You are on page 1of 34

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.

HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

NHÓM 14

ĐỒ ÁN GIỮA KÌ 1

Chuyên ngành: Công Nghệ Thông Tin

Thành phố Hồ Chí Minh – 2023


Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

NHÓM 14

ĐỒ ÁN GIỮA KÌ 1

Chuyên ngành: Công Nghệ Thông Tin

Thành phố Hồ Chí Minh – 2023


Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề báo cáo bài tập này trước hết em xin gửi đến quý thầy Võ Hoàng Quân
trong khoa Công nghệ thông tin trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên lời cảm ơn chân thành.

Đồng thời nhà trường đã tạo cho em có cơ hội được thực tập nơi mà em yêu thích, cho em bước
ra đời sống thực tế để áp dụng những kiến thức mà các thầy cô giáo đã giảng dạy. Qua bài tập
này em nhận ra nhiều điều mới mẻ và bổ ích để giúp ích cho công việc sau này của bản thân.

Vì kiến thức bản thân còn hạn chế, trong quá trình thực tập, hoàn thiện chuyên đề này em không
tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy cũng như quý nhà
trường.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Mục Lục
Contents
LỜI CẢM ƠN..........................................................................................................................................................3
1. Giới thiệu Intel.................................................................................................................................................5
2. Lịch sử hình thành............................................................................................................................................6
3. Quá trình phát triển của công ty:....................................................................................................................8
4. Lịch sử phát triển của các dòng sản phẩm....................................................................................................18
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Danh mục hình


Hình 1. Bức ảnh chụp các nhân viên Intel lúc mới thành lập..........................................................6
Hình 2.Bức ảnh của Gordon E. Moore (đồng sáng lập Intel)..........................................................7
Hình 3. Đồ thị mô tả định luật Moore.............................................................................................7
Hình 4. Ảnh của ông Robert Noyce (đồng sáng lập Intel)..............................................................8
Hình 5. Tháp phân cấp các loại bộ nhớ.........................................................................................30
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Danh mục bảng


Bảng 1. Intel Xeon......................................................................................................................................33
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

1. Giới thiệu Intel

Tập đoàn Intel (thường được gọi là Intel) là một


tập đoàn và công ty công nghệ đa quốc gia của
Mỹ có trụ sở chính tại Santa Clara, California,
Hoa Kỳ. Đây là một trong những nhà sản xuất
chip bán dẫn lớn nhất thế giới tính theo doanh
thu, và là một trong những nhà phát triển chuỗi
tập lệnh x86 có trong hầu hết các máy tính cá
nhân (PC). Được thành lập tại Delaware, Intel xếp
thứ 45 trong danh sách Fortune 500 năm 2020 về
Hình 1. Bức ảnh chụp các nhân viên Intel lúc mới các tập đoàn lớn nhất Hoa Kỳ tính theo tổng
thành lập
doanh thu trong gần một thập kỷ, từ năm tài
chính 2007 đến 2016.

Intel được sáng lập vào ngày 18 tháng 7 năm 1968 bởi những người tiên phong về bán dẫn
Gordon E. Moore, Robert Noyce, Arthur Rock (nhà đầu tư mạo hiểm) và gắn liền với sự lãnh
đạo điều hành của Andrew Grove. Moore là nhà hóa học kiêm vật lý học, Noyce là kỹ sư điện tử.
Cả hai đều là những nhân vật quan trọng trong ngành bán dẫn, và họ đã rời khỏi công ty
Fairchild Semiconductor để thành lập Intel.

Intel cung cấp bộ vi xử lý cho các nhà sản xuất hệ thống máy tính như Acer, Lenovo, HP và
Dell. Hiện tại Intel cũng đang sản xuất các sản phẩm như chip vi xử lý cho máy tính, bo mạch
chủ, ổ nhớ flash, card mạng, chip đồ họa, bộ điều khiển giao diện mạng và mạng tích hợp, bộ xử
lí nhúng và các thiết bị khác liên quan đến truyền thông và điện toán.

Intel là thành phần quan trọng trong sự trỗi dậy của Silicon Valley như một trung tâm công nghệ
cao. Noyce là nhà phát minh chủ chốt của mạch tích hợp (microchip). Intel là nhà phát triển đầu
tiên của chip nhớ SRAM và DRAM, chiếm phần lớn hoạt động kinh doanh của hãng cho đến
năm 1981. Mặc dù Intel đã tạo ra chip vi xử lý thương mại đầu tiên trên thế giới vào năm 1971,
nhưng phải đến khi máy tính cá nhân thành công (PC) rằng đây đã trở thành hoạt động kinh
doanh chính của nó.

Trong những năm 1990, Intel đã đầu tư rất nhiều vào các thiết kế bộ vi xử lý mới nhằm thúc đẩy
sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp máy tính. Trong thời kỳ này, Intel đã trở thành
nhà cung cấp bộ vi xử lý PC thống trị và được biết đến với các chiến thuật mạnh mẽ và chống
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

cạnh tranh nhằm bảo vệ vị thế thị trường của mình, đặc biệt là chống lại AMD, cũng như cuộc
đấu tranh với Microsoft để giành quyền kiểm soát định hướng của ngành công nghiệp PC.

2. Lịch sử hình thành


Intel được hai kỹ sư Robert Noyce và Gordon Moore thành lập vào năm 1968. Ban đầu, Noyce là
tổng giám đốc và Moore là giám đốc bộ phận nghiên cứu và phát triển của công ty sản xuất linh
kiện bán dẫn Fairchild Semiconductor.

* Gordon E. Moore và định luật Morce

Moore được sinh ra tại San Francisco, California, và lớn lên gần đó
ở Pescadero, nơi cha của ông từng gắn bó với vai trò là Cảnh sát
trưởng. Ông theo học tại trường Đại học Tiểu bang San José 2 năm,
trước khi chuyển đến Đại học California tại Berkeley, nơi ông đã
lấy bằng cử nhân ngành hóa học năm 1950.

Tháng 9 năm 1950, Moore gia nhập Học viện Công nghệ California.
4 năm sau, cũng tại học viện ấy, ông tốt nghiệp và nhận bằng Tiến
sĩ ngành hóa học. Moore cũng đã có quá trình nghiên cứu sau tiến sĩ
tại Phòng thí nghiệm Vật lý Ứng dụng của trường Đại học Johns
Hopkins trong giai đoạn 1953 - 1956.

Hình 2.Bức ảnh của Gordon


E. Moore (đồng sáng lập Ông qua đời tại nhà riêng ở Hawaii vào ngày 24 tháng 3 năm 2023,
Intel) hưởng thọ 94 tuổi.

Năm 1965, Gordon E. Moore đã đưa dự đoán rằng số lượng bóng bán dẫn trên một vi mạch sẽ
tăng gấp đôi sau mỗi hai năm trong khi giá máy tính giảm một nửa.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Hình 3. Đồ thị mô tả định luật Moore

*Tiểu sử Robert Noyce

Robert Noyce là một nhà phát minh, một người sáng lập, một người
cố vấn và một kỹ sư. Ông bắt đầu sự nghiệp với tư cách là kỹ sư
nghiên cứu cho Philco Corporation và sau đó là Phòng thí nghiệm
bán dẫn Shockley. Năm 1957, ông đồng sáng lập Tập đoàn bán dẫn
Fairchild. Chính trong thời gian này, ông đã đồng phát minh ra con
chip tích hợp thứ đã cách mạng hóa ngành công nghiệp bán dẫn.
Năm 1968 ông rời Fairchild để sáng lập ra Intel. Năm 1971, Robert
Noyce tạo ra bộ vi xử lý đầu tiên. Nó đã mở ra kỷ nguyên của thời
đại máy tính và thúc đẩy cuộc cách mạng máy tính cá nhân, từ đó
mang lại cho California cái tên nổi tiếng của nó, Thung lũng Silicon.
Ông cũng từng là cố vấn cho các ông lớn trong tương lai như Steve
Hình 4. Ảnh của ông Robert
Jobs. Noyce (đồng sáng lập Intel)

Tuy nhiên, do bất đồng với ban lãnh đạo tập đoàn nên cả hai đã quyết định rời khỏi Fairchild
Semiconductor để ra thành lập công ty riêng. Moore và Noyce đã rời Fairchild Semiconductor và
là một phần của “tám kẻ phản bội”.

Ban đầu có 500.000 cổ phiếu được phát hành trong đó Tiến sĩ Noyce mua 245.000 cổ phiếu,
Tiến sĩ Moore 245.000 cổ phiếu, và ông Rock 10.000 cổ phiếu; tất cả đều với giá $1 mỗi cổ
phiếu. Rock đã cung cấp $2,500,000 trái phiếu chuyển đổi cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư tư
nhân (tương đương với $21 triệu vào năm 2022), có thể chuyển đổi với giá $5 mỗi cổ phiếu. Chỉ
sau 2 năm, Intel đã trở thành công ty công khai thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra
công chúng (IPO), thu về $6.8 triệu ($23.50 mỗi cổ phiếu). Nhân viên thứ ba của Intel là Andy
Grove, một kỹ sư hóa học, người sau này đã điều hành công ty trong suốt phần lớn thập kỷ 1980
và thập kỷ tăng trưởng cao vào những năm 1990.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Khi lựa chọn tên, Moore và Noyce đã nhanh chóng loại bỏ “Moore Noyce”, gần như là từ đồng
âm cho “more noise” (nghĩa là “thêm tiếng ồn”) - một cái tên không thích hợp cho một công ty
điện tử, vì tiếng ồn trong điện tử thường không được mong muốn và thường được liên kết với sự
can thiệp xấu. Thay vào đó, họ đã thành lập công ty với tên NM Electronics (hoặc MN
Electronics) vào ngày 18 tháng 7 năm 1968, nhưng chỉ sau ít hơn một tháng, họ đã đổi tên thành
Intel, tên viết tắt của Integrated Electronics. Tuy nhiên, vì “Intel” đã được đăng ký thương hiệu
bởi chuỗi khách sạn Intelco, họ đã phải mua quyền sử dụng tên này.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

3. Quá trình phát triển của công ty:


a. Những năm đầu

Khi mới thành lập, Intel đã nổi bật nhờ khả năng tạo ra các mạch logic sử dụng các thiết bị bán
dẫn. Mục tiêu của các nhà sáng lập là thị trường bộ nhớ bán dẫn, được dự đoán sẽ thay thế cho
bộ nhớ từ hạt từ. Sản phẩm đầu tiên của họ, ra mắt vào năm 1969, là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên
tĩnh (SRAM) 64 bit 3101 Schottky TTL hai cực, với tốc độ gần như gấp đôi so với các phiên bản
diode Schottky trước đó của Fairchild và Phòng thí nghiệm Điện tử ở Tsukuba, Nhật Bản. Trong
cùng năm đó, Intel cũng đã sản xuất ra bộ nhớ chỉ đọc (ROM) 1024 bit hai cực Schottky 3301 và
chip SRAM silicon gate MOSFET (transistor hiệu ứng trường bán dẫn kim loại-oxit) thương mại
đầu tiên, là chip 256 bit 1101.

