You are on page 1of 15

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG –

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC

I. THẾ GIỚI QUAN VÀ CÁC HÌNH THỨC CỦA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT
1. Thế giới quan và các hình thức cơ bản của nó
a) Thế giới quan
 Định nghĩa: Thế giới quan là toàn bộ các quan niệm, quan điể m của con người về thế giới, về
bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy.
 Kết cấu: Thế giới quan bao gồm các quan niệm, quan điểm của con người về thế giới,
về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy. Lúc mới hình
thành, chúng còn hỗn độn; nhưng do nhận thức càng ngày càng sâu sắc, càng phản ánh tính
thống nhất của thế giới mà chúng càng thể hiện như một hệ thống ràng buộc, quy định lẫn
nhau. Các quan niệm, quan điểm của thế giới quan bao giờ cũng hòa quyện trong mình tri
thức với niềm tin, lý trí với tình cảm, sự thật với những điều hoang đường… và trãi rộng trên
khắp các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, đạo đức, nghệ thuật,…), trên khắp các cấp độ họat động
nhận thức (cảm tính lý tính, kinh nghiệm – lý luận, đời thường và khoa học,…) của con
người1.
- Trong thế giới quan, nhờ niềm tin mà tri thức của con người trở nên sâu sắc, bền vững;
nhờ tình cảm mà lý trí của con người có chiều sâu và sức mạnh chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp
hành vi của con người trong cuộc sống…
- Sự hòa quyện của tri thức với niềm tin, lý trí với tình cảm,… làm cho thế giới quan con
người trở thành một khối tinh thần thống nhất, khá ổn định, giúp con người vượt qua những
phức tạp, vượt lên những bất ổn của đời sống xã hội, những hụt hẫng hoài nghi trong cuộc
sống đời thường. Sự hòa quyện đó tạo thành cơ sở cho mọi niềm tin, hiểu biết, khát vọng và
hành động của con người.
 Chức năng: Thế giới quan vừa là lăng kính để qua đó, con người nhìn nhận, suy tư,
chiêm nghiệm về thế giới; vừa là cẩm nang hướng dẫn cuộc sống cho con người. Thế giới
quan có nhiều chức năng (giáo dục, thẫm mỹ, đạo đức,…) nhưng chức năng chính của nó là
định hướng họat động nhận thức và thực tiễn cho con người trong thế giới mà họ đang sống.
 Phân loại
- Dựa trên chủ thể, thế giới quan được chia thành thế giới quan cá nhân và thế giới quan
cộng đồng (giai cấp,…).
- Dựa trên nội dung, thế giới quan được chia thành thế giới quan thần thoại, thế giới quan
tôn giáo, thế giới quan triết học và thế giới quan khoa học.
b) Các hình thức cơ bản của thế giới quan
 Thế giới quan thần thoại
- Thế giới quan thần thoại là thế giới quan chứa đầy những hình tượng cảm tính hoang
đường hoà quyện vào lý trí ngây thơ của con người nguyên thuỷ mông muội về thế giới muôn
loài xung quanh. Dù phản ánh xuyên tạc hiện thực nhưng nó lại xuất phát từ hiện thực cuộc
sống của các cộng đồng người nguyên thủy mông mụi cố giải thích cuộc sống xung quanh, cố
truy tìm cội nguồn của cộng đồng mình trong những tưởng tượng viễn vông.
- Đặc điểm chung của mọi thế giới quan thần thoại là cố giải thích “các lực lượng của tự
nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng” 2; mọi thế giới quan thần thoại “đều truy tìm

1
R.Đềcáctơ ví thế giới quan như một cây đại thụ mà gốc rễ của nó là siêu hình học; thân của nó là vật lý học; còn cành, nhánh của nó là các
ngành khoa học còn lại như toán học, sinh học, đạo đức học, chính trị học, v.v..
2
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.890.
nguồn gốc thị tộc – những thị tộc đã có trước thần thoại, và thần thoại là do chính bản thân thị
tộc sáng tạo ra với những vị thần và bán thần; cũng chỉ đều là cái thực tế đã qua phản ánh
hoang tưởng vào những câu chuyện của con người nguyên thuỷ”3.
- Thế giới quan thần thoại thể hiện qua các truyền thuyết, các huyền thoại hoang đường
(câu chuyện thần thoại).
 Thế giới quan tôn giáo
- Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan dựa trên niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của
các lực lượng siêu nhiên, thần thánh (những lực lượng tinh thần, vô hình chi phối giới tự
nhiên và đời sống trần tục của con người) để giải thích mọi hiện tượng xảy ra trong thế giới tự
nhiên, trần tục; và quy định hành vi, thái độ của con người đối với các lực lượng siêu nhiên,
thần thánh đó.
- Thế giới quan tôn giáo thể hiện trong các giáo lý (giáo lý là hạt nhân lý luận của thế giới
quan tôn giáo) và các nghi thức, tín ngưỡng (những hình thức sùng bái lực lượng siêu nhiên,
thần thánh của con người ngoan đạo).
- Với niềm tin cao hơn lý trí, tín điều quan trọng hơn sự thật, thế giới quan tôn giáo vừa
phản ánh sự nghèo nàn của hiện thực vừa phản kháng chống lại sự nghèo nàn ấy; nó hướng
con người đến thế giới hoàn thiện, hoàn mỹ sau khi chết. Nó là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận đông đảo quần chúng nhân dân có cuộc sống vật chất nghèo nàn và đời sống tinh thần
tăm tối.
+ “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con
người – những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh
trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”4.
+ “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ
ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của con
người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đã đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma
quỷ, vào những phép mầu, v.v.”5.
 Thế giới quan triết học
- Thế giới quan triết học là một hệ thống quan điểm, quan niệm của con người về thế giới,
về bản thân, cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy. Thế giới quan triết học xuất
hiện khi nhận thức của con người đạt được trình độ cao (khi tư duy lý luận trừu tượng, khái
quát ra đời) và xã hội có nhu cầu chỉ đạo cuộc sống bằng tư tưởng.
- Thế giới quan triết học được thể hiện qua một hệ thống các phạm trù (hệ thống lý luận
triết học). Triết học đồng nhất với thế giới quan triết học; chúng là hạt nhân lý luận của thế
giới quan con người. Thế giới quan triết học bao gồm thế giới quan duy vật và thế giới quan
duy tâm.
+ Thế giới quan duy vật cho rằng, bản chất của thế giới là vật chất; đời sống vật chất
quyết định đời sống tinh thần; con người quyết định số phận của mình trong cuộc sống hiện
thực… Thế giới quan duy vật có các hình thức lịch sử là: thế giới quan duy vật chất phác, thế
giới quan duy vật siêu hình, thế giới quan duy vật biện chứng.
