You are on page 1of 142

TRANG TỬ TÂM ĐẮC

Tác giả: Yu Dan


Thể loại: Nghệ thuật sống
Nhà xuất bản: NXB Trẻ
Đóng gói: Cuibap
Nguồn text: Waka
LỜI GIỚI THIỆU

Sách Trang Tử, còn có tên là Nam hoa kinh của Trang Chu không chỉ là
bộ kinh điển của bách gia chư tử, mà còn là bộ sách hội tụ tinh hoa của triết
học và văn hóa Trung Quốc.
Lỗ Tấn, cha đẻ của nền văn học hiện đại Trung Quốc, từng nhận xét về
Trang Tử như sau: "Bao la vạn khoảnh, biến hóa khôn lường, trong hết thảy
các nhà chư tử cuối đời Chu, không nhà nào có thể vượt qua Trang Tử vậy".
Hồi còn là Nghiên cứu sinh tại Đại học Nam Kinh, tôi từng nghe Giáo sư mỹ
học Phan Tri Thường nói: "Nếu nội trong một đêm, mọi sách vở về văn hóa
Trung Quốc biến mất khỏi mặt đất, trước sự kiện này có một học giả được
báo trước, đồng thời cho phép ông ta chọn mười đầu sách kinh điển nhất để
lưu lại, thế thì trong mười đầu sách ấy sẽ có Luận ngữ của Khổng Tử, Đạo
đức kinh của Lão Tử, Nam hoa kinh của Trang Tử,
Đàn kinh của Huệ Năng, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần,... Nhưng
nếu chỉ được phép chọn một đầu sách duy nhất, thì chỉ có thể chọn Nam hoa
kinh, vì còn Trang Tử thì còn có thể trùng kiến lại văn hóa Trung Quốc, mất
Trang Tử đồng nghĩa với việc văn hóa Trung Quốc diệt vong. Bởi vì triết học
nhập thế của Khổng Tử ở đời thường dễ có, triết lý Thiền tông vẫn có thể sản
sinh nếu có sự gặp gỡ giữa Phật giáo và tư tưởng của Đạo gia, nhưng triết học
ngoạn thế của Trang Tử thì thực không dễ có".
Từ những điều trên đây có thể thấy rõ tầm quan trọng cũng như sức ảnh
hưởng to lớn của Trang Tử đối với văn hóa Trung Quốc, thậm chí đối với cả
nền văn hóa Đông Á nói chung. Văn nhân Trung Quốc xưa đối với việc xuất
sĩ làm quan, trọng tư tưởng nhập thế của Khổng Tử; đối với việc tu tâm
dưỡng tính, thường ký thác nơi quan điểm xuất thế của Đạo gia. Cuộc đời
con người ta ắt cần đến công danh, nhưng công danh không phải là tất cả;
ngoài công danh, con người ta bất cứ lúc nào cũng phải đối mặt với vô vàn
vấn đề to lớn, như sống chết, tự do, bất tử,… Chìa khóa để vượt qua tất cả
những điều này, theo chúng tôi có lẽ không thể tìm ở đâu khác ngoài Trang
Tử.
Giáo sư Vu Đan là một trong những học giả nổi danh ở mảng văn hóa
truyền thống Trung Quốc, những bài giảng của bà về Nam hoa kinh của
Trang Tử và Luận ngữ của Khổng Tử phát trên Đài truyền hình Trung ương
Trung Quốc luôn chiếm được rất nhiều cảm tình của người xem.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu đến độc giả Việt Nam và tin rằng quý độc
giả sẽ tìm thấy rất nhiều điều tâm đắc sau khi đọc xong quyển sách này.
Nguyễn Đình Phức
Viết tại Thư trai, Sài Gòn
CHƯƠNG 1
TRANG TỬ LÀ NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?

Trang Tử là một nhân vật tiêu biểu trong bách gia chư tử. Văn chương ông
khí thế hào hùng, tung hoành phóng khoáng; tư tưởng ông sâu sắc rộng mở,
bao trùm cổ kim; những câu chuyện ngụ ngôn của ông có sức tưởng tượng
độc đáo, ngụ ý sâu xa; phong cách ông lúc cười cợt khi bi phẫn, không chút
câu nệ.
Ông nhìn thấu công danh, không màng lợi lộc, thậm chí với cái chết ông
cũng có kiến giải độc đáo của riêng mình. Vậy rốt cuộc Trang Tử là người
như thế nào?
Mọi người đều biết, Trang Tử là người "thừa vật dĩ du tâm" (biết giũ bỏ
mọi vật tục, tạp niệm để cho tâm hồn mình tiêu du ngoài vũ trụ, không
nhuốm hồng trần, không lụy thế tục, tự do tự tại), có thể một mình giao hòa
cùng tinh thần trời đất. Trên đến tận trời xanh, dưới đến tận suối vàng, khi vui
thì ông cười, khi giận thì ông mắng, bàn khắp anh hùng trong thiên hạ, nhưng
thực ra nội tâm ông không hề dữ dội.
Sách Trang Tử, theo cách nói của ông, thảy đều là những "mậu du chi
thuyết, hoang đường chi ngôn, vô đoan nhai chi từ" (thuyết sai lầm, lời hoang
đường, từ ngữ vô cớ), thoạt xem có vẻ lan man vô nghĩa, nhưng thực ra trong
đó chứa đựng trí tuệ rất lớn.
Chúng ta biết rất ít về cuộc đời Trang Tử, ghi chép chính xác về cuộc đời
ông nằm trong sách Sử ký của Tư Mã Thiên. Trang Tử là người đất Mông
thuộc nước Tống thời Chiến Quốc (nay thuộc huyện Thương Khâu, tỉnh Hà
Nam). Ông từng giữ chức Tất Viên tiểu lại, tương đương với chức thủ kho
ngày nay. Cả đời ông sống trong thời Chiến Quốc phân tranh, chiến loạn liên
miên, khắp nơi cầu hiền như khát nước. Nhưng ông ẩn cư đến già, không
chịu ra làm quan, không có bất kỳ một danh phận xã hội nào.
Theo suy đoán, Trang Tử sống vào khoảng từ năm 369 trước công nguyên
đến năm 286 trước công nguyên, cũng có thuyết cho rằng ông sống đến năm
275 trước công nguyên. Về ngày tháng năm sinh, năm mất cụ thể của ông thì
cho đến nay vẫn chưa có một khảo cứu nào chính xác.
Sách Trang Tử xưa nay được liệt vào hàng kinh điển. Thế nhưng trong số
tất cả các kinh điển đời Tiên Tần, có lẽ nó mang ít chất kinh điển nhất. Giá trị
của nó chính là ở tư tưởng vô biên vô cùng, kỳ dị mà độc đáo.
Theo Nghệ văn chí sách Hán thư, Trang Tử vốn có hơn 50 thiên, nhưng
đến nay chỉ còn 33 thiên. Đây chính là bản Trang Tử do Quách Tượng đời
Tấn chỉnh lý và lưu truyền cho đến tận ngày nay. Trong đó 7 thiên thuộc Nội
thiên, 15 thiên thuộc Ngoại thiên, ngoài ra còn 11 thiên khác, được quy vào
phần Tạp thiên.
Hiện nay có thể xác định rằng 7 thiên thuộc Nội thiên là do chính Trang
Tử viết, còn Ngoại thiên và Tạp thiên có nhiều khả năng do học trò, bạn bè
và người đời sau, những người được chân truyền tư tưởng của Trang Tử biên
soạn.
Có câu "Thiên hạ hy hy, giai vị lợi lai; thiên hạ nhướng nhướng, giai vị lợi
vãng"(Thiên hạ tấp nập đều là vì lợi mà đến; thiên hạ nhộn nhịp đều vì lợi mà
lại). Con người ta sống trên đời, từ xưa đến nay, thứ khó nhìn thấu nhất chính
là hai chữ danh và lợi. Phải nói rằng, thứ mà con người phải đối mặt trước
nhất chính là sự quấy nhiễu và cám dỗ của lợi ích, bởi lẽ trên đời này ai cũng
đều phải đối mặt với vấn đề kinh tế và sự khốn cùng của sinh tồn.
Trang Tử cũng không ngoại lệ.
Cuộc sống của Trang Tử như thế nào? Qua những câu chuyện trong sách
Trang Tử, chúng ta có thể biết ông luôn sống trong nghèo khó.
Trong Ngoại thiên có một câu chuyện như sau:
Nhà Trang Tử rất nghèo. Một hôm trong nhà không còn gì bỏ vào nồi.
Ông bèn đến nhà Giám Hà Hầu vay gạo. Giám Hà Hầu là một viên quan nhỏ
đương thời chuyên trông coi việc thủy lợi, sông suối, cuộc sống có phần khá
hơn Trang Tử.
Trời đất sinh cùng với ta, còn vạn vật hòa làm một cùng ta.
- Tề vật luận -
Giám Hà Hầu rất nhiệt tình, bảo Trang Tử:
- Được thôi, để tôi đi thu tô, ông cứ đợi đấy, thu được tô tôi sẽ cho ông
vay 300 lạng vàng.
Lời này đúng là quá tuyệt, ba trăm lạng vàng, đây đích thực là một khoản
tiền lớn. Trang Tử nghe xong nổi giận, mặt biến sắc, nhưng ông lại kể cho
Giám Hà Hầu nghe một câu chuyện:
Hôm qua tôi cũng đi ngang qua đây, trên đường đi chợt nghe có tiếng
người réo gọi tên mình. Tôi nhìn quanh quất thì thấy một con cá diếc nhỏ
đang giãy giụa trong một vết bánh xe.
Tôi hỏi nó làm gì ở đó. Nó bảo:
- Tôi là thủy quan ở Đông Hải, nay nếu thầy có một thăng, một đấu nước,
thì có thể cứu được mạng tôi.
Tôi đáp:
- Được thôi, để ta đến đất Ngô Việt, dẫn nước Tây
Giang về cứu ngươi nhé!
Cá diếc bảo:
- Nếu vậy chẳng bằng thầy mau ra chợ cá khô mà tìm tôi. Thế đấy, Trang
Tử tuy hóm hỉnh và sâu sắc, thế nhưng ông hoàn toàn không phải kẻ no cơm
lành áo, sống một đời sung túc. Ông vẫn phải luôn đi nhờ vả người khác để
có gạo bỏ vào nồi.
Bạn đọc có thể lấy làm lạ: Một con người như vậy thì lấy tư cách gì để
tiêu dao du? Một con người không no cơm ấm áo thì sao còn có thể có ước
mơ cao xa?
Trang Tử nhìn nhận về sự nghèo khó của mình như thế nào? Trong thiên
Sơn mộc có một câu chuyện như sau:
Một hôm Trang Tử đi gặp Ngụy Vương, ông mặc quần áo rách nát vá víu
chằng chịt, giầy cũng không có dây buộc mà thắt bằng một cọng rơm, trông
rất nhếch nhác.
Ngụy Vương hỏi:
- Sao thầy lại khốn đốn đến nông nỗi này? Trang Tử đáp:
- Đây là bần cùng chứ đâu phải khốn đốn? Kẻ đọc sách có đạo đức lý
tưởng mà không được thực hành mới thực là khốn đốn. Đại vương chắc chưa
từng nhìn thấy vượn nhảy nhót? Chúng leo trèo nhảy nhót trên những cây lớn
như trinh nam, cây thị và cây nhãn, đùa nghịch thoải mái, ngay cả những tay
thiện xạ như Bàng Mông, Hậu Nghệ cũng phải bó tay trước chúng; nhưng
nếu cho chúng trong bụi gai thì chúng buộc phải cẩn thận, không dám nhảy
nhót lung tung. Đấy chẳng phải là vì chúng không nhanh nhẹn, mà là khi ở
vào tình thế bất lợi thì rất khó trổ tài năng. Giờ tôi sinh ra không gặp thời,
muốn không bần cùng cũng không được.
Như vậy, Trang Tử nhận biết rõ về hoàn cảnh của mình. Kẻ sĩ đích thực
thì không sợ nỗi khó khăn về cuộc sống, mà chỉ sợ sự khốn đốn về tinh thần.
Kẻ sĩ đích thực thì không sợ nỗi khó khăn về cuộc sống, mà chỉ sợ sự
khốn đốn về tinh thần.
Một con người có thể khốn quẫn do nghèo khó, nhưng việc trong lòng có
thực sự để tâm đến sự nghèo khó ấy hay không và coi trọng chữ "lợi" đến
mức nào sẽ quyết định thái độ của người đó trước nghèo khó.
Trang Tử có xem trọng chữ "lợi" không khi mà xung quanh ông toàn là
những kẻ giàu có? Trong thiên Liệt ngự khấu, ông kể một câu chuyện như
sau:
Ở nước Tống có một người tên là Tào Thương. Một hôm y rất vinh hạnh
được vua Tống sai đi sứ nước Tần. Khi ấy Tần là nước lớn mạnh nhất ở phía
Tây.
Khi ông ta xuất phát, nước Tống chỉ trang bị cho y mấy cỗ xe ngựa. Tào
Thương đến nước Tần, không làm nhục sứ mệnh, rất được lòng Tần vương;
khi trở về, Tần vương ban thêm cho y hàng trăm cỗ xe ngựa.
Sau khi về nước, Tào Thương rất phấn khích, nói với
Trang Tử:
- Nếu bắt tôi ở trong nhà rách nát tồi tàn, suốt ngày đan giày cỏ, đói rét
vàng vọt thì tôi không có khả năng đó. Khả năng của tôi là gì? Gặp quân
vương nước lớn, lấy lòng ngài, đổi lấy hàng trăm cỗ xe ngựa, ấy là sở trường
của tôi!
Nghe y khoe khoang xong, Trang Tử có thái độ như thế nào? Ông lạnh
nhạt bảo Tào Thương:
- Tôi nghe nói vua Tần có bệnh, đã chạy chữa danh y khắp thiên hạ. Ai
chữa khỏi vết loét mưng mủ của vua sẽ được thưởng một cỗ xe ngựa; ai liếm
trĩ cho vua sẽ được thưởng năm cỗ xe ngựa. Chữa bệnh vua càng thấp hèn thì
được thưởng càng nhiều. Này Tào Thương, hẳn là ông đã chữa bệnh trĩ cho
vua Tần phải không? Không thì sao ông có thể mang nhiều xe ngựa về đến
thế?
Lời nói của Trang Tử có thể là châm biếm rất sâu cay, nhưng nó đã nói rõ
một điều: chữ "lợi" không thể cột được trái tim Trang Tử. Ước mơ của Trang
Tử đã vượt xa khỏi "lợi", mặc dầu ông rất nghèo khó.
Nói đến chúng ta ngày nay, một người chỉ có 10 đồng (nhân dân tệ), niềm
sung sướng của người đó chưa chắc đã không bằng một người có hàng tỷ
đồng. Việc trong tay có bao nhiêu tiền không thể quyết định hạnh phúc của
bạn.
Trong xã hội chúng ta, người sung sướng nhất không phải là người khố
rách áo ôm, cũng không phải là người giàu nứt đố đổ vách, mà thường là
những người ấm no đến mức đầy đủ. Bởi vì cuộc sống của họ không đến nỗi
quá quẫn bách, đồng thời họ cũng không bị của cải trói buộc, suốt ngày lo giữ
của. Những người đó chiếm đại đa số trong xã hội, là những người có tư cách
được hưởng hạnh phúc. Thế nhưng hạnh phúc hay không còn nằm ở suy nghĩ
của bạn.
Tôi có một người bạn, xuất thân từ giới truyền thông, sau chuyển sang
kinh doanh bất động sản, tài sản ngày một nhiều, sự nghiệp ngày một thành
công. Anh rất buồn khi rời khỏi ngành truyền thông, vì truyền thông chính là
nghề anh ta thích nhất. Nhưng tại sao anh lại đi kinh doanh bất động sản?
Anh cho biết: Vì tôi phải có trách nhiệm với gia đình và con cái sau này của
mình, phải mang lại cuộc sống hạnh phúc cho họ. Bởi vậy tôi phụ lòng chính
mình, tôi phải có nhiều tiền hơn.
Anh đã lập gia đình, có một đứa con trai rất đáng yêu, kiếm được rất nhiều
tiền, cuộc sống chắc chắn cũng rất hạnh phúc. Bất chợt anh cho tôi hay anh
sắp di cư, đến một đất nước rất xa xôi, hơn nữa anh để vợ con đi trước, còn
anh ở lại trong nước kiếm thêm tiền. Tôi hỏi anh:
- Anh đã yêu vợ con như vậy, sao còn để vợ con xa lìa? Câu trả lời của
anh có thể khiến bạn bất ngờ. Anh nói:
- Với gia sản hiện nay của tôi thì nếu đứa con học ở trong nước, tôi sẽ suốt
ngày lo nó bị bắt cóc. Bởi vậy tôi phải để họ đi.
Đó chính là chuyện xảy ra xung quanh chúng ta. "Lợi", có thực càng nhiều
càng tốt hay không?
Vất vả vì "lợi", bôn ba vì "lợi" sẽ đánh mất rất nhiều tự do, rất nhiều niềm
vui của chính mình.
Trang Tử rất coi nhẹ những thứ này. "Lợi" không trói buộc được ông. Vất
vả vì "lợi", bôn ba vì "lợi" sẽ đánh mất rất nhiều tự do, rất nhiều niềm vui của
chính mình. Tâm hồn bị thể xác nô dịch, theo ông là thực sự không đáng.
Tục ngữ có câu: Cọp chết để da, người chết để tiếng. Nhìn thấu chữ lợi
không hề dễ dàng, nhìn thấu chữ "danh" lại càng khó, rất nhiều người có thể
không bị cám dỗ vì lợi, nhưng lại bị lụy vì danh. Ngay cả một kẻ sĩ cao khiết
cũng mong muốn được lưu danh sử sách.
Vậy thì Trang Tử có coi trọng danh phận không? Trước quan cao và danh
tiếng, Trang Tử có thái độ như thế nào?
Giữa danh và lợi thì nhìn thấu danh khó hơn nhìn thấu lợi. Rất nhiều
người có thể không rung động trước tiền tài nhưng lại khó vượt qua được ải
danh vọng.
Xưa nay có biết bao văn thần võ tướng đã dành cả cuộc đời chỉ để theo
đuổi một tên thuỵ sẽ được truy phong sau khi chết, được quân vương phong
cho là trung, là hiếu, là văn, là võ, v.v. và v.v. Tên thụy đó được khắc trên bia
mộ, chắc hẳn mọi ấm ức lúc sinh thời đều được bù đắp qua tấm bia mộ vĩnh
hằng này.
Tân Khí Tật nói: "… Chấm dứt mọi chuyện quân vương thiên hạ, đổi
được cái danh lúc còn sống cũng như sau khi chết. Đáng thương cho kẻ bạc
đầu!". Và một đời cứ thế trôi qua.
Trang Tử có trọng danh không? Chúng ta biết rằng Trang Tử hiếu học và
suy nghĩ rất sâu sắc, giàu chí lớn và đại lược, thế nhưng ông không thích nói.
Trang Tử nói: "Trời đất có vẻ đẹp lớn mà không nói ra, bốn mùa có phép
sáng suốt mà không bàn tới, vạn vật có lẽ hình thành mà không nói ra". Bởi
vậy, ông không thích nói bất kỳ điều gì.
Thiên Thu thủy chép một câu chuyện như sau:
Trang Tử có một người bạn thân tên là Huệ Thi, người đời gọi là Huệ tử.
Khi ấy Huệ Thi là nhà hùng biện lừng danh trong thiên hạ.
Huệ Thi làm Tể tướng nước Lương, Trang Tử bèn đến nước Lương thăm
ông. Khi đó có người đến bảo Huệ Thi: Trang Tử đến đây là muốn thay ngài
làm Tể tướng nước Lương.
Huệ Thi nghe vậy trong lòng kinh hãi, bèn sai người đi khắp nước tìm
Trang Tử suốt ba ngày ba đêm. Ông nhất định phải tìm cho được Trang Tử,
không thể để Trang Tử trực tiếp gặp vua Lương. Ông sợ nếu lỡ vua Lương
thật sự ban chức Tể tướng cho Trang Tử thì ông chẳng biết phải làm sao.
Trang Tử hay chuyện, bèn tự đến tìm Huệ Thi, nói:
- Phương nam có một con chim tên là uyên sồ bay từ Nam Hải đến Bắc
Hải, nếu không gặp cây ngô đồng thì dứt khoát không chịu đậu xuống nghỉ
ngơi, không gặp quả cây tre thì không chịu ăn, không gặp nước suối trong
ngọt thì không uống. Nó là một con chim trong sạch. Một con cú mèo kiếm
được một con chuột thối rữa, ngẩng đầu lên thấy uyên sồ vừa bay tới, bèn
ngước nhìn, hét lên: "Biến đi!".
Này Huệ tử, giờ ngài cho người đi lùng sục tôi như vậy, có phải là dùng
nước Lương của ngài để hù dọa tôi không?
Thực ra đây chính là "danh" trong mắt Trang Tử. Chức Tể tướng nước
Lương với ông chỉ là một thây chuột thối rữa mà thôi.
Có thể có người nói rằng chức Tể tướng của một nước nhỏ như Lương
quốc có thể Trang Tử không thèm màng đến. Thật ra còn có chức tước lớn
hơn từng được dâng đến cho ông.
Trong thiên Thu thủy có một câu chuyện như sau:
Vào thời Chiến Quốc, Sở là một nước lớn. Hôm ấy Trang Tử đang tiêu
dao câu cá trên dòng Hán Thủy. Sở vương bèn phái hai viên quan đại phu đến
gặp Trang Tử, họ cung kính nói:
- Xin phiền đến tiên sinh về chuyện của nước chúng tôi. – Giọng nói rất
khách khí, tức là muốn mời ông xuất sơn ra làm Tể tướng, mong muốn ban
chức Tể tướng nước Sở cho ông.
Trang Tử tay cầm cần câu, đầu không quay lại, đáp:
- Tôi nghe nói nước Sở có một con rùa thần, đã chết ba nghìn năm mà vua
Sở vẫn giữ nó cất trong hộp, đặt trong miếu thờ. Theo các vị thì con rùa ấy
muốn chết và để xương lại cho người ta thờ cúng hay là muốn sống để lê đuôi
bò trong bùn?
Hai viên đại phu đáp:
- Đương nhiên là muốn sống để bò trong bùn rồi! Trang Tử bảo:
- Thế thì xin mời hai vị tự nhiên, để tôi lê đuôi sống trong bùn vậy!
Đó chính là thái độ của Trang Tử trước cái "danh" được dâng đến tận cửa.
Bởi đâu lòng người được tự do? Là bởi con người có thể không tham hám.
Cuộc đời con người chỉ có thể bị trói buộc bởi chính việc mà mình tham hám.
Nếu không tham hám thì còn có gì trói buộc được bạn?
Rất nhiều khi sự vất vả của nhân sinh cần thiết phải được đặt câu hỏi là
nhằm mục đích gì? Có thể có một câu trả lời rất cao thượng, đó là vì hạnh
phúc của người nhà, vì thành công của đơn vị, đóng góp cho xã hội, v.v. Thế
nhưng động cơ tiềm ẩn sau đó là gì? Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lòng
mình: Phải chăng chúng ta đang tìm kiếm một cái cớ đường hoàng cho danh
và lợi? Rất nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta vì danh lợi, từng bước bị
danh lợi dụ dỗ mà rơi vào vòng luẩn quẩn, không dứt ra được.
Chúng ta biết rằng trong con người có thể tồn tại một ngọn lửa vô danh
(vô danh hỏa). Trong lòng bạn thấy rất không thoải mái nhưng lại không thể
thổ lộ với người khác, thế nên đôi khi chỉ vì một sự việc vụn vặt, bé nhỏ là có
thể làm bùng cháy ngọn lửa vô danh đó.
Thí dụ trong một công ty, người có địa vị cao nhất là ông chủ. Ông chủ vì
một chuyện không thuận lợi nào đó mà trách mắng thuộc cấp: Tại sao có việc
đó mà cậu làm không nổi? Sao khả năng của cậu kém thế? Về tự kiểm điểm
đi! Viết ngay một bản kiểm điểm! Mai cậu phải tăng ca, phải hoàn thành cho
tốt việc đó.
Thuộc cấp chẳng biết nói sao, đành líu ríu gật đầu nghe lệnh. Về đến nhà,
ngọn lửa vô danh đó phải xử lý thế nào đây? Bèn bắt đầu quát vợ:
- Tôi vất vả kiếm tiền để lo cho cái nhà này, để cô có cuộc sống sung túc!
Thế còn cô? Nhà cửa thì bề bộn, con cái cũng chẳng chăm sóc đến nơi đến
chốn. Cô để tôi phải sống như vậy sao?
Người vợ bị một trận mắng tối tăm mặt mũi, chẳng biết trả lời sao. Cô
đành phải gật đầu nhận lỗi, vì mỗi tháng đều phải cầm tiền từ tay chồng. Thế
nhưng trong lòng lại ấm ức, mất cân bằng, nỗi bực tức không biết xả đi đâu;
nhìn thấy con bước vào cửa, bèn răn con:
- Mẹ vì mày mà vất vả, cả đời mẹ chỉ biết cho đi, chỉ biết lo lắng cho con
cái, thế mà mày không biết cố gắng học hành! Kết quả học tập mà mày đạt
được liệu có xứng đáng với công sức của mẹ không?
Đứa con vô cớ bị mắng, bực bội trong lòng, nhưng lại không dám cãi mẹ,
đành quay lại bắt nạt con cún trong nhà, đá cho nó một cái.
Chó phải nghe lời chủ, nó cũng có cơn giận không tên, ra khỏi cửa, cơn
giận không tên đó được trút lên đầu con mèo hoang, nó xông lên đuổi con
mèo hoang để cắn.
Mèo biết đánh không lại chó, cũng đành nén giận im tiếng, ra sức đi khắp
nơi bắt chuột. Chỉ có khi vồ được con chuột, cơn giận của mèo mới được xả.
Giữa cơn giận của một ông chủ và nỗi khốn khổ của một con chuột rốt
cuộc có bao nhiêu khâu? Phẫn nộ đã gắn cả hai lại với nhau.
Biết được sự tồn tại của ngọn lửa vô danh đó, chúng ta thật sự muốn mình
có được sự bình tĩnh không?
Người khác mang lại cho chúng ta nhiều nỗi ấm ức, hay là chính chúng ta
không nhìn thấu danh và lợi?
Người đời vì danh và lợi mà tất bật, qua lại, thực ra ấy đều bởi trong lòng
có sự ràng buộc. Chỉ khi phá vỡ được lằn ranh này, chúng ta mới có khả năng
đạt đến một sự tự do và tiêu dao.
Trang Tử sống trong nghèo khó nhưng ông không hám lợi; Trang Tử giàu
tư tưởng và tài năng nhưng ông không màng danh. Vậy thì trước sinh tử, ông
có thái độ ra sao?
Rất nhiều người khi còn sống coi trọng nhất là hai chữ danh và lợi. Đến
cuối cùng khi đi đến cực hạn thì danh và lợi không còn quan trọng nữa, vẫn
có thể nhìn thấu, thế nhưng sinh tử thì thực khó có thể nhìn thấu.
Lúc sinh thời, Trang Tử từng nói: Thà sống mà lê đuôi trong bùn còn tốt
hơn là chết. Vậy thì Trang Tử có thể nhìn thấu sinh tử không?
Trong thiên Chí lạc có một câu chuyện nổi tiếng như sau: Người vợ kết
tóc se tơ của Trang Tử ra đi trước ông, bạn thân của ông là Huệ Thi đến
phúng điếu. Đến nhà thì thấy Trang Tử đang ngồi dưới đất gõ chậu ca hát.
Huệ Thi chất vấn Trang Tử:
- Vợ thầy sinh con đẻ cái cho thầy, giờ có tuổi mà từ trần, thầy không
khóc thì thôi, lại còn gõ chậu ca hát, thầy thật quá lắm!
Trang Tử bình thản đáp lời Huệ Thi:
- Không phải thế! Bà ấy mới mất, sao tôi lại không thấy đau lòng? Nhưng
tôi suy đến tận cội gốc, lúc mới đầu chẳng phải con người đều không có sinh
mệnh hay sao? Không có sinh mệnh thì không có hình thể, không có hình thể
thì không có hơi thở. Sinh mệnh được hình thành như thế nào? Trong trời đất,
ở chỗ mông lung như có như không, một hơi thở được tích tụ, hơi thở dần
hình thành hình thể, hình thể lại thai nghén ra sinh mệnh và con người từ đó
xuất hiện, bây giờ sinh mệnh lại đi đến tử vong. Sự sinh lão bệnh tử đó chẳng
phải biến đổi theo bốn mùa xuân hạ thu đông đó sao? Giờ bà nhà tôi lại trở về
theo con đường đó, lúc này bà ấy đang ngủ yên lành giữa trời đất, mà tôi lại
ngồi đây khóc lóc, chẳng phải là không hiểu chân đế của sự sống hay sao?
Sở dĩ Trang Tử có thái độ thản nhiên như vậy chính là bởi ông đã nhìn
thấu chân đế của sự sống.
Thái độ thản nhiên ấy cũng có thể thấy trong dân gian Trung Quốc. Chẳng
hạn, dân gian coi trọng tổ chức hai loại "hỷ sự" (việc mừng), gọi là "hồng
bạch hỷ sự" (việc hỷ đỏ và hỷ trắng). Cưới hỏi và sinh con là việc hỷ đỏ, đó
là sự khởi đầu thể hiện lẽ sinh sôi của sự sống, điều này tất nhiên là việc
mừng; việc người già sống hết tuổi trời, tiễn người già ra đi, ấy là việc hỷ
trắng, cũng là việc đáng mừng.
Đỏ và trắng chỉ là hai cực của sự sống, đỏ là sự đón tiếp trước khi sự sống
đến, trắng là sự đưa tiễn sau khi sự sống tịch diệt. Giữa sinh và tử chẳng qua
chỉ là sự chuyển hóa hình thái sự sống.
Nếu thực sự có tâm thế như Trang Tử thì có lẽ chúng ta sẽ bớt đi rất nhiều
nỗi lo và khổ sở. Thế nhưng sinh lão bệnh tử, cuộc đời có rất nhiều nỗi lo khổ
và trắc trở, một khi đứng trước sinh tử, chúng ta có thể thản nhiên đối mặt
không?
Còn Trang Tử thì nhìn nhận sự tử vong của mình như thế nào? Trong
thiên Liệt ngự khấu, Trang Tử kể một câu chuyện như sau:
Lúc Trang Tử sắp qua đời, học trò của ông bàn nhau phải hậu táng sau khi
thầy từ trần, tức là phải an táng long trọng, đồ dùng lễ nghi nhất định phải
sang trọng.
Trang Tử nghe vậy bèn bảo học trò: Sau khi ta chết, phải "lấy trời đất làm
quan tài, nhật nguyệt làm ngọc quý, tinh tú làm châu báu, vạn vật làm vật
phẩm chôn theo".
Thế mới là một tang lễ long trọng. Đó quả thực là một khí phách hào sảng.
Trên thực tế, ý Trang Tử là, các trò chẳng cần phải làm hậu táng: Ta chẳng
cần quan tài, chẳng cần vật phẩm chôn theo, chẳng cần lễ vật, các trò cứ
quăng xác ta ra đồng, giao trả cho trời đất tự nhiên là được.
Đám học trò hẳn nhiên rất lấy làm khó xử. Họ tưởng thầy sắp chết nên nói
bừa. Ngẫm nghĩ một hồi, thấy cứ nên khuyên giải thầy, bèn bẩm:
- Thưa thầy, nếu vậy thì chúng con e diều quạ sẽ rỉa xác thầy. Thôi cứ nên
cho vào quan tài chôn xuống đất.
Trang Tử nói:
- Đặt ta ngoài đồng, diều quạ sẽ rỉa; chôn ta dưới đất, kiến cũng sẽ ăn ta.
Các con cướp miếng ăn của diều quạ để nuôi kiến dưới đất, sao lại thiên vị
như thế?
Câu trả lời thực khoáng đạt và hóm hỉnh. Hình thể trả về cho trời đất, sinh
tử trở về với tự nhiên. Đó chính là quan điểm của Trang Tử về hình thể và sự
sinh tử của chính mình.
Trong xã hội chúng ta hiện nay, có rất nhiều câu lạc bộ chống ung thư, rất
nhiều người nổi tiếng về chống ung thư. Trước kia cứ nghe nói mắc bệnh ung
thư là đồng nghĩa với án tử hình. Nhưng hiện nay rất nhiều người bệnh ung
thư sống được rất nhiều năm. Tại sao vậy? Chính là bởi nội tâm họ lạc quan
khoáng đạt, không sợ chết, vì vậy mới có thể chiến thắng cái chết.
Thực ra trước nay Trang Tử là một người không sợ chết. Đó là do ông có
quan niệm "lạc sinh" (vui sống), tức là sống tốt còn hơn là sợ chết.
Quan điểm này trùng hợp với tư tưởng của Nho gia. Khi trả lời học trò về
vấn đề sinh tử, Khổng Tử đã nói sáu chữ: "Vị tri sinh, yên tri tử?". Con người
còn chưa hiểu rõ cuộc sống, việc gì phải nghĩ đến chuyện chết? Về điểm này
Nho Đạo tương thông.
Trang Tử cho chúng ta thấy một tấm lòng ấm áp và một giá trị chất phác,
tức là "sống ở hiện tại". Sống trong hiện tại, nhìn thấu danh lợi, không sợ sinh
tử, như thế tâm hồn chúng ta sẽ có một không gian và một cảnh giới vô cùng
rộng lớn.
Trang Tử cho chúng ta thấy một tấm lòng ấm áp và một giá trị chất phác,
tức là "sống ở hiện tại". Sống trong hiện tại, nhìn thấu danh lợi, không sợ sinh
tử, như thế tâm hồn chúng ta sẽ có một không gian và một cảnh giới vô cùng
rộng lớn.
Có thể nói, Trang Tử đã để lại rất nhiều bóng dáng cuộc sống thấp thoáng
trong sách của mình. Rất nhiều phán đoán trong đó tương tự như Nho gia. Có
điều Nho gia mãi mãi coi trọng đạo đức của bậc thánh hiền trên đời, mãi mãi
coi trọng niềm tin của con người về kiến công lập nghiệp trong cuộc sống;
còn Đạo gia thì luôn luôn coi trọng sự tự do tinh thần trong bầu trời xanh bao
la rộng lớn, luôn luôn coi trọng sự vượt qua đằng sau sự tác thành cuối cùng.
Về thước đo xã hội, tư tưởng Nho gia yêu cầu con người phải gánh vác;
còn về bình diện sự sống, tư tưởng Đạo gia đòi hỏi con người phải vượt qua.
Gánh vác là trách nhiệm xã hội của chúng ta, vượt qua là một cảnh giới sự
sống của chúng ta. Bởi vậy, xét theo ý nghĩa này, sau khi đọc xong rất nhiều
câu chuyện trong Trang Tử, ta sẽ hiểu được triết lý nhân sinh của ông, đó
không phải là sự tích cực hay tiêu cực một cách đơn giản, mà là một hệ thống
tham chiếu xây dựng cho chúng ta trên những hệ thống khác nhau của sự
sống.
Nói theo lời Trang Tử, cảnh giới cao nhất của cuộc sống chính là hoàn
thành một chuyến tiêu dao du giữa trời đất, có nghĩa là nhìn thấu những
chướng ngại rào cản trong lòng, tìm thấy vị trí của cuộc sống trong vũ trụ trời
đất bao la.
Trên một hệ tọa độ mênh mông như vậy, hãy để con người trở thành con
người đích thực, hãy để nội tâm chúng ta không bị ràng buộc; chúng ta hãy
phấn đấu trở thành chính mình trong lý tưởng.
Cảnh giới cao nhất của cuộc sống chính là nhìn thấu những chướng ngại
rào cản trong lòng, tìm thấy vị trí của cuộc sống trong vũ trụ trời đất bao la.
Hãy để mọi khó khăn trong hiện thực chỉ ở hiện tại, có thể nhìn thấu được,
còn trên sự dẫn dắt của cuộc sống vĩnh hằng, có một cảnh giới tiêu dao du
như vậy, đáng để mỗi người chúng ta vĩnh viễn theo đuổi và tìm kiếm.
CHƯƠNG 2
TẦM VÓC CÓ LỚN CÓ NHỎ