Mặc dù 1101 là một bước tiến đáng kể, nhưng cấu trúc cell tĩnh phức tạp của nó đã khiến nó trở
nên quá chậm và tốn kém cho bộ nhớ máy chủ. Vấn đề này đã được giải quyết bằng cấu trúc cell
ba transistor được áp dụng trong bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động (DRAM) thương mại đầu tiên,
1103, ra mắt vào năm 1970. 1103 đã trở thành chip bộ nhớ bán dẫn bán chạy nhất trên thế giới
vào năm 1972, khi nó thay thế bộ nhớ từ hạt từ trong nhiều ứng dụng. Trong suốt thập kỷ 1970,
Intel đã phát triển mạnh mẽ khi mở rộng và cải thiện quy trình sản xuất của mình, đồng thời sản
xuất ra một loạt các sản phẩm đa dạng, với sự thống trị của các thiết bị bộ nhớ.

Intel đã tạo ra vi xử lý thương mại đầu tiên (Intel 4004) vào năm 1971. Vi xử lý này đã mang lại
một bước tiến đáng kể trong công nghệ mạch tích hợp, khi nó thu nhỏ được đơn vị xử lý trung
tâm của máy tính, điều này đã tạo điều kiện cho các máy móc nhỏ có thể thực hiện các phép tính
mà trước đây chỉ có các máy móc lớn mới có thể làm được. Trước khi vi xử lý có thể trở thành
cơ sở của cái được biết đầu tiên là “máy tính mini” và sau đó được biết đến là “máy tính cá
nhân”, cần phải có sự đổi mới công nghệ đáng kể. Intel cũng đã tạo ra một trong những máy vi
tính đầu tiên vào năm 1973.

Intel đã mở cơ sở sản xuất quốc tế đầu tiên của mình vào năm 1972, tại Malaysia, trước khi mở
các cơ sở lắp ráp và nhà máy bán dẫn tại Singapore và Jerusalem vào đầu những năm 1980, cũng
như các trung tâm sản xuất và phát triển tại Trung Quốc, Ấn Độ, và Costa Rica trong thập kỷ 90.
Đến đầu thập kỷ 80, hoạt động kinh doanh chính của Intel là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động
(DRAM). Tuy nhiên, sự cạnh tranh gia tăng từ các nhà sản xuất bán dẫn Nhật Bản đã làm giảm
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

đáng kể lợi nhuận từ thị trường này vào năm 1983. Sự thành công ngày càng tăng của máy tính
cá nhân IBM, dựa trên vi xử lý Intel, đã thuyết phục CEO Gordon Moore (từ năm 1975) chuyển
hướng công ty sang vi xử lý và thay đổi các khía cạnh cơ bản của mô hình kinh doanh. Quyết
định của Moore về việc chỉ sử dụng chip 386 của Intel đã góp phần vào sự thành công liên tục
của công ty.

b. Thách thức sự thống trị (những năm 2000)

Sau năm 2000, nhu cầu tăng trưởng đối với vi xử lý cao cấp đã chậm lại. Các đối thủ, đặc biệt là
AMD (là đối thủ lớn nhất của Intel trong thị trường kiến trúc x86 chính của mình), đã chiếm
được thị phần đáng kể, ban đầu trong các vi xử lý phạm vi thấp và trung bình nhưng cuối cùng là
trên toàn bộ phạm vi sản phẩm, và vị trị thống trị của Intel trong thị trường cốt lõi của mình đã bị
giảm đi rất nhiều, chủ yếu do kiến trúc micro NetBurst gây tranh cãi. Vào đầu những năm 2000,
CEO Craig Barrett đã cố gắng mở rộng hoạt động kinh doanh của Intel ra khỏi lĩnh vực bán dẫn,
nhưng chỉ có một số ít trong số các hoạt động này cuối cùng đã thành công.

Kiện tụng

Intel, một công ty nổi tiếng trong ngành công nghệ, đã phải đối mặt với nhiều vụ kiện tụng kéo
dài trong nhiều năm. Ban đầu, luật pháp Hoa Kỳ không công nhận quyền sở hữu trí tuệ liên quan
đến cấu trúc mạch vi xử lý. Tuy nhiên, điều này đã thay đổi sau khi Đạo luật Bảo vệ Chip Bán
dẫn được thông qua vào năm 1984 - một đạo luật mà Intel và Hiệp hội Công nghiệp Bán dẫn
(SIA) đã đẩy mạnh. Sau khi đạo luật này được thông qua, vào cuối thập kỷ 80 và 90, Intel đã
kiện các công ty khác cố gắng tạo ra các chip cạnh tranh với CPU 80386 của họ. Những vụ kiện
này đã tạo ra gánh nặng tài chính lớn cho các công ty cạnh tranh, ngay cả khi Intel không thắng
kiện. Bên cạnh đó, từ đầu thập kỷ 90, Intel cũng đã phải đối mặt với các cáo buộc vi phạm luật
chống độc quyền. Điều này đã dẫn đến một vụ kiện chống lại Intel vào năm 1991. Vào năm 2004
và 2005, AMD - một đối thủ lớn của Intel - đã tiếp tục đưa ra các yêu cầu chống lại Intel liên
quan đến hành vi cạnh tranh không công bằng.

c. Tái tổ chức và thành công với Intel Core (2005 – 2015)

Trong năm 2005, Giám đốc điều hành Paul Otellini đã thực hiện tái cấu trúc công ty, nhằm định
hướng lại sự chú trọng vào việc phát triển lõi vi xử lý và kinh doanh chipset dựa trên các nền
tảng chính (doanh nghiệp, nhà số hóa, sức khỏe số hóa và di động).
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Vào ngày 6 tháng 6 năm 2005, Steve Jobs, người khi đó đang giữ chức CEO của Apple, đã công
bố rằng Apple sẽ sử dụng bộ vi xử lý x86 của Intel cho dòng máy tính Macintosh của họ, thay vì
sử dụng kiến trúc PowerPC do liên minh AIM phát triển. Đây được xem là một chiến thắng đáng
kể cho Intel; Tuy nhiên, một nhà phân tích đã đánh giá rằng quyết định này của Apple là “mạo
hiểm” và “không khôn ngoan”, bởi vào thời điểm đó, các sản phẩm của Intel được cho là kém
cạnh so với AMD và IBM.

Năm 2006, Intel đã ra mắt kiến trúc vi xử lý Core của mình, nhận được sự hoan nghênh nồng
nhiệt từ giới phê bình. Dòng sản phẩm này được đánh giá là một bước nhảy vọt trong hiệu suất
vi xử lý, giúp Intel nhanh chóng khôi phục lại vị thế dẫn đầu trong ngành. Năm 2008, Intel tiếp
tục có thêm một “bước tiến” khi giới thiệu kiến trúc vi xử lý Penryn, được chế tạo bằng quy trình
45 nm. Cuối năm đó, Intel đã tung ra thị trường một bộ vi xử lý với kiến trúc Nehalem và nhận
được phản hồi tích cực từ thị trường.

Vào ngày 27 tháng 6 năm 2006, Intel đã công bố việc bán tài sản XScale của mình. Intel đã đồng
ý để Marvell Technology Group mua lại phần kinh doanh vi xử lý XScale với giá dự kiến là 600
triệu đô la Mỹ, đồng thời chấp nhận một số nghĩa vụ không rõ ràng. Động thái này được thực
hiện với mục đích cho phép Intel tập trung nguồn lực vào lĩnh vực kinh doanh chính của mình là
x86 và máy chủ. Việc mua lại đã được hoàn tất vào ngày 9 tháng 11 năm 2006. Năm 2008, Intel
đã tách ra một số tài sản quan trọng từ dự án khởi nghiệp về năng lượng mặt trời để thành lập
một công ty độc lập mang tên SpectraWatt Inc. Tuy nhiên, vào năm 2011, SpectraWatt đã phải
nộp đơn xin phá sản.

Vào tháng 2 năm 2011, Intel đã khởi công xây dựng một nhà máy sản xuất vi xử lý mới tại
Chandler, Arizona. Dự án này đã hoàn thành vào năm 2013 với tổng chi phí là 5 tỷ đô la. Hiện
tại, toà nhà này là nhà máy Fab 42 đã được chứng nhận tiêu chuẩn 10 nm và được kết nối với các
nhà máy khác tại Khuôn viên Ocotillo thông qua một cây cầu kín được gọi là Link. Intel sản xuất
ba phần tư sản phẩm của mình tại Hoa Kỳ, mặc dù ba phần tư doanh thu của họ đến từ các thị
trường quốc tế.

Liên minh cho Internet giá rẻ (A4AI) đã chính thức ra mắt vào tháng 10 năm 2013. Intel là một
trong số các tổ chức công và tư tham gia liên minh này, bên cạnh Facebook, Google và
Microsoft. Dưới sự lãnh đạo của Sir Tim Berners-Lee, A4AI đặt mục tiêu làm cho việc truy cập
Internet trở nên giá rẻ hơn, nhằm mở rộng việc truy cập Internet ở các nước đang phát triển, nơi
chỉ có 31% dân số có khả năng truy cập Internet. Google sẽ hỗ trợ giảm giá truy cập Internet để
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

chúng thấp hơn mục tiêu toàn cầu của Ủy ban Băng thông của Liên Hợp Quốc là chi phí không
vượt quá 5% thu nhập hàng tháng.

Nỗ lực thâm nhập vào thị trường điện thoại thông minh

Vào tháng 4 năm 2011, Intel đã bắt đầu một dự án thử nghiệm với Tập đoàn ZTE để sản xuất
điện thoại thông minh sử dụng bộ vi xử lý Intel Atom cho thị trường nội địa Trung Quốc. Vào
tháng 12 năm 2011, Intel thông báo rằng họ đã tái tổ chức một số đơn vị kinh doanh của mình
thành một nhóm mới về di động và truyền thông, sẽ chịu trách nhiệm cho các hoạt động liên
quan đến điện thoại thông minh, máy tính bảng và không dây của công ty. Intel dự định giới
thiệu Medfield - một bộ vi xử lý dành cho máy tính bảng và điện thoại thông minh - ra thị trường
vào năm 2012, như một nỗ lực cạnh tranh với Arm. Là một bộ vi xử lý 32 nanomet, Medfield
được thiết kế để tiết kiệm năng lượng, đây là một trong những tính năng cốt lõi trong các chip
của Arm.

