You are on page 1of 7

BÀI 10.

HÓA HỌC XANH TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHỆ HÓA


HỌC VÀ MÔI TRƯỜNG

Doanh nghiệp sản xuất trong ngành công nghiệp hóa chất có mức độ gây ô
nhiễm và phát sinh chất thải nguy hại cao nhất đối với môi trường tự nhiên và tác
động xấu đến sức khỏe con người. Tiếp cận qui trình hóa học xanh (HHX) trong sản
xuất..., sẽ là hướng đi thích hợp giúp các doanh nghiệp hóa chất phát triển bền vững.

Tại Việt Nam, công nghiệp đã là ngành kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế. Quá
trình phát triển các ngành công nghiệp, chất thải đã và đang đe dọa gây ô nhiễm môi
trường không khí, đất, nguồn nước… và sức khỏe người dân nghiêm trọng. Ước tính,
mỗi năm sản xuất công nghiệp tại Việt Nam có thể phát thải khoảng gần 3 triệu tấn
chất thải rắn, trong đó có khoảng 30% là chất thải độc hại.

Trong sản xuất công nghiệp, ngành công nghiệp hóa chất có mức độ gây ô
nhiễm môi trường cao nhất. Hầu hết các loại chất thải của ngành công nghiệp hóa
chất đều rất độc hại, tác động xấu đến môi trường tự nhiên và con người không chỉ
trong hiện tại mà cả lâu dài trong tương lai. Tại cuộc hội thảo “HHX và trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp, do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Cục
Hóa chất (Bộ Công Thương) phối hợp với Câu lạc bộ Sơn và Mực in miền Bắc, tổ
chức ở Hà Nội mới đây, đại diện UNDP, đánh giá: Ngành công nghiệp hoá chất Việt
Nam đã phát triển vượt bậc trong những năm gần đây, đóng góp tích cực cho phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, ngành hóa chất Việt Nam cũng đã và
đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn, đó là tiềm ẩn những rủi ro gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng và tác động xấu đến sức khỏe người dân, đòi hỏi
doanh nghiệp cần có cách tiếp cận các hướng đi mới để phát triển, sản xuất, tiêu dùng
bền vững, có trách nhiệm hơn với xã hội.

Các nghiên cứu đã cho thấy, trong sản xuất công nghiệp, chủ động ngăn ngừa
sự hình thành chất thải sẽ tốt hơn và chi phí thấp hơn nhiều so với chi phí bỏ ra để xử
lý hoặc loại bỏ chất thải thải sau khi nó đã được tạo ra. Hơn nữa, việc tạo ra nhiều
chất thải thì chính các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với nhiều chi phí xử lý môi
trường, chi phí xã hội, chi phí khắc phục các hậu quả gây ô nhiễm tác động đến sức
khỏe cộng đồng.

Ông Đào Xuân Lai - Trưởng ban Biến đổi khí hậu và Môi trường, UNDP Việt
Nam, cho biết: HHX là xu hướng tất yếu đang được thúc đẩy ở cấp toàn cầu trong
sản xuất công nghiệp…, nhằm không gặp lại sai lầm của quá khứ như việc phát minh

1
và sử dụng hóa chất độc hại bảo vệ thực vật DDT; hay sản xuất và sử dụng hóa chất
có chứa chất dioxin, thủy ngân, chất CFC gây phá hủy tầng ozon...

“Nền kinh
HHX là một qui trình đang được triển khai trong sản xuất
tế Việt Nam đang
công nghiệp tại Việt Nam trong khung khổ hợp tác giữa
hội nhập mạnh mẽ
UNDP và Bộ Công Thương, tại một số doanh nghiệp như
với nền kinh tế
Công ty mạ Plato và Công ty sơn Nishu…, nhằm mục đích
toàn cầu thông
giảm các chất hữu cơ khó phân hủy (POPs) hàng năm và
qua các hiệp định
giảm phát thải khí nhà kính.
thương mại tự do
đa phương và
song phương. Để các doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam tham gia tốt hơn vào
các chuỗi cung ứng và có lợi ích lớn hơn trong các chuỗi giá trị toàn cầu, các doanh
nghiệp Việt Nam cần áp dụng HHX. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tăng trưởng dài
hạn, giảm thiểu gây ô nhiễm môi trường, tiết kiệm chio phí, đảm bảo phát triển bền
vững” - ông Đào Xuân Lai khuyến nghị.