Bằng rất nhiều câu chuyện ngụ ngôn, Trang Tử cho chúng ta biết : Tầm
nhìn của mỗi con người quyết định sự phán đoán của người đó đối với mọi sự
vật, và nó cũng có thể hoàn toàn thay đổi số phận của một con người.
Tầm nhìn rộng sẽ thấy rằng "trời sinh ra ta ắt hữu dụng", còn đứng trên
tầm nhìn hẹp thì suốt đời chỉ có thể là một kẻ tầm thường.
Vậy thì chúng ta làm thế nào để phân biệt tầm nhìn rộng và hẹp? Làm thế
nào để đạt đến tầm nhìn rộng?
Trong thiên Tiêu dao du sách Trang Tử có một mệnh đề hạt nhân, đó là:
Thế nào là lớn? Thế nào là nhỏ?
Tiêu dao du đã mở rộng vô hạn không gian tưởng tượng của chúng ta, cho
chúng ta biết mức độ rộng lớn của thế gian vượt xa sự tưởng tượng của chúng
ta; mức độ nhỏ của thế gian cũng vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta. Bởi lẽ
lớn và nhỏ thật sự không chỉ là ở nơi mắt nhìn, mà còn ở tâm trí của con
người; nó không đơn thuần là tầm nhìn được chỉ dẫn qua sách vở, mà nhiều
khi nó biểu hiện ra ở rất nhiều quy tắc thực dụng trong đời sống. Có nghĩa là
trong cuộc đời con người, tầm nhìn lớn nhỏ ứng dụng khác nhau sẽ mang lại
hiệu quả khác nhau, cuộc sống khác nhau.
Chúng ta đều biết Huệ Thi và Trang Tử là bạn thân, giữa hai người từng
có rất nhiều cuộc đối thoại. Trong Trang Tử có một câu chuyện như sau:
Một hôm Huệ Thi tìm đến Trang Tử, bảo:
- Ngụy vương cho tôi một hạt bầu của giống lớn, tôi bèn trồng nó, đến khi
ra hoa kết trái, kết ra một quả bầu rất to, đầy đặn, lớn đến năm thạch(*). Vì
quả bầu lớn quá nên chẳng có ích gì. Nếu bổ đôi nó làm gáo múc nước thì vỏ
bầu quá mỏng, múc nước vào nhấc lên sẽ vỡ. Dùng nó để đựng thứ gì cũng
không được. Nghĩ đi nghĩ lại, quả bầu này tuy to nhưng vô dụng, nên tôi đã
đập nát nó.
(*) Thạch: Đơn vị đo thể tích của người Trung Hoa cổ, 1 thạch = 100
lít.
Trang Tử nói:
- Thầy đúng là không biết cách dùng đồ vật lớn!
Có quả bầu to năm thạch, sao không dùng dây buộc lên mình nó làm
thuyền, rồi thỏa thích phiêu du khắp sông hồ, mà lại lo nó quá lớn không biết
dùng vào đâu?
- Tiêu dao du -
Và ông kể một câu chuyện như sau:
Ở nước Tống, nhà nọ có một phương thuốc bí truyền hiếm có, đó là thuốc
chữa nẻ da, mùa đông giá rét mà bôi vào thì tay chân sẽ không bị nứt nẻ. Bởi
vậy nhà họ đời đời sống bằng nghề rửa chân tay cho người.
Một hôm có vị khách qua đường tình cờ nghe nói nhà họ có phương thuốc
bí truyền bèn đến thương lượng với họ để mua lại với giá một trăm lạng
vàng. Cả nhà nghe xong liền họp nhau lại bàn bạc, nói rằng phương thuốc bí
truyền này của nhà ta tuy đã có từ lâu đời, nhưng cả nhà cứ sống bằng nghề
rửa chân tay cho người cũng chẳng kiếm được bao nhiêu tiền. Nay người ta
bỏ ra cả trăm lạng để mua, sao lại không bán? Chúng ta nên bán nó đi!
Người khách qua đường trả tiền xong, đem phương thuốc đi. Ông ta dùng
nó làm gì? Khi ấy chư hầu khắp nơi hỗn chiến để giành đất. Ở miền đông
nam là cuộc chiến giữa hai nước Ngô và Việt, đất Ngô Việt đa phần là sông
nước. Người này đem phương thuốc bí truyền từ nước Tống đến nước Ngô,
đồng thời vào du thuyết Ngô vương. Khi ấy đúng vào lúc quân nước Việt
đang tấn công nước Ngô. Vua Ngô bèn phái người này dẫn quân, chọn tháng
chạp giá rét phát động thủy chiến với quân Việt. Nhờ có phương thuốc bí
truyền của người này nên chân tay quân sĩ không bị cóng, không bị nứt nẻ, lở
loét, sức chiến đấu dồi dào, còn quân Việt thì không có phương thuốc ấy.
Cuộc chiến này nước Ngô đại thắng nên người dâng phương thuốc bí truyền
được cấp đất phong hầu, trở nên giàu sang, sống sung sướng vô cùng.
Phương thuốc này đưa cho những người khác nhau sử dụng sẽ mang lại
hiệu quả cuộc sống khác nhau. Nếu có tầm nhìn lớn, bạn sẽ thấy nó có thể
quyết định vận mệnh của một đất nước, làm thay đổi thân phận của một con
người.
Trang Tử bảo Huệ Thi: Quả bầu lớn cũng vậy. Sao thầy lại cho là nó chỉ
có thể bổ ra làm gáo? Nếu nó là một quả bầu lớn hoàn chỉnh, sao thầy không
dùng dây buộc lên thân nó mà du ngoạn khắp giang hồ? Chẳng lẽ mỗi một đồ
vật cứ phải được gia công thành một sản phẩm theo quy định nào đó thì mới
là hữu dụng?
Tại sao đồ vật giống nhau vào tay những người khác nhau sẽ có thể sinh ra
những giá trị hoàn toàn khác nhau? Câu chuyện ngụ ngôn của Trang Tử cho
chúng ta biết: kích thước tầm nhìn của một con người sẽ quyết định phương
thức tư duy của người đó. Người ta thường phán đoán giá trị của sự vật một
cách bảo thủ bằng con mắt đời thường. Chỉ những người có tầm nhìn rộng
lớn mới thấy được giá trị đích thực của sự vật.
Tôi từng đọc một cuốn sách nhan đề là Kho báu ẩn giấu, cuốn sách kể về
câu chuyện của một người Mỹ:
Có hai anh em người Đức di cư sang Mỹ, đến New York mưu sinh vào
năm 1845. Cuộc sống quá gian nan, họ bèn bàn nhau tìm cách mưu sinh. Hồi
còn ở Đức, người anh vốn có nghề làm dưa muối rất ngon. Người em còn quá
trẻ, chưa biết làm gì. Người anh bảo: Chúng ta là người quê mùa, ở trong
thành phố New York rộng lớn thế này rất khó sinh tồn, để anh đi California
trồng cải và tiếp tục làm dưa muối. Người em nghĩ bụng: Dù sao mình cũng
chẳng có nghề gì, thôi đành liều ở lại New York, ban ngày làm thuê, tối đi
học. Anh học địa chất học và thuật luyện vàng.
Người anh đến một miền quê ở California. Giá đất ở đây rất rẻ nên anh
mua một lô đất trồng cải bắp, cải bắp lớn lên dùng làm dưa muối. Anh rất
chăm chỉ, hàng ngày trồng rau muối dưa, nuôi được cả gia đình.
Bốn năm sau, người em tốt nghiệp đại học, đến
California thăm anh. Người anh hỏi:
- Giờ trong tay chú đã có gì rồi? Người em đáp:
- Ngoài một mảnh bằng, em chẳng có gì khác. Người anh nói:
- Tôi thấy chú phải nên thực tế một chút, chịu khó làm việc. Để tôi đưa
chú đi thăm ruộng rau của tôi.
Người em đến ruộng rau, ngồi xuống xem rau, gạt đất dưới gốc rau và
nhìn chăm chú vào đó hồi lâu rồi vào nhà lấy một cái chậu, múc nước, cho
từng vốc đất vào rửa.
Anh phát hiện dưới đáy chậu có những mạt vàng lập lánh. Kinh ngạc
ngẩng đầu lên nhìn anh trai, anh reo lên:
- Anh ơi, anh biết không? Anh đang trồng cải bắp trên một mỏ vàng đấy!
Chúng ta cũng giống như người anh trong câu chuyện này, thường cứ thản
nhiên đón nhận trật tự mà cuộc sống mang lại cho mình. Ngày qua ngày,
chúng ta dậy sớm, ngày làm đêm ngủ. Người ta sống thế nào mình cũng sống
thế ấy. Chúng ta nuôi gia đình bằng một nghề sở trường trong tay với một
cuộc sống rất yên ổn. Chúng ta chưa bao giờ nhảy vọt ra khỏi hệ thống kinh
nghiệm mà mình đang có để tự hỏi: Mình còn có thể chuyển sang một lối
sống
khác không? Liệu mình có thể phát huy những kỹ năng mà mình đang có
lên một tầm mức cao hơn không?
Trong Tiêu dao du, Trang Tử đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề muôn
thuở: Thế nào là hữu dụng?
Là phụ huynh, có thể chúng ta sẽ nói với con mình rằng: Con chống cằm
trên bậu cửa sổ ngắm nhìn bướm cả buổi chiều là một việc làm vô ích; nếu
con dùng thời gian đó để luyện dương cầm thì mới là hữu dụng.
Có thể chúng ta nói với con rằng: Cả buổi chiều con nghịch đất, đắp lâu
đài là việc làm vô ích; buổi chiều đó con luyện đánh chữ sẽ có ích hơn.
Tôi từng biết một thực nghiệm khoa học như sau: Cho một con bọ nhảy
vào trong lọ và đóng nắp lại. Rõ ràng con bọ này biết nhảy cao, nhưng vì nắp
lọ đã bị đóng nên vừa nhảy lên, "bốp!", con bọ đụng phải nắp và rơi xuống;
lại nhảy lên, lại đụng phải nắp và rơi xuống. Nó vẫn nhảy liên tục, nhưng mỗi
lúc một thấp. Lúc ấy, người ta mở nắp ra, thấy con bọ vẫn đang nhảy, nhưng
nó đã không bao giờ còn có thể nhảy ra khỏi cái lọ, bởi nó cứ cho rằng trên
đỉnh lọ có nắp và nó sẽ không thể vượt qua.
Nền giáo dục của chúng ta ngày nay có một hiện tượng đáng buồn, đó là
cha mẹ dùng toàn bộ tình yêu thương của mình để quy định quá nhiều điều
cấm kỵ cho con cái, đậy lên đầu con trẻ quá nhiều "cái nắp" hữu dụng.
Chúng ta đã làm cho bọn trẻ nghĩ rằng, đã là một quả bầu thì sau này chỉ
có thể trở thành gáo múc nước chứ không thể trở thành một con thuyền lớn
đưa con người du ngoạn khắp đầm hồ sông bể. Là một miếng đất thì trên đó
chỉ có thể trồng rau, trồng lương thực, chẳng ai cất công tìm hiểu dưới đất có
thể ẩn giấu kho báu.
Chúng ta trói buộc tâm trí mình bằng một lối tư duy thường quy. Thái độ
sống thường quy của chúng ta đã quy định giới hạn đáng tội nghiệp của
chúng ta. Giới hạn đó vốn có thể phá vỡ được. Chỉ có phá vỡ lối tư duy
thường quy, chúng ta mới có thể hướng đến cái gọi là tiêu dao du đích thực.
Tiêu dao du đích thực chính là không bị bất kỳ sự ngáng trở hay ràng buộc
nào.
Hữu dụng và vô dụng có thể chuyển hóa cho nhau. Lẽ nào một con người
cứ nhất định phải tuân theo nề nếp, chiểu theo trật tự, làm theo quy tắc để
thiết kế cuộc sống của riêng mình?
Có một câu chuyện như sau:
Chỉ có phá vỡ lối tư duy thường quy, chúng ta mới có thể hướng đến cái
gọi là tiêu dao du đích thực.
Một công ty lớn tuyển nhân viên truyền tin, những ai thông thạo mã
Morse thông dụng trên thế giới đều có thể ứng tuyển. Rất nhiều người hay tin
đã đến dự tuyển và được đưa vào đại sảnh của công ty chờ phỏng vấn.
Đại sảnh rất ồn ào. Công ty lớn nên công việc bận rộn, người ra vào đại
sảnh tấp nập, người nói chuyện, người gọi điện thoại... rất huyên náo. Mấy
chục ứng viên ngồi thành hàng chờ đợi trong không khí ồn ào đó. Cuộc
phỏng vấn diễn ra trong một căn phòng nhỏ bí mật ở cuối đại sảnh. Mọi
người chờ đợi đến lượt mình được gọi vào.
Lúc ấy có một chàng trai đến muộn. Anh xếp cuối hàng, không có cả chỗ
để ngồi. Anh đứng một lát rồi đến thẳng căn phòng bí mật đó, đẩy cửa bước
vào. Mọi người đều ngỡ ngàng: Sao anh ta không xếp hàng mà đã đi vào?
Một lát sau, trưởng phòng nhân sự phụ trách việc tuyển dụng dẫn chàng
trai ra khỏi phòng và nói với các ứng viên khác đang ngồi chờ:
- Xin lỗi, vị trí nhân viên truyền tin đã có người. Các vị có thể ra về.
Các ứng viên khác đều tức giận bất bình:
- Anh chàng kia đến muộn, còn xông thẳng vào phòng mà lại được tuyển!
Chúng tôi đợi ở đây đã lâu, anh chẳng hỏi lấy một câu, không thèm trao cho
chúng tôi một cơ hội mà đã kết luận như thế. Tại sao vậy?
Trưởng phòng nhân sự chậm rãi đáp:
- Chúng tôi đã cố tình tạo ra môi trường ồn ào này để tuyển dụng. Lẫn
trong các tiếng ồn này, chúng tôi luôn phát ra một âm thanh dưới dạng mã
Morse với ý nghĩa: "Ai nghe hiểu được mã này xin mời vào thẳng căn phòng
nhỏ ở cuối sảnh".
Chàng trai này tuy đến muộn, nhưng anh ấy nghe được ngôn ngữ mã hóa
trong môi trường ồn ào này nên đã thành công. Anh ấy không ngồi chờ theo
quy định như những ứng viên khác. Anh ấy thực sự giải được mã này nên
hoàn toàn xứng đáng nhận công việc của chúng tôi.
Đây là một câu chuyện trong cuộc sống hiện đại. Bạn thấy đấy, những tình
huống như trên luôn có thể xảy ra trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta đều biết Trang Tử là một bậc đại trí. Bậc đại trí thì không bao
giờ dạy chúng ta những điều nhỏ nhặt.
Cái mà ông dạy cho chúng ta là cảnh giới và tầm nhìn. Cảnh giới tiêu dao
du là điều mà chúng ta hướng tới.
Thế nhưng chúng ta đã thật sự lĩnh hội được tầm nhìn đủ để đánh giá sự
vật một cách hoàn chỉnh hay chưa? Nếu có được tầm nhìn như vậy, chúng ta
sẽ nắm bắt được từng cơ hội đến với mình.
Ngày nay chúng ta thường xuyên nhắc đến một từ thời thượng, đó là "sức
mạnh nội tại". Thực ra mỗi người chúng ta đều cần tự hỏi chính mình: Sức
mạnh nội tại là gì?
Sức mạnh nội tại là thứ không thể bắt chước, đó là cái duy nhất.
Nếu có một quả bầu nhỏ, ta dùng nó làm gáo múc nước là hữu dụng. Nếu
có một thân cây nhỏ, ta dùng nó làm bàn làm ghế là hữu dụng. Nhưng với
một quả bầu khổng lồ thì ta không nhất thiết phải bổ đôi nó ra làm gáo, mà ta
có thể dùng làm thuyền du ngoạn khắp sông hồ thì nó vẫn hữu dụng; một cây
đại thụ không cần đốn xuống lấy gỗ mà nó có thể đứng đó, tỏa bóng râm cho
người nghỉ chân cũng là hữu dụng.
Con người đừng bao giờ hâm mộ người khác một cách thái quá. Bạn hãy
tự hỏi lòng mình: Sức mạnh nội tại của mình là gì? Mình có điểm nào mà
người khác không thể thay thế được?
Sức mạnh nội tại của mình là gì? Mình có điểm nào mà người khác không
thể thay thế được?
Sách Trang Tử kể rất nhiều chuyện về cây. Trong thiên Nhân gian thế,
Trang Tử kể một câu chuyện về cây như sau:
Một người thợ mộc họ Thạch đến nước Tề, trên đường đi nhìn thấy một
cây sồi cổ thụ. Cây sồi này được người địa phương thờ làm thần thổ địa.
Cây này lớn đến mức nào? Mô tả của Trang Tử thường rất cường điệu.
Ông kể, bóng của cây này có thể che cho mấy nghìn con bò hóng mát dưới
gốc cây, đo thân cây được mấy trăm thước, cao tựa núi, cành mọc ở trên cao
không biết bao nhiêu trượng.
Cây đại thụ này thu hút rất nhiều người đến ngắm, nhưng bác thợ mộc họ
Thạch chẳng thèm liếc nhìn đã bỏ đi. Học trò của bác hỏi:
- Cây gỗ tốt như vậy sao thầy chẳng thèm ngó ngàng đã bỏ đi?
Bác thợ họ Thạch đáp:
- Đây là loại gỗ xấu. Đóng thuyền, thuyền sẽ chìm; đóng quan tài, quan tài
sẽ nhanh mục; làm đồ đựng, đồ đựng sẽ nhanh gãy; làm cửa, cửa sẽ nhanh
bẩn; dùng nó làm cột, cột sẽ có mối mọt. Bởi vậy đó là "bất tài chi mộc" (cây
gỗ bất tài), làm gì cũng không được.
Đến đêm, bác thợ mộc họ Thạch mơ thấy cây sồi đó đến nói chuyện với
mình.
Cây sồi nói:
- Ông nói tôi là cây vô dụng, nếu tôi hữu dụng thì chẳng phải đã bị các
ông chặt từ lâu rồi sao? Đâu còn sống đến nay để to đến thế này?
Rồi nó nói tiếp:
- Ông xem những loài cây ăn quả, chúng được coi là cây hữu dụng, hàng
năm ra quả trĩu cành, được mọi người khen ngợi, kết quả là bị vặt trơ cành,
cành con cũng bị cong vẹo. Quả trên cành cứ đến khi chín lại bị người ta
tranh nhau đến hái. Bởi vì chúng hữu dụng nên mới hại đến chính mình và đã
chết từ lâu. Tôi thì nhờ vô dụng nên mới bảo toàn được mình. Đó chính là
chỗ hữu dụng lớn của tôi vậy.
Trong thiên Nhân gian thế, Trang Tử thác lời Nam Bá Tử Quỳ nói: Đất
Kinh Thị ở nước Tống thích hợp trồng cây thu, cây bách, cây dâu. Những
loại cây này khi to bằng
nắm tay, người muốn có cọc cột khỉ sẽ đến chặt cây về; khi cây mọc to
đến ba bốn vòng ôm, người muốn làm xà nhà sẽ đến chặt về; khi lớn hơn nữa,
đến bảy tám vòng ôm, người giàu có muốn làm quan tài sẽ đến chặt cây mang
về.
Những loài cây ấy từ nhỏ đến lớn, dù ở kích thước nào cũng được đánh
giá là hữu dụng để làm một thứ gì đó. Nhưng nếu to đến mức ngoài sức
tưởng tượng, trở thành đại thụ hàng trăm vòng ôm, cây sẽ giữ được tính
mạng.
Hồi ở vùng Lâm Chi thuộc Tây Tạng, tôi từng gặp một cây đại thụ. Đó là
cây to nhất mà tôi từng thấy, khoảng hai mươi người mới ôm hết cây. Cây to
đến mức đó sẽ biến thành đối tượng được sùng kính. Ai đến đó cũng phải đến
nhìn nó. Người ta ca hát nhảy múa, uống rượu dưới gốc cây. Cảnh tượng ấy
cũng giống hệt như Trang Tử mô tả. Khi người ta cư xử với nó bằng thái độ
ấy thì còn ai nghĩ đến việc chặt cây về làm rương, làm tủ?
Một cây làm chẳng nên non, nhưng lại có thể lớn thành đại thụ chọc trời
và trở thành đối tượng được thờ cúng. Phải chăng câu chuyện ngụ ngôn của
Trang Tử là một lời nhắc nhở đối với việc chạy theo danh lợi của chúng ta
trong xã hội ngày nay?
Khi quan sát sự vật bằng tầm nhìn nhỏ hẹp đời thường, chúng ta thường
phán đoán mọi thứ dưới góc nhìn hữu dụng và vô dụng trước mắt. Khi có một
tầm nhìn lớn, người ta mới hiểu được thế nào là "trời sinh ta ắt hữu dụng".
Vậy thì, chúng ta phải làm thế nào để có được tầm nhìn ấy?
Sự hữu dụng mà chúng ta nói ngày nay có thể chỉ là sự hữu dụng cục bộ.
Còn hữu dụng thực sự là một cuộc sống lớn được nhìn bằng một tầm nhìn
lớn.
Tô Đông Pha có câu thơ: "Tiểu chu tòng thử thệ, giang hải ký dư sinh"
(Thuyền con nay gắn kết, sông biển gửi kiếp thừa). Lý Bạch cũng vậy, cả đời
phiêu lãng tiếu ngạo, cả đời chẳng lụy quyền quý. Khi Lý Bạch về già, Đỗ
Phủ đến thăm, hỏi ông còn có việc gì đáng tiếc không?
Lý Bạch đáp: Tôi cầu tiên vấn đạo, luyện đơn chưa thành, nghĩ đến Cát
Hồng tiên nhân thời Tấn, người viết ra Bão Phác tử, tự đáy lòng tôi thấy thẹn
với ông ấy.
Đỗ Phủ nghe xong sững người: Một bậc tiên thơ mà lại cảm thấy thẹn với
Cát Hồng. Đó là một kiểu quan niệm về nhân sinh ra sao? Bởi thế, Đỗ Phủ đã
viết tặng ông một bài tuyệt cú:
Thu lai tương cố thượng phiêu bồng, Vị tựu đan sa quý Cát Hồng.
Thống ẩm cuồng ca không độ nhật, Phi dương bạt hộ vị thùy hùng?
Dịch nghĩa:
Thu về cùng ngắm lại đám cỏ bồng phơ phất, Chưa xong thuốc đan sa,
thẹn (với) Cát ông. Uống rượu hát ngông sống qua ngày,
Bay bổng ngông nghênh ai có thể cùng tranh hùng?
Dịch thơ:
Thu về ngắm đám cỏ bông,
Đan sa chưa luyện thẹn cùng Cát ông. Qua ngày uống rượu hát ngông,
Nghênh ngang dữ tợn, tranh hùng với ai.
(Trần Trọng Kim dịch) Lý Bạch cả đời bôn ba, về già vẫn phiêu bạt, "thu
về"
(thu lai - chỉ mùa thu của đời người), nhưng dường như ông không để ý
đến. Và đây chính là cuộc đời của Lý Bạch: "Thống ẩm cuồng ca không độ
nhật, Phi dương bạt hộ vị thùy hùng?".
Ba chữ "vị thùy hùng" (ai có thể cùng tranh hùng?) hỏi rất hay! Trên đời
này, Lý Bạch không vì quân chủ, không vì sử xanh, không vì công danh, ông
không cần để lại một phong hiệu, ông chỉ vì cái tâm của mình. Bởi vậy, ông
là một anh hùng trong trời đất không gì ngáng trở được.
Loại anh hùng trong trời đất này được Lý Hạ, người đời Trung Đường tái
hiện trong thơ: "Thế thượng anh hùng bản vô chủ" (anh hùng trên đời vốn
không có chủ). Chúng ta đừng cho rằng, cứ loại trung thần tử sĩ trung với vua
là anh hùng. Anh hùng đích thực phải là người biết làm chủ trái tim mình.
Cuộc đời do chính tâm trí mình quyết định ấy sẽ tạo ra những tầm nhìn khác
nhau cho mỗi chúng ta. Đó chính là sự giác ngộ của sự sống.
"Giác ngộ" là một thuật ngữ nhà Phật. Chúng ta có thể nhận thấy cách viết
hai chữ "giác ngộ" rất lý thú, phần dưới chữ "giác" ( ) là chữ "kiến" ( – nhìn
thấy), phần bên phải của chữ "ngộ" ( ) là chữ "ngô" ( – tôi, ta), "ngộ" có
nghĩa là tâm ta. Giác ngộ, nói theo ngôn ngữ của chúng ta ngày nay là "nhìn
thấy tâm ta".
Chúng ta hãy tự hỏi xem suốt cả cuộc đời, có mấy người nhìn thấy được
tâm của mình? Bạn có thể hiểu được thế giới, có thể hiểu được người khác,
nhưng chỉ khi nhìn thấy tâm của mình thì mới là giác ngộ.
Giác là trong khoảnh khắc, ngộ là một quá trình. Kết hợp mọi khoảnh
khắc của giác và ngộ trong quá trình sống lâu dài, cái cuối cùng mà bạn nhận
được sẽ là nhìn thấy tâm mình. Đó chính là sự đại giác ngộ trong cuộc sống.
Trong sự khai ngộ của Thiền tông thuộc Phật gia, giác ngộ được mô tả
thành hai giai đoạn:
Giác là giai đoạn thứ nhất, thí dụ bạn nghe thấy một tri thức nào đó và đột
nhiên bạn thấy nhãn giới mình thông thoáng, tầm mắt mình mở rộng, đó
chính là giác.
Và trong quá trình tu tập lâu dài trong cuộc đời, gặp bất kỳ sự vật nào bạn
cũng phải nhìn lại nội tâm để suy nghĩ, để hiểu rõ, tích lũy từ ngày này qua
tháng khác, quá trình tìm tòi lâu dài đó gọi là ngộ.
Giác là trong khoảnh khắc, ngộ là một quá trình. Kết hợp mọi khoảnh
khắc của giác và ngộ trong quá trình sống lâu dài, cái cuối cùng mà bạn nhận
được sẽ là nhìn thấy tâm mình. Đó chính là sự đại giác ngộ trong cuộc sống.
Sách Tam Tự kinh nói: "Nhân chi sơ, tính bản thiện"(tính của con người
sinh ra đã là tốt). Nhưng tại sao từ xưa tới nay thế giới này lại ngập tràn tranh
đấu?
Triết học của Trang Tử dạy chúng ta phải nhìn cuộc sống bằng một tầm
nhìn lớn, mọi vinh hoa phú quý, thị phi phân tranh đều không có ý nghĩa gì
cả, điều quan trọng là bạn có một cuộc sống vui vẻ hay không.
Vậy thì làm thế nào để chúng ta có được một cuộc sống vui vẻ?
Mọi sự tranh đấu trên thế giới này xem ra đều hết sức tàn khốc, nhưng
dưới ngòi bút của Trang Tử lại hết sức nực cười.
Trong thiên Tắc dương, Trang Tử kể một câu chuyện như sau:
Có hai nước nọ, một tên là Xúc Thị, một tên là Man Thị, đánh nhau để
tranh giành đất đai. Cuộc chiến kéo dài rất lâu, tử vong rất nhiều, máu chảy
thành sông, nhân dân khốn đốn.
Cuối cùng Trang Tử cho hay, vùng đất mà hai nước giành nhau lớn đến
mức nào? Xúc Thị và Man Thị, một nước ở sừng trái ốc sên, một nước ở
sừng phải ốc sên.
Điều đó chẳng nực cười sao?
Chúng ta đọc Tả truyện, đọc sử truyện và tản văn Tiên Tần sẽ nhận thấy
một quan điểm gọi là "Xuân Thu vô nghĩa chiến" (chiến tranh vô nghĩa thời
Xuân Thu).
Người người đều giương cao ngọn cờ chính nghĩa, nhưng thực ra trong
loại tranh đấu này, chẳng ai là tuyệt đối chính nghĩa. Chính nghĩa chỉ là một
cái cớ để chém giết lẫn nhau mà thôi. Bởi vậy khi hiểu rằng vùng đất mà họ
tranh giành lớn nhất cũng chỉ bằng một cái vỏ ốc, chúng ta sẽ rút ra một kết
luận như thế nào?
Cuộc sống của chúng ta trôi qua trong chớp mắt giống như tia lửa điện.
Trong cuộc sống hữu hạn này, bất kể bạn nghèo khó hay giàu có, bất kể bạn
sống như thế nào thì thứ không đáng vứt bỏ nhất chính là niềm vui.
Nếu ai đó so đo tính toán, ai đó hẹp lòng, không biết mỉm cười với cuộc
sống thì người đó còn có quá nhiều si mê mà chưa nhìn thấu triệt.
Có người hỏi Phật tổ:
- Phật là gì? Phật tổ đáp:
- Vô ưu (không lo phiền) là Phật.
Con người một khi muốn thật sự đạt đến cảnh giới của tiêu dao thì cần
phải thoát khỏi những ràng buộc thông thường, dùng một thứ tư duy ngược
chiều để xem nhẹ tất cả những việc có vẻ lớn lao trong cuộc sống như chiến
tranh, chính trị, oán thù giết chóc, ân oán, coi chúng chẳng qua chỉ là sự phân
tranh trong vỏ ốc sên, như một việc xảy ra trong khoảnh khắc giống tia lửa
điện. Mặt khác, mở rộng tâm hồn tự chủ của mình đến tầm vô hạn.
Tôi nhớ Phong Tử Khải tiên sinh từng nói, cuộc sống của con người có thể
có ba loại cảnh giới, tức chủ chân, chủ mỹ, chủ thiện.
Đời sống vật chất của chúng ta là chủ chân. Trong cuộc sống, mỗi người
đều có quy tắc, có nghề nghiệp, đồng thời phải tuân theo rất nhiều yêu cầu,
tất cả rốt cuộc chỉ để tìm đến sự chân thực mà thôi.
Lớp đời sống thứ hai là đời sống thẩm mỹ. Thẩm mỹ ở đây là hai ba người
thân bạn bè cùng nghe hòa nhạc, thưởng thức thi ca nghệ thuật.
Tầm mức cao nhất của cuộc sống là đời sống tâm hồn, đời sống tâm hồn
này chủ về thiện.
Tầm mức của cuộc sống có lớn, có nhỏ, mà cuộc sống của chúng ta đại thể
cũng tương tự.
Tầm mức cao nhất của cuộc sống là đời sống tâm hồn, đời sống tâm hồn
này chủ về thiện.
Điều quan trọng không phải là về khách quan chúng ta có cơ hội như thế
nào, mà là về chủ quan chúng ta có tấm lòng như thế nào; không phải là
khách quan tạo cho chúng ta những cơ hội nào, mà là tâm trí của chúng ta xác
lập giá trị quan như thế nào trong việc phán đoán sự hữu dụng và vô dụng.
Khi quá thiên về lợi ích trước mắt, chúng ta bỏ quên vẻ đẹp của trời đất tự
nhiên, lẽ nào không nuối tiếc? Chúng ta đánh mất niềm vui sống hạnh phúc
với cha mẹ con cái, lẽ nào không nuối tiếc? Chúng ta đánh mất rất nhiều cơ
hội tiêu dao du, khiến cho mình nhanh chóng già đi, nhưng lại tích lũy một
đống công trạng vô dụng, lẽ nào không thấy lòng áy náy?
Ngày nay chúng ta nhìn lại Trang Tử, nhìn lại nội tâm bằng thái độ giác
ngộ, mục đích là để mỗi người chúng ta giải phóng chính mình, cố gắng đạt
đến cõi tiêu dao du.
CHƯƠNG 3
CẢM NGỘ VÀ VƯỢT QUA