Tại Hội nghị Nhà phát triển Intel (IDF) 2011 tại San Francisco, mối quan hệ đối tác giữa Intel và
Google đã được công bố. Vào tháng 1 năm 2012, Google thông báo Android 2.3, hỗ trợ bộ vi xử
lý Atom của Intel. Năm 2013, Kirk Skaugen của Intel cho biết rằng việc Intel chỉ tập trung độc
quyền vào các nền tảng của Microsoft là điều đã qua và họ sẽ hỗ trợ tất cả các “hệ điều hành
hàng đầu” như Linux, Android, iOS và Chrome.

Năm 2014, Intel đã cắt giảm hàng ngàn nhân viên để đáp ứng “xu hướng thị trường đang thay
đổi”, và đề nghị hỗ trợ các nhà sản xuất cho các chi phí phát sinh khi sử dụng chip Intel trong
máy tính bảng của họ. Vào tháng 4 năm 2016, Intel đã hủy bỏ nền tảng SoFIA và Broxton Atom
SoC cho điện thoại thông minh, từ đó hiệu quả rời khỏi thị trường điện thoại thông minh.

Khi nhận thấy rằng công suất nhà máy dư thừa đáng kể sau khi Ultrabook không thể tạo được
sức hút trên thị trường và doanh số PC giảm, vào năm 2013, Intel đã ký kết một thỏa thuận với
Altera để sản xuất chip sử dụng quy trình 14nm. Sunit Rikhi, Giám đốc điều hành của bộ phận
nhà máy tùy chỉnh của Intel, đã chỉ ra rằng Intel sẽ tiếp tục tìm kiếm thêm các thỏa thuận tương
tự trong tương lai. Điều này diễn ra sau khi doanh số bán hàng yếu kém của các sản phẩm phần
cứng Windows 8 đã gây ra sự co lại lớn cho hầu hết các nhà sản xuất bán dẫn lớn, trừ
Qualcomm, người vẫn tiếp tục nhận được đơn đặt hàng mạnh mẽ từ khách hàng lớn nhất của
mình là Apple.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Đến tháng 7 năm 2013, có năm công ty đang sử dụng các nhà máy sản xuất của Intel thông qua
bộ phận Intel Custom Foundry, bao gồm: Achronix, Tabula, Netronome, Microsemi và
Panasonic. Phần lớn trong số này là các nhà sản xuất cổng mảng lập trình trường (FPGA), nhưng
Netronome lại chuyên về việc thiết kế vi xử lý mạng. Chỉ Achronix là công ty bắt đầu giao hàng
các chip do Intel sản xuất sử dụng quy trình Tri-Gate 22nm. Còn một số khách hàng khác cũng
tồn tại nhưng không được công bố vào thời điểm đó. Tuy nhiên, vào năm 2018, hoạt động kinh
doanh nhà máy đã bị đóng cửa do các vấn đề liên quan đến quá trình sản xuất của Intel.

Thách thức về bảo mật và sản xuất

Intel đã tiếp tục mô hình tick-tock của mình, với sự thay đổi microarchitecture sau đó là một quy
trình thu nhỏ, cho đến khi ra mắt gia đình Core thế hệ thứ 6 dựa trên microarchitecture Skylake.
Tuy nhiên, mô hình này đã bị từ bỏ vào năm 2016, khi Intel phát hành gia đình Core thế hệ thứ
bảy (có tên mã là Kaby Lake), mở ra mô hình quy trình - kiến trúc - tối ưu hóa. Trong quá trình
Intel cố gắng thu nhỏ nút quy trình của mình từ 14 nm xuống 10 nm, sự phát triển vi xử lý đã
chậm lại và công ty tiếp tục sử dụng microarchitecture Skylake cho đến năm 2020, dù đã có các
tối ưu hóa.

Trong khi Intel ban đầu đã lên kế hoạch ra mắt các sản phẩm 10 nm vào năm 2016, sau này đã rõ
ràng rằng có những vấn đề trong quá trình sản xuất tại nút quy trình này. Vi xử lý đầu tiên thuộc
nút quy trình này, Cannon Lake (được quảng cáo như Core thế hệ thứ 8), đã được phát hành
trong số lượng nhỏ vào năm 2018. Công ty đã hoãn sản xuất hàng loạt các sản phẩm 10 nm của
họ cho đến năm 2017. Họ sau đó đã hoãn lại việc sản xuất hàng loạt cho đến năm 2018, và sau
đó là năm 2019. Mặc dù có tin đồn rằng quy trình này đã bị hủy bỏ, Intel cuối cùng đã giới thiệu
các vi xử lý di động Intel Core thế hệ thứ 10 sản xuất hàng loạt 10 nm (mã tên “Ice Lake”) vào
tháng 9 năm 2019.

Intel sau đó đã công nhận rằng chiến lược thu nhỏ xuống 10 nm của họ đã quá tham vọng. Trong
khi các nhà máy khác đã sử dụng tới bốn bước trong quy trình 10 nm hoặc 7 nm, quy trình 10 nm
của Intel lại đòi hỏi tới năm hoặc sáu bước đa mẫu. Thêm vào đó, quy trình 10 nm của Intel lại
dày đặc hơn so với các quy trình tương đương từ các nhà máy khác. Do việc phát triển kiến trúc
vi xử lý và nút quy trình của Intel được kết hợp, sự phát triển vi xử lý đã bị chậm lại.

Lỗ hổng bảo mật


Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Vào đầu tháng 1 năm 2018, đã có thông tin rằng tất cả các bộ vi xử lý Intel sản xuất từ năm
1995, ngoại trừ Intel Itanium và các bộ vi xử lý Intel Atom trước năm 2013, đã phải đối mặt với
hai lỗ hổng bảo mật được gọi là Meltdown và Spectre. Người ta tin rằng “hàng trăm triệu” hệ
thống có thể bị ảnh hưởng bởi những lỗ hổng này. Thêm nhiều lỗ hổng bảo mật khác đã được tiết
lộ vào ngày 3 tháng 5 năm 2018, ngày 14 tháng 8 năm 2018, ngày 18 tháng 1 năm 2019 và ngày
5 tháng 3 năm 2020.

Vào ngày 15 tháng 3 năm 2018, Intel đã thông báo rằng họ sẽ thiết kế lại CPU của mình để bảo
vệ chống lại lỗ hổng bảo mật Spectre, các bộ vi xử lý được thiết kế lại đã được bán sau trong
năm 2018. Các chip hiện tại dễ bị tổn thương do Meltdown và Spectre có thể được sửa chữa với
một bản vá phần mềm với chi phí là hiệu suất.

d. Cạnh tranh gia tăng và các phát triển khác (2018 – nay)

Do những khó khăn của Intel với nút quy trình 10 nm và sự chậm trễ trong việc phát triển vi xử
lý, công ty hiện đang đối mặt với một thị trường cạnh tranh gay gắt. Đối thủ chính của công ty,
AMD, đã giới thiệu kiến trúc vi xử lý Zen và một thiết kế mới dựa trên chiplet, nhận được nhiều
lời khen ngợi. Kể từ khi ra mắt, AMD, từng không thể cạnh tranh với Intel trên thị trường CPU
cao cấp, đã trải qua một giai đoạn hồi sinh mạnh mẽ, khiến sự thống trị và thị phần của Intel
giảm đi đáng kể. Thêm vào đó, Apple đã bắt đầu chuyển đổi từ kiến trúc x86 và bộ vi xử lý Intel
sang chip silicon của riêng họ cho dòng máy tính Macintosh của họ vào năm 2020. Sự chuyển
đổi này dự kiến sẽ chỉ ảnh hưởng tối thiểu đến Intel; tuy nhiên, nó có thể khuyến khích các nhà
sản xuất PC khác xem xét lại sự phụ thuộc vào Intel và kiến trúc x86.

Chiến lược ‘IDM 2.0’

Vào ngày 23 tháng 3 năm 2021, CEO Pat Gelsinger đã công bố một loạt kế hoạch mới cho Intel.
Trọng tâm là chiến lược IDM 2.0, bao gồm việc đầu tư vào các nhà máy sản xuất, sử dụng cả nhà
máy sản xuất nội bộ và bên ngoài. Một phần của chiến lược này là việc thành lập Intel Foundry
Services (IFS), một đơn vị kinh doanh hoàn toàn mới và độc lập. Khác với Intel Custom
Foundry, IFS sẽ cung cấp một sự kết hợp giữa công nghệ đóng gói và quy trình sản xuất, cùng
với danh mục sở hữu trí tuệ của Intel, bao gồm các lõi x86. Ngoài ra, Intel cũng dự định hợp tác
với IBM và tổ chức một sự kiện mới mang tên “Intel ON” dành cho các nhà phát triển và kỹ sư.
CEO Pat Gelsinger cũng xác nhận rằng quy trình sản xuất 7 nm của Intel đang tiến triển đúng kế
hoạch. Các sản phẩm đầu tiên sử dụng quy trình này (còn được gọi là Intel 4) là Ponte Vecchio
và Meteor Lake.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Vào tháng 1 năm 2022, Intel đã quyết định chọn New Albany, Ohio, gần Columbus, Ohio, làm
địa điểm xây dựng một nhà máy sản xuất lớn mới. Dự án này sẽ tốn ít nhất 20 tỷ đô la và công ty
dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất chip tại đây vào năm 2025. Cùng năm đó, Intel cũng đã chọn
Magdeburg, Đức, làm địa điểm cho hai nhà máy sản xuất chip siêu lớn mới với tổng vốn đầu tư
là 17 tỷ euro, vượt qua số vốn mà Tesla đã đầu tư vào Brandenburg. Việc khởi công dự kiến sẽ
diễn ra vào năm 2023 và dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất vào năm 2027. Khi hoàn thành, cả hai dự án
này sẽ tạo ra 10.000 việc làm mới, bao gồm cả việc làm từ các nhà thầu phụ.

Vào tháng 8 năm 2022, Intel đã ký một thỏa thuận hợp tác trị giá 30 tỷ đô la với Brookfield
Asset Management. Thỏa thuận này nhằm hỗ trợ cho việc mở rộng nhà máy gần đây của Intel.
Theo thỏa thuận, Intel sẽ chi trả 51% chi phí xây dựng các cơ sở sản xuất chip mới tại Chandler,
do đó sở hữu cổ phần chi phối. Brookfield sẽ nắm giữ 49% cổ phần còn lại và hai công ty sẽ chia
sẻ doanh thu từ những cơ sở này.

