You are on page 1of 396

CHƯƠNG 1

KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC

I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

1. Triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học


Ngay từ thời nguyên thủy, để tồn tại, con người luôn hướng
nhận thức của mình ra thế giới. Công cụ để giải thích thế giới
của xã hội nguyên thủy ban đầu là các câu chuyện thần thoại.
Khi xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời, thay thế xã hội nguyên thuỷ,
thì việc giải thích thế giới bằng huyền thoại, thần thoại không
còn đáp ứng được nhu cầu hiểu biết ngày càng cao của con
người. Một công cụ nhận thức mới của loài người xuất hiện,
thay thế huyền thoại, thần thoại là triết học. Triết học ra đời là
kết quả của sự phân chia giữa lao động trí óc và lao động chân
tay. Bên cạnh đó, triết học ra đời còn do tư duy nhân loại, đã đạt
đến trình độ phát triển nhất định – trình độ hệ thống, khái quát
và trừu tượng hoá. Những học thuyết triết học đầu tiên trong
lịch sử, xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI (trước CN) ở Ấn
Độ cổ đại, Trung Quốc cổ đại, Hy Lạp, La Mã cổ đại và một số
các nước khác.
Triết, theo từ nguyên chữ Hán, có nghĩa là trí – với ý nghĩa
là: sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng và có đạo lý. Còn theo
nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp, triết học gồm hai yếu tố ngôn ngữ
hợp thành là: philo – yêu thích; và sophia – sự thông thái;
Philosophia là yêu thích sự thông thái.
Nhìn chung, dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học
ngay từ khi xuất hiện đã là một hoạt động tinh thần, biểu hiện
khả năng nhận thức, đánh giá của con người đối với thế giới.
Theo quan điểm mácxít, triết học là một hình thái ý thức xã hội
là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vai
trò và vị trí của con người trong thế giới đó.
Như vậy, triết học là học thuyết về những nguyên tắc chung
nhất của tồn tại và nhận thức là thái độ con người đối với thế
giới là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy.
Đặc điểm chủ yếu của triết học, như một hình thái ý thức xã
hội là ở chỗ triết học cố gắng đưa ra một quan niệm chỉnh thể
về thế giới; về các quá trình vật chất và tinh thần, cũng như mối
liên hệ, tác động của các quá trình đó; về nhận thức thế giới và
con đường cải biến thế giới. Đặc điểm này của triết học đã chỉ
rõ sự khác nhau giữa triết học với các khoa học cụ thể khác, vì
các khoa học cụ thể nghiên cứu những mặt riêng lẻ của hiện
thực. Chẳng hạn như toán học nghiên cứu mối quan hệ về số
lượng và không gian; vật lý học nghiên cứu các quá trình nhiệt,
điện, từ; sinh học nghiên cứu những đặc điểm phát triển của thế
giới thực vật và động vật; v.v
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi
theo từng giai đoạn lịch sử.

2
Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao
nhất của tri thức, bao hàm tri thức về tất cả các lĩnh vực không
có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh
quan niệm cho rằng triết học là khoa học của mọi khoa học, đặc
biệt là ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp
cổ đại, được coi là khoa học của mọi khoa học, với nghĩa, triết
học bao gồm mọi tri thức của con người về thế giới, đặc biệt là
giới tự nhiên, do đó còn gọi là triết học tự nhiên. Thời kỳ này,
triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, mà ảnh hưởng của
nó còn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học ở Tây
Âu. Ở Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại, triết học gắn liền với
những vấn đề chính trị, đạo đức, tôn giáo và thường biểu hiện
dưới dạng học thuyết chính trị – xã hội, hoặc tôn giáo.
Thời phong kiến ở Tây Âu, do sự thống trị của thần học Cơ
Đốc giáo trong lĩnh vực tinh thần, nên triết học trở thành nô lệ
của thần học. Nền triết học tự nhiên, bị thay thế bằng nền triết
học kinh viện. Triết học thời kỳ này phát triển một cách chậm
chạp, trong môi trường chật hẹp của đêm trường Trung cổ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV, XVI
đã tạo nên cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng triết học.
Để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, đặc biệt từ yêu cầu của sản
xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành, nhất là
các khoa học thực nghiệm, đã ra đời với tư cách là những khoa
học độc lập. Sự phát triển xã hội, được thúc đẩy bởi sự hình
thành và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi những
phát hiện lớn về địa lý và thiên văn, cùng những thành tựu khác
của cả khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn, đã mở ra một
thời kỳ mới cho sự phát triển triết học. Triết học duy vật chủ
nghĩa, dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm, đã
phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy
tâm, tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật
thế kỷ XVII - XVIII ở Anh, Pháp, Hà Lan, với những đại biểu
tiêu biểu như Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvêtiuýt
(Pháp), Xpinôda (Hà Lan)... V.I.Lênin đặc biệt đánh giá cao
công lao to lớn của các nhà duy vật Pháp thời kỳ này đối với sự
phát triển chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học trước Mác:
“Trong suốt cả lịch sử hiện đại của châu Âu và nhất là vào cuối
thế kỷ XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc quyết chiến
chống tất cả những rác rưởi của thời Trung cổ, chống chế độ
phong kiến trong các thiết chế và tư tưởng, chỉ có chủ nghĩa
duy vật là triết học duy nhất triệt để, trung thành với tất cả mọi
học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với mê tín, với thói
đạo đức giả, v.v.”1. Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát
triển trong các học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết
học Hêghen, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức.
Hêghen tự coi triết học của mình là một hệ thống phổ biến của
sự nhận thức, trong đó, những ngành khoa học riêng biệt, chỉ là
những mắt xích phụ thuộc vào triết học.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học thời kỳ đầu thế kỷ XIX, đã dẫn đến sự ra đời của triết
học Mác. Đoạn tuyệt triệt để với quan niệm, “triết học là khoa