Hai chữ danh lợi là sự theo đuổi suốt đời của biết bao người. Thế nhưng
muốn thật sự cảm nhận được cõi tiêu dao du của Trang Tử thì nhất định phải
vượt qua danh lợi. Mà nền tảng để vượt qua danh lợi chính là cần có một tâm
thế đạm bạc.
Vậy làm thế nào có thể đạt đến tâm thế đạm bạc? Làm thế nào để cảm
nhận được đạo lý của thế gian qua những câu chuyện của Trang Tử? Làm thế
nào để vượt qua chính mình, đạt đến tầm lý tưởng?
"Vượt qua" (siêu việt) là đề tài chúng ta thường xuyên bàn đến trong cuộc
sống.
Thế nào là vượt qua thực sự? Vượt qua phải chăng là dựa trên những nhận
biết về thế giới hiện thực để phân biệt cái gì là hằng định bất biến trong cuộc
sống hiện thực bề bộn? Bản chất của nó là gì?
Trước tiên xin nói một chuyện ngoài lề.
Trong dịp đi Giang Nam, Hoàng đế Càn Long đến chùa Kim Sơn ở Trấn
Giang, ông hỏi cao tăng Pháp Bàn:
- Thuyền bè xuôi ngược dòng Trường Giang tấp nập, vậy rốt cuộc một
ngày có bao nhiêu chiếc qua lại?
Pháp Bàn đáp:
- Chỉ có hai chiếc thuyền. Càn Long hỏi:
- Sao lại chỉ có hai chiếc? Pháp Bàn đáp:
- Một chiếc là danh, chiếc kia là lợi, ngày đêm ngược xuôi trên dòng
Trường Giang thực ra chỉ có hai chiếc thuyền này mà thôi.
Trong Sử ký, Tư Mã Thiên viết: "Thiên hạ hy hy giai vị lợi lai, thiên hạ
nhướng nhướng giai vị lợi vãng" (Thiên hạ tấp nập đều vì lợi mà đến, thiên
hạ nhộn nhịp đều vì lợi mà lại). Ngoài lợi ra, người đời coi trọng nhất là
danh. Bao nhiêu người vất vả bôn ba, danh và lợi chính là điểm cơ bản nhất
chi phối cuộc sống của họ.
Vậy thì Trang Tử nhìn nhận về danh và lợi như thế nào? Trong Tiêu dao
du, ông kể câu chuyện vua Nghiêu muốn nhường thiên hạ cho Hứa Do.
Chúng ta đều biết, vua Nghiêu được cổ nhân Trung Hoa xếp hàng đầu
trong các bậc thánh nhân, cũng là đại từ chỉ các bậc minh quân trong thiên hạ.
Còn Hứa Do là một ẩn sĩ trong truyền thuyết.
Vạn vật là thống nhất, cái nào ngắn cái nào dài? Đạo không có khởi đầu
cũng không có kết thúc, còn vạn vật có sinh có tử, hoàn toàn không thể dựa
vào thành tích vốn có của chính mình.
- Thu thủy -
Do:
Trang Tử kể rằng, vua Nghiêu trịnh trọng nói với Hứa
- Khi mặt trời và mặt trăng chiếu sáng vĩnh hằng xuất hiện, chúng ta còn
đốt đuốc để so độ sáng cùng nhật nguyệt, chẳng phải là quá khó hay sao?
Mưa đã rơi kịp thời, vạn vật đã tắm trong nước ngọt, chúng ta còn tưới thêm
nước, phỏng có ích gì đối với mạ non?
Và thành khẩn nói tiếp:
- Tiên sinh, ta nhìn thấy thầy là biết rằng, ta trị vì thiên hạ chẳng khác nào
ngọn đuốc gặp ánh mặt trời, như thể một thùng nước gặp nước mưa ngọt từ
trời giáng xuống, ta không xứng đáng, vậy nên xin nhường thiên hạ lại cho
thầy.
Chúng ta thấy, địa vị được nhường không phải là một chức quan nhỏ bé,
mà là vua Nghiêu nhường cả thiên hạ cho Hứa Do. Vậy Hứa Do nói thế nào?
Hứa Do bình thản đáp:
- Ngài trị vì thiên hạ đã rất tốt, tôi còn cần thiên hạ làm gì? Tôi thay thế
ngài lẽ nào chỉ vì cái danh? So giữa danh và thực thì thực là chủ, còn danh là
khách, lẽ nào tôi đến chỉ vì vị khách này thôi sao? Vậy thì xin kiếu.
Tiếp đó Hứa Do dùng một thí dụ kinh điển: "Tiêu liêu sào vu thâm lâm,
bất quá nhất chi; yển thử ẩm hà, bất quá mãn phục". Nghĩa là: Một con chim
hồng tước nhỏ làm tổ trong rừng, dù có cánh rừng bạt ngàn cho nó đậu, thì
chỗ nó làm tổ cũng chỉ có một cành cây. Một con chuột uống nước sông, dù
có cả dòng sông dạt dào cho nó uống thỏa thích, nhiều lắm nó cũng chỉ uống
được đầy cái bụng nhỏ bé của nó mà thôi.
Chúng ta thử nghĩ xem, trong cả cuộc đời, một con người ăn được bao
nhiêu cơm? Ở chiếm mất bao nhiêu diện tích? Lên giường nằm, chỗ của bạn
cũng chỉ có bấy nhiêu, bất kể bạn ở trong ngôi nhà sang trọng 300 mét vuông,
hay trong biệt thự hàng nghìn mét vuông, không gian thực tế bạn cần cũng
giống như bao người khác.
Tâm thế đạm bạc, trầm lắng sâu xa này của Hứa Do, ngay cả thiên hạ
cũng có thể nhường đi, chính là một tầm vóc và tấm lòng cực kỳ rộng lớn.
Nhà thơ Lebanon nổi tiếng Khalil Gibran từng cảm thán: "Chúng ta đã đi
quá xa, xa đến nỗi quên mất tại sao chúng ta phải xuất phát".
Chúng ta đang đi, chúng ta đang bôn ba, chúng ta suốt ngày bận rộn,
nhưng lại quên mất lý do tại sao chúng ta sống ở đời.
Rất nhiều khi chúng ta ở vào tình trạng bối rối như vậy. Bởi thế con người
cần phải nhìn rõ mục tiêu, nhìn rõ phương hướng của mình cũng như nhìn rõ
sự suy tính trước mắt.
Con người cần phải nhìn rõ mục tiêu, nhìn rõ phương hướng của mình
cũng như nhìn rõ sự suy tính trước mắt.
Đạo lý lớn của cuộc sống, cảnh giới lớn của cuộc sống lại thường được
phát hiện và cảm nhận từ những điều nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống.
Vậy thì làm thế nào để nhìn ra cảnh giới lớn từ những điều nhỏ bé?
Muốn nhìn thấy cảnh giới lớn thì phải xem chúng ta có tâm hồn tĩnh lặng,
có đôi mắt trí tuệ hay không. Chỉ cần tĩnh tâm lại, thực sự có một khoảng
trống trong tâm hồn để có cái nhìn thấu suốt, chúng ta sẽ thấy ở chỗ không
ngờ tới lại có rất nhiều điều chí lý.
Hồi mới bắt đầu nổi tiếng, giọng nam cao lừng danh thế giới Pavarotti
từng cảm thấy rất căng thẳng và lo rằng cổ họng mình sẽ không chịu nổi.
Một lần, trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới, ông cảm thấy hết sức
mệt mỏi. Buổi tối ông trằn trọc trong phòng khách sạn, sợ rằng nếu tiếp tục
hát thì cổ họng ông sẽ bị hỏng mất.
Muốn nhìn thấy cảnh giới lớn thì phải xem chúng ta có tâm hồn tĩnh lặng,
có đôi mắt trí tuệ hay không.
Lúc ấy ở phòng bên cạnh có một đứa bé đang khóc lóc. Đứa trẻ này hay
khóc đêm, khóc mãi không chịu thôi. Pavarotti rất bực bội. Ông càng không
ngủ được thì càng bực, càng bực lại càng không ngủ được. Bỗng nhiên
Pavarotti nghĩ ra một điều: đứa bé này khóc suốt mấy giờ mà sao giọng vẫn
còn lanh lảnh? Ông không buồn ngủ nữa mà lắng nghe, suy nghĩ. Cuối cùng
ông phát hiện ra: ở trẻ con mọi thứ đều chưa hoàn thiện, nó không thể chỉ
dùng cổ họng, tiếng khóc của trẻ vang khỏe là nhờ dùng khí từ đan điền nên
nó không bị khàn giọng.
Pavarotti đã hiểu ra: các bộ phận cơ thể của người lớn thường được sử
dụng độc lập, khi hát chỉ sử dụng cổ họng, hát được một lát sẽ bị khàn tiếng.
Nếu chúng ta biết cách vận khí đan điền thì sẽ giữ được giọng.
Được gợi mở, Pavarotti bắt đầu luyện cách vận khí đan điền để hát, điều
này giúp ông có bước nhảy vọt trong nghệ thuật ca hát. Không chỉ thu được
thành công lớn trong chuyến lưu diễn đó, nó còn giúp ông đạt được vị trí đỉnh
cao trong nghệ thuật ca kịch thế giới.
Câu chuyện này cho chúng ta biết điều gì? Chúng ta có thể phát hiện
những đạo lý lớn từ trong những điều nhỏ bé tinh tế nhất. Mấu chốt là bạn có
để tâm hay không, có thực sự lĩnh hội được điều mình cần từ trong những
điều nhỏ bé đó hay không.
Chúng ta có đôi mắt như thế nào thì sẽ có cuộc sống thế ấy.
Chúng ta có thể phát hiện những đạo lý lớn từ trong những điều nhỏ bé
tinh tế nhất. Mấu chốt là bạn có để tâm hay không, có thực sự lĩnh hội được
điều mình cần từ trong những điều nhỏ bé đó hay không.
Chúng ta có đôi mắt như thế nào thì sẽ có cuộc sống thế ấy.
Có rất nhiều người cả cuộc đời theo đuổi thành công, khát khao sự nổi
tiếng. Đừng nói là nhường cả thiên hạ, mà ngay một vị trí thấp, thậm chí một
cơ hội làm thêm nho nhỏ cũng không chịu bỏ qua. Đó là vì họ cần sự nổi
tiếng bên ngoài để chứng minh năng lực của mình.
Có một câu nói thế này: Trong một cuộc đua đích thực, nhà vô địch luôn
chạy trước tiếng vỗ tay.
Câu danh ngôn này rất lý thú. Chúng ta thử tưởng tượng, trong một cuộc
thi chạy, dù là 100 mét hay marathon, trước khi nhà vô địch chạy đến đích,
trên khán đài sẽ không có tiếng vỗ tay; chỉ khi nhà vô địch chạy qua vạch vôi
thì tiếng vỗ tay mới vang dậy. Bởi vậy, các vận động viên chạy sau sẽ nghe
được nhiều tiếng vỗ tay hơn là nhà vô địch.
Nhà vô địch là người đầu tiên chạy đến đích trong im lặng, mà sự cô
quạnh này cuối cùng sẽ mở ra sự huy hoàng của tiếng vỗ tay. Vì thế, nhà vô
địch luôn luôn chạy trước tiếng vỗ tay.
Thực ra câu nói này cũng mang giá trị gợi ý đối với mỗi chúng ta.
Sự đạm bạc, cô quạnh, nhường đi của cổ nhân rốt cuộc là tại sao? Họ
muốn giữ lại sự tĩnh lặng cho cuộc sống, để cuộc sống của mình cuối cùng có
thể trở nên rộng lớn hơn, linh động hơn.
Còn ngày nay, chúng ta lại muốn dùng việc bận rộn để xua đuổi sự yên
lặng trong lòng. Yên lặng không phải là một thứ tốt hay sao?
Cô quạnh không có nghĩa là sầu khổ. Thực ra cô quạnh có nghĩa là một
khoảng thời gian để tĩnh lặng lại, khi một mình đối mặt với cô quạnh, có thể
bạn sẽ nhận thấy những điều mình không ngờ tới.
Một cảnh giới lớn đích thực, nói theo lời Trang Tử, là "bàng bạc vạn vật",
ngự trị trên vạn vật, hòa vạn vật làm một.
Trải nghiệm của mỗi người khác nhau, thiên bẩm khác nhau, cuối cùng sẽ
quyết định quan điểm của mình, quyết định số mệnh của mình.
Cảnh giới này đã được miêu tả trong Tiêu dao du. Trong thiên này, Trang
Tử kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có hai người tu đạo, một người lên là Kiên Ngô, người kia tên là Liên
Thúc. Một hôm, Kiên Ngô nói với Liên Thúc:
- Tôi nghe nói có một vị thần rất phi thường sống trên núi Cô Xạ. Da thịt
ông trong suốt, sạch như băng tuyết, chưa bao giờ bị vấy bẩn, thần thái ngây
thơ nhu mì như một nàng xử nữ, không hề có chút phiền não ưu tư. Ông
không ăn ngũ cốc, chỉ hít gió uống sương. Ông biết cưỡi rồng cưỡi mây dạo
chơi khắp bốn biển, ông còn có thể tự do bay lượn trong trời đất. Ông chỉ cần
định thần một chút là có thể làm cho ngũ cốc được mùa, làm cho cả năm đó
không có bất kỳ tai họa nào. Tôi thì không tin có chuyện như vậy, làm gì có
vị thần nào như thế?
Liên Thúc nói:
- Để tôi cho thầy biết, trên đời này, thầy không thể thưởng thức vẻ đẹp rực
rỡ cùng với người mù, thầy không thể thưởng thức tiếng nhạc phát ra từ
chiêng trống cùng với kẻ điếc. Thầy chỉ biết hình thể con người có kẻ mù,
người điếc, bị tàn tật bên ngoài, thầy không biết rằng tâm hồn con người cũng
có những khuyết tật như vậy. Ý tôi muốn nói chính là loại người như thầy
đấy. Bởi vì thầy không có tầm mắt rộng, không có tấm lòng bác ái, bởi vậy
thầy không tin là có những người như vậy. Tôi cho thầy biết, những người
như vậy thực sự tồn tại. "Chi nhân dã, chi đức dã, tương bàng bạc vạn vật dĩ
vi nhất". Nghĩa là vị thần đó có đạo đức, có thể bao trùm vạn vật, hòa vạn vật
vào làm một.
Liên Thúc đã dùng một từ khích động lòng người: "bàng bạc vạn vật" (bao
trùm vạn vật), thực ra chính là làm cho mình trở thành bậc chí tôn trong trời
đất. Sự "bàng bạc vạn vật" này không nhất thiết phải dựa vào sức thần tiên,
mà thường dựa vào nội tâm của chúng ta.
Trên đời này, khi một người có thể ngước nhìn sự to lớn của vũ trụ, cúi
nhìn sự hưng thịnh của muôn loài, thu mọi vật vào tầm mắt mình, thì làm sao
không có cái tâm bao trùm vạn vật được?
Trong sách của mình, Trang Tử đã nhiều lần nhắc đến cụm từ "tâm du vạn
nhẫn" (đưa tâm hồn dao du đến độ cao vạn nhẫn(*)), nhiều lần nhắc đến việc
"độc dữ thiên địa tinh thần vãng lai" (cá nhân cùng giao hòa với tinh thần trời
đất), đó chẳng phải là bao trùm vạn vật hay sao?
Bởi vậy, Liên Thúc nói: "Chi nhân dã, vật mạc chi thương", nghĩa là ngoại
vật không thể làm tổn thương vị thần ấy; hồng thủy ngất trời có thể nuốt trôi
mọi thứ, nhưng không dìm chết được ông; đại hạn có thể làm vàng đá tan
chảy, đất đai khô cằn, thần cũng không cảm thấy nóng. Tại sao? Vì tâm của
vị thần ấy có một sức mạnh, một công lực, một cảnh giới như vậy.
Một vị thần như thế hiển nhiên là nhân vật thần thoại được Trang Tử hư
cấu. Mục đích cuối cùng của Trang Tử không phải là kể chuyện thần thoại,
mà là nói chuyện đời. Trải nghiệm cuộc đời khác nhau, tố chất thiên tư khác
nhau. Trải nghiệm và cảm nhận cuối cùng sẽ quyết định tầm nhìn của bạn.
Ngược lại, cuộc sống của một con người hoàn toàn có thể thay đổi do thái
độ. Tính cách bẩm sinh, cơ hội hậu sinh, tầm nhìn của một con người cuối
cùng sẽ quyết định số phận của người đó.
Chúng ta thường nói số phận là thứ quá khách quan, hoàn toàn dựa vào cơ
hội. Thực ra bạn có quan niệm về giá trị như thế nào thì sẽ quyết định sự lựa
chọn như thế ấy.
(*) Nhẫn: Đơn vị đo lường của Trung Quốc thời xưa, một nhẫn bằng
bảy hoặc tám thước.
Chúng ta cần một thứ lý tính rõ ràng. Lý tính này là một sức mạnh cứu rỗi
cuộc sống chúng ta trong thế giới vật chất hóa rối ren này. Đồng thời, chúng
ta cũng cần một thứ cảm tính hân hoan. Phần cảm tính ấy có thể giúp chúng
ta luôn tươi trẻ, luôn ngập tràn niềm vui ở mỗi nơi ta đến.
Những người có quan niệm giá trị khác nhau, khi trải qua sự việc giống
nhau sẽ có sự cảm nhận cuộc sống hoàn toàn khác nhau. Trang Tử đề xuất:
Đạo tuân theo tự nhiên, Đạo có mặt ở khắp mọi nơi. Vậy thì thế nào là "Đạo
tuân theo tự nhiên"?
"Du" là một động từ, chữ "du" cho chúng ta biết con người muốn thể
nghiệm sự tiêu dao thì phải có một hệ thống động, nghĩa là làm cho cuộc
sống linh hoạt hơn, đừng để nó cứng nhắc, phải biết phá vỡ sự tầm thường,
bởi trên đời này mọi thứ đều gắn kết trong mối quan hệ biện chứng, những
thứ thật sự ổn định đều luôn ở trong trạng thái động.
Chúng ta đều biết đi xe đạp, xe đạp mà dừng lại thì phải có chân chống
mới đứng được chứ hai bánh không thể tự đứng vững. Nhưng khi đạp xe đi
thì hai bánh lại chạy đựợc, tại sao vậy? Bởi nó giữ được thăng bằng ở trạng
thái động, còn ở trạng thái tĩnh thì không.
Trong cuộc sống của chúng ta ngày nay, có quá nhiều người thấy mất
thăng bằng tâm lý khi đứng trước thử thách, đó là bởi thế giới thì vận động,
còn bạn lại đứng yên.
Thời đại đang thay đổi, nếu thật sự biết cách lựa chọn, biết cách từ bỏ, xác
định chuẩn mực cho mình bằng một tầm nhìn rõ rệt và điều chỉnh trật tự cuộc
sống của mình bằng tâm thế "tâm du vạn nhẫn", luôn giữ được thăng bằng
trong trạng thái động, thì bạn sẽ không bao giờ ngã, bạn sẽ luôn là chiếc xe
đạp đang chạy. Chỉ khi dừng lại, bạn mới thật sự gục ngã. Mà khi gục ngã
như thế thì không một ngoại lực nào có thể cứu vãn được.
Thế giới mỗi người nhìn thấy đại thể giống nhau. Nhưng kinh nghiệm và
lý lẽ mà mỗi người rút ra lại rất khác nhau. Điều này liên quan đến hai điểm,
thứ nhất là trí tuệ, thứ hai là lòng từ bi. Chúng ta có khả năng rút ra bài học từ
một cành cây ngọn cỏ không? Có khả năng thể hiện sự quan tâm đối với một
bông hoa một chiếc lá bằng tấm lòng lương thiện không?
Đối với một quả bầu, một thân cây, một con hải ly, một chú chim nhỏ,
Trang Tử đều có tấm lòng từ bi. Ông biết tôn trọng vật tính trời sinh của
chúng một cách tự nhiên, không cố tình đòi hỏi thay đổi theo tiêu chuẩn mà
con người đặt ra. Còn chúng ta, cũng bởi những việc vì lợi ích trước mắt,
được cho là hữu dụng mà chúng ta nhìn thấy quá nhiều trong xã hội nên
nhiều người đã đánh mất tấm lòng xót thương vốn có.
Trang Tử từng kể một câu chuyện như sau:
Một người nước Tống muốn đến nước Việt bán mũ. Theo hiểu biết và suy
luận của mình, anh ta cho rằng nước Việt là đất man di, chưa từng nhìn thấy
mũ, mình đến đấy bán chắc chắn sẽ ăn nên làm ra. Nhưng đến nơi mới biết,
người nước Việt "đoạn phát văn thân", nghĩa là cắt tóc và xăm mình, phong
tục tập quán hoàn toàn khác với Trung Nguyên, người ta hoàn toàn không đội
mũ.
Câu chuyện này cho chúng ta biết, đừng lấy những quan niệm về giá trị
mà mình nghĩ là đương nhiên để đánh giá thế giới.
Rất nhiều khi chúng ta cảm thấy tức giận bất bình, rằng tại sao lại thế này,
tại sao lại thế kia. Đó là bởi vì trong lòng chúng ta có thành kiến.
Chúng ta đã làm không ít việc kiểu như đi bán mũ ở vùng "cắt tóc xăm
mình" mà cứ khăng khăng rằng mình đúng, sau đó lại phàn nàn rằng cuộc
sống không mang lại cho chúng ta cơ hội tốt. Thực ra đó là thiếu trí tuệ.
Vậy thế nào là cõi tiêu dao của cuộc sống?
Sự tiêu dao này hoàn toàn không phải là cuộc sống của con người bao
trùm lên thế giới bên ngoài, trở thành bá chủ tự tôn, đối kháng với vạn vật.
Sự tiêu dao này cần trái tim, cần đôi mắt, cần hơi thở, cần hành động của
chúng ta hòa chung với vạn vật trong thế gian.
Sự tiêu dao này cần chúng ta biết thưởng thức hoa nở, lắng nghe nước
chảy, biết nhìn thấy chim bay ngang chân trời, mặt trời buổi sáng ló lên trên
đỉnh mây. Như thế tâm chúng ta mới trong sạch.
Xuân hữu bách hoa thu hữu nguyệt, Hạ hữu lương phong đông hữu tuyết.
Nhược vô nhàn sự quải tâm đầu,
Tiện thị nhân gian hảo thời tiết.
Dịch thơ:
Xuân có trăm hoa, thu có trăng Hạ về gió mát, tuyết đông giăng Ví lòng
thanh thản không lo nghĩ Ấy buổi êm đềm chốn thế gian.
(Thiền sư Nhất Hạnh dịch)
Hạnh phúc đích thực ở chốn nhân gian là không có việc vướng bận trong
lòng. Vậy thì sự vướng bận đó biểu hiện ở cái gì? Biểu hiện ấy chính ở chỗ
chúng ta tự dựng chướng ngại cho mình, khiến tầm nhìn của chúng ta không
được rộng mở.
Thế thì trong cuộc sống, làm thế nào để tầm nhìn trở nên rộng mở hơn?
Thiền tông có một câu thế này: "Mắt có bụi tam giới cũng hẹp, lòng thanh
thản một giường cũng rộng". Trong mắt có bụi, trong lòng có vướng mắc thì
người ta thấy "tam giới cũng hẹp". Tam giới là gì? Là kiếp trước, kiếp này,
kiếp sau. Chỉ cần việc trong mắt không hóa giải được, trong lòng suốt ngày
phiền muộn, bạn sẽ thế chấp cả kiếp này, kiếp trước, kiếp sau của mình. Thế
nhưng, nếu bạn mở rộng tấm lòng, sống thanh thản, thì không cần một chỗ
quá rộng, mà chỉ cần ngồi trên giường nhà mình bạn cũng có thể cảm thấy
trời đất rộng lớn mênh mông.
Vì vậy, muốn thực sự đạt đến tầm tiêu dao cùng trời đất, trước hết cần
phải mở rộng tầm nhìn của mình.
Đạo tuân theo tự nhiên, tức là hãy để tâm chúng ta cảm nhận khí của trời
đất. Trời đất có ở khắp nơi nên Đạo cũng có ở khắp nơi.
Đạo tuân theo tự nhiên, tức là khích lệ mỗi người đo lịch trình của mình
bằng chính bước chân mình, mở mang tâm trí mình bằng chính sự thể nghiệm
của mình.
Đạo tuân theo tự nhiên, tức là làm cho chúng ta nhìn thấy mọi chỗ.
Đạo tuân theo tự nhiên, tức là khích lệ mỗi người đo lịch trình của mình
bằng chính bước chân mình, mở mang tâm trí mình bằng chính sự thể nghiệm
của mình.
Về vấn đề Đạo tuân theo tự nhiên, Trang Tử nói về Đạo như thế nào?
Đông Quách Tử hỏi Trang Tử:
- Đạo ở đâu? Trang Tử đáp:
- Đạo có ở khắp mọi nơi.
Đông Quách Tử không hiểu, bắt bẻ:
- Chí ít thầy cũng phải nói một chỗ chứ? Trang Tử buột miệng nói:
- Ở con sâu cái kiến – Đạo ở trên mình những con côn trùng nhỏ.
Đông Quách Tử rất bất mãn, nói:
- Đạo thấp hèn như vậy sao? Trang Tử lại nói
- Ở trên cây lúa ma, ở trên cây cỏ dại bé nhỏ. Đông Quách Tử càng bất
mãn:
- Tại sao Đạo lại càng thấp hèn đến thế? Trang Tử nói nặng giọng hơn:
- Trong gạch ngói.
Đông Quách Tử càng thêm bực bội:
- Sao càng nói càng thấp hèn như vậy? Trang Tử bực mình, bèn nói:
- Trong đống phân.
Lần này thì Đông Quách Tử chẳng biết nói năng sao. Thực ra, nếu thật sự
hiểu được đoạn đối thoại này, chúng ta sẽ thấy rằng Đạo tuân theo tự nhiên
có nghĩa là trong tự nhiên toàn là đạo lý.
Trời đất có ở khắp nơi nên Đạo cũng có ở khắp nơi.
Có một câu ngạn ngữ nói rằng: Trên sườn núi nở đầy hoa tươi, nhưng
trong mắt bò dê thì chúng chỉ là thức ăn.
Đây chính là cuộc sống của chúng ta.
Trời đất có ở khắp nơi nên Đạo cũng có ở khắp nơi.
Chúng ta có thể nhìn thấy hoa tươi, nhưng khi tâm con người bị hai con
thuyền danh và lợi che khuất thì thế giới mà chúng ta nhìn thấy có lẽ cũng
toàn là thức ăn. Thức ăn là thứ ăn được, là hữu dụng, còn hoa tươi là thứ thần
bí, thứ thẩm mỹ, thứ gợi mở tâm trí.
Đừng cho rằng chỉ có bò dê mới nhìn thấy chỉ toàn thức ăn, thực ra trong
cuộc sống ngày nay, hàng ngày chúng ta nhìn thức ăn nhiều hơn, thấy hoa
tươi ít hơn.
Điều này khiến chúng ta cần thiết phải trở lại với phạm trù Đạo mà Trang
Tử nói. Chúng ta cần nhìn trong những thứ thấp hèn nhất, thậm chí bẩn thỉu
nhất xem có đạo lý chân chính hay không. Hạ thấp lòng mình xuống để phát
hiện, đó là một thái độ. Nói theo lời nhà Phật, chỉ khi cúi đầu, người ta mới
nhìn thấu, bạn không cúi đầu sẽ không nhìn thấy.
Cảnh giới tiêu dao du bảo chúng ta phải phóng tầm mắt cho xa, cho chúng
ta biết Đạo có mặt ở mọi nơi, thậm chí cho ta biết Đạo ở trong đống phân, tức
là muốn chúng ta để tâm suy nghĩ, để tâm hỏi, để tâm nhìn.
Có thể nói trên đời này, đạo lý đích thực vừa cần chúng ta có tầm mắt
rộng, vừa cần chúng ta có thực tiễn.
Tương truyền có một hôm Đức Phật không thuyết pháp như mọi ngày mà
trước đông đảo tăng thân đại chúng, ngài lặng lẽ đưa lên một cành hoa. Trong
số đệ tử chỉ có Ca Diếp mỉm cười. Khoảnh khắc Ca Diếp mỉm cười gọi là
khoảnh khắc tâm hội, tức là tâm lĩnh thần hội, bởi ngài đã hiểu nên mỉm
cười(*).
(*) Ở đây tác giả nhắc đến giai thoại thiền "niêm hoa vi tiếu". Chuyện
rằng: Hôm nọ, trên núi Linh Thứu, trước mặt đông đảo đại chúng, Đức
Phật không thuyết pháp như mọi ngày mà lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
Đại chúng ngơ ngác chẳng ai hiểu gì, duy chỉ có đại trưởng lão Ca Diếp
mỉm cười. Giai thoại này biểu thị cho pháp môn lấy tâm truyền tâm, một
pháp môn siêu ngôn ngữ, siêu văn tự: khi Đức Phật đưa cành hoa lên
(niêm hoa) thì ngài Ca Diếp mỉm cười (vi tiếu). Trong pháp môn này chỉ có
sự giao cảm, sự rung động giữa hai tâm thức thầy và trò, và hai tâm thức
này đã đồng nhất.
Chúng ta thử nghĩ đến hai kết quả, thứ nhất là khi Đức Phật giơ cành hoa
lên, tất cả mọi người không ai cười; nếu vậy buổi giảng kinh đã thất bại. Thứ
hai là khi Đức Phật niêm hoa, tất cả mọi người có mặt đều cười, thực ra như
thế cũng là thất bại bởi đó là điều không tưởng.
Chỉ cần đó là một đạo lý tinh diệu, một đạo lý gần gũi lòng người, thì sự
tham ngộ của con người sẽ có nông có sâu, sẽ có xa có gần, sẽ có sự phân
biệt cao thấp tùy thuộc vào tâm trí từng người, sự trải nghiệm của từng người,
khuynh hướng giá trị của từng người, cảnh giới lý tưởng của từng người.
Thế giới này không bao giờ có cái gì hoàn chỉnh, giúp bạn hiểu đạo lý
chính xác giống như một cộng một bằng hai.
Khi Đức Phật giơ cành hoa lên, chỉ có Ca Diếp mỉm cười; khi Trang Tử
tiêu dao du, có bao nhiêu tâm hồn thật sự có được không gian rộng lớn để bay
bổng, thật sự có được mấy người đạt đến cùng cảnh giới với ông?
Câu hỏi này chúng ta không thể hỏi Trang Tử, nhưng chúng ta có thể truy
vấn chính nội tâm của mình.
"Lãnh ngộ trong tâm thái tự do tự tại, chỗ kỳ diệu của nó khó có thể nói
cho người hay", đó là một câu trong bài từ của Trương Hiếu Tường thời
Tống, thực ra khi chúng ta đọc Trang Tử, mỗi người đều có cảm ngộ giống
như khi Đức Phật niêm hoa Ca Diếp mỉm cười; khi chúng ta chậm rãi gập lại
một trang sách, cảm thấy tấm lòng lãnh ngộ, thì giá trị của Trang Tử đã được
thể hiện ra thật sự. Bởi lẽ Tiêu dao du của ông đã mang lại cho cuộc sống
phàm tục của chúng ta một đôi cánh phi phàm.
CHƯƠNG 4
NHẬN THỨC CHÍNH MÌNH

