You are on page 1of 3

Bệnh Phong

Bệnh phong là một bệnh nhiễm trùng mãn tính thường gây ra bởi vi khuẩn kháng
acid mycobacterium leprae, trong đó có thể duy nhất cho dây thần kinh ngoại vi, da và
niêm mạc màng nhầy của đường hô hấp trên. Triệu chứng rất đa dạng và bao gồm nhiều
loại hình tổn thương da và bệnh lý thần kinh ngoại vi. Chẩn đoán lâm sàng và bệnh lý thần
kinh ngoại vi được chẩn đoán bằng phương pháp sinh thiết. Điều trị thường là bằng
dapsone cùng với các loại thuốc chống vi khuẩn khác. Bệnh nhân nhanh chóng trở nên
không nên lây sau khi bắt đầu điều trị.

Mặc dù bệnh phong không có khả năng lây nhiễm cao, hiếm khi gây tử vong và có thể điều
trị hiệu quả bằng kháng sinh, nó vẫn liên quan đến sự kỳ thị xã hội đáng kể. Sự hiểu lầm về
bệnh có thể tồn tại bởi vì bệnh phong là không thể chữa khỏi trước sự ra đời của những liệu
pháp kháng sinh hiệu quả vào những năm 1940. Những người mắc bệnh sẽ bị biến dạng và
thường bị khuyết tật nghiêm trọng, làm cho họ sợ và tránh xa những người khác. Vì sự kì thị
xã hội này, tác động đến tâm lý của người bệnh phong rất nghiêm trọng
I. Dịch tễ học bệnh Phong:
Trên toàn cầu, số ca bệnh phong đang giảm. Trong năm 2016, có khoảng 215.000 trường
hợp mới đã được báo cáo. Năm 2015, khoảng 80% trường hợp mắc bệnh xảy ra ở Ấn
Độ, Brazil và Indonesia.

Trong năm 2015, 178 trường hợp mới đã có các bài báo cáo về trường hợp mắc bệnh ở
Mỹ; 72% xảy ra ở 7 tiểu bang: Arkansas, California, Florida, Hawaii, Louisana, New York
và Texas. Hầu hết các trường hợp bệnh phong ở Hoa Kỳ đều liên quan đến những người
di cu từ các nước phát triển

Bệnh Phong có thể phát triển ở mọi lứa tuổi nhưng thường xuất hiện ở người từ 5 đến
15 tuổi >30
II. Sinh lý của bệnh phong
Con người là vật chủ chính tự nhiên cho vi khuẩn là nguồn duy nhất được xác nhận khác
với con người, mặc dù ở các động vật và môi trường khác cũng có thể có.

Bệnh ho gà là được cho là di truyền từ người này sang người khác thông qua các giọt
dịch và các chất bài tiết. Tiếp xúc thông thường ( VD: chỉ cần chạm vào ai đó mắc bệnh)
và tiếp xúc ngắn hạn dường như không lây lan bệnh. Khoảng một nửa số bệnh nhân có
thể bị nhiễm bệnh sau khi tiếp xúc ngắn và gần gũi lâu dài với người bị bệnh. Ngay cả khi
tiếp xúc với vi khuẩn, hầu hết mọi người không mắc bệnh phòng; các nhân viên y chăm
sóc sức khoẻ thường làm việc nhiều năm với những người bệnh phong nhưng không
mắc bệnh phong. Hầu hết ( 95%) người có khả năng miễn dịch bình thường bị nhiễm M.
leperae không phát triển thành bệnh phong vì có miễn dịch hiệu quả. Những người phát
triển thành bệnh phong có thể có một khuynh hướng di truyền không xác định.