1
V.I.Lênin: Toàn tập. Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t23, tr. 50.
4
học của các khoa học”, triết học mácxít xác định đối tượng
nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để, nghiên cứu
những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp đặc thù,
khác với mọi khoa học cụ thể. Triết học xem xét thế giới như
một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm
về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách
tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư
tưởng triết học. Triết học là sự trình bày thế giới quan bằng hệ
thống lý luận. Chính vì tính đặc thù của đối tượng triết học, mà
vấn đề tư cách khoa học của triết học và đối tượng của nó đã
gây ra những cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay. Nhiều
học thuyết triết học hiện đại ở phương Tây muốn từ bỏ quan
niệm truyền thống về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu
riêng như mô tả những hiện tượng tinh thần, phân tích ngữ
nghĩa, chú giải văn bản, v.v.
Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là
nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã
hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư
duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
Triết học, cũng như những khoa học khác, phải giải quyết
rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ
quan trọng là nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết những
vấn đề còn lại, được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. Theo
Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”2.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
+ Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: giữa tư duy với tồn tại, giữa
ý thức với vật chất, giữa tinh thần với tự nhiên thì cái nào có
trước cái nào có sau? cái nào có vai trò quyết định đối với cái
nào?
+ Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận
thức được thế giới hay không?
Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, không chỉ xác định
được nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác
của triết học, mà nó còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường,
thế giới quan của các học thuyết triết học khác nhau.
Trong lịch sử triết học, có nhiều quan điểm khác nhau,
thậm chí đối lập nhau khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
+ Khi giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản; những học
thuyết cho rằng tồn tại, vật chất, giới tự nhiên có trước và giữ
vai trò quyết định đối với tư duy, ý thức, tinh thần hợp thành
trường phái duy vật (chủ nghĩa duy vật). Ngược lại, những học
thuyết cho rằng tư duy, ý thức, tinh thần là cái có trước, có vai
trò quyết định đối với tồn tại, vật chất, giới tự nhiên, hợp thành
trường phái duy tâm (chủ nghĩa duy tâm).