Mỗi người đều mong muốn sống một đời hạnh phúc, thành công.
Chỉ khi nhận thức đúng đắn và tỉnh táo về mình thì mới có thể có được
cuộc sống như thế. Mà nhận thức về chính mình lại là một việc vô cùng khó.
Tại sao vậy? Và chúng ta phải làm thế nào để thực sự nhận thức được chính
mình?
Bây giờ chúng ta sẽ bàn đến một chủ đề lớn: nhận thức chính mình.
Đây là mệnh đề khó nhất từ xưa đến nay. Trong tư tưởng phương Tây,
điều này được biểu hiện thông qua câu đố nổi tiếng của con nhân sư trong
thần thoại Hy Lạp.
Nhân sư mình người đầu sư tử, hàng ngày nó đều hỏi người qua đường
một câu hỏi: "Loài vật nào sáng sớm đi bằng bốn chân, trưa đi bằng hai chân,
chiều đi bằng ba chân, và khi càng có nhiều chân thì nó càng yếu?". Người
qua đường không trả lời được đều bị nhân sư xé xác ăn thịt. Sau đó có người
anh hùng Oedip trẻ tuổi đi qua và giải được câu đố. Chàng nói loài động vật
đó chính là con người. Nhân sư nghe xong, rống lên một tiếng rồi chạy lên
vách đá và nhảy xuống chết.
Câu chuyện này cho thấy cái gần chúng ta nhất là cái chúng ta khó nhận
thức nhất.
Trong quá trình trưởng thành, chúng ta có thể gia tăng sự nhận biết vạn
vật trong trời đất, gia tăng kinh nghiệm, nhưng lại rất khó nhận thức rõ về
chính mình.
Bởi vì sự biến đổi trong cuộc sống trải qua quá nhiều giai đoạn. Hình ảnh
ẩn dụ trong câu đố trên là một thí dụ điển hình: Một đứa trẻ đầu tiên là biết
bò tức là di chuyển bằng bốn chân, đây là giai đoạn trước khi trưởng thành,
đến một giai đoạn nhất định con người có thể tự đứng dậy, bắt đầu có rất
nhiều thứ cần tích lũy, cần xây dựng trên thế giới này, cũng có rất nhiều sự
ngại ngùng lo sợ trong lòng, đến khi về già, những của cải, danh tiếng, tình
cảm mà chúng ta tích lũy được, tất cả đều là gánh nặng cho sinh mệnh già
nua, khiến chúng ta ngày một mệt mỏi, cần phải dựa vào cây gậy, nên trở
thành sinh vật đi bằng ba chân.
Trong hành trình này, giai đoạn nào khiến chúng ta vui vẻ nhất? Giai đoạn
nào chúng ta nhận thức rõ về mình nhất? Giai đoạn nào trong lòng chúng ta
không chút hối tiếc mà tràn đầy sự ấm áp? Về điều này, hệ thống văn hóa
Đông Tây không ngừng truy vấn bằng những đề tài khác nhau.
Toàn bộ cuốn sách Trang Tử, vừa ảo vừa thực, đầy những sự truy vấn này.
Trang Tử đôi khi nói nằm mơ thấy mình chỉ là một con bướm, nhưng rốt
cuộc là bướm mơ thấy mình, hay là mình biến thành bướm?
Loài người chúng ta thường suy đoán các sự vật theo tiêu chuẩn của mình
nên có rất nhiều quy tắc mà chúng ta không biết.
Trang Tử nói nếu con người ngủ ở chỗ ẩm thấp giá lạnh thì khi tỉnh dậy,
nhẹ sẽ bị đau lưng, nặng thì bán thân bất toại, sau đó ông hỏi bạn cho rằng
con cá chạch cũng như vậy sao?
Trang Tử tiếp tục truy vấn, loài người ăn thịt, loài hươu ăn cỏ, cú mèo
thích ăn chuột, bốn loại thức ăn này bạn có thể nói loại nào phù hợp với tiêu
chuẩn? Loại nào ngon hơn hoặc không ngon hơn? Rất khó nói rõ.
Thậm chí Trang Tử nói những người như Lệ Cơ, Mao Tường vốn được
xem là tuyệt sắc nhân gian, thường được hình dung qua thành ngữ "nhan sắc
chim sa cá lặn", nhưng những con chim đó sợ quá bay mất, cá cũng thất kinh,
chúng thật sự cảm thấy mỹ nữ đó thật sự là đẹp ư? Có thể chúng cho rằng họ
xấu kinh hồn nên chạy mất.
Đây chính là quan điểm mà Trang Tử đề ra trong Tề vật luận, mọi thứ trên
đời nếu quan sát bằng góc độ của mình thì mãi mãi đều có mật mã của riêng
mình, mật mã ấy không thể nhìn thấu được.
Cho nên xét theo ý nghĩa này, Trang Tử cho chúng ta biết thứ mà loài
người chúng ta khó nhận biết nhất chính là lòng mình. Câu hỏi khó giải đáp
nhất chính là ta là ai, cuộc sống mà ta muốn là gì?
Chỉ khi hiểu rõ lòng mình ta mới có thể tìm được xuất phát điểm cơ bản
nhất trên cõi đời này, mới có thể đối xử tốt với người khác.
Chỉ khi hiểu rõ lòng mình ta mới có thể tìm được xuất phát điểm cơ bản
nhất trên cõi đời này, mới có thể đối xử tốt với người khác.
Vạn vật trên thế gian muôn hình vạn trạng. Đứng ở những góc độ khác
nhau, sự vật nhìn thấy sẽ hoàn toàn khác nhau.
Nếu chúng ta chỉ đứng ở góc độ của mình, đánh giá mọi sự vật theo
phương thức của mình thì sẽ có sự lệch lạc rất lớn. Đây là trở ngại đầu tiên
khiến chúng ta khó nhận thức đúng về mình.
Ngụ ngôn của Trang Tử cho chúng ta biết: Mọi sự vật trên thế gian đều
cần thuận theo tự nhiên chứ không được áp đặt suy nghĩ của mình cho người
khác.
Tôi nghĩ một người không nhận thức rõ về mình thì cũng không thể thật
sự nhận thức rõ về người khác. Đôi khi ý tốt của bạn còn bị ác báo, bởi lẽ bạn
áp đặt người khác theo phương thức của mình.
Nhìn thấu lẽ được mất nên "được" mà không cho là điều mừng, "mất" mà
không cho là điều đáng buồn, bởi biết rõ được mất là điều không thể quy định
được.
- Thu thủy -
Trong thiên Chí lạc, Trang Tử thác lời Khổng Tử để kể một câu chuyện
như sau:
Có một con chim biển rất to đột nhiên bay đến nước Lỗ, vua Lỗ rất thích,
bèn cung kính rước chim vào thái miếu, tấu những bản nhạc trang nghiêm
cho chim nghe, chuẩn bị rượu ngon cho nó uống, giết bò mổ dê cho nó ăn,
hàng ngày đều cung phụng nó theo lễ nghi như vậy.
Thế còn con chim biển thì sao? Mắt nó đờ đẫn, thần sắc ủ rũ, không ăn
một miếng thịt, không uống một ngụm rượu, suốt ngày ủ dột và ba ngày sau
thì chết.
Trang Tử mượn lời Khổng Tử để tổng kết, gọi đó là "dĩ kỷ dưỡng dưỡng
điểu, phi dĩ điểu dưỡng dưỡng điểu dã", nghĩa là dùng cách nuôi người để
nuôi chim chứ không phải nuôi chim theo cách nuôi chim. Đây cũng là kiểu
cư xử với chim theo nghi lễ của con người chứ không phải cư xử với chim
theo tâm tư của chim.
Việc như vậy có không ít trong cuộc sống của chúng ta. Đừng nói là với
bạn bè hoặc với người khác, mà ngay đối với đứa con yêu quý của mình, rất
nhiều người phải chăng cũng từng cư xử theo lối như thế?
Khi đứa trẻ mới ra đời, người Trung Quốc xưa thường dùng chăn bọc chặt
nó lại, họ cho rằng như thế chân đứa trẻ sẽ rất thẳng, hơn nữa có thể tránh cho
đứa bé tự cào trầy mặt hay cho tay vào miệng ngậm.
Nhưng theo những nghiên cứu của khoa học ngày nay về giáo dục trẻ thì
tay là bộ não thứ hai của trẻ, nếu bó buộc tay, tất nhiên trẻ sẽ không thể tự
làm trầy xước mặt, cũng không thể mút ngón tay, nhưng thần kinh nhận biết
của trẻ ngay từ đầu đã bị hạn chế, bất lợi cho sự phát triển về sau. Bởi vậy
các bệnh viện hiện đại khuyên nên chú ý trông coi trẻ, cắt ngắn móng tay để
tránh trầy xước cho trẻ nhưng nhất định không được bó buộc chân tay trẻ.
Cách thức truyền thống nêu trên đã được cởi bỏ. Nhưng chúng ta thử nghĩ
xem, có bao nhiêu phụ huynh đã bó buộc tinh thần trẻ trong suốt quá trình
trưởng thành của con?
Chúng ta thường yêu cầu trẻ theo tiêu chuẩn của thế giới người lớn. Bạn
muốn sau này con mình thành danh trong xã hội, nên từ khi ba tuổi đã ép con
học dương cầm, bốn tuổi học mỹ thuật, năm tuổi phải học múa ba-lê. Nếu
không lúc con sáu tuổi đi học, bạn có gì để so với người khác? Mà ngay khi
con mới vào lớp một, bạn đã dự tính đăng ký cho con tham gia một lớp toán
Olympic, v.v. và v.v. Theo bạn, chỉ có như thế thì con mình mới có thể đứng
vững trong một xã hội đầy cạnh tranh giống như cha mẹ chúng, mới có thể
thi đậu vào đại học.
Chúng ta cư xử với đứa con yêu quý nhất của mình bằng quy tắc và cách
thức của thế giới người lớn, không cho chúng thời gian vui vẻ đáng có của
tuổi thơ mà tước đoạt tuổi thơ của con bằng những tiêu chuẩn của người lớn,
như thế khác nào việc bày rượu thịt trước mặt chim biển?
Thiện ý này đôi khi có thể dẫn đến hậu quả xấu khôn lường. Hậu quả đó
không khác kết cục của một câu chuyện ngụ ngôn được Trang Tử viết trong
thiên Ứng đế vương. Chuyện kể rằng:
Vua Nam Hải tên là Thốc, vua Bắc Hải tên là Hốt. Nam Hải và Bắc Hải
cách xa nhau nên nếu muốn gặp nhau, họ thường hội kiến ở giữa hai nơi đó.
Vua của vùng đất chính giữa này tên là Hỗn Độn.
Tương truyền Hỗn Độn là một khối thịt lớn mông muội chưa khai mở.
Ông là người rất nhiệt tình hiếu khách, lần nào cũng tiếp đãi họ rất chu đáo.
Thốc và Hốt nhìn Hỗn Độn, rất lấy làm áy náy vì thấy ông không có mắt tai
miệng mũi, không được hưởng thụ lạc thú nhân gian. Thế nên để đền đáp
thịnh tình của Hỗn Độn, hai người bàn nhau: "Ai cũng có thất khiếu, có thất
khiếu sẽ ăn uống được, nghe nhìn được, mọi mừng giận bi hoan, vẻ đẹp thanh
sắc chốn nhân gian đều có thể thu vào tầm mắt. Còn Hỗn Độn thì không có,
nên làm thế nào? Chúng ta hãy khoét cho ông ấy".
Thế là hai người mỗi ngày khoét một lỗ, tổng cộng bảy ngày. Kết quả là
gì? Bảy ngày sau thất khiếu đã thành nhưng Hỗn Độn thì chết.
Hỗn Độn được khoét thất khiếu là đã đánh mất đi bản thân ông ấy. Sở dĩ
ông ấy sống được chính là nhờ qua trạng thái hỗn độn đó, ông ấy có thể nhìn
khắp trời đất; đến khi khoét thất khiếu, ông ấy đã xa rời bản thể sống của
mình.
Đây đâu chỉ là một câu chuyện ngụ ngôn?
Cái gọi là xã hội hóa của con người thực chất là chúng ta bị xã hội nhào
nặn, chạm khắc trong quá trình chúng ta trưởng thành. Đến cuối cùng, chúng
ta biến thành một người lớn theo tiêu chuẩn của xã hội, nhưng khi ấy chúng
ta cách tấm lòng son - trạng thái hỗn độn vốn có của chúng ta - bao xa?
Câu chuyện ngụ ngôn mà Trang Tử kể cách chúng ta rất xa chăng? Điều
chúng ta được nghe chỉ là những câu chuyện thôi sao? Thực ra, chúng có thể
rất gần chúng ta. Tôi từng đọc được một câu chuyện như sau:
Có một con chim ưng nhỏ, từ nhỏ nó lớn lên cùng với đàn gà và nó cứ
tưởng mình cũng là một con gà con. Vì thế khi chủ nhân thật sự muốn thả
chim ưng đi, nhưng dụ dỗ, đánh mắng thế nào nó cũng không bay được, vì nó
nghĩ mình là một con gà con không biết bay.
Cuối cùng chủ nhân thất vọng, nói:
- Ta đã uổng công nuôi một con chim ưng chẳng được tích sự gì. Thôi
quăng nó đi.
Rồi ông mang con chim ưng lên vách núi, ném nó xuống như ném một
con gà chết. Chim ưng rơi xuống từ trên vách núi, trong khi rơi xuống với tốc
độ chóng mặt, nó vỗ đôi cánh và bỗng nhiên bay lên trước khi rơi xuống đất.
Tại sao vậy? Vì trong khi rơi từ trên cao xuống, thiên tính của chim ưng
đã được khơi dậy, khôi phục, nó đã biết đôi cánh của mình hữu dụng.
Thực ra trong quá trình trưởng thành, chúng ta có một tiềm năng nào đó
mà chưa được khơi dậy.
Thí dụ, bạn chưa gặp được một nghề thực sự yêu thích để có thể khiến bạn
dồn sức cho nó. Bạn chưa cảm nhận được niềm vui trong nghề nghiệp đó,
chưa được nếm trải niềm vui được thăng tiến, nên một số kỹ năng vĩnh viễn
bị che khuất.
Thí dụ trên cõi đời này, nếu bạn chưa gặp được người yêu đích thực thì
sức mạnh tình yêu của bạn có thể bị che lấp. Mặc dù bạn có gia đình, có con
cái, có cuộc sống bình thường trong mắt người bình thường, nhưng ngọn
đuốc rực rỡ trong lòng bạn chưa từng được thắp lên, chỉ vì bạn chưa gặp
được người ấy.
Chúng ta cần suy nghĩ một cách nghiêm túc, cần không ngừng tự hỏi:
Trong cuộc đời đã bao nhiêu lần mình bỏ qua chính mình? Chúng ta đã thật
sự tìm được cơ hội khai phá chưa? Làm thế nào để tìm được cơ hội ấy?
Trong thiên Nhân gian thế, Trang Tử đã dạy cho chúng ta khả năng nhận
thức chính mình, tổng kết thành hai chữ là "tâm trai", tức là dùng trai giới
trong tâm để thật sự tự kiểm, tự xét mình.
Câu nói này Trang Tử gán cho Khổng Tử. Học trò
Khổng Tử là Nhan Hồi hỏi thầy:
- Con muốn ra ngoài làm việc, con định đến nước Vệ ngăn chặn những tội
ác của bạo chúa.
Khổng Tử không vui, nói:
- Con đừng đi. Sau khi con đi, gặp một bạo chúa như vậy, con khuyên can
không được, ngược lại sẽ bị ông ta giết mất. Bây giờ con còn đang nông nổi,
chưa thấy rõ chính mình, con đi làm việc gì cũng sẽ thất bại. Trước hết hãy đi
trai giới đã.
Nhan Hồi bèn hỏi thầy:
- Nhà con rất nghèo, không được uống rượu ăn thịt đã mấy tháng nay. Con
luôn sống khổ cực, đó có được coi là trai giới không?
Khổng Tử đáp:
- Điều con nói đó là trai giới trong cúng tế chứ không phải trai giới trong
tâm.
Nhan Hồi hỏi:
- Thế nào là trai giới trong tâm? Khổng Tử đáp:
- Trên đời này, con người ta không chỉ nghe bằng tai, mà còn nghe bằng
tâm, càng phải nghe bằng khí. Dùng hơi thở để thực hiện mọi sự cảm nhận,
trở về với tâm, được chính mình xác nhận, đó gọi là tâm trai.
Câu nói này mặc dù gán cho Khổng Tử nói, nhưng lại bắt nguồn từ Trang
Tử. Ông viết đoạn văn này là muốn cho chúng ta biết một phương thức để
nhận thức chính mình.
Thực ra đôi mắt của mỗi người đều có hai khả năng là phát hiện bên ngoài
và tự nhìn bên trong. Nhìn ra ngoài có thể phát hiện một thế giới vô cùng
rộng lớn, nhìn vào trong có thể phát hiện một thế giới nội tâm sâu vô cùng
tận.
Có thể nói, thế giới bên ngoài rộng lớn bao nhiêu thì chiều sâu trong lòng
cũng bằng chừng ấy, cả hai hoàn toàn tỷ lệ thuận với nhau.
Đáng tiếc là chúng ta dùng cả cuộc đời cho việc phát hiện bên ngoài mà
chưa bao giờ nhìn xem trong lòng mình rốt cuộc có ý nguyện gì.
Có thể là trong quá trình trưởng thành của chúng ta có quá nhiều sự vật
được sắp đặt sẵn, thí dụ việc học tập lúc nhỏ, nghề nghiệp khi trưởng thành,
gia đình sau này, như thể mọi việc đều được sắp đặt sẵn, không có sự theo
đuổi, không có sự thưởng thức của chính mình, thậm chí cũng không gặp
chút khó khăn nào, bởi thế chúng ta không thể thật sự xác định được nguyện
vọng của chính mình.
Có một câu chuyện như sau:
Có một người được gọi là Ngư vương (vua đánh cá), đánh cá rất tài, thậm
chí còn được phong là Ngư thần (thần đánh cá). Ông có ba người con trai. Ba
người con này từ nhỏ theo cha ra biển, nhưng kỹ năng đánh cá chỉ ở mức
bình thường chứ đừng nói là sánh được với cha. Vì vậy, Ngư vương rất buồn
bực.
Sau đó một triết gia đi đến, hỏi Ngư vương:
- Ba người con của ông bắt đầu theo ông đánh cá từ khi nào?
Ngư vương đáp:
- Từ nhỏ chúng đã lớn lên trên thuyền, chưa bao giờ rời khỏi thuyền đánh
cá.
Triết gia hỏi:
- Bọn trẻ học kỹ năng đánh cá của ông phải không? Ngư vương đáp:
- Từ lúc chúng còn nhỏ tôi đã tận tay chỉ dạy cho chúng, không bỏ qua
một điều gì. Tôi dạy tận tâm cho từng đứa, không giấu bí quyết nào.
Triết gia hỏi:
- Bọn trẻ thường tự đánh cá ở đâu? Ngư vương đáp:
- Đương nhiên là trên thuyền tôi. Để tôi kiểm tra chúng, chúng sẽ không
thể có sai sót. Tôi luôn cho chúng biết dấu hiệu nào là có cá lớn, cất lưới thế
nào sẽ có thu hoạch tốt nhất.
Hỏi xong ba câu hỏi, triết gia bảo Ngư vương:
- Bi kịch của ba đứa con của ông là mọi thứ đều đã được ông sắp đặt sẵn.
Chúng nhận được kinh nghiệm của ông, nhưng chúng thiếu rèn luyện cách
bắt cá. Chúng chưa từng rời xa ông để tự thực hành, chúng không biết sự trắc
trở và khó khăn nên hầu như không nhận được bất cứ bài học nào. Kinh
nghiệm cả đời ông tổng kết được, đối với chúng chỉ là những giáo điều tầm
thường.
Ý nghĩa câu chuyện này cũng có thể áp vào mỗi chúng ta. Những kinh
nghiệm gián tiếp mà ta có được là hữu dụng, nhưng chỉ kinh nghiệm gián tiếp
thôi thì có đủ không?
Ngày nay chúng ta thường nói, sống phải bớt đi đường vòng. Thực ra xét
theo một ý nghĩa nào đó, cuộc sống không có đường vòng. Nếu bạn không đi
trên đoạn đường đó thì sao có thể đi đến hiện tại? Nếu không đứng ở hiện tại,
làm sao có thể quay đầu nhìn lại để nói đó là đường vòng?
Mỗi con đường đời đều buộc bạn phải đo bằng chính bước chân của mình.
Mà trong quá trình đó, chúng ta phát hiện ra chính mình và được xác nhận.
Mỗi con đường đời đều buộc bạn phải đo bằng chính bước chân của mình.
Mà trong quá trình đó, chúng ta phát hiện chính mình và được xác nhận.
Mỗi người đều cần liên tục nhìn lại chính mình, đây là một điều kiện quan
trọng trong việc tự nhận thức.
Điều quan trọng nhất trong việc nhận thức đúng đắn về chính mình là cần
phải tự biết mình. Làm thế nào để tự biết mình? Làm thế nào để không bị ảnh
hưởng bởi cách đánh giá bên ngoài mà nhận biết đúng năng lực của mình?
Trang Tử luôn có cái nhìn tỉnh táo về mình. Từ trạng thái cuộc sống theo ý
nghĩa vật lý đến cảnh giới cuộc sống theo ý nghĩa tinh thần, Trang Tử luôn
giữ một cái nhìn tỉnh táo.
Chúng ta phải giữ một đôi mắt tâm hồn bên ngoài hình hài của mình.
Việc này không ai khác có thể làm được thay ta. Mặc dù đôi mắt ấy luôn
nhắc nhở về điều được và mất, đúng và sai, nhưng chúng ta thường mù quáng
nghe theo quá nhiều lời bàn tán của người khác mà để lạc mất cái tâm của
mình.
Chúng ta phải giữ một đôi mắt tâm hồn bên ngoài hình hài của mình.
Có được một đôi mắt tâm hồn luôn luôn nhìn nhận lại mình, chúng ta mới
đạt đến mức vinh nhục không dao động, hiểu rõ mong muốn đích thực trong
lòng mình.
Trong thiên Dưỡng sinh chủ, có một câu chuyện rất quen thuộc là Bào
Đinh mổ bò. Chúng ta thử coi cuộc sống của mình là con bò trong tay Bào
Đinh, xem thử đến nay chúng ta đã thật sự mổ xẻ được mình chưa?
Bào Đinh mổ bò ra sao? Cánh tay ông vung lên, vai tì vào, chân giẫm
xuống, đầu gối ghì lấy, toàn bộ động tác trông như vũ đạo, tiết tấu âm thanh
phát ra khi mổ bò như tiết tấu của nhạc. Chỗ nào dao tới là con bò tức khắc bị
phanh ra, như một đống bùn rơi xuống đất, xương cốt rõ ràng, toàn bộ thịt bò
bị cắt rời ra hết.
Thực sự là một cuộc biểu diễn điêu luyện, nghệ thuật tuyệt vời! Những
người chứng kiến trầm trồ kinh ngạc, hỏi:
Có được một đôi mắt tâm hồn luôn luôn nhìn nhận lại mình, chúng ta mới
đạt đến mức vinh nhục không dao động, hiểu rõ mong muốn đích thực trong
lòng mình.
- Làm sao bác làm được như vậy? Bào Đinh giải thích:
- Lúc bắt đầu mổ bò, những gì tôi nhìn thấy là cả con bò, tức là hỗn độn,
không nhìn rõ cái gì. Thứ tôi để ý đến là "đạo", không còn để ý đến kỹ xảo
nữa. Tôi có thể suy luận ra từ đạo, chứ không chỉ dựa vào kỹ xảo. Sau ba năm
tôi không còn nhìn thấy cả con bò nữa, trong mắt tôi khi ấy chỉ còn xương
của nó mà thôi, tức là qua lớp lông và lớp da dày của nó, tôi có thể nhìn thấy
hướng đi của xương da. Khi đó tôi có thể dùng dao lách vào khe xương của
nó một cách chính xác mà không còn bị vấp, như thế tôi sẽ đạt được hiệu suất
tối đa, sẽ thuận lợi hơn trong lúc mổ.
Bào Đinh nói tiếp: Không phải đầu bếp nào cũng như nhau. Cùng là thợ
mổ, nhưng người đầu bếp giỏi một năm mới thay dao, vì họ chuyên dùng dao
để cắt; người đầu bếp bình thường hàng tháng phải thay dao, vì họ chuyên
dùng dao để chặt. Tôi đã dùng con dao này 19 năm mà chưa hề thay, dao vẫn
như mới.
Người đầu bếp này đã nói một câu rất sâu sắc, đó là "dĩ vô hậu nhập hữu
gian" (lấy cái bề mỏng của con dao mà đưa vào chỗ kẽ). Dao sắc thì thường
rất mỏng, mà giữa xương thì có kẽ, dùng dao mỏng đưa vào kẽ xương một
cách chính xác, thì làm sao có thể hỏng được? Cho nên suốt 19 năm dùng
một con dao mà nó vẫn y như mới.
Chúng ta đưa câu chuyện này vào cuộc sống ngày nay, nếu ai cũng có thể
làm được giống như người đầu bếp nọ, làm cho tâm hồn chúng ta có một con
dao sắc vĩnh viễn, làm cho chúng ta luôn nhìn thấy những kẽ hở giữa các
xương bò để có thể mổ nó một cách chuẩn xác mà không cần chặt xương,
mọi người không cần hàng ngày làm ra vẻ bi tráng trong tiếng thở dài não
nuột, khiến cuộc sống trở nên có giá trị hơn, thì thứ chúng ta nhận được chính
là hiệu suất của cuộc đời.
Trang Tử cho chúng ta biết, trong lòng bạn có cảnh giới lớn, bạn mới nhìn
rõ cái chất thật sự trong lòng vượt qua hành vi, có nghĩa là đại đạo, đại khí,
đại nhân, đại liêm, đại dũng thật sự trong lòng, tất cả đều ẩn trong lòng chứ
không phô trương.
Sự ẩn giấu trong lòng này được Trang Tử gọi là "thiên phủ" - tấm lòng
một người phải chứa đựng vạn vật trời đất giống như thiên phủ, tức là kho
của vạn vật trong trời đất.
Trong thiên phủ có chứa gì? Có hai chữ "bảo quang" (giữ gìn ánh sáng).
Bảo quang là gì? Là bảo toàn một sự quang minh lớn trong lòng bạn, sự
quang minh này biến đổi trong vạn vật trời đất, giống như một biển nước mà
khi triều lên thì mực nước cũng không dâng cao, còn khi mọi người đều múc
nước ở đó thì mực nước cũng không vơi cạn; bạn không biết đầu nguồn của
nó ở đâu, nhưng nó là vô tận, lấy không hết, dùng không kiệt, chiếu khắp vạn
vật, đây là một thứ ánh sáng ở trong lòng.
Từ nhận thức chính mình cho đến lắng nghe chính mình, đến hàm dưỡng
thai nghén chính mình, đó là cả một quá trình sống tốt đẹp. Mỗi người đều có
một "kho trời", có thể có năng lực tự giữ lấy ánh sáng. Được như thế, con
người sẽ không dùng sự vật bên ngoài để luận về năng lực của mình nữa.
Mọi người đều biết tiếng của danh y Biển Thước, tên ông quen thuộc đến
mức trở thành tên gọi chung cho các danh y Trung Quốc.
Từ nhận thức chính mình cho đến lắng nghe chính mình, đến hàm dưỡng
thai nghén chính mình, đó là cả một quá trình.
Có lần Ngụy vương hỏi Biển Thước:
- Ta nghe nói ba anh em nhà thầy đều giỏi y thuật, thầy thử nói cho ta xem
trong ba người, y thuật của ai cao minh nhất?
Biển Thước thành thực đáp:
- Anh cả của thần y thuật cao nhất, anh hai của thần thứ hai, còn thần y
thuật kém nhất trong ba anh em.
Ngụy vương ngạc nhiên hỏi:
- Thế tại sao thầy lại nổi tiếng trong thiên hạ, còn hai người anh lại chẳng
ai biết đến?
Biển Thước đáp:
- Vì anh cả thần chữa bệnh cho người thường là phòng bệnh khi nó chưa
xảy ra, người bệnh này hầu như đã được chữa khỏi từ khi chưa có triệu chứng
gì bộc lộ ra ngoài, người đó trông như không có bệnh gì cả, cho nên người ta
không biết anh ấy đã trừ bỏ trước bệnh cho người. Còn người anh thứ hai của
thần thì trị được bệnh khi bệnh mới có dấu hiệu triệu chứng, ngay từ đầu anh
ấy chữa trị dùng thuốc, đuổi được bệnh, nên người ta cho rằng anh ấy chỉ
chữa được bệnh vặt, mà không biết rằng nếu để bệnh phát triển tiếp thì sẽ
nguy hiểm đến tính mạng, cho nên danh tiếng anh chữa được các bệnh vặt lan
truyền nơi thôn quê. Còn thần, tại sao lại nói y thuật của thần kém nhất? Là
bởi thần chỉ có thể ra tay khi tính mạng người ta đã nguy cấp. Điều thần có
thể làm được là phá huyết mủ, phẫu thuật, đắp thuốc cho người ta, những
việc dính dáng đến máu me đều do thần làm, kết quả vừa ra tay là có thể cải
tử hoàn sinh, cho nên thanh danh của thần vang khắp thiên hạ. Nhưng bệ hạ
hãy xem, ba anh em thần, người có thể phòng bệnh khi nó chưa xảy ra là giỏi
nhất thì lại không được thiên hạ biết đến; người ra tay chữa khỏi khi bệnh
mới phát thì bị người ta coi là chỉ biết chữa bệnh vặt, danh chỉ truyền nơi
thôn quê; còn đến khi sinh mạng sắp mất mới ra tay cứu người, cứu thế nào
thì vẫn để lại di chứng, người bệnh đều bị tổn hại, nhưng thần lại lừng danh
thiên hạ.
Câu chuyện này cho chúng ta biết điều gì? Đó là tiêu chuẩn đánh giá của
thế tục không hẳn là đánh giá đúng giá trị của một con người, sự đánh giá của
chúng ta đối với chính mình chỉ có chính lòng mình mới đưa ra được đáp án
đúng đắn.
Có một câu chuyện dân gian kể rằng một chủ nhà nọ sống cùng với một
con khỉ và một con lừa. Con khỉ rất tinh khôn, luôn nhảy nhót trong nhà,
người chủ thấy vậy liền khen rằng con khỉ thông minh.
Con lừa thấy khỉ được khen nên cũng bắt chước theo khỉ. Một hôm nó
bước lên đống củi để trèo lên nóc nhà, kết quả vừa lên đến nóc nhà thì giẫm
vỡ hết ngói của chủ nhân và bị chủ nhân lôi xuống đánh cho một trận.
Lừa ta nghĩ mình cuối cùng đã làm được việc giống như khỉ, sao lại không
được khen ngợi, mà lại bị đòn. Tại sao vậy?
Thực ra cảnh ngộ này xảy ra ở rất nhiều người, tức là chúng ta bắt chước
quá đáng hành vi của người khác, chúng ta quá chú ý đến tiêu chuẩn chung
của xã hội.
Cái gọi là thời thượng, cái gọi là thịnh hành là một xu thế trào lưu, khiến
chúng ta đánh mất lòng mình mà xu theo một tiêu chuẩn thống nhất. Sự việc
này xảy ra ở mọi nơi.
Trang Tử luôn nhắc nhở chúng ta: làm thế nào để không chảy vào dòng
chảy thế tục? Trước hết phải nhận thức rõ nguyện vọng trong lòng mình, bạn
có thật sự đang đối xử tốt với mình theo phương thức của mình không?
Trong thời đại mà truyền thông bùng nổ như ngày nay, những tiêu chuẩn
thịnh hành là rất đáng sợ, đã trở thành một thế lực. Giống như mỗi người đều
bị sự quấy rối của quảng cáo, dẫn dắt các quyết định mua hàng. Những tiêu
chuẩn thịnh hành tác động dần vào bạn như một sự tẩy não. Bạn biết nó
không hẳn là tốt, nhưng bạn buộc phải tuân theo.
Chúng ta thường có sự đánh đồng khái niệm, cho rằng thịnh hành tức là
thời thượng, nhưng thực ra thời thượng có khi là một sự thú vị của một thiểu
số người, còn thịnh hành giống như dịch cúm, nó chỉ đánh dấu một số lượng
chứ không đại diện cho sự cao cấp về chất lượng.
Thời đại ngày nay có lẽ cần những đôi mắt "lửa thử vàng" hơn, cần tự soi
tự kiểm hơn, cần thoát khỏi tiêu chuẩn bên ngoài hơn cả thời đại của Trang
Tử, để đánh giá năng lực của mình và đánh giá năng lực của người khác.
Chỉ có dùng lý tính sáng suốt của mình xác lập tất cả những điều đó, rồi
đối xử tốt với người khác, đối xử tốt với bạn bè, đối xử tốt với con cái mới có
thể thật sự tôn trọng chính mình và người khác, nhận rõ xu hướng giá trị của
một con người, hiểu được lối sống của mỗi giai đoạn, phát huy khả năng của
người đó đến mức tốt nhất theo đúng vẻ vốn có của người đó.
Nếu chúng ta tổng hợp lại, đứng ở hiện tại để giải mã bí ẩn trong đó, thì sẽ
có một đôi mắt của tâm hồn, đều sẽ có một con dao sắc của Bào Đinh. Nhờ
đó, chúng ta có thể nhìn thấu mọi sự thị phi của thế gian, cuối cùng đạt được
một lý tính rõ ràng và hoàn thành cuộc sống quý giá có một không hai của
mình.
CHƯƠNG 5
LUÔN CÓ ÐƯỜNG ÐỂ ÐI

Trên đường đời, chúng ta luôn gặp muôn vàn khó khăn, có người sinh ra
đã xấu xí, có người thân hình tàn tật.
Trang Tử giỏi vận dụng ngụ ngôn, ông đã mượn những người có bề ngoài
xấu xí và hầu như dữ tợn để bày tỏ quan điểm của mình, đó là cho dù thế nào,
trên đời cũng luôn có đường để đi.
Các câu chuyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử có nhiều nhân vật có hình
dạng khác với người thường, thí dụ một số người tàn tật, một số người bị
hình phạt. Theo vẻ bề ngoài, hình dáng cơ thể của họ kém xa người bình
thường, nhưng những người này hoặc là có hoài bão, hoặc là có lý tưởng,
hoặc sống rất vui vẻ, hoặc sống rất thành công. Họ là ai?
Trong thiên Nhân thế gian, Trang Tử có kể về một người tên là Chi Li Sơ.
Riêng cái tên đã đủ kỳ quặc, còn hình dáng thì thế nào?
Chi Li Sơ có hai vai cao quá đầu, cái đầu thấp đến dưới rốn, lưng quay lên
trời, lục phủ ngũ tạng của anh ta dồn hết lên lưng, đó là một cái lưng gù, rồi
hai chân anh ta mọc ngay cạnh xương sườn. Hình dạng không những xấu xí
mà còn trông rất dữ tợn, giống như một quái vật.
Chi Li Sơ sống như thế nào? Trang Tử nói, anh ta may quần áo, giặt quần
áo cho người ta cũng đủ nuôi sống bản thân, ngoài ra anh ta còn dành thời
gian đi sàng gạo, xay thóc cho người khác, số tiền kiếm được đủ nuôi đến
mười người.
Cuối cùng Trang Tử rút ra một kết luận, những người giống như Chi Li
Sơ, mặc dù trông rất xấu xí dữ tợn, nhưng khi anh ta sống bằng chính sức
mình, anh ta đạt được nhiều thứ hơn người khác.
Câu chuyện về Chi Li Sơ khiến tôi nghĩ đến loạt truyện Tứ đại danh bổ
của nhà tiểu thuyết võ hiệp Ôn Thụy An. Những người thích tiểu thuyết võ
hiệp đều biết rằng người đứng đầu trong "tứ đại danh bổ" chính là Vô Tình.
Vô Tình xuất thân từ một gia đình võ lâm, do cha kết oán với giang hồ nên
bị kẻ thù tàn sát cả nhà, cả cha mẹ đều bị giết. Khi bắt được Vô Tình, kẻ thù
hết sức ác độc và nham hiểm, không giết chết đứa bé mà phế bỏ công lực của
nó từ nhỏ, để nó sống không bằng chết, không thể phục thù cho cha mẹ.
Chúng cắt đứt gân chân để Vô Tình bị liệt ngay từ khi chưa biết đi.
Con người đều biết tác dụng của cái hữu dụng chứ không biết tác dụng
của cái vô dụng.
- Nhân gian thế -
Lớn lên Vô Tình là một người tàn tật nhưng lại đứng đầu trong tứ đại danh
bổ. Tuyệt chiêu của Vô Tình là gì? Là khi mỉm cười có thể phun ra một chiếc
châm thép, chiếc châm thép này có thể giết chết kẻ thù. Võ công của Vô Tình
đã hóa vào bên trong, do chân bị tàn tật từ nhỏ nên đã luyện cho mình một
nội công thâm hậu không ai địch nổi.
Câu chuyện này phải chăng là sự tiếp nối của Chi Li Sơ? Và xã hội ngày
nay phải chăng vẫn có những chuyện như thế?
Trong thiên Đức sung phù, Trang Tử còn kể câu chuyện về một người xấu
xí tên là Ai Đãi Tha.
Lỗ Ai Công từng nói với Khổng Tử:
- Nước Vệ có một người rất xấu xí tên là Ai Đãi Tha. Người này tuy tướng
mạo xấu xí nhưng lại có một sức hấp dẫn thần kỳ. Đàn ông tiếp xúc với anh
ta một thời gian sẽ lưu luyến đức hạnh của người này, cảm thấy người này là
bạn tốt và không rời xa anh ta. Đàn bà gặp anh ta, biết có một người như thế,
khi về nhà sẽ nói với cha mẹ rằng thay vì làm vợ người khác, không bằng làm
thiếp người này, dù con làm thiếp cho anh ta còn hơn là làm chính thất của
người khác. Số phụ nữ nói như vậy nghe nói có đến mười mấy người, hơn
nữa số người ngày một tăng thêm.
Lỗ Ai Công nói tiếp:
- Con người này thật lạ, không có quyền vị, cũng chẳng có tiền tài, ta cũng
chẳng thấy y có kiến giải gì hơn người, trái lại thường phụ họa ý kiến của
người khác. Ta nghĩ chắc chắn y có chỗ nào đó khác người thường, bèn cho
vời y đến. Quả nhiên y xấu xí đến mức kinh hãi. Nhưng tiếp xúc với y thì
thấy y rất thoải mái, chưa đầy một tháng ta đã rất tín nhiệm y.
Cuối cùng Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử:
- Thầy nói xem Ai Đãi Tha này là người như thế nào?
Phải, đây là một người như thế nào? Trang Tử chẳng qua muốn cho chúng
ta biết rằng, trên đời này có một loại người mà vẻ ngoài tướng mạo bình
thường, nhưng trong lòng họ có một sức mạnh, sức hấp dẫn của nhân cách,
có thể thu hút mạnh mẽ người khác đến bên mình. Sức mạnh thật sự của một
con người không biểu hiện ở một tài hoa trác việt hay kỹ năng tuyệt diệu nào
đó, chính sức mạnh nội tâm mới là sự hấp dẫn lâu bền đối với người khác.
Sức mạnh thật sự của một con người không biểu hiện ở một tài hoa trác
việt hay kỹ năng tuyệt diệu nào đó, chính sức mạnh nội tâm mới là sự hấp
dẫn lâu bền đối với người khác.
Giáo sư Đài Loan nổi tiếng Phó Bội Vinh, khi nghiên cứu về Trang Tử đã
rút ra một điều tâm đắc. Ông nói khi đã thật sự hiểu được Trang Tử, sẽ hiểu
rõ trên đời luôn có đường để đi.
Câu nói này có vẻ rất giản dị, hơn nữa nó không phải là một kết luận mang
tính học thuật, mà là một kết luận về nhân sinh.
Chuyện ngụ ngôn của Trang Tử cho chúng ta biết rằng, một người dù bề
ngoài xấu xí, cơ thể tàn tật cũng có thể tự sống bằng chính sức lực của mình,
được hưởng tuổi trời, đó là bởi anh ta đã tìm được con đường đi cho riêng
mình trong cuộc đời rộng lớn.
Ngày nay cũng có một số người không may trở thành người bị khiếm
khuyết về cơ thể, họ lựa chọn con đường nhân sinh của mình như thế nào? Và
lựa chọn của họ gợi ý điều gì đối với chúng ta?
Có lẽ trong thực tế không có người nào có ngoại hình giống như Chi Li
Sơ, nhưng người tàn tật thì ở đâu cũng có. Họ hoặc tàn tật về cơ thể, hoặc
khiếm khuyết về trí lực, những người đó sống như thế nào?
Có một bộ phim tài liệu nổi tiếng là Thế giới của Chu Chu kể về một cậu
bé ở Vũ Hán bị thiểu năng trí tuệ bẩm sinh, trí lực của cậu chỉ phát triển tối
đa bằng một đứa bé ba tuổi, không thể hơn được nữa.
Trong phim, Chu Chu đã 26 tuổi, với trí lực của một trẻ lên ba nhưng anh
có một thế giới mà ít người biết đến. Đó là thế giới của âm nhạc.
Chu Chu là một thiên tài chỉ huy âm nhạc. Có cha làm việc ở Viện ca múa
kịch Vũ Hán, từ nhỏ anh đã sống trong môi trường này. Đối với anh, đây
không phải là nơi học tập tri thức, không phải là nơi bồi dưỡng nghề nghiệp,
mà là nơi thầm nhuần tính linh của cuộc sống. Anh lớn lên trong môi trường
này, liên tục được âm nhạc bồi đắp.
Mỗi khi có buổi biểu diễn nhạc giao hưởng quy mô lớn, người chỉ huy dàn
nhạc làm việc ở tiền đài, anh ở hậu đài, một mình say sưa chỉ huy. Anh chỉ
huy dàn nhạc rất tài tình, giữa anh và âm nhạc có một sự kết nối vượt qua
mọi tri thức. Dần dần, Chu Chu không chỉ nổi tiếng được cả Trung Quốc biết
đến mà còn có thể ra nước ngoài chỉ huy các cuộc thi mang tầm quốc tế.
Hiện tượng này có thể nói là một điều kỳ diệu của cuộc sống. Là bởi trí
lực khiếm khuyết đã giữ được cho anh sự ngây thơ trong cuộc đời, và sự ngây
thơ này vô hình trung là sợi dây kết nối mật thiết anh với âm nhạc.
Trong chương trình đêm giao thừa được truyền hình trực tiếp qua vệ tinh
Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc năm 2007 có tiết mục Quan Âm
nghìn tay gây ấn tượng mạnh vì sự tài hoa và thần thái an lành của các vũ
công. Thực ra cả nhóm múa này, từ người múa dẫn đầu Thai Lệ Hoa đến cả
người cuối cùng trong đội đều là người khuyết tật. Mọi người bị thu hút vì
những vòng tay xinh đẹp rực rỡ mà cũng thật đoan trang, đáng kính. Phải
chăng vì họ là những người tàn tật mà tâm thần của họ an định, chuyên chú,
nên họ có được vẻ bình thản trên khuôn mặt và sự khoan thai trong những
động tác hình thể? Đó là những sắc thái mà người bình thường chúng ta khó
mà làm được.
Gọi là tàn tật nghĩa là có một cơ quan nào đấy trong cơ thể bị tổn hại; khi
đó, những cơ quan khác sẽ phát triển mạnh hơn để bù trừ cho sự khiếm
khuyết ấy. Do đó chúng ta thường nói người mắt kém thì tai rất thính, đó là
một sự bù đắp công năng. Thực ra cơ thể con người có những bí ẩn rất lớn
mà hiện tại chúng ta chưa giải đáp được.
Trong Trang Tử còn có một câu chuyện:
Có một người tên là Thân Đồ Gia, bị chặt mất một chân. Anh ta cùng đại
phu Tử Sản nước Trịnh đều là học trò của Bá Hôn Vô Nhân. Tử Sản thấy
mình là một đại phu hiển quý mà có một bạn học như vậy nên trong lòng rất
lấy làm khó chịu.
Một hôm ông ta không nhịn được, nói với Thân Đồ Gia:
- Sau này chúng ta nghe giảng xong đi về, nếu anh đi trước thì tôi sẽ chờ
một lát mới đi, nếu tôi đi trước thì anh cũng chờ một lát rồi hãy đi.
Thân Đồ Gia chẳng nói chẳng rằng. Ngày hôm sau Tử Sản không nhịn nổi
nữa bèn nhắc lại yêu cầu này:
- Ngươi thấy ta là đại phu chấp chính mà không biết tránh đi, lẽ nào ngươi
cũng coi mình là chấp chính đại phu?
Thân Đồ Gia nói:
- Có một chấp chính đại phu như ngài sao? Tôi từng nghe nếu một tấm
gương thật sự sáng thì không bám bụi, nếu thực sự bám bụi thì gương không
thể sáng. Lòng người cũng vậy. Chúng ta ở đây theo thầy tu dưỡng đức hạnh,
vậy mà ngài lại nói những lời như vậy, không thấy quá đáng sao?
Tử Sản bực mình, nói:
- Thật chẳng ra làm sao, ngươi cần phải nghiêm túc nhìn lại xem mình là
hạng người nào?
Thân Đồ Gia nói:
- Môn hạ của thầy chúng ta sao lại có chấp chính đại phu như ngài? Trước
khi theo học thầy, tôi nghe có rất nhiều người chê cười rằng tôi bị cụt chân,
khiến lòng tôi đầy oán khí. Nhưng kể từ khi theo học thầy, oán khí của tôi đã
tan hết. Tôi đã theo học thầy được 19 năm, chưa bao giờ thầy làm tôi cảm
thấy mình là một kẻ cụt chân. Giờ ngài đánh giá tôi theo tiêu chuẩn hình thể
chứ không phải tiêu chuẩn đạo đức, vậy mà còn nói mình là chấp chính đại
phu, lẽ nào ngài không cảm thấy hổ thẹn?
Tử Sản nghe xong rất thẹn thùng. Đây là nỗi thẹn thùng của một người
lành lặn trước một người tàn tật. Nỗi hổ thẹn này bắt nguồn từ sự khiếm
khuyết trong lòng ông ta. Ông ta đã hiểu rằng một con người có thành công
hay không hoàn toàn không bởi chân tay, thậm chí không bởi quyền vị của
mình, mà bởi có thật sự biết được những nỗ lực cũng như vị trí của mình hay
không.
Trang Tử còn kể một câu chuyện như sau:
Có một người tên là Thúc Sơn Vô Chỉ, vì thời trẻ phạm tội mà bị chặt mất
các ngón chân. Một hôm Thúc Sơn Vô Chỉ đi bằng gót chân đến cửa Khổng
Tử xin học. Khổng Tử đang dạy học trò, thấy Thúc Sơn Vô Chỉ đến, bèn bảo:
- Hồi trẻ anh làm người không cẩn thận, để phạm tội, chuốc lấy tai họa
nên mới ra nông nỗi ngày hôm nay. Mặc dầu hôm nay anh còn muốn đến chỗ
ta để học, nhưng anh thấy có còn kịp không?
Thúc Sơn Vô Chỉ bình tĩnh đáp:
- Chính vì trẻ người non dạ nên tôi mới để cơ thể bị tổn thương. Nhưng
giờ tôi đã biết trong cuộc sống còn có thứ quý giá hơn, quan trọng hơn ngón
chân, nên mới đến đây xin theo học thầy. "Thiên vô bất phúc, địa vô bất tái"
- trời có thể che mọi thứ, đất có thể chở được mọi thứ. Tôi xem thầy như
trời đất, nào biết thầy lại là người như vậy?
Khổng Tử bất giác hổ thẹn:
- Ta thực là nông cạn. Xin mời vào giảng dạy cho học trò ta.
Nhưng Thúc Sơn Vô Chỉ vẫn bỏ đi.
Khổng Tử rất lấy làm tiếc, quay đầu bảo học trò:
- Các trò phải cố gắng lên! Thúc Sơn Vô Chỉ là một người bị cắt hết ngón
chân mà còn biết đến xin học, còn biết trên đời có thứ quý hơn, quan trọng
hơn thân thể mình, chúng ta đều là những người lành lặn, lẽ nào không biết
đường tiến thủ?
Cả Thân Đồ Gia và Thúc Sơn Vô Chỉ đều từng có vết nhơ trong đời và họ
đã trả giá bằng chính một phần cơ thể mình. Họ không bị tàn tật bẩm sinh
như Chi Li Sơ nên thực ra họ phải gánh hai tầng áp lực, nhưng tại sao họ lại
có thể sống thản nhiên trên cõi đời này?
Bởi vì họ có một sức mạnh trong lòng. Họ dám nhìn thẳng vào nhược
điểm của mình, dám sửa sai, hướng đến cuộc sống mới, vẫn có thể được mọi
người kính trọng.
Thân Đồ Gia hay Thúc Sơn Vô Chỉ tuy đã mắc lỗi và phải chịu hình phạt
nghiêm khắc nhưng họ biết sai mà sửa, tìm được con đường đời thuộc về
chính mình bằng một sức mạnh bên trong. Trong xã hội hiện đại, áp lực cuộc
sống, áp lực công việc của mọi người đều rất lớn, khi tâm lý không vững,
sinh ra khiếm khuyết thì sẽ dẫn đến hậu quả như thế nào?
Con người có khuyết tật về thân thể, lẽ nào không có khuyết tật về tâm
hồn?
Trong thời đại ngày nay, truyền thông phát triển, thông tin bùng nổ, khoa
học kỹ thuật mang lại cho chúng ta sức mạnh vô cùng lớn, nhưng điều đó
không có nghĩa là nhân cách của chúng ta mỗi ngày lành mạnh hơn, khoáng
đạt hơn. Ngược lại, có lẽ khuyết tật trong tâm hồn của chúng ta đã nhiều hơn.
Tháng 4 năm 2006, một sự kiện ngược đãi mèo gây chấn động được phát
tán trên mạng. Đoạn phim quay toàn bộ quá trình một con mèo bị giẫm chết
bằng một chiếc guốc cao gót được tung lên mạng đã dấy lên làn sóng chỉ
trích, phẫn nộ, lên án. Người ta muốn tìm xem hung thủ phía sau sự việc độc
ác này là ai?
Trong sự kiện này có ba nhân vật: Thứ nhất, người phụ nữ giẫm chết con
mèo là ai? Thứ hai, ai đã quay đoạn phim này và tung nó lên mạng? Thứ ba,
nguồn phát tán thông tin này là trang web như thế nào?
Xem xong chuyên mục phóng sự điều tra Cái chết bất thường của một con
mèo của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc, chúng ta sẽ cảm thấy
rúng động khi biết rằng, người phụ nữ giẫm chết con mèo đó là dược sĩ ở một
bệnh viện tại Hắc Long Giang. Bình thường chị làm việc rất chăm chỉ, rất ân
cần và có trách nhiệm với bệnh nhân, chưa bao giờ để xảy ra sai sót; chị dọn
dẹp môi trường làm việc sạch sẽ, hòa nhã với mọi người, thà mình chịu thiệt
chứ chưa bao giờ để người khác ấm ức, luôn được đơn vị đánh giá cao.
Nhưng chị có cuộc hôn nhân không hạnh phúc suốt 17 năm; sau khi ly dị,
chị không biết thổ lộ với ai, trong lòng đầy ấm ức và phẫn nộ. Trước ống
kính truyền hình, chị thẳng thắn cho biết: Khi có người nhờ chị thực hiện sự
kiện này, chị nhận lời ngay, hoàn toàn không phải vì tiền mà là để trút giận.
Phóng viên hỏi chị:
- Khi giẫm chết con mèo, nụ cười trên mặt chị là do người ta yêu cầu chị
làm như vậy phải không?
Chị đáp:
- Không, chẳng ai yêu cầu, có vẻ như chính tôi muốn vậy.
Đây là một hành vi bất thường do sự méo mó trong tâm hồn con người tạo
ra. Còn trang web quay lại toàn bộ quá trình này và tung lên mạng cũng là
diễn đàn của một cộng đồng người có vấn đề về tâm lý. Người sáng lập trang
web cho biết: "Tôi và nhóm của tôi sống trong một xó xỉnh xã hội tối tăm. Do
xu hướng tình dục đặc thù của chúng tôi nên đôi chân được coi là tiêu chuẩn
duy nhất của vẻ đẹp. Do đó, chúng tôi mong muốn lực của bàn chân được
giải phóng ở mức độ lớn nhất. Dùng giày cao gót để giẫm chính là một biểu
hiện của sự giải phóng đó". Trên thế giới cũng có những nhóm người như thế
này, họ giẫm lên quần áo, trái cây, những thứ không phải là cơ thể sống, sau
đó đến giẫm lên cá, tôm rồi đến chó mèo...
Thực ra, nhóm người đứng sau trang web này là những người có tri thức
rất cao. Họ có công việc đáng mơ ước.
Nhưng tâm lý họ chất chứa một khuyết tật không thể gột rửa được.
Khi những nhân vật đứng sau sự kiện giẫm chết mèo này lần lượt xuất
hiện trước công luận, chúng ta không chỉ cảm thấy phẫn nộ mà phần nhiều là
có thêm sự thương xót đối với họ. Trong một xã hội phát triển cao độ, khoa
học và văn minh này, có bao nhiêu người có tâm hồn khuyết tật như thế?
Nếu chúng ta đều giống như Thân Đồ Gia, Thúc Sơn Vô Chỉ thì thật là
may mắn, bởi đó là những người có hiểu biết, biết nhận lỗi, biết theo đuổi
điều tốt đẹp và có thể cứu rỗi được tâm hồn của chính mình. Vấn đề là quá
nhiều người không hiểu, thậm chí không tự nhận biết sự khiếm khuyết của
tâm hồn mình.
Tôi nhớ trong một buổi trao đổi về học thuật, một người phụ trách khoa
tâm lý đã kể cho chúng tôi nghe về một ca chẩn trị tâm lý của anh:
Một lần, một chàng trai thuộc giới trí thức rất thành đạt, mặc Âu phục, đi
giày tây đến văn phòng của anh. Vào đến nơi, anh ta dáo dác nhìn quanh, vừa
ngồi xuống là vớ ngay lấy cái gạt tàn thuốc lá, lật nó từ tay trái sang tay phải
rồi lại chuyển từ tay phải sang tay trái. Anh ta tráo qua đổ lại như vậy một hồi
rồi mới bắt đầu nói:
- Tôi muốn anh tư vấn cho một chuyện. Hiện tại tôi cứ tự kỷ ám thị là có
điều gì đó không lành sắp xảy ra. Chẳng hạn khi phải đi qua một con đường,
nhìn từ xa thấy chỗ đó đang đào đất, rõ ràng là tôi có thể đi vòng qua, nhưng
bất chợt tôi cảm thấy sẽ có chuyện chẳng lành bèn quay đầu xe sang một
đường khác, cho dù có thể bị ùn tắc hai giờ trên con đường đó. Tôi thà đến
muộn chứ nhất quyết không đi đường kia nữa. Những việc tương tự như vậy
liên tục xảy ra, tôi không còn kiểm soát được mình, cứ nhìn thấy những dấu
hiệu nhỏ là lại cảm thấy sắp có chuyện tồi tệ xảy ra. – Anh vừa nói, tay vừa
liên tục đổ gạt tàn thuốc lá.
Nhà tư vấn tâm lý nhìn anh hồi lâu rồi hỏi:
- Hồi nhỏ anh sống với ai? Anh đáp:
- Tôi sống với bà nội.
Nhà tư vấn bèn bắt đầu hỏi anh về thời thơ ấu xa xăm và cuối cùng vạch
ra một bí mật tâm lý. Bí mật đó thật đáng kinh ngạc, bởi hầu như nó đều có
mặt trong mỗi chúng ta.
Đứa trẻ không chịu ngủ, bà nội dọa:
- Năm phút nữa cháu mà không ngủ, ông ba mươi sẽ đến đấy!
Đứa bé vẫn không chịu ngủ, bà lại nói:
- Trong vòng ba phút mà cháu vẫn chưa ngủ, gió sẽ cuốn cháu đi!
Đứa trẻ vẫn không chịu ngủ. Bà nói:
- Một phút nữa, yêu tinh sẽ đến!
Vì sợ nên đứa trẻ dù không ngủ được cũng phải nhắm mắt, mà lúc nhắm
mắt nó lại luôn nghĩ không biết ông ba mươi và yêu tinh đến sẽ như thế nào?
Nhà tư vấn nói, chính cái cách dọa cho trẻ ngủ mà chúng ta quen áp dụng
này có thể khiến những đứa trẻ đặc biệt nhạy cảm mắc chứng rối loạn ám ảnh
cưỡng chế (obsessive-compulsive disorder – OCD).
Lúc đó, nhà tư vấn bất chợt hỏi chàng trai:
- Anh liên tục đổ chiếc gạt tàn trong tay, đó là một cách để anh làm giảm
sự căng thẳng trong lòng. Vậy anh đang có dự cảm gì?
Nghe hỏi, chàng trai đột ngột dừng lại, nói:
- Đúng thế, anh nói tôi mới hiểu, hiện tôi cảm thấy mẹ tôi có thể đã xảy ra
chuyện gì đó, nếu tôi không đổ cái gạt tàn, bà sẽ có chuyện. Nhưng nghe anh
nói, tôi liền cảm thấy không có chuyện gì nữa.
Chữa bệnh tâm lý không bao giờ chỉ bằng một câu nói như vậy là xong mà
đây luôn là một quá trình rất khó khăn. Đó là bởi vì sự khuyết tật về tâm lý
không dễ nhìn thấy như khuyết tật về thân thể. Khuyết tật này có thể là một
sai lầm chúng ta phạm phải trong một trường hợp ngẫu nhiên nào đó, cũng có
thể là một cú sốc mà bạn đã trải qua từ rất lâu, dần tích tụ lại thành một thứ
tật.
Theo một ý nghĩa nào đó, chữa bệnh tâm lý phần nhiều là dựa vào chính
mình. Bệnh nhân phải thật sự thấy được khiếm khuyết của mình và trở thành
thầy thuốc tâm lý của chính mình.
Trang Tử cho chúng ta biết, nếu một người thật sự tuân theo quy luật của
cuộc sống thì trước hết phải biết chấp nhận những nuối tiếc và khuyết tật này,
đừng ấm ức, đừng so đo, mà phải tìm cách thay đổi nó, làm cho mình tốt hơn.
Mổ xẻ Trang Tử, bắt đầu từ thiên "Tiêu dao du" cho đến những nhân vật mà
ông giới thiệu, chúng ta thấy tư tưởng hạt nhân xuyên suốt trong đó là sự
khác biệt giữa lớn và nhỏ. Lớn và nhỏ hoàn toàn không phải là khác biệt giữa
đẹp và xấu, hình thái bên ngoài và cõi lòng bên trong đôi khi có độ chênh
nhau rất lớn.
Trang Tử cho chúng ta biết, nhiều người bề ngoài trông có vẻ cổ quái
thậm chí đáng sợ lại có một tâm hồn lớn mà những người lành lặn như chúng
ta có khi không sánh kịp. Trong khi đó, có một số người có lẽ lại bị khuyết tật
tâm hồn vì chính sự cứng cỏi, cương cường và nhạy cảm của mình.
Đọc văn Trang Tử, đôi khi ta cảm thấy mênh mông vô bờ. Mọi tư tưởng lạ
lùng mà ông mô tả đều vượt trên kinh nghiệm sống của chúng ta. Thế nhưng
nếu đổi một góc độ khác, nhìn từ nội tâm, chúng ta vẫn có thể hiểu và trải
nghiệm với từng hình tượng mà Trang Tử mô tả.
Rốt cuộc chúng ta có những khuyết tật nào ở bên trong? Chúng ta có
những trở ngại tâm lý nào, nỗi ám ảnh tuổi thơ nào, hay những thiếu sót nào
trong cuộc sống?
Tất cả những điều đó phải chăng ẩn trong hình ảnh những con người
khuyết tật xấu xí mà Trang Tử đã mô tả trong sách của mình? Và sự siêu việt
về đức hạnh của họ phải chăng sẽ đem đến cho chúng ta không ít gợi ý, lời
khuyên và một số hệ tham chiếu?
Có một câu cách ngôn rất hay: Trên đời này không có rác rưởi và đồ phế
thải, cái gọi là đồ phế thải chỉ là của cải bị đặt nhầm chỗ. Rất nhiều của cải
chẳng qua chỉ bị đặt nhầm chỗ. Lý Bạch nói: "Thiên sinh ngã tài tất hữu
dụng" (trời sinh ra tài năng của ta ắt có chỗ dùng), tài lớn thì ích lớn, tài nhỏ
ích nhỏ, giữa có ích và vô ích, chẳng qua chỉ là xem giữa cuộc sống của bạn
và môi trường bạn sống có mối liên hệ với nhau như thế nào.
Dù là bị hình phạt hay khuyết tật bẩm sinh, dù là khuyết tật cơ thể hay
thiểu năng trí tuệ, những nhân vật của Trang Tử đều là tấm gương cho chúng
ta soi chung.
Chúng ta soi thấy sự lành lặn trong hình hài khuyết tật của họ và ngược
lại, thấy những khuyết tật thấp thoáng trong sự lành lặn của chúng ta. Sự
khiếm khuyết về hình thể thì có thể được bù đắp bằng tâm hồn, có thể hoàn
thiện bằng sự dao du giữa tinh thần và trời đất.
Đây có lẽ là gợi ý tốt nhất của Trang Tử đối với chúng ta ngày nay. Từ
những gợi ý này, chúng ta có thể vươn tới cõi tiêu dao du cùng với trời đất
của ông.
CHƯƠNG 6
NÓI CƯỜI LUẬN SINH TỬ