Đến ngày 31 tháng 1 năm 2023, trong khuôn khổ việc cắt giảm chi phí lên đến 3 tỷ đô la, Intel đã
thông báo về việc giảm lương cho các nhân viên từ trung cấp trở lên, với mức giảm từ 5% trở
lên. Đồng thời, Intel đã tạm dừng việc trả tiền thưởng và tăng lương dựa trên thành tích, cũng
như giảm việc đóng góp phù hợp vào kế hoạch nghỉ hưu. Những biện pháp tiết kiệm này được
tiến hành sau khi Intel thông báo về việc sa thải vào mùa thu năm 2022.

Cạnh tranh, chống độc quyền và gián điệp

Đến cuối những năm 1990, hiệu năng của bộ vi xử lý đã vượt xa nhu cầu phần mềm đối với sức
mạnh CPU đó. Ngoài các hệ thống và phần mềm máy chủ cao cấp, có nhu cầu giảm với sự kết
thúc của "bong bóng dot-com", các hệ thống dành cho người tiêu dùng chạy hiệu quả trên các hệ
thống ngày càng có giá thành thấp sau năm 2000.

Chiến lược của Intel là phát triển các bộ vi xử lý có hiệu năng tốt hơn trong thời gian ngắn, từ lúc
xuất hiện của bộ vi xử lý này đến bộ vi xử lý khác, như có thể thấy với sự xuất hiện của Pentium
II vào tháng 5 năm 1997, Pentium III vào tháng 2 năm 1999 và Pentium 4 vào mùa thu năm
2000, khiến chiến lược này trở nên không hiệu quả vì người tiêu dùng không coi sự đổi mới là
điều cần thiết, và tạo cơ hội cho các đối thủ cạnh tranh, đáng chú ý là AMD, phát triển nhanh
chóng. Điều này, đến lượt nó, đã làm giảm lợi nhuận của dòng sản phẩm bộ vi xử lý và chấm dứt
kỷ nguyên thống trị phần cứng PC chưa từng có của Intel.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Vị thế thống lĩnh của Intel trong thị trường bộ vi xử lý x86 đã dẫn đến nhiều cáo buộc vi phạm
luật chống độc quyền trong những năm qua, bao gồm các cuộc điều tra của FTC vào cuối những
năm 1980 và năm 1999, cũng như các vụ kiện dân sự như vụ kiện năm 1997 của Digital
Equipment Corporation (DEC) và vụ kiện bằng sáng chế của Intergraph. Vị thế thống lĩnh thị
trường của Intel (từng có thời điểm kiểm soát hơn 85% thị trường bộ vi xử lý x86 32 bit) kết hợp
với các chiến thuật pháp lý cứng rắn của Intel (chẳng hạn như vụ kiện bằng sáng chế 338 nổi
tiếng của Intel đối với các nhà sản xuất PC) đã biến Intel trở thành mục tiêu hấp dẫn cho các vụ
kiện, đỉnh điểm là Intel đồng ý trả cho AMD 1,25 tỷ USD và cấp cho họ giấy phép chéo bằng
sáng chế vĩnh viễn vào năm 2009 cũng như một số phán quyết chống độc quyền ở Châu Âu, Hàn
Quốc và Nhật Bản.

Một trường hợp gián điệp công nghiệp phát sinh vào năm 1995 có liên quan đến cả Intel và
AMD. Bill Gaede, một người Argentina từng làm việc cho cả AMD và nhà máy của Intel ở
Arizona, đã bị bắt vì cố gắng bán thiết kế i486 và P5 Pentium cho AMD và một số cường quốc
nước ngoài vào năm 1993. Gaede đã ghi lại dữ liệu từ màn hình máy tính của mình tại Intel và
gửi nó cho AMD, công ty đã ngay lập tức cảnh báo Intel và authorities, dẫn đến việc Gaede bị
bắt. Gaede đã bị kết tội và bị tuyên án 33 tháng tù vào tháng 6 năm 1996.

Tranh chấp và kiện tụng

Vụ kiện vi phạm bằng sáng chế (2006 – 2007)

Vào tháng 10 năm 2006, Transmeta đã đệ đơn kiện Intel vì vi phạm bằng sáng chế về kiến trúc
máy tính và công nghệ tiết kiệm điện năng. Vụ kiện được giải quyết vào tháng 10 năm 2007, với
việc Intel đồng ý trả 150 triệu đô la Mỹ ban đầu và 20 triệu đô la Mỹ mỗi năm trong 5 năm tiếp
theo. Cả hai công ty đều đồng ý hủy bỏ các vụ kiện chống lại nhau, trong khi Intel được cấp giấy
phép không độc quyền vĩnh viễn để sử dụng công nghệ Transmeta được cấp bằng sáng chế hiện
tại và tương lai trong chip của mình trong 10 năm.

Các cáo buộc và kiện tụng chống độc quyền (2005–2009)

Vào tháng 9 năm 2005, Intel đã đệ đơn trả lời vụ kiện của AMD, bác bỏ các tuyên bố của AMD
và khẳng định rằng các hoạt động kinh doanh của Intel là công bằng và hợp pháp. Trong một
phản bác, Intel đã phân tích chi tiết chiến lược tấn công của AMD và lập luận rằng AMD gặp
khó khăn chủ yếu là do các quyết định kinh doanh tồi tệ của chính mình, bao gồm đầu tư dưới
mức cần thiết cho năng lực sản xuất thiết yếu và phụ thuộc quá nhiều vào việc ký hợp đồng với
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

các nhà máy sản xuất chip. Các nhà phân tích pháp lý dự đoán rằng vụ kiện sẽ kéo dài trong một
số năm, vì phản ứng ban đầu của Intel cho thấy rằng công ty không sẵn sàng dàn xếp với AMD.
Vào năm 2008, cuối cùng một ngày ra tòa đã được ấn định.

Vào ngày 12 tháng 11 năm 2009, AMD đã đồng ý hủy bỏ vụ kiện chống độc quyền đối với Intel
để đổi lấy 1,25 tỷ USD. Một thông cáo báo chí chung được công bố bởi hai nhà sản xuất chip
nêu rõ: "Mặc dù mối quan hệ giữa hai công ty đã gặp khó khăn trong quá khứ, nhưng thỏa thuận
này chấm dứt các tranh chấp pháp lý và cho phép các công ty tập trung tất cả nỗ lực của mình
vào đổi mới và phát triển sản phẩm." Một vụ kiện chống độc quyền và một vụ kiện tập thể liên
quan đến việc gọi điện mời chào nhân viên của các công ty khác đã được dàn xếp.

Những cáo buộc của Liên minh Châu Âu (2007–2008)

Vào tháng 7 năm 2007, Ủy ban Châu Âu đã cáo buộc Intel về hành vi chống cạnh tranh, chủ yếu
là chống lại AMD. Các cáo buộc, bắt đầu từ năm 2003, bao gồm đưa ra mức giá ưu đãi cho các
nhà sản xuất máy tính mua hầu hết hoặc tất cả chip của họ từ Intel, trả tiền cho các nhà sản xuất
máy tính để trì hoãn hoặc hủy bỏ việc ra mắt các sản phẩm sử dụng chip AMD và cung cấp chip
với giá thấp hơn chi phí tiêu chuẩn cho chính phủ và các cơ sở giáo dục. Intel đã đáp lại rằng các
cáo buộc là vô căn cứ và thay vào đó coi hành vi thị trường của mình là thân thiện với người tiêu
dùng. Tổng cố vấn Bruce Sewell cho biết ủy ban đã hiểu sai một số giả định thực tế liên quan
đến giá cả và chi phí sản xuất.

Vào tháng 2 năm 2008, Intel bị cơ quan quản lý của Liên minh Châu Âu đột kích văn phòng ở
Munich. Intel hợp tác với các nhà điều tra. Intel có thể bị phạt tới 10% doanh thu hàng năm nếu
bị phát hiện vi phạm luật cạnh tranh. Sau đó, AMD ra mắt trang web quảng cáo cáo buộc Intel.
Vào tháng 6 năm 2008, EU đệ trình cáo buộc mới chống lại Intel. Vào tháng 5 năm 2009, EU
phạt Intel 1,06 tỷ euro (1,44 tỷ USD) vì vi phạm luật cạnh tranh. Intel bị phát hiện trả tiền cho
các công ty, bao gồm Acer, Dell, HP, Lenovo và NEC, để độc quyền sử dụng chip Intel trong các
sản phẩm của họ. Hành động này gây hại cho các công ty khác, ít thành công hơn bao gồm
AMD. EU cho biết Intel cố tình loại bỏ đối thủ cạnh tranh khỏi thị trường chip máy tính. Intel bị
yêu cầu chấm dứt mọi hoạt động bất hợp pháp và chấp nhận mức phạt. Intel kháng cáo phán
quyết của EU. Vào tháng 6 năm 2014, Tòa án sơ thẩm bác bỏ kháng cáo.

Những cáo buộc của cơ quan quản lý ở Hoa Kỳ (2008–2010)


Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Vào tháng 1 năm 2008, New York bắt đầu điều tra Intel về hành vi chống cạnh tranh. Intel bị
nghi ngờ đã lạm dụng vị trí thống lĩnh của mình trên thị trường bộ vi xử lý máy tính để định giá
cao hơn và hạn chế cạnh tranh. Vào tháng 6 năm 2008, FTC cũng bắt đầu điều tra Intel. FTC đã
thu thập bằng chứng về các hành vi chống cạnh tranh của Intel, chẳng hạn như trả tiền cho các
nhà sản xuất máy tính để sử dụng độc quyền bộ vi xử lý của Intel. Vào tháng 12 năm 2009, FTC
thông báo sẽ khởi xướng thủ tục hành chính chống lại Intel. FTC có thể buộc Intel phải chấm dứt
các hành vi chống cạnh tranh và trả tiền bồi thường cho các nạn nhân.

Vào tháng 11 năm 2009, Tổng chưởng lý New York Andrew Cuomo đã kiện Intel vì hành vi hối
lộ và cưỡng ép. Cuomo cáo buộc Intel đã trả tiền cho các nhà sản xuất máy tính để mua nhiều
chip Intel hơn chip của đối thủ cạnh tranh. Intel cũng đe dọa sẽ rút lại các khoản thanh toán này
nếu các nhà sản xuất máy tính làm việc quá chặt chẽ với đối thủ cạnh tranh của Intel.

