You are on page 1of 17

Đề 10: Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và

phát huy vai trò của thanh niên Việt Nam trong hội nhập quốc tế
A, MỞ ĐẦU
Quá trình đổi mới đất nước đã và đang thúc đẩy nước ta hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Hiện nay, hội nhập quốc tế trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ,
tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Điều đó đã và đang tác động
đến sự chuyển biến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội nước ta, trong đó thanh
niên có sự biến đổi nhanh trên nhiều phương diện cả tích cực lẫn tiêu cực.
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng
quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượngchủ yếu trên nhiều lĩnh
vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng
tạo. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn đề cao vai trò, vị trí của
thanh niên, xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, Đoàn
Thanhniên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng; công tác thanh
niên là vấn đề sống còn của dân tộc. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008
của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnhcông nghiệp hoá, hiện đại hoá ra đời, một
lần nữa khẳng định sự quan tâm đặc biệt của Đảng ta đối với công tác thanh
niên.
Vì thế công tác giáo dục thanh niên là vô cùng quan trọng. Từ những ý trên,
em xin chọn đề tài” Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và phát huy vai trò của thanh niên Việt Nam trong hội nhập
quốc tế” làm đề tài tiểu luận của mình
B, NỘI DUNG
I, Cơ sở lý luận
1, khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội- giai cấp trong cơ cấu xã hội
1.1 khái niệm
Cơ cấu xã hội là những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ xã
hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên.
Cơ cấu xã hội có nhiều loại, như: cơ cấu xã hội - dân cư, cơ cấu xã hội - nghề
nghiệp, cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã hội - tôn
giáo, v.v… Dưới góc độ chính trị - xã hội, môn Chủ nghĩa xã hội khoa học tập
trung nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp vì đó là một trong những cơ sở để
nghiên cứu vấn đề liên minh giai cấp, tầng lớp trong một chế độ xã hội nhất
định.
Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách
quan trong một chế độ xã hội nhất định, thông qua những mối quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất, về tổ chức quản lý quá trình sản xuất, về địa vị chính trị -
xã hội…giữa các giai cấp và tầng lớp đó.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp là tổng thể
các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội có mối quan hệ hợp tác và gắn bó chặt
chẽ với nhau. Yếu tố quyết định mối quan hệ đó là họ cùng chung sức cải tạo xã
hội cũ và xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các giai
cấp, tầng lớp xã hội và các nhóm xã hội cơ bản trong cơ cấu xã hội - giai cấp
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh nhân, tầng lớp tiểu chủ, tầng lớp
thanh niên, phụ nữ v.v… Mỗi giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội này có
những vị trí và vai trò xác định song dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội
tiền phong của giai cấp công nhân cùng hợp lực, tạo sức mạnh tổng hợp để thực
hiện những mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản với tư
cách là một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ
đã lỗi thời.

1.2 Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp trong cơ cấu xã hội
Trong hệ thống xã hội, mỗi loại hình cơ cấu xã hội đều có vị trí, vai trò xác
định và giữa chúng có mối quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Song vị trí, vai trò của
các loại cơ cấu xã hội không ngang nhau, trong đó, cơ cấu xã hội - giai cấp có vị
trí quan trọng hàng đầu, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác vì những lý
do cơ bản sau:
Cơ cấu xã hội - giai cấp liên quan đến các đảng phái chính trị và nhà nước;
đến quyền sở hữu tư liệu sản xuất, quản lý tổ chức lao động, vấn đề phân phối
thu nhập… trong một hệ thống sản xuất nhất định. Các loại hình cơ cấu xã hội
khác không có được những mối quan hệ quan trọng và quyết định này.
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi
của các cơ cấu xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã
hội. Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp tác
động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi hoạt động xã hội và mọi
thành viên trong xã hội, qua đó thấy rõ thực trạng, qui mô, vai trò, sứ mệnh và
tương lai của các giai cấp, tầng lớp trong sự biến đổi cơ cấu xã hội và phát triển
xã hội. Vì vậy, cơ cấu xã hội – giai cấp là căn cứ cơ bản để từ đó xây dựng
chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi xã hội trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể.
Mặc dù cơ cấu xã hội - giai cấp giữ vị trí quan trọng song không vì thế mà
tuyệt đối hóa nó, xem nhẹ các loại hình cơ cấu xã hội khác, từ đó có thể dẫn đến
tùy tiện, muốn xóa bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội một cách giản
đơn theo ý muốn chủ quan
2, sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội-giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
Cơ cấu xã hội - giai cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thường xuyên
có những biến đổi mang tính qui luật sau đây:
Một là, cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu
kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong một hệ thống sản xuất nhất định, cơ cấu xã hội - giai cấp thường xuyên
biến đổi do tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt là những thay đổi về phương
thức sản xuất, về cơ cấu ngành nghề, thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế, cơ chế
kinh tế…. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và
cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó
cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy…”.