Cách thức thực hiện HHX, đó là: Đảm bảo điều kiện làm việc an toàn, thúc
đẩy tiếp cận bình đẳng cho phụ nữ và nam giới ở mọi cấp độ, thúc đẩy cơ hội việc
làm, bảo đảm sự riêng tư và an toàn cho người lao động. Cung cấp sản phẩm chất
lượng làm bằng nguyên vật liệu an toàn, không độc hại với giá cả hợp lý; thực hiện
nghiên cứu và phát triển nhằm mục đích thương mại hóa các sản phẩm sáng tạo và
hữu ích hơn theo thời gian. Cung cấp giáo dục cho các nguồn cung cấp nhằm mục
đích tạo ra nguyên liệu tốt và an toàn hơn. Thực hiện các chương trình phát triển cộng
đồng và phát triển khu vực, tập trung vào khu vực nơi nhà máy hoặc nguồn cung cấp
(ví dụ trong trường hợp bột giấy và giấy) đặt đại bản doanh.

Đồng thời, đảm bảo mua nguyên liệu an toàn đối với môi trường và xã hội;
tránh đảo lộn đa dạng sinh học; đảm bảo quy trình sản xuất không ô nhiễm; đảm bảo
tính minh bạch trong giao tiếp về thông tin môi trường; ủng hộ đóng gói thân thiện
với môi trường; tạo ra sản phẩm và quy trình sản xuất thân thiện môi trường; hướng
tới tình nguyện tham gia HHX được coi là tham gia một phần vào chính sách trách
nhiệm xã hội của một doanh nghiệp.

Ông Đặng Anh Tú - Tổng Giám đốc Công ty cổ phần SơnNishu, một doanh
nghiệp đang thực hiện HHX, chia sẻ: “Để người tiêu dùng được sử dụng các sản phẩm
xanh, chúng ta cần có vật tư xanh, sản xuất xanh. Khi và chỉ khi nhận thức được rằng,
HHX giúp bảo vệ sức khỏe cho bản thân, doanh nghiệp mới có thể sản xuất ra sản

2
phẩm xanh bền vững. Nhờ áp dụng HHX, Nishu đã thực hiện được điều vừa nêu,
đồng thời tiết kiệm được nhiều chi phí về năng lượng (điện).

Thực hiện một chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông qua rà soát, điều
chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên,
khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề,
công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển
vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm. Đó là nhiệm vụ chiến lược liên
quan trực tiếp đến Hóa học Xanh tại Việt Nam.

Hóa học xanh là thiết kế các sản phẩm và quy trình hóa học nhằm giảm thiểu
hoặc loại bỏ việc sử dụng hoặc phát sinh các chất độc hại. Hóa học xanh áp dụng cho
suốt vòng đời của một sản phẩm hóa học; sử dụng nhiều hơn các nguyên liệu tái tạo
và bền vững, sử dụng và xử lý sản phẩm thải bỏ sau sử dụng. Do vậy, hóa học xanh
cũng có thể được coi là hóa học bền vững.

Năm 2005, giải thưởng Nobel về hóa học đã được trao cho phát minh ra quá
trình hóa học xúc tác metathesis (chuyển vị) có khả năng ứng dụng rộng rãi trong
ngành hóa chất, sử dụng ít hơn năng lượng hơn và có khả năng giảm phát thải khí nhà
kính đối với nhiều quá trình then chốt. Quá trình này được thực hiện ổn định ở nhiệt
độ và áp suất bình thường, có thể được sử dụng kết hợp với dung môi xanh hơn và
tạo ra chất thải ít nguy hại hơn.

3
Năm 2012, Công ty Elevance Renewable Sciences đã được giải thưởng Thử
thách Hóa học Xanh của Tổng thống (Hoa kỳ) về sử dụng xúc tác chuyển vị để phá
vỡ dầu tự nhiên và kết hợp các mảnh lại thành hóa chất hiệu suất cao. Công ty này đã
sản xuất các hóa chất đặc biệt sử dụng cho nhiều mục đích, thí dụ như chất tẩy rửa
nước lạnh đậm đặc làm sạch tốt hơn với chi phí năng lượng giảm.

