Professional Documents
Culture Documents
Ma trận SPACE
Ma trận SPACE
Vị trí chiến lược bên trong Điểm số Vị trí chiến lược bên ngoài Điểm
số
Sức mạnh tài chính (FS) Sự ổn định của môi trường (ES)
Doanh thu +6 Sự thay đổi công nghệ -2
Khả năng thanh toán ( giả +5 Tỉ lệ lạm phát -5
định)
Vốn luân chuyển ( giả định) +5 Sự biến đổi của nhu cầu -1
Tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần +2 Phạm vi giá của các sản phẩm -2
cạnh tranh
Sự dễ dàng rút lui khỏi thị +2 Rào cản gia nhập ngành -1
trường
Rủi ro trong kinh doanh +4 Áp lực cạnh tranh -5
Vòng quay hàng tồn kho +5 Độ co giãn của giá theo nhu cầu -1
Trung bình +4.14 Trung bình -2,42
Tổng điểm trục Y: 1,72
Lợi thế cạnh tranh ( CA) Sức mạnh của ngành (IS)
Thị phần -2 Mức tăng trưởng tiềm năng +6
Chất lượng sản phẩm -1 Mức lợi nhuận tiềm năng +6
Chu kỳ sống của sản phẩm -1 Sự ổn định về tài chính +5
Lòng trung thành của khách -3 Bí quyết công nghệ +4
hảng
Sử dụng công suất để cạnh -5 Sự sử dụng nguồn lực +5
tranh
Bí quyết công nghệ -5 Quy mô vốn +2
Sự kiểm soát đối với nhà -2 Sự dễ dàng thâm nhập thị trường +5
cung cấp và người phân phối
Hội nhập dọc -2 Sử dụng năng suất, công suất +5
Trung bình -2,62 Trung bình +4,75
Tổng điểm trục X: 2,13
6 FS
CA 1
1 2 3 4 5 6
-6 -5 -4 -3 -2 -1 -1 IS
-2
-3
-4
-5
ES -6
Như vậy thông qua xây dựng ma trận vị trí chiến lược và đánh giá hoạt động (SPACE)
dựa trên các thông tin về doanh nghiệp TH True Milk và môi trường ngành, kết quả cho
thấy công ty TH True Milk đang có lợi thế tương đối về tài chính (2,13) và nằm trong
ngành có tốc độ phát triển ổn định (1,72). Như vậy loại chiến lược phù hợp cho TH True
Milk là chiến lược tấn công, bao gồm các chiến lược như: thâm nhập thị trường, phát
triển thị trường, phát triển sản phẩm, kết hợp về phía sau, kết hợp về phía trước,
v.v….TH True Milk đang ở vị thế tốt để tẩn dụng các điểm mạnh bên trong để tận dụng
các cơ hội bên ngoài, vượt qua các điểm yếu bên trong và né tránh được các mối hiểm
họa từ bên ngoài.
1. Ma trận chiến lược chính (Grand Strategy Matrix)
Sử dụng ma trận chiến lược chính, nhóm xác định TH True milk đang nằm ở vị trí Góc tư
I, tức ở vị trí chiến lược tốt. Lý do vì ngành sữa là một ngành vẫn còn có nhiều tiềm năng
phát triển như đã phân tích trong các phần trên, ngoài ra TH True milk mặc dù mới xuất
hiện trên thị trường không lâu (chỉ trong khoảng 3 năm trở lại đây) nhưng đã nhanh
chóng chiếm được chổ đứng trên thị trường với 33% thị phần sữa tươi (chỉ đứng sau
Vinamilk) cho thấy công ty có vị thế cạnh tranh mạnh trên thị trường. Như vậy TH True
milk sẽ phải tập trung vào các chiến lược thuộc góc tư I.
Sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường
Góc tư II Góc tư I
- Phát triển thị phần hiện tại, khai
thác thị phần mới ( khu vực nông
thôn) thông qua marketing
- Xây dựng củng cố thương hiệu
sữa sạch. Phát triển dòng các sản
mới mang thương hiệu TH (các
sản phẩm từ sữa như yaourt, phô
mai, sữa chua, sữa hạtv.v…)
- Giảm chi phí sản xuất nhằm
giảm giá thành tăng sức cạnh
Vị trí Vị trí
tranh bằng cách đầu tư dây
cạnh cạnh
chuyền chế biến cỏ mới và đầu tư
tranh tranh
đào tạo huấn luyện nhân viên
yếu mạnh
Góc tư III Góc tư IV
(Nguồn: Kaplan, R.S. and Norton, D.P., (1996). Linking The Balanced Scorecard to Strategy” California
Management Review, 39, pp 53-76)
Tính cân bằng của BSC thể hiện ở:
- Các khía cạnh hoạt động doanh nghiệp (Tài chính; Khách hàng; Quy trình nội bộ;
Học tập - phát triển) được đề cập, đo lường đánh giá và ghi nhận.
- Các nguồn lực (tài chính, nhân lực, công nghệ kỹ thuật) sử dụng được xác định,
phân bổ rõ ràng và phối hợp trong công việc.
- Theo thời gian: ghi nhận đánh giá theo các tiêu chí hiện tại, quá khứ và tương lai.
- Đánh giá khách quan và các đánh giá chủ quan từ trong công ty được phối hợp
thực hiện, đo lường. Tương tự, cho các đánh giá bên trong (VD: đánh giá của ban
lãnh đạo) và các đánh giá bên ngoài (từ khách hàng, nhà cung cấp).
- Chỉ tiêu ngắn hạn (chỉ tiêu hàng tuần, tháng, quý, năm) và các đánh giá dài hạn (3
năm, 5 năm).
Vai trò của BSC thể hiện ở 3 khía cạnh: Công cụ thực thi chiến lược; Công cụ giao tiếp;
Chức năng đo lường.
1
Kaplan, R.S. and Norton, D.P., (1996a). Using The Balanced Scorecard as a Strategic Management
System. Harvard Business Review, January – February 1996, pp 75-85.
- Công cụ thực thi chiến lược: BSC là hệ thống quản lý có thể định hướng kỹ
năng, kiến thức và năng lực của các cá nhân trong tổ chức nhằm thực hiện mục
tiêu chiến lược lâu dài của tổ chức. BSC cho phép chuyển tải chiến lược thành
hành động và quản trị sự thay đổi của tổ chức. Mỗi chỉ tiêu của BSC đều cần có
chương trình hành động cụ thể nhằm đạt kết quả từ ban lãnh đạo và các phòng ban
chức năng.
- Công cụ giao tiếp: BSC là công cụ truyền tải sứ mạng và chiến lược của tổ chức
thành tập hợp các thước đo hiệu quả hoạt động nhằm cung cấp 1 mô hình mẫu đo
lường chiến lược và hệ thống quản lý.
- Chức năng đo lường: Mục tiêu của đánh giá kết quả hoạt động của tổ chức là tìm
ra các công cụ để quản lý các hoạt động kinh doanh ngày một tốt hơn. Các chỉ tiêu
tài chính và kế toán truyền thống được xây dựng để đáp ứng các yêu cầu và qui
định về báo cáo tài chính. BSC cho phép chúng ta đánh giá kết quả hoạt động của
tổ chức từ nhiều góc độ khác nhau. Nó giúp ta hiểu các mối quan hệ biện chứng
giữa những thay đổi trong nội bộ công ty, sự thành công trong cạnh tranh và kết
quả tài chính của doanh nghiệp. Cách tiếp cận này cũng giúp ta xác định những
khía cạnh mà tổ chức cần hoàn thiện trong tương lai.
