You are on page 1of 21

1MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ UỶ QUYỀN. 2


1. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ? 2
2. Cho biết điểm mới của Bộ Luật dân sự 2015 và Bộ Luật dân sự 2005 về chế
định “thực hiện công việc không có ủy quyền”. 3
3. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”
theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện. 4
4. Quy định về “thực hiện công việc không có ủy quyền” của một hệ thống pháp
luật nước ngoài. 5
5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu
cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định
“thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời. 5
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN) 6
1) Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào?
Qua trung gian là tài sản gì? 7
2) Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền
cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời. 8
3) Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng
bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/ DS-GĐT không? Vì sao? 9
4. Đối với tình huống như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng
cụ thể là bao nhiêu? Vì sao? 9
5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu
một tiền lệ (nếu có). 10
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THOẢ THUẬN. 11
1. Điểm giống nhau và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận? 11
2. Thông tin nào trong bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú. 13
3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh? 13
4. Suy nghĩ của anh chị về đánh giá của Tòa án? 14
5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu còn có trách nhiệm với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ chuyển
giao? Nêu cơ sở pháp lý? 14
6. Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu còn có nghĩa
vụ trách nhiệm với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh chị biết? 15
7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền. 16
8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có nghĩa vụ
ban đầu và người có quyền. 17
9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án. 18
10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm
dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời. 19

1
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ UỶ QUYỀN.
Tóm tắt tình huống: Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây
dựng một công trình công cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà
không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A trong
khi đó, theo quy định, B không được tự ý ký hợp đồng với C vì đây là công việc của
chủ đầu tư A (thực tế Ban quản lý dự án B không có nhiều tài sản để thanh toán cho
C).
1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Điều 574 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về “Thực hiện công việc không có ủy
quyền:
“Điều 574. Thực hiện công việc không có ủy quyền
Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”
Vậy thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực
hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.

2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ? Phát sinh nghĩa vụ giữa ai với ai, điều đó có hợp lý không?
Khoản 3 Điều 275 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về “căn cứ phát sinh nghĩa
vụ” có nhắc tới một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ là “Thực hiện công
việc không có ủy quyền”. Ngoài ra Khoản 8 Điều 8 Bộ Luật dân sự năm 2015 cũng
nhắc tới “Thực hiện công việc không có ủy quyền” như là một trong những “Căn cứ
xác lập quyền dân sự”. Có thể hiểu, nghĩa vụ dân sự phát sinh khi có sự kiện pháp lý
mà pháp luật dự liệu xảy ra dẫn tới một hậu quả pháp lý nhất định. Sự kiện pháp lý đó
làm hình thành một mối quan hệ pháp luật, được sự thừa nhận và bảo đảm thực hiện
bởi pháp luật. Thực hiện công việc không có ủy quyền vốn do người thực hiện không
có ủy quyền tự nguyện xác lập, thực hiện công việc của người khác vì lợi ích của
người có công việc được thực hiện. Khi đã tự nguyện làm thì phải thực hiện công việc
đó như là công việc của chính mình để đảm bảo lợi ích cho người có công việc được
thực hiện. Vì vậy, thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh quyền
và nghĩa vụ dân sự. Bộ Luật dân sự 2015 cũng đã liệt kê một số nghĩa vụ có thể phát
sinh khi thực hiện công việc không có ủy quyền ở Điều 575, 576, 577.

3. Cho biết điểm mới của Bộ Luật dân sự 2015 và Bộ Luật dân sự 2005 về
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”.

2
* Về chủ thể:

BLDS 2005 BLDS 2015

Điều 595: Nghĩa vụ thực hiện công việc Điều 575: Nghĩa vụ thực hiện công việc
không có ủy quyền không có ủy quyền

3. Người thực hiện công việc không có ủy 3. Người thực hiện công việc không có ủy
quyền phải báo cho người có công việc quyền phải báo cho người có công việc
được thực hiện về quá trình, kết quả thực được thực hiện về quá trình, kết quả thực
hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ trường hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ trường
hợp người có công việc đã biết hoặc người hợp người có công việc đã biết hoặc người
thực hiện công việc không có ủy quyền thực hiện công việc không có ủy quyền
không biết nơi cư trú của người đó. không biết nơi cư trú hoặc trụ sở của
người đó.
4. Trong trường hợp người có công việc
được thực hiện chết thì người thực hiện 4. Trường hợp người có công việc được
công việc không có ủy quyền phải tiếp tục thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc chấm
thực hiện công việc cho đến khi người dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì người
thừa kế hoặc người đại diện của người có thực hiện công việc không có ủy quyền
công việc được thực hiện đã tiếp nhận. phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến
khi người thừa kế hoặc người đại diện của
người có công việc được thực hiện đã tiếp
nhận.

Điều 598. Chấm dứt thực hiện công việc Điều 578. Chấm dứt thực hiện công việc
không có ủy quyền không có ủy quyền

Việc thực hiện công việc không có ủy Việc thực hiện công việc không có ủy
quyền chấm dứt trong các trường hợp sau quyền chấm dứt trong các trường hợp sau
đây: đây:

4. Người thực hiện công việc không có ủy 4. Người thực hiện công việc không có ủy
quyền chết. quyền chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt
tồn tại, nếu là pháp nhân.