Sau thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân cùng toàn thể các giai cấp, tầng lớp xã hội,
các nhóm xã hội bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ
mới, cơ cấu kinh tế - tất yếu có những biến đổi và những thay đổi đó cũng tất
yếu dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu xã hội theo hướng phục vụ thiết thực
lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ tuy vận động theo cơ chế thị trường, song
có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.
Ở những nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát
điểm thấp, cơ cấu kinh tế sẽ có những biến đổi đa dạng: từ một cơ cấu kinh tế
chủ yếu là nông nghiệp và công nghiệp còn ở trình độ sơ khai chuyển sang cơ
cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông
nghiệp; chuyển từ cơ cấu vùng lãnh thổ còn chưa định hình sang hình thành các
vùng, các trung tâm kinh tế lớn; chuyển từ cơ cấu lực lượng sản xuất hiện đại
nhưng không cân đối, trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu hoặc trung
bình chuyển sang phát triển lực lượng sản xuất với trình độ công nghệ cao, tiên
tiến theo xu hướng ứng dụng những thành quả của cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức, kinh tế số, cách mạng công nghiệp lần thứ
tư…, từ đó hình thành những cơ cấu kinh tế mới hiện đại hơn, với trình độ xã
hội hóa cao và đồng bộ hài hòa hơn giữa các vùng, các khu vực, giữa nông thôn
và thành thị, đô thị… Quá trình biến đổi trong cơ cấu kinh tế đó tất yếu dẫn đến
những biến đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp, cả trong cơ cấu tổng thể cũng như
những biến đổi trong nội bộ từng giai cấp, tầng lớp xã hội, nhóm xã hội. Từ đó,
vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội cũng thay đổi theo.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh với tính cạnh tranh cao, cộng
với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng khiến cho các giai cấp, tầng lớp xã hội
cơ bản trong thời kỳ này trở nên năng động, có khả năng thích ứng nhanh, chủ
động sáng tạo trong lao động sản xuất để tạo ra những sản phẩm có giá trị, hiệu
quả cao và chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của thị trường trong bối cảnh mới.
Xu hướng biến đổi này diễn ra rất khác nhau ở mỗi quốc gia khi bắt đầu thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do bị qui định bởi những khác biệt về trình độ
phát triển kinh tế, về hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước.
Hai là, cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các
tầng lớp xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa đã được “thai nghén” từ trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa, do vậy ở giai
đoạn đầu của nó vẫn còn những “dấu vết của xã hội cũ” được phản ánh “về mọi
phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần”. Bên cạnh những dấu vết của xã hội
cũ, xuất hiện những yếu tố của xã hội mới do giai cấp công nhân và các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội bắt tay vào tổ chức xây dựng, do vậy tất yếu sẽ diễn
ra sự tồn tại “đan xen” giữa những yếu tố cũ và yếu tố mới. Đây là vấn đề mang
tính qui luật và được thể hiện rõ nét nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Về mặt kinh tế, đó là còn tồn tại kết cấu kinh tế nhiều thành phần. Chính
cái kết cấu kinh tế đa dạng, phức tạp này dẫn đến những biến đổi đa dạng, phức
tạp trong cơ cấu xã hội – giai cấp mà biểu hiện của nó là trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Ngoài
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, giai cấp tư sản (tuy đã
bị đánh bại nhưng vẫn còn sức mạnh - V.I.Lênin) đã xuất hiện sự tồn tại và phát
triển của các tầng lớp xã hội mới như: tầng lớp doanh nhân, tiểu chủ, tầng lớp
những người giàu có và trung lưu trong xã hội…
Ba là, cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa
liên minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dẫn đến sự xích lại gần nhau.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội
- giai cấp biến đổi và phát triển trong mối quan hệ vừa có mâu thuẫn, đấu tranh,
vừa có mối quan hệ liên minh với nhau, dẫn đến sự xích lại gần nhau giữa các
giai cấp, tầng lớp cơ bản trong xã hội, đặc biệt là giữa giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Mức độ liên minh, xích lại gần nhau giữa các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội tùy thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội của
đất nước trong từng giai đoạn của thời kỳ quá độ. Tính đa dạng và tính độc lập
tương đối của các giai cấp, tầng lớp sẽ diễn ra việc hòa nhập, chuyển đổi bộ
phận giữa các nhóm xã hội và có xu hướng tiến tới từng bước xóa bỏ dần tình
trạng bóc lột giai cấp trong xã hội, vươn tới những giá trị công bằng, bình đẳng.