+ Thế giới quan duy tâm cho rằng, bản chất của thế giới là cái tinh thần; các yếu tố tinh
thần quyết định đời sống vật chất; các lực lượng tinh thần chi phối cuộc sống con người trong
hiện thực. Thế giới quan duy tâm có các hình thức lịch sử là: thế giới quan duy tâm thô sơ, thế
giới quan duy tâm - tôn giáo, thế giới quan duy tâm văn minh (triết học).
- Khi phân biệt thế giới quan triết học với thế giới quan khác, C.Mác viết: “… các vị
hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị nguyền rủa, than vãn, triết học dạy bảo;
các vị hứa hẹn thiên đường và toàn bộ thế giới, triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý;
3
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.154-156.
4
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.437.
5
V.I.Lênin: Toàn tập, T.20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.169-170.
các vị đòi hỏi tin tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào các kết
luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài nghi; các vị dọa dẫm, triết học an ủi.
Và, thật thế, triết học biết cuộc sống khá đầy đủ để hiểu rằng những kết luận của nó không
bao giờ bao dung sự khao khát hưởng lạc và lòng vị kỷ – của cả thiên giới lẫn thế giới trần
tục”6.
 Thế giới quan khoa học
- Thế giới quan khoa học là một hệ thống tri thức được tổng kết từ các kết quả của mọi
quá trình nghiên cứu (như nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu lý thuyết) và dự báo của các
ngành khoa học. Thế giới quan khoa học luôn được bổ sung và hoàn thiện theo sự tăng trưởng
tri thức của con người, theo sự phát triển của các ngành khoa học, đặc biệt là các ngành khoa
học tự nhiên.
- So với các hình thức thế giới quan khác thì thế giới quan khoa học xuất hiện khá muộn,
khi các ngành khoa học (tự nhiên và xã hội,…) vươn lên, tự tách mình ra khỏi triết học, tự
khẳng định sự tồn tại tương đối độc lập của mình; đồng thời trong xã hội xuất hiện nhu cầu
cần có tri thức cụ thể để chỉ đạo, hướng dẫn các lĩnh vực đời sống cụ thể.
- Thế giới quan khoa học có vai trò to lớn trong việc chỉ đạo hoạt động nhận thức khoa
học (nghiên cứu – khám phá thế giới) và hoạt động thực tiễn cách mạng (cải tạo thế giới) của
con người. Cũng như thế giới quan nói chung, thế giới quan khoa học lúc ban đầu cũng không
tránh khỏi tính rời rạc (khi khoa học còn mang nặng tính kinh nghiệm hay chịu ảnh hưởng sâu
đậm bởi phương pháp siêu hình), dần dần sau đó nó mang tính hệ thống cao (khi khoa học
chuyển sang giai đoạn nghiên cứu lý thuyết và chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi những ý tưởng
triết học). Khi dựa trên những quan điểm duy vật (đặc biệt là quan điểm duy vật biện chứng)
để tổng kết, khái quát tất cả các thành tựu kinh nghiệm và thành tựu lý thuyết của mình, thế
giới quan khoa học sẽ góp phần xây dựng một mô hình tư tưởng về thế giới như một chỉnh thể
thống nhất, tức làm xuất hiện bức tranh khoa học về thế giới7.
- Thế giới quan khoa học không chỉ được hình thành và phát triển dựa trên cơ sở bức
tranh khoa học về thế giới mà còn dựa trên các nền tảng tư tưởng của triết học duy vật, đặc
biệt là triết học duy vật biện chứng. Triết học duy vật biện chứng là hạt nhân của thế giới quan
khoa học, là cơ sở để tổng kết tri thức các ngành khoa học xây dựng nên bức tranh khoa học
về thế giới. Sau một quá trình phát triển mạnh mẽ, bức tranh khoa học về thế giới lại rơi vào
tình trạng khó khăn, khủng hoảng và sau đó là sụp đổ để đưa đến sự hình thành một bức tranh
khoa học mới về thế giới, có tính bao quát và tinh xác hơn. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa là sự sụp đổ của triết học duy vật biện chứng, mà đó chỉ là sụp đổ của những khái quát
của một giai đoạn nhận thức khoa học, tức sự sụp đổ của một giới hạn nhất định trong tiến
trình nhận thức vô tận của con người mà các ngành khoa học phải đi qua, để thông qua đó mà
khoa học phản ánh thế giới ngày càng tinh xác thêm, những khái niệm khoa học ngày càng
bao quát và sâu sắc thêm. Tức sự phát triển của nó tuân theo các quy luật của phép biện
chứng.
2. Các hình thức lịch sử của thế giới quan duy vật
a) Thế giới quan duy vật chất phác
 Thực chất: Thế giới quan duy vật chất phác là một hệ thống các quan điểm, quan niệm
ngây thơ về thế giới và con người. Các quan điểm, quan niệm của thế giới quan này đều xuất
phát từ luận điểm cơ bản cho rằng, căn nguyên của vạn vật là một (hay vài) dạng vật chất cụ
thể cảm tính nào đó mà sự biến đổi theo lẽ tự nhiên của nó làm cho vạn vật trong thế giới (bao
gồm cả con người và đời sống tinh thần của họ) được sinh thành hay bị hủy diệt. Thế giới
quan duy vật chất phác xuất hiện vào thời cổ đại, khi mà hoạt động thực tiễn của con người
6
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.159.
7
Bức tranh khoa học về thế giới là một mô hình tư tưởng về thế giới; trong đó, cấu trúc, tính chất và quy luật vận động, phát triển của thế
giới được thể hiện như một chỉnh thể thống nhất. Bức tranh khoa học về thế giới được xây dựng nhờ vào quá trình tích hợp tri thức của các
ngành khoa học tự nhiên, các ngành khoa học xã hội và nhân văn, các ngành khoa học về con người…, dựa trên các cơ sở lý luận của triết
học duy vật mà ngày nay là triết học duy vật biện chứng.
còn quá thấp, khi mà nhận thức của con người còn quá ngây thơ, đơn giản, chủ yếu dựa trên
những kinh nghiệm đời thường. Thế giới quan duy vật chất phác được thể hiện trong tư tưởng
của trường phái triết học duy vật như: trường phái âm dương - ngũ hành; trường phái Milê;
trường phái Lôkayata; trường phái nguyên tử; … Nó thường là thế giới quan của một bộ phận
giai cấp chủ nô hay tầng lớp quý tộc tiến bộ thống trị trong xã hội.
