You are on page 1of 23

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

NHẠC VIỆN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


MÔN HỌC: TRIẾT HỌC

Họ và tên: Tạ Thị Ngọc Hân


Mssv: A712203
Lớp: Cao học khoá 30; chuyên ngành: Biểu diễn thanh nhạc
Gvhd: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Duyên

TP. Hồ Chí Minh- Năm 2023


NỘI DUNG THỰC HIỆN
CÂU HỎI : Cơ sở lý luận nào để rút ra nguyên tắc Toàn diện, Lịch sử-cụ thể ?
Phân tích cơ sở đó. Vận dụng nguyên tắc trên phân tích một hiện tượng văn hoá
của giới trẻ ở Việt Nam hiện nay.
BÀI LÀM:
1. Phân tích cơ sở lý luận rút ra nguyên tắc Toàn diện, Lịch sử- cụ thể:
Trong phép biện chứng duy vật, có 2 nguyên lý cơ bản là mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển. Nguyên tắc toàn diện và lịch sử- cụ thể là 2
nguyên tắc trong phương pháp luận cơ bản của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Theo đó, mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan tồn tại trong mỗi liên hệ ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các sự vật , hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật của một hiện
tượng trong thế giới. Tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ : Nhờ có mối
liên hệ mà có sự vận động, mà vận động lại là phương thức tồn tại của vật chất, là
một tất yếu khách quan, do đó mối liên hệ cũng là một tất yếu khách quan. Mối liên
hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy. Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó
thể hiện tính thống nhất vật chất của thế giới . Do mối liên hệ là phổ biến nên nó có
tính đa dạng : Các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất đa dạng nên mối liên
hệ giữa chúng cũng đa dạng. Vì thế, khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cần phải
phân loại mối liên hệ một cách cụ thể.
1.1 Nguyên tắc toàn diện:
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện chính là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến của phép biện chứng duy vật, theo đó, các sự vật, hiện tượng tồn tại trong sự
tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau. Vì các mối liên hệ là sự tác
động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối
liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh
cách xem xét phiến diện. Nguyên toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật
trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính
sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối
liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức
đúng về sự vật.
Đồng thời, nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải biết chủ ý tới mỗi liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên
hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các
mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo nguyên tắc toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải
chú ý tới những mỗi liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời , chúng ta
phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh ". Một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của
đất nước ta, mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng
quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
1.2 Nguyên tắc lịch sử cụ thể
Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú- sự vật, hiện tượng khác nhau,
không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng nguyên tắc lịch sử-
cụ thể. Về nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
được V.I.Lênin nêu rõ là phải xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một
hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải
qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát
triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào.
Như vậy, nguyên tắc lịch sử - cụ thể tái tạo lại sự vật, hiện tượng thông qua lăng
kính của những ngẫu nhiên, những bước quanh co, những gián đoạn theo tình tự
không gian và thời gian, theo trình tự của sự hình thành sự vật, hiện tượng; nhờ đó
mà có thể phản ánh được sự vận động đa dạng và nhiều vẻ của các hình thức biểu
hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử- cụ thể, môi trường cụ thể
trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm
nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm
khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của
từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta
cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế
diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đỏ và trong khi thực hiện đường lối,
chủ trương. Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phủ hợp với diễn biến của
hoàn cảnh cụ thể.
2. Phân tích một hiện tượng văn hoá của giới trẻ ở Việt Nam hiện nay
dựa trên nguyên tắc Toàn diện, Lịch sử- cụ thể.
Do xu thế hội nhập toàn cầu, giới trẻ ngày nay bị cho rằng bị lạm dụng mạng
xã và có lối sống ảo, không còn chú trọng vào đời sống thiết thực hằng ngày.
Dựa trên nguyên tắc toàn diện, việc giới trẻ tập trung vào mạng xã hội cũng
có những mặt tích cực và tiêu cực. Ngày nay với mạng xã hội, các bạn trẻ có thể
thoải mái chia sẻ cảm xúc cá nhân góp phần làm giảm thiểu các vấn đề về tâm lý.