10.1. Nghiên cứu ứng dụng hóa học xanh

10.1.1 Nghiên cứu sản xuất chip máy tính

Trong quá trình sản xuất chip máy tính, cần nhiều hóa chất, nước và năng
lượng. Trong một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2003, ước tính trong công
nghiệp sản xuất chip máy tính thì khối lượng hóa chất và nhiên liệu hóa thạch cần
thiết để chế tạo chip máy tính là tỷ lệ 630: 1, có nghĩa là phải sử dụng nguyên liệu
nguồn gấp 630 lần trọng lượng của 1 con chip. Trong khi đó trong ngành chế tạo ô
tô, tỷ lệ này chỉ là 2:1.

Các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos đã phát triển một
quy trình sử dụng carbon dioxide siêu tới hạn tại một trong các bước chuẩn bị chip,
và nó làm giảm đáng kể lượng hóa chất, năng lượng và nước cần thiết để sản xuất
chip.

Richard Wool, cựu giám đốc của chương trình Composites giá rẻ từ nguồn
nguyên liệu tái tạo (ACRES) tại Đại học Delwar, đã tìm ra cách sử dụng lông gà để
chế tạo chip máy tính: Protein, keratin có trong lông vũ được sử dụng để tạo ra một
dạng sợi vừa nhẹ vừa đủ bền để chịu được các áp lực cơ học và nhiệt. Kết quả đã tạo
ra là bảng mạch in bằng lông vũ hoạt động với tốc độ gấp đôi tốc độ của bảng mạch
truyền thống. Mặc dù công nghệ này vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu để sử dụng
cho mục đích thương mại, nhưng kết quả nghiên cứu này đã hướng đến mục đích sử
dụng khác của lông vũ làm nguồn nguyên liệu, bao gồm cả nhiên liệu sinh học.

10.1.2 Ngành công nghiệp dược phẩm

Ngành công nghiệp dược phẩm đang tiếp tục tìm cách phát triển các loại thuốc
có tác dụng phụ ít gây hại hơn và sử dụng các quy trình sản xuất phát sinh ra chất thải
ít độc hại hơn.

4
Merck và Codexis đã phát triển một tổng hợp xanh thế hệ thứ hai của
sitagliptin một thành phần hoạt chất trong JanuviaTM, một phương pháp điều trị cho
bệnh tiểu đường type 2. Sự hợp tác này đã tạo ra một quá trình enzyme làm giảm chất
thải, cải thiện năng suất, an toàn và loại bỏ sự cần thiết phải sử dụng chất xúc tác kim
loại. Nghiên cứu ban đầu cho thấy rằng các chất xúc tác sinh học mới cũng sẽ hữu
ích trong việc sản xuất các loại dược phẩm khác.

Ban đầu được lưu hành dưới tên thương phẩm là Zocor®, thuốc Simvastatin
là một đơn thuốc hàng đầu dùng trong điều trị cholesterol cao. Phương pháp đa pha
truyền thống chế tạo loại thuốc này đã phải dùng một lượng lớn chất phản ứng nguy
hại và phát sinh ra một lượng lớn chất thải độc hại trong quy trình. Giáo sư Yi Tang,
thuộc Đại học California, đã đưa ra một qui trình tổng hợp sử dụng enzyme kỹ thuật
với chi phí nguyên liệu thấp. Codexis, một công ty xúc tác sinh học, đã tối ưu hóa cả
enzyme và qui trình hóa học. Kết quả giảm đáng kể rủi ro và chất thải, hiệu quả cao
và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

10.1.3 Chế tạo nhựa có khả năng phân hủy sinh học

Một số công ty đang nghiên cứu phát triển nhựa được làm từ các nguồn nguyên
liệu tái tạo, có khả năng phân hủy sinh học.

NatureWorks of Minnetonka, Minnesota, chế tạo các hộp đựng thực phẩm từ
một loại polymer có tên là axit polylactic mang nhãn hiệu Ingeo. Các nhà khoa học
tại NatureWorks đã phát minh ra một phương pháp trong đó các vi sinh vật chuyển
đổi bột ngô thành một loại nhựa bền tương đương với nhựa dựa trên dầu mỏ hiện
đang được sử dụng cho các bình chứa như chai đựng nước và hộp đựng sữa chua.
Công ty đang nghiên để tìm nguồn cung ứng nguyên liệu thô từ chất thải nông nghiệp.