2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21,
tr.403.
6
Chủ nghĩa duy vật có nhiều hình thức, song có ba hình thức
cơ bản là: chủ nghĩa duy vật thời cổ đại mang tính ngây thơ,
chất phác; chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII mang tính
máy móc, siêu hình; chủ nghĩa duy vật biện chứng - đỉnh cao
nhất của chủ nghĩa duy vật, mang tính khách quan, khoa học.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là: chủ nghĩa
duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Chủ nghĩa
duy tâm khách quan là trường phái triết học cho rằng thế giới
do thực thể đầu tiên thuộc ý thức, tinh thần khách quan tạo ra;
thế giới, do đó, chịu sự quy định của thực thể ý thức, tinh thần
đó như “ý niệm” của Platôn, hay “ý niệm tuyệt đối” của
Hêghen. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan là trường phái triết học
cho rằng thế giới tồn tại phụ thuộc vào thực thể ý thức, tinh
thần chủ quan của con người. Các đại biểu tiêu biểu cho chủ
nghĩa duy tâm chủ quan là G.Béccơli, Đ.Hium.
+ Khi giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết
học, đa số các nhà triết học đều thừa nhận khả năng nhận thức
của con người, hợp thành trường phái khả tri luận (có thể biết).
Tuy nhiên các nhà triết học thuộc trường phái này cũng có luận
điểm khác nhau khi bàn các vấn đề về mục đích của nhận thức,
con đường nhận thức chân lý, vai trò của các giai đoạn nhận
thức, v.v.. Trong lịch sử triết học, những nhà triết học trực tiếp,
hoặc gián tiếp, phủ nhận khả năng nhận thức của con người, tạo
nên trường phái bất khả tri (không thể biết). Đại biểu tiêu biểu
cho trường phái này là Cantơ và Makhơ. Các nhà triết học
thuộc phái bất khả tri cho rằng chỉ có cảm giác và biểu tượng
của con người là hiện thực và là hiện thực duy nhất. Cantơ tuy
thừa nhận thế giới tồn tại khách quan, song lại cho rằng con
người chỉ nhận thức được các hiện tượng, chứ không thể nhận
thức được bản chất của các hiện tượng trong thế giới “vật tự
nó”.
Trong lịch sử triết học, những nhà triết học thuộc hai
trường phái duy vật hoặc duy tâm thì gọi chung là nhất nguyên
luận duy vật hoặc nhất nguyên luận duy tâm, bởi họ đều xuất
phát từ một bản nguyên vật chất, hoặc một bản nguyên tinh thần
để giải thích thế giới. Có trường phái triết học lại xuất phát từ
cả hai bản nguyên trên để giải thích thế giới, rằng vật chất và ý
thức cùng song song tồn tại, không có cái nào có trước, cái nào
có sau, chúng đều có vai trò như nhau đối với quá trình hình
thành, tồn tại và phát triển của thế giới; rằng hai thực thể vật
chất và tinh thần tồn tại đồng thời, độc lập, không phụ thuộc
vào nhau và tồn tại vĩnh viễn. Đó chính là triết học nhị nguyên
luận với các đại biểu tiêu biểu như Đềcáctơ, Xpinôda, v.v. Về
bản chất, những người theo phái nhị nguyên luận là những
người chiết trung, muốn dung hoà chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. V.I.Lênin cho rằng việc khắc phục lập trường
nhị nguyên, chỉ có thể thực hiện trên cơ sở duy vật hoặc duy
tâm mà thôi.
Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, cho đến nay,
vẫn có ý nghĩa to lớn tới cuộc sống của xã hội hiện đại. Những
thành tựu của khoa học hiện đại đã khẳng định tính đúng đắn
của triết học duy vật biện chứng, tuy nhiên những hiện tượng
8
mang tính thần bí như ngoại cảm, thấu thị, trường sinh học v.v..
đang có nhu cầu, đòi hỏi các khoa học, trong đó có triết học,
tiếp tục phải giải quyết. Hiện nay, việc giải quyết vấn đề cơ bản
của triết học dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học
hiện đại có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của triết học với tư
cách là khoa học về thế giới quan, nhận thức luận và phương
pháp luận.
3. Chức năng của triết học
Triết học có nhiều chức năng khác nhau, trong đó có hai
chức năng cơ bản là chức năng thế giới quan và chức năng
phương pháp luận.
Thế giới quan là hệ thống quan điểm, quan niệm về thế
giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới ấy. Chức
năng thế giới quan của triết học thể hiện ở chỗ, trong quá trình
hình thành và phát triển của thế giới quan, triết học đóng vai trò
là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Điều đó có nghĩa là, nếu
chúng ta xuất phát từ những luận điểm, quan điểm, hay khuynh
hướng triết học đúng đắn sẽ là cơ sở lý luận quan trọng để đi
đến việc hình thành một thế giới quan đúng đắn và ngược lại.
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, nguyên tắc
xuất phát và phương thức chung để thực hiện hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người. Xét về phạm vi vận dụng của
nó, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ: phương pháp
luận ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận
chung nhất. Trong đó, triết học thực hiện chức năng phương
pháp luận chung nhất của toàn bộ nhận thức khoa học. Chức
năng phương pháp luận của triết học thể hiện ở chỗ, trên cơ sở
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, tổng kết các kết quả nghiên cứu
của các khoa học cụ thể, triết học vạch ra nguyên tắc, nguyên lý
có tính chung nhất nhằm hỗ trợ, định hướng cho các hoạt động
nhận thức và thực tiễn của mỗi người, mỗi khoa học cụ thể một
cách có hiệu quả, tránh được những sai lầm. Với việc nghiên
cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy,
triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.
Phương pháp luận duy vật biện chứng trang bị cho con người
hệ thống những nguyên tắc, công cụ nhận thức khoa học.

II. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC


TRONG LỊCH SỬ

1. Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành,


phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử
C.Mác là người đầu tiên đặt cơ sở hiện thực cho lý luận về
sự hình thành và phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử. Theo
quan điểm mácxít, những đặc điểm có tính quy luật của sự hình
thành và phát triển lịch sử tư tưởng triết học là:
- Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học, phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu phát triển của
thực tiễn xã hội. Điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của
thực tiễn, của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, xét đến
cùng, giữ vai trò quyết định đến nội dung của các luận thuyết
triết học. Trong chừng mực nhất định, nó quyết định cả hình
thức thể hiện của các luận thuyết triết học đó.

