Professional Documents
Culture Documents
VIÊM TUỴ
Định nghĩa:
● Viêm tuỵ cấp là tình trạng viêm được phát hiện ở cả lâm sàng và mô học.
● Viêm tụy mạn tính được đặc trưng bởi các thay đổi mô học mà không thể
hồi phục, tiến triển và dẫn đến mất đáng kể chức năng tuyến tụy ngoại tiết
và nội tiết. Bệnh nhân bị viêm tụy mạn tính có thể có các đợt bùng phát
cấp tính.
● Viêm tuỵ có thể ảnh hưởng đến cả chức năng ngoại tiết và nội tiết của
tuyến tụy. Các tế bào tuyến tụy tiết ra các enzym bicarbonate và enzym
tiêu hoá vào các ống nối tuyến tuỵ với tá tràng ở bóng Vater ( chức năng
ngoại tiết ). Các tế bào beta đảo tuỵ tiết ra insulin trực tiếp vào máu ( chức
năng nội tiết ).
II. VIÊM TUỴ CẤP
1. Định nghĩa:
● Viêm tuỵ cấp là tình trạng viêm cấp tính của tuyến tụy ( và đôi khi là các
mô lân cận ). Các tác nhân gây khởi phát phổ biến nhất là sỏi mật và uống
rượu. Mức độ nặng của viêm tuỵ cấp được phân loại nặng và nhẹ, trung
bình hoặc nặng dựa trên sự phát triển và hiện diện của các biến chứng tại
chỗ và suy tạng tạm thời hoặc kéo dài. Chẩn đoán dựa trên biểu hiện lâm
sàng và nồng độ amylase và lipase huyết thanh, các phương pháp chẩn
đoán hình ảnh. Điều trị hỗ trợ bằng dịch truyền tĩnh mạch, thuốc giảm đau
và hỗ trợ dinh dưỡng. Mặc dù tỷ lệ tử vong chứng của viêm tụy cấp thấp,
tỷ lệ mắc và tử vòng trong các trường hợp nặng
● Viêm tuỵ cấp là rối loạn phổ biến và là một mối quan tâm chính trong
chăm sóc sức khỏe.
3. Sỏi mật:
● Sỏi mật là căn nguyên phổ biến nhất của viêm tuỵ cấp. Cơ chế chính xác
của viêm tụy do sỏi mật chưa được biết nhưng có thể liên quan đến tăng
áp lực trong ống tụy do tắc nghẽn bóng vater thứ phát do sỏi hoặc phù
gây ra bởi viên sỏi di truyền. Tăng áp ống tuỵ dẫn đến kích hoạt bất
thường các enzyme tiêu hoá từ các tế bào nang tuyến. Các ảnh hưởng
độc hại của chính acid mật đối với tế bào nang tuyến cũng có thể là một
cơ chế. Viêm tụy do sỏi mật là tình trạng hiếm gặp trong thai kỳ thường
xảy ra nhất trong ba tháng cuối của thai kỳ
4. Rượu:
● Uống rượu là nguyên nhân phổ biến thứ hai của viêm tuỵ cấp. nguy cơ bị
viêm tuỵ nặng khi tăng liều rượu ( 3 ly/ngày ở nữ ); nguy cơ từng được
cho là tăng tỷ lệ thuận với thời gian uống rượu, nhưng các đợt viêm tuỵ
cấp có thể xảy ra ở những bệnh nhân nhạy cảm sau khi uống rượu nhiều
trong thời gian ngắn. Số lượng rượu uống thấp hoặc vừa phải có liên
quan đến sự tiến triển từ viêm tuỵ cấp đến viêm tụy mãn tính. Tuy nhiên, <
10% bệnh nhân uống rượu lâu dài bị viêm tuỵ cấp, gợi ý cần có các yếu tố
kích thích hoạt hoặc đồng yếu tố cần thiết để thúc đẩy viêm tụy sớm.
● Các tế bào nang tuyến của tuỵ chuyển hóa các chất chuyển hóa độc hại
thông qua cả quá trình oxy hoá và không oxy hoá và gây ra tác động khiến
các tế bào bị tổn thương khiến tuỵ hoại tử viêm và chết tế bào. Những tác
động này bao gồm tăng lượng enzym, gây bất ổn các hạt lysosomal và
zymogen, tăng liên tục quá tải canxi và kích thích tế bào hình sao của tuỵ.