Đây là một quá trình lâu dài thông qua những cải biến cách mạng toàn diện của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là xu hướng tất yếu và là biện chứng
của sự vận động, phát triển cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong cơ cấu xã hội - giai cấp ấy, giai cấp công nhân, lực lượng tiêu biểu cho
phương thức sản xuất mới giữ vai trò chủ đạo, tiên phong trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Vai
trò chủ đạo của giai cấp công nhân còn được thể hiện ở sự phát triển mối quan
hệ liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
ngày càng giữ vị trí nền tảng chính trị - xã hội, từ đó tạo nên sự thống nhất của
cơ cấu xã hội - giai cấp trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
II, Vận dụng
1, Vị trí, vai trò của thanh niên Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Thanh niên Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử luôn giữ vai trò quan trọng,
luôn thể hiện tinh thần xả thân trong các cuộc chiến tranh giữ nước và luôn là
lực lượng quan trọng trong thời kỳ kiến thiết đất nước. Thanh niên Việt Nam
trong cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ; trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; trong thời kỳ kiến thiết đất
nước sau chiến tranh; trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước luôn phát huy truyền thống của dân tộc, luôn nêu cao tinh
thần xung phong, tình nguyện, xung kích, đi đầu để hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ Đảng, nhà nước và nhân dân giao phó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò và vị trí của thanh niên trong
sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, Người biểu lộ niềm tin vững
chắc vào thế hệ trẻ, là lớp người “xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế
và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “ trong mọi công
việc, thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu “ Đâu cần, thanh niên có; việc gì
khó, thanh niên làm” . Người động viên, khích lệ: “Thanh niên phải xung phong
đến những nơi khó khăn gian khổ nhất, nơi nào người khác làm ít kết quả, thanh
niên xung phong đều làm cho tốt” .
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn đề cao vai trò, vị trí của thanh
niên, xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng. Đồng thời, Đảng đã đề ra
nhiều chủ trương giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức thanh niên thành lực
lượng hùng hậu, trung thành, kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân
tộc. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về “tăng
cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa” cũng đã khẳng định: “Thanh niên là rường cột
của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây
dựng chủ nghĩa xã hội”. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “… phải
khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích
sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Hình thành lớp thanh niên ưu
tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc…”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò và vị trí của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người động viên khích lệ: “Thanh niên
phải xung phong đến những nơi khó khăn gian khổ nhất, nơi nào người khác
làm ít hiệu quả, thanh niên xung phong đều làm cho tốt”. Trong bài phát biểu
của Bác tại Hội nghị cán bộ toàn miền Bắc tháng 9/1962, Bác căn dặn thanh
niên “Phải không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện đâu cần thanh niên có, việc
khó có thanh niên, gặp gian khổ phải đi lên phía trước…”. Người cũng đã khẳng
định “Thanh niên là chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm
chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực
lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị tương lai đó”.
Thực tế cho thấy, thời kỳ nào cũng vậy, thanh niên luôn được xem là rường cột
và tương lai của đất nước, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Đối với Việt Nam, họ là nhóm nhân khẩu xã hội đặc
thù tuổi từ 15 đến 35. Đây là một nguồn nhân lực lớn, dồi dào cho sự phát triển,
mở ra cho Việt Nam vận hội mới. Trong thời kỳ mới đem lại cho thanh niên cả
những thời cơ cũng không ít thách thức. Về thuận lợi, thế hệ thanh niên ngày
nay được sống, lao động, học tập trong môi trường hòa bình; được thừa hưởng
những thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công cuộc đổi
mới đất nước; được cống hiến và trưởng thành trong sự ổn định về chính trị, sự
phát triển vững chắc của kinh tế - xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của
người dân không ngừng được cải thiện; được gia đình và xã hội dành cho nhiều
cơ hội học tập để có trình độ học vấn, chuyên môn cao hơn các lớp thanh niên
đi trước. Những lợi thế đó là hành trang giúp thanh niên vững bước tham gia
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Với đường lối đúng đắn của Đảng, các cấp, các ngành đã tạo cơ hội lớn cho
thanh niên học tập, tiếp cận văn minh nhân loại, nâng cao tri thức, nhất là những
thành tựu khoa học - công nghệ. Các hoạt động của Đoàn trong những năm qua
luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, phát huy vai trò xung kích, tình
nguyện của tuổi trẻ trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Những thành tựu to lớn, toàn diện của đất nước trong công cuộc đổi mới và đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho thanh niên thêm tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thanh
niên nhận thức rõ hơn về bối cảnh, tình hình, nhiệm vụ cách mạng của đất nước.