10
- Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học, phụ
thuộc vào cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ
bản - chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trong quá trình
đấu tranh giữa các học thuyết đối lập, mỗi học thuyết triết học
cũng tự đấu tranh với bản thân mình để vươn lên trình độ mới.
Mối liên hệ đấu tranh đó khiến cho triết học của một thời đại,
thể hiện qua các hệ thống triết học khác nhau, có thể vươn lên
phía trước, hay thụt lùi lại phía sau so với điều kiện vật chất của
thời đại đó.
- Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học nhân loại
phụ thuộc vào sự kế thừa và phát triển các tư tưởng triết học
trong tiến trình lịch sử. Sự giao lưu tư tưởng triết học là một
phương diện của tái tạo tư tưởng. Sự tái tạo tư tưởng ở một hệ
thống triết học là một quá trình triển khai những luận điểm ban
đầu làm điểm xuất phát cho cả hệ thống. Triết học của mỗi thời
đại, lấy những tài liệu tư tưởng nhất định làm tiền đề. Những tài
liệu tư tưởng này được các nhà triết học trước đó truyền lại và
được dùng làm điểm xuất phát. Nhưng bao giờ những luận
thuyết đó cũng được lý giải, phát triển theo tinh thần và điều
kiện lịch sử của thời đại, mà nó là đại biểu về tư tưởng. Đó là sự
phủ định biện chứng, bao hàm sự tái tạo có phê phán những
thành tựu chân chính của nền văn minh thế giới, sự duy trì tất
cả những giá trị trong các thành quả của quá khứ, nghĩa là có sự
kế thừa trên con đường phát triển của lịch sử tư tưởng triết học.
- Sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học phụ thuộc
vào sự liên hệ, ảnh hưởng, kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết
triết học trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế. Tư tưởng triết
học của nhân loại không đơn giản chỉ là tổng số những hệ thống
triết học hình thành trong từng nước riêng lẻ, dường như tách
rời nhau, độc lập với nhau. Trái lại, những học thuyết triết học
phát sinh và phát triển ở mỗi nước đều nằm trong mối quan hệ
lẫn nhau và nhất định, với những học thuyết triết học ở các
nước khác, chịu ảnh hưởng của những học thuyết ấy. Do đó,
lịch sử triết học có sự thống nhất và liên hệ lẫn nhau của những
điều kiện dân tộc và quốc tế trong sự phát triển của nó.
- Sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học còn
phụ thuộc vào mối quan hệ với các hình thái tư tưởng chính trị,
pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v. Trong nhiều
trường hợp, hệ thống tư tưởng triết học đã trở thành cơ sở lý
luận của các hệ tư tưởng khác và các hệ tư tưởng khác, trong
chừng mực nhất định, lại trở thành cái biểu hiện của triết học.
2. Khái lược sự ra đời và phát triển của triết học
phương Đông
Triết học phương Đông là hệ thống lý luận, tư tưởng, phản
ánh sâu sắc điều kiện kinh tế, xã hội của các nước thuộc châu Á
và lãnh thổ thuộc phần Đông Bắc châu Phi. Triết học phương
Đông ra đời gắn liền với nền văn minh nổi tiếng như Ai Cập,
Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc. Các quốc gia cổ đại phương
Đông hình thành trên thế giới vào khoảng thiên niên kỷ thứ 4 –
3 tr.CN, ở các lưu vực dòng sông lớn như sông Nil, sông Tigris,
sông Hằng, sông Ấn, Hoàng Hà, Trường Giang,... với điều kiện
đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi, nông nghiệp phát triển. Sự
12
phát triển mạnh mẽ của sản xuất dẫn đến sự phân hóa xã hội,
xuất hiện tư hữu, phân hóa giai cấp và nhà nước ra đời. Nhà
nước ra đời sớm nhất ở Châu Á là nhà nước chiếm hữu nô lệ ở
Ai Cập và Lưỡng Hà (thiên niên kỳ thứ 4), sau đó mới đến các
nhà nước khu vực sông Ấn, sông Hằng, sông Hoàng Hà, sông
Trường Giang (thiên niên kỷ thứ 3). Các quốc gia phương Đông
có những đặc điểm chung về kinh tế, chính trị, xã hội như sau:
+ Điều kiện tự nhiên thuận lợi, thủy lượng cao, khí hậu ấm
áp, đất đai màu mỡ, dễ canh tác, cho nên, ngay từ rất sớm, cư
dân phương Đông đã bước vào nền văn minh nông nghiệp, chủ
yếu dựa vào kinh tế nông nghiệp lúa nước. Nền kinh tế phương
Đông mang nặng tính chất tự nhiên, quy mô sản xuất nhỏ, công
cụ lao động thô sơ, năng suất lao động thấp. Đặc điểm kinh tế
nông nghiệp – nông thôn là điều kiện chủ yếu, hình thành nên
các xu hướng triết học ở phương Đông.
+ Các quốc gia phương Đông bước vào xã hội chiếm hữu
nô lệ ở giai đoạn cuối thời kỳ đồ đá mới, trình độ sản xuất còn
thấp kém, do vậy xã hội chiếm hữu nô lệ phương Đông không
phát triển mạnh mẽ và điển hình. Cho nên, trong xã hội diễn ra
sự tồn tại dai dẳng của các tổ chức công xã nông thôn, tàn tích
của xã hội thị tộc thời nguyên thủy, sự phát triển yếu ớt của chế
độ tư hữu về ruộng đất, sự bảo tồn lâu dài của chế độ gia trưởng
và các hình thức áp bức, bóc lột kiểu gia trưởng. Tầng lớp nô lệ
ở phương Đông không phải lực lượng chính làm ra của cải vật
chất, mà tuyệt đại đa số nô lệ được sử dụng để hầu hạ, phục
dịch trong các gia đình quan lại, chủ nô quyền quý.
Sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của hình thức tổ chức
xã hội đặc biệt - nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập
quyền, trong đó nhà vua nắm quyền sở hữu tối cao về ruộng đất
và cai trị nhân dân trong cả nước là đặc trưng nổi bật trong đời
sống chính trị của các quốc gia phương Đông. Nhà nước quân
chủ chuyên chế trung ương tập quyền kiểu phương Đông ra đời
là kết quả của thực tiễn, đòi hỏi huy động được sức người, sức
của để trị thủy, đắp đê phòng lụt, bảo vệ mùa màng, tiến hành
các cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi, hoặc bảo vệ lãnh thổ
của mình.
+ Bao trùm đời sống văn hóa phương Đông cổ đại là niềm
tin tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa dân gian như múa
hát, lễ, hội, v.v. Do nền kinh tế dựa vào sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu, phụ thuộc vào tự nhiên, nên ở phương Đông, từ Đông
Bắc Phi – Tây Á đến Đông Á, từ Bắc Á đến Nam Á, đều thờ
cúng các vị thần linh có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp như
Thần Mặt Trời, Thần Đất, Thần Nước, Thần Lúa, Thần Gió, v.v.
và các lễ hội nông nghiệp như lễ hội té nước, cầu mưa, đua
thuyền, lễ tịch điền,… Cùng với sự phát triển của sản xuất,
nhiều phát minh xuất hiện, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, như
lịch pháp, chữ viết, số học, kiến trúc, v.v.
Phản ánh sâu sắc các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
đương đại, tìm cách lý giải các vấn đề do thực tiễn đặt ra, triết
học phương Đông cổ đại đã hình thành và phát triển khá đa
dạng, phong phú, với nhiều trường phái triết học, xu hướng tư