 Thành tựu và hạn chế
- Thế giới quan duy vật chất phác không dựa vào cái siêu nhiên hay lòng tin, đức tin tôn
giáo mà dựa vào cái tự nhiên, dựa vào lý trí hay lẽ phải đời thường của chính con người để lý
giải thế giới và đời sống của họ. Thế giới quan duy vật chất phác đã đặt ra những vấn đề mà
triết học và khoa học đời sau phải giải đáp; do vậy, nó đã thúc đẩy hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người phát triển, nó góp phần củng cố sức mạnh tinh thần cho các
lực lượng chính trị tiến bộ trong xã hội…
- Thế giới quan duy vật chất phác thường đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể; do đó, nó
thường mang tính trực quan, tính phỏng đoán, thiếu chứng cứ khoa học. Thế giới quan duy
vật chất phác không triệt để, vì nó không lý giải được bản tính của các hiện tượng tinh thần
cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất; nó mới chỉ giải thích thế giới chứ
chưa thật sự góp phần cải tạo thế giới.
b) Thế giới quan duy vật siêu hình
 Thực chất: Thế giới quan duy vật siêu hình là một hệ thống các quan điểm, quan niệm
khá chặt chẽ về thế giới và con người. Các quan điểm, quan niệm của thế giới quan này đều
xuất phát từ luận điểm cơ bản cho rằng, cơ sở của vạn vật là các phần tử vật chất gián đoạn
hay một môi trường vật chất liên tục nào đó; mà sự vận động, biến đổi của nó theo các quy
luật cơ học (tự nhiên) làm cho vạn vật trong thế giới (bao gồm cả con người và đời sống tinh
thần của họ) được sinh thành hay bị hủy diệt. Thế giới quan duy vật siêu hình biểu hiện rõ nét
nhất vào thế kỷ XVII - XVIII ở Tây Aâu, khi quan điểm cơ học và phương pháp phân tích
mang lại rất nhiều kết quả đáng khích lệ. Nó là kết quả của việc đề cao quan điểm cơ học và
phương pháp phân tích… khi mà khoa học tự nhiên (trừ cơ học) còn quá thô sơ, chủ yếu dựa
trên những quan sát, kinh nghiệm trực tiếp. Thế giới quan duy vật siêu hình được thể hiện
trong tư tưởng của trường phái triết học duy vật như: trường phái duy vật kinh nghiệm Anh,
chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp, … Sự hình thành và phát triển của thế giới quan duy vật
siêu hình gắn liền với quá trình xây dựng và củng cố phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
nó chính là thế giới quan của giai cấp tư sản tiến bộ đang vươn lên thống trị mọi mặt đời sống
xã hội phương Tây.
 Thành tựu và hạn chế
- Thế giới quan duy vật siêu hình có ảnh hưởng đến tiến bộ của các ngành khoa học tự
nhiên. Nó không chỉ giúp đào sâu, mở rộng nhiều hiểu biết về từng lĩnh vực của giới tự nhiên
mà còn góp phần đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm – tôn giáo vốn thống trị trên cả
ngàn năm ở phương Tây. Nó là sức mạnh tinh thần giúp củng cố và thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ và vững chắc của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa giai cấp tư sản lên vũ
đài chính trị nắm lấy vai trò lãnh đạo xã hội.
- Thế giới quan duy vật siêu hình đồng nhất vật chất với một dạng thể cụ thể của nó; tuyệt
đối hóa vận động cơ học; coi vạn vật, kể cả con người, như những cỗ máy; nó không thấy
được nguồn gốc vận động của thế giới. Do vậy, thế giới quan duy vật siêu hình mang tính
máy móc, không hiểu đúng bản chất của con người, không lý giải được bản tính của các hiện
tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất, tức nó không triệt để.
Đặc biệt, thế giới quan duy vật siêu hình đã mang lại phong cách tư duy siêu hình, biến các
hiểu biết tương đối của con người (những nguyên lý của khoa học,…) thành những chân lý
tuyệt đối bất biến, do đó nó đã ngăn cản sự ra đời của các ngành khoa học lý thuyết vào cuối
thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, đưa khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm
trọng. Về điều này, V.I.Lênin đã viết như sau: “Thực chất của cuộc khủng hoảng của vật lý
học hiện đại là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự gạt bỏ
thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa
duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri” 8. “Vật lý học mới sở dĩ đi chệch sang phía chủ nghĩa duy
tâm, chủ yếu là vì các nhà vật lý học không hiểu được phép biện chứng” 9. “Vật lý học hiện
đại đang nằm trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một cuộc sinh đẻ
đau đớn”10.
c) Thế giới quan duy vật biện chứng
 Thực chất (xem Mục II): Thế giới quan duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Aêngghen
xây dựng vào giữa thế kỷ XIX, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển vào đầu thế kỷ XX. Quá trình
hình thành và phát triển của thế giới quan duy vật biện chứng gắn liền với thực tiễn đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, gắn liền với các thành tựu mới của các ngành
khoa học lúc bấy giờ (mà trước hết là các ngành khoa học tự nhiên như vật lý học, sinh học)
và thành tựu lý luận triết học của nhân loại (mà trước hết là các thành tựu trong triết học của
Phoiơbắc và triết học của Hêghen). Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan của giai
cấp vô sản bị áp bức, bóc lột đang đấu tranh vì sự tiến bộ và bình đẳng của con người. Thế
giới quan duy vật biện chứng được thể hiện trong triết học Mác – Lênin và quan điểm của các
lãnh tụ chân chính của giai cấp vô sản.
 Thành tựu: Thế giới quan duy vật biện chứng mang lại cho các ngành khoa học hiện đại
cơ sở thế giới quan và cơ sở phương pháp luận phổ biến để thúc đẩy nghiên cứu, khám phá
thế giới, xây dựng bức tranh khoa học về thế giới, và qua đó tiến hành cải tạo cách mạng thế
giới. Thế giới quan duy vật biện chứng chống lại thế giới quan duy tâm – tôn giáo; nó là sức
mạnh tinh thần giúp giai cấp vô sản và quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng
loài người ra khỏi áp bức, bóc lột, bất công hướng đến xây dựng một xã hội công bằng, bình
đẳng, ấm no, hạnh phúc cho mọi người – chủ nghĩa cộng sản.

II. NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỚI TÍNH
CÁCH LÀ HẠT NHÂN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân lý luận của thế
giới quan khoa học
Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân lý luận của thế giới
quan khoa học bao gồm hai nhóm quan niệm. Đó là nhóm quan niệm duy vật về thế giới nói
chung và nhóm quan niệm duy vật về xã hội nói riêng.
a) Quan điểm duy vật về thế giới
 Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Thế giới (mọi sự vật, hiện tượng, quá
trình) có tồn tại hay không? Nếu thế giới thật sự tồn tại thì nó có thống nhất hay không? Nếu
thế giới thống nhất thì cái gì là cơ sở của sự thống nhất đó? … Các nhà triết học duy tâm cho
rằng cơ sở thống nhất thế giới là một bản chất tinh thần nào đó, ví dụ như linh hồn vũ trụ, lý
tính thế giới, thượng đế, hay ý niệm tuyệt đối,… Còn các nhà triết học duy vật thì cho rằng
thế giới thống nhất, nhưng sự thống nhất đó không nằm trong sự tồn tại của thế giới, vì sự tồn
tại của thế giới chỉ là tiền đề của sự thống nhất thế giới. Tính thống nhất thật sự của thế giới
nằm trong tính vật chất của nó. Về điều này Aêngghen đã viết: “Tính thống nhất của thế giới
không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước
khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã” … “Tính thống
nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh
không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu
dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên”11.

8
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.318.
9
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.322.
10
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.388.
11
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.67.
 Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới: Toàn bộ “lâu đài” tư tưởng của triết
học duy vật được xây dựng dựa trên các luận điểm nền tảng – nội dung nguyên lý về tính
thống nhất vật chất của thế giới. Các luận điểm đó là:
- Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
- Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các sự vật, quá trình vật chất cụ thể, có một mức độ tổ
chức nhất định; đang biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau; là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau;
cùng chịu sự chi phối bởi các quy luật khách quan của thế giới vật chất.
- Ý thức, tư duy (tinh thần) con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức
cao - bộ óc con người và vật chất xã hội. Thế giới vật chất thống nhất và duy nhất.
 Phạm trù vật chất – phạm trù cơ bản, xuất phát của triết học duy vật biện chứng
- “Vật chất với tính cách là vật chất, là một sự sáng tạo thuần túy của tư duy và là một sự
trừu tượng. Chúng ta bỏ qua sự khác nhau về chất của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng,
với tư cách là những vật tồn tại hữu hình, vào khái niệm vật chất”12. Vì vậy: “Vật chất là một
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”13. “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận
động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”14.
+ “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của
vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”15.
+ Không gian, thời gian cũng là thuộc tính cố hữu của vật chất, là hình thức / phương thức
tồn tại của vật chất vật động. Không gian phản ánh tính đồng tồn tại và tách biệt (trật tự - cấu
trúc), độ dài; thời gian phản ánh tính trình tự (trước - sau), độ lâu của các các tiến trình vật
chất xảy ra trong thế giới.
+ Phản ánh cũng là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vật chất cụ thể trong thế giới không
ngừng vận động và phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện kéo theo năng lực phản ánh phát triển đưa đến sự xuất hiện của ý thức (tư duy,
tinh thần) con người. Ý thức là chức năng tinh thần của bộ óc con người, là hình thức phản
ánh cao cấp của vật chất cấp cao – bộ óc con người và vật chất xã hội.
 Phạm trù ý thức, quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan; nó mang bản tính bản tính phản
ánh - sáng tạo - xã hội và có cấu trúc rất phức tạp: “Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác
hơn là sự tồn tại được ý thức, và tồn tại của con người là quá trình sống hiện thực của con
người”16. “Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con
người còn tồn tại”17. Ý thức tồn tại trước hết trong bộ óc con người, và sau đó, thông qua thực
tiễn lao động, nó được vật chất hóa và có được sự tồn tại mới trong các vật phẩm do con
người sáng tạo ra (vật chất xã hội – vật chất mang / chứa ý thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu
tố như: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…, trong đó, tri thức (yếu tố cốt lõi) và tình
cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới,
nó phản ánh những hiểu biết của chủ thể về khách thể. Tình cảm là những rung động tâm lý
khá ổn định phản ánh thái độ của chủ thể - cá nhân con người - trước khách thể - hiện thực.
Tri thức và tình cảm thống nhất, chuyển hóa lẫn nhau (tình cảm không dựa trên tri thức là tình
cảm mù quáng, tri thức không chứa tình cảm là tri thức suông); sự thống nhất của chúng tạo

12
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.721.
13
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.151.
14?
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.209-210.
15
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.519.
16
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.38.
17
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.43.
ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người, góp phần làm cho con
người trở thành chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
- “Đương nhiên, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những
phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ
bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không nghi ngờ gì
nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”18.
- Thông quan hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người
xâm nhập vào hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức
mạnh này, ý thức tác động đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con người
không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới nữa. Do vậy mà C.Mác đã
viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực
lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành
lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”19.
 “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học
thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ
nhận thức xã hội loài người”20.
b) Quan điểm duy vật về xã hội
 Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên: Xã hội là kết quả phát triển lâu dài của tự
nhiên, thông qua và nhờ vào hoạt động lao động – hoạt động có ý thức của con người. Xã hội
có quy luật vận động, phát triển riêng, bao gồm cả các quy luật tự nhiên lẫn các quy luật xã
hội. Dù sự vận động, phát triển của xã hội do quy luật khách quan chi phối, song sự vận động,
phát triển đó phải thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của con người đang theo đuổi
những mục đích nhằm đạt những lợi ích để thỏa mãn những nhu cầu nhất định cho riêng
mình.
- Tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất đa dạng vô cùng, vô tận, luôn phát triển: từ giới tự
nhiên vô cơ đến giới tự nhiên hữu cơ; từ giới tự nhiên hữu cơ đến giới tự nhiên có mang sự
sống; từ sự sống đơn bào đến sự sống đa bào; từ vi sinh vật đến sinh vật; từ thực vật đến động
vật; từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao. Rồi sau đó là con người và xã hội loài người.
- Xã hội là kết quả của quá trình chuyển biến từ đời sống bày đàn, hành động theo bản
năng của loài vật (tự nhiên) thành đời sống cộng đồng, hành động có mục đích của con người;
là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa các con người, là biểu hiện của tổng số các mối quan
hệ giữa các cá nhân (xã hội).
- Hệ thống tự nhiên – xã hội là một chỉnh thể bao gồm những yếu tố tự nhiên và những
yếu tố xã hội luôn tác động qua lại, quy định sự tồn tại và phát triển của nhau. Trong đó, tự
nhiên vừa là nguồn gốc vừa là điều kiện, môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Dù tự
nhiên tác động âm thầm, tự phát đến xã hội; nhưng xã hội tác động đến tự nhiên bao giờ cũng
thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của con người mà trước hết là thông qua thực tiễn lao
động sản xuất vật chất. Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn lao động sản xuất vật chất có ý
thức, con người từng ngày, từng giờ cải tạo, biến đổi tự nhiên để phục vụ cuộc sống cho chính
mình.
 Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Những giai đoạn sản xuất xã hội khác nhau
sản sinh ra những kiểu đời sống xã hội khác nhau. Yếu tố cốt lỏi của nền sản xuất vật chất của
xã hội là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất quyết định mọi quá trình sinh hoạt của
đời sống xã hội. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Về thực chất, lịch sử tồn tại và phát
triển xã hội loài người gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của nền sản xuất ra của cải vật
chất, gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của các phương thức sản xuất ra của cải vật chất.

18
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.173.
19
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.
20
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.53.
- Nền sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động do mình làm ra,
tác động cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên, nhằm tạo ra những vật phẩm thoả mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Nền sản xuất vật chất được thông qua quá trình
lao động của con người, diễn ra trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau là khác nhau, gắn liền
với những phương thức sản xuất vật chất (cách thức con người ở một giai đoạn lịch sử nhất
định thực hiện quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và
phát triển của xã hội) khác nhau. Phương thức sản xuất là sự thống nhất của lực lượng sản
xuất (quan hệ giữa con người với tự nhiên trong sản xuất) và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa
con người với con người trong sản xuất). Sự thay đổi của lực lượng sản xuất đến một lúc nào
đó sẽ làm thay đổi quan hệ sản xuất, tức thay đổi phương thức sản xuất.
- Sự thay đổi của quan hệ sản xuất sẽ làm thay đổi mọi quan hệ, mọi mặt của đời sống xã
hội từ kinh tế - cơ sở hạ tầng [tòan bộ các quan hệ sản xuất hợp lại thành kết cấu kinh tế của
xã hội ở một giai đọan nhất định] đến chính trị - kiến trúc thượng tầng [toàn bộ các quan điểm
về chính trị, pháp quyền, tôn giáo,...; các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái,
giáo hội, … được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định], từ lĩnh vực vật chất - tồn tại
xã hội [toàn bộ đời sống vật chất của xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định (phương thức
sản xuất, điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số…)] đến lĩnh vực tinh thần - yÙ thức xã hội
[toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội phản ánh tồn tại xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất
định (quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của các cộng đồng người trong
lịch sử)]. Trong xã hội, “không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, mà trái
lại sự tồn tại của họ quyết định ý thức của họ”21. “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai
cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật
chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội”22.
 Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên
- Đó là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, vừa thống nhất
vừa đa dạng, mà thực chất là lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất
phát triển đến một lúc nào đó sẽ kéo theo quan hệ sản xuất thay đổi, tức làm thay đổi phương
thức sản xuất; Phương thức sản xuất thay đổi làm cho cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội thay đổi theo, tức là làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội.
- Đó là lịch sử tạo nên từ các hoạt động cụ thể của những con người có lợi ích và mục
đích khác nhau nhưng không phụ thuộc vào lợi ích và mục đích của họ mà tuân theo các quy
luật khách quan của lịch sử. Chính con người chứ không phải các lực lượng siêu nhiên đã và
đang sáng tạo nên lịch sử. Tuy nhiên, không phải mọi con người đều là chủ thể chân chính
sáng tạo ra lịch sử nhân loại.
 Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử
- Quần chúng nhân dân là một cộng đồng người trong lịch sử mà dựa trên địa vị và lợi ích
của mình họ có thể tham gia giải quyết các vấn đề trọng đại của lịch sử và thúc đẩy lịch sử
tiến lên. Quần chúng nhân dân trước hết là những người lao động sản xuất ra của cải vật chất
và tạo ra các giá trị tinh thần; là những bộ phận dân cư chống lại sự áp bức, bóc lột; là những
giai - tầng xã hội góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
- Lịch sử được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân; bởi vì họ là lực lượng trực tiếp sản
xuất ra mọi của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, là lực lượng quyết định thành bại
của mọi cuộc biến đổi cách mạng xảy ra trong xã hội.
- Trong điều kiện lịch sử khác nhau, vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân biểu hiện
khác nhau. Cùng với quá trình giải phóng quần chúng nhân dân ra khỏi các lực lượng đen tối
của tự nhiên và xã hội, vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân càng ngày càng to
lớn.

21
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.607.
22
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.66.
- Sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ thật sự được phát huy cao độ khi họ được
hướng dẫn bởi các tổ chức chính trị – xã hội, dưới sự lãnh đạo của các lãnh tụ - cá nhân có
nhân cách vĩ đại, biết tập hợp, giác ngộ, tổ chức quần chúng nhân dân để giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể do lịch sử đặt ra23.
2. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân của thế giới
quan khoa học
a) Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan
điểm thực tiễn
 Nếu chủ nghĩa duy tâm nhận thấy tính năng động sáng tạo của ý thức nhưng nó đã tuyệt
đối hóa, thần thánh hóa ý thức thành cái siêu nhiên, thần thánh, đưa ý thức thoát ra khỏi thế
giới tự nhiên và đời sống xã hội của con người (vật chất), để sau đó quay về chi phối thế giới
tự nhiên và đời sống xã hội của con người (vật chất); thì chủ nghĩa duy vật cũ lại thiếu quan
điểm thực tiễn, đầy tính trực quan và tính máy móc, nên không nhìn thấy được tính năng động
sáng tạo của ý thức, không nhận thấy được vai trò quan trong của ý thức trong đời sống của
con người.
 Khi khắc phục các nhược điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất
có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn, ý thức con người xâm nhập vào lực
lượng vật chất, thông qua những lực lượng vật chất, nó tác động tích cực làm biến đổi hiện
thực vật chất (khách quan) theo nhu cầu (chủ quan) của con người. Như vậy, chủ nghĩa duy
vật biện chứng không chỉ đối lập với chủ nghĩa duy tâm (cả duy tâm khách quan lẫn duy tâm
chủ quan, duy ý chí) mà còn đối lập với chủ nghĩa duy vật tầm thường.
b) Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã thống nhất thế giới quan duy vật với phép biện
chứng
 Chủ nghĩa duy vật cũ (thế kỷ XVII - XVIII), kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc
mang nặng tính siêu hình, vì vậy những lý giải về thế giới của nó thường phiến diện, rời rạt,
máy móc; còn phép biện chứng chủ yếu được nghiên cứu trong các hệ thống triết học duy
tâm, đặc biệt là hệ thống triết học duy tâm của Hêghen nên nó thường tư biện, thần bí.