Sinh và tử là hai cực khởi đầu của cuộc sống.


Cuộc sống là một con đường không thể quay đầu trở lại. Chỉ khi đi đến tận
cùng, bạn mới nhớ đến những điều đáng tiếc trên đường.
Chỉ khi thực sự hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, ta mới có thể đối mặt
với sinh tử một cách đúng đắn.
Trong Trang Tử có một mệnh đề vĩnh hằng: sinh tử. Đời người trăm năm
ắt sẽ có ngày chết. Đối với sinh tử, Trang Tử có rất nhiều câu chuyện, thí dụ
ông gõ chậu ca hát khi vợ qua đời, là những chuyện ai cũng quen thuộc.
Trang Tử nói: "Cổ chi chân nhân, bất tri duyệt sinh, bất tri ố tử" (Những
người thực sự hiểu được bí ẩn cuộc sống ngày xưa đều không cảm thấy có sự
sống là điều đáng mừng, cũng không thấy cái chết đến là đáng sợ).
Ngay sinh tử cũng không ảnh hưởng, huống hồ là đầu mối của lợi hại?
- Tề vật luận -
Thái độ đối với việc sinh tử của người quân tử chân chính là không quá
quan tâm, không truy hỏi mình từ đâu đến, cũng không lo mình sẽ đi về đâu.
Bởi lẽ sinh và tử chẳng qua chỉ là sự biến đổi hình thái của sinh mệnh.
Thái độ này nghe có vẻ rất thanh thản, nhưng áp dụng vào cuộc sống thì
không phải là điều dễ dàng.
Cuộc sống của con người trôi qua trong bận rộn, khẩn trương. Trong quá
trình hối hả ấy, mỗi người đều có một nỗi sợ đối với thời gian ngày một ngắn
lại của đời mình.
Có một câu chuyện ngụ ngôn rất hay: Hai anh em nhà nọ nhà ở tầng thứ
80 của một tòa nhà chọc trời. Hôm ấy hai người về nhà khuya, lại quên đọc
thông báo là thang máy đã hỏng.
Hai anh em khoác ba lô nặng trĩu trên vai, đứng ở tầng trệt bàn bạc một
lúc rồi quyết định leo cầu thang về nhà. Hai người khích lệ tinh thần lẫn
nhau, bắt đầu leo cầu thang. Leo đến tầng thứ 20 thì bắt đầu thấy ba lô trên
lưng rất nặng. Hai người bàn nhau quyết định gửi ba lô ở tầng 20, sẽ quay lại
lấy sau. Bỏ ba lô xuống, hai người cảm thấy rất nhẹ nhõm, nói cười vui vẻ
tiếp tục leo cầu thang.
Khi leo đến tầng thứ 40, hai người đã rất mệt và bắt đầu oán thán chỉ trích
nhau. Người anh nói:
- Sao chú không đọc thông báo? Người em nói:
- Em quên mất, sao anh không nhắc em?
Cứ thế hai người cãi nhau cho đến tầng thứ 60.
Đến lúc này, hai người đã rất mệt nên chẳng buồn cãi nhau nữa, cho rằng
nên yên lặng mà leo cầu thang. Khi hoàn thành nốt 20 tầng cuối cùng và đến
cửa nhà mình, hai người nhìn nhau, cùng nhớ ra một việc: họ đã để quên chìa
khóa ở tầng 20, trong ba lô.
Thực ra ý nghĩa mà câu chuyện muốn đề cập chính là cuộc đời con người.
Chúng ta giả thiết đời người là 80 năm. Ban đầu ai cũng căng đầy nhựa
sống, chúng ta khoác hành trang rất nặng, trong hành trang là lý tưởng, là
hoài bão, là rất nhiều nguyện vọng.
Chúng ta không sợ gian nan hiểm trở, cất bước lên đường từ nấc thang đầu
tiên. Đến 20 tuổi, đây là lúc bước vào xã hội, bắt đầu thừa nhận các quy tắc,
cảm thấy xã hội trao cho chúng ta quá nhiều gánh nặng, chúng ta tự phấn đấu
đã đủ mệt, hơi đâu mà gánh nhiều lý tưởng đến vậy? Hãy gác nó sang một
bên, đến khi không còn lo chuyện cơm áo, có danh phận địa vị trong xã hội
rồi quay lại thực hiện lý tưởng cũng không muộn. Sau khi trút bỏ, bỗng chốc
ta thấy rất nhẹ nhõm và lại tiếp tục tiến lên.
Khi ngày càng trưởng thành, tích lũy được ngày càng nhiều kinh nghiệm,
đấu tranh ngày càng gay gắt, trong lòng ngày càng lo lắng thì người ta không
khỏi oán thán. Đây chính là lúc hai anh em chỉ trích nhau, đều cảm thấy xã
hội phụ lòng mình, đều cảm thấy mình đã cho đi quá nhiều mà nhận lại quá
ít, trở nên do dự và bắt đầu vừa đi vừa cãi cọ nhau.
Đến 40 tuổi, tức là lúc "niên cận bất hoặc" (đến tuổi gần như không còn gì
nghi hoặc), mọi thứ sôi nổi đều đã qua đi, người ta bắt đầu trở nên mệt mỏi,
phải dìu nhau mà đi.
Đi đến 60 tuổi, cảm thấy tuổi già đẹp đẽ, cần phải trân trọng, chúng ta cần
phải bình tĩnh lại, đừng oán thán nhau nữa. Lúc này nói như Khổng Tử là lúc
"nhi nhĩ thuận", tức lòng đã thuận theo, bớt đi rất nhiều chỉ trích, cuối cùng
bước đến 80 tuổi.
Đứng ở điểm cuối cùng này, bất chợt ta cảm thấy mất mát một điều gì,
nhớ ra những thứ trong hành trang tuổi đôi mươi, đó chính là mơ ước mà
mình vẫn chưa có dịp mở ra, chưa bao giờ thực hiện, chưa bao giờ đi theo
mình, vậy mà trong chớp mắt đã đi hết cuộc đời. Thế nhưng tuổi đôi mươi
không bao giờ trở lại, đó là một con đường không thể quay đầu.
Đó chính là một câu chuyện ngụ ngôn rất có ý nghĩa về cuộc đời.
Cuộc đời con người có thể nhắc nhở chúng ta: nên đối mặt với sự sinh tử
bằng thái độ như thế nào?
Trang Tử sở dĩ có thể cười nói bàn về sinh tử là bởi ông đã ngộ ra được
chân đế của sinh tử. Giữa sinh và tử chẳng qua chỉ là một sự chuyển biến
hình thái.
Trang Tử sở dĩ khoáng đạt với sinh tử là bởi ông xuôi thuận theo cuộc
sống. Cuộc sống xưa nay ai không phải chết, vậy thì chết có gì đáng sợ, có gì
đáng buồn?
Trong thiên Đại tông sư, Trang Tử kể một câu chuyện như sau:
Tử Tang Hộ, Mạnh Tử Phản, Tử Cầm Trương đều là những nhà Nho ở ẩn.
Ba người rất hiểu ý nhau, quên sinh tử, chơi với nhau, trở thành bạn rất thân.
Sau đó thì sao? Tử Tang Hộ chết trước. Khổng Tử nghe nói, bèn sai học
trò Tử Cống đến giúp lo việc ma chay. Lúc đến nơi, Tử Cống thấy Tử Cầm
Trương và Mạnh Tử Phản người đang soạn bài hát điếu, người đang khảy
đàn, hát trước thi thể Tử Tang Hộ. Họ hát rằng: Tử Tang Hộ ơi Tử Tang Hộ,
giờ ông đã về với bản chân, còn chúng tôi vẫn gửi mình chốn nhân gian.
Tử Cống rất lấy làm lạ, hỏi:
- Ba người như anh em thủ túc, một người đi trước, vậy mà hai thầy lại hát
trước thi thể người ấy, thế có hợp với lễ không?
Tử Cầm Trương và Mạnh Tử Phản nhìn nhau cười đáp:
- Hắn làm sao hiểu được chân ý của lễ? Tử Cống trở về, hỏi Khổng Tử:
- Rốt cuộc họ là người như thế nào? Họ có ý gì? Khổng Tử đáp:
- Họ đều là những người tâm du ngoài thế giới, còn ta là một người câu nệ
thế tục. Sao ta lại còn sai con đi giúp họ lo tang sự nữa chứ? Đó là sơ suất của
ta. Những người này trong quan niệm của họ đã không còn biên giới giữa
sinh và tử, họ đã cùng hoàn thành một chuyến tiêu dao giữa tinh thần và trời
đất. Có hình hài cơ thể hay không đã không còn quan trọng đối với họ. Bởi
vậy một người bạn ra đi, hai người còn lại bình thản như tiễn người đó đi xa
vậy.
Câu chuyện này cho thấy một điều, trong cuộc sống, mỗi người đều có thể
sống với những hình thái khác nhau.
Trong cuộc sống, mỗi người đều có thể sống với những hình thái khác
nhau.
Trong thiên Đại tông sư, Trang Tử còn kể một câu chuyện như sau:
Tử Lai mắc bệnh, có vẻ không còn sống được bao lâu nữa. Tử Lê đến
thăm, thấy vợ con Tử Lai vây quanh khóc lóc. Tử Lê vội bảo họ:
- Các người tránh ra, đừng làm phiền một người sắp có biến đổi lớn như
vậy.
Tử Lê tựa vào cửa, bảo Tử Lai:
- Tạo vật vĩ đại sau này còn biến ông thành cái gì nữa? Biến ông thành gan
chuột hay là cánh tay của côn trùng?
Tử Lai thở dài một tiếng, đáp:
- Trời đất cho ta hình hài, cho ta sống để lao nhọc, cho ta già để an nhàn,
cho ta chết để an nghỉ.
Câu nói này đã cho thấy lịch trình của cuộc sống: Trời đất tạo hóa đã tạo
ra sinh mệnh ta, ban cho ta một hình thể. Lúc ta mới đến thế giới, có sinh
mệnh này là ta phải hoàn thành sự xã hội hóa của sinh mệnh, phải đi xuyên
suốt cuộc sống. Do đó cuộc sống của con người không ai không phải chịu
khổ, cả cuộc đời phải trải qua rất nhiều gian nan. Về già, cuối cùng ta đã có
thể an hưởng tuổi già. Thế nhưng, sự nghỉ ngơi lúc tuổi già này cũng chỉ có
hạn, sự sắp xếp cuối cùng dành cho ta là cái chết, dùng cái chết để dành cho
ta sự nghỉ ngơi lớn nhất. Đó chính là cuộc đời của ta. Do đó, Tử Lai nói:
- Ta tin rằng trời đất đối xử tốt với sự sống của ta thì chắc chắn cũng sẽ
đối xử tốt với cái chết của ta, ta được sắp xếp đến thế gian này như thế nào
thì cũng sẽ thanh thản ra đi như thế ấy.
Nói xong, Tử Lai bình thản nhắm mắt ngủ. Ngủ được một giấc, tỉnh lại thì
thấy bệnh trong người đã khỏi hẳn, Tử Lai đã sống lại.
Đây là một câu chuyện ngụ ngôn. Thực ra khi nội tâm con người đã thấu
suốt về sự sống thì có lẽ cái chết chỉ là một sự kéo dài của sự sống. Cái chết
đã bị vượt qua từ lâu.
Trong thiên Dưỡng sinh chủ, Trang Tử có câu: "Chỉ cùng vu vi tân, vi
truyền dã, bất tri kỳ tận dã" (Dầu mỡ cháy trên củi, dầu mỡ cháy hết, củi đã
cháy hết, nhưng ngọn lửa có thể lan truyền mãi, không bao giờ tắt).
Cơ thể của con người, sinh mệnh của con người có thể tiêu hao hết, nhưng
tư tưởng của con người vẫn có thể lưu truyền. Đối với Trang Tử, sự lưu
truyền của tư tưởng quan trọng hơn sinh mệnh rất nhiều.
Cơ thể của con người, sinh mệnh của con người có thể tiêu hao hết, nhưng
tư tưởng của con người vẫn có thể lưu truyền.
Ngày nay, tuổi thọ con người được kéo dài hơn hẳn người xưa. Nhưng nỗi
sợ trước cái chết, nỗi lưu luyến với sự sống cũng hơn hẳn người xưa. Phải nói
rằng cuộc sống ngày nay có quá nhiều sự riêng tư, có quá nhiều sự dính líu,
có quá nhiều việc khiến ta không thể làm ngơ.
Và Trang Tử đã kể những câu chuyện về sự sinh tử của chính mình, của
người thân, của bạn bè, quan niệm về sinh tử của ông hoàn toàn khác với
người nay. Trong sự sống mà ông đã xuyên suốt này, điều ông coi trọng là
ánh lửa chứ không phải là độ dài của ngọn lửa.
Khổng Tử từng nói: Tri sinh, yên tri tử. Có nghĩa là muốn biết chết thì
trước hết phải biết sống. Mỗi người hiểu về cuộc sống mỗi khác, quan điểm
về sự vật cũng hoàn toàn khác nhau. Chúng ta từng nhận thấy, dù trong cùng
một môi trường xã hội, trong cùng một sự việc, những người khác nhau có
khi sẽ có quan điểm hoàn toàn khác nhau. Tại sao lại như vậy?
Có một câu chuyện như sau:
Ba người đi qua một góc tường, nhìn thấy cùng một cảnh tượng: Một con
nhện đang bò trên tường, đang bò thì thấy phía trước có một vệt nước mưa.
Con nhện vừa bò đến chỗ ướt là bị rơi xuống, sau đó nó lại bắt đầu bò lên từ
góc tường, lại bò đến chỗ ướt mưa đó và lại rơi xuống. Cứ thế bò lên rồi rơi
xuống.
Ba người thấy cảnh tượng này đều liên tưởng đến cuộc đời mình.
Người thứ nhất nghĩ: Mình thấy con nhện này giống như nhìn thấy chính
mình. Mình cũng giống hệt nó, cả đời cứ bò lên lại rơi xuống. Cuộc đời con
người bận rộn hối hả, làm đi làm lại những việc vô ích.
Người thứ hai nghĩ: Mình nhìn con nhện này bò như vậy mới biết cuộc đời
thật ra có rất nhiều sai lầm. Chúng ta chỉ nhìn thấy trước mắt, tưởng là chỉ có
một con đường, thực ra chỗ ẩm ướt không lớn. Nếu con nhện biết vòng ngang
qua chỗ ẩm ướt đó thì nó sẽ nhanh chóng bò lên cao theo chỗ tường khô. Do
đó, đôi khi đi đường vòng lại là thông minh.
Người thứ ba nhìn thấy con nhện thì rất cảm động: Một con nhện mà còn
biết kiên cường bất khuất như thế, vậy thì một con người cả đời có bao nhiêu
năng lượng chưa được khơi dậy? Có bao nhiêu điều kỳ diệu có thể xuất hiện?
Tất cả những điều đó đều ẩn chứa trong cuộc sống của mình.
Một cảnh tượng nhỏ nhưng mỗi người lại rút ra một kết luận khác nhau,
cảm nhận cuộc sống khác nhau.
Tôi từng đọc được một câu chuyện như sau:
Một tú tài đi thi. Đi thi là một việc hệ trọng trong đời đối với bất kỳ thư
sinh nào. Viên tú tài này lòng rất thấp thỏm, luôn lo lắng không biết mình sẽ
thi như thế nào, sẽ có kết quả ra sao.
Trước hôm thi một ngày, anh có ba giấc mơ rất kỳ dị: Giấc mơ thứ nhất,
anh mơ thấy mình trồng cải trắng (cải bắp thảo) trên đầu tường. Giấc mơ thứ
hai, anh mơ thấy mình đi ra ngoài lúc trời mưa, mang theo một chiếc áo mưa
và một cây dù. Giấc mơ thứ ba, anh mơ thấy mình nằm cùng giường nhưng
quay lưng lại với người con gái mình yêu.
Chàng tú tài tỉnh dậy, cảm thấy ba giấc mơ đều rất khác thường. Ngày
hôm sau là thi rồi, thế là trong ngày hôm đó anh đi tìm một người giỏi đoán
mộng. Người này nghe kể xong, nói:
- Cuộc đời của anh rất ảm đạm. Anh trồng cải trắng trên đầu tường, như
vậy chẳng phải là cố gắng uổng công sao? Anh đã có áo mưa còn mang theo
dù, đó chẳng phải là dư thừa vẽ vời sao? Anh nằm cùng giường với người
con gái mình yêu nhưng lại quay lưng lại, đó chẳng phải là vô duyên với
nhau sao? Anh đừng nên đi thi nữa, hãy thu dọn hành lý và về đi.
Tú tài nghe xong quay về thu dọn hành lý, chuẩn bị về nhà.
Lúc ấy ông chủ quán trọ hỏi:
- Sao cậu chưa thi đã bỏ về?
Chàng tú tài kể lại sự tình cho ông nghe. Ông chủ nói: Ấy, tôi cũng biết
đoán mộng đấy. Tôi thấy ba giấc mơ của cậu rất tốt. Cậu trồng cải trắng trên
đầu tường đó là đậu cao. Cậu đã mang áo mưa, lại còn mang theo dù, đó gọi
là có sự chuẩn bị chu đáo. Cậu đã nằm chung một giường với người mình
yêu, điều đó có nghĩa là cậu chỉ cần xoay người lại là đạt được ước nguyện.
Nghe giải thích của ông chủ quán trọ, chàng tú tài thêm phần tự tin, ngày
hôm sau đi thi, kết quả là đậu cao.
Đây cũng là một cách giải mã cuộc sống.
Có thể trong rất nhiều lựa chọn, không có ai đoán mộng cho chúng ta.
Chúng ta chỉ còn cách hỏi chính mình: Mình đang ở giai đoạn nào? Lúc này
mình cần phải quyết đoán như thế nào?
Nho gia và Đạo gia hoàn toàn khác nhau về quan niệm sinh tử. Nho gia
theo đuổi "sát sinh nhi thủ nghĩa" (có thể lấy cái chết của mình để bảo vệ
nghĩa lớn), còn Đạo gia thì nhấn mạnh "bất tri thuyết sinh, bất tri ố tử"
(không thích sự sống cũng không sợ cái chết). Nhưng điểm chung của hai
quan niệm chính là làm cho cuộc sống trở nên có giá trị.
Vậy cuộc sống như thế nào là có giá trị?
Trong thiên Đại tông sư, Trang Tử ca ngợi con người chân chính. Người
chân chính mà ông mô tả là người như thế nào?
Trang Tử nói: "Bậc chân nhân thuở xưa không ham sống, cũng không biết
sợ cái chết. Ra đời cũng không thấy mừng, chết đi cũng không từ chối. Tự do
tự tại đến với cõi đời, ra đi cũng tự do tự tại. Họ không hề quên mình từ đâu
đến, cũng không cố tìm hiểu nơi mình sẽ đến. Có việc thì vui vẻ đón nhận,
quên cả sống chết, trở về với tự nhiên. Họ hoàn toàn không vì ham muốn
trong lòng mà phá hoại đạo trời, cũng không có ý làm điều gì để phụ cho đạo
trời".
Trang Tử lại nói: "Những con người chân chính này đều là những người
có dung mạo điềm tĩnh thản nhiên, trong lòng có thể quên hết tất cả. Sự mừng
giận buồn vui tương thông với bốn mùa, có thể thản nhiên ứng phó với bất kỳ
sự việc nào trong cuộc sống".
Trang Tử mượn những con người chân chính để bày tỏ một thái độ đối với
cái chết, đó là không sợ chết và cũng không bao giờ đi tìm cái chết.
Thái độ của Trang Tử đối với sinh mệnh là không sợ chết và cũng không
bao giờ đi tìm cái chết.
Quan điểm này có khác biệt đôi chút với tư tưởng Nho gia. Nho gia nói
rằng kẻ sĩ có thể "sát sinh nhi thủ nghĩa", tức là có thể lấy cái chết của mình
để bảo vệ nghĩa lớn.
Trong dòng chảy cuộc sống, Nho gia và Đạo gia biểu hiện hai thái độ khác
nhau. Tư thế của Nho gia là liệt sĩ, tư thế của Đạo gia là ẩn sĩ; tư thế của Nho
gia là tranh đấu với thời gian nhằm giành giật thời gian hữu hạn để xây dựng,
còn thái độ của Đạo gia là thuận theo dòng chảy thời gian để nắm lấy từng
giây phút, để vui sống.
Điểm chung của hai nhân sinh quan này là gì? Đó chính là làm cho cuộc
sống trở nên có giá trị.
Nhưng sự phán đoán về giá trị cuộc sống lại không bao giờ giống nhau.
Có người chỉ mong được lưu danh sử sách, coi trọng sự thành đạt trong xã
hội, dù phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình cũng quyết phải lập nên
công trạng. Cũng có người chỉ coi trọng sự hoàn thiện, yên ổn trong lòng
mình cũng như sự hoàn thiện về đạo đức của chính mình.
Nếu là trường hợp thứ nhất, con người sẽ có nhiều tâm lý tranh đấu trước
cuộc sống, còn trường hợp sau thì tâm lý thanh thản hơn. Thực ra đó chính là
thái độ khác nhau thể hiện sự tác động của Nho và Đạo đến nội tâm chúng ta.
Kỳ thực, khi đối diện sinh tử, người Trung Quốc thường thể hiện hai thái
độ khác nhau, một thái độ với đại diện là Khuất Nguyên, một thái độ với đại
diện là Tư Mã Thiên.
Khuất Nguyên nhảy xuống sông tự tận, ông lựa chọn một phương thức hết
sức quyết liệt. Tại sao?
Khuất Nguyên sinh trong thời loạn Chiến Quốc, là quý tộc cùng họ với
vua Sở, là một bậc sĩ phu. Khi kinh đô nước Sở là Dĩnh Đô bị tấn công, trước
họa mất nước mà thân mình lại bị vua đày ra lưu lạc bên ngoài, cho dù có thể
đến sống ở rất nhiều nước khác nhưng ông biết rằng tông miếu và đất nước
của mình không bao giờ còn khôi phục lại như trước được nữa. Kết cục tốt
nhất dành cho ông là trở về với tất cả những gì cao đẹp bằng chính cái chết
của mình.
Cái chết của Khuất Nguyên vừa là vì nước, nhưng cũng là một sự bất đắc
dĩ. Nói theo lời Quách Mạt Nhược thì ông bị giằng xé giữa lý tưởng tốt đẹp
của mình và hiện thực không thể thực hiện được lý tưởng đó. Bởi vậy con
người ấy buộc phải xử lý sự sống của mình theo một cách bi thảm và quyết
liệt như vậy.
Nhưng trước sinh tử, Tư Mã Thiên lại chọn một phương cách khác, ông đã
nhìn thấy sự việc còn quan trọng hơn cả sinh tử lẫn danh tiết.
Tư Mã Thiên có một bức thư nổi tiếng viết cho người bạn thân Nhậm An
gọi là Báo Nhậm An thư (Thư gửi Nhậm An), bức thư đã thể hiện toàn bộ
thái độ của ông đối với sinh tử.
Trong thư, Tư Mã Thiên đã kể lại toàn bộ quá trình vào ngục và thọ hình
của mình. Ông nói rằng mình rất oan ức, bị vu hãm vào tội danh "mạc tu
hữu" (không nên có), văn võ trong triều không ai bênh vực ông. Trước tình
hình này, đương nhiên ông có thể chọn cái chết để bảo vệ lòng tự trọng của
mình.
Nhưng ông không làm như vậy. Ông đã chấp nhận nỗi sỉ nhục khó chấp
nhận nhất đối với một người đàn ông: cung hình, tức là hình phạt cắt đi bộ
phận sinh dục.
Tại sao ông lại nhẫn nhục để được sống như vậy? Bởi ông còn một việc
lớn hơn phải hoàn thành, đó là nghiên cứu ranh giới giữa trời và người, thông
hiểu sự biến đổi cổ kim, từ đó hình thành nên bộ Sử ký lừng danh.
Khi giao trọng trách của một nhà sử học cho con, cha ông là Tư Mã Đàm
từng nói, sau khi Chu Công qua đời 500 năm thì có Khổng Tử, Khổng Tử qua
đời đã 500 năm đến nay vẫn chưa có ai có thể "thiệu minh thế", "tục Xuân
Thu", ghi chép lại các việc xảy ra ở thời đại này để lưu truyền sử sách. Bởi
vậy trước khi qua đời, Tư Mã Đàm đã giao trọng trách biên soạn Sử ký cho
Tư Mã Thiên. Vì thế Tư Mã Thiên nói, thái độ của ông là "con trẻ nào dám lơ
là". "Thiên giáng đại nhiệm vu tư nhân" (trời giao trọng trách cho con người
ấy), có một trách nhiệm lớn như vậy thì thà chịu nhục chứ quyết không thể
chết, đó chính là thái độ của Tư Mã Thiên.
Thực ra thái độ đó phản chiếu một thái độ sống mà
Trang Tử đã nói với chúng ta.
Thái độ của Trang Tử đối với sự sống là, thứ nhất không sợ chết, thứ hai
không bao giờ tự tìm cái chết.
Nhưng trong đời sống thực tế, có nhiều người gặp trắc trở hoặc chịu áp
lực lớn nên chọn cách quyên sinh.
Nguyên nhân nào đã khiến họ sợ thách thức trong cuộc sống đến như vậy?
Hiện nay sinh viên đại học chịu một sức ép rất lớn, tâm tình rất nặng nề,
trong thời đại con một này, số trẻ tự vẫn ngày một gia tăng. Trong một số
trường đại học, thống kê theo độ tuổi, tỷ lệ tự sát của sinh viên, thạc sĩ, tiến sĩ
không hề thấp.
Có một vài nguyên nhân, trong đó nổi bật nhất là vấn đề tình cảm, tình
yêu không xử lý tốt, cảm thấy cuộc sống vô vọng nên chết vì tình. Nguyên
nhân thứ hai là không tìm được công việc tốt, cho rằng từ nhỏ mình đã giỏi
giang, được học trường tốt, vậy mà xã hội vẫn không chấp nhận mình nên
phẫn uất tự tử. Nguyên nhân thứ ba, cảm thấy áp lực học hành quá lớn, quá
khó chịu nên cuộc sống không còn niềm vui.
Theo câu chuyện ngụ ngôn đã đề cập ở trên thì khi bước đến tầng thứ 20
của cao ốc cuộc đời, những đứa trẻ xem nhẹ cái chết này lao xuống dưới lầu
cùng với toàn bộ hành lý trên lưng. Lý tưởng của chúng chưa mở ra, thậm chí
cũng chưa kịp đặt xuống thì đã bị quăng xuống đất vỡ vụn.
Phần lớn trong số chúng là con một, từ nhỏ đã sống trong môi trường của
một ông vua con; ông bà nội ngoại, cha mẹ đều chăm chăm lo cho nó. Gia
đình đó là một kim tự tháp, đứa trẻ luôn ở trên đỉnh. Đứa trẻ lớn lên như vậy
thì trách sao nó không coi mình là nhất?
Thế nhưng xã hội cũng là một kim tự tháp, mỗi công dân vừa bước vào xã
hội thì phải ở vị trí bệ móng của kim tự tháp.
Vấn đề là những đứa trẻ con một bước ra từ đỉnh kim tự tháp gia đình lại
không chịu làm bệ móng cho kim tự tháp xã hội. Khi không chấp nhận điều
đó thì chúng không chỉ đơn giản là đối mặt với sự mất cân bằng tâm lý, mà
còn đến mức cực đoan là dễ dàng lựa chọn cái chết. Đây là cách xử lý vô
cùng hời hợt đối với sự sống, bắt nguồn từ sự mất cân bằng tâm lý dưới muôn
vàn áp lực của con người ngày nay.
Hình thức tự tử ngày nay có hai dạng, một là lối tự tử rõ ràng, tức là dứt
khoát quăng mình xuống từ lầu cao giống như quăng một chiếc áo rách.
Cách thứ hai là tự tử ngầm, nghĩa là buông thả bản thân. Họ không thiết
tha tiến thủ trong công việc, không dành hết tình cảm đối với người thân
trong gia đình, vô cùng hời hợt trong quan hệ bạn bè. Họ trở thành những cái
xác biết đi. Sự sống trong cơ thể họ chưa mất nhưng tâm hồn họ thì đã chết từ
lâu.
Bàn luận về đề tài sinh tử nghe có vẻ xa xôi, nhưng kỳ thực nó là một vấn
đề sát sườn của chúng ta.
Trong cơ thể của chúng ta thực sự có bao nhiêu sợi cơ đang sống? Trong
tâm hồn chúng ta còn có bao nhiêu ước mơ đang ấp ủ? Tương lai của chúng
ta có bao nhiêu hy vọng? Câu trả lời ở mỗi người mỗi khác.
Bởi vậy, mang theo ước mơ ban đầu trong lòng để vượt qua giới hạn sinh
tử bằng sự khoáng đạt của Trang Tử, ngày nay có lẽ điều đó bức thiết hơn
thời Trang Tử còn sống. Thời Trang Tử vật chất còn nghèo, con người ta có
quá ít sự lựa chọn nên sống là một nguyện vọng đơn thuần.
Sự lựa chọn nhiều quá khiến con người càng thêm mệt mỏi.
Còn ngày nay con người có thể quá giàu có, nhưng không biết chịu đựng
trong sự mê hoặc của sự lựa chọn. Có nghĩa là sự lựa chọn nhiều quá khiến
con người càng thêm mệt mỏi.
Vì thế hiện nay lựa chọn giữa sinh và tử không chỉ là sự lựa chọn từ bên
ngoài, mà quan trọng hơn là giữ cho những "sinh mệnh" có giá trị trong tâm
hồn mình sống thực sự.
Sách Trang Tử thoạt xem có vẻ giống như những "mậu du chi thuyết,
hoang đường chi ngôn, vô đoan nhai chi từ" (thuyết sai lầm, lời hoang đường,
từ ngữ vô cớ), nhưng nếu thực sự liên hệ tư tưởng của ông với trạng thái của
chính chúng ta, bạn sẽ nhận thấy mỗi câu chuyện của ông đều rất gần gũi với
lòng người.
Thực ra chúng ta có thể sống vui với hiện tại, biết thuận theo và sống tốt
từng giây từng phút trong đời mình, để khi thực sự đến giới hạn của sinh tử,
chúng ta có thể thản nhiên mỉm cười và nói: Ta không có gì ân hận ở cuộc
đời này.
Đây là cảnh giới mà mỗi người bình thường chúng ta đều có thể đạt đến,
cũng là thông điệp mà Trang Tử gửi đến cho chúng ta ngày nay.
CHƯƠNG 7
KIÊN TRÌ VÀ THUẬN THEO