Một lý thuyết khác đề xuất rằng rượu làm tăng xu hướng hình thành các
nút protein trong các ống tủy bằng cách thay đổi nồng độ protein tạo sỏi
và tăng độ nhớt của dịch tụy, gây tắc nghẽn và cuối cùng teo nang tuyến
● Nặng
Trong viêm tụy nhẹ, viêm chỉ giới hạn ở tuyến tụy và vùng lân cận. Bệnh nhân
không bị suy cơ quan hoặc không có biến chứng tại chỗ hoặc biến chứng hệ thống,
tỷ lệ tử vong là rất hiếm
Trong viêm tụy cấp nặng vừa phải bệnh nhân có các biến chứng tại chỗ hoặc hoàn
toàn thân nhưng không có suy cơ quan hoặc chỉ có suy cơ quan tạm thời ( khỏi
trong vòng 48h)
Trong viêm tụy cấp nặng, có suy một cơ quan hoặc suy đa cơ quan dai dẳng (>48
giờ). Hầu hết bệnh nhân có một hoặc nhiều biến chứng tại chỗ. Tỉ lệ tử vong là
>30%
● Số lượng bạch cầu > 12,000/mcL (12×109/ L), < 4,000/mcL ( 4×109 /L)
hoặc với bạch đầu đũa >10%
Suy tạng được xác định bằng cách sử dụng hệ thống chấm điểm Marshall dựa trên
các chỉ số xét nghiệm và chỉ số sinh hiệu của suy hô hấp, suy thận và tim mạch.
Tử vong ở giai đoạn đầu ( trong vòng 1 tuần ) của viêm tuỵ cấp thường do suy đa
tạng, nhiễm trùng ở viêm tụy hoại tử và các biến chứng do can thiệp ngoại khoa và
can thiệp nội soi
● Amylase hoặc lipase huyết thanh > 3 lần giới hạn trên của giá trị bình
thường (giới hạn nồng độ amylase và lipase bình thường có thể khác
nhau tùy thuộc vào xét nghiệm được sử dụng)
● Những dấu hiệu đặc trưng trên chẩn đoán hình ảnh mặt cắt ngang có
ngấm thuốc cản quang
Chẩn đoán phân biệt dựa trên triệu chứng của viêm tuỵ cấp bao gồm:
● Thủng dạ dày và loét tá tràng
Nồng độ amylase huyết thanh có thể tăng cao khi có macroamylase huyết khiến cho
amylase gắn với globulin miễn dịch huyết thanh để tạo thành phức hợp thận lọc ra
khỏi máu. Tỷ lệ thanh thải amylase:creatinin không có đủ độ nhạy hoặc độ đặc hiệu
để chẩn đoán viêm tuỵ. Thường được sử dụng để chẩn đoán có macroamylase
trong máu khi không có viêm tuỵ
Xét nghiệm nước tiểu bằng que thử nước tiểu để tìm trypsinogen-2 có độ nhạy và độ
đặc hiệu >90 đối với viêm tuỵ cấp
Số lượng bạch cầu máu thường tăng từ 12.000 đến 20.000/mcL ( 12 đến 20×109 /L).
Mất dịch ở khoang thứ 3 có thể làm tăng hematocrit lên đến 50 đến 55% và tăng
urea nitrogen (BUN) trong máu, cho thấy tình trạng viêm nặng. BUN tăng cao liên tục
mặc dù đã được hồi sức là dấu hiệu của tăng tỷ lệ mắc bệnh và ca tử vong. Tăng
đường huyết và hạ canxi huyết có thể xảy ra. Bệnh nhân có thể kết quả xét nghiệm
chức năng gan bất thường, bao gồm bilirubin huyết thanh tăng cao, do sỏi còn trong
ống mật hoặc do ống mật bị phù tuỵ chèn ép. Bệnh nhân bị sốc có thể toan chuyển
hóa tăng khoảng trống anion hoặc các bất thường khác về điện giải. Hạ Mg huyết
cần được loại trừ ở những bệnh nhân bị hạ canxi huyết.
Chẩn đoán hình ảnh
CT có thuốc cản quang đường tĩnh mạch là phương pháp chẩn đoán hình ảnh được
lựa chọn để xác định chẩn đoán viêm tụy cấp và đánh giá biến chứng tại chỗ. Nó
được thực hiện sớm trong quá trình diễn biến của bệnh nếu chẩn đoán viêm tuỵ
không chắc chắn để loại trừ nguyên nhân khác đối với triệu chứng của bệnh nhân.
