Professional Documents
Culture Documents
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - PHẠM TIẾN DUẬT
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - PHẠM TIẾN DUẬT
1
nguy hiểm, tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ, tình đồng chí, đồng đội và ý chí chiến
đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
f. Nghệ thuật
− Thể thơ. kết hợp linh hoạt thể bảy chữ và tám chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ
gần với lời nói, tự nhiên, sinh động
− Nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ là giọng điệu và ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ bài thơ giản dị, mang đậm sắc thái đời sống chiến trường.
+ Lời thơ gần với văn xuôi, lời nói thường, giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ
khoắn nhưng vẫn giàu chất thơ
+ Giọng điệu ngang tàng, trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch, tự nhiên, thể hiện cái hiên
ngang, bất chấp mọi khô khăn, nguy hiểm của các anh lính lái xe Trường Sơn.
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Hình ảnh những chiếc xe không kính vẫn băng băng ra chiến trường
− Xưa nay hình ảnh tàu xe vào thơ thường được mỹ lệ hoá, lãng mạn hoá nhưng
Phạm Tiến Duật đưa một hình ảnh thực đến trần trụi “Những chiếc xe không
kinh”. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực bằng 2 câu thơ gần với văn
xuôi với giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
− Câu thơ thứ hai với điệp ngữ “bom” kết hợp động từ mạnh “giật”, “rung” khiến
cho “kính vỡ đi rồi” càng tăng gấp bội sự dữ dội của cuộc chiến đấu
− Bom đạn chiến tranh còn làm những chiếc xe biến dạng thêm, trần trụi hơn:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
− Điệp ngữ “không có” cùng phép liệt kê “kính, đèn, mui xe, thùng xe" có tác
dụng nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của chiếc xe, đồng thời còn cho ta
thấy mức độ ác liệt của chiến trường
− Hình ảnh này không hiếm trong chiến tranh những phải có hồn thơ nhạy cảm với
nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra
được và đưa vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.
2. Hình ảnh người lính lái xe:
Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ
lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn
cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh tế lớn lao
của họ. (đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn)
a) Tư thế ung dung, hiên ngang, tự tin, tự hào:
2
− Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm: những chiếc xe và những người
chiến sĩ lái xe. Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với
“bom giật, bom rung” giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom trên những
nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Trong hoàn cảnh đó, người lính lái xe
đã bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
− Hai câu thơ sáu chữ nhịp 2/2/2 kết hợp điệp từ “nhìn” và chữ “ung dung” đảo
lên đầu câu làm nổi bật tư thế hiên ngang, tinh thần vững vàng, tự tin, bình
thản của người chiến sĩ lái xe
− “Nhìn thẳng là cái nhìn đầy tự chủ, có vẻ trang nghiêm bất khuất, nhìn thẳng
vào con đường phía trước, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh không run sợ,
không né tránh và cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào
ngắm nhìn, đón nhận thiên nhiên.
− Qua cửa kính vỡ rồi, người lái xe như tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
− Phép nhân hóa “gió vào xoa mắt đắng”, phép so sánh “sao trời”, “cánh chim”
“như sa, như ùa vào buồng lái”
➢ Diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh trên đường
➢ Diễn tả chi tiết những khó khăn, nguy hiểm mà người lính phải đối mặt khi
không có kính chắn gió
➢ Hiện thực thì khốc liệt nhưng người chiến sĩ cảm nhận nó bằng một tâm hồn
trẻ trung, lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp, thể hiện ý chí, nghị lực, bản lĩnh phi
thường. Những hình ảnh chắn gió, con đường, sao rơi, cánh chim vừa thực,
vừa thơ, là cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ
− Hình ảnh “Con đường chạy thẳng vào tim” là hình ảnh ẩn dụ cho con đường
Trường Sơn, con đường giải phóng miền Nam ⇨ Câu thơ hé lộ diện mạo tinh
thần thầm kín của người chiến sĩ.
− Cùng với tư thế ung dung, hiên ngang, đầy tự tin, tự hào là tầm quan sát cao
rộng với điệp ngữ “nhìn”, “thấy” biểu hiện sự tập trung cao độ, một tinh thần
trách nhiệm nhưng của một tâm hồn lãng mạn, bình thản, chủ động chiêm
ngưỡng và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên qua ô cửa kính vỡ
b) Tinh thần dũng cảm, lạc quan, coi thường gian khổ, hiểm nguy
3
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
5
sức mạnh bạo tàn nào của giặc Mỹ có thể ngăn cản nổi, thể hiện ý chi sẵn sàng
tiến lên phía trước, vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ.