Vào ngày 22 tháng 7 năm 2010, Dell đã đồng ý dàn xếp với SEC để trả 100 triệu đô la tiền phạt.
SEC cáo buộc Dell đã không tiết lộ chính xác thông tin kế toán về các khoản chiết khấu mà Dell
nhận được từ Intel từ năm 2002 đến năm 2006. Những khoản chiết khấu này được Intel trao cho
Dell để đổi lấy việc Dell không sử dụng chip của AMD. Dell đã không tiết lộ các khoản chiết
khấu này cho các nhà đầu tư, nhưng đã sử dụng chúng để giúp đáp ứng kỳ vọng của nhà đầu tư
về hiệu suất tài chính của Dell. Vào năm 2006, Dell đã bắt đầu sử dụng chip của AMD. Intel sau
đó đã ngừng các khoản chiết khấu của mình, khiến hiệu suất tài chính của Dell giảm xuống.

Tranh chấp thuế ở Ấn Độ

Vào tháng 8 năm 2016, các quan chức Ấn Độ thuộc Bruhat Bengaluru Mahanagara Palike
(BBMP) đã cho đậu xe rác tại trụ sở của Intel và đe dọa sẽ đổ rác vì công ty này trốn thuế tài sản
từ năm 2007 đến 2008, lên tới 340 triệu rupee (5,3 triệu USD). Intel được cho là đã đóng thuế
với tư cách là một văn phòng không có máy điều hòa không khí, trong khi trụ sở của công ty
thực tế có máy điều hòa không khí trung tâm. Các yếu tố khác, chẳng hạn như việc mua lại đất
và cải thiện xây dựng, đã góp phần làm tăng gánh nặng thuế. Trước đó, Intel đã kháng cáo yêu
cầu này tại tòa án tối cao Karnataka vào tháng 7, trong đó tòa án đã ra lệnh cho Intel phải trả cho
BBMP một nửa số tiền nợ 170 triệu rupee (2,7 triệu USD) cộng với tiền lãi chậm trả trước ngày
28 tháng 8 năm đó.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

4. Lịch sử phát triển của các dòng sản phẩm


4.1. Bộ xử lý

Bộ vi xử lý x86 ban đầu và PC IBM

Mặc dù vi xử lý có tầm quan trọng cuối cùng, nhưng 4004 và các sản phẩm kế nhiệm của nó là
8008 và 8080 không bao giờ là những nguồn thu lớn tại Intel. Khi bộ xử lý tiếp theo, 8086 (và
biến thể của nó là 8088) được hoàn thành vào năm 1978, Intel đã bắt đầu một chiến dịch tiếp thị
và bán hàng lớn cho chip này có biệt danh là “Operation Crush”, và có ý định giành được càng
nhiều khách hàng cho bộ xử lý càng tốt. Một thiết kế chiến thắng là phân nhánh IBM PC mới
được tạo ra, mặc dù tầm quan trọng của điều này không được nhận biết đầy đủ vào thời điểm đó.

IBM đã giới thiệu máy tính cá nhân của mình vào năm 1981, và nó đã thành công nhanh chóng.
Vào năm 1982, Intel đã tạo ra vi xử lý 80286, hai năm sau, nó được sử dụng trong IBM PC/AT.
Compaq, nhà sản xuất “clone” IBM PC đầu tiên, đã sản xuất một hệ thống máy tính để bàn dựa
trên vi xử lý 80286 nhanh hơn vào năm 1985 và vào năm 1986 nhanh chóng tiếp theo với hệ
thống đầu tiên dựa trên 80386, đánh bại IBM và thiết lập một thị trường cạnh tranh cho các hệ
thống tương thích với PC và thiết lập Intel là một nhà cung cấp thành phần chính.

Vào năm 1975, công ty đã bắt đầu một dự án để phát triển một vi xử lý 32 bit rất tiên tiến, cuối
cùng được phát hành vào năm 1981 dưới tên Intel iAPX 432. Dự án này quá tham vọng và vi xử
lý không bao giờ đạt được các mục tiêu hiệu suất của nó, và nó đã thất bại trên thị trường. Intel
đã mở rộng kiến trúc x86 lên 32 bit thay vì điều đó.

Pentium và Itanium

Intel đã giới thiệu vi xử lý 486 vào năm 1989, và vào năm 1990 đã thành lập một nhóm thiết kế
thứ hai, thiết kế các bộ xử lý có mã là “P5” và “P6” song song và cam kết sẽ có một bộ xử lý mới
lớn mỗi hai năm, so với bốn năm hoặc nhiều hơn như những thiết kế trước đây. Các kỹ sư Vinod
Dham và Rajeev Chandrasekhar (Thành viên Quốc hội Ấn Độ) là những nhân vật chính trong
nhóm cốt lõi đã phát minh ra chip 486 và sau đó, chip Pentium đặc trưng của Intel. Dự án P5
được biết đến trước đây với tên gọi “Operation Bicycle”, chỉ số chu kỳ của bộ xử lý qua hai
pipeline thực thi song song. P5 được giới thiệu vào năm 1993 dưới tên Intel Pentium, thay thế
tên thương hiệu đã đăng ký cho số phần trước đó (số, như 486, không thể được đăng ký hợp pháp
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

là thương hiệu tại Hoa Kỳ). P6 tiếp theo vào năm 1995 dưới dạng Pentium Pro và được cải tiến
thành Pentium II vào năm 1997. Các kiến trúc mới được phát triển luân phiên tại Santa Clara,
California và Hillsboro, Oregon.

Nhóm thiết kế tại Santa Clara đã khởi động vào năm 1993 một dự án kế thừa cho kiến trúc x86,
có tên mã là “P7”. Dự án đầu tiên đã bị hủy sau một năm nhưng nhanh chóng được hồi sinh
trong một chương trình hợp tác với các kỹ sư của Hewlett-Packard. Tuy nhiên, Intel sớm tiếp
quản trách nhiệm thiết kế chính. Kết quả là việc triển khai kiến trúc 64 bit IA-64 đã tạo ra
Itanium, cuối cùng được giới thiệu vào tháng 6 năm 2001. Hiệu suất của Itanium khi chạy mã
x86 cũ không đạt được kỳ vọng, và nó không thể cạnh tranh hiệu quả với x86-64, đó là phần mở
rộng 64 bit của kiến trúc x86 32 bit của AMD (Intel sử dụng tên Intel 64, trước đây là EM64T).
Vào năm 2017, Intel thông báo rằng dòng Itanium 9700 series (Kittson) sẽ là những chip Itanium
cuối cùng được sản xuất.

Nhóm Hillsboro đã thiết kế các bộ xử lý Willamette (ban đầu có tên mã là P68), được tiếp thị
dưới tên Pentium 4.

Trong giai đoạn này, Intel đã thực hiện hai chiến dịch quảng cáo hỗ trợ chính. Chiến dịch đầu
tiên, chiến dịch tiếp thị và xây dựng thương hiệu “Intel Inside” vào năm 1991, đã trở nên nổi
tiếng và gắn liền với chính Intel. Ý tưởng về “thương hiệu thành phần” là mới vào thời điểm đó,
chỉ có NutraSweet và một số thương hiệu khác cố gắng làm điều này. Một trong những kiến trúc
sư chính của nhóm tiếp thị là người đứng đầu bộ phận vi xử lý, David House. Ông đã tạo ra khẩu
hiệu “Intel Inside”. Chiến dịch này đã giúp Intel, từ một nhà cung cấp thành phần ít được biết
đến ngoài ngành công nghiệp máy tính cá nhân, trở thành một tên tuổi quen thuộc trong các hộ
gia đình.

Chiến dịch thứ hai, Nhóm Hệ thống của Intel, bắt đầu vào đầu những năm 1990, tập trung vào
việc sản xuất bo mạch chủ máy tính cá nhân - thành phần chính của bo mạch chủ máy tính cá
nhân, nơi mà bộ xử lý (CPU) và chip bộ nhớ (RAM) được cắm vào. Chiến dịch Nhóm Hệ thống
ít được biết đến hơn so với chiến dịch Intel Inside.

Không lâu sau đó, Intel bắt đầu sản xuất hệ thống “hộp trắng” hoàn toàn được cấu hình cho hàng
chục công ty clone PC mọc lên nhanh chóng. Tại thời điểm cao điểm vào giữa những năm 1990,
Intel sản xuất hơn 15% tất cả các PC, làm cho nó trở thành nhà cung cấp lớn thứ ba vào thời
điểm đó. Trong suốt thập kỷ 1990, Intel Architecture Labs (IAL) chịu trách nhiệm cho nhiều sự
đổi mới phần cứng cho PC, bao gồm PCI Bus, PCI Express (PCIe) bus, và Universal Serial Bus
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

(USB). Các nỗ lực phần mềm của IAL gặp phải số phận khá phức tạp; phần mềm video và đồ
họa của nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển video số phần mềm, nhưng sau đó
các nỗ lực của nó phần lớn bị lu mờ bởi sự cạnh tranh từ Microsoft. Sự cạnh tranh giữa Intel và
Microsoft đã được tiết lộ trong lời khai của Phó Chủ tịch IAL Steven McGeady tại phiên tòa
chống độc quyền của Microsoft (Hoa Kỳ kiện Microsoft Corp).

Lỗ hổng Pentinum

Vào tháng 6 năm 1994, các kỹ sư của Intel đã phát hiện ra một lỗi trong phần con toán học dấu
chấm động của vi xử lý P5 Pentium. Trong một số điều kiện phụ thuộc vào dữ liệu, các bit thấp
nhất của kết quả của một phép chia dấu chấm động sẽ không chính xác. Lỗi này có thể gây ra lỗi
phức tạp trong các phép tính tiếp theo. Intel đã sửa lỗi trong một phiên bản chip sau, và dưới áp
lực công khai, nó đã tiến hành thu hồi toàn bộ và thay thế các CPU Pentium bị lỗi (chỉ giới hạn ở
một số mô hình 60, 66, 75, 90 và 100 MHz) theo yêu cầu của khách hàng.

Lỗi này đã được phát hiện độc lập vào tháng 10 năm 1994 bởi Thomas Nicely, Giáo sư Toán học
tại Đại học Lynchburg. Ông đã liên hệ với Intel nhưng không nhận được phản hồi. Vào ngày 30
tháng 10, ông đã đăng một thông điệp về phát hiện của mình trên Internet. Tin về lỗi nhanh
chóng lan rộng và đạt được báo chí ngành công nghiệp. Lỗi rất dễ tái tạo; người dùng có thể
nhập số cụ thể vào máy tính trên hệ điều hành. Do đó, nhiều người dùng không chấp nhận các
tuyên bố của Intel rằng lỗi là nhỏ và “thậm chí không phải là lỗi”. Trong kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn, vào
năm 1994, The New York Times đã đăng một bài viết của nhà báo John Markoff tập trung vào
lỗi. Intel đã thay đổi lập trường của mình và đề nghị thay thế mọi chip, nhanh chóng đặt ra một
tổ chức hỗ trợ người dùng cuối lớn. Điều này dẫn đến một khoản chi phí 475 triệu đô la so với
doanh thu của Intel năm 1994. Tiến sĩ Nicely sau này biết rằng Intel đã phát hiện ra lỗi FDIV
trong quá trình kiểm tra của chính họ vài tháng trước anh (nhưng đã quyết định không thông báo
cho khách hàng).