Ngoài ra, một khi viêm tuỵ đã được chẩn đoán, CT thường được thực hiện sau đó
để xác định các biến chứng viêm tuỵ cấp như hoại tử, ứ dịch hoặc giả nang, đặc biệt
là nêu các triệu chứng bụng vẫn dai dẳng. Mô tuỵ hoại tử không ngấm thuốc sau khi
cho dùng thuốc cản quang đường tĩnh mạch. Nói chung, MRI tốt hơn CT trong việc
sỏi đường mật và hoại tử tuyến tụy và nên được thực hiện ở những bệnh nhân
không xác định được bệnh sỏi đường mật bằng kiểm tra khác và ở những bệnh
nhân được cho là cần thủ thuật dẫn lưu tuỵ.
Ổ tụ dịch hoại tử cấp ( hình ảnh do bác sĩ Sonam Rosberger cung
cấp)
Chụp CT có thuốc cản quang đường tĩnh mạch và đường uống cho thấy một ổ tụ
dịch hoại tử cấp tính lớn ( mũi tên ) thay thế hầu hết các mô tuỵ <4 tuần kể từ khi có
biểu hiện ban đầu của viêm tụy hoại tử
Cần phải làm siêu âm bụng nếu nghi ngờ viêm tụy do sỏi mật ( và nguyên nhân
khác không rõ ràng ) để phát hiện sỏi mật hoặc giãn ống mật chủ, giúp cho thấy tắc
đường mật. Phù tuyến tụy có thể nhìn thấy được, nhưng khí lơ lửng thường che
khuất tuỵ.
Nếu được thực hiện, chụp X-quang bụng không chuẩn bị có thể cho thấy vôi hoá
bên trong các ống tủy ( bằng chứng viêm trước đó và do đó hướng đến viêm tuỵ
mạn ), sỏi mật canxi hóa, tắc ruột cơ năng cục bộ của một đoạn ruột non ở góc bên
trái hoặc ở giữa bụng ( một “ quai ruột cảnh giới”), hoặc dấu hiệu đại tràng cắt cụt
( không có không khí ở chỗ uốn cong đại tràng trái hoặc đại tràng xuống ) trong
trường hợp bệnh nặng hơn. Tuy nhiên, giá trị của chụp X-quang bụng thường quy
gây tranh cãi
Chụp X-quang ngực nên được thực hiện và có thể thấy xẹp phổi hoặc tràn dịch
màng phổi ( thường là bên trái hai bên nhưng hiếm khi được giới hạn ở màng phổi
phải), đây là những dấu hiệu của bệnh nặng
Vai trò của siêu âm nội soi bị hạn chế trong viêm tuỵ cấp. Siêu âm nội soi có độ
nhạy có thể so sánh với chụp cộng hưởng từ mật tụy ( MRCP) để phát hiện sỏi trong
ống mật chủ, nhưng MRCP có điểm ưu tiên là không xâm lấn. MRCP được thực
hiện nếp xét nghiệm gan, đặc biệt là bilirubin trực tiếp và alanine aminotransferase
(ALT), tăng cao so với mức ở lần khám ban đầu và siêu âm bụng không loại trừ sỏi
mật trong ống mật chủ là căn nguyên gây viêm tụy do sỏi mật
Nội soi mật tuỵ ngược dòng ( ERCP) để loại bỏ nguyên nhân tắc nghẽn ống mật
phải được tiến hành cấp cứu ở bệnh nhân viêm tụy cấp do sỏi mật có tăng bilirubin
huyết thanh và có dấu hiệu của viêm túi mật.
● Các chất chỉ điểm xét nghiệm về giảm thể tích máu (VD tăng BUN,
tăng Hematocrit)
● Có tràn dịch phổi hoặc thâm nhiễm màng phổi trên X-quang ngực
nhập viện
● Thay đổi ý thức
● Hệ thống tính điểm mức độ nặng cần phải có nhiều phép đo và có thể
trì hoãn việc xử trí phù hợp. Một số trong trong số này có thể được thực
hiện khi nhập viện để hỗ trợ việc phân loại bệnh nhân, trong khi một số
khác không chính xác cho đến 48 đến 72 giờ sau khi có biểu hiện.