Bộ phận thanh niên tiên tiến có quyết tâm cao, hoài bão lớn và luôn phấn đấu
cống hiến cho đất nước ngày càng đông đảo. Tính tích cực xã hội của thanh
niên được tăng thêm và thể hiện rõ trong các phong trào thanh niên do Đoàn
phát động. Thanh niên tham gia ngày càng đông đảo vào các hoạt động tình
nguyện đến những nơi gian khổ, khó khăn, những vùng xa xôi, hải đảo… họ
hăng hái, xung phong trong các hoạt động nhân đạo giúp đỡ những người có
hoàn cảnh khó khăn. Phần đông thanh niên đã giữ được những nét tốt đẹp trong
lối sống, nếp sống, quan tâm và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp. Tinh
thần tình nguyện, xung phong,tính tính cực xã hội của thanh niên tiếp tục được
nhân rộng. Thanh niên có tư duy mới, phù hợp và thích nghi hơn với cơ chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thanh niên có điều kiện thuận
lợi để tham gia nhiều hơn vào các hoạt động quốc tế thanh niên trong khu vực
và trên thế giới. Vị thế của thanh niên nước ta trong khu vực và trên thế giới
ngày càng được nâng cao. Đó là những động lực tinh thần quan trọng để phát
huy tính xung kích, sáng tạo của thanh niên Việt Nam trong thời gian tới.
Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là xu thế tất yếu. Xu thế này sẽ tạo ra thị
trường lao động toàn cầu, công dân toàn cầu và thanh niên toàn cầu… Những
năm trước năm đây, thanh niên nước ta được đánh giá tụt hậu hơn về học vấn và
tay nghề, ngoại ngữ và tin học, khả năng thích ứng. Hiện nay, thanh niên nước
ta sẽ tiếp cận dần với trình độ của thanh niên khu vực và thanh niên thế giới.
Thanh niên Việt Nam sẽ có trình độ văn hóa, chuyên môn và tay nghề, ý chí và
nghị lực không thua kém thanh niên các nước. Nhưng thanh niên nước ta còn
thua kém thanh niên các nước tiên tiến về kỷ luật lao động, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng tham gia các hoạt động quốc tế. Ngoài ra, thanh niên cũng
không phải là một khối thuần nhất, vì thế, cần phải hiểu rõ từng đặc điểm riêng
của thanh niên. Bên cạnh đó, còn phải tiếp cận thanh niên theo lãnh thổ (thanh
niên nông thôn, thanh niên miền núi, thanh niên thành thị); theo ngành nghề
(thanh niên doanh nghiệp, thanh niên công nhân viên chức, thanh niên học sinh
sinh viên, trí thức trẻ, thanh niên lực lượng vũ trang…).
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã
thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử đưa nước ta ra khỏi khu
vực kém phát triển tạo tiền đề quan trọng để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong
những năm tới còn gặp những khó khăn, thách thức. Kinh tế đất nước vẫn còn
nhiều khó khăn, chưa đủ điều kiện để đáp ứng tốt nhu cầu của thanh niên cũng
như của nhân dân trong các lĩnh vực học tập, nghề nghiệp,việc làm, thu nhập,
sức khỏe, nhu cầu vui chơi, giải trí… Sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, sự phân
hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, quá trình phát triển kinh tế thị trường sẽ tạo
ra những thách thức đối với thanh niên về trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp
vụ, tay nghề, bản lĩnh, và tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm, lối sống của
thanh niên. Sự chống phá của các thế lực thù địch bên ngoài, các âm mưu xóa
bỏ những thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục tiêu của các thế lực thù
địch là luôn nhằm vào thanh niên, ra sức lôi kéo, tha hóa thanh niên, kích động
thanh niên tham gia các hoạt động gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị
đất nước. Hiện nay, môi trường xã hội chưa lành mạnh; sự gia tăng của các tệ
nạn xã hội sẽ còn diễn biến phức tạp đã, đang và sẽ tác động xấu đến thanh
niên, một bộ phận thanh niên bị tác động của lối sống thực dụng chạy theo
hưởng thụ vật chất, dễ mắc phải những sai phạm về đạo đức, tiêu cực và tệ nạn
xã hội, có thể bị lợi dụng, kích động, lôi kéo vào các hành vi gây rối, vi phạm
pháp luật.
Nâng cao hiểu biết của thanh niên về tình hình đất nước, thế giới và những
vấn đề mà các thế lực thù địch đang lợi dụng thanh niên để chống phá đất nước.
Phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong giữ vững quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Khuyến khích, cổ vũ thanh niên
nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo làm chủ khoa học, công
nghệ hiện đại. Ban hành chính sách để thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học tình
nguyện đến công tác tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; Tạo bước đột phá về chất lượng đào tạo nghề
để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp,
kỷ luật lao động cho thanh niên. Tạo môi trường và điều kiện để khuyến khích
thanh niên tham gia các hoạt động cộng đồng, nâng cao kỹ năng sống và làm
việc cho thanh niên; Phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh và các tổ chức thanh niên do Đoàn Thanh niên làm nòng cốt. Đoàn không
ngừng quan tâm, chăm lo tốt hơn các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của
thanh niên, trở thành người bạn gần gũi của thanh niên. Thông qua các cuộc vận
động, các phong trào hành động cách mạng nhằm xây dựng các gương tập thể,
cá nhân điển hình tiên tiến để giáo dục và tự giáo dục rèn luyện, phát huy vai trò
xung kích, sáng tạo của thanh niên trong giai đoạn mới.
