đấy chính là những yếu tố hấp dẫn của CNXH. - Đạo đức là thước đo đánh giá lòng cao thượng của con người: “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng những ai giữ được đạo đức đều là cao thượng.” - Đức phải luôn đi đôi với tài “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó” Chính vì thế, tài với đức phải có sự thống nhất luôn đi đôi với nhau. Nếu một người chỉ có tài mà không có đức thì sẽ rất nguy hiểm. Hitler nổi tiếng là người rất có tài nhưng cũng rất tàn bạo của chủ nghĩa Phát-xit Đức. b) Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng Trung với nước, hiếu với dân: Bắt nguồn từ nội dung của Nho giáo: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”, được BH chuyển hóa, tiếp nhận thành 1 phẩm chất của người CM. Trung với nước, hiếu với dân là thể hiện trách nhiệm của mỗi người với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên và phát triển của đất nước. - Trung với nước: Trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, phải biết đặt lợi ích của CM và của Tổ quốc lên trên hết. Tôn trọng và chấp hành mọi chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước. Ra sức phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. - Hiếu với dân: Phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: đây là phẩm chất đạo đức được HCM đề cập nhiều nhất, người nói ngay từ trong tác phẩm “ Đường cách mênh” nói trong mọi thời kỳ và nói cả trong “di chúc” trước khi Người vĩnh biệt chúng ta; bởi vì những phẩm chất này gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người và mỗi người phải lấy bản thân mình làm đối tượng để thực hành các phẩm chất trên. BH nói rằng, nếu một người “Cần mà không kiệm thì "Làm chừng nào xào chừng ấy", cũng như một cái thùng không đáy, nước đổ vào bao nhiêu lại chảy ra ngoài bấy nhiêu. Kiệm mà không cần thì không tăng thêm, không phát triển được. Người từng nói "Trời có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông/Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính/Thiếu một mùa thì không thành trời/Thiếu một phương thì không thành đất/Thiếu một đức thì không thành người". Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch sáng tạo, có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực. Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức….”. Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của dân:,” không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước và của nhân dân”; “ không tham địa vị, không tham tiền tài,… không tham tâng bốc mình….”. Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại: đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành và khiêm tốn, đoàn kết. Chí công vô tư: là luôn đặt việc công lên trước việc tư. Phải biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào; đặt lợi ích của CM, của nhân dân lên trước hết. Thực hành chí công vô tư phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức CM. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau: cần, kiệm, liêm, chính sẽ dần đến chí công vô tư ngược lại chí công vô tư, một lòng vì nước vì Đảng, vì dân thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và sẽ có được nhiều đức tính tốt khác. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa: Để tạo ra 1 XH hài hòa, nhân văn thì con người phải thương yêu nhau, sống với nhau có tình có nghĩa: Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức HCM xuất phát từ tuyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Tinh thần quốc tế trong sáng: thể hiện mối quan hệ trong sáng, sẵn sàng giúp các nước khác. Trước đây, BH đã có quan hệ rất tốt đẹp với các quốc gia trên TG. c) Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức theo TTHCM - Nói đi đôi với làm, tránh mọi biểu hiện của nói mà ko chịu làm hoặc nói nhiều làm ít: Nói và làm luôn song hành cùng nhau. HCM chỉ ra: đối với mỗi người lời nói phải đi đôi với việc làm thì hiệu quả mang lại mới thiết thực, hoặc nói mà ko làm, nói 1 đằng làm 1 nẻo sẽ không hiệu quả phản tác dụng. Cần chống thói đạo đức giả, mị dân, dùng lời nói để đỡ chân tay, luôn dối trá lừa lọc. HCM cho rằng 1 tấm gương sống có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền. Vì vậy cần xd những tấm gương người tốt việc tốt. - Xây đi đôi với chống, chống mọi biểu hiện của hành vi tiêu cực đạo đức. Xây là giáo dục những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức CM cho con người VN trong thời đại mới theo tư tưởng HCM. Chống là phải chống các biểu hiên, các hành vi vô đạo đức, chống chủ nghĩa cá nhân, cửa quyền hách dịch. Xây đi đối với chống trên cơ sở tự giác dục, đồng thời phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. - Có sự tu dưỡng đạo đức suốt đời: BH đã từng nói “Giống như vàng càng luyện càng sáng, ngọc càng mài càng trong”. HCM chỉ rõ: việc tèn luyện, tu dưỡng bền bỉ suốt đời phải như công việc rửa mặt hàng ngày. Bác viết: “ Đạo đức CM không phải trên trời sa xuống. Nó do quá trình đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.”