Họ có thể kinh doanh kiếm thêm thu nhập mà chỉ cần ngồi tại nhà. Nhờ mạng xã
hội mà giới trẻ có thể mở rộng mối liên hệ không chỉ là trong nước, các thành viên
gia đình có thể gắn kết hơn. Nó còn giúp ích cho việc học nếu sử dụng một cách
hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì việc tập trung quá nhiều vào
mạng xã hội cũng tồn tại một số điểm tiêu cực khiến xã hội có cái nhìn không tốt.
Nếu lạm dụng thời gian vào điện thoại hay các thiết bị điện tử quá nhiều dễ làm con
người bị ảnh hưởng sức khoẻ, sinh ra các chứng bệnh tâm lý như tự kỉ, stress…
Khoảng cách mối liên hệ giữa con nguời và con người cũng có thể dần xa cách
hơn. Vì vậy, cần xem xét các mặt tích cực và cả tiêu cực để có những hành động
phù hợp.
Theo quan điểm lịch sử- cụ thể, việc đánh giá về hiện tượng giới trẻ tập trung
nhiều vào mạng xã hội và ít chú trọng vào đời sống thiết thực hằng ngày cần xem
xét dựa trên không gian và thời gian. Việc lạm dụng mạng xã hội mang tính đúng-
sai còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử. Việc phát triển và chạy theo công nghệ
luôn là một xu thế tất yếu và đất nước chúng ta cũng không ngoại lệ. Điều này đặt
ra những thách thức cho những nhà quản lý, giáo dục và phụ huynh về việc quản lý
giới trẻ. Chúng ta không thể cấm hay kiểm soát được sự vận động và phát triển của
xã hội. Nhưng chúng ta có thể thay đổi cái nhìn, tư duy và cách quản lý để thích
ứng với nó. Vì vậy, vấn đề lạm dụng mạng xã hội tốt hay xấu còn tuỳ vào cách
chúng ta nhìn nhận và phản ứng với nó.
CÂU HỎI: Phân tích quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất? Tại sao nói: nguồn nhân lực có vai trò quan
trọng hàng đầu trong sự phát triển của xã hội? Nêu những thành tựu trong phát
triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay?
BÀI LÀM:
1. Phân tích quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất
1.1 Lực lượng sản xuất là gì ?
Lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật
chất, kỹ thuật, công nghệ…của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải
biến giới tự nhiên của con người. Với ý nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng
đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Các yếu tố để tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong
đó, công cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên
của con người) và người lao động ( trong đó năng lực sáng tạo của con người là yếu
tố đặc biệt quan trọng). Trong 2 nhóm yếu tố nói trên, người lao động là nhân tố
quan trọng nhất (bởi vì, tư liệu sản xuất có nguồn gốc từ lao động của con người và
được sử dụng bởi con người)
1.2 Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ giữa
người với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất xã hội) .
Quan hệ sản xuất bao gồm : quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của
quá trình sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống
nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất.
1.3 Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối liên hệ biện
chứng.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất biện chứng ( phụ thuộc, rằng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành
quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn
quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình độ. Trong đời sống hiện thực,
không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực
tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình
thức kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng không có một quá trình sản xuất nào có thể
diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung
vật chất của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn
nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá
trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với
thực trạng đó trên cả ba phương diện : sơ hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý và
phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác -
sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội
chỉ có thể duy trì, khai thác - sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh tế- xã
hội nhất định.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
biện chứng nhưng trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lượng sản xuất, còn
quan hệ sản xuất giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân
theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát
triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định. Bởi vì, quan hệ
sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là
nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là bình thức kinh tế của quá trình sản
xuất . Nó luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động , phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu
cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất
với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản
xuất. Nếu “ phù hợp ” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại , " không phù hợp " sẽ
có tác dụng tiêu cực.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn
cần được giải quyết để thúc đẩy sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực
lượng sản xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và
phát triển trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng
cao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển
của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của
những quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng vai trò là hình thức kinh tế cho sự
phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là những hình thức phù hợp
và cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những hình
thức kim hãm sự phát triển đó. Nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải thiết lập lại mối
quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với
nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất . Khi phân tích sự vận động của mâu
thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. C.Mác đã từng chỉ
ra rằng : “ Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất
vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có ... trong đó từ
trước đến nay các lực lượng xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát
triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các
lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội ". Chính
nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay
thế bằng một quan hệ sản xuất mới , phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng
sản xuất đã phát triển , tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
2. Tại sao nói: nguồn nhân lực có vai trò quan trọng hàng đầu trong sự
phát triển của xã hội
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, “ người lao động " là nhân tố
giữ vai trò quyết định . Bởi vì, suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm
lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản
xuất phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động. Mặt
khác, trong tư liệu sản xuất nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ảnh rõ nhất
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người
chinh phục giới tự nhiên .