Như vậy, BSC cho phép các nhà quản lý nhận thức và hiểu rõ các mối quan hệ lẫn nhau
giữa các khía cạnh, cũng như cách thức mà một thay đổi trong lĩnh vực này có thể ảnh
hưởng như thế nào đến các lĩnh vực khác trong việc thực thi chiến lược. Vừa tập trung
vào các khía cạnh khác nhau, BSC vừa tối thiểu hoá sự quá tải thông tin bằng cách hạn
chế số lượng các chỉ tiêu sao cho doanh nghiệp chỉ đo lường theo các chỉ tiêu kết quả căn
bản then chốt (KPI). Kaplan và Norton đã sử dụng hình tượng “La bàn trong buồng lái
máy bay” luôn cung cấp cho cán bộ quản lý những thông tin đầy đủ và nhanh chóng để
mô tả BSC.
Vì những vai trò to lớn mà BSC mang lại, BSC được ghi nhận là một trong số 75 ý tưởng
có ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ 20 do Havard Business Review bình chọn năm 1997.
1. Đánh giá
a) Bản chất của đánh giá chiến lược:
Đa số các nhà hoạch định chiến lược đồng ý rång, đánh giá chiến lược là sự sống còn của
tổ chức. Thực hiện đánh giá kịp thời có thể cảnh báo cho ban điều hành về các vấn đề
hoặc các vấn đề để ấn định trước khi chúng trở nên nghiêm trọng.
Cần đánh giá chiến lược để phát hiện kịp thời chiến lược đó là đung hay là sai. Và
tìm các biện pháp khắc phục. Bất kì các nhà kinh doanh nào cũng phải thực hiện
đanh giá chiến lược để xem xét tinh hình kinh doanh của doanh nghiệp đó trước và
sau khi thực hiện dự án.
Quản trị chiến lược là quá trình tuần hoàn liên tuc.Kiểm tra, đánh giá là giai đoạn cuối
của quá trình quản trị chiến lược thời kỳ trước, song nó đồng thời là giai đoạn đầu - cung
cấp thông tin cho quá trình hoạch định chiến lược cho thời kỳ tiếp theo.
Đánh giá chiến lược của thời kỳ trước có ảnh hưởng to lớn đến chất lượng chiến
lược của thời kỳ sau
Mô hình quản trị chiến lược toàn diện
Theo bảng, có thể xảy ra 8 trường hợp, trong đó chỉ có duy nhấtt trường hợp: môi
trường bên ngoài và môi trường bên trong ổn định, không có biến động gì lớn và
mục tiêu chiến lược đề ra được thực hiện tốt, thì không cần điều chỉnh chiến lược
hiện tại, các trường hợp còn lại đều phải điều chỉnh.
Bằng phân tích định tính là chủ yếu, khung đánh giá chiến lược nêu trên là phương pháp
khái quát, giúp nhận diện trong những trường hợp nào cần điều chỉnh chiến lược, nhưng
phương pháp này chưa đủ sâu để trà lời được câu hỏi mức độ điều chỉnh chiến lược, điều
chỉnh toàn bộ chiến lược hay chỉ cần điều chỉnh bộ phận. Để giải quyết vấn đề này cần
phân tích tác động của từng yếu tố trong môi trường kinh doanh đến chiến lược đã được
hoạch định.
3. Kiểm tra, đánh giá khâu quản lý
Đánh giá quá trình tổ chức thực hiện chiến lược, có nghĩa là xác định mức độ thực hiện
các mục tiêu nhằm thúc đẩy các bộ phận trong tổ chức và toàn bộ hệ thống tích cực hoạt
động và hoạt động hiệu quả để hoàn thành các mục tiêu chiến lược (Vi dụ: các mục tiêu
kiểm tra chất lượng có được tuân thủ không?). Ở nội dung này, cần đặc biệt quan tâm
kiểm tra tinh hình thực hiện các mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu của các phòng ban, bộ phận;
các chính sách và tình hình thực hiện các chính sách; tình hình và kết quả của việc phân
bổ các nguồn lực .