Mỗi người là một cá thể độc lập nhưng đồng thời cũng là một thành viên
trong xã hội. Trang Tử cho rằng con người cần giữ được bẩm tính của mình
chứ đừng buông trôi theo thế sự.
Tuy nhiên, muốn đối mặt với thế giới thì phải hiểu biết và thuận theo
ngoại cảnh. Vậy, làm thế nào chúng ta có thể vừa kiên trì giữ mình vừa thuận
theo ngoại cảnh?
Trang Tử đã thác lời Khổng Tử trong thiên Tri bắc du:
"Trọng Ni viết: cổ chi nhân ngoại hóa nhi nội bất hóa, kim chi nhân nội
hóa nhi ngoại bất hóa".
Câu nói này nên được hiểu như thế nào?
"Ngoại hóa nhi nội bất hóa" nghĩa là: bề ngoài biến đổi theo sự vật, còn
trong lòng thì có sự kiên trì, không thay đổi.
Con người sống trong xã hội thì cần phải biết thuận theo quy tắc, tuân thủ
pháp luật, giao tiếp uyển chuyển với người khác, tất cả những điều đó chúng
ta gọi là "ngoại hóa". Thế nhưng con người ta sở dĩ là chính mình, có giá trị
riêng, phong cách riêng, tư tưởng suy nghĩ riêng, là bởi trong lòng còn có sự
"bất hóa" (không thay đổi) của riêng mình.
Chúng ta đã thật sự làm được điều này chưa? Vấn đề này ngày càng trở
nên quan trọng đối với chúng ta.
Bước vào thời đại thông tin, thế giới bao la bên ngoài chúng ta thay đổi
hàng ngày hàng giờ. Tình huống mới xuất hiện, quy tắc mới đặt ra mỗi ngày
đều là một thước đo mới, tọa độ mới đối với mỗi người. Vậy chúng ta nên
hoài cổ, thủ cựu hay là điều chỉnh bản thân theo thời đại?
Chí nhân không có chính mình, thần nhân không có công tích, thánh nhân
không có danh tiếng.
- Tiêu dao du -
"Ngoại hóa nhi nội bất hóa" có nghĩa là trước thế giới bên ngoài thì phải
hiểu và thuận theo; còn trong lòng thì phải giữ vững bẩm tính của mình chứ
không được tùy tiện thay đổi, để trôi theo sóng.
Tại sao chúng ta phải hiểu và thuận theo thế giới bên ngoài?
Trong muôn vàn chúng sinh và thế giới bao la, có quá nhiều điều bất đắc
dĩ mà chúng ta không thể chi phối. Ai cũng có thể gặp nguy hiểm trong thế
giới này, ai cũng có thể phải đối mặt với khó khăn, ai cũng có thể gặp một
thử thách nội tâm trong một biến cố đột ngột.
Chúng ta có thể đạt đến tầm không sợ hãi bất chấp mọi thứ biến đổi
không?
Trong thiên Thu thủy, Trang Tử kể một câu chuyện như sau:
Nhân vật chính của câu chuyện này vẫn được gán cho Khổng Tử. Khổng
Tử có lần đang chu du đất Khuông thuộc nước Vệ, bất chợt bị người nước Vệ
bao vây, người vòng trong vòng ngoài vây kín ông. Khổng Tử ngồi đó, ca
hát, khảy đàn mà không nói gì.
Lúc ấy, học trò ông là Tử Lộ hớt hải chạy đến, thấy thầy như vậy vội hỏi:
- Sao thầy còn vui như vậy được? Bên ngoài người ta đã đánh đến, tính
mạng sắp lâm nguy, sao thầy còn có tâm tư vui vẻ?
Khổng Tử bình thản đáp:
- Con lại đây, ta sẽ cho con biết ta nghĩ như thế nào. Ngài nói:
- Này Tử Lộ, con hãy nhìn ta đây, đạo hạnh của ta rơi vào cảnh khốn cùng
đã từ rất lâu. Tại sao lại như vậy? Đó là mệnh của ta. Từ lâu ta muốn đạo
hạnh của ta thông đạt, nhưng chưa được. Tại sao vậy? Là bởi thời vận không
tốt. Vào thời Nghiêu Thuấn, chính trị thanh bình, thiên hạ không có người bất
đắc chí, không phải là vì trí tuệ họ cao siêu; trong thời Kiệt Trụ, hôn quân vô
đạo, thiên hạ không có người đắc chí, cũng không phải là bởi tài năng họ thấp
kém. Tất cả đều là do thời thế tạo nên vậy!
Trên đời có rất nhiều sự dũng cảm khác nhau, một người đi dưới nước
không tránh giao long (cá sấu), ấy là sự dũng cảm của ngư phủ; một người đi
trên đất liền không tránh tê ngưu mãnh hổ, ấy là lòng dũng cảm của thợ săn;
một người không sợ chết trong ánh thép giao chiến, ấy là lòng dũng cảm của
liệt sĩ. Biết đạo cùng thông là do thiên mệnh thời vận, gặp nạn lớn mà không
sợ hãi, ấy là cái dũng của bậc thánh nhân.
Cuối cùng, ông an ủi Tử Lộ:
- Con hãy bớt lo lắng nóng vội, ta biết mệnh ta có số mà.
Một lát sau, quả nhiên có một vị tướng mang binh khí đến, nói với Khổng
Tử: Xin lỗi ngài, chúng tôi đã nhầm người, người chúng tôi muốn bao vây là
một người tên là Dương Hổ. (Sách Luận ngữ chép chuyện này, nói rằng
Dương Hổ có tướng mạo giống hệt Khổng Tử). Nay biết ngài không phải là
Dương Hổ, chúng tôi xin ngài thứ lỗi. Sau đó bèn lui binh.
Trong thiên Thu thủy, tại sao Trang Tử lại dẫn ra câu chuyện này? Ông
muốn cho mọi người biết rằng, chỉ khi cái tâm yên tĩnh thì khí chất dũng cảm
mới thể hiện ra ngoài, vẫn có thể không sợ hãi dù mọi thứ xung quanh không
ngừng biến đổi.
Chỉ khi cái tâm yên tĩnh, dũng cảm thì khí chất dũng cảm mới thể hiện ra
ngoài, vẫn có thể không sợ hãi dù mọi thứ xung quanh không ngừng biến đổi.
Đó chính là sự kiên định trong lòng, tức là "nội bất hóa". Ngày nay chúng
ta quá dễ bị chi phối bởi những lời bàn tán bên ngoài. Trong một thời đại
phong phú vật chất như thế này, chỉ cần có bảy tám người cùng bán tán thì sẽ
rất dễ dàng thay đổi suy nghĩ của một người.
Tôi từng đọc được một câu chuyện nhỏ như sau: Hai người bạn trò
chuyện, một người nói:
- Hôm nay anh treo một cái lồng chim không trong nhà, vài ngày sau thì
anh sẽ buộc phải nuôi chim.
Người kia trả lời:
- Không thể nào. Treo lồng chim và nuôi chim là hai chuyện hoàn toàn
khác nhau.
Người bạn nói:
- Vậy chúng ta đánh cuộc, anh treo lồng chim không trong nhà thử xem.
Và người bạn nọ quyết định thử treo một cái lồng chim trong nhà. Từ khi
treo lồng chim, khách đến nhà anh đều bất giác ngó lồng chim một cái rồi
hỏi: Chim của anh bị chết hay là sổ lồng bay mất? Lúc đầu anh nuôi chim gì?
Hay là để tôi biếu anh một con!
Người này đành phải giải thích. Ngày hôm sau, lại có khách đến nói:
- Sao anh lại để cái lồng không thế này, chắc là anh đau lòng lắm phải
không? Con chim của anh đã chết bao lâu rồi? Phải chăng anh không biết
nuôi chim? Để tôi mua tặng anh một cuốn sách nuôi chim nhé.
Đến ngày thứ ba, có người bắt đầu mang chim đến, nói:
- Tôi thấy lồng trống, chắc là chim đã chết, tiếc quá. Tôi biếu anh một con
vậy, ngoài ra còn có thức ăn cho chim, để tôi chỉ anh cách nuôi.
Người mang chim, người mang thức ăn, người mang sách đến tặng khiến
chủ nhân vô cùng bực bội.
Chưa được một tuần, anh ta tặc lưỡi: Thôi đành, mình nuôi lấy một con
kẻo suốt ngày bị người ta hỏi. Bởi vậy chiếc lồng đó thực sự đã có chim.
Đó có phải là một câu chuyện ngụ ngôn không? Nó rất giống cuộc sống
của chúng ta.
Khi còn trẻ, trong lòng chúng ta vẫn còn sự kiên định. Nhưng cuộc sống
thường nhật luôn thử thách chúng ta, thế giới bên ngoài luôn tìm mọi cách để
thay đổi chúng ta. Nhiều người trong chúng ta cuối cùng cũng giống như anh
chàng trong câu chuyện trên, phải nuôi một con chim trong lồng trống dù
lòng mình không muốn. Đó là bởi khả năng "nội bất hóa" của chúng ta quá
yếu.
"Nội bất hóa" mà Trang Tử nói ở đây nghĩa là bất kể thế giới bên ngoài
thay đổi như thế nào, nội tâm một con người cũng không chịu tác động mà
nhất định phải có một sự kiên trì.
"Ngoại hóa" mà Trang Tử nói nghĩa là khi ứng xử với ngoại giới phải biết
thông đạt, phải làm cho hành vi của mình thuận ứng với xã hội.
Nhưng một người luôn siêu thoát như Trang Tử tại sao lại đề xướng thái
độ sống thuận theo thế giới bên ngoài?
Trong thiên Nhân gian thế, Trang Tử mượn lời Khổng Tử nói: Muôn sự
trong nhân gian có rất nhiều quy tắc, có hai thứ mà con người phải tuân thủ,
một là mệnh, hai là nghĩa, đó là "thiên hạ đại giới". Thế nào gọi là giới? Giới
là lề luật lớn nhất. Con cái kính trọng, tận hiếu với cha mẹ, đó là mệnh; mệnh
đã định phải làm như vậy. Bề tôi trung với vua, tận trung với nước, đó gọi là
nghĩa, là việc phải làm mà không phép tắc nào tránh được.
Trang Tử luôn đề xướng sự độc lập, ngao du trời đất, tâm du khắp nơi. Ở
đây, ông lại đề xướng tuân thủ "thiên hạ đại giới" là mệnh và nghĩa, có đôi
chút khác biệt so với tưởng tượng của chúng ta.
Thực ra trong thế giới ngày nay, có ai trong chúng ta có thể sống mà
không có mối quan hệ với người khác? Có ai trong chúng ta chỉ dựa vào sự
kiêu ngạo trong lòng, chỉ dựa vào sự kiên trì mà có thể an thân lập mệnh?
Có một câu chuyện như sau:
Có một sứ giả đi khảo sát thiên đường và địa ngục. Ông xuống đến địa
ngục thì thấy những người bị phạt, ai cũng bị đói đến nỗi mặt mày vàng vọt
ốm yếu, trông như quỷ đói, ngày nào cũng rất đau đớn, khổ sở. Phải chăng
địa ngục không cho họ thức ăn? Không phải, họ có thức ăn, nhưng vấn đề là
cái muỗng trong tay họ dài đến hơn một mét, mặc dù thức ăn ê hề nhưng họ
vẫn đói vì không thể nào cho được thức ăn vào miệng của mình.
Mọi người dìu dắt nhau thì
mới thực sự vui vẻ hòa đồng.
Sứ giả lại đến thiên đường. Ông thấy mọi người ở thiên đường đều hồng
hào béo tốt, tinh thần phấn khởi. Ông nhận thấy cuộc sống trên thiên đường
thật tuyệt diệu. Nhưng ông nhìn thấy một hiện tượng và rất lấy làm kinh
ngạc. Người ở đây ăn thức ăn không khác gì ở địa ngục, trong tay mỗi người
cũng là cái muỗng dài một mét.
Thế thì tại sao người trên thiên đường lại hòa thuận vui vẻ? Chỉ có một bí
mật, họ dùng muỗng đút cho nhau ăn, người này đút cho người kia. Còn ở địa
ngục thì người người chỉ muốn tự lấy thức ăn cho mình, bởi thế mà họ mãi
mãi chịu đói.
Thực ra đó chính là hình ảnh của chúng ta trong xã hội. Trong tay chúng
ta có thể đều cầm một cái muỗng dài, đó là phép tắc của xã hội, là nề nếp mà
xã hội áp đặt cho chúng ta và chúng ta buộc phải chấp nhận. Nếu chúng ta
biết thuận theo đó mà làm điều tốt cho nhau thì ai cũng được hạnh phúc.
Trang Tử đề xướng thuận theo thế giới bên ngoài. Đồng thời ông cho
rằng, khi xử thế, con người có một việc khó khăn hơn: giao tiếp ngôn ngữ.
Nói chuyện là công cụ cơ bản nhất trong giao tiếp xã hội của con người.
Vậy khi nói chuyện, chúng ta cần chú ý điều gì? Cái gì nên nói? Cái gì không
nên nói?
Nói chuyện là một việc rất khó, nói nhiều sẽ thành nói dại. Trang Tử vẫn
mượn lời Khổng Tử, nói: Việc ngoại giao giữa hai nước, nơi xa phải có sứ
giả truyền lời, nơi gần phải giao lưu bằng thư tín. Giữa hai nước, bất kể là
trao đổi bằng thư tín hay bằng lời nói cũng đều phải đáng tin cậy, đều phải
trung tín.
Những lời nào khó truyền nhất? Trang Tử nói: Lời khó truyền nhất là lời
nói hỉ nộ của vua hai nước. Những lời nói vui mừng của vua hai nước, người
truyền lời thường phải thêm vào những câu tốt đẹp; những lời nói tức giận
của vua hai nước, người truyền lời thường thêm thắt những câu không hay.
Ngôn từ thất thiệt không ai tin, người truyền lời sẽ tự chuốc lấy họa sát thân.
Vậy thì người truyền lời phải làm thế nào để lời nói không trở nên thất
thiệt? Phải truyền lời trung thực, đừng bao giờ thêm thắt. Bởi vậy ngôn ngữ
nhất định phải thật thận trọng.
Có một truyền thuyết như sau:
Tù trưởng một bộ lạc ở châu Phi muốn tìm một chàng trai trẻ giàu trí tuệ
để truyền lại chức vị. Ông hỏi một chàng trai mà ông ưng ý:
- Anh hãy làm cho ta hai bữa ăn. Bữa thứ nhất, anh tìm thức ngon nhất
trên đời về nấu cho ta.
Chàng trai nấu xong, bưng lên, mở nắp, tù trưởng thấy món ăn được làm
bằng lưỡi động vật. Ông hỏi:
- Sao anh lại chọn lưỡi động vật? Chàng trai đáp:
- Vì những lời nói hay nhất trên đời đều được nói ra, không còn thứ gì đẹp
hơn cái lưỡi.
Tù trưởng nói:
- Nói đúng lắm – rồi ăn cái lưỡi. Sau đó Tù trưởng nói tiếp:
- Bữa thứ hai, anh phải tìm thức khó ăn nhất trên đời, đem về đây nấu cho
ta ăn.
Chàng trai lại đi nấu. Tù trưởng mở vung ra, thấy vẫn là cái lưỡi.
Ông hỏi:
- Sao anh vẫn cho ta ăn lưỡi? Chàng trai đáp:
- Mọi tai họa trên đời đều do cái lưỡi gây ra, thứ xấu nhất trên đời chính là
cái lưỡi.
Tù trưởng nói:
- Hay lắm, anh đã hiểu rõ lẽ phải trên đời, bởi thế chức vị tù trưởng ta sẽ
truyền lại cho anh.
Nỗi bối rối lớn nhất của người hiện đại là làm thế nào để đối mặt với thế
giới bên ngoài thiên biến vạn hóa mà trong lòng không hề thay đổi.
Nếu chúng ta không có một sức mạnh nội tâm thì sẽ buông xuôi, đánh mất
chính mình; nhưng nếu tự làm theo ý thích, bất chấp tất cả thì sẽ không được
xã hội dung chứa.
Vậy thì làm thế nào để đạt được sự yên định trong lòng? Làm thế nào để
đạt đến cảnh giới kiên trì trong lòng và thuận theo bên ngoài như Trang Tử
đề xướng?
Trong thiên Đại tông sư, Trang Tử kể lại kinh nghiệm của một ông lão:
Ông lão nói: Ta hiểu về đạo. Muốn thấm nhuần đạo của thánh nhân thì
phải biết giữ vững. Sự giữ vững này có bảy giai đoạn: "Ngô do cáo nhi thủ
chi, tam nhật nhi hậu năng ngoại thiên hạ; dĩ ngoại thiên hạ hĩ, ngô hựu thủ
chi, thất nhật nhi hậu năng ngoại vật; dĩ ngoại vật hĩ, ngô hựu thủ chi, cửu
nhật nhi hậu năng ngoại sinh; dĩ ngoại sinh hĩ, nhi hậu năng triêu triệt; triêu
triệt nhi hậu năng kiến độc; kiến độc nhi hậu năng vô cổ kim; vô cổ kim nhi
hậu năng nhân vu bất tử bất sinh".
Bước thứ nhất là phải "ngoại thiên hạ", có nghĩa là quên đi mọi chuyện
quấy rối bạn trong thiên hạ. Thí dụ, sống trong nhà bạn có thấy thoải mái
không, ăn sơn hào hải vị có thấy ngon miệng không, tất cả những thứ đó đều
là việc ngoại thân, đừng để lòng vấn vương quá mức. Nếu bạn loại bỏ hết mọi
thứ bên ngoài, bao gồm quy tắc xã hội, quan hệ giao tế, v.v. ra khỏi lòng
mình, bạn sẽ xa rời thế sự, xa rời rất nhiều nề nếp phép tắc đã trói buộc bạn,
đó là bước thứ nhất.
Bước thứ hai gọi là "ngoại vật", tức là cố gắng tránh xa mọi thứ trong thế
giới vật chất. Thực ra "ngoại vật" không hề dễ dàng. Thí dụ, ham muốn ăn
uống của con người, muốn thật sự quên đi thì rất khó. Hiện nay rất nhiều
người bị ngộ độc vì ăn cá nóc, vì hương vị thơm ngon của thịt cá nóc mà họ
bất chấp sinh mạng mình. Những người mạo hiểm này có nghĩ đến nỗi lo của
người thân hay không? Có từng nghĩ đến giá trị cuộc sống của mình không?
Có nghĩ đến ngày mai mình còn những việc gì để làm hay không? Họ như
vậy nghĩa là chưa đạt đến tầm "ngoại vật". Bởi vậy Trang Tử nói, ngoại vật là
bước thứ hai, lấy hết mọi thứ thuộc về vật chất ra khỏi tâm hồn bạn.
Bước thứ ba, hơi khó một chút, gọi là "ngoại sinh", tức là vượt qua sinh
tử. Vượt qua sinh tử không phải là không coi trọng sự sống, mà là thuận theo
quy luật tự nhiên, ung dung tự tại, chất phác hoan hỉ, sống trong hiện tại,
hưởng thụ từng thời khắc trong cuộc sống, an lành đi hết quãng đời.
Bước thứ tư, con người sắp triệt ngộ thì gọi là "triêu triệt", cõi lòng trong
sáng như gương. Khi bạn quét sạch mọi thứ bên ngoài, tâm hồn bạn sẽ bắt
đầu có một khoảng trống. Chúng ta biết rằng chỉ có ngôi nhà trống mới chứa
được ánh sáng, chỉ có căn phòng thực sự sạch sẽ thì mới đạt đến mức "hư thất
sinh bạch" (phòng trống thì sáng trắng), và khi ánh mặt trời chiếu vào, đó là
một không gian ấm áp hân hoan.
Bước thứ năm gọi là "kiến độc". Độc nghĩa là gì? Nghĩa là duy nhất.
"Kiến độc" nghĩa là con người có thể đạt đến thế giới tinh thần mà trong đó
có thể nhìn thấu đạo lý của vạn vật trong trời đất. Vạn sự vạn vật rối rắm
trong thiên hạ không còn thần bí trong mắt bạn nữa. Tư tưởng của bạn sẽ
ngày càng trở nên sáng tỏ.
Bước thứ sáu gọi là "vô cổ kim", bạn có thể xuyên suốt dòng sông cổ kim
mà không có hạn chế và cách trở về thời gian. Ngày nay nói về Trang Tử, về
Khổng Tử, về chư tử thời Tiên Tần, chúng ta đều có một cảm giác ấm áp,
nhận thấy "đạo bất viễn nhân" (đạo không xa con người), đạo lý của họ thật
sự rất gần gũi với hiện tại, vẫn khiến chúng ta rung động. Chúng ta ngày nay
nhìn các văn nhân mặc khách thời xưa, thi ca từ phú của họ vẫn khiến ta bồi
hồi. Đó chính là "vô cổ kim".
Khi những cảm nhận gần gũi và lời than thở về trời đất này của cổ nhân đi
vào cuộc sống của chúng ta, chúng ta mới đạt đến tầm thứ bảy mà Trang Tử
nói, đó là "bất tử bất sinh", theo đuổi được sự vĩnh hằng của cuộc sống.
Cuộc sống không hề tịch diệt vì sự mất đi của sự sống vật chất, cũng
không xem nhẹ bản chân của sự sống, đây hẳn là sự bất sinh bất tử mà Trang
Tử nói.
Đừng cho rằng Đạo gia mãi mãi chỉ đề xướng tự do về tinh thần mà không
có sự thuận theo quy tắc. Đạo gia không phải chỉ biết hít gió uống sương,
không ăn ngũ cốc, ngao du thiên hạ, họ cũng giống như chúng ta.
"Ngoại hóa nhi nội bất hóa" mà Trang Tử đề ra là muốn chúng ta dần loại
bỏ mọi tạp niệm trong lòng, để cho căn cứ nội hóa thực sự trong đáy lòng
chúng ta được giữ gìn. Còn ở bên ngoài, dựa vào sự khoan dung trong lòng
và sự sáng suốt trong quan sát, "tùy ngộ nhi an" (gặp sao yên vậy), không
tranh với đời, như thế chúng ta sẽ có thể sống tốt hơn trong từng khoảnh
khắc, an lành bước qua toàn bộ đời sống bằng một tư thế ung dung tự tại, bớt
đi rất nhiều phân tranh, bớt đi rất nhiều mâu thuẫn, cuối cùng chúng ta sẽ đạt
được một cuộc sống riêng hợp với Đạo, hợp với trời đất tự nhiên.
CHƯƠNG 8
BẢN TÍNH VÀ NGỘ TÍNH

Trang Tử cho rằng, tầm cao nhất của cuộc sống là tiêu dao du.
Bản tính của con người là không bị trói buộc, chỉ khi giải phóng bản tính
thì con người mới đạt đến tầm tiêu dao du.
Bản tính của con người không nên bị ngoại vật nô dịch, chi phối. Thuận
theo tự nhiên sẽ có thể nhận được niềm vui hạnh phúc của cuộc sống.
Đọc Trang Tử, chúng ta đều biết có một tầm cao nhất được gọi là Tiêu
dao du.
Chữ "du" này được Trang Tử sử dụng rất nhiều lần. Thí dụ, ông nói trong
trời đất phải đạt đến tầm "thừa vạn vật dĩ du tâm" (cưỡi vạn vật để du tâm).
Vậy thì "du" là gì? Mỗi người chúng ta có thể đạt đến tầm "du" hay không?
Trong Trang Tử có một thiên tên là Tại hựu. Trong thiên này, Trang Tử kể
một câu chuyện như sau:
Vân Tương đến phương Đông du lịch, gặp một người tên là Hồng Mông.
Hồng Mông là một ông lão được tích tụ từ nguyên khí thiên thiên, vẫn còn
hỗn độn, chưa được khai khiếu, lúc ấy ông đang dùng tay vỗ đùi, nhảy nhót
chơi đùa giống như một con chim, trông rất vui vẻ.
Vân Tương hỏi:
- Cụ là ai? Cụ đang làm gì?
Hồng Mông không dừng lại, vẫn lấy tay vỗ đùi, nhảy nhót chơi đùa, đáp
một tiếng: "Du!", nghĩa là ta đang ngao du.
Vân Tương nói:
- Tôi có một vấn đề muốn được hỏi cụ.
Ông lão ngây thơ như một đứa trẻ, ngước mặt nhìn
Vân Tương rồi lại đáp một tiếng: "À!".
Vân Tương nói:
- Tôi muốn hợp mọi khí tinh hoa của trời đất lại để dưỡng dục chúng sinh,
để cuộc sống của bá tánh mưa thuận gió hòa. Lý tưởng ấy làm sao để thực
hiện được?
Chẳng ngờ Hồng Mông tiếp tục vỗ đùi nhảy nhót, miệng đáp:
- Ta không biết! Ta không biết!
Vân Tương không nhận được câu trả lời cho câu hỏi của mình.
Ba năm sau, Vân Tương lại Đông du, lại gặp Hồng Mông ở đất Hữu Tống.
Lần này Vân Tương rất nghiêm chỉnh, bước nhanh đến, tôn xưng Hồng Mông
là "Thiên" (trời), nói:
- Cụ còn nhận ra tôi không? Cuối cùng cũng được gặp lại cụ. Lần này nhất
định cụ phải trả lời câu hỏi của tôi.
Hồng Mông đáp:
- Ta trôi nổi trong trời đất, chưa bao giờ biết theo đuổi là gì; ta muốn gì
làm nấy, tự do tự tại, chẳng biết sẽ đi về đâu. Ta chỉ biết chu du trong thế
gian phức tạp, quan sát vạn vật trong trời đất. Ta nào biết thế nào là đạo lý?
Cuối cùng do sự kiên trì của Vân Tương, Hồng Mông đã lột bỏ vẻ ngoài
của một lão ngoan đồng, nói ra chân lý chất phác trong lòng mình:
- Phải dưỡng tâm như vầy: cứ vô vi rồi vạn vật tự nhiên cải hóa. Quên
hình hài của ngươi đi, bỏ cái thông minh của ngươi đi, quên cả nội tâm lẫn
ngoại vật, rồi thì vạn vật sẽ hợp nhất với bản căn. Ai bất giác thấy lại được
bản căn của mình, cứ hồn nhiên theo tự nhiên thì suốt đời sẽ không rời bản
căn. Đừng tìm biết tên các vật, đừng tìm hiểu chúng ra sao, như vậy vạn vật
tự nhiên sanh sản.
Ông đã nói đến hai chữ "tâm dưỡng". "Tâm dưỡng" thực ra nghĩa là
"dưỡng tâm", tức là tu dưỡng tâm hồn.
Ngày nay chúng ta thường nói đến "dưỡng sinh", nhưng rất ít khi nhắc đến
"dưỡng tâm". Thực ra, từ điều nhỏ là sinh mệnh của một con người đến sự
lớn lao của vạn vật trong xã hội tự nhiên, tất cả đều là ở tâm dưỡng.
Hồng Mông bảo Vân Tương hãy quên đi hình hài của mình, hãy vứt bỏ trí
thông minh của mình, hãy quên hết mọi thứ bên ngoài để đạt đến tầm "luân
dữ vật vong" (quên hết mọi vật). Hãy đi vào thiên nhiên, cảm nhận mọi thứ
thiên nhiên ban cho mình với nhiều tâm trí hơn. Khi thực sự biết thuận theo
tự nhiên, làm cho tâm hồn thực sự tung cánh bay, được giải phóng, con người
sẽ đạt đến sự giải thoát tinh thần.
Làm sao chúng ta có thể vỗ đùi nhảy nhót, vui chơi ngây thơ như một đứa
trẻ, tiêu dao tự tại giống như Hồng Mông? Trang Tử cho rằng chỉ khi giải
phóng bản tính thì con người mới đạt đến tầm tiêu dao du.
Thế nhưng đối với người hiện đại, khi sống dưới áp lực cuộc sống, đóng
những vai trò mà xã hội đã giao cho, chúng ta có nghĩ đến cảm nhận đích
thực trong lòng mình không? Phải chăng chúng ta đã trói buộc bản tính của
mình mà hoàn toàn không hay biết?
Khi chúng ta thực sự bước vào xã hội, khi chúng ta bị đóng khung vào
một vai trò nào đó của xã hội, khi chúng ta theo đuổi lợi ích, chúng ta đã bị
bó buộc.
Trong quá trình này, không một ai khác có thể giúp đỡ chúng ta, chỉ có
bản thân mỗi người mới có thể giải phóng được tâm hồn mình, giải thoát
được hồn phách mình. Thế thì đến lúc này, vạn vật chúng sinh trong thiên hạ
đều sẽ trở về với cội rễ của mình, con người không còn bị trói buộc nữa. Một
khi giũ bỏ mọi sự cưỡng chế, thế giới này sẽ là một màu xanh ngát.
Ngày lễ tết đi chơi công viên, có lẽ chúng ta đều thấy rất nhiều cây cối bị
cắt tỉa thành hình những động vật khác nhau. Mỗi khi nhìn thấy cảnh này, tôi
đều thấy rất buồn. Bản thân thực vật không phải là động vật, chúng ta không
cần phải ép động vật thành thực vật, vậy hà tất chúng ta phải ép thực vật
thành động vật?
Thực ra thế giới vật chất phồn hoa của chúng ta ngày nay không đủ tốt
đẹp, mà lại có quá nhiều dấu tích nhân tạo và tiêu chuẩn xã hội hóa. Những
nơi chúng ta có thể gần gũi thiên nhiên ngày một ít đi, bởi thế chúng ta không
còn niềm vui vỗ đùi nhảy nhót như chim nữa.
Cuộc sống như thế nào được coi là cuộc sống tuyệt đỉnh?
Hồng Mông bảo Vân Tương: "Vạn vật trong trời đất vô số, cần phải trở về
với bản tính của mình. Hoàn toàn không dùng cơ mưu trù tính thì bản tính
của nó mới không xa rời. Nếu sử dụng cơ mưu trù tính thì sẽ đánh mất bản
tính. Đừng truy vấn tên gọi của chúng, bất tất tìm hiểu đạo lý trong đó, hãy để
mọi thứ trên thế giới sinh trưởng tự nhiên, hãy để mọi sinh mệnh tự nhiên
phát triển, như thế mới làm cho trời đất hài hòa".
Chân vịt tuy ngắn nhưng nếu nối cho dài ra thì sẽ rất phiền; chân hạc tuy
dài, nhưng chặt ngắn lại nó sẽ rất bi thương.
- Biền mẫu -
Ngày nay chúng ta đã cách quá xa cảnh giới này, chúng ta đã có quá nhiều
khi quen với việc truy vấn, quen với việc khám phá mà quên đi bản tính của
chính mình.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng con ếch thấy con rết đang đi, nó rất
tò mò, bèn hỏi rết:
- Anh thấy đấy, tôi có bốn chân, phân công trước sau rõ ràng mỗi lần
nhảy. Anh được xưng là loài trăm chân, tôi không hiểu là khi đi, chân nào cất
bước trước?
Rết đáp:
- Anh đừng nên hỏi tôi câu này, và hy vọng sau này anh cũng đừng hỏi bất
kỳ con rết nào khác như vậy. Tôi không biết bước chân nào trước. Tôi mà suy
nghĩ về điều đó thì chân tôi không cất lên được nữa, tôi sẽ chẳng biết nên đi
như thế nào.
Điều này thật giống với cuộc sống của chúng ta.
Thử nghĩ mà xem, các vấn đề trong cuộc sống của chúng ta cũng nhiều
không thua gì chân rết. Cuộc sống của bạn, công việc của bạn, bạn bè của
bạn, từ già đến trẻ, từ lãnh đạo đến đồng nghiệp, khi tất cả đều trở thành một
phần cuộc sống thì chúng ta không thể suy nghĩ quá nhiều.
Có câu nói rằng: Nhân loại vừa suy nghĩ, Thượng đế đã bật cười. Có lẽ
Thượng đế cười vì chúng ta đã đi ngược lại một lẽ tự nhiên.
Bởi vậy Trang Tử có quan điểm đừng để bị ngoại vật sai khiến, chi phối.
Đừng câu nệ, đừng quá để ý mà hãy thuận theo tự nhiên. Đây luôn là quan
điểm căn bản xuyên suốt của Trang Tử.
Trang Tử đề xướng thuận theo tự nhiên, nhưng trong đời sống hiện thực
có rất nhiều tiêu chuẩn xã hội quy định lời nói và hành động của chúng ta, có
rất nhiều danh lợi cám dỗ đặt ra trước mắt chúng ta.
Vậy thì chúng ta nên đối mặt với cám dỗ, giảm thiểu mê hoặc như thế nào
để giữ được sự chân thực và trong sáng của bản tính?
Trang Tử nói: Tiểu nhân bỏ mạng vì lợi, kẻ sĩ chết vì danh, đại phu bỏ
thân vì gia đình, thánh nhân hy sinh mạng sống vì thiên hạ.
Cùng là giũ bỏ sinh mệnh, nhưng nghe có vẻ rất không giống nhau: tiểu
nhân bỏ mạng vì một chút lợi ích, người ta sẽ không nhắc đến; kẻ sĩ chết vì
danh dự, người ta sẽ cho là đáng; kẻ sĩ phu hy sinh tính mạng của mình vì lợi
ích của gia đình, người ta sẽ cho là rất tốt; còn thánh nhân từ bỏ mạng sống
của mình vì sự yên định của thiên hạ, đó là một sự cao thượng.
Nhưng với Trang Tử, tất cả những điều đó đều như nhau, chẳng qua là "sự
nghiệp khác nhau, thanh danh cũng khác". Trang Tử cho rằng trên đời này có
rất nhiều cám dỗ và mê hoặc, "tiểu hoặc dịch kỳ phương, đại hoặc dịch kỳ
tính". Mê hoặc nhỏ thì thay đổi phương hướng của con người, mê hoặc lớn
thì thay đổi bản tính của con người.
Hai câu nói này đáng để chúng ta ngày nay suy ngẫm.
Thế giới ngày nay còn ít cám dỗ hay sao? Mê hoặc còn ít hay sao? Nghi
hoặc còn ít hay sao?
Trong cái "hoặc" này, "tiểu hoặc" có thể thay đổi phương hướng cuộc
sống của con người. Thí dụ trẻ thi đại học, chọn nguyện vọng cho nghề
nghiệp mai sau. Một đứa nói: Tôi muốn học vật lý, tôi rất thích thú với bí ẩn
của vũ trụ, với hố đen vũ trụ. Nhưng phụ huynh bảo: Học khoa học lý thuyết
có làm nên trò trống gì không? Thôi học tài chính tiền tệ đi, sau này còn kiếm
tiền. Một đứa thi ngành khoa học xã hội nói: Tôi muốn làm nhà thơ, nguyện
vọng của tôi là học khoa Ngữ văn. Phụ huynh bảo: Làm nhà thơ sau này có
kiếm cơm được không? Thôi học luật đi, sau này làm luật sư, thu nhập cao.
Đó gọi là "dịch kỳ phương", tức thay đổi lý tưởng trong lòng vì một mục đích
lợi ích thực tế nào đấy.
Ấy là "tiểu hoặc", còn cái "đại hoặc" thì sẽ "dịch kỳ tính", nghĩa là khiến
cho một người làm ra những việc trái với bản tính của mình. Thí dụ, sự bất
trung, bất hiếu, bất nghĩa trên đời này. Tất cả những điều đó đều bởi đâu mà
ra? Có câu "lợi lệnh trí hôn" (cái lợi làm cho tâm trí mờ tối), khi cái lợi có thể
làm cho tâm trí mờ tối thì trong lòng sẽ không còn trí tuệ minh mẫn nữa, sự
mê hoặc đó sẽ làm cho chúng ta thay đổi bản tính của mình.
Có một câu chuyện như sau:
Một người nọ có một cây cung thiên hạ vô song, được làm bằng gỗ tử đàn
lâu năm, cầm rất chắc tay, sử dụng rất dễ dàng.
Người này rất quý cây cung, nhưng lại cảm thấy nó không được đẹp, thô
mộc quá. Thế nên anh ta nhờ một người thợ khéo nhất thiên hạ khắc một bức
tranh đi săn trên cây cung.
Người thợ này chuyên tâm trổ hết tài nghệ hoàn thành bức tranh đi săn
trên cây cung, quả nhiên bức tranh trông rất sống động, có ngựa chạy, có con
mồi đang bị đuổi, có dũng sĩ đang giương cung, có mặt trời trên cao và đất
dưới chân, còn có những hoa văn rất đẹp chạm khắp cây cung. Cây cung
trông rất đẹp mắt, nhưng vì đẹp nên mất đi khả năng của một cây cung tốt.
Biết bao lần chúng ta vì sự trang trí bề ngoài này mà đánh mất những giá
trị căn bản nhất trong cuộc sống của mình? Đó gọi là "bỏ gốc để theo ngọn".
Bản thân chúng ta có khác nào cây cung ấy? Chúng ta vốn có thể tốt hơn
hiện tại, nhưng do không nhìn thấy bản mệnh đích thực của mình nên chúng
ta không nhận rõ diện mạo nguyên thủy chưa từng được chạm khắc và
nguyện vọng mộc mạc trong lòng, chúng ta thường làm những việc tổn
thương đến bản tính và sinh mệnh.
Tham dục thường làm hại đến bản tính của con người, khiến con người trở
thành nô lệ của vật chất.
Ham muốn của con người là vô tận. Nếu con người đánh mất bản tính của
mình, thì song song với việc theo đuổi lợi ích vật chất, tai họa cũng sẽ đến
theo.
Lòng người cần thuận theo tự nhiên, bớt đi sự vấn vương cố tình và những
hào nhoáng bên ngoài. Chỉ có như vậy mới không đánh mất chính mình.
Có một câu chuyện ngụ ngôn được lưu truyền rộng rãi như sau:
Một chú chó con hỏi chó mẹ:
- Một đứa bạn đánh cuộc với con rằng chỉ cần làm được một việc là có thể
nhận được hạnh phúc lớn nhất, niềm vui lớn nhất, đó là túm lấy cái đuôi của
mình. Hôm nay con nhảy vồ cái đuôi của con mãi mà không sao túm được.
Mẹ ơi, có phải cả cuộc đời này con sẽ không được hạnh phúc và vui vẻ
không? Tại sao ngay cả thứ trên người mình mà con cũng không nắm bắt
được?
Chó mẹ cười đáp:
- Hạnh phúc và vui vẻ cũng giống như cái đuôi của con, khi con không
muốn túm lấy nó, con đi phía trước, nó sẽ mãi mãi theo con. Tại sao con cứ
nhất định phải túm lấy nó? Hãy quên nó đi!
Con người đừng bao giờ có thái độ so đo với những gì mình đã nhận được
trong đời.
Bản thân hạnh phúc và vui vẻ trong cuộc đời thực ra đã là một phần của
cuộc sống, cố tình theo đuổi sẽ không bao giờ có được. Nhưng nếu biết sống
nghiêm túc thì hạnh phúc và vui vẻ sẽ luôn đi theo bạn. Kỳ thực đó gọi là "vô
tâm đắc" (cái được do vô tâm, không cưỡng cầu).
Trang Tử không bao giờ coi trọng sự cố tình của con người, không bao
giờ đánh giá cao sự khác thường.
Ông mong muốn mọi sinh mệnh thật sự có thể xuất hiện với trạng thái
Con người đừng bao giờ có thái độ so đo với những gì mình đã nhận được
trong đời. chất phác nguyên bản trên đời này, giống như thực vật xanh tươi
và động vật vui vẻ trong trời đất.
Trang Tử có một quan điểm là tâm của mỗi người chúng ta phải giống như
một mặt gương.
"Thủy tịnh do minh, nhi huống tinh thần! Thánh nhân chi tâm tịnh hồ!".
(Nước tĩnh lặng còn soi sáng được huống hồ tinh thần. Tâm của thánh nhân
tĩnh lặng chăng?) Khi nào thì nước soi được vạn vật trong trời đất? Chỉ trong
một trường hợp, ấy là khi nước tĩnh.
Chúng ta thử nghĩ, trong sóng lớn chảy xiết, nước có soi được bóng mình
không? Khi tâm chúng ta cũng dập dềnh như con sóng, vạn vật thế gian có
soi được vào tâm ta hay không?
Chúng ta nên làm như thế nào để nhìn thấu những lý lẽ hết sức chí lý trên
đời? Tâm ta cần tịnh giống như một mặt gương, trở thành "thiên địa chi giám
dã, vạn vật chi kính dã" (cái gương của trời đất, gương soi của vạn vật).
Cái tâm như vậy đối với vạn vật, không săn đón cũng không cự tuyệt, mà
bình tĩnh thản nhiên đón nhận, phản xạ, soi rọi.
Khi tâm hồn giữ được trạng thái như vậy, chúng ta sẽ nhìn thấy thế giới
bằng lý tính rõ ràng nhất và cũng nhìn thấy chính mình.
Mặt gương là gì? Xét từ bề ngoài mặt gương thì nó chỉ là một lớp thủy
tinh. Khác biệt giữa gương và thủy tinh là gì? Chính là lớp tráng bạc mỏng
trên bề mặt nó.
Thủy tinh không được tráng bạc thì bạn chỉ có thể nhìn thấy thế giới bên
ngoài xuyên thấu qua nó; khi có một lớp tráng bạc, bạn sẽ nhìn thấy chính
mình thông qua nó, đồng thời cũng có thể nhìn thấy thế giới.
Trong lòng chúng ta cần có một lớp tráng bạc như vậy để tấm thủy tinh
trước mắt chúng ta biến thành một mặt gương, không chỉ nhìn thế giới bên
ngoài, mà còn quan sát thấy nội tâm, làm cho mặt gương đó soi thấy bản chân
sinh mệnh của mình.
Trang Tử luôn đề xướng lòng người nhất định phải tự nhiên, không được
có nhiều sự vương vấn cố tình và hào nhoáng bên ngoài.
Trong Trang Tử có một thiên lấy tên Mã đề (vó ngựa), viết: "Vó ngựa có
thể đạp sương tuyết để phi, da lông ngựa có thể chế ngự gió rét. Nó gặm cỏ
uống nước, tự do phi chạy, sung sướng vui vẻ, đó chính là bản tính của
ngựa". Bạn cho ngựa ở trong nhà cao cửa rộng nó sẽ không vui.
Nhưng thật không may, Bá Nhạc đã xuất hiện. Bá Nhạc nói: "Ta giỏi trị
ngựa". Ông trị ngựa như thế nào? Ông cắt tỉa bờm ngựa, cắt móng ngựa,
đóng dấu lên mình ngựa, đóng yên cương, nhốt ngựa vào chuồng. Khi Bá
Nhạc làm xong những việc này thì ngựa của ông đã chết đến hai ba phần
mười.
Bá Nhạc còn muốn huấn luyện ngựa. Ông để ngựa đói, khát mà chạy, đi
theo hàng chỉnh tề, trước có cương ghìm, sau có roi quất, đến lúc này, ngựa
đã chết đến quá nửa.
Trang Tử đã cung cấp cho chúng ta một sự phán đoán giá trị khác thường
qua câu chuyện này.
Đứng ở góc độ nhu cầu xã hội, Bá Nhạc sẽ được đánh giá là một nhân tài
xuất chúng trong việc phát hiện và thuần dưỡng tuấn mã. Nhưng Trang Tử
cho rằng, Bá Nhạc chính là hung thủ lớn nhất xâm hại đến bản tính của ngựa.
Bởi ông đã đi ngược lại bẩm tính của ngựa, bóp chết niềm vui của ngựa.
Theo Trang Tử, tất cả những sự chạm khắc, trị lý bên ngoài này trên thực
tế đều đi ngược lại lẽ bản sơ tự nhiên. Cái lẽ đó là mỗi sinh mệnh đều phải
được tôn trọng và đáng được tôn trọng. Bản sơ của mỗi sinh mệnh như thế
nào thì phải để cho nó như thế ấy.
Bởi vậy Trang Tử nói: "Sự sáng tai mà ta nói không phải là nghe được
mọi âm thanh trên thế gian, mà là nghe được tôn trọng.
Mỗi sinh mệnh đều phải được tôn trọng và đáng được âm thanh của chính
mình; sự sáng mắt mà ta nói không phải là nhìn thấy được mọi sự vật trên thế
gian, mà là thấy được chính mình".
Sự thông minh đích thực của con người không phải nằm ở sự tác động lên
thế giới bên ngoài, mà là ở chỗ tĩnh tâm lại để phát hiện ra nguyện vọng bản
sơ nhất trong cuộc sống của mình.
Sự thông minh đích thực của con người không phải nằm ở sự tác động lên
thế giới bên ngoài, mà là ở chỗ tĩnh tâm lại để phát hiện ra nguyện vọng bản
sơ nhất trong cuộc sống của mình.
Tôi từng thấy một cảnh tượng thế này: Một đứa bé sáu bảy tháng tuổi,
xung quanh nó chất đầy đồ chơi, nào là gỗ xếp cao cấp, nào là gấu bông xinh
đẹp, nào là xe lửa chạy tự động. Nhưng nó chẳng lấy làm vui, mà tay cầm
một cái lọ rỗng, chơi say mê.
Theo phán đoán của mình, phụ huynh dỗ dành con:
- Con thấy con búp bê tự động này đẹp không? Con xem này, chiếc tàu
hỏa này đắt lắm đấy! Bộ đồ chơi thông minh này được thiết kế khéo không?
Cái lọ này là đồ bỏ, con vứt đi, chúng ta không chơi cái này.
Cái lọ rỗng đó có thật là đồ bỏ đi không? Khi chơi với cái lọ, đứa trẻ có
thể phát triển trí lực và tìm thấy niềm vui. Còn những cái gọi là đồ chơi đắt
tiền, đẹp đẽ, thông minh kia chỉ là một đống bỏ đi trong mắt nó.
Là cha mẹ, mấy người trong chúng ta từng tôn trọng con mình? Chúng ta
cứ cho rằng trẻ phải nghe lời dạy bảo của người lớn mà không biết rằng trong
lòng mỗi đứa trẻ đều có niềm vui riêng của nó.
Đối với trẻ, tất cả đồ đạc trong nhà, chỉ cần an toàn và vệ sinh thì không gì
không phải là đồ chơi của nó. Tất cả những gì nó thích thì đều là niềm vui
của nó.
Trên thế gian ồn ào, làm thế nào để nhận rõ tâm hồn mình, phát hiện bản
tính của mình?
Trang Tử cho rằng, chỉ cần giữ được sự đạm bạc thanh tịnh trong tâm hồn,
đối diện với mọi thứ bằng một thái độ bình thản, bạn sẽ giữ được một tâm
hồn lành mạnh, vĩnh hằng.
Thực ra đối với con người, đối với ngựa, đối với thực vật, thậm chí đối với
chính mình, cái chúng ta thiếu chính là một cái tâm tĩnh tại để tôn trọng bản
tính thực thụ của vạn vật.
Có một câu chuyện như sau:
Một người thợ mộc đang làm việc, vừa giơ tay lên thì chiếc đồng hồ trên
cổ tay văng đi. Ông tìm mãi trong đống mạt cưa mà không thấy. Các học trò
cũng tìm giúp, lục tung mọi chỗ cũng không thấy. Đến tối, mọi người bảo
nhau đợi mai trời sáng rồi tìm tiếp.
Đứa con trai của người thợ mộc chơi một mình trong nhà mộc, tối về nói
với cha:
- Cha ơi, con tìm được cái đồng hồ của cha rồi! Người thợ mộc ngạc nhiên
lắm, hỏi:
- Trời tối thế sao con tìm được? Đứa trẻ đáp:
- Mọi người đi rồi, con chơi một mình trong đó, con nghe thấy tiếng tích
tắc, lần theo âm thanh, con bới đống mạt cưa lên và tìm thấy.
Đây là một việc nhỏ xảy ra trong cuộc sống, nhưng lại cho thấy một đạo lý
lớn: Khi chúng ta ở trong sự ồn ào của thế gian, bận rộn theo đuổi tìm kiếm
khắp nơi thì thường không nhận được thứ gì.
Một tấm lòng con trẻ, lắng nghe một cách yên lặng ngây thơ sẽ có thể
nghe được âm thanh nhỏ nhất. Đó chính là căn cứ để chúng ta tìm thấy.
Một tảng đá lớn xù xì nằm đó, nhà điêu khắc bắt đầu công việc. Ông định
chạm một bức tượng đầu mỹ nữ.
Một đứa trẻ ngồi bên cạnh. Nó ngạc nhiên nhìn cái đục trong tay nhà điêu
khắc làm cho từng miếng đá nhỏ rơi xuống, một mỹ nhân trong sáng hiện ra
từng chút một trong đá.
Hiện ra đôi mắt nàng, đôi mắt trông rất có thần; hiện ra cái miệng nàng,
cái miệng như thể biết nói; hiện ra khuôn mặt nàng, khuông mặt tỏa ánh rạng
ngời.
Đứa trẻ rất lấy làm lạ, hỏi nhà điêu khắc:
- Sao bác biết chị ấy ẩn ở trong đó? Bác đã tìm được chị ấy bằng cách
nào?
Nhà điêu khắc đáp:
- Ta không biết cô ấy ẩn ở trong đó, thực ra cô ấy ẩn trong lòng ta. Ta chỉ
đưa mỹ nhân trong lòng ta vào trong đá mà thôi.
Còn chúng ta? Nhiều người thường chỉ coi công việc hàng ngày là một
nghề nghiệp, chỉ hoàn thành công việc như một công cụ chứ không hề đưa
nguyện vọng và ước mơ của mình vào công việc.
Chúng ta không biết biến công việc thành một phương cách để thực hiện
sứ mệnh của đời mình. Điều này hoàn toàn không dựa vào kỹ xảo, mà dựa
vào nguyện vọng và mơ ước trong lòng chúng ta.
Nó đòi hỏi lòng dũng cảm và sự tự kiểm, nó cần mỗi người chúng ta thực
sự biết dưỡng tâm, làm cho tâm ta hợp với tự nhiên. Nói theo lời Trang Tử là:
"Nhữ du tâm vu đạm, hợp khí vu mạc, thuận vật tự nhiên nhi vô dung tư yên,
nhi thiên hạ trị hĩ".
Ngày nay chúng ta thường hiểu "đạm mạc" (lạnh nhạt) theo một nghĩa
không tốt. "Lạnh nhạt" theo cách nói của Trang Tử nghĩa là có cái tâm điềm
đạm, hành vi thanh tịnh. Khi thế giới này ồn ào, chúng ta cần một chút điềm
đạm thanh tịnh. Khi cái tâm chúng ta biết điềm đạm trước vạn vật trên thế
giới thì rất nhiều sự việc có thể duy trì lâu dài.
Có một câu chuyện nhỏ rất thú vị:
Một vị vua nọ nhận được vật tiến cống là ba bức tượng vàng. Ba bức
tượng này có bề ngoài giống hệt nhau, trọng lượng không mảy may hơn kém.
Nhà vua hỏi:
- Trong ba bức tượng này, bức nào tốt hơn, quý hơn? Một viên đại thần
túc trí tâu:
- Lấy một cây rơm, xỏ vào từ lỗ tai, xem nó ra đường nào là biết.
Ở bức tượng thứ nhất, cọng rơm vào từ tai trái và ra ở tai phải. Bức thứ
hai, cọng rơm đi từ tai trái nhưng lại chui ra miệng. Ở bức thứ ba, cọng rơm
cũng vào từ tai trái rồi rơi vào bụng, không ra.
Nhà vua vỡ lẽ, nói:
- Ta hiểu rồi, bức tượng thứ ba quý nhất.
Tại sao vậy? Thực ra điều này rất giống cuộc sống của chúng ta.
Trong thế giới ồn ào quá mức ngày nay, quá nhiều ngôn từ, thông tin, câu
chuyện, đạo lý mà chúng ta nghe thấy vào tai trái, ra tai phải, đó là tình hình
của tuyệt đại đa số người, hầu như chẳng ai đưa chúng vào đầu.
Loại người thứ hai, đi vào tai thì lại ra từ miệng, nghe thấy bất cứ thông
tin nào cũng loan đi, bất kể là mình có tin hay không.
Còn loại người thứ ba, vào từ tai rồi rơi xuống bụng, không bao giờ nói ra.
Đây là một người trầm lặng, nhưng là người biết phân biệt. Anh ta hiểu được
mong muốn của mình, biết phân rõ thật giả trên đời, rất nhiều thứ không săn
đón, không nhiệt tình, mà làm cho mình "du tâm vu đạm, hợp khí vu mạc"
bằng thái độ trầm lặng.
Tôi tin rằng một thế giới tinh thần thực sự sáng sủa, lành mạnh cần dựa
vào đôi chân và đôi tay tự nhiên, mộc mạc, khỏe khoắn, giàu sức sống của
chúng ta.
Chúng ta hãy giũ bỏ mọi so đo tính toán, giũ bỏ mọi sự ồn ào, giũ bỏ mọi
cái lợi trước mắt để nhìn thấy tương lai xa hơn, giữ lấy cái tâm vĩnh hằng của
mình bằng thái độ "lạnh nhạt" (đạm mạc) như Trang Tử nói.
Sự "lạnh nhạt" này không hề tiêu trừ lòng nhiệt thành của chúng ta đối với
cuộc sống mà nó có thể biến tình cảm của chúng ta thành một sức sống vĩnh
hằng. Nó sẽ giúp chúng ta giữ được bản tính của mình trong suốt cuộc đời.
Bản tính của con người chính là không chịu sự đẽo gọt của xã hội, không
đi ngược lại bản chân của nội tâm, nhìn thấu nguyện vọng trong lòng, bước đi
một cách chân chính trên con đường đời của mình. Trong sự "lạnh nhạt" này,
trong việc không đi ngược lại sự chân thực này, ta hợp với đại đạo, thực hiện
được sự trui rèn bản thân và cuối cùng đạt được thành công.
CHƯƠNG 9
TÂM THÁI VÀ TRẠNG THÁI