2, Thời cơ và thách thức của thanh niên Việt Nam trong hội nhập quốc tế
2.1. Thời cơ đối với thanh niên Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá vị trí vai trò quan trọng của thanh
niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đảng xác định thanh niên
là chủ hiện tại và tương lai của đất nước, là đội quân xung kích cách mạng trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng, Nhà
nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc
biệt đối với thanh niên và tổ chức Đoàn, nhất là thời kỳ phát triển đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhà nước tăng cường quản lý công tác thanh niên thông qua việc triển khai,
thực hiện Luật Thanh niên, Chiến lược phát triển thanh niên đến năm 2010 và
nhiều chính sách thích hợp khác nhằm bồi dưỡng, phát huy thanh niên và tạo
điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện cho công tác thanh niên; quá trình xã
hội hóa công tác thanh niên ngày càng được triển khai rộng rãi, tạo môi trường,
điều kiện thuận lợi để bồi dưỡng và phát huy thanh niên.
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,
phấn đấu đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để
Việt Nam cơ bản trưởng thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020 là điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên thể hiện tài năng sức
trẻ, cống hiến cho đất nước. Với đường lối đúng đắn của Đảng, đất nước tiếp
tục ổn định, vị thế không ngừng tăng lên đã tạo cơ hội lớn cho thanh niên học
tập, tiếp cận văn minh nhân loại, nâng cao tri thức nhất là những thành tựu khoa
học - công nghệ. Sự quan tâm của mỗi gia đình đối với lớp trẻ không ngừng
tăng lên là cơ sở, nguồn lực, điều kiện quan trọng để chăm lo cho thanh niên
những năm tới đây.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh không ngừng lớn mạnh, các hoạt
động của Đoàn bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, phù hợp với từng đối
tượng thanh niên, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn từng bước quan tâm, chăm lo tốt
hơn các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của thanh niên, trở thành người bạn
gần gũi của thanh niên.
3. Thách thức đối với thanh niên Việt Nam
Tình hình thế giới và trong nước đang có nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường, những nguy cơ chung của đất nước mà Đảng ta chỉ ra là những thách
thức lớn đối với tuổi trẻ:
- Kinh tế đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, chưa đủ điều kiện để đáp ứng tốt
cho các nhu cầu của thanh niên cũng như của nhân dân cho các lĩnh vực học
tập, nghề nghiệp, việc làm, thu nhập, sức khỏe, nhu cầu vui chơi, giải trí, hôn
nhân, gia đình.
- Sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia
tăng quá trình phát triển kinh tế thị trường sẽ tạo ra những thách thức đối với
thanh niên về trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ lẫn, tay nghề, bản lĩnh
và tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm, lối sống của thanh niên. Mặt khác,
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế kéo theo sự chuyển dịch lao động trẻ, cơ cấu xã
hội, nghề nghiệp của thanh niên. Số thanh niên từ nông thôn ra thành phố, các
khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế, thanh niên lao động tự do, thanh niên
thiếu việc làm, thu nhập không ổn định vẫn ngày càng có chiều hướng gia tăng.
- Sự chống phá của các thế hệ bên ngoài, các âm mưu xóa bỏ những thành
quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chia rẻ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục tiêu của thế lực thù địch là luôn nhằm vào
thanh niên, coi đây là đối tượng dễ lung lạc để dùng các thủ đoạn kinh tế, chính
trị và văn hóa tác động làm biến chất, tạo mầm mống chống đối chế độ; ra sức
lôi kéo, tha hóa thanh niên, kích động thanh niên tham gia các hoạt động gây
mất ổn định tình hình an ninh chính trị đất nước.
- Dưới sự tác động của toàn cầu hóa, những sản phẩm độc hại phi văn hóa
bằng nhiều con đường, nhất là qua internet, các phương tiện truyền thông sẽ tác
động trực tiếp, liên tục với cường độ cao đến lối sống, nếp sống của thanh niên,
tạo sức ép gây nhiều khó khăn, phức tạp cho việc bảo vệ và phát huy văn hóa
dân tộc trong giới trẻ.
- Sự gia tăng của các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tội phạm nguy
hiểm, côn đồ, hung hãn, băng nhóm… chưa được ngăn chặn hiệu quả; môi
trường xã hội chưa lành mạnh; sức khỏe sinh sản, tỷ lệ nhiễm HIV trong thanh
niên sẽ còn diễn biến phức tạp, ở mức báo động… đã, đang và sẽ tác động xấu
đến thanh niên.