Sự cố “lỗi Pentium”, cách Intel đối phó với nó, cùng với sự bao phủ của phương tiện truyền
thông đã đẩy Intel từ một nhà cung cấp công nghệ chủ yếu không được biết đến bởi hầu hết
người dùng máy tính trở thành một thương hiệu quen thuộc trong các hộ gia đình. Kết hợp với sự
gia tăng của chiến dịch “Intel Inside”, sự cố này được coi là một sự kiện tích cực cho Intel, khiến
công ty thay đổi một số thực hành kinh doanh của mình để tập trung nhiều hơn vào người dùng
cuối và tạo ra sự nhận thức rộng rãi trong công chúng, đồng thời tránh được ấn tượng tiêu cực
kéo dài.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

a. Intel Core

Dòng Intel Core xuất phát từ thương hiệu Core gốc, với việc ra mắt CPU Yonah 32-bit, bộ xử lý
di động hai nhân đầu tiên của Intel. Được phát triển từ Pentium M, dòng bộ xử lý này sử dụng
phiên bản nâng cấp của kiến trúc vi xử lý P6. Người kế nhiệm của nó, dòng Core 2, được ra mắt
vào ngày 27 tháng 7 năm 2006. Dựa trên kiến trúc vi xử lý Intel Core, đây là một thiết kế 64 bit.
Thay vì tập trung vào tăng tốc độ xung nhịp, kiến trúc vi xử lý Core nhấn mạnh hiệu quả năng
lượng và quay lại với tốc độ xung nhịp thấp hơn. Nó cũng cung cấp các giai đoạn giải mã hiệu
quả hơn, các đơn vị thực thi, bộ nhớ cache và bus, giảm tiêu thụ năng lượng của các CPU mang
thương hiệu Core 2 trong khi tăng khả năng xử lý của chúng.

Vào tháng 11 năm 2008, Intel đã phát hành dòng bộ xử lý Core thế hệ đầu tiên dựa trên kiến trúc
vi xử lý Nehalem. Intel cũng đã giới thiệu một hệ thống đặt tên mới, với ba biến thể hiện được
đặt tên là Core i3, i5 và i7 (cũng như i9 từ thế hệ thứ 7 trở đi). Khác với hệ thống đặt tên trước
đó, những tên này không còn tương ứng với các tính năng kỹ thuật cụ thể. Nó đã được kế nhiệm
bởi kiến trúc vi xử lý Westmere vào năm 2010, với một coi chừng chết co lại thành 32 nm và bao
gồm Intel HD Graphics.

Vào năm 2011, Intel đã phát hành dòng bộ xử lý Core thế hệ thứ 2 dựa trên Sandy Bridge. Thế
hệ này có một sự tăng hiệu suất 11% so với Nehalem. Nó đã được kế nhiệm bởi Core thế hệ thứ
3 dựa trên Ivy Bridge, được giới thiệu tại Diễn đàn Phát triển Intel 2012. Ivy Bridge có một coi
chừng chết co lại thành 22 nm, và hỗ trợ cả bộ nhớ DDR3 và chip DDR3L.

Intel đã tiếp tục mô hình tick-tock của một thay đổi kiến trúc vi xử lý theo sau là một coi chừng
chết co lại cho đến gia đình Core thế hệ thứ 6 dựa trên kiến trúc vi xử lý Skylake. Mô hình này
đã bị loại bỏ vào năm 2016, với việc phát hành gia đình Core thế hệ thứ bảy dựa trên Kaby Lake,
đưa vào mô hình quy trình - kiến trúc - tối ưu hóa. Từ năm 2016 đến 2021, Intel sau đó đã phát
hành thêm nhiều tối ưu hóa trên kiến trúc vi xử lý Skylake với Kaby Lake R, Amber Lake,
Whiskey Lake, Coffee Lake, Coffee Lake R và Comet Lake. Intel đã gặp khó khăn trong việc thu
nhỏ nút quy trình của họ từ 14 nm xuống 10 nm, với kiến trúc vi xử lý đầu tiên dưới nút đó,
Cannon Lake (được tiếp thị như Core thế hệ thứ 8), chỉ được phát hành trong số lượng nhỏ vào
năm 2018.

Vào năm 2019, Intel đã phát hành thế hệ thứ 10 của dòng bộ xử lý Core, có tên mã là “Amber
Lake”, “Comet Lake” và “Ice Lake”. Ice Lake, dựa trên kiến trúc vi xử lý Sunny Cove, được sản
xuất trên quy trình 10 nm và bị giới hạn chỉ dùng cho các bộ xử lý di động tiết kiệm năng lượng.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Cả Amber Lake và Comet Lake đều dựa trên một nút 14 nm được cải tiến, với cái sau được sử
dụng cho sản phẩm máy tính để bàn và di động hiệu suất cao và cái trước được sử dụng cho sản
phẩm di động tiết kiệm năng lượng.

Vào tháng 9 năm 2020, Intel đã giới thiệu dòng chip di động Core thế hệ 11, được biết đến với
tên mã là Tiger Lake. Tiger Lake được xây dựng trên kiến trúc Willow Cove và sử dụng công
nghệ 10 nm được cải tiến. Sau đó, Intel đã phát hành bộ vi xử lý máy tính để bàn Core thế hệ thứ
11 (có tên mã “Rocket Lake”), được chế tạo bằng quy trình 14 nm của Intel và dựa trên kiến trúc
vi mô Cypress Cove, vào ngày 30 tháng 3 năm 2021. Dòng chip này đã thay thế cho dòng chip
Comet Lake trước đó dành cho máy tính để bàn. Tất cả các chip Core thế hệ 11 đều tích hợp đồ
họa mới dựa trên kiến trúc Intel Xe.

Cả hai dòng sản phẩm máy tính để bàn và di động đều được thống nhất dưới một quy trình sản
xuất duy nhất với việc ra mắt dòng chip Intel Core thế hệ 12 (tên mã “Alder Lake”) vào cuối
năm 2021. Thế hệ này sẽ được sản xuất bằng công nghệ 7 nm của Intel, gọi là Intel 7, cho cả
chip máy tính để bàn và di động. Alder Lake sử dụng kiến trúc lai với sự kết hợp giữa các lõi
Golden Cove có hiệu suất cao và các lõi Gracemont (Atom) có hiệu quả cao.

Vào cuối tháng 9/2022, Intel thế hệ thứ 13 Raptor Lake đã được cho ra mắt hứa hẹn sẽ giúp
laptop 2023 mạnh mẽ hơn, tiêu tốn ít điện năng hơn với giá bán không đổi so với thế hệ trước.
Điểm nhấn lớn nhất chắc chắn là dòng HX, dòng chip được Intel đánh giá là CPU di động hiệu
năng cao nhất thế giới với tối đa 24 lõi 32 luồng và tốc độ siêu khủng lên đến 5.60 GHz. Nền
tảng Intel EVO mới có tiêu chuẩn cao hơn và các kết nối chuẩn mới, khả năng tăng tốc bằng AI,
cùng việc tối ưu hóa hiệu suất năng lượng. Nhờ vậy Intel thế hệ thứ 13 sẽ đưa khả năng chơi
game, sáng tạo, làm việc lên một tầm cao mới.

Meltdown, Spectre và các lỗ hổng bảo mật khác

Vào đầu tháng 1 năm 2018, đã được báo cáo rằng tất cả các bộ vi xử lý Intel sản xuất từ năm
1995 (ngoại trừ Intel Itanium và Intel Atom trước năm 2013) đều bị ảnh hưởng bởi hai lỗ hổng
bảo mật được gọi là Meltdown và Spectre.

Ảnh hưởng đến hiệu suất do các bản vá phần mềm là “phụ thuộc vào công việc”. Đã có một số
thủ tục được công bố để giúp bảo vệ máy tính gia đình và các thiết bị liên quan khỏi các lỗ hổng
bảo mật Spectre và Meltdown. Các bản vá Spectre đã được báo cáo là làm giảm đáng kể hiệu
suất, đặc biệt là trên các máy tính cũ hơn; trên các nền tảng Core thế hệ thứ 8 mới hơn, đã đo
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

được sự giảm hiệu suất từ 2–14 phần trăm. Các bản vá Meltdown cũng có thể gây mất hiệu suất
Người ta tin rằng “hàng trăm triệu” hệ thống có thể bị ảnh hưởng bởi những lỗi này. Vào ngày
15 tháng 3 năm 2018, Intel đã báo cáo rằng họ sẽ thiết kế lại CPU của mình (mất hiệu suất sẽ
được xác định) để bảo vệ khỏi lỗ hổng bảo mật Spectre, và dự kiến sẽ phát hành các bộ vi xử lý
được thiết kế lại vào cuối năm 2018.

Ngày 3 tháng 5 năm 2018, đã có thêm tám lỗi thuộc loại Spectre được báo cáo. Intel cho biết họ
đang chuẩn bị các bản vá mới để giảm thiểu những lỗi này. Vào ngày 14 tháng 8 năm 2018, Intel
tiết lộ thêm ba lỗi chip được gọi là L1 Terminal Fault (L1TF). Họ cho biết rằng các bản cập nhật
microcode đã phát hành trước đó, cùng với các bản cập nhật microcode mới chưa phát hành có
thể được sử dụng để giảm thiểu những lỗi này. Vào ngày 18/1/2019, Intel tiết lộ ba lỗ hổng mới
ảnh hưởng đến tất cả các CPU Intel, được gọi là “Fallout”, “RIDL”, và “ZombieLoad”. Các lỗ
hổng này cho phép một chương trình đọc thông tin vừa được viết, đọc dữ liệu trong các bộ đệm
và cổng tải, và rò rỉ thông tin từ các quy trình và máy ảo khác. Các CPU thuộc dòng Coffeelake
còn dễ bị tổn thương hơn, do các biện pháp giảm thiểu phần cứng cho Spectre. Cuối cùng, vào
ngày 5/3/2020, các chuyên gia bảo mật máy tính đã báo cáo về một lỗ hổng bảo mật chip Intel
khác, ngoài các lỗ hổng Meltdown và Spectre, với tên hệ thống là CVE-2019-0090 (hoặc, “Intel
CSME Bug”). Lỗ hổng mới này không thể sửa chữa được bằng một bản cập nhật firmware, và
ảnh hưởng đến gần như “tất cả các chip Intel phát hành trong vòng năm năm qua”.

b. Intel Xeon

Xeon là một thương hiệu bộ vi xử lý x86 được Intel thiết kế, sản xuất, nhắm vào thị trường máy
trạm, máy chủ và hệ thống nhúng và không dành cho người tiêu dùng. Nó được giới thiệu vào
tháng 6 năm 1998. Bộ xử lý Xeon dựa trên kiến trúc giống như CPU cấp máy tính để bàn thông
thường, nhưng có các tính năng nâng cao.