M.leprae phát triển chậm ( tăng gấp đôi trong 2 tuần ). Thời kỳ ủ bệnh thông thường từ
tháng 6 đến tháng 10 năm. Khi nhiễm trùng phát triển, có thể xảy ra hiện tượng truyền
máu
1. Phân loại:
Bệnh phong có thể được phân loại theo số vùng da bị ảnh hưởng:
- Nhóm ít vi khuẩn  5 tổn thương da không có vi khuẩn phát hiện trên mẫu từ những
khu vực này
- Nhóm nhiều vi khuẩn  6 tổn thương da, vi khuẩn được phát hiện trên mẫu từ
những khu vực này, hoặc cả hai
Bệnh phong cũng có thể được phân loại theo đáp ứng tế bào và kết quả lâm sàng :
- Tuberculoid
- Lepromatous
- Ranh giới
Những người bị bệnh phong do lao thường có phản ứng trung gian tế bào, điều này giới
hạn ở bệnh một số tổn thương da ( vùng dưới da ) và bệnh nhẹ hơn, ít phổ biến hơn và
ít lây lan hơn. Người bị phong củ điển hình có phản ứng trung gian tế bào mạnh, làm hạn
chế, ít phổ biến và ít gây nhiễm hơn những người bị phong u hay phong trung gian
thường có chức năng miễn dịch qua trung gian tế bào kém với M.leprae và có nhiễm
trùng nghiêm trọng hơn, nhiễm trùng hệ thống với sự lan truyền và xâm nhập vi khuẩn
vào da, dây thần kinh và các cơ quan khác ( ví dụ như mũi, tinh hoàn, thận ). Họ có nhiều
tổn thương da ( đa vi khuẩn ) và dễ lây hơn.

Trong cả hai phân loại, loại bệnh phong


- Tiên lượng lâu dài
- Các biến chứng có thể xảy ra
- Điều trị kháng sinh
III. Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phong
Triệu chứng thường không bắt đầu cho đến khi >1 năm sau khi nhiễm bệnh (trung bình 5
đến 7 năm ). Một khi các triệu chúng bắt đầu, chúng tiến triển chậm.

Bệnh phong thường ảnh hưởng chính đến da và thần kinh ngoại vi. Các thần kinh ngoại
vi liên quan thường bị tê bì và yếu ở những vùng mà chúng kiểm soát.
- Bệnh phong củ: Các tổn thương da bao gồm một hoặc một vài vùng da trung tâm
sáng màu hơn có giới hạn rõ ràng. Phát ban, như trong tất cả các hình thức của bệnh
phong là không ngứa. các vùng bị ảnh hưởng bởi sự phát triển phát ban này vì bị tổn
thương bởi các sợi thần kinh dưới da, có thể lan rộng.

- Bệnh phong u: Hầu hết da và nhiều vùng ở cơ thể, bao gồm thận, mũi, tinh hoàn,
đều có thể bị ảnh hưởng. Bệnh nhân có tổn thương da, vảy hoặc nốt mảng ám,
thường là đối xứng. Bệnh lý thần kinh ngoại biên năng hơn phong củ, với nhiều vùng
bị tê bì; một số nhóm cơ có thể yếu. Bệnh nhân có thể bịn chứng vú to ở đàn ông
hoặc mất lông mi và lông mày

- Bệnh phong trung gian: Các bệnh cảnh của cả bệnh phong củ và phong u đều có
mặt. Nếu không điều trị, bệnh phong trung gian có thể ít trầm trọng hơn và giống với
dạng bệnh củ, hoặc có thể trở nên tồi tệ hơn và trở nên giống với dạng phong u hơn
Biến chứng:
Các biến chứng nghiêm trọng nhất là do bệnh lý thần kinh ngoại vi gây ra sự suy giảm
cảm giác đụng chạm và không có khả năng cảm thấy đau và nhiệt độ bệnh nhân có thể vô
tình đốt, cắt, hoặc tự hại bản thân. Thiệt hại nhiều lần có thể dẫn đến mất chữ số. Sự phá
huỷ lặp lại nhiều lần có thể dẫn đến mất ngón tay, ngón chân sự yếu cơ có thể dẫn đến dị
dạng ( ví dụ bàn tay vuốt trị ở ngón 4 và 5 do tổn thương thần kinh trụ hoặc bàn chân rơi do
tổn thương thần kinh mác).

Nốt sần hoặc cụ có thể gây biến dạng mặt

Các khu vực khác của cơ thể có thể bị ảnh hưởng:


- Đôi chân: loét bàn chân với nhiễm trùng thứ phát là nguyên nhân chính gây bệnh,
gây đau đớn tột độ
- Mũi: phá huỷ niêm mạc mũi có thể gây ra xung huyết và chảy máu mũi mạn tính và
nếu không được điều trị có thể ăn mòn và làm cho sụp đổ vách mũi
- Mắt: viêm mống mắt có thể dẫn đến tăng nhãn áp và mất cảm giác giác mạc có thể
dẫn đến sẹo và mù loà
- Chức năng tình dục: những người bị bệnh phong có thể rối loạn cương dương và vô
sinh. Nhiễm trùng có thể làm giảm testosterol và làm giảm khả năng sản xuất tinh
trùng của tinh hoàn
- Thận: thoái hoá dạng bột và dẫn đến hậu quả suy thận

You might also like