 Dựa trên thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản và các thành tựu khoa học lúc bấy giờ,
C.Mác đã cải tạo triệt để chủ nghĩa duy vật cũ để giải thóat chủ nghĩa duy vật ra khỏi tính siêu
hình; đồng thời C.Mác cũng cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm để giải thóat phép biện
chứng ra khỏi tính thần bí, tư biện; từ đó, C.Mác xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng
hay phép biện chứng duy vật. C.Mác đã thống nhất thế giới quan duy vật với phép biện
chứng.
c) Chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật triệt để; nó không chỉ duy vật
trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy vật trong lĩnh vực xã hội; chủ nghĩa duy vật lịch sử là
cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng của loài người.
 Chủ nghĩa duy vật cũ không triệt để; nó chỉ duy vật trong tự nhiên, còn trong lĩnh vực
xã hội, nó hoàn toàn duy tâm. Phoiơbắc – nhà duy vật vĩ đại nhất trước C.Mác, bậc tiền bối
của C.Mác cũng không phải là ngoại lệ.
 Chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời từ kết quả C.Mác và Aêngghen vận dụng chủ nghĩa
duy vật biện chứng vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội và tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán
tòan bộ tư tưởng xã hội của loài người trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản.
- “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật, Mác đã đưa học thuyết đó
tới chỗ hòan bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã
hội lòai người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa

23
Lãnh tụ là cá nhân có tri thức khoa học uyên bác, biết nắm bắt được xu thế vận động của giai cấp, dân tộc, thời đại; có năng lực tập hợp,
thống nhất ý chí, hành động của quần chúng nhân dân để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể do lịch đặt ra; luôn gắn bó mật thiết với quần
chúng nhân dân, và luôn biết hy sinh quên mình vì lợi ích cao cả của quần chúng nhân dân.
học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy
tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”24.
- “Tất cả những cái mà tư tưởng lòai người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại, đã
phê phán, và thông qua phong trào công nhân mà kiểm tra lại”.
 Khi đánh giá về tính chất duy vật triệt để trong triết học Mác, V.I.Lênin viết: “Triết học
của Mác là một chủ nghĩa duy vật hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là giai cấp
công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” 25. Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân lọai tiến bộ
có được một công cụ vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới.
d) Chủ nghĩa duy vật biện chứng mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con
người trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Sức mạnh vật chất
của giai cấp kết hợp nhuần nhuyễn với sức mạnh tinh thần của triết học tạo nên sức mạnh
tổng hợp của thời đại. Chỉ có sức mạnh tổng hợp này mới làm thay đổi trật tự của thế giới.
- "Giống như triết học tìm thấy vũ khí vật chất của mình trong giai cấp vô sản, giai cấp vô
sản tìm thấy vũ khí của mình trong triết học"26.
- Lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của nhân loại tiến bộ. Cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản giải phóng mình ra khỏi sự áp bức, bóc lột cũng là cuộc đấu tranh của
nhân loại tiến bộ và nó chỉ thắng lợi khi phát triển từ tự phát lên tự giác.
- Được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học, phản ánh các quy luật phát triển
khách quan của lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô
sản – một hệ tư tưởng chứa đựng trong mình sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách
mạng.
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà góp phần cải tạo thế
giới. Khi xâm nhập vào phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ, phép
biện chứng duy vật có được sức mạnh vật chất. Bằng sức mạnh vật chất này nó có thể đánh đổ
các lực lượng vật chất bảo thủ và phản động, vươn lên xây dựng một xã hội mới của con
người và dành cho con người – chủ nghĩa cộng sản.
- “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là
cải tạo thế giới”27. Để cải tạo thế giới hiệu quả giai cấp vô sản phải biết kết hợp sức mạnh vật
chất chính trị của mình với sức mạnh tinh thần của triết học duy vật biện chứng để tạo nên sức
mạnh tổng hợp vô địch. Vì vậy, C.Mác đã viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào
quần chúng”28.
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới
- Mọi cái hiện tồn đều chứa đựng trong mình sự tự phủ định; sớm muộn gì nó cũng
nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn. Trong thế giới luôn xảy ra những cuộc đấu
tranh giữa cái mới với cái cũ. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, phức tạp; cái mới có
thể thất bại tạm thời, nhưng cuối cùng cái mới sẽ thắng lợi.
- Chủ nghĩa cộng sản là một cái mới; nó nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản – cái cũ.
Và cuộc đấu tranh để khẳng định tính tất thắng của chủ nghĩa cộng sản trước chủ nghĩa tư bản
là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp, thậm chí không thể tránh khỏi những thất bại tạm
thời. Chủ nghĩa xã hội, sau bảy mươi năm xây dựng ở Liên Xô (cũ) và Đông Aâu, dù mang
lại không ít thành quả nổi bật nhưng đã thất bại. Đó là sự thất bại của một mô hình (cũ). Thất
24
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.53.
25
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.54.
26
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.589.
27
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.12.
28
C.Mác và Ph.Aêngghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.
bại này trở thành điều kiện, tiền đề cho sự ra đời một mô hình mới về chủ nghĩa xã hội. Công
cuộc Cải cách (Mở cửa) ở Trung Quốc, Đổi mới ở Việt Nam là một thí dụ sinh động. Với bản
chất bóc lột không hề thay đổi và những hậu quả nghiêm trọng không thể khắc phục được do
nó gây ra, chủ nghĩa tư bản dù vẫn tiếp tục tồn tại nhưng nó không thể là tương lai của nhân
loại. Tương lai loài người thuộc về chủ nghĩa cộâng sản.
- Là một hệ thống các quy luật phổ biến, chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành công cụ
tinh thần để xoá bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng cái mới tiến bộ.
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho hành động. Cùng
với quá trình đào sâu và mở rộng của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của nhân
loại, chủ nghĩa duy vật biện chứng không ngừng khái quát các thành tựu khoa học và những
kinh nghiệm thực tiễn của nhân loại để bổ sung, hiệu chỉnh nhằm hoàn thiện chính mình.

III. NGUYÊN TẮC KHÁCH QUAN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ
VIỆC VẬN DỤNG NÓ VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
1. Nguồn gốc của chủ nghĩa chủ quan
a) Vai trò và tác dụng của yÙ thức
 Trong hoạt động thực tiễn, các nhân tố ý thức (tri thức, tình cảm, ý chí, niềm tin, lý trí,
…) xâm nhập được vào các lực lượng vật chất; và khi thông qua các lực lượng vật chất, các
nhân tố ý thức thể hiện vai trò và tác dụng to lớn của mình.