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có nhân tố thuộc về người
lao động ( như năng lực, kỹ năng, tri thức ... của người lao động) cùng các tư liệu
sản xuất nhất định (như đối tượng lao động công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ
của quá trình sản xuất ...). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của
các quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tỉnh
thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát
triển của con người . Như vậy, lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính sáng tạo
và tính sáng tạo đã có tính lịch sử. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực
lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp hơn rất nhiều so với
lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao.
3. Nêu những thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay ?
Ở Việt Nam, chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được đầu tư và phát triển.
Nước ta tập trung vào việc đào tạo từ nguồn theo hướng chuyên môn hoá. Các công
ty làm việc đã có sự liên kết với các cơ sở đào tạo để đảm bảo đầu ra cho các
trường cũng như giúp việc đào tạo bám sát tình hình thực tế theo yêu cầu xã hội.
Ngược lại, nhờ đó các công ty cũng có nguồn nhân lực đã được đào tạo bài bản và
đáp ứng được yêu cầu việc làm. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo
ngày càng được chú trọng và nâng cao góp phần phát triển kinh tế đất nước
CÂU HỎI: Tại sao phải thay đổi hình thức công hữu từ nền kinh tế tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường? (Dựa vào quy luật biện chứng giữa LLSX và
QHSX để trả lời).
BÀI LÀM:
Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ
vào thực trạng (tình hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác
lập nó cho phù hợp chứ không phải căn cứ vào ý muốn chủ quan. Chỉ có như vậy
mới có thể tạo ra được hình thức kinh tế thích hợp cho việc bảo tồn, khai thác - sử
dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất của xã hội. Lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất có mối liên hệ biện chứng và phải phù hợp lẫn nhau. Khi sự phát
triển bị mất cân đối sẽ dẫn đến mâu thuẫn buộc một trong hai phải thay đổi cho phù
hợp.
Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất đang kim hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biên
(cải cách, đổi mới... ) mà cao hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải
quyết được mẫu thuẫn này. Ví dụ , trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa vào trước những năm 80 của thế kỷ XX. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã rơi
vào bệnh chủ quan duy ý chí, chưa tuân theo thật đúng yêu cầu của quy luật này.
Thực tế đó là nguyên nhân căn bản và sâu xa dẫn tới sự khủng hoàng kinh tế lớn,
buộc các nước này phải tiến hành những cuộc cải cách, đổi mới theo hướng tạo lập
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với thực tế trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
Vì vậy, nước ta đã thay đổi hình thức công hữu từ nền kinh tế tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường.
CÂU HỎI: Chứng minh tính lạc hậu của ý thức xã hội và sự tương tác lẫn nhau,
quy định nhau của các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng bằng
thực tiễn ở Việt Nam.
BÀI LÀM:
1. Tính lạc hậu của ý thức xã hội
Vấn đề ý thức xã hội là một nội dung quan trọng của triết học Mác - Lênin.
Việc tìm hiểu sâu sắc vấn đề này có ý nghĩa rất lớn đối với nhiệm vụ xây dựng ý
thức xã hội mới, từ đó góp phần vào thành công của quá trình xây dựng đất nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nước ta hiện nay đang trong quá trình
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Để đạt được mục tiêu này, cùng với việc thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế, chúng ta đồng thời phải xây dựng và phát triển đời sống tinh thần
của xã hội mà ý thức xã hội là một bộ phận cấu thành quan trọng.