Các dòng Xeon theo nhu cầu:

Giá thành rẻ: Dòng Intel Xeon E.

Tiết kiệm năng lượng: Intel Xeon D Series.

Cho các loại máy trạm: Intel Xeon W Series.

Bộ xử lý máy chủ có thể mở rộng: Intel Xeon SP Bạc, Vàng và Bạch kim.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

c. Intel Atom

Intel Atom là dòng sản phẩm bộ xử lý điện áp cực thấp tập lệnh IA-32 và x86-64 của Tập đoàn
Intel, được thiết kế nhằm giảm mức tiêu thụ điện năng và điện năng tiêu thụ so với các bộ xử lý
dòng Intel Core thông thường. Atom chủ yếu được sử dụng trong các ứng dụng nhúng, từ
netbook, nettop và chăm sóc sức khỏe đến robot tiên tiến, thiết bị internet di động (MID) và điện
thoại. Dây chuyền này ban đầu được thiết kế theo công nghệ bán dẫn – oxit - kim loại bổ sung
(CMOS) 45 nm, với các mẫu sau này có tên mã là Cedar sử dụng quy trình 32 nm. Bộ xử lý
Atom thế hệ đầu tiên dựa trên vi kiến trúc Bonnell. Vào ngày 21 tháng 12 năm 2009, Intel công
bố nền tảng Pine Trail, bao gồm bộ xử lý Atom mới có tên mã là Pineview (Atom N450), giúp
giảm tổng mức tiêu thụ điện năng của bộ sản phẩm xuống 20%. Vào ngày 28 tháng 12 năm
2011, Intel đã cập nhật dòng sản phẩm Atom của mình với bộ xử lý Cedar. Vào tháng 12 năm
2012, Intel đã ra mắt dòng CPU Atom 64-bit Centerton được thiết kế đặc biệt để sử dụng cho
máy chủ. Centerton bổ sung thêm các tính năng trước đây chưa có trên bộ xử lý Atom, chẳng
hạn như công nghệ ảo hóa Intel VT và hỗ trợ bộ nhớ ECC. Vào ngày 4 tháng 9 năm 2013, Intel
ra mắt sản phẩm kế thừa 22nm của Centerton, có tên mã là Avoton.

4.2. Hệ thống & thiết bị:


a. Sử dụng sản phẩm Intel của Apple Inc (2005 – 2019)

Vào ngày 6 tháng 6 năm 2005, Steve Jobs, khi đó là CEO của Apple, đã thông báo rằng Apple sẽ
chuyển đổi Macintosh từ kiến trúc PowerPC ưa thích lâu dài sang kiến trúc Intel x86 vì lộ trình
PowerPC trong tương lai không thể đáp ứng nhu cầu của Apple. Đây được coi là một chiến thắng
cho Intel, mặc dù một nhà phân tích đã gọi động thái này là "mạo hiểm" và "ngu ngốc", vì các
sản phẩm hiện tại của Intel tại thời điểm đó được coi là kém hơn so với AMD và IBM. Những
chiếc máy tính Mac đầu tiên có CPU Intel được công bố vào ngày 10 tháng 1 năm 2006 và
Apple đã có toàn bộ dòng máy Mac dành cho người tiêu dùng chạy trên bộ vi xử lý Intel vào đầu
tháng 8 năm 2006. Máy chủ Apple Xserve đã được cập nhật lên bộ vi xử lý Intel Xeon từ tháng
11 năm 2006 và được cung cấp trong cấu hình tương tự như Mac Pro của Apple.

Mặc dù Apple sử dụng sản phẩm Intel, nhưng mối quan hệ giữa hai công ty đôi khi cũng căng
thẳng. Những tin đồn về việc Apple chuyển từ bộ vi xử lý Intel sang thiết kế riêng của họ bắt đầu
lưu hành từ năm 2011. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2020, trong sự kiện WWDC thường niên của
Apple, Tim Cook, CEO của Apple, đã thông báo rằng công ty sẽ chuyển đổi toàn bộ dòng máy
Mac từ CPU Intel sang bộ vi xử lý do Apple thiết kế riêng dựa trên kiến trúc Arm trong vòng hai
năm tới. Trong ngắn hạn, quá trình chuyển đổi này được ước tính là có tác động tối thiểu đến
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Intel, vì Apple chỉ chiếm khoảng 2% đến 4% doanh thu của hãng. Tuy nhiên, việc Apple chuyển
sang sử dụng chip của riêng mình có thể khiến các nhà sản xuất PC khác phải xem xét lại việc
phụ thuộc vào Intel và kiến trúc x86. Đến tháng 11 năm 2020, Apple đã ra mắt M1, bộ vi xử lý
do công ty thiết kế riêng cho Mac.

b. Siêu máy tính

Bộ phận Máy tính Khoa học Intel được thành lập vào năm 1984 bởi Justin Rattner, với mục đích
thiết kế và sản xuất các máy tính song song dựa trên bộ vi xử lý Intel được kết nối trong cấu trúc
mạng hình lập phương. Năm 1992, tên của bộ phận được đổi thành Bộ phận Hệ thống Siêu máy
tính Intel và việc phát triển kiến trúc iWarp cũng được sáp nhập.[192] Bộ phận này đã thiết kế
một số hệ thống siêu máy tính, bao gồm Intel iPSC/1, iPSC/2, iPSC/860, Paragon và ASCI Red.
Vào tháng 11 năm 2014, Intel tuyên bố rằng họ đang có kế hoạch sử dụng cáp quang để cải thiện
mạng lưới bên trong các siêu máy tính.

4.3. Ổ cứng thể rắn (SSD)

Vào năm 2008, Intel bắt đầu vận chuyển ổ cứng thể rắn (SSD) chính thống với dung lượng lưu
trữ lên đến 160 GB. Cũng giống như CPU của mình, Intel phát triển chip SSD sử dụng quy trình
nanometer ngày càng nhỏ. Các SSD này sử dụng các tiêu chuẩn công nghiệp như NAND flash,
mSATA, PCIe và NVMe. Năm 2017, Intel đã giới thiệu các SSD dựa trên công nghệ 3D XPoint
dưới thương hiệu Optane.

Vào năm 2021, SK Hynix đã mua lại hầu hết mảng kinh doanh bộ nhớ NAND của Intel với giá 7
tỷ USD, với giao dịch trị giá 2 tỷ USD còn lại dự kiến diễn ra vào năm 2025. Intel cũng ngừng
sản xuất các sản phẩm Optane dành cho người tiêu dùng vào năm 2021. Vào tháng 7 năm 2022,
Intel đã tiết lộ trong báo cáo thu nhập quý 2 rằng họ sẽ ngừng phát triển sản phẩm trong tương lai
trong mảng kinh doanh Optane, do đó, về cơ bản đã ngừng phát triển 3D XPoint nói chung.

4.4. Điện toán sương mù

Vào ngày 19 tháng 11 năm 2015, Intel, cùng với Arm, Dell, Cisco Systems, Microsoft và Đại
học Princeton, đã thành lập Liên minh OpenFog để thúc đẩy lợi ích và phát triển điện toán sương
mù. Giám đốc chiến lược về IoT Strategy and Technology Office của Intel, Jeff Fedders, trở
thành chủ tịch đầu tiên của liên minh.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

4.5. Ô tô tự lái

Intel là một trong những bên liên quan lớn nhất trong ngành công nghiệp ô tô tự lái, tham gia vào
cuộc đua vào giữa năm 2017 sau khi hợp tác với Mobileye. Công ty cũng là một trong những
công ty đầu tiên trong lĩnh vực này nghiên cứu mức độ chấp nhận của người tiêu dùng, sau khi
một báo cáo của AAA cho biết tỷ lệ không chấp nhận công nghệ này ở Mỹ lên tới 78%.

Mức độ an toàn của công nghệ lái xe tự động, suy nghĩ về việc từ bỏ quyền kiểm soát cho máy
móc và sự thoải mái về mặt tâm lý của hành khách trong những tình huống như vậy là những chủ
đề thảo luận chính ban đầu. Người đi xe cũng nói rằng họ không muốn nhìn thấy mọi thứ mà
chiếc xe đang làm. Điều này chủ yếu ám chỉ đến vô lăng tự lái mà không có ai ngồi ở ghế lái.
Intel cũng biết rằng bộ điều chỉnh điều khiển bằng giọng nói là rất quan trọng và giao diện giữa
con người và máy móc giúp giảm bớt tình trạng khó chịu và mang lại cảm giác kiểm soát. Điều
quan trọng cần đề cập là Intel chỉ bao gồm 10 người trong nghiên cứu này, điều này làm cho
nghiên cứu ít đáng tin cậy hơn. Trong một video được đăng trên YouTube, Intel đã thừa nhận
thực tế này và kêu gọi thực hiện thêm các cuộc thử nghiệm.

4.6. Thiết bị và lập trình

Intel đã thành lập một đơn vị kinh doanh mới gọi là Programmable Solutions Group (PSG) khi
hoàn tất việc mua lại Altera. Kể từ đó, Intel đã bán các FPGA Stratix, Arria và Cyclone. Năm
2019, Intel đã phát hành FPGA Agilex: các chip dành cho trung tâm dữ liệu, ứng dụng 5G và các
công dụng khác. Vào tháng 10 năm 2023, Intel thông báo rằng họ sẽ tách PSG thành một công ty
riêng biệt vào đầu năm 2024, đồng thời duy trì quyền sở hữu đa số.