● Tiêu chuẩn Ranson: hệ thống tính điểm này khá rườm rà và yêu
cầu dữ liệu trong khoảng 48 giờ để tính toán nhưng có giá trị tiên
đoán âm tính tốt
● Thang điểm APACHE II: Hệ thống này phức tạp và rườm rà để sử
dụng có giá trị tiên đoán âm tính tốt
● Thang điểm phản ứng viêm hệ thống: không đắt, có sẵn và có thể
áp dụng ở giường bệnh
● Thang điểm mức độ nặng của viêm tụy cấp tại giường ( BISAP ):
Thang điểm này rất đơn giản và được tính toán trong 24 giờ đầu
● Thang điểm viêm tuỵ cấp độ vô hại: Thang điểm đơn giản này
được tính trong vòng 30 phút nhập viện
● Thang điểm dựa trên suy tạng: các thang điểm này không trực tiếp
đánh giá mức độ nặng của viêm tuỵ cấp
● Chỉ số mức độ nặng trên CT ( thang điểm Balthazar): Thang điểm
này dựa trên mức độ hoại tử, viêm và sự hiện diện của ổ tụ dịch
trên CT
● Nguy cơ lâu dài sau viêm tụy cấp bao gồm nguy cơ tái phát và tiến triển
thành viêm tụy mạn. Các yếu tố nguy cơ bao gồm mức độ nặng và số
lượng ổ hoại tụy trong đợt viêm tuỵ cấp ban đầu cũng nhưng căng
nguyên; sử dụng rượu nhiều, lâu dài và hút thuốc lá làm tăng nguy cơ
viêm tụy mạn
● Đối với viêm tụy cấp nặng và các biến chứng, thuốc kháng sinh và
can thiệp điều trị là cần thiết
- Điều trị viêm tụy cấp thường là điều trị hỗ trợ. Bệnh nhân có các biến
chứng có thể cần được điều trị hỗ trợ. Bệnh nhân có các biến chứng có
thể cần được điều trị bổ sung cụ thể
- Điều trị cơ bản viêm tuỵ cấp bao gồm:
● Hồi sức bằng bù dịch sớm định hướng mục tiêu
● Giảm đau
● Dinh dưỡng đường ruột được ưa chuộng hơn dinh dưỡng đường
tĩnh mạch
● Kháng sinh điều trị các bệnh diễm trùng ngoài tuỵ hoại tử bị nhiễm
trùng
● Cắt bỏ ổ hoại tử (lấy bỏ mô hoại tử) để điều trị hoại tử bị nhiễm
trùng
● Nội soi mật tuỵ ngược dòng (ERCP) khi đồng thời để xem có viêm
tụy cấp và viêm đường mật cấp đồng thời hay không
● Dẫn lưu giả nang
- Xử trí bệnh nhân viêm tụy cấp nặng và các biến chứng của bệnh này cần
phải theo cá nhân bằng cách sử dụng phương pháp đa chuyên khoa khác
bao gồm các chuyên gia nội soi, các chuyên gia điện quang can thiệp và
bác sĩ phẫu thuật. Bệnh nhân bị viêm tụy cấp nặng phải được theo dõi
chặt chẽ 24 giờ đến 48 giờ đầu trong ICU. Bệnh nhân có tình trạng nặng
hơn hoặc biến chứng tại chỗ lan rộng cần can thiệp nên được chuyển đến
các trung tâm chất lượng cao tập trung vào bệnh tụy (nếu có)
- Bệnh nhân viêm tuỵ cấp nặng được hỗ trợ dinh dưỡng nhân tạo, mặc dù
thời gian bắt đầu và thời gian hỗ trợ dinh dưỡng tối ưu vẫn chưa rõ ràng.