=> BLDS 2015 đã làm rõ hơn về các chế định, chủ thể bao gồm cả pháp nhân
và cá nhân chứ không chỉ là “người”.
*Mục đích thực hiện:

3
Điều 594 Bộ Luật dân sự 2005 quy định: “Thực hiện công việc không có ủy
quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện
thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi
người này không biết hoặc biết mà không phản đối.” Ở đây ta có thể thấy trọng điểm
nằm ở “hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện” (Hoàn toàn vì lợi
ích của người có công việc được thực hiện, không có mục đích khác).
Điều 574 Bộ Luật dân sự 2015 quy định: “Thực hiện công việc không có ủy
quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện
thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này
không biết hoặc biết mà không phản đối.” Ở đây đã bỏ đi cụm từ “hoàn toàn”, chỉ còn
“thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện” (Vì lợi ích
của người có công việc được thực hiện nhưng cũng có thể vì mục đích khác tuy nhiên
không được làm trái với lợi ích của người có công việc được thực hiện và các chủ thể
khác).
=> Sự thay đổi tại điều 574 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về thực hiện công
việc không có ủy quyền là hợp lý khi bỏ đi cụm từ “hoàn toàn” so với Điều 594 Bộ
Luật dân sự 2015 cũng quy định về nội dung này. Vì trong thực tế, có các trường hợp
người thực hiện công việc không có ủy quyền thực hiện công việc không có ủy quyền
nhưng có mang lại lợi ích cho họ, dù họ có lợi cho bản thân nhưng lợi ích đó không đi
ngược hay trái với mục đích, ý chí của người có công việc được thực hiện. Có thể thấy
Bộ Luật dân sự 2015 đã cởi mở hơn, không còn cứng nhắc, mở rộng phạm vi mà vẫn
đảm bảo được lợi ích cho các bên.

4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện
Căn cứ Điều 574 Bộ Luật dân sự 2015 cần phải thỏa mãn 4 điều kiện mới
được áp dụng quy định pháp luật về thực hiện công việc không có ủy quyền:
(1) Người thực hiện là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc không có
ủy quyền: người thực hiện công việc là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc
đó. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ pháp lý do luật định hoặc do các bên thỏa thuận. Cơ
sở để các định việc có nghĩa vụ hay k là dựa trên căn cứ phát sinh nghĩa vụ Điều 275.
Trước khi thực hiện không có ủy quyền, các bên không có nghĩa vụ
(2) Thực hiện công việc một cách tự nguyện: Giữa người thực hiện công việc
và người có công việc được thực hiện không tồn tại một hợp đồng, không có ủy
quyền. Họ thực hiện công việc đó dựa trên ý chí tự nguyện của bản thân mà không có
nghĩa vụ, ép buộc với bất kì ai hay bất kỳ thỏa thuận nào.
(3) Thực hiện công việc vì lợi ích  mục đích của người có công việc được
thực hiện: Người thực hiện công việc không được ủy quyền thực hiện nó trên cơ sở vì
lợi ích của người phải thực hiện công việc, nếu đoán biết được ý chí của người đó thì

4
phải thực hiện theo ý chí của người đó. Không loại trừ khả năng người tiến hành công
việc cũng có lợi ích từ việc thực hiện.
(4) Người có công việc được thực hiện không biết hoặc không phản đối: Nếu
trường hợp người có công việc phản đối mà bên kia vẫn tiếp tục thực hiện thì không
Ê thực hiện chuyên nghiệp là sao???

thuộc chế độ này. Tuy nhiên, ý nguyện của người thực hiện công việc không
được trái pháp luật và trái đạo đức xã hội. Ví dụ: ngăn cản người khác tự tử được coi
là công việc không có ủy quyền mặc dù việc thực hiện đó bị người tự tử phản đối.

5. Quy định về “thực hiện công việc không có ủy quyền” của một hệ thống
pháp luật nước ngoài.
Điều 414 Bộ luật dân sự Nhật Bản:
Article 414: “If an obligor voluntarily fails to perform any obligation, the
obligee may request the enforcement of specific performance from the court;
provided, however, that, this shall not apply to the cases where the nature of the
obligation does not permit such enforcement.”
Dịch: Trường hợp bên có nghĩa vụ tự nguyện không thực hiện nghĩa vụ nào đó
thì bên có quyền có thể yêu cầu Tòa án cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ đó; tuy nhiên,
với điều kiện là điều này sẽ không áp dụng đối với các trường hợp mà bản chất của
nghĩa vụ không cho phép việc thực thi đó.
Điều luật này cũng có điểm tương đồng khi so sánh với Điều 578 Bộ Luật dân
sự Việt Nam về chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền thì sự tự nguyện này
chỉ chấm dứt khi người thực hiện công việc không có ủy quyền không thể tiếp tục
thực hiện công việc theo quy định tại khoản 5 Điều 575 Bộ Luật dân sự 2015 ( Phải có
lý do chính đáng, phải thông báo hoặc nhờ người khác đảm nhận công việc) chứ
không thể không thực hiện nghĩa vụ vì những lý do không chính đáng, ngẫu hứng.

6. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có
thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy
định của chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS
2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu
cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định“thực
hiện công việc không có ủy quyền” trong Bộ Luật dân sự năm 2015. Cơ sở pháp lý từ
Điều 574 quy định về “Thực hiện công việc không có ủy quyền” và Điều 576 “Nghĩa
vụ của người có công việc được thực hiện” trong Bộ Luật dân sự năm 2015. Để xác
định việc làm của nhà thầu C có phải là thực hiện công việc không có ủy quyền thì
căn cứ vào Điều 574 Bộ Luật dân sự năm 2015: “Thực hiện công việc không có ủy
quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện

5
thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này
không biết hoặc biết mà không phản đối”. Do việc ký kết hợp đồng giữa B và nhà thầu
không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A, cũng
như A không tham gia vào hợp đồng thì đó là hợp đồng phát sinh giữa B (bên thứ 3)
và C. Như vậy, xét theo khoản 1 Điều 142 Bộ Luật dân sự năm 2015 thì A hoàn toàn
không có nghĩa vụ đối với hợp đồng của B và nhà thầu C. Nên do đó việc A không có
nghĩa vụ trên cho thấy nhà thầu C hoàn toàn không có nghĩa vụ thực hiện xây dựng
công trình công cộng của chủ đầu tư A và thỏa mãn điều kiện về "không có nghĩa vụ
thực hiện công việc" theo Điều 574 Bộ Luật dân sự năm 2015. Đồng thời, nhà thầu C
đã thực hiện công việc này một cách tự nguyện mà không chịu sự ép buộc hay cưỡng
chế từ phía A.
Vì hợp đồng không có ủy quyền của A cho nên có thể nói rằng A "không biết"
hoặc "biết mà không phản đối" trong quá trình xây dựng và đã thỏa mãn thêm một
điều kiện tại Điều 574 Bộ Luật dân sự 2015. Tiếp đến, dù C làm vì lợi ích của bản
thân tuy nhiên nó vẫn mang lại lợi ích cho chủ đầu tư A vì giúp A thực hiện mục tiêu
đã ủy quyền cho B vì vậy đã thỏa mãn điều kiện "vì lợi ích của người có công việc"
tại Điều 574 Bộ Luật dân sự năm 2015 .
Như vậy, việc làm của C đã thỏa mãn các điều kiện của Điều 574 Bộ Luật dân
sự 2015 nên chủ đầu tư A phải có nghĩa vụ thanh toán các chi phí hợp lý cho C theo
khoản 1 Điều 576 Bộ Luật dân sự 2015. Kế đến, nếu nhà thầu C thực hiện công việc
chu đáo, có lợi cho A thì A phải trả thêm cho C một khoản thù lao hợp lý theo khoản 2
Điều 576 Bộ Luật dân sự 2015 trừ khi C từ chối.

VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN


TIỀN)
Tóm tắt tình huống thứ nhất: Ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê
nhà và nhận tiền thế chân của bà Cô là 50.000đ. Nay ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà.
Bà Cô đồng ý trả nhà và yêu cầu ông Quới hoàn lại tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo
trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và giá gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính
TP. HCM là 18.000đ/kg).
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/03/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội
Nguyên đơn: Cụ Ngô Quang Bảng, sinh năm 1963, sống tại số 42, phố Trần
Hưng Đạo, phường Quảng Yên, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Nam.
Bị đơn: Bà Mai Thị Hương, sinh năm 1979, sống tại số 43, khu 42B, phường
Cẩm Đông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
Nội dung vụ án: Ngày 14/3/1963, cụ Ngô Quang Phúc (bố của ông Ngô
Quang Phục) được Ủy ban xã cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu thửa đất số 137 thị

6
xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Sau đó ông Phục được hưởng thừa kế miếng đất
trên. Ngày 20/10/1982, ông Phục chuyển nhượng thửa đất cho vợ chồng cụ Ngô
Quang Bảng. Ngày 26/11/1991, cụ Bảng chuyển nhượng nhà, đất cho vợ chồng bà
Mai Hương và ông Hoàng Văn Thịnh. Đến ngày 16/04/2022 bà đã thanh toán 4 triệu
đồng cho cụ, còn nợ 1 triệu đồng hẹn hết quý II sẽ thanh toán. Ngày 28/6/1996 bà
Hương chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất trên cho vợ chồng ông Hoàng Văn Chinh, bà
Phạm Thị Sáu trong khi chưa thanh toán hết nợ. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm
nhận định bà Hương phải trả 1 triệu đồng tiền gốc và 1.710.000 đồng tiền lãi chậm trả.
Sau đó, cụ Bảng đã có đơn đề nghị xem xét bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc
thẩm. Tòa giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án phúc thẩm số 38/2015/DS-PT và
bản án sơ thẩm số 03/2015/DS-PT và giao hồ sơ vụ án cho TAND thị xã Quảng Yên
xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

1) Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như
thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Trong thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997, tại Mục I quy định về “Trường hợp
đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là các khoản tiền, vàng” đã cho phép tính lại giá trị
khoản tiền phải thanh toán cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền
công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay
không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính: để giải quyết được
cần xem xét tình huống thuộc trường hợp trước hay sau ngày 01/7/1996 , cụ thể tại
điểm a, b Khoản 1, Mục I:
“a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-
7-1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời
điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản
tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá
gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó
thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài
sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó…”
“b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996
hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây
thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng
hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để
buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ
có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi
suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả

7
tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác…”
Thứ hai, đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí: Tòa án quyết
định mức tiền cụ thể, theo quy định tại Khoản 2, Mục I: “2. Đối với các khoản tiền
tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử tòa án chỉ quyết định mức tiền cụ thể mà
không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.”
Thứ ba, đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng: trong
mọi trường hợp tòa án đều không phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, theo quy định
tại Khoản 3, Mục I: “3. Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín
dụng, do giá trị của các khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất
do Ngân hàng Nhà nước quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp tòa án
đều không phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ
về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ
ngày khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do
Ngân hàng Nhà nước quy định.”
Thứ tư, đối với các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ
hạn) ở ngoài tổ chức Ngân hàng, tín dụng: trong mọi trường hợp tòa án đều không
phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo quy định tại Khoản 4, Mục I.
Thứ năm, trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, theo quy định tại
Khoản 5, Mục 1: “5. Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì
lãi suất chỉ được chấp nhận khi Ngân hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi
suất không phân biệt như các trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà chỉ tính
bằng mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.”
Như vậy, theo Mục 1 thông tư đã nêu, giá trị khoản tiền phải thanh toán chỉ có
thể được phép tính lại thông qua qua trung gian là gạo đối với nghĩa vụ là các khoản
tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công
sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi
bất chính theo Khoản 1 Mục 1 thông tư này.

2) Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Do đối tượng của nghĩa vụ trong tình huống thứ nhất là khoản tiền và thời điểm
xảy ra tình huống là vào ngày 15/11/1973, tức trước ngày 01/7/1996 cũng như giá gạo
đã tăng trên 20% kể từ khi xảy ra tình huống (từ 137đ/kg năm 1973 lên 18.000đ/kg)
nên áp dụng điểm a Khoản 1 Mục I Thông tư 01/TTLT đã nêu, số tiền thực tế ông
Quới sẽ phải trả cho bà Cô được tính như sau:
Đầu tiên, cần quy đổi khoản tiền tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ sang số lượng
gạo tại thời điểm đó: 50.000 : 137 = 364,96 kg

8
Tiếp theo, lấy số lượng gạo đã tính quy đổi thành tiền theo giá gạo tại thời điểm
hiện nay: 364,96 x 18.000 = 6.569.280 đồng
Vậy, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là 6.569.280
đồng.

3) Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/ DS-GĐT không? Vì sao?
Thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/ DS-GĐT vì: đối tượng của
nghĩa vụ thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản không thuộc đối
tượng điều chỉnh của thông tư nêu trên. Việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên.

4. Đối với tình huống như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá
trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì,
theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán
cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Vào thời điểm 26/11/1991, cụ Phục đã chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà
Mai Hương với giá 5.000.000 đồng. Tòa dựa trên Giấy biên nhận tiền và nhận định,
bà Hương đã thanh toán xong với số tiền là 4.000.000 trên tổng giá trị nhà đất là
5.000.000, như vậy bà còn nợ ông Phục 1.000.000 đồng, tương đương 1/5 giá trị nhà
đất. Theo đó, Tòa án nhân dân cấp cao cho rằng bà Hường phải thanh toán cho cụ
Bảng số tiền còn nợ là 1/5 giá trị nhà đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
Tòa sơ thẩm đã xác định giá trị nhà đất mà ông Phục đã chuyển nhượng cho bà Mai
Hương là 1.697.760.000 đồng.
Như vậy bà Mai Hương phải thanh toán số tiền nợ cụ thể là:
1/5 * 1.697.000.000 = 339.552.000 đồng,
Căn cứ của Tòa án nhân dân cấp cao dựa trên điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2
phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ – HĐTP quy định:
….
b.2)... Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên
chuyển nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng chuyển
nhượng đất đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới trả một phần tiền
chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần diện tích đất, thì có thể
công nhận phần hợp đồng đó căn cứ vào diện tích đất đã nhận. Nếu công nhận phần
hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị lớn hơn
số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên
chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so

9
với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị
quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời
buộc các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà bên
nhận chuyển nhượng đã nhận….