Cần lưu ý: Ở những bộ phận khác nhau trong những doanh nghiệp khác nhau sẽ có những
nội dung cần đánh giá khác nhau.
Vi dụ: để đánh giá chuỗi cung ứng, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Giao hàng đúng hạn
- Gửi thông báo tình trạng lô hàng
- Gửi chứng từ chính xác Gửi chính xác số lượng lô hàng
- Đóng gói đúng quy cách
- Đáp ứng đúng quy cách sản phẩm
- Tỷ lệ hàng bị lỗi
- Đạt được mục tiêu/chi phí
- Hóa đơn chính xác
- Hóa đơn đúng hạn
- Giải quyết các vấn đề và trả lời làm hài lòng khách hàng
- Hiệu quả hoạt động của nhà cung cấp
- Tiêu chuẩn đánh giá nhà cung cấp.
Sự phân tích các ma trận mới điều chỉnh này nhằm trả lời các câu hỏi sau:
1. Các đối thủ cạnh tranh phản ứng ra sao với các chiến lược của công ty?
2. Các chiến lược của các đối thủ cạnh tranh thay đổi như thế nào?
3. Các điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ thay đổi như thế nào?
4. Tại sao các đối thủ cạnh tranh thực hiện những thay đổi một số chiến lược nào đó?
5. Tại sao các chiến lược của một số đối thủ cạnh tranh thành công hơn các đối thủ
khác?
6. Mức độ thỏa mãn của các đối thủ cạnh tranh đối với vị thế thị trường và khả năng
sinh lãi hiện tại của họ
7. Các đối thủ cạnh tranh chính có thể chịu áp lực đến đâu trước khi họ trả đũa?
8. Chúng ta có thể hợp tác hiệu qua hơn với các đối thủ cạnh tranh bằng cách nào?
Các tiêu chuẩn về số lượng thường được sử dụng để đánh giá chiến lược là các tỷ
số tài chính , mà được nhà hoạch định chiến lược sử dụng để thực hiện 3 loại so
sánh chủ yếu :
( 1 ) so sánh kết quả thực hiện của công ty trong những thời kỳ khác nhau
( 2 ) so sánh kết quả thực hiện của Công ty với đối thủ cạnh tranh
( 3 ) so sánh kết quả thực hiện của công ty với số trung bình ngành .
Sau đây là một vài tỷ số tài chính chủ yếu hữu ích được lựa chọn làm tiêu chuẩn
đánh giá chiến lược :
1. Lợi tức đầu tư (ROI)
2. Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
3. Tỷ suất lợi nhuận
4. Thị phần
5. Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu
6. Lợi nhuận trên mỗi cổ phần
7. Tăng trưởng doanh thu
8. Tăng trưởng tài sản
- Các yếu tố bên trong là lựa chọn chiến lược kém hiệu quả hoặc các hoạt động thực
hiện nghèo nàn . Các mục tiêu có thể quá lạc quan .
- Vì vậy , thất bại trong việc hoàn thành các mục tiêu có thể không phải do các cấp
quản lý và nhân viên làm việc không tận tình . Tất cả các thành viên của tổ chức
cần hiểu rõ điều này nhằm khuyến khích họ hỗ trợ cho các hoạt động đánh giá
chiến lược .
- Các tổ chức cần phải sớm nhận biết khi chiến lược của họ kém hiệu quả . Đôi khi
nhà quản lý và nhân viên thường xuyên tiếp xúc khách hàng là những người phát
hiện điều này trước nhà hoạch định chiến lược .
Thứ nhất, các hệ thống báo cáo phải cung cấp vừa đủ đảm bảo dựng nên bức
tranh trung thực về thành tích đạt được , Việc cung cấp quá nhiều thông tin không
cần thiết chỉ gây tốn kém và làm mất thời gian , sức lực của lãnh đạo trong việc
xét duyệt thông tin .