 Vai trò của các nhân tố ý thức thể hiện qua việc vạch ra các chương trình, mục tiêu, kế
hoạch; tìm kiếm những biện pháp, phương tiện, công cụ (mà trước hết là những biện pháp,
phương tiện, công cụ vật chất), xây dựng các phương thức tổ chức thực hiện các chương trình,
mục tiêu, kế hoạch được đề ra; kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hoạt động của con người theo lợi
ích và mục đích được đã được xác định...
 Sức tác dụng của ý thức phụ thuộc vào mức độ xâm nhập của các nhân tố ý thức vào lực
lượng vật chất. Nếu các nhân tố ý thức không xâm nhập được vào lực lượng vật chất thì
chúng không có tác dụng gì cả. Còn ngược lại, nếu chúng xâm nhập càng sâu rộng vào các lực
lượng vật chất thì sức tác dụng của chúng đến hiện thực vật chất càng lớn.
 Khuynh hướng tác dụng của ý thức phụ thuộc vào tính chất phản ánh của các nhân tố ý
thức đối với hiện thức vật chất. Các các nhân tố ý thức xâm nhập được vào các lực lượng vật
chất phản ánh càng đúng quy luật khách quan của hiện thực thì chúng sẽ thúc đẩy hiện thực
đó phát triển nhanh. Còn ngược lại, nếu các nhân tố ý thức thức xâm nhập vào hiện thực phản
ánh không đúng quy luật khách quan của hiện thực hay chỉ dựa trên tình cảm, lợi ích… chủ
quan của lực lượng xã hội bảo thủ, lạc hậu thì chúng sẽ kìm hãm hiện thực đó phát triển; cho
dù sự kìm hãm đó chỉ mang tính tạm thời, nhưng đôi khi chúng gây ra tác hại rất lớn, trong
một quãng thời gian rất ngắn.
b) Chủ nghĩa chủ quan - một hình thức biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm
 Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thống nhất trong bản chất của ý thức, nếu tách sáng tạo
ra khỏi phản ánh, cường điệu nó thì sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ quan.
 Ý thức là một hiện tượng tinh thần có cấu trúc rất phức tạp bao gồm nhiều yếu tố khác
nhau nhưng thống nhất tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, tri thức là yếu tố cơ bản nhất. Dù
ý chí có vai trò to lớn trong hoạt động của con người, song nếu cường điệu vai trò của ý chí
thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí.
 Trong đời sống xã hội, cái vật chất và cái tinh thần, cái khách quan và cái chủ quan
thống nhất và chuyển hóa lẫn nhau, ranh giới phân biệt chúng là tương đối; nếu xác định
không đúng hay lẫn lộn chúng với nhau, thì dễ dẫn đến lấy cái chủ quan thay cho cái khách
quan, rồi tuyệt đối hóa nhân tố chủ quan nên cuối cùng rơi vào chủ nghĩa chủ quan.
 Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp mới, phức tạp, khó khăn, lâu dài, đòi hỏi
phát huy cao độ các nhân tố chủ quan (nhiệt tình cách mạng, ý chí...); Khi vai trò của nhân tố
chủ quan càng lớn thì nguy cơ mắc bệnh chủ quan, duy ý chí cũng càng lớn; khi đó, người ta
sẽ lấy nhiệt tình cách mạng thay cho tri thức khoa học, lấy ý chí chủ quan thay cho quy luật
khách quan nên từ bỏ dần quan điểm khách quan tự rơi dần vào chủ nghĩa chủ quan.
 Ở Việt Nam, bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội
chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi mới có nguyên nhân của nó
và nó đã gây ra những tác hại lớn trên nhiều lĩnh vực hoạt động của nước nhà.
- Nguyên nhân: Do yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý luận, ít kinh nghiệm trong
xây dựng và quản lý đất nước; Do mắc nhiều sai lầm ấu trĩ “tả” khuynh, nóng vội, những sai
lầm này xảy ra trong một điều kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta – một dân tộc biết phát
huy tối đa sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ...; Do không
xuất phát từ hiện thực cuộc sống, do bất chấp quy luật khách quan, do coi thường tri thức
khoa học cùng tầng lớp trí thức,…
- Tác hại: Tạo ra những chính sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt (kinh tế,
chính trị, xã hội…) rất nghiêm trọng và kéo dài, làm xói mòn lòng tin của nhân dân ta đối với
Đảng và sự nghiệp của Đảng.
 Chủ nghĩa chủ quan chỉ có thể khắc phục triệt để bằng cách quán triệt và thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc khách quan.
2. Nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a) Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng
 Nguyên tắc khách quan lần đầu tiên được bàn đến trong triết học duy vật kinh nghiệm
của Ph.Bêcơn. Tuy nhiên, trong nền triết học này, nguyên tắc khách quan không thể hiện
được tầm quan trọng của các nhân tố chủ quan của ý thức trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người. Khắc phục hạn chế này của nguyên tắc khách quan trong triết
học tư sản thời cận đại; đồng thời chỉ ra sai lầm của việc tuyệt đối hóa nhân tố chủ quan của
các trào lưu triết học duy tâm, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên nội dung lý luận của
nguyên lý thống nhất thế giới trong tính vật chất (xem: Mục II,1,a của Chương này) xây dựng
các yêu cầu của nguyên tắc khách quan.
 Vật chất là cái có trước so với tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn, và ở một giai đoạn phát
triển nhất định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên
trong quá trình nhận thức đối tượng chúng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ
quan của chúng ta về đối tượng, mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất
của chính nó; không được “bắt” đối tượng tuân theo tư duy, mà phải “bắt” tư duy tuân theo
đối tượng; không ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay một “lôgích” nào đó, mà
phải rút ra những sơ đồ từ đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng – cái lôgích
phát triển của chính đối tượng đó. Khi bàn về yêu cầu này, Ph.Ăngghen đã viết: “… các
nguyên lý không phải là điểm xuất phát của sự nghiên cứu mà là kết quả cuối cùng của nó;
những nguyên lý ấy không phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và vào lịch sử loài người,
mà được trừu tượng hóa từ giới tự nhiên và vào lịch sử loài người; không phải giới tự nhiên
và loài người phải phù hợp với các nguyên lý, mà trái lại các nguyên lý chỉ đúng trong chừng
mực chúng phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử” 29. Việc tuân thủ nguyên tắc khách quan trong
xem xét đã được V.I.Lênin chỉ rõ: “…tính khách quan của sự xem xét (không phải thí dụ,
không phải dài dòng, mà bản thân sự vật tự nó)”30.
 Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong
sự tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu
vào “thế giới” bên trong của sự vật. “Nghệ thuật” chinh phục như thế không thể không mang
đến cho sự vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một
tình thế khó khăn. Làm thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sự vật là
khách quan, là phù hợp với bản thân sự vật? Vấn đề càng trở nên nan giải hơn khi con người
29
C.Mác, Ph.Aêngghen, Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1994, tr.54.
30
V.I.Lênin, Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1987, tr.239.
chuyển đối tượng nhận thức của mình từ lĩnh vực vĩ mô sang siêu vĩ mô - vũ trụ hay vi mô -
thế giới của các hạt cơ bản, nghĩa là từ lĩnh vực cho phép sử dụng trực tiếp giác quan sang
lĩnh vực sử dụng gián tiếp giác quan hoặc sử dụng trí tưởng tượng là chủ yếu; từ lĩnh vực tự
nhiên sang lĩnh vực đời sống xã hội, – nơi luôn xảy ra va chạm giữa những cá nhân hay lực
lượng xã hội có mục đích, lợi ích khác nhau hay đối lập nhau. Trong những trường hợp này,
nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo
của chủ thể và nguyên tắc về tính đảng.
 Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày toàn bộ bản chất của mình ra thành
các hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái gì đã được bộc lộ ra
trước chủ thể. Do đó, để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể
không bổ sung những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả thuyết, đưa ra các dự đoán khoa
học... Thiếu những điều này tư duy sẽ không mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện bản
tính sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của chính mình. Quá trình phát triển của nhận thức là
quá trình khách quan hóa cái chủ quan và loại bỏ cái tùy tiện bám vào kết quả nhận thức. Tiêu
chuẩn cao nhất về tính khách quan cũng như cách nhận biết cái khách quan trong cái chủ quan
là thực tiễn xã hội. Con người không cảm nhận trực tiếp thế giới vi mô, nhưng con người
khẳng định được tính khách quan của tri thức về thế giới đó qua những nhà máy điện nguyên
tử, các hệ thống máy tính, các thiết bị viễn thông, các máy móc thông dụng thường ngày. Yêu
cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm
chí cải tạo đối tượng để tìm ra bản chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng
không phải tùy tiện, mà là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực
thuộc lĩnh vực nghiên cứu.
 Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các hiện
tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cả cái vật chất lẫn cái tinh thần,
chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý tưởng, và luôn chịu sự tác động của các lực lượng
tự phát của tự nhiên lẫn những lực lượng tự giác (ý chí, lợi ích, mục đích, nhân cách, cá tính
khác nhau) của con người. Ở đây, đối tượng – khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể tư duy
bằng hệ thống những mối liên hệ xã hội chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc
khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với yêu cầu phát huy
tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là nguyên
tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu phải xuất phát từ chính đối tượng,
từ những quy luật vận động và phát triển của nó, không được thêm bớt chủ quan tùy tiện, mà
nó còn đòi hỏi phải biết phân biệt những quan hệ vật chất với những quan hệ tư tưởng, các
nhân tố khách quan với các nhân tố chủ quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan của
tồn tại xã hội là những nhân tố quyết định. Còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng (ý thức
xã hội) được quy định bởi đời sống vật chất của con người và các quan hệ kinh tế của họ (tồn
tại xã hội) nhưng chúng có ảnh hưởng ngược lại tồn tại xã hội. Phải coi “xã hội là một cơ thể
sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy
móc, và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một
cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản
xuất cấu thành một hình thái kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật
vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”31.
 Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và
năng lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với
khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội,
v.v.. Những đánh giá có giá trị hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh
giá, những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai
cấp tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy, tính khách quan trong
xem xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên

31
V.I.Lênin, Toàn tập, T1, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tr.198.
tắc này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó
thành chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.
b) Các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng
 Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có, không được tuỳ tiện
đưa ra những nhận định, đánh giá chủ quan.
- Biết phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể, dám đưa ra các giả thuyết khoa học
có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả thuyết đó bằng thực
nghiệm.
 Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối nó.
- Dựa trên các quy luật khách quan đó vạch ra các chương trình, mục tiêu, kế hoạch; tìm
kiếm các biện pháp, công cụ, phương thức để tổ chức thực hiện các chương trình, mục tiêu, kế
hoạch đó; kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hoạt động của con người theo lợi ích và mục đích được
đặt ra.
3. Sự vận dụng nguyên tắc khách quan vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta
a) Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Cụ
thể:
 Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để hoạch định các đường
lối, chiến lược, sách lược xây dựng và phát triển đất nước.
 Biết tìm kiếm, khai thác, sử dụng những lực lượng vật chất (từ sức mạnh cá nhân đến
sức mạnh cộng đồng, từ sức mạnh kinh tế đến sức mạnh quân sự, kết hợp sức mạnh trong
nước với sức mạnh ngoài nước,…) để hiện thực hóa các đường lối, chiến lược, sách lược xây
dựng và phát triển đất nước.
 Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực
chủ yếu phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (lợi ích kinh tế,
lợi ích chính trị; lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần; lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã
hội…) thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc Đổi mới.
 Rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất bại trước Đổi mới, Đảng ta kết
luận: “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách
quan”32.
b) Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của các yếu tố chủ
quan (tri thức, tình cảm, ý chí, lý trí,...), tức phát huy vai trò nhân tố con người trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn cải tạo đất nước. Cụ thể:
 Coi sự thống nhất giữa tình cảm (nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước, ý chí quật
cường,…) và tri thức (kinh nghiệm dựng nước và giữ nước, hiểu biết khoa học – kỹ thuật /
công nghệ hiện đại,…) là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc Đổi mới. Chống lại thái độ
thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ chỉ biết làm theo kiểu cũ, mà không biết tìm kiếm cái mới và
dũng cảm làm theo cái mới. Cần bồi dưỡng nhiệt tình, phẩm chất cách mạng; cần khơi dậy
lòng yêu nước, ý chí quật cường, tài trí người Việt Nam, v.v.. Phải phổ biến tri thức khoa học
– công nghệ hiện đại cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân; phải biết nâng cao dân trí,
bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài.
 Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng, đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đông đảo người Việt Nam chúng ta. Phải nâng cao
và đổi mới tư duy lý luận, mà trước hết là tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

32
Đảng CSVN: Cương lĩnh xạy dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.5.
 Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ,
hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng mà bất chấp quy luật
khách quan, coi thường tinh hình thực tế.

You might also like