5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có).
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã từng có tiền lệ với hướng giải quyết như
trên, đó là Quyết định Giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về tranh chấp
nhà đất và đòi nợ
Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Lai
Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân
Nội dung vụ án:
Vào năm 1994, bà Lai và ông Xuân đã thỏa thuận rằng khoảng thời gian vay là
trong năm 1994, sau đó Ông Xuân đã vay bà Lai số tiền là 11.500.000 đồng.
Đến ngày 12/02/1996, ông Xuân lại vay bà Lai số tiền là 128.954.000 đồng khi
chưa trả tiền nợ trước kia. Ngày 08/08/1996, bà Lai và ông Xuân đã thống nhất rằng
tổng số tiền vay cộng với tiền lãi (gọi chung là tiền nợ) là 188.600.000đ. Cùng lúc đó,
ông Xuân đã thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số 19 đường Chu Văn An cho bà Lai
với giá bằng tổng số tiền ông đang nợ. Tuy nhiên sau đó ông Xuân lại từ chối chuyển
nhượng ngôi nhà và không thanh toán phần nợ, do đó bà Lai tiếp tục tính lãi trên số
tiền 188.600.000 đồng.
Ngày 05/08/1997, hai bên đã thống nhất thỏa thuận với nhau là số tiền nợ hiện
tại là 250.000.000đ. Tiếp đó, hai bên đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với giá trị là 250.000.000đ.
Ngày 06/11/1997, ông Xuân tiếp tục vay bà Lai số tiền là 44.000.000đ. Sau khi
ký kết hợp đồng chuyển nhượng, bà Lai vẫn tính lãi trên số tiền 250.000.000đ trong
vòng 2 tháng, tức là 6.000.000đ. Bà Lai đã cộng thêm số tiền này vào số nợ của ông
Xuân, tổng cộng là 50.000.000đ.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội có nhận định sau đây:
1) Vụ tranh chấp cần xem xét cả hai yếu tố: mua bán nhà đất và vay trả nợ.
2) Cần thu thập và kiểm chứng thông tin để xác minh xem liệu các thủ tục mua
bán nhà đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã tuân thủ theo quy định của
pháp luật hay chưa
3) Trong trường hợp xác định được việc mua bán và chuyển nhượng nhà đất là
hợp pháp, nhưng bên mua chưa thanh toán đủ chi phí, số tiền còn thiếu sẽ được
tính dựa trên giá trị của nhà đất chuyển nhượng thị trường địa phương vào thời
điểm xét xử sơ thẩm. (căn cứ theo Nghị quyết 02/2004/NQ – HĐTP)

10
=> Bản án này đã được quy định trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT như
một tiền lệ để Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có hướng giải quyết tương tự

VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THOẢ THUẬN.

Tóm tắt Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân thị xã Châu
Đốc, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản:
Đầu năm 2003 bà Tú cho bà Phượng vay 555tr với lãi suất 1.8%/ tháng. Tháng
4/2004 bà Phượng vay tiếp của bà Tú 615.000.000 đồng với lãi suất 1.8%/tháng, thời
hạn vay là 12 tháng, sau đó bà Phượng lấy số tiền này cho bà Ngọc vay 465.000.000
đồng và bà Loan, ông Thạnh vay 150.000.000 đồng. Đến tháng 4/2005, bà Phượng xin
giảm lãi xuống còn 1.3%/tháng và bà Tú đồng ý. Đến tháng 5/2005, bà Phượng không
trả lãi như thỏa thuận. Ngày 12/5/2005 bà Tú đồng ý cho bà Phượng chuyển giao
nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh qua việc lập hợp đồng cho bà Ngọc, bà
Loan, ông Thạnh vay số tiền như trên. Bà Tú yêu cầu Tòa xét xử về việc số tiền bà
Ngọc nợ.
Tại phiên hòa giải 6/9/2007, các bên thống nhất bà Ngọc nợ tổng số tiền là
649.170.000đ. Đến 12/9/2007, bà Ngọc yêu cầu Tòa xét xử vì bà không trả được số
tiền trên và tiền lãi do vay nóng chỉ là 1,5% chứ không phải 2,5%.
Tòa cho rằng việc này không có căn cứ nên bác bỏ và tổng số tiền bà Ngọc
phải trả cho bà Tú là 651.081.000đ. Đồng thời, với yêu cầu của bà Tú: yêu cầu bà
Phương liên đới trả tiền thì Tòa cũng không chấp nhận.

1. Điểm giống nhau và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
*Giống nhau:

- Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/bên có quyền nếu chuyển giao
quyền/chuyển giao nghĩa vụ.
- Không được chuyển giao trong các trường hợp sau:
+ Hai bên đã thoả thuận không chuyển giao
+ Pháp luật có quy định về việc không được chuyển giao, như nghĩa vụ
gắn liền với nhân thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng, bồi thường do xâm
phạm tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín.

11
-
Hậu quả pháp lý là làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao
quyền/nghĩa vụ, làm phát sinh tư cách chủ thể, quyền và nghĩa vụ dân sự ở
người được chuyển giao.
- Sau khi chuyển giao quyền/nghĩa vụ, bên có quyền/nghĩa vụ ban đầu chấm dứt
toàn bộ quan hệ nghĩa vụ với bên có nghĩa vụ/quyền
- Xuất phát từ sự thoả thuận giữa các bên.
- Chỉ áp dụng đối với các quan hệ nghĩa vụ đang còn hiệu lực.
*Khác nhau:

Tiêu chí Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ

Bên có quyền có quyền chuyển giao quyềnBên có nghĩa vụ có thể chuyển nghĩa vụ cho
Chủ thể
cho sang bên thứ ba (người thế quyền) bên thứ ba (người thế nghĩa vụ).
Người đã chuyển giao nghĩa vụ phải chịu
trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ
Người chuyển giao quyền yêu cầu không
của mình đối với bên có quyền nên để bảo
phải chịu trách nhiệm về khả năng thực
vệ lợi ích của bên có quyền, việc chuyển
Quyền hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ nên
giao nghĩa vụ phải được sự đồng ý của bên
hạn việc chuyển giao quyền không cần có sự
có quyền (khoản 1 Điều 370 BLDS).
đồng ý của bên có nghĩa vụ (khoản 2 Điều
365 BLDS).