Thứ hai, thông tin cần thiết là các thông tin về mọi yếu tố có ý nghĩa chiến lược
( ví dụ : lượng hàng bán ra và đơn giá ) và các dấu hiệu của những xu hướng tiềm
tàng đáng chú ( như hiện tượng công nhân viên nghỉ việc , bỏ việc ra tăng ) .
Thứ ba, các báo cáo có bố cục và nội dung sao cho chúng phản ảnh được kết quả
hoặc các dấu hiệu làm cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp hành động . Vì vậy ,
cần phản ảnh những vấn đề đòi hỏi phải có biện pháp tức thời . Để làm nổi bật các
thông tin cần thiết nhằm đề ra biện pháp hành động , trong báo cáo không nên đưa
vào các vấn đề " chỉ để cho hay " .
Thứ tư, báo cáo phải đúng hạn và được lập theo định kỳ thời gian , nhằm giúp lãnh
đạo kịp thời đưa ra các biện pháp chấn chỉnh , nhưng không quá thường xuyên vì
nó có thể làm mất thời gian của lãnh đạo một cách không cần thiết .
Thứ năm, loại hình và luồng thông tin cần đơn giản và phù hợp với từng nhu cầu
cụ thể . Chẳng hạn , các số liệu phân tích doanh số bán ra cung cấp cho nhà quản
trị sản xuất thường đơn giản hơn nhiều ( như chỉ cần số liệu về sản phẩm ) so với
báo cáo cho nhà quản trị bán hàng .
Thứ sáu , trong báo cáo càng giảm bớt được ngoại lệ càng tốt .
Ngân sách ( kế hoạch tài chinh) là công cụ quan trọng phục vụ cho công tác kiểm
tra . Về thực chất ngân sách là kế hoạch triển vọng về hoạt động của công ty và là
phương tiện quan trọng cung cấp cho lãnh đạo các thông tin cần thiết cho việc
đánh giá kết quả. Ngân sách được lập trước mỗi kỳ kế toán và được dùng để theo
dõi kết quả hoạt động một cách liên tục . Bất kỳ sự sai lệch nào giữa kế hoạch đề
ra và kết quả đạt được trong thực tế đều cầntrị hàng mua , tôn kho , dự tính các chi
phí khác , .. tiền mặt , ngân sách về vốn đầu tư , dự kiến doanh số bán hàng , giá
được phân tích , Các loại ngân sách chủ yếu bao gồm : ngân quỹ tiền mặt, ngân
sách về vốn đầu tư, dự kiến doanh số bán hàng, giá trị hàng mua, tồn kho, dự tinh
các chi phí khác,…
Liên quan đến vấn đề ngân sách có một số điểm cần chú ý :
- Thứ nhất, một ngân sách và công việc kiểm tra được tiến hành hữu hiệu không
nhất thiết là phải giảm thiểu chi phí. Chi phí có thể tăng lên hoặc giảm xuống, bởi
vì mục tiêu của kết quả đạt được là hiệu quả chứ không phải là giảm thiểu chi phí.
- Thứ hai, ngân sách có tính biến động . Có nghĩa là nhiều loại số lượng hàng bán
ra. chi phí phụ thuộc vào mức độ hoạt động của công ty hoặc số lượng hàng bán
ra.
- Thứ ba, ngân sách phải có tính linh hoạt . Có nghĩa ban lãnh đạo được phép điều
chỉnh, không nhất thiết phải tuân theo ngân sách một cách cứng nhắc . Cần nhớ
rằng ngân sách được lập ra trước mỗi kỳ kế hoạch , khi đó lãnh đạo nắm được
thông tin ít hơn so với các thông tin nhận được trong quá trình thực hiện kế
hoạch . Điều kiện cụ thể thay đổi , cũng cần điều chỉnh dự toán ngân sách.