Chúng ta thường than thở cuộc sống khổ cực và ngắn ngủi, làm thế nào để
phát huy được tài năng của mình đến trạng thái tốt nhất trong cuộc sống ngắn
ngủi?
Trang Tử cho ta biết: tâm thái (trạng thái tâm lý) của một người quyết
định trạng thái cuộc sống của người đó. Làm thế nào để có một tâm thái tốt?
Làm thế nào để sống ở trạng thái tốt nhất?
Người sinh mãi kiếp nào cho biết, Nhìn trăng sông năm hệt không sai.
Trăng sông chẳng biết soi ai,
Dưới trăng chỉ thấy sông dài nước trôi.
(Trích bài "Xuân giang hoa nguyệt dạ" của Trương Nhược Hư, Bản dịch
của Tản Đà)
Đời người trăm năm. Chúng ta thật nhỏ bé so với toàn bộ dòng thời gian!
Theo cách nói ví von của Trang Tử: "Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược
bạch câu chi quá khích, hốt nhiên nhi dĩ", nghĩa là con người sống trong trời
đất giống như bóng câu qua khe cửa, chỉ trong chốc lát mà thôi.
Vậy thì trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, chúng ta làm thế nào để thực
sự biết sống? Sống cuộc đời như thế nào là hiệu quả nhất?
Trang Tử cho chúng ta một thái độ, đó là: đạt sinh - sống khoáng đạt, thấu
hiểu cuộc sống.
Đối với cuộc sống, trước hết chúng ta phải có một thái độ khoáng đạt.
Thái độ này sẽ quyết định chất lượng cuộc sống của chúng ta. Tâm thái quyết
định trạng thái của con người.
Đối với cuộc sống, trước hết chúng ta phải có một thái độ khoáng đạt.
Thái độ này sẽ quyết định chất lượng cuộc sống của chúng ta. Tâm thái quyết
định trạng thái của con người.
Thế nào là khoáng đạt thực sự?
Trang Tử nói: "Người thực sự hiểu thấu cuộc sống thì không chạy theo
những thứ không cần thiết trong cuộc sống. Người thông đạt, thấu hiểu chân
tướng của vận mệnh thì không theo đuổi những thứ bất đắc dĩ, những mục
tiêu không thể đạt được trong cuộc sống".
Hẳn bạn sẽ hỏi lại, điều chúng ta đã coi là "không cần thiết" thì ta còn theo
đuổi làm gì? Đó là vì đôi khi chúng ta bị lụy bởi thanh danh, chạy theo xu
hướng chung của xã hội, cho dù trong thâm tâm biết rõ rằng điều đó không
thật sự có giá trị với mình.
Ví dụ: một thí sinh nộp đơn thi vào một trường đại học danh tiếng, cho dù
cậu ta chẳng thích ngành học nào ở trường đó cả. Tất cả chỉ vì danh tiếng của
ngôi trường ấy. Khi cậu thi đậu, phụ huynh hãnh diện nói: "Con trai tôi đậu
vào trường có tiếng đấy!". Cậu cũng thích chí: "Tôi là sinh viên của trường
X!". Tuy vậy, có lẽ trong lòng cậu đã cảm thấy một nỗi đau âm ỉ bởi ngành
mà cậu thực sự muốn học không phải ở trường ấy. Cũng tương tự như có
người đã giũ bỏ tình yêu đích thực của mình để lấy một cô gái "xuất sắc",
cũng có thể để lấy một "đại gia", chỉ bởi ánh mắt của mọi người và cảm giác
hư vinh trong lòng. Sống như vậy nghĩa là họ đã sai lầm trong cuộc đời này.
Người thông đạt, thấu hiểu chân tướng của vận mệnh thì không theo đuổi
những thứ bất đắc dĩ, những mục tiêu không thể đạt được trong cuộc sống.
- Đạt sinh
Ở vùng Alger, khỉ trên núi thường xuống đồng phá hoa màu. Do đó người
dân vùng này đã phát minh ra một cách bắt khỉ, họ đặt một ít gạo ở cửa nhà
dụ khỉ đến. Bí mật là dùng cái gì để đựng phần gạo này.
Đó là một cái lọ miệng lớn nhưng cổ lọ lại rất nhỏ, chỉ vừa tay một con
khỉ thò vào, còn khi khỉ nắm tay lại là không rút ra được.
Lúc này nếu biết "đạt sinh", con khỉ biết buông nắm gạo thì nó sẽ rút được
tay ra. Nhưng không con khỉ nào chịu làm như vậy.
Trong lọ tất nhiên là có nhiều gạo trắng rất cám dỗ, lũ khỉ đêm đến ăn
trộm, thò tay vào theo cổ lọ. Đến sáng, bạn sẽ thấy những con khỉ ở đó đọ sức
với những cái lọ, tay nắm chặt gạo, nhưng không rút ra được.
Đây không chỉ là bức tranh về lũ khỉ, mà còn là một bức tranh về đời sống
con người. Bạn thử nghĩ xem, có bao nhiêu người trong chúng ta, tay nắm
một "vốc gạo" lợi danh mà không chịu bỏ xuống, từ đó liên lụy đến cả cuộc
đời?
Trang Tử nói: "Sinh chi lai bất năng khước, kỳ khứ bất năng chỉ. Bi phù!"
(Sự sống bắt đầu thì ta không thể từ khước, khi sự sống mất đi thì ta không
thể ngăn nó lại. Buồn thay!).
Sinh mệnh của chúng ta là do cha mẹ mang đến, không cần hỏi ý kiến
chúng ta, và chúng ta không thể khước từ. Rồi thời gian mang năm tháng của
chúng ta đi, nó cũng không đợi sự đồng ý của chúng ta mà tự nhiên ra đi,
chúng ta không ngăn cản được.
Đến – đi đều bất đắc dĩ, thực sự là một điều đáng buồn! Nhưng điều mấu
chốt là trong lòng bạn nhìn nhận cuộc sống như thế nào?
Người ta thường than thở cuộc đời ngắn ngủi, mong muốn đạt được sự
nghiệp thành công trong quỹ thời gian hạn hẹp của mình.
Vậy thì khi xác định mục tiêu cuộc sống, chúng ta làm sao phán đoán
được việc nào làm được, việc nào không làm được?
Bằng những câu chuyện ngụ ngôn của mình, Trang Tử cho chúng ta biết:
Kiến thức và trải nghiệm quyết định năng lực và lòng can đảm của con người.
Trang Tử từng thác lời Khổng Tử kể một câu chuyện như sau:
Người học trò yêu của Khổng Tử là Nhan Uyên có lần hỏi thầy:
- Con từng vượt qua một cái vực sâu tên là Thương Thâm, thấy người lái
đò có tài chèo đò giỏi như thần. Con rất ngưỡng mộ ông ta và hỏi: Chèo đò
có học được không? Ông ấy đáp: Được. Nhưng ông lại cho biết một bí mật:
Nếu anh biết bơi thì học chèo đò sẽ rất dễ; nếu anh biết lặn thì dù chưa bao
giờ nhìn thấy đò, anh cũng biết chèo. Con bèn hỏi tại sao. Ông ta chẳng nói
gì. Con xin hỏi thầy, thế nghĩa là thế nào?
Khổng Tử nghe xong, đáp: "Thiện du giả số năng, vong thủy dã". Một
người giỏi bơi thực sự thì không sợ nước, thậm chí còn quên là có nước. Vì
vậy khi chèo đò, anh ta sẽ không sợ, bởi dù đò lật, sinh mệnh anh ta cũng
được đảm bảo. Tại sao người biết lặn chưa nhìn thấy đò cũng dám chèo? Là
bởi người biết lặn có thể coi sóng như đồi gò trên đất liền, coi vực sâu như
một ngọn núi cao phía trước, dù đò có lật cũng coi như xe lùi. Ngay cả đáy
nước anh ta còn lặn xuống được thì còn sợ lật đò hay sao?
Khổng Tử cho học trò biết đạo lý ở đời chính là như vậy. Nếu con người
có kiến thức lớn thì học thêm một kỹ năng khác sẽ rất dễ dàng; nếu không có
trải nghiệm thì trong lòng sẽ thấy phập phồng lo sợ.
Khổng Tử thậm chí còn lấy một thí dụ cho Nhan Uyên: Con hãy xem việc
đánh bạc, đánh bạc có đặt to, đặt nhỏ. Người đặt bạc bằng một viên ngói sẽ
thấy rất nhẹ nhõm, bởi dù sao anh ta cũng chỉ đặt một viên ngói; nhưng người
đặt một cái nhẫn quý thì có thể sẽ thấp thỏm không yên; người đánh bạc bằng
vàng chắc chắn sẽ thấy rối trí.
Tại sao? Bởi anh ta quá coi trọng vật chất, phàm ai coi trọng ngoại vật
chắc chắn đều vụng về dại dột.
Thực tế trong cuộc sống của chúng ta, rất nhiều người càng đối mặt với
những quyết định trọng đại thì càng thất thủ. Anh ta không thua bởi đối thủ,
mà thua vì chính mình.
Thất bại của rất nhiều người thực ra là thua bởi hai chữ "tại hồ" (để tâm),
sự "để tâm" này khiến chúng ta thấp thỏm lo âu, gò bó tay chân, lo lắng sợ sệt
khi đứng trước việc lớn. Bởi chúng ta quá đặt nặng cái "được" nên mới sợ
"mất".
Vì thế Trang Tử cho chúng ta biết: Trên đời này, trong cuộc sống hữu hạn
này, chúng ta có thể học tập rất nhiều, chúng ta có thể trải nghiệm rất nhiều,
nhưng sự "để tâm" hay "không để tâm" là do lòng bạn. Hệ thống kinh nghiệm
của cá nhân bạn sẽ quyết định chất lượng cuộc sống của bạn.
Sự "để tâm" hay "không để tâm" là do lòng bạn, hệ thống kinh nghiệm của
cá nhân bạn sẽ quyết định chất lượng cuộc sống của bạn.
Chúng ta nhận thấy trong cuộc sống, điều quyết định sự thành bại không
hẳn là trình độ kỹ thuật, mà là tâm thái.
Khi chúng ta đặt nặng vấn đề được mất, khi trong lòng chúng ta có điều lo
lắng, mọi kinh nghiệm và kỹ xảo của bạn sẽ đều không được phát huy ở mức
độ tốt nhất.
Trong Điền Tử Phương, Trang Tử kể một câu chuyện như sau:
Liệt Ngự Khấu, tức Liệt tử, biểu diễn bắn cung cho Bá Hôn Vô Nhân xem.
Khi bắn tên, ông tỏ ra hừng hực khí thế, kéo căng dây cung, giá có đặt một ly
nước đầy lên khuỷu tay cầm cung thì nước cũng không sóng sánh khi bắn tên.
Mũi tên thứ nhất vừa bay ra thì mũi thứ hai đã lập tức bắn theo, trong khi mũi
thứ ba đã lắp sẵn trên dây cung chờ đợi, và Liệt Ngự Khấu cũng đứng im như
hình nộm.
Tài bắn cung của Liệt Ngự Khấu không thể nói là tầm thường, nhưng
người như vậy đã thực sự đạt đến tầm cao chưa?
Bá Hôn Vô Nhân không đánh giá cao, ông nói:
- Ấy là cách bắn của người quá lo cho việc bắn cung, chưa phải là cách
bắn của người thản nhiên mà bắn. Bây giờ mời ông lên núi cao kia, bước trên
đá lởm chởm, đứng bên mép vực sâu trăm trượng, chừng ấy sẽ biết ông còn
giữ được cái vẻ điềm tĩnh ấy nữa không.
Bá Hôn Vô Nhân bèn đi lên núi cao, chân giẫm đá lởm chởm, đến nơi vực
sâu trăm trượng, sau đó quay người lại, bước lùi về phía vực sâu cho đến khi
một phần bàn chân đã ở ngoài vách đá. Đứng ở chỗ này, Bá Hôn Vô Nhân
mời Liệt Ngự Khấu lên bắn tên.
Khi đó Liệt Ngự Khấu chỉ có thể bò sấp dưới đất, mồ hôi chảy đến tận
gót.
Lúc này, Bá Hôn Vô Nhân nói:
- Người thực sự cao minh trên đời, mắt nhướng lên có thể ngó tận mây
xanh, cúi nhìn xuống có thể thấu tận đáy đất, vạn vật và hiện tượng trên thế
giới đều thấu tỏ mà lòng vẫn an định. Có như thế mới bắn được cái bắn thản
nhiên.
Ông nói với Liệt Ngự Khấu:
- Bây giờ ông đang run lòng hoa mắt, nếu để ông bắn tiếp thì khả năng
bắn trúng sẽ là rất nhỏ.
Câu chuyện này nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ quá tin vào kỹ xảo của
mình, và một điều nữa là không ai có thể tách khỏi môi trường mà sinh tồn
được.
Khi chúng ta đối mặt với môi trường khắc nghiệt thì phải xem tâm trạng
mình như thế nào. Khi tâm trạng không bị ảnh hưởng vì nỗi sợ hãi bên ngoài
thì mới thực sự là kẻ dũng, kỹ xảo mới có chỗ phát huy. Nếu tâm trạng đã bị
môi trường đánh bại thì làm bất kỳ việc gì cũng không thành công.
Một nhà khoa học và mười người tình nguyện tham gia một cuộc thực
nghiệm. Trong một ngôi nhà tối om, người ta bắc một cây cầu độc mộc. Nhà
khoa học bảo những người tình nguyện:
Trên đời này, chúng ta đừng bao giờ tin tưởng quá mức vào kỹ xảo.
- Ngôi nhà này rất tối, phía trước là một cây cầu độc mộc. Bây giờ tôi sẽ
dẫn các bạn qua cầu. Các bạn chỉ cần đi theo tôi là được.
Mười người theo giáo sư nhẹ nhàng đi qua cây cầu độc mộc đến đầu bên
kia của ngôi nhà như đi trên đất bằng. Lúc này giáo sư bật một ngọn đèn.
Những người này định thần nhìn lại thì vô cùng sợ hãi, thì ra chỗ họ vừa đi
qua không chỉ là một cây cầu độc mộc, mà phía dưới cầu là một bể nước lớn,
dưới bể có mười mấy con cá sấu đang bơi.
Lúc này giáo sư nói:
- Nào, đây chính là cây cầu các bạn vừa đi qua. Bây giờ tôi sẽ quay lại,
mấy người trong số các bạn muốn trở lại cùng tôi?
Không ai cả! Họ đều đứng im. Giáo sư nói:
- Tôi yêu cầu các bạn phải đứng dậy. Ai thực sự can đảm thì đi theo tôi.
Cuối cùng cũng có ba người đứng ra. Trong đó có một người đi được nửa
đường thì run rẩy, đành phải lết qua cầu; một người khác thì sấp người xuống
bò đi, chỉ có một người đường hoàng bước đi. Giáo sư lại động viên bảy
người còn lại, kết quả nói thế nào họ cũng không chịu đi.
Lúc này giáo sư lại bật thêm mấy cái đèn, mọi người lại nhìn thấy một sự
thực: Giữa cầu và cá sấu còn có một lớp lưới bảo vệ. Giáo sư nói:
- Giờ có ai muốn theo tôi đi qua cây cầu này không? Lần này lại có năm
người đứng ra. Vì biết đã có lưới phòng hộ nên họ yên tâm theo giáo sư qua
cầu.
Giáo sư hỏi hai người cuối cùng:
- Lúc nãy các anh chẳng phải đều đi trên đó sao? Tại sao bây giờ lại không
chịu theo tôi đi?
Hai người đó run rẩy đáp:
- Chúng tôi cứ nghĩ, nếu lỡ cái lưới đó không chắc chắn thì sao?
Câu chuyện này có thể xem như một ẩn dụ về cuộc sống mà chúng ta đang
đối mặt. Nhiều lúc vì không thấy rõ sự gập ghềnh của cuộc sống, bạn sẽ cứ
thế xông qua. Đến khi nhìn thấy một số hiện tượng bề ngoài, bạn sẽ sợ hãi.
Còn khi đã thấy rõ sự an - nguy, lợi - hại trong đời, có thể chúng ta sẽ phấn
chấn, dù lòng lo sợ nhưng vẫn có thể chiến thắng bản thân để dấn bước.
Lúc này, kỹ năng của bước chân không còn quan trọng, mà sự phán đoán
trong lòng chúng ta mới là điều quan trọng nhất.
Cho nên ta có thể kết luận: Tâm thái của một con người quyết định trạng
thái cuộc sống của người đó.
Vậy thì tâm thái của một con người phải đạt đến trạng thái nào mới tốt
nhất? Làm thế nào để đạt đến trạng thái đó?
Trang Tử lại kể một câu chuyện về chọi gà.
Kỷ Tỉnh tử nuôi gà chọi cho vua. Vua rất thích chọi gà nên muốn Kỷ Tỉnh
tử huấn luyện một con gà chọi mạnh nhất thiên hạ, có thể nhanh chóng xuất
chiến.
Mười ngày sau, nhà vua hỏi Kỷ Tỉnh tử:
- Con gà của ta đã đem chọi được chưa?
Kỷ Tỉnh tử đáp:
- Chưa được, vì con gà này ỷ thế lớn hiếp người, lông xù lên, ánh mắt xớn
xác, rất kiêu ngạo.
Chúng ta thường cho rằng lúc này đem gà đi chọi là thích hợp nhất.
Nhưng người biết luyện gà thì nói lúc này không thể được.
Mười ngày sau, nhà vua lại hỏi câu hỏi tương tự. Kỷ
Tỉnh tử đáp:
- Vẫn chưa được. Mặc dù tính khí nó đã bắt đầu dịu bớt, nhưng con gà
khác vừa cất tiếng là nó phản ứng lại ngay, còn muốn tranh đấu, nên chưa
đem chọi được.
Lại mười ngày trôi qua, nhà vua lần thứ ba đến hỏi. Kỷ Tỉnh tử nói:
- Vẫn chưa được. Tuy hiện nay nó đã điềm đạm hơn nhiều, nhưng trong
ánh mắt nó vẫn còn nộ khí, không được, chờ thêm một thời gian nữa.
Mười ngày trôi qua, nhà vua đến hỏi. Kỷ Tỉnh tử nói:
- Lần này thì được rồi. Những con gà khác dù có kêu nó cũng không thèm
đáp.
Vậy con gà ấy thế nào? Người Trung Quốc có câu thành ngữ "Đãi nhược
mộc kê" (trơ như gà gỗ). Kỷ Tỉnh tử nói:
- Con gà này giờ đã luyện đến mức như gà gỗ, tức là tinh thần bình thản,
đức tính nó giờ đã hoàn toàn nội hóa, trầm lắng. Bởi vậy con gà này mà đem
chọi thì bất cứ con gà nào nhìn thấy nó cũng lập tức cúp đuôi chạy. Lúc này
có thể đem gà đi chọi.
Trong Trang Tử có rất nhiều câu chuyện ngụ ngôn giúp chúng ta nhìn lại
mình một cách sâu sắc, vì nó cung cấp một hệ giá trị khác hẳn với cách nhìn
của chúng ta.
Chúng ta cho rằng một con gà chọi thì giống như một người lính ra trận,
cần phải hăng hái, quyết chiến, cần phải có tinh thần quyết thắng thể hiện ra
bên ngoài. Trong khi Trang Tử đưa ra yêu cầu là nó phải giũ bỏ hết sự sắc
nhọn bên ngoài, nạp hết nhuệ khí vào bên trong. Nội tâm đó thực ra là một sự
hàm súc, có nghĩa là không phải nó thật sự không có chí chiến đấu, mà là chí
chiến đấu đã thu vào bên trong, và lúc này mới có thể coi là toàn đức.
Sự tranh đấu thật sự không ở sự dũng mãnh, không ở kỹ xảo, mà là ở đức
tính.
Trong thiên Đạt sinh, Trang Tử kể câu chuyện về một người thợ mộc như
sau.
Có người thợ mộc nước Lỗ tên là Tử Khánh. Anh ta chuyên nghề đẽo gỗ
làm xảo, mà là ở đức tính.
Sự tranh đấu thật sự không ở sự dũng mãnh, không ở kỹ liêm. Liêm là cây
cột hai bên giá treo chuông hoặc trống, có chạm hình mãnh thú. Liêm còn có
một cách giải thích khác, nó là một loại nhạc khí, trên chạm hình hổ.
Người thợ mộc này làm liêm giỏi đến mức "kiến giả kinh vi quỷ thần",
người người nhìn thấy đều vô cùng kinh ngạc tưởng là do quỷ thần làm ra,
bởi người thường làm sao có thể khéo đến nhường ấy? Riêng con mãnh thú
chạm trên đó trông sống động như thật.
Danh tiếng của Tử Khánh vang xa, đến tai vua Lỗ. Vua
Lỗ cho vời Tử Khánh đến để hỏi bí quyết.
Tử Khánh rất khiêm tốn, nói rằng mình chỉ là một thợ mộc bình thường,
không có bí quyết nào cả. Tuy nhiên, ông nói tiếp: "Lúc chuẩn bị làm cái
liêm này, tôi không dám hao phí một chút sức lực, mà phải dụng công trai
giới. Mục đích trai giới là để "tịnh tâm", làm cho tâm mình tĩnh lại.
Trong quá trình trai giới, đến ngày thứ ba thì tôi đã có thể giũ bỏ mọi sự
phong công, ban thưởng, chúc mừng sau khi hoàn thành công việc. Điều này
có nghĩa là trai giới đến ngày thứ ba thì tôi đã có thể quên lợi.
Trai giới đến ngày thứ năm thì tôi đã không còn để ý tới những lời khen
chê hay thị phi đối với mình. Người ta nói tôi làm tốt cũng được, làm không
tốt cũng được, tôi đều không để ý đến nữa, đây cũng chính là quên danh.
Sau đó còn phải tiếp tục trai giới. Đến ngày thứ bảy, tôi đã có thể quên đi
"tứ chi hình thể" của cá nhân, tức là quên cả bản thân mình. Vào lúc này, tôi
có thể quên rằng tôi đang làm việc cho triều đình. Mọi người đều biết là làm
việc cho triều đình thì lòng luôn thấp thỏm, một khi có những suy nghĩ vẩn
vơ là không thể làm tốt được.
Đến lúc này tôi lên núi. Sau khi lên núi, tĩnh tâm lại, tìm kiếm cây mình
cần, quan sát chất gỗ, tìm cây nào có hình thù phù hợp, giống như cái liêm đã
thành hình hiện ra trước mắt thì đốn cây mang về, thuận tay gia công là nó trở
thành hình dạng như bây giờ".
Cuối cùng Tử Khánh nói: "Việc tôi làm chẳng qua là "dĩ thiên hợp thiên"
(lấy trời hợp với trời), đó chính là bí quyết của tôi".
Câu chuyện của người thợ mộc cho chúng ta thấy rằng: có một tâm thái
tốt, thản nhiên là có thể đạt đến trạng thái tốt nhất, có khả năng"dĩ thiên hợp
thiên" mới có thể làm công việc trở nên tốt nhất.
Vậy thì thế nào là "dĩ thiên hợp thiên"? Làm thế nào để làm được "dĩ thiên
hợp thiên"? Trai giới có ý nghĩa như thế nào?
Bốn chữ này rất đáng để chúng ta ghi nhớ: "dĩ thiên hợp thiên".
Con người cần phải dùng những sự việc mà bản thân nó hợp với quy luật
để đối ứng với quy luật, có nghĩa là đừng bao giờ đối địch với quy luật, đừng
đi ngược lại quy luật, mà nên dùng cái tâm trong sáng của mình, dùng trí tuệ
của mình để nhìn xem những việc nào có thể "dĩ thiên hợp thiên".
Người thợ mộc trai giới bảy ngày, thực ra là vượt qua ba giai đoạn: Giai
đoạn thứ nhất là quên lợi ích, không còn nghĩ đến việc dùng sự việc của mình
để đổi lấy đại lợi của thế gian; giai đoạn thứ hai là quên danh, không còn nghĩ
đến việc khen chê thị phi của người khác quan trọng như thế nào đối với
mình; giai đoạn thứ ba là quên mình, thực ra chỉ khi đạt đến tầm quên mình,
con người mới đạt được kết quả tốt nhất.
Trong thời đại thông tin ngày nay, những tin tức thực sự lay động lòng
người thường đến từ những nơi tuyến đầu nguy hiểm. Ở đó có những phóng
viên bất chấp cái chết, họ đã quên đi sự tồn tại của mình, chỉ quan tâm đến
thiên chức truyền thông của mình. Những bài báo họ gửi về là những bài viết
hay nhất.
Nếu một phóng viên ở hiện trường mà còn nghĩ: Mình trang điểm có đẹp
hay không? Chụp hình ở góc độ nào thì đẹp nhất? Mình nên đặt câu hỏi như
thế nào?... Thì chắc chắn phóng viên ấy sẽ không thể có được một bản tin
hay, bởi trạng thái nghề nghiệp thực sự tốt là phải đạt đến mức quên mình.
Người thợ mộc trong sách Trang Tử cho ta biết một đạo lý chất phác mà
huyền diệu, đó là làm việc phải làm cho tốt, nhưng muốn làm tốt ắt phải trải
qua ba giai đoạn: quên lợi, quên danh, quên mình. Nếu làm được ba điều này
thì bạn sẽ biết quy tắc của đại đạo trên đời, đạt đến mức "dĩ thiên hợp thiên".
Hãy thử nghĩ, đạo lý này có thật khó không? Không hề khó! Chỉ cần nhặt
lại rất nhiều thứ chất phác trong lòng chúng ta, đồng thời phá vỡ một số quy
tắc của thế gian, là chúng ta sẽ có thể thưởng thức hương vị ban sơ của cuộc
sống.
Có một câu chuyện rất hay:
Có một người làm vườn bình thường, anh say mê chăm bón cho khu vườn
trồng rất nhiều loại cây ăn quả.
Một mùa hè nọ, anh thu hoạch được một vụ nho rất sai quả; nho vừa to
vừa ngọt. Đây là thành quả bấy lâu anh vun xới nên anh vui lắm, muốn mọi
người cùng chia sẻ với mình nên ôm từng rổ nho đứng trước cổng, gặp ai qua
đường cũng đều đem nho đến mời nếm thử.
Một phú thương đi qua. Anh làm vườn ôm nho đến mời:
- Mời ông thưởng thức nho của tôi. Người phú thương ăn xong, nói:
- Nho này ngon quá, anh muốn bao nhiêu tiền? Tôi nhất định phải trả anh
tiền.
Người làm vườn đáp:
- Tôi không cần tiền, tôi chỉ muốn ông nếm thử hương vị của nó thôi.
Phú thương nói:
- Sao anh lại cho không tôi? Anh cho tôi nho ắt là muốn lấy tiền! Anh
đừng ngại, nào, để tôi trả anh tiền, chỗ nho này tôi mua về thưởng thức tiếp.
Phú thương nằng nặc nhét cho anh một khoản tiền rồi mang rổ nho đi.
Người làm vườn rất buồn bã. Lúc này một viên quan đi tới, anh lại bưng
nho đến mời:
- Mời ngài nếm nho xem hương vị thế nào?
Viên quan cho nho vào miệng ăn thử, thấy ngon quá, nói:
- Anh có việc gì cần nhờ ta? Anh thấy ta mặc quan phục chứ? Có chuyện
gì anh cứ nói, ta không thể ăn không nho của anh. Anh nói mau, có chuyện gì
nào?
Người làm vườn đáp:
- Tôi chẳng cần gì cả, tôi chỉ muốn ngài nếm thử hương vị của nho thôi!
Viên quan nói:
- Anh cứ để ta giúp anh việc gì đó, nếu không ta ăn không nho của anh
cũng không thích hợp. Không thì ta trả lại anh.
Nói xong viên quan để nho xuống, bỏ đi.
Người làm vườn càng buồn bã. Tiếp đó anh nhìn thấy một đôi vợ chồng
trẻ đang âu yếm cùng nhau đi tới. Anh nghĩ, cô gái trẻ này chắc chắn là thích
ăn quả tươi. Anh bèn ân cần nói với người thiếu phụ:
- Mời cô nếm thử nho của tôi xem thế nào?
Thiếu phụ nhận lấy nho ăn, mỉm cười rạng rỡ. Chồng cô trừng mắt nhìn
người làm vườn, hỏi:
- Anh có ý gì?
Người làm vườn thấy vậy quay người bỏ chạy mà không kịp hỏi hương vị
thế nào.
Anh quá buồn bã. Một hôm, anh trông thấy một ông lão ăn mặc rách rưới
đi tới. Anh cũng bưng một rổ nho lớn đến mời:
- Cụ có muốn nếm thử nho của tôi không?
Ông lão nhận lấy, ăn từng quả, vừa ăn vừa khen:
- Đây quả là hương vị tuyệt nhất trần gian. Nho này nhiều nước lại ngọt
thơm, hương vị này khác hẳn mọi loại nho khác.
Ông vui vẻ ăn nho xong, lững thững bỏ đi.
Anh làm vườn vô cùng vui vẻ, cảm thấy ngày hôm nay chỉ có ông lão cuối
cùng này là thật sự hiểu được hương vị của nho.
Con người làm việc muốn làm tốt thì phải vượt qua ba giai đoạn: quên lợi,
quên danh, quên mình.
Trong cuộc sống cũng có rất nhiều "rổ nho" bày ra trước mắt, nhưng nhiều
khi ta đã đánh mất tâm nguyện nếm thử nó. Chúng ta cho rằng đằng sau
những trái nho này chắc chắn có một ngụ ý nào đó, hoặc là vì lợi, hoặc là vì
danh, hoặc là vì sắc, làm sao con người có thể không có một chút mục đích
nào ẩn giấu trong đó? Và khi tính toán trong lòng, chúng ta sẽ không thưởng
thức được vị ngọt của nho.
Câu chuyện ngụ ngôn này chẳng phải cũng có tác dụng gợi mở giống như
của Trang Tử sao?
Từ cái nhìn của hơn hai nghìn năm trước, Trang Tử muốn cho chúng ta
biết điều gì? Đó là chỉ khi phá vỡ mọi cái tâm thế tục, dùng mong muốn bản
sơ của mình để hòa hợp với thế giới này, khi đó bạn mới có thể cảm nhận
được chân ý của thế giới.
Trên cõi đời này, cơ hội và vị ngon bày ra trước mắt chúng ta là như nhau,
chỉ có điều đòi hỏi chúng ta phải giải mã nó trong trạng thái như thế nào.
Cuộc sống chỉ là một khoảng thời gian. Thời gian nằm trong tay chúng ta,
nhưng thời gian của mỗi người là hữu hạn. Mỗi người chúng ta dù có giỏi
dưỡng sinh đến mấy cũng chỉ có thể sống không quá trăm tuổi.
Tuy vậy, chất lượng thời gian lại tùy thuộc vào mỗi người.
Chất lượng này không hẳn giống như tri thức càng nhiều, của cải càng
đầy, chức vị càng cao thì nhất định phẩm chất càng cao như ta tưởng. Trái lại,
rất nhiều khi trở lại với bản nguyên, làm cho sự sống của chúng ta trở lại với
trạng thái chân chất ban đầu, tâm hồn chúng ta mới cởi mở, cái tâm chúng ta
mới thật sự giống như được trải qua trai giới, có thể nhìn thấu danh lợi, đạt
đến tầm quên mình, mà tầm quên mình được coi là tự nhiên sẵn có.
Khi sự sống hòa hợp với đại đạo tự nhiên, chúng ta sẽ cảm nhận được
niềm vui thuần chân mà cuộc sống vốn có.
CHƯƠNG 10
ÐẠO LỚN VÀ TỰ NHIÊN