14
tưởng, trong đó triết học phát triển rực rỡ, nhất là ở Ấn Độ và
Trung Quốc cổ đại.
Triết học Ấn Độ cổ đại
Tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại được hình thành từ cuối
thiên niên kỷ 2, đầu thiên niên kỷ 1 tr.CN, bắt nguồn từ thế giới
quan thần thoại, tôn giáo. Từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo,
người Ấn Độ đã sáng tạo nên triết học, dựa trên tư duy trừu
tượng, lý giải căn nguyên của vũ trụ và cố gắng vạch ra bản
chất tâm linh của đời sống xã hội. Nền triết học Ấn Độ cổ đại
hình thành và phát triển chủ yếu qua hai thời kỳ:
+ Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ hình thành những tư tưởng
triết học và tôn giáo đầu tiên, thể hiện trong kinh Vêđa, một
trong những bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ (còn gọi là thời kỳ
Vêđa). Trong thời kỳ này, trên cơ sở nguồn gốc triết lý của kinh
Vêđa, Vêđa giáo hình thành. Đây là hình thức tôn giáo cổ Ấn
Độ, thờ thiên nhiên, với các biểu tượng là các vị thần tượng
trưng cho các hiện tượng tự nhiên đa dạng, phong phú, gồm
những tín ngưỡng, phù phép, lễ nghi. Ngoài ra, tư tưởng triết
học đầu tiên của người Ấn Độ cổ đại còn được thể hiện trong
kinh Upanishad, một bộ kinh quan trọng nhất của kinh Vêđa.
Kinh Upanishad xuất hiện, đánh dấu bước chuyển quan trọng từ
thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang thế giới quan triết học.
Theo Upanishad, bản nguyên của thế giới là “tinh thần vũ trụ
tối cao” (Brahman) là thực thể duy nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất
diệt là cái mà từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về
sau khi khi chết. Linh hồn cá nhân của con người (Atman) chỉ
là cái biểu hiện là một bộ phận của “tinh thần vũ trụ tối cao”.
Cơ thể chỉ là “vỏ bọc” của linh hồn là nời trú ngụ của linh hồn,
hiện thân của “tinh thần vũ trụ tối cao”. Trong vũ trụ, từ cái vô
cùng lớn đến cái vô cùng bé đều là biểu hiện của cái tối cao,
tuyệt đối, duy nhất là Brahman.
+ Thời kỳ thứ hai là thời kỳ phát triển của triết học Ấn Độ
cổ đại trong thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Phật giáo, Bàlamôn
giáo. Đây là thời kỳ mà nền kinh tế, xã hội nô lệ Ấn Độ phát
triển cao, nhưng xã hội vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố
của tổ chức công xã nông thôn, cùng với sự thống trị của nhà
nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và sự khắc
nghiệt của chế độ phân biệt đẳng cấp. Trong thời kỳ này, cuộc
đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần, chống chủ nghĩa duy tâm, tôn
giáo lên đến đỉnh cao. Trong đó, đặc biệt là việc phủ nhận uy
thế của kinh Vêđa, chống giáo lý duy tâm, hoang đường của
đạo Bàlamôn bởi đạo Phật, đạo Jaina và các phong trào tự do tư
tưởng, đòi bình đẳng xã hội ở Đông Ấn. Vì thế, các trường phái
triết học được phân chia thành hai phái chính: phái chính thống,
thừa nhận uy thế tối cao của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn; và
trường phái triết học không chính thống, bác bỏ uy thế tối cao
của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn.
Hệ thống triết học chính thống bao gồm sáu trường phái
chính: 1) Trường phái triết học Samkhia, 2) Trường phái triết
học Nyaya, 3) Trường phái triết học Vaisesika, 4) Trường phái