- Thứ tư, điều hết sức quan trọng trong công tác kiểm tra tài chính là phải tiến hành
phân tích các sai lệch giữa kết quả kỳ vọng và kết quả thực tế đạt được , tìm ra
nguyên nhân dẫn đến sai lệch đó , đánh giá tính phù hợp của chúng . Sự gia tăng
đơn giá dịch vụ công cộng ngoài dự kiến là không thể tránh khỏi . Chi phí bảo
hiểm gia tăng cũng có thể chấp nhận được khi phạm vi bảo hiểm tốt hơn . Khi có
sự sai lệch thì không có nghĩa là việc lập ngân sách có sai sót.
- Thứ năm, việc lập ngân sách và công việc kiểm soát chi phí có một ý nghĩa hết sức
quan trọng , nhưng không cần thiết phải có hệ thống kiểm tra chi phí quá cồng
kềnh và tốn kém . Chi phí và nỗ lực bỏ ra phải tương xứng với lợi ích thu được.
Thanh tra
Công tác kiểm tra còn bao gồm việc đánh giá và thanh tra định kỳ cấp bộ phận chức
năng . Thanh tra là kiểm tra một cách có hệ thống các bộ phận cấu thành của bộ phận
chức năng . Nhiệm vụ của việc thanh tra là làm rõ mặt yếu kém , các vấn đề vướng
mắc . tồn tại và các cơ hội tiềm năng .
Ngoài công tác kiểm toán được nhiều người biết đến , các hình thức thanh tra khác có
thể được tiến hành là thanh tra công tác quản trị , thanh tra về nhân sự , thanh tra công
tác xã hội , thanh tra hoạt động marketing . Có thể qui định các cách thức thanh tra và
vận dụng phù hợp với yêu cầu thực tế của công ty . Nếu chưa đề ra được các cách
thức chính thức hoặc nó không phù hợp thì phải đề ra cách thức cụ thể cho từng
trường hợp cụ thể .
Nội dung thanh tra một lĩnh vực hoạt động nào đó có thể rất rộng hoặc rất hẹp . Thanh
tra trên diện rộng là thanh tra ngang , nhằm đánh giá toàn bộ các mặt hoạt động của
lĩnh vực chức năng đó Mục đích của hình thức thanh tra này là nhằm phát hiện ra vấn
đề Thanh tra dọc có nội dung hẹp hơn nhưng theo đó là sự phân tích sâu sắc một yếu
tố cấu thành cụ thể nào đó , ví dụ như công tác tuyển dụng nhân viên từ các trường đại
học chẳng hạn .
Các cuộc thanh tra định kỳ cần phải được coi như là một bộ phận không thể thiếu của
toàn bộ quá trình kiểm tra . Tuy nhiên , cũng như mọi công việc kiểm tra khác , các
cuộc thanh tra cũng phải nhằm mục đích sao cho ích lợi thu được tương xứng với chi
phí bỏ ra .
b) Những vướng mắc liên quan đến việc đo lường kết quả
Kết quả đạt được có thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố , trong đó có những yếu tố
cản trở việc đánh giá chính xác thành tích . Ví dụ việc đo lường thành tích của một
công nhân làm việc trong dây chuyền lắp ráp . Công việc trong nhiều dây chuyền lắp
ráp diễn ra một cách tuần tự , thành tích của một công nhân chịu ảnh hưởng của chất
lượng và khối lượng công việc của người đứng trước trong dây chuyền đó . Điều căn
bản ở đây là nếu chỉ đo đếm số lượng sản phẩm sản xuất được thì nhiều khi không
phản ánh sát thực thành tích đạt được của mỗi công nhân
Việc đo lường kết quả nhiều khi cũng gây tốn kém về chi phí và thời gian . Đánh giá
chính xác hiệu quả của quảng cáo là việc hết tương xứng với chi phí bỏ ra .
Yếu tố chủ quan trong việc đo lường thành tích cũng là một vấn đề , nhất là khi đánh giá
về con người . Trong trường hợp này , phẩm chất đạo đức của người đánh giá đóng một
vai trò hết sức quan trọng