Ý thức xã hội bắt nguồn từ tồn tại xã hội, hình thành do nhu cầu của tồn tại
xã hội, và đặc biệt, là kết quả tất yếu của hoạt động vật chất có tính xã hội của con
người và cũng đáp ứng yêu cầu của tồn tại xã hội một cách tất yếu. Cùng với khái
niệm ý thức xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng bàn đến khái niệm tồn tại xã hội.
Theo các nhà kinh điển, tồn tại xã hội là quá trình đời sống hiện thực của con
người. Đó là quá trình hoạt động, sinh sống vật chất của các cá nhân cùng với
những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ.
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời trên cơ sở thực tiễn của
thời đại và thực tế ở Nga, V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
không phải là đồng nhất, cũng như nói chung, tồn tại và ý thức không phải là đồng
nhất. Con người, khi liên hệ với nhau, đều xử sự với tư cách là những sinh vật có ý
thức, nhưng hoàn toàn không thể do đó mà kết luận rằng ý thức xã hội là đồng nhất
với tồn tại xã hội”. Khi bàn về nguyên nhân của tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội, triết học Mác - Lênin cho rằng, chính sự phân công lao động xã hội là
nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu nhất. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Phân công lao
động chỉ trở thành phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành
lao động vật chất và lao động tinh thần. Bắt đầu từ lúc đó, ý thức có thể thực sự
tưởng tượng rằng nó là một cái gì khác chứ không phải là ý thức về thực tiễn hiện
có, rằng nó có thể thực sự đại biểu cho một cái gì đó mà không đại biểu cho một cái
gì hiện thực cả; bắt đầu từ lúc đó, ý thức có khả năng tự giải thoát khỏi thế giới và
chuyển sang xây dựng lý luận “thuần túy”, thần học, triết học, đạo đức, v.v..”. Một
nguyên nhân khác của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là do sự phân chia
xã hội thành giai cấp và sự xuất hiện của nhà nước. Vì lợi ích giai cấp mà các giai
cấp thống trị sẵn sàng áp đặt ý chí và nguyện vọng của mình vào hoạt động nhận
thức cũng như hoạt động sản xuất tinh thần. Chính điều đó làm cho ý thức xã hội ít
nhiều mang tính chất chủ quan, không phản ánh đúng thực trạng kinh tế - xã
hội. Ngoài các nguyên nhân trên, trình độ và đặc điểm nhận thức của con người
cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự độc lập của ý thức xã hội. Theo
Ph.Ăngghen, trong buổi bình minh của lịch sử, do nhận thức thấp kém, con người
đã có những quan niệm sai lầm về sự cấu tạo của thân thể họ, về thiên nhiên, về
những lực lượng bí ẩn... Những quan niệm sai lầm đó được thể hiện không chỉ
trong tôn giáo mà còn cả trong triết học. Trong quá trình phát triển của nhận thức,
những quan niệm sai lầm đó được gạt bỏ dần dần, nhưng không phải vì thế mà
chúng không còn gây ảnh hưởng đến những giai đoạn nhận thức tiếp theo. Cùng
với việc chỉ ra nguyên nhân của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, triết học
Mác - Lênin đã đưa ra quan điểm về những biểu hiện của tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội.
Đầu tiên phải kể đến đó là sự lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội.
Biểu hiện sự lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội ở chỗ, nhiều khi tồn tại
xã hội đã thay đổi nhưng ý thức xã hội chưa thay đổi kịp và trở nên lạc hậu hơn so
với tồn tại xã hội. Trong tác phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Louis
Bonaparte, C.Mác đã viết: “Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không
phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy,
mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại.
Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những
người đang sống. Và ngay khi con người có vẻ như là đang ra sức tự cải tạo mình
và cải tạo sự vật, ra sức sáng tạo ra một cái gì chưa từng có, thì chính trong thời kỳ
khủng hoảng cách mạng như thế, họ lại sợ sệt cầu viện đến những linh hồn của quá
khứ, lại mượn tên tuổi, khẩu hiệu chiến đấu, y phục của những linh hồn đó, để rồi
đội cái lốt đáng kính ấy của người xưa, và dùng những lời lẽ vay mượn đó, để trình
diễn màn mới của lịch sử thế giới”. Vậy là ở đây, C.Mác đã chỉ cho chúng ta thấy
rằng, những người đang sống trong một thời đại nào đó không phải chỉ chịu sự tác
động của những quy chế xã hội hiện tại, của luật pháp hiện tại mà đồng thời, còn
phải chịu ảnh hưởng từ những tư tưởng của thời đại trước.