16
triết học Mimansa, 5) Trường phái triết học Yoga và 6) Trường
phái triết học Vê đan ta.
Hệ thống triết học không chính thống bao gồm ba trường
phái chính: 1) Các trường phái triết học vô thần, duy vật trong
phong trào đòi tự do tư tưởng ở Đông Ấn và trường phái triết
học tiêu biểu Lokayata, 2) Phật giáo và 3) Đạo Jaina.
Triết học Trung Quốc cổ đại
Nền triết học ở Trung Quốc cổ đại xuất hiện từ khoảng thế
kỷ VII đến thế kỷ VI tr.CN, trong bối cảnh lịch sử xã hội Trung
Quốc chuyển từ chế độ công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm
hữu nô lệ. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Trung
Quốc cổ đại đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong lịch sử,
phản ánh những nấc thang phát triển khác nhau của lịch sử có
nhiều biến động ở đất nước Trung Hoa.
Thời kỳ Ân Thương và Tây Chu ở Trung Quốc kéo dài từ
khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ VIII tr.CN. Đây là thời kỳ gắn
liền với việc hình thành và phát triển của các quốc gia cổ đại
Trung Quốc. Các nhà nước cổ đại Trung Quốc thời kỳ này chủ
yếu được xây dựng dựa trên chế độ tông tộc. Mối quan hệ dựa
trên quan hệ dòng tộc và huyết thống trong cách thức tổ chức
nhà nước Trung Quốc cổ đại diễn ra khá bền chặt và ổn định.
Về mặt triết học, những tư tưởng triết học sơ khai, đầu tiên đã
xuất hiện như: tư tưởng thần thoại xuất hiện, gắn với tư tưởng
về tục lệ thờ cúng tổ tiên; tư tưởng tôn giáo xuất hiện dưới hình
thức tô tem giáo và tín ngưỡng vật linh; xuất hiện tư tưởng đề
cao, tôn sùng người cầm đầu thị tộc.
Thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc ở Trung Quốc cổ đại kéo
dài từ thế kỷ VIII đến năm 221 tr.CN. Đây là thời kỳ có nhiều
biến động về lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa của Trung Quốc
cổ đại. Vào thời kỳ này, chế độ công xã nguyên thủy ở Trung
Quốc đã kết thúc, thay vào đó là sự ra đời và phát triển của chế
độ chiếm hữu nô lệ. Về tổ chức xã hội, các mô hình nhà nước
được tổ chức theo kiểu đa nguyên, nhiều giai cấp, tầng lớp xã
hội có thể tham gia quản lý xã hội. Tuy nhiên, do không tìm
thấy mô hình xã hội phù hợp, nên hầu hết các quốc gia đều rơi
vào vòng xoáy của chiến tranh và bạo lực. Chế độ tông tộc của
nhà Chu trên danh nghĩa vẫn tồn tại, song quyền lực của chính
quyền trung ương bị vô hiệu hóa, dẫn đến các cuộc chiến tranh
nổ ra, tranh giành quyền lực, xã hội rơi vào tình cảnh hỗn loạn.
Các cuộc chiến tranh kết thúc khi nhà Tần đã thu phục được các
quốc gia còn lại, lập nên triều đại phong kiến nhà Tần vào năm
221 tr.CN. Triết học Trung Quốc cổ đại ra đời, phát triển, phản
ánh sâu sắc xã hội đương thời, với sáu trường phái triết học tiêu
biểu: Nho gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Mặc gia, Danh gia,
Pháp gia.
Có thể khái quát triết học phương Đông cổ đại nói chung,
triết học Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại nói riêng, với những
đặc điểm cơ bản sau đây:
+ Một là, triết học phương Đông nhấn mạnh mặt thống nhất
trong quan hệ giữa con người với vũ trụ. Ở phương Đông, thiên
nhiên ưu đãi, giữa con người với vũ trụ dường như không có
điều gì tách biệt. Cái cơ sở ban đầu ấy dần dần được người
18
phương Đông khái quát thành tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”,
con người là một tiểu vũ trụ. Ở Trung Quốc, “thiên nhân hợp
nhất” là tư tưởng xuyên suốt nhiều trường phái, học thuyết triết
học khác nhau. Chẳng hạn, Trang Tử (~370–298 trước CN) cho
rằng trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một; Mạnh Tử
(372 – 289 tr.CN) cho rằng vạn vật đều đầy đủ trong ta, chỉ cần
quay về với mình thì mọi sự vật đều yên ổn, không còn gì vui
thú hơn;… Ở Ấn Độ, quan niệm “thiên nhân hợp nhất” lại có
màu sắc khác. Upanishad cho rằng Brahman là tinh thần vũ trụ,
còn Atman là linh hồn con người, Atman chẳng qua là Brahman
cư trú trong thể xác con người mà thôi. Có thể nói, gắn kết con
người với vũ trụ cũng là tư tưởng nhất quán trong triết học Ấn
Độ cổ đại.
Tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” là xuất phát điểm của triết
học phương Đông là một trong những cơ sở quyết định những
đặc điểm khác của nền triết học phương Đông. Ngay từ khi mới
xuất hiện và trong suốt thời kỳ cổ, trung đại, triết học phương
Đông đều lấy con người và các vấn đề liên quan đến con người
làm đối tượng nghiên cứu, nhấn mạnh sự thống nhất giữa con
người với vũ trụ. Nghiên cứu thế giới trong triết học phương
Đông cũng chỉ để nhằm giải thích rõ vấn đề con người. Vì thế,
vấn đề về thế giới quan, bản thể luận trong triết học phương
Đông ít được chú ý, giải thích. Khuynh hướng chung của triết
học phương Đông là hướng nội, các nhà triết học thường xuất
phát từ nhân sinh quan để giải thích thế giới quan, từ đời sống
thực tiễn xã hội để giải thích các hiện tượng tự nhiên, từ con