Bối cảnh trong nước và quốc tế không chỉ đem đến cơ hội, thuận lợi và thời
cơ mà còn đem đến nhiều khó khăn và thách thức đối với thanh niên. Điều cơ
bản là mỗi thanh niên cần có đủ bản lĩnh, ý chí, trình độ để phát huy thuận lợi,
tận dụng thời cơ, khắt phục khó khăn, vượt qua thách thức. Điều đó chỉ có được
khi thanh niên phát huy tinh thần tự học, tự rèn luyện, có đủ tâm, đủ tầm để
tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động tham
gia vào nền kinh tế tri thức và quá trình hội nhập quốc tế
3, Thực trạng phát triển thanh niên Việt Nam hiện nay
Tính đến năm 2011, thanh niên Việt Nam (nằm trong độ tuổi: 16 - 30) hiện có
khoảng 22.590.500 người, chiếm 26% dân số; 33,7% lực lượng lao động xã hội.
Được hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước, thế hệ thanh
niên hiện nay có điều kiện thuận lợi hơn trong học tập, thu nhập; có mức sống
cao hơn; có nhiều sự lựa chọn hơn trong nghề nghiệp, việc làm, vui chơi, giải
trí.
Tiếp nối truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha anh, thế hệ thanh niên ngày nay
luôn trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng vì lợi ích dân tộc,
bảo vệ chủ quyền quốc gia, tình nguyện vì cộng đồng; sống có trách nhiệm với
gia đình, xã hội. Đại đa số thanh niên có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức công
dân, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Tính tích cực xã hội, tinh thần xung
phong tình nguyện, ý thức chia sẻ với cộng đồng đã và đang được khơi dậy, trở
thành xu hướng chủ đạo lôi cuốn đông đảo thanh niên.
Tuy nhiên, hiện nay chất lượng thanh niên cũng đang phải đối mặt với những
nguy cơ, thách thức, cản trở, đòi hỏi phải sớm có những đường lối, chiến lược
phát triển đúng đắn nhằm xây dựng đội ngũ thanh niên Việt Nam ngang tầm
nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Niềm tin,
đạo đức và lối sống trong thanh niên có những diễn biến mới.
Những hạn chế trong giáo dục, đào tạo và dạy nghề, nếu chậm được khắc phục
sẽ làm cho một bộ phận thanh niên hụt hẫng kiến thức trên nhiều lĩnh vực. Sự
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường dẫn đến tình trạng thất nghiệp, thiếu việc
làm còn gay gắt; xu thế dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, từ khu
vực có thu nhập thấp đến khu vực có thu nhập cao diễn ra ngày càng mạnh mẽ;
thanh niên giữa các vùng, miền tiếp tục chênh lệch ngày càng lớn về mức sống,
cơ hội học tập, trình độ, về điều kiện phát triển. Môi trường sống tự nhiên, áp
lực trong học tập, công việc, thu nhập và những vấn đề của xã hội hiện đại đã và
đang ảnh hưởng đến khả năng được đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí và rèn
luyện của thanh niên. Các tệ nạn xã hội, như ma túy, mại dâm, tội phạm nguy
hiểm, có tác động xấu đến một bộ phận thanh niên, ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của thanh niên và sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước.
Năng lực hội nhập, kỹ năng xã hội của thanh niên ngày nay được nâng lên
nhưng chưa đáp ứng được đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế; trong đó
thanh niên đang thiếu hụt cả về kiến thức lịch sử và văn hóa dân tộc cũng như
kỹ năng, khả năng tư duy độc lập. Đa số thanh niên thiếu kiến thức về ngoại
ngữ, tin học, chưa có thói quen trong môi trường lao động và đời sống công
nghiệp. Điều đó đã ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, bản lĩnh và năng
lực bảo tồn văn hóa dân tộc Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong
khu vực và trên thế giới, một bộ phận thanh niên bản lĩnh chính trị non kém, dễ
bị dao động về lập trường tư tưởng chính trị, có biểu hiện lệch lạc về giá trị đạo
đức và lối sống, đề cao hưởng thụ, sống thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa,
thiếu trách nhiệm với cộng đồng
4, Giải pháp phát huy vai trò của thanh niên Việt Nam trong hội nhập quốc
tế
Muốn khơi dậy trong thanh niên khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế cần quan tâm thực hiện những
giải pháp sau:

Một là, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục thế hệ trẻ. Trước hết cấp
ủy, chính quyền các cấp, nhất là tổ chức Đoàn cần tăng cường tuyên truyền,
giáo dục với nhiều hình thức, phương tiện để đoàn viên thanh niên hiểu sâu sắc
về chủ trương, đường lối, mục tiêu lý tưởng cao đẹp, bản chất tốt đẹp của Đảng;
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp
nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nhằm nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động
đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trên internet. Từ đó, củng
cố niềm tin của thanh niên vào sự lãnh đạo của Đảng và tích cực, xung kích đi
đầu thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.

Trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền và hệ thống chính trị đã có
nhiều giải pháp, mô hình hiệu quả trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, tạo ra sự lan tỏa trong xã hội, nhiều tấm gương tập
thể, cá nhân tiêu biểu ở lĩnh vực khác nhau đã được tuyên dương, góp phần giáo
dục thế hệ trẻ, tạo niềm tin trong thanh niên và xã hội. Vì vậy, để đáp ứng với
thời kỳ mới, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế,
cần tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016
của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”, xây dựng và nhân rộng được nhiều cá nhân, tập thể thanh
niên tiên tiến, là những người có đạo đức để làm gương, truyền đi cảm hứng cho
thanh niên phấn đấu, luôn vươn lên khẳng định mình, không ngừng sáng tạo
cùng tạo dựng tương lai, thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn
2015 – 2030. Đổi mới hình thức, phương pháp học tập lý luận chính trị để nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn viên
thanh niên; chú trọng giáo dục truyền thống, lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường, tự tôn dân tộc, phát huy tính tích cực chính trị của thanh niên để họ quan
tâm các vấn đề, các sự kiện chính trị của đất nước. Phát huy vai trò tích cực của
thanh niên trong việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, đi đầu trong việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại;
đấu tranh bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, văn hóa phẩm độc hại.

Tăng cường và đổi mới các hình thức tuyên truyền giáo dục pháp luật, ý thức
công dân, nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia cho thế hệ trẻ, xây dựng
môi trường xã hội lành mạnh, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, trái
với đạo đức xã hội. Dự báo, nắm chắc tình hình diễn biến tư tưởng, tâm trạng
của các đối tượng thanh niên để tập hợp, phản ánh và kịp thời giải quyết các vấn
đề mới nảy sinh.

Hai là, truyền cảm hứng, động lực cho thanh niên. Thông qua các kênh truyền
thông, các diễn đàn, đối thoại để tăng cường tuyên truyền, truyền cảm hứng,
động lực, khơi dậy khát vọng, ý chí quyết tâm của tuổi trẻ thông qua những tấm
gương thực sự tiêu biểu của cán bộ, đảng viên, của các cá nhân tiêu biểu, những
câu chuyện đẹp. Khi được truyền cảm hứng sẽ trở thành động lực bên trong thúc
đẩy thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau hành động với quyết tâm lớn để
thực hiện được những mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, Nhân dân ấm no,
hạnh phúc.

Ba là, đào tạo thanh niên thành lực lượng lao động chất lượng cao, đáp ứng yêu
cầu thời kỳ mới. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa vẫn là xu thế lớn của thế
giới, sẽ tạo ra thị trường lao động toàn cầu, công dân toàn cầu. Cần tổ chức tốt
các phong trào thi đua cổ vũ, động viên, hỗ trợ thanh niên học tập, nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp; nâng cao năng lực hội nhập. Bản
thân mỗi thanh niên cũng cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình
độ văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, tay nghề để thích ứng với thị
trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế.

Bốn là, thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới, sáng tạo. Dân tộc Việt Nam có những phẩm
chất đặc trưng nổi bật, rất đáng quý là thông minh, cần cù, hiếu học và cũng rất
tiềm năng về sáng tạo nhưng sáng tạo lại chưa phải là phẩm chất đặc trưng nổi
bật của con người Việt Nam. Sáng tạo là phẩm chất chung, có trong mỗi người
nhưng nó thể hiện tập trung nhất ở giai đoạn tuổi trẻ, là đặc trưng của thanh
niên. Để hình thành thêm phẩm chất cao quý này cần kiên trì và quyết tâm lớn
với vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó là sự quan tâm tạo
những cơ chế, chính sách đặc thù cho giáo dục và đào tạo, khuyến khích, hỗ trợ
cá nhân đổi mới, sáng tạo, các tổ chức thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo,
các nghiên cứu mới phục vụ sự phát triển của thanh niên.

Năm là, hỗ trợ, thúc đẩy thanh niên khởi nghiệp. Những năm qua, khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo đã và đang trở thành động lực lớn cho nền kinh tế và quá trình
chuyển đổi số trong bối cảnh sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0. Với thế mạnh về năng lực hoàn thiện hạ tầng chính sách, sự vào
cuộc đồng loạt của các bộ, ngành, địa phương, thì “Khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo Việt Nam” trong thời gian qua đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình
trong mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển. Khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo được đánh giá, nhận định có sức ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế –
xã hội. Các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có vai trò quan trọng
trong cấu trúc nền kinh tế của mỗi quốc gia, bởi đây chính là động lực của công
nghệ mới. Thanh niên có nhiều ưu thế trong khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
nhưng cũng gặp không ít khó khăn, rào cản, rất cần sự quan tâm hỗ trợ, tạo điều
kiện đặc biệt của Đảng, Nhà nước và xã hội.