Do những tư tưởng, quan niệm, phong tục, truyền thống lạc hậu... vẫn còn tồn tại
và trở thành những lực cản cho quá trình xây dựng xã hội mới nên theo V.I.Lênin,
một trong những nhiệm vụ cơ bản của Đảng Cộng sản là phải “giúp đỡ việc giáo
dục và rèn luyện quần chúng lao động để khắc phục những thói quen cũ, những tập
quán cũ do chế độ cũ để lại, những thói quen, những tập quán của người tư hữu đã
tiêm nhiễm sâu vào quần chúng”.
2. Sự tương tác lẫn nhau, quy định nhau của các hình thái ý thức xã hội
trong sự phát triển của chúng bằng thực tiễn ở Việt Nam
- Sự tác động qua lại, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội
Trong sự vận động và phát triển của mình, các hình thái ý thức xã hội phản
ánh các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và luôn luôn có sự tác động qua lại
lẫn nhau. Sự tác động này làm cho mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính
chất không thể giải thích một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội, bằng các điều kiện
vật chất, mà phải bằng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội
(đặc biệt là tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội). Đây là vấn đề có tính
quy luật. Về điều này, Ph.Ănghen viết rằng: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật,
triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v.. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế.
Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế.
Vấn đề hoàn toàn không phải là chỉ có hoàn cảnh kinh tế mới là nguyên nhân, chỉ
có nó là tích cực còn tất cả những cái còn lại đều chỉ là hậu quả thụ động. Không, ở
đây tác động qua lại trên cơ sở tất yếu kinh tế, xét cho cùng bao giờ cũng mở
đường đi cho mình”.
- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Trong thư gửi cho C.Sơmít ngày 27 tháng mười năm 1890 khi bàn về quan
hệ giữa “sự vận động kinh tế” với nhà nước, với pháp luật, với tư tưởng,
Ph.Ăngghen cho rằng sản xuất, xét đến cùng là nhân tố quyết định. Tuy nhiên,
trong những giới hạn nhất định, “quan điểm tư tưởng” có thể làm “thay đổi cơ sở
kinh tế”. Ông viết: “Sự phản ánh của các quan hệ kinh tế dưới dạng các nguyên tắc
pháp luật cũng tất yếu đặt lộn ngược những quan hệ đó. Quá trình phản ánh này
diễn ra ngoài ý thức của con người đang hành động; nhà luật học tưởng tượng rằng
mình vận dụng những nguyên lý tiên nghiệm, mà đó chỉ là sự phản ánh của các
quan hệ kinh tế. Như vậy, tất cả đều bị lộn ngược. Còn sự xuyên tạc đó - chừng nào
nó chưa bị bóc trần - là cái mà chúng tôi gọi là quan điểm tư tưởng, đến lượt mình,
nó tác động trở lại đến cơ sở hạ tầng kinh tế và có thể biến đổi cơ sở hạ tầng ấy
trong những giới hạn nhất định... ”.
Không chỉ có pháp luật tác động đến cơ sở kinh tế, mà ngay cả hệ tư tưởng chính
trị, thông qua thiết chế xã hội tương ứng với nó là nhà nước cũng tác động trở lại
kinh tế. Cũng trong bức thư này, Ph.Ăngghen đã viết: “Tác động ngược trở lại của
quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại. Nó có thể tác
động cùng hướng - khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn; nó có thể tác động
ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ
sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc là nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở
những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở những hướng khác. Trường hợp
này rốt cuộc dẫn đến một trong hai trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong
trường hợp thứ hai và thứ ba, quyền lực chính trị có thể gây tác hại rất lớn cho phát
triển kinh tế và có thể gây ra sự lãng phí to lớn về sức lực vật chất”.