BASF đã phát triển và tiếp thị màng phim polyester có thể phân hủy hoàn
toàn được gọi là "Ecoflex®." Họ đang sản xuất và tiếp thị các loại túi phân hủy sinh
học hoàn toàn, "Ecovio®", màng phim được chế tạo từ tinh bột sắn và canxi cacbonat.
Được chứng nhận bởi Biodegradable Products Institute, các túi này phân rã hoàn toàn
thành nước, CO2 và sinh khối trong các hệ thống ủ phân công nghiệp. Các túi này có
khả năng chống rách, chống đâm thủng, không thấm nước, có thể in và đàn hồi. Sử
dụng các túi này thay cho túi nhựa thông thường, chất thải nhà bếp và sân sẽ nhanh
chóng phân hủy trong các hệ thống ủ phân đô thị.

5
10.1.4 Ngành sản xuất sơn

Sơn "alkyd" gốc dầu tạo ra một lượng lớn các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
(VOCs). Các hợp chất dễ bay hơi này bay hơi từ sơn khi khô và lưu hóa và có chứa
các chất có một hoặc nhiều tác động môi trường.

Procter & Gamble and Cook Composites and Polymers đã chế tạo ra hỗn hợp
dầu đậu nành và đường thay thế cho nhựa và dung môi sơn có nguồn gốc từ hóa thạch,
cắt giảm 50% chất bay hơi nguy hiểm. Các công thức sơn Chempol® MPS sử dụng
các loại dầu Sefose® sinh học này để thay thế các dung môi gốc dầu mỏ và tạo ra loại
sơn an toàn hơn khi sử dụng và tạo ra chất thải ít độc hại hơn.

Sherwin-Williams đã phát triển sơn acrylic alkyd gốc nước với VOC thấp có
thể được làm từ nhựa chai soda tái chế (PET), acrylics và dầu đậu nành. Những loại
sơn này kết hợp các lợi ích hiệu suất của alkyds và hàm lượng VOC thấp của acrylics.
Trong năm 2010, Sherwin-Williams đã sản xuất đủ số lượng sơn mới này để loại bỏ
hơn 800.000 pound, tương đương 362.874 kg VOC.

10.2 Về tình hình phát triển hóa học xanh của Việt Nam

10.2.1 Cơ sở pháp lý

Ngày 25 tháng 09 năm 2012 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số
1393/QĐ-TTg Phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-
2020 và tầm nhìn đến năm 2050” với quan điểm ‘Tăng trưởng xanh là một nội dung
quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền
vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu’…
với Mục tiêu chung “Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu
vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát
thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội”.

Trong Quyết định đã đề ra 3 mục tiêu cụ thể và 3 Nhiệm vụ Chiến lược của
Tăng trưởng xanh.

(i) 3 mục tiêu cụ thể là: Tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng
xanh hóa các ngành hiện có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng
hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao; Nghiên cứu, ứng dụng

6
ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên
nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi
khí hậu; Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường
thông qua tạo nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh,
đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh.

(ii) 3 Nhiệm vụ chiến lược trong đó có nhiệm vụ số 2 liên quan trực tiếp đến
Hóa học xanh đó là nhiệm vụ b: Thực hiện một chiến lược “công nghiệp hóa
sạch” thông qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm
và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh
với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi
trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm.

Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: Giá trị sản phẩm ngành công nghệ
cao, công nghệ xanh trong GDP là 42 - 45%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt
tiêu chuẩn về môi trường là 80%, áp dụng công nghệ sạch hơn 50%, đầu tư phát triển
các ngành hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm giàu vốn tự nhiên phấn đấu đạt 3 - 4%
GDP.

10.2.2 Hợp tác quốc tế về phát triển Hóa học xanh

Ngày 04/06/2018 Cục Hóa Chất Bộ Công Thương phối hợp với Quĩ Môi
trường toàn cầu (GEF), Chương trình Phát triển Liên hợp Quốc (UNDP) đã tổ chức
Hội thảo khởi động dự án: ‘Áp dụng hóa học xanh tại Việt Nam nhằm hỗ trợ tăng
trưởng xanh, giảm thiểu sử dụng, và phát thải các chất ô nhiễm, hữu cơ khó phân hủy
(POPs) và các chất độc hại khác (Dự án hóa học xanh). Hiện tại dự án đanh trong giai
đoạn triển khai thực hiện.

You might also like