Sáu là, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các
lĩnh vực then chốt. Cán bộ là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của
mọi việc, vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ có đủ phẩm chất và năng lực kế
thừa, gánh vác nhiệm vụ luôn là một công việc quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết”. Thanh niên luôn khát khao khẳng định bản thân, mong
muốn được tin tưởng và trao cơ hội thử thách, rèn luyện. Muốn phát triển mạnh
mẽ Việt Nam phải có đội ngũ các nhà quản lý có tâm, có tầm, có tài; có đội ngũ
đông đảo các nhà khoa học tầm cỡ, tâm huyết với nghề và sự nghiệp phát triển
đất nước. Cấp ủy và lãnh đạo các cấp cần sớm và mạnh dạn giao việc cho
những người trẻ để họ có điều kiện trưởng thành, khẳng định bản thân và đóng
góp vào sự phát triển của đất nước, địa phương, đơn vị.
Bảy là, tạo môi trường thúc đẩy tính tích cực xã hội của thanh niên. Tạo môi
trường để thanh niên rèn luyện các kỹ năng xã hội, tham gia xây dựng đời sống
văn hóa; tham gia giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, văn thể mỹ, phát
triển thể lực; phát huy tính tích cực xã hội của thanh niên; sống trung thực trách
nhiệm, xây dựng gia đình hạnh phúc; tham gia giám sát phản biện xã hội. Thanh
niên phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tích cực
tham gia phòng, chống ô nhiễm môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu. Nâng cao
nhận thức cho thanh, thiếu niên về vai trò của kỹ năng xã hội. Tổ chức tốt các
hình thức huấn luyện, bồi dưỡng kỹ năng xã hội, nhân rộng mô hình, từ đó,
khuyến khích động viên và tổ chức các hoạt động hỗ trợ thanh, thiếu niên tự học
tập kiến thức, rèn luyện kỹ năng để thích nghi với môi trường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Tám là, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế cho thanh niên. Nhà nước tạo điều
kiện, thanh niên chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia
giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao Nhân dân để
nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia
có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu, như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến
đổi khí hậu toàn cầu, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo…

C, KẾT LUẬN
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu
hóavà hội nhập kinh tế quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã
hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Hoà
chung với những khát vọngvà nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, lớp thanh niên
sinh viên ngày nay cũng có những trăntrở, suy nghĩ riêng với mong muốn đóng
góp ngày một thiết thực, hiệu quả hơn đối với sựnghiệp chung của Tổ quốc.
Ngày càng có nhiều tầng lớp, lực lượng thanh niên trưởngthành trong thời đại
mới, có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng đất nước, đưa đấtnước ta dần
thích ứng với những điều kiện mà quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra.UNESCO
cho rằng, thanh niên là những người có tài năng đặc biệt, họ lớn lên với
côngnghệ và làm quen với sự thay đổi nhanh chóng
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà nước ta đang tiến
hànhhiện nay đang tồn tại song song hai vấn đề về lối sống đạo đức của con
người mà tiêubiểu là lực lượng thanh niên - những người chủ tương lai của đất
nước. Thanh niên vẫn duy trì và phát huy được phẩm chất đạo đức cáchmạng,
đạo đức nghề nghiệp, sống và làm việc theo lý tưởng của Đảng, có lối sống
vănminh, ý chí phấn đấu xây dựng nước nhà giàu mạnh và chủ nghĩa quốc tế
trong sáng. Những thanh niên thông minh, sáng tạo và nghị lực, biết tận dụng
mọi cơ hội, mọikhả năng để vượt qua những thử thách của cuộc sống xứng đáng
là người chủ tương laicủa đất nước
Những người trẻ ngày nay đang thể hiện tiếng nói của mình theo những
cáchtruyền cảm hứng nhất. Họ đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng
tạo và tinh thầndám nghĩ, dám làm của mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập
và rèn luyện về mọiphương diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học -
công nghệ, để cùng với toànĐảng, toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, vănminh.
D, TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, giáo trình chủ nghĩa khoa học xã hội
2, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Namkhoá VII về công tác thanh niên trong thời kỳ mới. Số: 04 –
NQ/HNTW, ngày 14/01/1993
3, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, HN. 1996, tr. 113.
4, Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, HN. 1996, tr. 185.
5, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, NXB Chính trị quốc gia, HN.1995, tr. 488.

You might also like