- Sự vượt trước của ý thức xã hội
Không phải ý thức xã hội nào cũng lạc hậu, do ý thức xã hội có tính độc lập
nhất định. Trong một số trường hợp ý thức xã hội cũng có thể có sự phát triển vượt
trước so với tồn tại xã hội. Khi đó, trong ý thức xã hội có một số bộ phận có thể
vượt trước tồn tại xã hội, có khả năng dự báo tương lai, chỉ ra quy luật vận động,
phát triển của hiện thực khách quan. Đó chính là các phát minh khoa học, các học
thuyết chính trị, đặc biệt là các học thuyết chính trị tiến bộ - khoa học. Trong tác
phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã tiến một
bước mang ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng thế giới quan khoa học khi ông
chỉ ra vai trò vượt trước, tính tiên phong của lý luận. Ông viết: “Giống như triết học
thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học
là vũ khí tinh thần của mình, và chỉ cần sấm sét của tư tưởng đã đánh một cách triệt
để vào cái mảnh đất nhân dân còn nguyên vẹn ấy là việc giải phóng người Đức
thành con người sẽ hoàn thành [...] Đầu não của sự giải phóng ấy là triết học, trái
tim của nó là giai cấp vô sản”. “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có
phong trào cách mạng” chỉ đảng nào có được một lý luận tiên phong dẫn đường thì
đảng đó mới làm tròn vai trò của một chiến sĩ tiên phong.
- Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội.
Trong thư gửi cho C.Sơmít ngày 27 tháng mười năm 1890, khi bàn về tính
kế thừa trong lịch sử tư tưởng nhân loại, Ph.Ănghen chỉ rõ rằng, ở Pháp cũng như ở
Đức “triết học, cũng giống như sự hưng thịnh chung của nền văn học trong thời đại
ấy, cũng là kết quả của một sự phát triển kinh tế” nhưng sự phát triển ấy lại có tính
độc lập tương đối của nó và không phụ thuộc hoàn toàn vào sự phát triển kinh tế
mà có quy luật phát triển riêng, đó là quy luật về tính kế thừa. Ông viết: “... triết
học của mỗi thời đại đều có, với tư cách là tiền đề, một chất liệu tư tưởng nhất
định, do những người đi trước nó truyền lại cho nó và nó xuất phát từ chất liệu ấy.
Đó là lẽ tại sao những nước lạc hậu về kinh tế vẫn có thể đóng vai trò chủ chốt
trong triết học: nước Pháp hồi thế kỷ XVII so với nước Anh là nước có một nền
triết học mà người Pháp đã dựa vào, còn sau đó là nước Đức so với cả hai nước
trên”.
Trong thư gửi cho F.Mêring, sau khi phê phán quan điểm duy tâm, tư biện về
nguồn gốc của tư duy, của tư tưởng, Ph.Ăngghen cho rằng: “Trong lĩnh vực của
mỗi khoa học, nhà tư tưởng lịch sử (lịch sử ở đây chỉ là một từ tập hợp để chỉ các
khái niệm: chính trị, pháp luật, triết học, thần học, - tóm lại để chỉ tất cả những lĩnh
vực có liên quan đến xã hội, chứ không đơn giản liên quan đến tự nhiên) có một tài
liệu nhất định hình thành một cách độc lập từ sự tư duy của các thế hệ trước và đi
qua con đường phát triển độc lập của riêng nó trong não của những thế hệ kế tiếp
nhau đó”.
V.I.Lênin trong bài Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác đã chỉ rõ, trong quá trình phát triển, tư tưởng của nhân loại nói chung, học
thuyết Mác nói riêng luôn luôn có tính kế thừa chứ không phải là một sự phủ định
sạch trơn. Ông viết: “Học thuyết của ông ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp
những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính
trị học và trong chủ nghĩa xã hội [...] Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì
nó là một học thuyết chính xác... Nó là người thừa kế chính đáng của tất cả những
cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra hồi thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế
chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp”.
Tiếp đó, trong Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên, V.I.Lênin viết: “Văn hóa vô sản
không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là
chuyên gia về văn hóa vô sản, phát minh ra. Đó hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn
hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài
người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ
và xã hội của bọn quan liêu” và “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi
biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà
nhân loại đã tạo ra”.