4.7. Bộ xử lý đồ họa

Nỗ lực đầu tiên của Intel đối với card đồ họa là Intel 740, được phát hành vào tháng 2 năm 1998.
Intel 740 được coi là không thành công do hiệu suất của nó thấp hơn mong đợi của thị trường,
khiến Intel phải ngừng phát triển các sản phẩm đồ họa rời trong tương lai. Tuy nhiên, công nghệ
của nó vẫn tồn tại trong dòng Intel Extreme Graphics. Intel đã thực hiện một nỗ lực khác với
kiến trúc Larrabee trước khi hủy bỏ nó vào năm 2009. Lần này, công nghệ được phát triển đã
được sử dụng trong Xeon Phi, sản phẩm đã ngừng sản xuất vào năm 2020. Nhưng vào tháng tư
năm 2018, có thông tin cho rằng Intel đang tập hợp một nhóm để phát triển các bộ xử lý đồ họa
rời và vào tháng 6 năm 2018, Intel xác nhận kế hoạch ra mắt GPU rời vào năm 2020.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Trong năm 2020, những GPU đầu tiên được phát hành dưới tên Intel Iris Xe Max và Intel Iris
XE cho laptop. Cuối cùng và sau một số lần trì hoãn, việc ra mắt bán lẻ những card đồ họa rời
đầu tiên này của công ty sau hơn 20 năm, được gọi là dòng Intel Arc, sẽ diễn ra vào năm 2022.

4.8. Các sản phẩm máy chủ

Các sản phẩm máy chủ bao gồm: máy chủ đơn nút, máy chủ đa nút, khối trung tâm dữ liệu Intel,
khung vỏ máy chủ, bo mạch máy chủ, sản phẩm SAS/RAID, quản lý máy chủ Intel.

- Máy chủ đơn nút là loại máy chủ phổ biến nhất, bao gồm một bộ xử lý, bộ nhớ, và bộ lưu trữ.

- Máy chủ đa nút là loại máy chủ có nhiều bộ xử lý và bộ nhớ, được sử dụng cho các khối lượng
công việc đòi hỏi nhiều tài nguyên.

- Khối trung tâm dữ liệu Intel (Intel® Data Center Blocks, DCB) là một giải pháp máy chủ được
xây dựng có mục đích và được xác thực hoàn toàn, có thể giúp các đối tác rút ngắn thời gian ra
mắt thị trường với những giải pháp máy chủ cải tiến được trang bị công nghệ tiên tiến nhất.

- Khung máy chủ là một hệ thống cơ sở hạ tầng cho phép kết nối nhiều máy chủ với nhau.

- Bo mạch máy chủ là thành phần trung tâm của máy chủ, kết nối các thành phần khác nhau với
nhau.

- Sản phẩm SAS/RAID là một loại sản phẩm lưu trữ sử dụng giao diện Serial Attached SCSI
(SAS) và công nghệ RAID (Redundant Array of Independent Disks) để cung cấp khả năng lưu
trữ hiệu quả và đáng tin cậy.

- Quản lý máy chủ Intel là một tập hợp các công cụ và dịch vụ được sử dụng để giám sát, cấu
hình, và quản lý các máy chủ Intel.

4.9. Chipset

Chipset là một bộ chip điện tử bao gồm các mạch tích hợp (IC) được thiết kế để hoạt động cùng
nhau nhằm điều khiển các thành phần chính của một hệ thống máy tính. Chipset thường được
chia thành hai phần chính: northbridge và southbridge.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Các sản phẩm chipset của Intel bao gồm 3 loại: Chipset di động, Chipset máy tính để bàn,
Chipset máy chủ.

Chipset máy tính để bàn được thiết kế cho máy tính để bàn và được chia thành hai loại chính:
người tiêu dùng và doanh nghiệp.

Chipset máy chủ được thiết kế để sử dụng trong các máy chủ và trung tâm dữ liệu và được tối ưu
hóa cho tính toán hiệu nâng cao. Chúng hỗ trợ nhiều bộ xử lý, kết nối mạng tốc độ cao và các tùy
chọn lưu trữ nâng cao.

Chipset di động được thiết kế để sử dụng trong máy tính xách tay và các thiết bị di động khác.
Chúng được tối ưu hóa để tiết kiệm điện năng và cung cấp đồ họa tích hợp cũng như các tính
năng kết nối không dây.

4.10. Sản phẩm không dây

Ngày 24.1.2007 - Tập đoàn Intel đã giới thiệu hệ thống kết nối Intel Next-Gen Wireless-N, một
sự nâng cấp cho thành phần kết nối không dây bên trong công nghệ di động Intel Centrino Duo
và các máy tính xách tay khác sử dụng công nghệ của Intel, giúp người sử dụng kết nối tốt hơn
tới các hệ thống mạng không dây.

Do các máy tính xách tay hiện nay đang ngày càng tải xuống nhiều nội dung cần tới sức mạnh
của băng thông rộng như phim ảnh, video và âm nhạc, một giải pháp kết nối mạng mạnh mẽ hơn
sẽ là rất cần thiết. Sử dụng chuẩn kết nối Wi-Fi 802.11n đang ở giai đoạn dự thảo, công nghệ
Intel Next-Gen Wireless-N sẽ giải quyết nhu cầu này với việc mang lại cho người sử dụng hiệu
suất hoạt động cao hơn tới 5 lần và phạm vi kết nối không dây cao hơn 2 lần – đồng thời mang
lại thêm hơn 1 giờ hoạt động cho pin của máy tính xách tay khi so sánh với các sản phẩm chuẩn
N đang ở giai đoạn dự thảo khác hiện nay.

Sản phẩm Next-Gen Wireless-N của Intel giảm những “điểm chết” (khu vực không kết nối) bên
trong ngôi nhà, tối ưu hóa những khả năng giải trí độ phân giải cao như truyền tải các bộ phim có
độ phân giải cao, nâng cao thời gian sử dụng pin và mang lại lợi ích khi kết nối với các hệ thống
kết nối 802.11 a/b/g hiện tại.

4.11. Bộ nhớ & lưu trữ


Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Bộ nhớ liên tục Intel Optane

Hình 5. Tháp phân cấp các loại bộ nhớ

Intel Optane là gì? Là một thanh ngang ngắn và nhỏ, nhưng đủ sức để khiến ổ cứng HDD truyền
thống tăng thêm tốc độ đáng kể khi sử dụng. Bản chất của Optane là trở thành bộ nhớ đệm
(cache) của ổ cứng truyền thống, Optane sẽ học hỏi dần các thói quen sử dụng của người dùng.
Như khi phát hiện ra bạn thường xuyên sử dụng các tác vụ cụ thể, Optane sẽ lưu trữ trước các dữ
liệu cốt lõi của tác vụ đó, rồi tăng tốc truyền tải đến cho bộ não của hệ thống, nhằm tăng tính
thực thi.

Intel đã luôn nhắc về Optane DC Persistent Memory Modules (PMM) trong hơn một năm nay,
mang lợi ích của một tầng kiến trúc dữ liệu mới nằm giữa DRAM và SSD Optane DC, với SSD
và HDD nằm ở các tầng cuối trong kim tự tháp lưu trữ . Mục tiêu của PMM là di chuyển nhiều
dữ liệu đến gần CPU hơn, mang lại độ trễ giống như DRAM, dung lượng và bền bỉ dữ liệu giống
như một lưu trữ. Sau một năm lắng nghe các đối tác phần cứng và phần mềm về lợi ích của bộ
nhớ liên tục trong phòng thí nghiệm, với việc phát hành Bộ xử lý mở rộng Intel Xeon thế hệ thứ
hai, Optane DC PMEM hiện có sẵn trên nhiều giải pháp máy chủ.

Giải pháp lưu trữ trung tâm dữ liệu

Giải pháp lưu trữ Intel dành cho trung tâm dữ liệu cho phép khách hàng giải phóng hiệu năng lưu
trữ và bảo vệ tính toàn vẹn của dữ liệu, tiết kiệm chi phí và có thể mở rộng cho khối lượng công
việc chuyên sâu. Được xây dựng dựa trên công nghệ bộ xử lý Intel Xeon có thể mở rộng mới
nhất, danh mục sản phẩm của chúng tôi cung cấp các giải pháp lưu trữ cấp doanh nghiệp cho
OEM và người dùng cuối, những người tìm kiếm khả năng bảo vệ dữ liệu, hiệu suất vượt trội và
đơn giản hóa các hoạt động CNTT.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

- Intel Virtual RAID trên CPU (Intel VROC)

- Phần mềm tăng tốc bộ nhớ đệm Intel (Intel CAS)

- Thiết bị quản lý ổ đĩa Intel (Intel VMD)

- Khưng lưu trữ nhận thức phương tiện (MASF)

4.12. Các phần mềm của Intel

Intel cung cấp một loạt các phần mềm cho các mục đích khác nhau, bao gồm:

Phần mềm hệ thống là phần mềm cơ bản cần thiết để khởi động và chạy máy tính. Intel cung cấp
các trình điều khiển, công cụ và phần mềm khác để giúp người dùng cài đặt và sử dụng các sản
phẩm của Intel.

Phần mềm phát triển là các công cụ và tài nguyên giúp các nhà phát triển tạo ra các ứng dụng và
phần mềm mới đặc biệt là trong lĩnh vực AI như Intel Geti hay OpenVINO. Intel cung cấp các
công cụ phát triển cho nhiều ngôn ngữ và nền tảng khác nhau.

Phần mềm ứng dụng là các chương trình máy tính được thiết kế để thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể. Intel cung cấp một loạt các phần mềm ứng dụng cho các lĩnh vực khác nhau, bao gồm trò
chơi, giải trí, kinh doanh và giáo dục.

4.13. Truyền thông mạng và I/O


Sản phẩm Ethernet
Bộ điều hợp, bộ điều khiển, thiết bị chuyển mạch, cáp quang và cáp thường cho cơ sở hạ tầng
mạng hiện tại và trong tương lai của bạn. Tất cả khả năng tương thích được thử nghiệm về khả
năng liên tác mạng đã được kiểm chứng và không có lỗi, cũng như có độ tin cậy vượt trội.
Sản phẩm kiến trúc mạng
Với hiệu năng tính toán cao (HPC) thế hệ mới có bộ tính năng và kiến trúc mạnh mẽ, hỗ trợ tốc
độ 100 Gb/s và khả năng mở rộng để tiến xa và vượt xa hơn.
Quang tử nền silicon
Dựa vào các sản phẩm tiêu chuẩn ngành, các nhà cung cấp dịch vụ đám mây sử dụng và cung
cấp kết nối cực nhanh - lên đến 100G - với giải pháp tích hợp đầy đủ có công nghệ laser silicon
kết hợp.
Intel programmable Ethernet Switch Products
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM Khoa: Công nghệ Thông tin

Với Intel Programmable Ethernet Switch Products, bạn có thể tạo mạng siêu nhanh hoàn chỉnh
theo nhu cầu của mình. Danh mục sản phần này loại bỏ tắt nghẽn và có thể chuyển đổi thậm chí
cả một trung tâm dữ liệu lớn nhất thành một máy tính hiệu suất cao tập trung, cân bằng và được
tối ưu hóa cho chính nó.

5. Intel Core

Xeon

Bảng 1. Intel Xeon

You might also like