người để giải thích các hiện tượng tự nhiên, từ con người để
giải thích trời, đạo trời, sự biến đổi của vũ trụ và thế giới bên
ngoài.
+ Hai là, tư tưởng triết học phương Đông được trình bày
xen kẽ, hoặc ẩn giấu đằng sau những vấn đề chính trị - xã hội,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. Điều này xuất phát từ chính
đối tượng nghiên cứu của triết học phương Đông. Chẳng hạn
như: triết học Trung Quốc đi sâu nghiên cứu các vấn đề chính
trị, xã hội, đạo đức và luân lý; triết học Ấn Độ đi sâu nghiên
cứu các vấn đề xã hội, tôn giáo và tâm linh. Chính vì điều đó
mà chủ thể của các học thuyết triết học phương Đông thường
là các nhà hiền triết, nhà giáo dục, nghiên cứu chính trị - xã
hội (Trung Quốc) và là nhà truyền giáo, đạo sĩ (Ấn Độ).
+ Ba là, triết học phương Đông phong phú, đa dạng, nhưng
vận động chậm chạp, ít diễn ra những bước phát triển nhảy vọt
về chất có tính chất vạch thời đại. Nho giáo, Phật giáo,
Bàlamôn giáo, Mặc gia, Âm Dương gia, ... được hình thành từ
thời cổ đại (khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ IV tr.CN), nhưng đến
tận thế kỷ XIX vẫn giữ nguyên tên gọi và hình thức biểu hiện.
Nội dung của chúng có phát triển, nhưng chỉ là sự phát triển cục
bộ, đi sâu vào từng chi tiết, từng tư tưởng, trên cơ sở cũ có cải
biến về phương diện nào đó mà thôi. Điều đó còn thể hiện ở
chỗ, những nhà tư tưởng ở những giai đoạn lịch sử sau thường
cho mình là học trò, kế tục sự nghiệp của các nhà sáng lập ra
học thuyết ở những giai đoạn trước, chứ không phủ định học
thuyết trước. Những tư tưởng mới mà họ đưa ra, chỉ để giải
20
thích sâu hơn, hoặc là bảo vệ những luận điểm của các vị tiền
bối. Vì vậy, ở các giai đoạn sau ít thấy những trường phái, học
thuyết mới xuất hiện. Đặc điểm đó phản ánh tính tiệm tiến, bảo
thủ, trì trệ của phương thức sản xuất châu Á nói chung và của
tư tưởng châu Á nói riêng.
+ Bốn là, trong các trào lưu, học thuyết của triết học
phương Đông thường có sự đan xen giữa các yếu tố duy vật và
duy tâm, biện chứng và siêu hình; cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt, quyết liệt,
không thành trận tuyến rạch ròi như trong triết học phương Tây.
Trong cuộc đấu tranh đó, chủ nghĩa duy vật chỉ là yếu tố chống
lại cả một hệ thống chủ nghĩa duy tâm. Tính đảng, tính giai cấp
trong triết học không rõ nét, không sâu sắc như ở triết học Hy
Lạp cổ đại.
+ Năm là, triết học phương Đông quan tâm tìm hiểu đời
sống tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn
cá nhân con người, để giải thoát con người; luận bàn nhiều đến
nguồn gốc, số phận, bản tính,… của con người, nhằm mang lại
cho con người một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp con
người định hướng hoạt động trong điều kiện xã hội phức tạp và
đầy biến động.
+ Sáu là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các
trường phái triết học phương Đông cổ đại không chỉ phê phán,
xung đột nhau, mà còn biết kế thừa những tư tưởng của nhau để
bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh hưởng
ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng sơ khai.
3. Khái lược sự ra đời và phát triển của triết học
phương Tây
Triết học phương Tây là hệ thống những quan điểm, tư
tưởng, lý luận, được thể hiện trong các học thuyết và các trường
phái triết học, phản ánh điều kiện kinh tế, xã hội ở các quốc gia
châu Âu, qua các giai đoạn phát triển của lịch sử. Xét theo
phương diện lịch sử, có thể phân chia lịch sử phát triển của triết
học phương Tây thành các giai đoạn: triết học Hy Lạp cổ đại,
triết học thời kỳ Trung cổ, triết học thời kỳ Phục hưng – cận đại
và triết học cổ điển Đức. Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và những
đặc điểm cơ bản của từng giai đoạn phát triển triết học phương
Tây là cơ sở để làm rõ được những thành tựu và giá trị tư tưởng
mà triết học phương Tây đóng góp cho sự phát triển của nhân
loại.
a. Triết học Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia có điều kiện tự nhiên ôn hòa
và rộng lớn, bao gồm miền Nam bán đảo Bancăng, miền ven
biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở biển Êgiê. Miền lục
địa Hy Lạp chia thành 3 khu vực: Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù
phú với những thành phố quan trọng như Aten (Athènes). Nam
bộ là bán đảo Pêlôpôngnedơ (Péloponnèse) với nhiều đồng
bằng rộng lớn, phì nhiêu, thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ
biển phía đông của bán đảo Bancăng khúc khuỷu tạo nên nhiều
vịnh, hải cảng, thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo
trên biển Êgiê là nơi trung chuyển, thuận lợi cho việc đi lại,
22
buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Còn
vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối thông thương giữa Hy Lạp và