3. Thực tiễn ở Việt Nam
Việc tìm hiểu và nhận thức sâu sắc, có hệ thống những quan niệm của triết
học Mác - Lênin về ý thức xã hội có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình xây dựng ý
thức xã hội mới Việt Nam hiện nay:
Theo quan điểm mácxít, về bản chất, ý thức xã hội là sự phản ánh và do tồn tại xã
hội quyết định, do đó, để xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam, trước hết cần phải
tiếp tục đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Quá trình CNH, HĐH chính là nhằm tạo nền tảng vật
chất cho sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội mới. Ở nước ta, sự tồn tại của
xã hội nông nghiệp cổ truyền theo phương thức sản xuất châu Á đã kéo dài hàng
nghìn năm. Đó là nền sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc được tiến hành theo
kinh nghiệm; công cụ thủ công, thô sơ, lạc hậu; có tính chất phân tán, khép kín...
Nền sản xuất với những đặc điểm như vậy đã trở thành cơ sở quan trọng nhất để
hình thành nên những quan điểm, tư tưởng, thói quen, phong tục... của con người
Việt Nam. Vì vậy, muốn xây dựng ý thức xã hội mới thì nhiệm vụ quan trọng có
tính nền tảng là cần phải xóa bỏ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Ngay từ Đại hội
III (năm 1960), Đảng ta đã khẳng định, muốn đưa nước ta thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu cần phải tiến hành quá trình công nghiệp hóa. CNH, HĐH là
quá trình thay đổi căn bản phương thức sản xuất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân
để đạt năng suất lao động xã hội cao, và kết quả của nó là sự chuyển đổi nền kinh tế
sản xuất nhỏ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn, công nghiệp hiện đại.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư...”. Quá trình này tạo ra cơ sở vật chất
kỹ thuật làm thay đổi những điều kiện kinh tế cũng như tạo ra cơ sở và môi trường
xã hội để thay đổi tư duy, nếp nghĩ, thay đổi thói quen, lối sống... của từng cá nhân
và cả cộng đồng xã hội. Đồng thời, chủ thể của quá trình CNH, HĐH chính là con
người. Cho nên, khi tham gia vào quá trình CNH, HĐH, thực tiễn của quá trình này
đòi hỏi những con người đó buộc phải thay đổi, phải từ bỏ những tư tưởng, thói
quen, nếp nghĩ, tập quán... cũ, không còn phù hợp để hình thành nên những tư
tưởng, quan điểm, lối sống... mới, đáp ứng được yêu cầu của đời sống kinh tế - xã
hội hiện nay.
Tiếp đến cần coi trọng việc đấu tranh ngăn ngừa, khắc phục tàn dư tư tưởng,
phong tục, tập quán lạc hậu. Quan điểm triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ, sự lạc hậu
trong quá trình phát triển của ý thức xã hội là điều không tránh khỏi. Ở nước ta hiện
nay, sự tồn tại của những tư tưởng, phong tục, tập quán lạc hậu vẫn còn khá phổ
biến, với những biểu hiện như trọng nam khinh nữ, gia trưởng...; là sự tồn tại của
tâm lý tiểu nông với biểu hiện rất đa dạng như thói tự do, tùy tiện, tâm lý “ăn xổi, ở
thì”, thiếu nhìn xa, trông rộng...; của tâm lý làng xã, biểu hiện ở thói cục bộ địa
phương cũng như những tư tưởng, thói quen, tập quán tiêu cực được hình thành
trong thời kỳ tập trung bao cấp... Những tư tưởng, phong tục, tập quán lạc hậu này
vẫn đang tác động tới đời sống xã hội. Do vậy, một trong những nhiệm vụ quan
trọng của việc xây dựng đời sống tinh thần nói chung và ý thức xã hội mới nói
riêng hiện nay ở nước ta là tiến hành đấu tranh hạn chế và khắc phục các loại hình
tư tưởng, phong tục, tập quán cũ, lạc hậu đó. Nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề này, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chúng ta phải thay
đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng
ngàn năm... chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá
cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Tuy nhiên, do những tư tưởng, phong tục, tập
quán này đã tồn tại lâu dài, đã len lỏi vào những khía cạnh sâu xa trong đời sống xã
hội cũng như ở mỗi con người nên quá trình khắc phục những biểu hiện tiêu cực
không hề đơn giản mà là cả một quá trình khó khăn, lâu dài. Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng (năm 2021) cũng xác định: “Từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ
tục, tập quán lạc hậu” chứ không thể nhanh chóng xóa bỏ ngay được các hủ tục, tập
quán đó.