Đối với chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp


Đối với chuyển quyền yêu cầu có cácbảo đảm thì biện pháp bảo đảm sẽ đương
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì nhiên chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa
việc chuyển giao quyền yêu cầu bao gồmthuận khác (Điều 371 BLDS).
cả các biện pháp bảo đảm đó (Điều 368
BLDS). Không quy định về nghĩa vụ của người
chuyển giao nghĩa vụ đối với người thế
Người chuyển giao quyền có nghĩa vụ đốinghĩa vụ.
Phạm vi
với người thế quyền: người chuyển giao
quyền yêu cầu vi phạm nghĩa vụ cung cấp
thông tin và chuyển giao giấy tờ có liên
quan cho người thế quyền mà gây thiệt hại
thì phải bồi thường thiệt hại (Điều 366
BLDS).

Hình Bằng văn bản và phải thông báo cho bên


thức có nghĩa vụ biết về việc chuyển quyền đểKhông có quy định bắt buộc về

12
tránh việc bên có nghĩa vụ phải từ chối
mặt hình thức
việc thực hiện nghĩa vụ đối với người thế
quyền hay thực hiện nghĩa vụ bổ sung, trừ
trường hợp có thoả thuận khác. (khoản 2
Điều 365).
Bên có quyền được quyền đánh giá bên
nhận nghĩa vụ, tức là họ đã thỏa thuận
đồng ý chuyển giao nghĩa vụ. Vậy nên nếu
trường hợp bên nhận nghĩa vụ không hoàn
thành được nghĩa vụ thì bên có quyền yêu
cầu cũng phải chấp nhận vì ngay từ đầu
bên có quyền đã đồng ý rồi.
Phân biệt trường hợp “cần có sự đồng ý”
và “

2. Thông tin nào trong bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú.
Căn cứ theo nội dung trong bản án số 148/2007/DS - ST ngày 26/9/2007 của
Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc , tỉnh An Giang, đoạn cho thấy bà Phượng có nghĩa
vụ thanh toán cho bà Tú là:
“Theo lời khai của bà Tú thì chính bà Phượng yêu cầu cho Phượng vay tiền để
kinh doanh cá khô xuất khẩu và bà đã vay tiền Ngân hàng cho Phượng vay tổng số
tiền 615.000.000 đồng, bà Phượng có làm biên nhận tiền của bà Tú”
“Theo các biên lai nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là
người trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền là 555.000.000
đồng”
“Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận
vay tiền với bà Tú. Ngoài ra cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4 năm
2004 bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh không có tiền trả cho bà Tú để bà trả Ngân hàng
thì bà Phượng đã cùng bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho Ngân hàng”
Từ lời khai và nhận định trên cho thấy, người xác lập quan hệ vay tài sản với
bà Tú là bà Phượng. Bà là người đã yêu cầu bà Tú cho bản thân vay tiền và đã được
xác nhận bằng các biên lai nhận tiền do bà Tú cung cấp. Đồng thời chính bà cũng tự
thừa nhận bà đã nhờ bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả nợ ngân hàng khi đến
hạn. Căn cứ theo khoản 1 Điều 466 BLDS 2015 quy định:
Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay

13
“1.Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì
phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.”

3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn trong bản án cho thấy nghĩa vụ của bà Phượng đã được chuyển giao cho
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là: “Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã
lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.00.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông
Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/05/2005.”

4. Suy nghĩ của anh chị về đánh giá của Tòa án?
Đánh giá trên của Tòa án là hợp lý vì:
Đầu tiên, Tòa án đánh giá bà Phượng đã chuyển giao nghĩa vụ theo trả nợ là
hợp lý. Bởi, nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh đã có sự chấp thuận của bà Tú, thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp
đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đồng và hợp đồng cho bà Loan ông Thạnh
vay số tiền 150.000.000 đồng vào ngày 12/5/2005.
Dựa trên căn cứ khoản 1 Điều 370 BLDS năm 2015:
“Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên
có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ
hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ”.
Tuy nhiên, luật lại không quy định rõ về hình thức của việc chấp nhận chuyển
giao nghĩa vụ này là như thế nào, cụ thể là bằng văn bản, bằng miệng hay thỏa thuận
khác.
Bên cạnh đó, Toà án cho rằng: kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng đối với bà Tú
đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đổi với bà
Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký, kết luận này là hợp lý.
Tòa cũng nhận định rằng việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh
toán nợ cho bà là không hợp lý vì không có căn cứ và buộc bà Tú phải trả lại giấy
chứng minh Hải quan cho bà Phượng còn phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ
cho bả Tú.
Điều đó cho thấy bà Phượng không còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ đã được
chuyển giao, tức là bà Phượng không phải chịu trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ trả
nợ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh.

