You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

KHOA ĐÀO TẠO CƠ BẢN


Bộ môn: Triết học Mác - Lênin

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Chủ đề 1: Sự vận dụng của Đảng về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp
xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Vinh


Giảng viên giảng dạy: Nguyễn Thanh Huyền
Hà Nội, 11 tháng 11 năm 2023
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA ĐÀO TẠO CƠ BẢN
Bộ môn: Triết học Mác - Lênin

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Chủ đề 1: Sự vận dụng của Đảng về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp
xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Vinh


Giảng viên giảng dạy: Nguyễn Thanh Huyền
Hà Nội, 11 tháng 11 năm 2023

1
MỤC LỤC

2
1. LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghệ hóa và hiện đại hóa
đất nước, chính vì vậy tất cả mọi người đều nên có hiểu biết nhất định về quá trình
này và nhân tố quan trọng nhất trong đó - quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh
tế”. Đây là cơ hội để Việt Nam thực hiện khát vọng phồn vinh kinh tế. Quá trình này
đem lại cho Việt Nam những cơ hội và thách thức lớn, cần đưa ra quyết định chính
xác và đúng đắn đảm bảo đưa Việt Nam trở nên phồn thịnh. Làn sóng phát triển công
nghệ đưa đến cho Việt Nam những lựa chọn khó khăn trong sử dụng lao động; đặc
biệt khi sự thay thế lao động bằng những người máy với năng suất và chất lượng cao
hơn. Việc am hiểu về vấn đề này sẽ giúp mỗi chúng ta biết được giá trị của bản thân -
người lao động trong quá trình phát triển đất nước. Mỗi chúng ta đều là những mắt
xích nhỏ những rất quan trọng trong nền kinh tế nói riêng và xã hội nói chung.

Từ những lý do trên, em chọn chủ đề “Sự vận dụng của Đảng về quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp xây
dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay”.

3
2. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái niệm phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng tạo thành cách thức sản xuất mà con
người thực hiện trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất trong một giai đoạn
nhất định của lịch sử. Phương thức sản xuất bao gồm hai mối quan hệ cơ bản là
con người quan hệ với giới tự nhiên được gọi là lực lượng sản xuất và con người
quan hệ với nhau được gọi là quan hệ sản xuất.
1.2. Những vấn đề cơ bản về quan hệ sản suất và lực lượng sản xuất.
1.2.1. Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên
trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển, là thước đo quan trọng trong sự tiến bộ của xã hội loài người. Trải qua
những giai đoạn phát triển khác nhau, lực lượng sản xuất sẽ có tính chất và trình
độ khác nhau.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất:
- Người lao động: Là chủ thể của quá trình lao động sản xuất với sự vận dụng
trí tuệ, năng lực và kinh nghiệm của con người vào tư liệu sản xuất để tạo ra vật
chất.
- Tư liệu sản xuất: Là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để con người tiến
hành quá trình lao động sản xuất, đây được xem là yếu tố thiết yếu của lực
lượng sản xuất. Nó bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Đối tượng lao động: Không phải toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ một bộ phận
của giới tự nhiên được con người đưa vào sản xuất để tạo ra của cải. Bao gồm cả
những cái có sẵn trong tự nhiên và cả dạng nhân tạo bởi trong quá trình sản xuất

4
cần những đối tượng lao động mới để mở rộng khả năng sản xuất của con người.
Tư liệu lao đông: Là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt dưới
mình với đối tượng lao động, giúp con người tác động lên đối tượng lao động.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của quá trình
lao động sản xuất tạo nên tư liệu sản xuất. Do con người tạo ra như phương tiện
lao động và công cụ lao động. Công cụ lao động được xem như hệ thống “chủ
lực” của sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, kết nối
trung gian giữa người và tư liệu sản xuất làm giảm áp lực và tăng năng xuất lao
động của con người.
Trong toàn bộ yếu tố của lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố không
thể thiếu, là chủ thể sáng tạo có vai trò quyết định nhất, sử dụng trí tuệ để chế
tạo và vận dụng công cụ lao động vào quá trình sản xuất.
1.2.2. Quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất, cũng giống như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh
vực đời sống xã hội. Nó có tính khách quan và tồn tại độc lập với ý muốn chủ
quan của con người, thể hiện sự đặc trưng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất
định.
Quan hệ sản xuất bao gồm các kết cấu sau:
- Quan hệ sỡ hữu về tư liệu sản xuất.
- Quan hệ tổ chức quản lí.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, mỗi mặt đều
có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm qua lại, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ khác.