Phải chú ý kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Nhận thức sâu sắc quan điểm mácxít về tính kế thừa trong
sự phát triển của ý thức xã hội, trong quá trình lãnh đạo xây dựng nền văn hóa nói
chung, ý thức xã hội nói riêng, Đảng ta đã luôn chú ý kế thừa và phát huy các giá
trị truyền thống. Từ Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943), Đảng đã khẳng định,
nền văn hóa mới là nền văn hóa phải bảo đảm tính dân tộc, tức là phải kế thừa và
phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Quan điểm này tiếp tục được khẳng
định trong suốt quá trình tiến hành xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, dưới tác động của quá trình hội nhập quốc tế, đặc
biệt là toàn cầu hóa, Đảng ta khẳng định, phải đặc biệt quan tâm “Bảo vệ và phát
huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam”. Muốn
hoàn thành tốt công việc này, chúng ta cần phải biết phân biệt những giá trị tích cực
và những yếu tố lạc hậu, không còn phù hợp của truyền thống, của quá khứ; phải
biết cải biến, chuyển hóa các yếu tố tích cực cũ để phù hợp với điều kiện tồn tại
mới... Hơn nữa, quá trình kế thừa trong xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện
nay không đơn thuần chỉ là kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc mà đòi hỏi cần
kế thừa, tiếp thu các giá trị tinh thần của thế giới làm để làm phong phú thêm văn
hóa dân tộc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ, cần “Tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam”. Điều này không chỉ
đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống tinh thần xã hội mà còn đáp ứng nhu cầu hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
Chú ý phát huy vai trò của ý thức xã hội mới Việt Nam hiện nay.
Triết học Mác - Lênin khẳng định, ý thức xã hội có thể tác động mạnh mẽ trở lại sự
phát triển của tồn tại xã hội. Do đó, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước
hiện nay, việc phát huy vai trò của ý thức xã hội mới có ý nghĩa rất quan trọng.
Phát huy vai trò của ý thức xã hội mới hiện nay là tổng hợp những biện pháp, cách
thức làm cho ý thức xã hội mới được ăn sâu, bám rễ, thẩm thấu vào đời sống tinh
thần, tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân. Với hạt nhân tư tưởng là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước, có thể nói, ý thức xã hội mới đóng vai trò quan trọng nhất
trong việc định hướng tư tưởng, văn hóa xã hội; góp phần xây dựng đạo đức, lối
sống mới, tiến bộ cho nhân dân trong bối cảnh sự suy thoái đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hiện nay đang có những diễn biến
nghiêm trọng; góp phần đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch đang
chống phá Đảng và Nhà nước, công kích, xuyên tạc nhằm bác bỏ nền tảng tư tưởng
của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, trong hệ thống lý luận của triết học Mác - Lênin, vấn đề ý thức xã
hội là một nội dung quan trọng góp phần tạo cơ sở lý luận cho quan điểm duy vật
về lịch sử, và cùng với học thuyết giá trị thặng dư, đã trở thành hai phát kiến vĩ đại
của chủ nghĩa Mác. Nhận thức sâu sắc những vấn đề lý luận về ý thức xã hội của
triết học Mác và vận dụng hợp lý chúng trong xây dựng ý thức xã hội mới nói riêng
và đời sống tinh thần nói chung sẽ góp phần thiết thực vào thành công của công
cuộc xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
1995
2. GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS, TS. Nguyễn Hữu Vui: Giáo trình triết học
Mác- Lênin, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011
4. V.I.Lênin: Toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995
5. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.104, 135.
6. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.143, 147.
7. Http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/4056-quan-
diem-cua-triet-hoc-mac-lenin-ve-y-thuc-xa-hoi-va-y-nghia-doi-voi-viec-xay-dung-
y-thuc-xa-hoi-moi-hien-nay.html

You might also like