− Hình ảnh “trời xanh" ẩn dụ cho nền hòa bình, hi vọng, gợi lên tâm hồn chan
chứa lạc quan, tràn đầy hi vọng, yêu đời của người lính trong tình đồng chí,
đồng đội thắm thiết
d) Ý chi chiến đấu vì giải phóng niềm Nam, thống nhất đất nước
− Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ thể hiện ý chí chiến đấu giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc. Đó chính là động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức
mạnh phi thường của người lĩnh để vượt lên tất cả, bất chấp mọi nguy nan, mọi
sự huỷ diệt, tàn phá.
− Khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đối lập, bất ngờ, sâu sắc, đối lập giữa hai phương
diện vật chất và tinh thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Trải qua
mưa bom bão đạn, những chiếc xe đã không có kính nay càng trở nên hư hại
hơn, vật chất ngày càng thiếu thốn hơn:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
− Điệp ngữ không có" được nhắc lại ba lần cùng phép liệt kê "kính, đèn, mui xe,
thùng xe” có tác dụng nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của chiếc xe, đồng
thời còn cho ta thấy mức độ ác liệt của chiến trường. - Bom đạn quân thù có thể
làm biến dạng xe nhưng không đè bẹp được tình thần , ý chí chiến đấu của
những người chiến sĩ lái xe. Xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc mà
còn có một động cơ tình thần
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim."
− Đối lập với tất cả những cái “không có” ở trên là một cái “có” – trái tim – sức
mạnh của người lính. Cụm từ “chỉ cần có" làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên
mạnh mẽ, hào hùng. Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn
khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó được kết tụ trong trái tim gan góc, kiên
cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương
− Trái tim ấy thay thế cho tất cả những thiếu thốn. Trái tim nồng cháy, một lẽ sống
cao đẹp và thiêng liêng: tất cả về miền Nam thân yêu. Những chiếc xe càng thêm
độc đáo vì đó là những chiếc xe “trái tim cầm lái”.
− Hình ảnh hoán dụ, ẩn dụ “trái tim” gợi nhiều liên tưởng ý nghĩa:
+ hoán dụ chỉ người lính lái xe yêu nước
6
+ gợi liên tưởng tới phẩm chất, tâm hồn cao đẹp của họ: tình yêu thương, lòng
dũng cảm, bản lĩnh hiện ngang, tinh thần lạc quan và ý chí quyết tâm giải phóng
miền Nam thống nhất tổ quốc.
➢ “Trái tim” đã trở thành nhãn tự bài thơ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của
người lính và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc
− Trái tim người lính tỏa sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mãi sau khiến ta không
quên một thế hệ thanh niên thời kì chống Mĩ của dân tộc
3. Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ qua hình ảnh người lính
trong bài thơ. So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này với bài Đồng Chí
− Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ là thế hệ sống rất đẹp, rất anh hùng. Họ ý
thức sâu sắc về sứ mệnh lịch sử của mình, trong gian khổ, hi sinh vẫn phơi phới
lạc quan.
− Những người lính trong “Đồng chí và "Bài thơ về tiểu đội xe không kinh” cho
thấy hình ảnh người lính trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ có những
nét chung lòng: yêu nước, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, thái độ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sống lạc quan, có
tính đồng chí đồng đội thắm thiết.
− Tuy nhiên ở mỗi bài, hình ảnh người lính lại có những nét riêng:
+ “Đồng chỉ thể hiện hình ảnh người lính hầu hết xuất thân từ nông dân, từ thân
phận nô lệ nghèo khổ mà đi vào kháng chiến với muôn vàn khó khăn, thiếu thốn.
Cách mạng chính là sự giải thoát cho số phận đau khổ tối tăm của họ. Hiếm có
sự ung dung tự tại nhưng lại rất đoàn kết gắn bó yêu thương nhau.
+ Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, người lính đi vào cuộc chiến đấu với
ý thức giác ngộ về lí tưởng độc lập tự do gắn với chủ nghĩa xã hội. Họ ý thức sâu
sắc về trách nhiệm của thế hệ mình. Họ sống trẻ trung, yêu đời, lạc quan, tự tin.
Đó là một thế hệ anh hùng, hiên ngang, mạnh mẽ.