Sách Trang Tử kể rất nhiều câu chuyện, và mọi đạo lý trong đó đều rất
chất phác và hợp với tự nhiên. Bí mật trong đó chỉ có một, đó là: đạo lớn hợp
với tự nhiên.
Vậy thì chúng ta nên hiểu "đạo lớn hợp với tự nhiên" của Trang Tử như
thế nào?
Xét toàn bộ Trang Tử, mọi lý luận, mọi câu chuyện ngụ ngôn, thực ra chỉ
có một bí mật, đó chính là: đạo lớn hợp với tự nhiên.
Trong lý luận của Đạo gia, con người lấy mặt đất làm phép tắc, đất lấy trời
xanh làm phép tắc, trời lấy Đạo làm phép tắc, mà Đạo thì bắt chước tự nhiên.
Có thể nói, giữa từng người, giữa từng sự vật, không có sự phân biệt cao thấp
về kỹ xảo đơn thuần, chỉ có sự phân biệt về tầm vóc. Vậy thì tầm vóc phụ
thuộc vào điều gì? Chỉ có một tiêu chuẩn: Đạo lớn hợp với tự nhiên.
Trong thiên Tri bắc du, Trang Tử đã gán cho một người tên là Tri đi hỏi
thế nào là Đạo của nhân gian. Tri ở đây được hiểu là Trí, là người có trí tuệ
lớn.
Tri du lịch lên phía Bắc đến Huyền Thủy, gặp một cao nhân tên là Vô Vi
Vị, hỏi người này:
- Con người suy nghĩ như thế nào mới biết được đạo lớn? Ứng xử như thế
nào mới có thể ở yên với đạo lớn? Đi đâu về đâu mới có thể đắc đạo?
Vô Vi Vị chẳng nói chẳng rằng.
Thế là Tri rời khỏi Huyền Thủy, trở về bờ nam Bạch Thủy, leo lên đồi Hồ
Khuyết, gặp Cuồng Khuất, một vị cao nhân khác, bèn hỏi lại câu hỏi nêu trên.
Cuồng Khuất đáp:
- Ta biết, đang định nói với ngươi, nhưng ta quên mất là phải nói cái gì.
Tri không nhận được câu trả lời, bèn đến hỏi Hoàng
Đế. Câu trả lời của Hoàng Đế là:
- Đừng suy nghĩ mới hiểu được đạo lớn. Đừng nghĩ cách an thân xử thế
mới yên với đạo lớn. Không nghĩ đường đi, không hỏi phương pháp mới thật
sự có được đạo lớn.
Câu trả lời ấy có nghĩa là khi chúng ta quên đi mọi sự tham chiếu trong
tọa độ cuộc sống, thật sự nhìn thấu nội tâm mình, chúng ta sẽ hiểu được
chính mình, mới là đạt đạo.
Trên đời này, chúng ta đã dành quá nhiều thời gian để ngưỡng mộ người
khác. Bởi vậy trong thiên Thu thủy, Trang Tử kể một câu chuyện như sau:
Có loài thú thần một chân tên là Quỳ, con Quỳ này rất mực ngưỡng mộ
con Huyền (loài côn trùng có nhiều chân), bởi vì Huyền đi được bằng nhiều
chân; Huyền lại ngưỡng mộ rắn, vì rắn đi được mà không cần chân, không
những thế đi còn nhanh hơn nó; nhưng rắn lại ngưỡng mộ gió, vì gió ngay cả
hình dạng cũng không có, nhưng bay còn nhanh hơn rắn nhiều. Còn gió thì
ngưỡng mộ ai? Gió ngưỡng mộ ánh mắt của con người, vì ánh mắt đi đến
đâu, gió chưa tới mà ánh mắt đã tới rồi. Ánh mắt có phải là nhanh nhất
không? Ánh mắt ngưỡng mộ duy nhất một thứ, đó là lòng người, khi ánh mắt
chưa đến nơi thì lòng người đã đến nơi.
Trang Tử nói Quỳ ngưỡng mộ Huyền, Huyền ngưỡng mộ rắn, rắn ngưỡng
mộ gió, gió ngưỡng mộ ánh mắt, ánh mắt ngưỡng mộ lòng người, sự ngưỡng
mộ này có nghĩa là yêu thích, cảm thấy tầm vóc của người khác cao hơn
mình.
Mỗi người chúng ta có thể đều đã từng được truyền thêm sức mạnh từ tấm
gương của những người mà mình ngưỡng mộ. Trong đời luôn có những
người hoàn hảo hơn chúng ta, khiến ta xem như thần tượng để phấn đấu trở
thành mẫu người giống như họ.
Nhưng chúng ta thật sự có thể trở thành người khác không? Có một câu
chuyện ngụ ngôn thế này: Con chuột thấy mình nhỏ bé quá, nên luôn muốn
tìm được thứ to lớn nhất. Nó ngước đầu lên nhìn, cái gì lớn nhỉ? Chẳng gì lớn
bằng trời, nên chuột nghĩ rằng lý tưởng của cuộc đời mình là phải tìm cho
được chân đế của trời, bởi trời không sợ ai cả, trời quá rộng lớn, bao trùm
khắp nơi. Nó bèn hỏi trời:
- Có phải ông không sợ gì cả không, tôi bé nhỏ thế này, ông cho tôi một
chút dũng khí được không?
Trời nói với nó:
- Ta cũng có cái để sợ, ta sợ mây, vì mây có thể che trời, che mặt trời, mặt
trời và trời đều có thể bị mây mù che phủ.
Chuột thấy mây giỏi hơn, bèn đi tìm mây, nói:
- Anh che được cả bầu trời lẫn mặt trời, hẳn là anh có sức mạnh lớn nhất
trong trời đất.
Mây nói:
- Không phải, tôi sợ gió, tôi khó khăn lắm mới che khuất được bầu trời, ấy
thế mà gió thổi một cái là mây tan mất, gió thổi thì mây bay, cho nên tôi cũng
có cái để sợ.
Chuột bèn chạy đi tìm gió, nói:
- Sức mạnh của anh lớn quá, vạn vật trong trời đất đều có thể bị anh thổi
bay vèo, anh chẳng có gì để sợ phải không?
Gió nói:
- Tôi cũng có cái để sợ, tôi sợ bờ tường, mây trên trời tôi thổi được, nhưng
bờ tường trên mặt đất thì tôi chỉ có thể vòng qua, nên tường giỏi hơn tôi.
Chuột bèn chạy đi tìm bờ tường, nói:
- Anh chắn được cả gió, hẳn là anh mạnh nhất! Tường nói một câu khiến
chuột kinh ngạc:
- Tôi sợ nhất là loài chuột các anh đấy, vì chuột có thể khoét rất nhiều
hang dưới chân của tôi, đến một ngày nào đó tôi sẽ bị đổ kềnh ra đất.
Đến lúc này chuột mới vỡ lẽ, thì ra người giỏi nhất trên đời này chính là
nó. Thực ra một vòng tìm kiếm như vậy, không phải là một quá trình chúng
ta từ nhỏ sùng bái thần tượng, sùng bái người khác, cả đời mới phát hiện ra
nội tâm của chính mình đó sao?
Mỗi cá thể sống tuy bề ngoài khác nhau, nhưng bản chất lại giống nhau.
Cuộc đời của mỗi người đều độc đáo riêng biệt, sùng bái thần tượng
không bằng hiểu rõ chính mình, bởi lẽ bản thân chúng ta không bao giờ có
thể trở thành người khác.
Mặc dù trên đường đời của chúng ta sẽ có gập ghềnh trắc trở, nhưng dù là
vinh quang hay khốn khổ, mọi thứ đều sẽ trở thành quá khứ.
Trên thế giới này, con người gặp quá nhiều sự việc, mọi cơ hội sẽ đến,
mọi phong ba đều sẽ hết. Nhưng làm chủ được mình trong từng cơ hội, đó
chính là hợp với đạo lớn của trời đất mà Đạo gia nói.
Điều Trang Tử muốn nhắc nhở chúng ta là: nếu con người đánh mất mình
trong thế giới vật chất, biến đổi tính tình vì thế tục, thì người đó gọi là "đảo
trí chi dân", tức là đảo lộn gốc ngọn.
Cho nên, điều chúng ta cần nhận thức rõ là hai chướng ngại bên ngoài,
một là vật chất, hai là thế tục. Vật chất thường là một thứ lợi ích, có thể làm
mất rất nhiều sự suy xét của chúng ta, còn thế tục là một thứ ngôn luận, là
một ánh mắt, có thể làm nhiễu loạn những giá trị thuần phác của chúng ta.
Nếu một người đánh mất chính mình, thì người đó sẽ không thể tìm được giá
trị và sức mạnh thật sự trong lòng mình.
Con người làm thế nào để không đánh mất mình, làm thế nào để không bị
mê hoặc? Muốn vậy chúng ta phải hiểu rằng: Mỗi sự việc trước mắt cuối
cùng rồi sẽ trôi qua. Nhiều thứ tốt đẹp ta hưởng thụ trong hiện tại cũng sẽ đi
mất. Rất nhiều sự việc khổ nạn mà chúng ta phải chịu đựng rồi cũng sẽ qua
đi.
Có câu chuyện như sau:
Một nhà vua nằm mơ thấy mình được tặng câu châm ngôn có thể sử dụng
cả đời kèm theo lời dặn dò: Chỉ cần bệ hạ ghi nhớ câu nói này thì cả đời bệ
hạ sẽ quên hết được mất, có thể an nhiên vượt qua mọi vinh nhục.
Khi tỉnh lại, nhà vua chỉ nhớ lời dặn đó mà quên mất câu châm ngôn kia.
Chỉ một câu châm ngôn mà giúp ích cho cả đời, câu nói quan trọng đó là gì?
Nhà vua nghĩ mãi không ra, bèn cho chế tác một chiếc nhẫn vàng khổng lồ
rồi bảo các đại thần:
- Các khanh hãy đi tìm câu nói này cho trẫm. Ai tìm được câu nói đó, trẫm
sẽ thưởng chiếc nhẫn này.
Một hôm một vị lão thần thông minh nhất tâu:
- Bệ hạ hãy đưa chiếc nhẫn cho thần trước. Nhà vua hỏi:
- Khanh đã tìm được rồi ư?
Vị lão thần không nói gì, cầm lấy chiếc nhẫn, khắc một câu trên chiếc
nhẫn rồi trả lại cho vua và nhẹ nhàng rời khỏi cung.
Nhà vua xem xong chợt nhớ ra trong mơ chính là câu nói này, một câu nói
bình thường: "Tất cả đều sẽ qua đi".
Tất cả chúng ta cũng đều nên ghi nhớ câu nói này. Vinh quang rồi sẽ qua
đi, sỉ nhục rồi sẽ qua đi, huy hoàng rồi sẽ qua đi, khổ nạn rồi sẽ qua đi. Mọi
thứ xung quanh chúng ta chỉ là dĩ vãng. Chỉ duy nhất hiện tại là thật sự có giá
trị, cho nên chúng ta cần phải truy xét chất lượng của mỗi thứ mà chúng ta
đang có trong hiện tại.
Trang Tử nói: "Đạo lớn hợp với tự nhiên". Vậy thì thế nào là đạo lớn thật
sự trong trời đất? Đạo lớn chẳng qua là một quy tắc.
Mỗi con người mỗi độ tuổi khác nhau, cảnh ngộ khác nhau, học vấn khác
nhau, xuất thân khác nhau. Bạn có thể học tập kinh nghiệm của người khác,
nhưng bạn phải thật sự hiểu được lòng mình.
Trang Tử nói: Trong trời đất, người nào thật sự hiểu được lòng mình thì
được gọi là người giỏi dưỡng sinh. Vậy "người thật sự hiểu được lòng mình"
là người như thế nào?
Ông nói người thật sự giỏi dưỡng sinh giống như người chăn cừu. Người
chăn cừu tuy giơ roi lên, nhưng anh ta rất tốt đối với cả bầy cừu. Cái roi của
anh ta sẽ quất xuống con cừu nào? Con cừu đi cuối cùng. Những con cừu đi
trước thì không cần đánh; làm cho con đi sau cùng bước nhanh lên, cả bầy
cừu đi trước sẽ đi nhanh.
Điều này tương tự một lý thuyết trong quản trị học hiện đại, đó là lý
thuyết cái thùng gỗ. Chiếc thùng gỗ được ghép từ rất nhiều mảnh ván, các
mảnh ván có cái dài cái ngắn. Chiếc thùng này chứa được bao nhiêu nước
hoàn toàn không phụ thuộc vào miếng ván dài nhất, mà phụ thuộc vào miếng
ván ngắn nhất.
Chăn cừu cũng vậy, thùng gỗ cũng vậy, luôn có con cừu đi cuối cùng,
luôn có mảnh ván ngắn nhất. Chỉ có chính chúng ta mới nhìn thấy rõ con đi
sau cùng trong bầy cừu là con nào, mảnh ván ngắn nhất trên cái thùng của
mình là chỗ nào.
Còn khi con mắt của chúng ta luôn chỉ nhìn thấy mảnh ván dài nhất, luôn
chỉ thấy con cừu đi đầu đàn, ta luôn có căn cứ để khoe khoang, rằng phần cao
nhất của cuộc đời tôi là ở đó. Con cừu đầu đàn tuy oai phong biết bao, nhưng
cả bầy cừu đi sau không biết đã tan tác nơi nào trên sườn núi; đã mất mát
không biết bao nhiêu, vậy mà còn nhìn con cừu đi đầu để đắc ý vui mừng.
Khi đắc chí vì mảnh ván cao nhất của mình, nhiều người không biết rằng
nước trong thùng của mình đã chảy hết bởi mảnh ván thấp nhất trên thùng.
Cho nên chúng ta cần thường xuyên tự hỏi mình: con cừu đi cuối cùng
trong cuộc đời mình là cái gì, mảnh ván ngắn nhất của mình là ở đâu?
Sống ở đời cần có trí tuệ lớn là "tuyết trung tống thán" (tuyết đến tặng
than) cho chính mình, chứ đừng luôn "cẩm thượng thiêm hoa" (thêu hoa trên
gấm). "Thêu hoa trên gấm" là để người khác xem, còn "tuyết đến tặng than"
là cho chính mình.
"Thêu hoa trên gấm" là để người khác xem, còn "tuyết đến tặng than" là
cho chính mình.
Từ đạo lý này nhìn rộng ra thế giới, Trang Tử nói "đạo đức bất phế, an thủ
nhân nghĩa, tính tình bất ly, an dụng lễ nhạc" (đạo đức không bỏ, cần gì phải
dùng đến nhân nghĩa, tính tình không ly tán, hà tất phải dùng đến lễ nhạc).
Trên thế giới này, nếu bên trong mỗi người luôn giữ đạo đức thì cần gì đến
quy phạm lễ nghi bên ngoài nữa? Tính tình của mỗi con người nếu không ly
tán, không đi ngược lại với bản chân của con người, thì cần gì đến lễ nhạc
bên ngoài?
Hãy xem chúng ta hiện nay, rất nhiều quan niệm đạo đức được rao giảng
trên các phương tiện truyền thông, rất nhiều sự khen thưởng thực ra là thấp
hơn lằn ranh của đạo đức. Thí dụ, rất nhiều nơi bầu chọn người con hiếu thảo,
khen ngợi rằng người con đó hiếu thảo phụng dưỡng bên giường bệnh của
cha mẹ, hiếu thuận với cha mẹ. Điều này có cần đến phương tiện truyền
thông biểu dương không? Hiếu kính cha mẹ là điều tối thiểu trong việc làm
người.
Trang Tử cho rằng, thứ chất phác nhất trên đời chính là bản chân trong
lòng người, chứ không nên cố tình đề xướng, cố tình rao giảng một thứ tiếng
lòng ầm ĩ bên ngoài.
Trang Tử cho rằng, mọi đạo lý pháp quy chẳng qua là cái bản chân tự
nhiên nhất trong lòng người, việc gì phải dùng bất kỳ hình thức bên ngoài
nào cố ý thực hiện cho bằng được.
Nhưng Khổng Tử lại cho rằng, lễ nghi rất quan trọng; quan trọng đối với
một con người cho đến một đất nước.
Trang Tử và Khổng Tử rốt cuộc ai đúng ai sai? Chúng ta nên hiểu sự khác
nhau của Nho gia và Đạo gia như thế nào?
Ở đây chúng ta có thể thấy được sự khác nhau thật sự giữa Đạo gia và
Nho gia.
Nho gia thì đề xướng lễ nghi, yêu cầu mỗi người phải dựa vào quy phạm
hành vi bên ngoài, dùng lễ nghi để ứng xử với người khác và thích ứng với xã
hội, dùng chuẩn mực quy củ bên ngoài để tạo nên sự hài hòa của thế giới.
Còn Đạo gia thì đề xướng mỗi người tuân theo đạo đức trong lòng, nghe theo
tiếng lòng tự tại, chứ không cần có bất kỳ sự gượng ép bên ngoài nào.
Có thể nói Nho và Đạo bổ sung cho nhau, thai nghén nên nhân cách Trung
Hoa.
Nhưng Nho gia dạy cho chúng ta cách đi vào thế giới (nhập thế), thực hiện
giá trị cá nhân của mình, phải bén rễ trong mảnh đất này; Đạo gia thì dạy
chúng ta đi ra khỏi thế gian (xuất thế), thực hiện sự siêu việt của nhân cách,
giúp chúng ta có đôi cánh tung bay trên bầu trời.
Như vậy Nho gia dạy chúng ta năng lực đi trên mặt đất, cho nên giữa
người với người phải có lễ nghi. Còn Đạo gia cho chúng ta lý tưởng bay trên
bầu trời, cho nên mỗi người phải tuân thủ đạo đức trong lòng.
Thực ra cả Nho và Đạo, xét theo quan điểm của chúng ta ngày nay, đều
không thể thiên vị. Mặc dù giữa Nho và Đạo có một số xung đột, có một số
quan điểm có vẻ mâu thuẫn, nhưng khi ứng dụng vào mỗi con người sẽ có sự
bổ sung.
Trên đời này, thứ thật sự quan trọng chẳng gì ngoài nhận biết chính mình,
làm cho sự sống của mình hợp với đạo lớn, điều đó sẽ giúp chúng ta bớt đi rất
nhiều đường vòng.
Rất nhiều khi chúng ta không thua về tốc độ chảy của mình, mà thua về
chỉ số thông minh của mình.
Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Linh dương là một trong những loài động vật chạy nhanh nhất, khéo léo
nhất. Nó bắt nạt rùa, buộc rùa chạy thi với mình. Bạn nghĩ xem, thắng thua
của cuộc đua chẳng phải rất rõ ràng rồi sao? Linh dương phải thắng một cuộc
thi đấu mà chắc chắn sẽ thắng. Vậy mà rùa lại đồng ý, nói rằng sáng sớm
hôm sau cả hai bắt đầu cuộc đua.
Sáng sớm hôm sau, linh dương và rùa cùng đứng trên một đường chạy.
Cuộc đua bắt đầu, linh dương chạy vụt như tên bắn, không thèm nhìn rùa. Nó
hối hả chạy được một đoạn rồi dừng lại, đắc ý kêu lên: "Rùa con, mi đâu
rồi?". Bất chợt nó nghe thấy tiếng rùa từ tốn nói trong một đám cỏ cách nó
không xa: "Tôi ở đây này, chạy tiếp đi".
Linh dương giật mình, sao rùa lại ở trước được nhỉ! Linh dương lại bắt
đầu sải chân chạy. Chạy được một đoạn, nó nói: "Rùa con, mi chạy kịp ta
không?". Bất chợt nó lại nghe thấy tiếng rùa con thong thả đáp trong một lùm
cỏ cách nó mấy bước: "Tôi đã vượt anh rồi, anh cứ chạy tiếp đi".
Lần này thì linh dương bắt đầu hoảng, nó chạy một đoạn, lại hỏi, rùa lại
đáp, còn đến trước nó vài bước. Cuối cùng linh dương chạy về đích trong sự
buồn bã tột độ, nó phát hiện rùa vẫn ở trước nó. Linh dương thừa nhận nó đã
thất bại, tốc độ của mình chẳng có ích gì.
Sự thật có phải như vậy không? Thực ra, tối ngày hôm trước, sau khi thỏa
thuận với linh dương xong, rùa bèn triệu tập toàn bộ gia tộc rồi sắp xếp trên
mỗi đoạn đường cần chạy một con rùa trú sẵn, tức là mười mấy con rùa rải
đều ở giữa chặng đường chạy thi. Vậy nên linh dương chạy đến đâu hỏi là có
một con rùa phía trước trả lời ngay. Cuối cùng linh dương đã thua bởi mưu kế
này, nó thật lòng thừa nhận mình đã thất bại.
Câu chuyện ngụ ngôn này cho chúng ta thấy trí lực quan trọng hơn tốc độ,
khả năng phán đoán có giá trị cao hơn kỹ xảo.
Trên thế giới này, trí lực quan trọng hơn tốc độ, khả năng phán đoán có
giá trị cao hơn kỹ xảo.
Trang Tử cho rằng nếu thế giới này trở lại nguyên bản, nghĩa là bớt đi rất
nhiều đạo đức đề xướng bên ngoài. Đừng tin tưởng quá mức vào kỹ xảo
huyền diệu, chúng ta hãy trở về với thế giới chất phác nhất, bản sơ nhất.
Xã hội hiện đại cạnh tranh khốc liệt, thậm chí có người không từ bất kỳ
thủ đoạn nào để đoạt lấy lợi danh. Trang Tử khuyên con người hiện đại
chúng ta có thêm một sự đạm bạc chất phác tự nhiên trong lòng, bớt một
phần hành vi gượng ép đầu cơ trục lợi; nếu không chúng ta sẽ có thể đánh
mất chính mình trong thế giới bao la này.
Thế nhưng chúng ta làm thế nào mới có thể giúp mình thật sự bước vào
đạo lớn tự nhiên trong cuộc đời hữu hạn này?
Trang Tử nói: "Hư vô điềm đạm là hợp với đức trời". Hành vi của một con
người đạt đến mức hư vô điềm đạm, làm trong lòng tĩnh lại, không hoảng
loạn, đó là hợp với đức trời.
Rất nhiều khi cuộc sống chúng ta rơi vào cảnh tuyệt vọng, chỉ có dựa vào
phán đoán sáng suốt và sự tỉnh táo trong lòng mới có thể giúp ta vượt qua.
Khi đó, rốt cuộc là ai dẫn dắt lòng ta?
Có một câu chuyện có thực như sau:
Một nhóm sinh viên Khoa địa chất học khảo cổ theo giáo sư của họ khám
phá một cái hang cổ nghìn năm. Tương truyền trong hang cổ này có sự sinh
thành của đá thủy tinh, do đó rất nhiều người muốn đến xem. Hang cổ rất sâu,
rất nhiều người từng vào mà không ra được, cho nên người ta coi nơi đây là
tử địa.
Những sinh viên này mang theo rất nhiều trang thiết bị, đèn chiếu sáng,
đuốc, kể cả la bàn. Theo chỉ dẫn của giáo sư, họ đi vào hang. Cái hang này
quả nhiên đường đi vòng vèo, một lớp hang là một lớp trời. Họ vượt qua từng
tầng một, cuối cùng đi đến chỗ sâu nhất của hang, nhìn thấy đá thủy tinh như
trong giấc mơ của họ. Họ kinh ngạc trước kỳ quan, cảm thấy chuyến đi thật
không uổng công, sau đó họ lấy mẫu, nhìn ngắm... Đến khi bình tĩnh trở lại,
họ chợt nhận thấy hầu như mỗi ngách hang đều có thể thông với một con
đường khác nhau. Họ đã lạc đường.
Lúc đó giáo sư nói với họ: "Ở đây còn có ký hiệu người đi trước để lại,
trên mỗi giao lộ có đá vôi vẽ dấu tích, chúng ta đi ra theo đó". Mọi người
theo đó bước đi, giáo sư cầm một cây đèn đi trước, chốc chốc ông lại kinh
ngạc kêu lên: "Ở đây còn có dấu tích nữa này!". Ông luôn là người đầu tiên
phát hiện ra dấu tích.
Mọi người theo ông bước lần theo từng dấu tích, cuối cùng cả nhóm cũng
thoát ra khỏi hang, nhìn thấy ánh mặt trời. Các sinh viên ngồi bệt xuống đất,
có người khóc nói: "Đúng là gặp sự sống nơi đường cùng! Nếu không có sự
chỉ dẫn của người đi trước, chắc chắn chúng ta sẽ không ra được".
Lúc đó vị giáo sư lặng lẽ rút trong túi áo mình ra một cục đá vôi nhỏ.
Thực ra mọi ký hiệu trên vách hang đều là do giáo sư vạch ra chứ chẳng có
người đi trước nào chỉ dẫn.
Nơi họ bước vào vốn là đường cùng, là nơi nguy hiểm không thoát ra
được, nhưng nhờ sự dụng công của mình, đi theo con đường của mình, họ đã
thoát ra khỏi tử địa.
Điều này cũng giống như diễn tiến trong cuộc sống của chúng ta. Khi
chúng ta vì mục tiêu huy hoàng của mình, hoặc vì lợi ích vật chất cám dỗ,
chúng ta đều có thể quên đi nguy hiểm, không đánh ký hiệu trên đường đi,
chỉ cắm đầu lao tới. Đến cuối cùng, chúng ta nhận thấy đã hết đường thì ôi
thôi, "hồi cố sở lai kinh, thương thương hoành thúy vi" (quay trở lại nhìn thì
mênh mông bát ngát, không biết đâu là con đường mình đã đi).
Chúng ta đã không nhận rõ con đường lúc đến thì làm sao có năng lực để
trở về - trở về với bản sơ, trở về để thấy lại mặt trời? Khi đó, chúng ta mới tự
trách mình tại sao khi đến chỉ dựa vào cảm xúc, chỉ dựa vào sự hấp dẫn của
mục tiêu mà quên mất phải đánh dấu cho con đường trở lại của mình thì cũng
đã muộn. Thực ra đó chính là sự đánh mất mình trong thế giới bao la.
Trong Thiên đạo thiên, Trang Tử kể một câu chuyện: Vua Nghiêu và vua
Thuấn bàn luận về việc trị vì thiên hạ, hai người đại diện cho hai thái độ khác
nhau.
Thuấn hỏi Nghiêu:
- Xin hỏi ngài dùng tấm lòng như thế nào để ứng xử với thế giới và trị vì
thiên hạ?
Nghiêu đáp:
- Những người không nơi nương tựa, ta không bao giờ khinh thường họ,
những người lao khổ cô đơn, ta không bao giờ bỏ rơi họ; ta có lòng xót
thương con trẻ, ta luôn thương cảm phụ nữ, những kẻ yếu ớt, đó chính là cái
tâm của ta.
Câu trả lời của Nghiêu thực ra là quan điểm của Nho gia, tức là khoan
hòa, thương xót cả thế giới, nhất là thông cảm với những người yếu ớt.
Thuấn đánh giá về Nghiêu rằng: "Mỹ tắc mỹ hĩ, nhi vị đại dã", tức là tấm
lòng của bệ hạ như vậy là lương thiện là tốt đẹp đối với cả thế giới, nhưng mà
tầm chưa đủ rộng lớn. Nghiêu bèn hỏi: "Cái lớn mà ngươi nói nó như thế
nào?".
Thuấn đáp: "Thiên đức nhi xuất ninh, nhật nguyệt chiếu nhi tứ thời hành",
tức là trời thì sinh thành ở đó, mặt đất thì phẳng lặng, mặt trời, mặt trăng luân
phiên nhau chiếu rọi thế gian, bốn mùa vận hành không nghỉ, cả thế giới luôn
luôn vận chuyển như vậy. "Nhược trú dạ nhi hữu kinh, vân hành nhi vũ thi
hĩ", thế giới này giống như ban ngày, ban đêm có giới hạn luân chuyển rõ rệt
của nó, trên trời có mây, mặt đất sẽ có mưa, có nghĩa là mọi thứ trên thế giới
đều là tự nhiên, đó chính là cái "lớn" mà kẻ hạ thần muốn nói.
Nghe xong lời Thuấn nói, Nghiêu bảo: Ta hiểu rồi, tấm lòng đó của ta chỉ
hợp với đạo thế gian, còn tấm lòng mà ngươi nói thì hợp với đạo trời, vậy đạo
trời mới là đạo lớn.
Có thể nói, toàn bộ thế giới bên ngoài đều là người thầy tốt nhất cho cuộc
sống của chúng ta. Chỉ khi ta đắm mình trong đó, thật sự cảm nhận được cái
gọi là một bông hoa một thế giới, một cái lá một lòng bồ đề, có sự triệt ngộ
trên từng bông hoa từng ngọn cỏ, thì chúng ta sẽ hiểu được cái lẽ của vạn vật.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng, một tù trưởng nói với trai tráng
trong bộ lạc của mình:
- Các ngươi hãy đi xa, dấn thân vào cuộc đời. Chỉ cần các ngươi có sáu
chữ của ta là đủ sống cho cả cuộc đời. Trước hết ta cho mỗi người các ngươi
một tờ giấy, viết ba chữ trước, các ngươi ra đi, đến khắp thế giới, sau khi các
người trở về ta cho ba chữ nữa.
Cánh trai tráng nhận lấy một tờ giấy nhỏ, tỏa ra khắp đất trời bốn biển. Họ
đã trải qua vinh nhục gian lao, mỗi thời khắc họ đều nhìn thấy ba chữ được
viết một cách đơn giản: "Đừng sợ hãi". Con người không được sợ hãi, bất kỳ
khó khăn nào cũng có thể vượt qua.
Khi đến tuổi trung niên thì tất cả bọn họ, hoặc đã thành công hoặc còn
nghèo khó, hoặc đã nắm bắt hoặc bỏ qua rất nhiều cơ hội, mỗi người mang
theo tất cả phong sương hoặc niềm vinh dự trở về tìm gặp vị Tù trưởng để xin
ba chữ nữa. Ba chữ mà họ nhìn thấy chính là: "Đừng hối hận".
Thế đấy! Nửa đời trước đừng sợ hãi, nửa đời sau đừng hối hận; trên đời
này chúng ta không sợ hãi điều gì, cũng không có gì phải hối hận, thực ra
cuộc đời chẳng qua là tận tâm tận lực, như thế mà thôi. Triết lý phương Tây,
trí tuệ phương Đông, đạo lớn trời đất đều hợp với lẽ đó.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng, có một chàng trai trẻ đánh cược với
ông lão khôn ngoan, anh cầm một con chim non trong tay và nói: - Thưa bậc
trí giả, cụ đã có thể đoán được mọi thứ, vậy xin cụ cho biết, con chim non
yếu ớt trong tay cháu đã chết hay còn sống?
Cả thế giới bên ngoài chính là người thầy tốt nhất của con người.
Chàng trai trẻ chắc mẩm mình đã nắm phần thắng. Anh nghĩ nếu ông lão
nói là sống, thì anh chỉ cần bóp nhẹ ngón trỏ, con chim non sẽ chết; nếu ông
lão nói con chim đã chết, anh thả lòng bàn tay ra và con chim sẽ bay lên; ông
lão nhất định sẽ thua.
Ông lão thủng thẳng nói với anh một câu, đó là:
- Sự sống chính ở trong tay anh.
Sự sống của mỗi người cũng chẳng khác nào con chim non này, mỗi
người phải đối diện với con chim này, có thể sống có thể chết, tất cả đều
được quyết định bởi tấm lòng của chúng ta. Cuộc sống hữu hạn, thời gian
ngắn ngủi, cuối cùng sự thành toàn của mỗi cuộc đời gói gọn trong một câu
nói: Cuộc đời mỗi con người nằm trong tay chính chúng ta.
Hết

You might also like