14
5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu còn có trách nhiệm
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý?
Nhìn từ góc độ văn bản, cho dù người thế nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa
vụ được chuyển giao thì người có nghĩa vụ ban đầu cũng không còn trách nhiệm đối
với người có quyền nữa. Dựa theo Điều 370 BLDS 2015 quy định như sau:
“Điều 370 Chuyển giao nghĩa vụ
Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có
quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ
hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ. Khi được chuyển giao
nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ.”
Bà Tú đã đồng ý cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan,
ông Thạnh qua việc lập hợp đồng với bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh. Trường hợp này
không thuộc trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân hoặc pháp luật quy định
không được chuyển giao nghĩa vụ. Vì vậy, bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh trở thành
bên có nghĩa vụ với bà Tú.
Bên cạnh đó, dựa theo Điều 371 BLDS 2015 quy định như sau:
“Điều 371. Chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm
Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm
đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Trường hợp của bà Phượng và bà Tú là trường hợp chuyển giao nghĩa vụ dân
sự có biện pháp đảm bảo. Trong trường hợp này, biện pháp đảm bảo đó cũng chấm
dứt do sự chấm dứt tư cách chủ thể của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có
thoả thuận khác.
Như vậy, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có
quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao.

6. Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu còn có
nghĩa vụ trách nhiệm với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh chị
biết?
Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa
vụ được chuyển giao, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Quan điểm của tác giả trong sách “Giáo trình Hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài Hợp đồng” ở mục 4.2.1 cho rằng: Người có nghĩa vụ không chịu trách nhiệm về

15
việc thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác.
Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có
trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa chuyển
giao nghĩa vụ với “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy, để
chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự
thông qua người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có
nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có bên có thoả thuận khác.” Như vậy, Luật đã quy định rõ về
thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba tại Điều 283 BLDS 2015, cụ thể
như sau:
“Điều 283. Thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba
Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ
ba thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền,
nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
Đồng thời Luật cũng quy định về chuyển giao nghĩa vụ tại Điều 370 BLDS
2015 như sau:
“Điều 370. Chuyển giao nghĩa vụ
1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu
được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có
nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có
nghĩa vụ.”
Vì Luật quy định tách biệt hai nội dung này ở hai Điều luật khác nhau nên cần
xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có
bên có thoả thuận khác.

7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ
ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền.
Trong phần nhận thấy, Toà án đã nhận định như sau: “Bà Phùng Thị bích
Phượng không có trách nhiệm cùng bà Ngọc thanh toán nợ cho bà Tú. Bà Tú hoàn trả
lại cho bà Phượng giấy chứng minh hải quan số 43622 mang tên Phùng Thị bích
Phượng vào ngày 14/9/2007.”
Trong phần xét thấy, Tòa án đã nhận định như sau: “Xét hợp đồng vay tiền
giữa bà Phượng và bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay,
không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có trách nhiệm thực hiện. Tuy
nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc

16
vay số tiền 465.000.000 đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền
150.000.000d vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng
vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà
Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với
bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm
thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận… Việc bà Tú giữ giấy chứng
minh hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả
nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại cho bà Phượng giấy chứng minh hải quan.”

8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
Bộ Luật dân sự Pháp quy định rằng nếu bên có quyền đồng ý với việc chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ một cách rõ ràng thì mối quan hệ ràng buộc nghĩa vụ giữa người
có quyền và người có nghĩa vụ ban đầu sẽ chấm dứt, cụ thể theo căn cứ tại điều điều
1327 Bộ Luật dân sự Pháp.
Điều 1327: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ trả nợ của mình nếu
có sự chấp thuận của bên có quyền.”
Điều 1327-2: “Nếu bên có quyền đồng ý với việc chuyển giao nghĩa vụ trả nợ
một cách rõ ràng thì bên có nghĩa vụ ban đầu sẽ được giải phóng khỏi nghĩa vụ đó
trong tương lai. Nếu không thì bên có nghĩa vụ ban đầu sẽ liên đới chịu trách nhiệm
trả nợ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”
Thêm vào đó, Bộ Luật dân sự pháp còn quy định về quyền và nghĩa vụ của
người có nghĩa vụ ban đầu nếu vẫn còn trách nhiệm liên đới.
Điều 1328: “Bên thay thế nghĩa vụ trả nợ, và bên có nghĩa vụ ban đầu, nếu
vẫn còn nghĩa vụ liên đới, có thể viện dẫn đối kháng đối với bên có quyền các trường
hợp
miễn trừ liên quan đến khoản nợ như vô hiệu, không thực hiện nghĩa vụ, hủy hoặc bù
trừ các khoản nợ liên quan. Mỗi bên cũng có thể viện dẫn các trường hợp miễn trừ
của riêng họ.”
Điều 1328-1: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ ban đầu không được bên có
quyền miễn thực hiện nghĩa vụ thì các biện pháp bảo đảm vẫn còn. Trong trường hợp
ngược lại, các biện pháp bảo đảm do bên thứ ba xác lập chỉ tồn tại nếu có sự đồng ý
của họ.
Nếu bên có nghĩa vụ được miễn thực hiện nghĩa vụ thì những người có nghĩa
vụ liên đới sẽ trừ đi phần nghĩa vụ của người này trong nghĩa vụ chung.”1
Bộ Luật dân sự của Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa cũng quy định tương tự về
mối quan hệ giữa người có quyền và người có nghĩa vụ ban đầu.