5
Trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người tồn tại hai loại
hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sơ hữu công cộng.
- Sỡ hữu tư nhân là loại hình sở hữu thể hiện mối quan hệ thống trị và bóc lột
giữa người với người trong sản xuất và đời sống xã hội khi mà tư liệu sản xuất
chỉ tập trung trong tay số ít người.
- Sỡ hữu công cộng là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất thuộc về cộng
đồng, nhờ đó mà quan hệ xã hội trở nên bình đẳng, công bằng.
Quan hệ tổ chức và quản lý có tác động lớn đối với quá trình sản xuất, là nhân
tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức, điều khuyển quá trình sản xuất và quyết
định quy mô, tốc độ của nền kinh tế.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động bị chi phối bởi quan hệ sỡ hữu về tư
liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lí nhưng lại đóng vai trò là chất xúc tác
trực tiếp đến lợi ích và thái độ của con người trong quá trình lao động sản xuất,
nó có thể thúc đẩy hoặc cản trở sản xuất phát triển.
1.3. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được xem là hai khía cạnh của
phương thức sản xuất, giữa chúng tồn tại mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với
nhau. Chúng phụ thuộc và tác động lẫn nhau tạo thành quy luật xã hội cơ bản
của lịch sử loài người. Quy luật thể hiện động lực và xu thế phát triển của lịch
sử.
1.3.1. Tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của người
lao động. Có tính cá thể hoặc xã hội, thể hiện sự đòi hỏi trong nền sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện qua trình độ chuyên môn, kỹ

6
năng lao động của con người, sự phát triển của các công cụ lao động, trình độ
phân công lao động và tổ chức quản lí lao động xã hội, quy mô của nền sản xuất.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời và phát triển
của quan hệ sản xuất, hình thành quan hệ chặt chẽ giữa người lao động với nhau.
1.3.2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng
sản xuất đóng vai trò quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan
hệ sản xuất. Và chỉ làm biến đổi cục bộ chứ không thể thay đổi toàn diện bởi
quy luật này thể hiện sự cân đối hài hòa của bản chất mối quan hệ trên. Lực
lượng sản xuất được xem là nội dung của quá trình sản xuất có xu hướng phát
triển và biến đổi thường xuyên, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản
xuất có yếu tố tương đối ổn định và bảo thủ, khi nội dung thay đổi làm hình thức
thay đổi theo. Sự phù hợp giữa chúng tạo động lực giúp cho sản xuất phát triển
cân đối, có hiệu quả giữa các yếu tố, làm tăng năng suất lao động đồng thời
giảm chi phí và thời gian sản xuất.
1.3.3. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Trong mối quan hệ biện chứng, quan hệ sản xuất giữ vai trò hình thức kinh tế
của quá trình sản xuất, là tiền đề tạo ra mục tiêu thích hợp cho lực lượng sản
xuất. Do đó quan hệ sản xuất đã tác động trở lại, quy định mục đích, cách thức
sản xuất và phân phối những lợi ích từ quá trình sản xuất, gây ra tác động trực
tiếp tới thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng cũng như hiệu quả của
quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động và ngược lại. Từ đó có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
- Sự phù hợp giữa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo động lực và
điều kiện giúp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,

7
- Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời do tính chất ổn định không còn phù
hợp với tính chất vận động của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá
hoại lực lượng sản xuất, điều này thường xảy ra trong lịch sử do sự vận động
của xã hội. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong điều kiện nhất định và
mức giới hạn quy định
Đây được xem là quy luật cơ bản, chi phối sự vận động của xã hội loài người
và không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp. Khi cả hai không đồng nhất, phù hợp
với nhau sẽ tạo ra mâu thuẫn về mặt xã hội được gọi là mâu thuẫn giai cấp
và chỉ mang tính chất tạm thời, khi đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và
quan hệ sản xuất cũ sẽ được giải quyết bằng cách thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
1.4. Ý nghĩa của phương pháp luận.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có ý nghĩa vô cùng quan trọng, việc nhận thức đúng đắn quy luật này giúp
cho việc nắm bắt quan điểm, hoạch định đường lối, chính sách, là cơ sở khoa
học để nhận thức rõ sự đổi mới trong tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
Khi có xuất hiện mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự
lạc hậu của quan hệ sản xuất thì cần phải có những cuộc cải cách, đổi mới mà
cao hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn, từ
đó từng bước khôi phục, tạo lập sự phù hợp giữa chúng.

8
3. KẾT LUẬN
Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hình thành
nên các quy luật về sự phù hợp, đây được xem là quy luật cơ bản nhất, phổ biến
nhất chi phối sự vận động và phát triển của xã hội loài người, không những thế
mà còn tác động đến nền kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới. Quy luật này có
ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng, việc nhận thức đúng đắn giúp quán
triệt, xác lập quan điểm, hoàn thiện đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để
nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Điều này
đòi hỏi chúng ta muốn phát triển kinh tế đất nước cần phải có một quá trình đổi
mới song song với việc giải quyết những lý luận đã và đang được đặt ra, cần
nhận thức đúng đắn để hành động phù hợp, giúp đẩy nhanh tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Muốn đất nước phát triển toàn diện cần đầu tư,
nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất đi đôi với việc xây dựng quan hệ sản
xuất sao cho phù hợp luôn là yếu tố tất yếu của một chế độ xã hội, kinh tế quốc
gia.

You might also like