Hướng dẫn năm 2013 của Hiệp hội Tiêu hoá Hoa Kỳ (ACG) khuyến cáo
sử dụng dinh dưỡng đường ruột và chỉ sử dụng dinh dưỡng tĩnh mạch
nếu không sử dụng đường ruột, không dung nạp hoặc không đáp ứng các
yêu cầu về calo. Đường ruột được ưu tiên vì nó
● Giúp duy trì hàng rào niêm mạc ruột
● Ngăn ngừa teo ruột có thể xảy ra khi ruột nghỉ ngơi kéo dài (và giúp
ngăn ngừa sự di truyền của vi khuẩn có thể làm hoại tử tuyến tụy)
● Tránh nguy cơ nhiễm trùng catheter tĩnh mạch trung tâm
● Rẻ hơn
- Một ống thông mũi ruột non đặt quá dây chằng Treitz có thể giúp tránh
kích thích giai đoạn dạ dày của quá trình tiêu hoá; việc này cần phải
hướng dẫn bằng ống thông mũi dạ dày. Trong cả hai trường hợp, bệnh
nhân nên được đặt ở tư thế thẳng đứng làm giảm nguy cơ hít phải. Các
hướng dẫn của ACG lưu ý rằng việc cho ăn mũi dạ dày và mũi hỗng tràng
có vẻ tương đồng về hiệu quả độ an toàn
- Theo hướng dẫn của 2013 của Hiệp hội Tiêu hoá Hoa Kỳ và hướng dẫn
năm 2018 về xử trí ban đầu viêm tụy cấp, kháng sinh dự phòng không
được khuyến cáo ở những bệnh nhân viêm tụy cấp, bất kể lại bệnh hay
mức độ của bệnh. Tuy nhiên, kháng sinh nên được bắt đầu nếu bệnh
nhân bị nhiễm trùng ngoài tuỵ (ví dụ: đường máu, nhiễm trùng đường tiết
niệu) hoặc hoại tử tuỵ bị nhiễm trùng.
- Nhiễm trùng (tuỵ hay ngoài tụy) nên nghi ngờ ở những bệnh nhân có dấu
hiệu xấu đi ( sốt, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, thay đổi ý thức, tăng bạch
cầu) hoặc không cải thiện sau 7 đến 10 ngày nằm viện. Hầu hết các
trường hợp nhiễm trùng trong hoại tử tuỵ đều do các vi khuẩn đơn lẻ ruột
gây ra. Các sinh vật phổ biến nhất là vi khuẩn gram âm; vi khuẩn gram
dương và nấm rất hiếm. Ở những bệnh nhân bị hoại tử có nhiễm trùng,
nên dùng kháng sinh có khả năng xâm nhập vào ổ hoại tử tuỵ, như
carbapenems, fluoroquinolones và metronidazole.
- Đối với phẫu thuật cắt bỏ ổ hoại tử (cắt bỏ mô nhiễm trùng), cách tiếp cận
xâm nhập xâm lấn tối thiểu được ưu tiên hơn là phương pháp phẫu thuật
mở và cần được xem là lựa chọn đầu tiên. Hướng dẫn năm 2013 của
ACG khuyến cáo rằng nên trì hoãn dẫn lưu ổ hoại tử ( bằng tiếp cận X-
quang, nội soi, hoặc ngoại khoa), tốt hơn là nên kéo dài >4 tuần ở bệnh
nhân ổn định, hoá lỏng các phần bên trong và phát triển bào xơ xung
quanh ổ hoại tử (hoại tử hoá thành).
- Một giả nang giãn rộng nhanh chóng, bị nhiễm trùng, chảy máu hoặc có
khả năng vỡ cần được dẫn lưu. Việc dẫn lưu là cắt giả nang qua da, phẫu
thuật nội soi có hướng dẫn siêu âm phụ thuộc vào vị trí giả nang và
chuyên môn cơ sở
Những điểm chính:
● Có rất nhiều nguyên nhân gây viêm tuỵ cấp, nhưng phổ biến
nhất là sỏi mật và uống rượu
● Quá trình viêm chỉ giới hạn ở tuỵ chỉ có những trường hợp
nhẹ, nhưng với mức độ nặng ngày càng tăng, phản ứng viêm
hệ thống nặng có thể có, dẫn đến sốc và suy đa tạng
● Một khi chẩn đoán viêm tuỵ, đánh giá nguy cơ bằng cách sử
dụng các tiêu chuẩn lâm sàng và hệ thống cho điểm để phân
loại các bệnh nhân phù hợp với hồi sức tích cực và điều trị
cực và để giúp ước tính tiên lượng
● Điều trị bao gồm hồi sức bằng dịch đường tĩnh mạch, kiểm
soát đau và hỗ trợ dinh dưỡng
● Các biến chứng, bao gồm giả nang và hoại tử tụy nhiễm trùng.
Cần được xác định và điều trị một cách thích hợp (VD: dẫn lưu
giả nang, phẫu thuật cắt ổ hoại tử)