1 Bản dịch Bộ Luật dân sự Pháp, Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam.

17
Điều 1328 Bên thay thế nghĩa vụ trả nợ, và bên có nghĩa vụ ban đầu, nếu vẫn
còn nghĩa vụ liên đới, có thể viện dẫn đối kháng đối với bên có quyền các trường hợp
miễn trừ liên quan đến khoản nợ như vô hiệu, không thực hiện nghĩa vụ, hủy hoặc bù
trừ các khoản nợ liên quan. Mỗi bên cũng có thể viện dẫn các trường hợp miễn trừ
của riêng họ.
Article 551: “Where a debtor delegates his obligation in whole or in part to a
third person, the consent of the creditor shall be obtained.
The debtor or the third person may demand the creditor to give his consent
within a reasonable period of time. Where the creditor makes no indication, it shall be
deemed as no consent given.”2
(Trong trường hợp con nợ giao toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của mình cho
người thứ ba thì phải được sự đồng ý của chủ nợ.
Con nợ hoặc người thứ ba có thể yêu cầu chủ nợ đồng ý trong một khoảng thời
gian hợp lý. Trường hợp chủ nợ không đưa ra dấu hiệu nào, nó sẽ được coi là không
có sự đồng ý.)3
Article 554: “Where a debtor delegates his obligation, the new debtor shall
assume the accessory obligation related to the principal obligation, unless the
accessory obligation belongs exclusively to the original debtor.”4
(Trong trường hợp con nợ ủy thác nghĩa vụ của mình, con nợ mới sẽ thực hiện
nghĩa vụ phụ liên quan đến nghĩa vụ chính, trừ khi nghĩa vụ phụ hoàn toàn thuộc về
con nợ ban đầu.)5

9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hoàn toàn hợp lý.
Toà án đã giải quyết theo hướng người có trách nhiệm ban đầu là bà Phượng
không có nghĩa vụ với người có quyền là bà Tú, mà người có nghĩa vụ là bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh. Điều này đúng với quy định tại Điều 315 Bộ Luật dân sự 2015:
“Điều 315. Chuyển giao nghĩa vụ dân sự
1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ
nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của
bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có
nghĩa vụ.”

2 Civil code of the People’s Repulic of China https://phapluatdansu.edu.vn/wp-content/uploads/2022/01/civil-


code-china-1.pdf
3 Bản dịch: https://vi.chinajusticeobserver.com/law/x/civil-code-of-china-part-iii-contract-20200528
4 Civil code of the People’s Repulic of China https://phapluatdansu.edu.vn/wp-content/uploads/2022/01/civil-
code-china-1.pdf
5 Bản dịch: https://vi.chinajusticeobserver.com/law/x/civil-code-of-china-part-iii-contract-20200528

18
Bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc,
bà Loan và ông Thạnh bằng việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay
465.000.000đ và cho bà Loan, ông Thạnh vay 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005.
Điều này chứng tỏ việc bà Phượng không có nghĩa vụ phải trả nợ cho bà Tú kể từ
ngày hợp đồng giữa bà Tú và bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh có hiệu lực. Yêu cầu của
bà Tú cho rằng bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ
chấp nhận.
Về nghĩa vụ của bà Ngọc, Toà xét thấy bà Ngọc đã được chuyển giao nghĩa vụ
từ bà Phượng nhưng bà Ngọc đã không trả lãi và vốn kể từ ngày ký hợp đồng nên bà
Tú khởi kiện là có căn cứ. Bà Ngọc có nghĩa vụ phải trả cho bà Tú tiền mượn lẫn lãi.
Về mức lãi suất của khoản vay bên ngoài để trả ngân hàng, bà Ngọc không có căn cứ
chứng minh mức lãi suất là 1,5% cho mỗi lần vay nên không được chấp nhận. Vì vậy,
việc bà Tú yêu cầu bà Ngọc trả khoản tiền 14.900.000đ là có cơ sở chấp thuận.
Xét thời điểm đó, Toà án đã căn cứ vào quy định tại bộ Luật dân sự 2005. Nếu
xét hướng giải quyết của Tòa án dựa trên Bộ Luật dân sự 2015 thì cũng hoàn toàn hợp
lý, căn cứ theo Điều 370 Bộ Luật dân sự 2015 có nội dung tương tự Điều 315 Bộ Luật
dân sự 2005.
Như vậy, quyết định của Toà án rằng bà Phượng không có nghĩa vụ phải trả nợ
cho bà Tú và bà Ngọc phải trả 651.981.000đ cho bà Tú là hoàn toàn hợp lý.

10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Điều 361 Bộ Luật dân sự 2005 quy định về việc bảo lãnh của người thứ ba như
sau:
Điều 361. Bảo lãnh
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa
thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không
có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”
Vậy tức là, trong thời gian bà Phượng thực hiện nghĩa vụ đối với bà Tú, bên
bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thay cho bà Phượng nếu bà Phượng không
thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đây được xem là một trong
những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, nếu nghĩa vụ của bà
Phượng được chuyển giao cho người khác, cụ thể là bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh
thì bảo lãnh cũng chấm dứt, người bảo lãnh cho bà Phượng cũng không có trách

19
nhiệm thực hiện nghĩa vụ thay cho người được chuyển giao, căn cứ theo Điều 317 Bộ
Luật dân sự 2015.
Điều 317. Chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm
“Trong trường hợp nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được chuyển giao
thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, nếu không có thỏa thuận khác.”

20

You might also like