các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như
vậy, Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ
có một nền công - thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa
tinh thần phong phú đa, dạng. Lịch sử Hy Lạp cổ đại trải qua 4
thời kỳ: thời kỳ Cờrét – Myxen (Crète – Mycens), thời kỳ
Hôme (Homère), thời kỳ thành bang, thời kỳ Maxêđôin
(Macédoine).
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn
minh cổ đại và là một trong những điểm xuất phát của lịch sử
triết học thế giới. Nền triết học này có những đặc điểm sau:
Một là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý
thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó
là công cụ lý luận để giai cấp chủ nô duy trì trật tự xã hội, củng
cố vai trò thống trị xã hội.
Hai là, trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối
lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật - duy tâm,
biện chứng - siêu hình, vô thần - hữu thần. Trong đó, điển hình
là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrít và trào lưu
duy tâm của Platông, giữa trường phái siêu hình của Pácmênít
và trường phái biện chứng của Hêraclít, v.v.
Ba là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học
tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau,
nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh
thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do trình
độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới
trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật,
mà chỉ mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể, để có cái nhìn
tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà triết học còn đồng thời là
các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng
tự nhiên, để rút ra những kết luận triết học.
Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện
chứng chất phác. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu
phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, để bảo vệ
quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý. Họ đã phát
hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng, nhưng chưa trình bày
thành một hệ thống lý luận chặt chẽ.
Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác
nhau về con người, tìm cách lí giải về vấn đề quan hệ giữa linh
hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị – xã hội. Mặc
dù còn nhiều bất đồng, song nhìn chung, các triết gia Hy Lạp
đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
b. Triết học phương Tây thời kỳ Trung cổ
Sau một thời kỳ phát triển rực rỡ, xã hội phương Tây bước
vào một giai đoạn tăm tối kéo dài khoảng một ngàn năm, từ thế
kỷ IV-XIV, mà sử sách gọi là “đêm trường Trung cổ”. So với
thời kỳ cổ đại, xã hội phương Tây thời kỳ Trung cổ đã có nhiều
biến đổi to lớn.
Về mặt kinh tế - xã hội, đây là thời kỳ tan rã của chế độ
chiếm hữu nô lệ, ra đời và quá độ phát triển chế độ phong kiến
24
phương Tây. Sự áp bức tàn bạo của giai cấp thống trị đã dẫn
đến các cuộc khởi nghĩa của những người nô lệ. Tuy nhiên, các
cuộc khởi nghĩa này đã không xóa bỏ được áp bức, bóc lột, mà
chỉ là sự thay thế hình thức áp bức, bóc lột chiếm hữu nô lệ
bằng hình thức áp bức, bóc lột phong kiến – nhà thờ, tinh vi
hơn. Những cuộc đấu tranh giai cấp bên trong và sự tấn công
bên ngoài đã làm cho đế chế La Mã nhanh chóng suy tàn rồi
sụp đổ. Mối quan hệ giữa chủ nô và nô lệ bị thay thế bằng mối
quan hệ giữa chúa đất và nông nô. Nền sản xuất xã hội chuyển
từ tính chất hàng hóa nhỏ, tiểu thủ công có sự mở cửa, quan hệ
buôn bán với bên ngoài, sang tính chất tự cung, tự cấp, sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu làm cho sự cát cứ phong kiến nhanh
chóng trở thành một hiện tượng phổ biến. Các thái ấp hình
thành khắp nơi. Mỗi thái ấp thành một lãnh địa, một vương
quốc riêng của một lãnh chúa phong kiến. Người nông dân
không chỉ bị lệ thuộc vào các lãnh chúa phong kiến, địa chủ về
mặt ruộng đất mà còn cả về mặt thân thể cá nhân; trên thực tế,
họ không có quyền lợi gì về mặt chính trị.
Về mặt tinh thần, thời kỳ Trung cổ ở phương Tây là thời kỳ
thống trị của nhà thờ Thiên chúa giáo. Nhà thờ là một thế lực
hùng mạnh không chỉ về kinh tế, mà cả về chính trị, tinh thần.
Sự cát cứ phong kiến làm nảy sinh nhu cầu phải có một sự
thống nhất trong hoạt động. Thiên chúa giáo là công cụ tinh
thần thiêng liêng, giúp thực hiện sự thống nhất đó. Hơn nữa,
Thiên Chúa giáo còn mang lại niềm tin duy nhất cho đông đảo
nông dân bị tước hết mọi quyền lợi và đặc biệt tối tăm về trí
tuệ. Thiên chúa giáo đã thực sự trở thành tôn giáo cần thiết cho
xã hội phương Tây trong thời kỳ Trung cổ.
Dù chế độ phong kiến Trung cổ là một bước tiến so với chế
độ chiếm hữu nô lệ cổ đại, nhưng triết học của thời kỳ này lại là
một bước thụt lùi so với triết học thời kỳ cổ đại. Nền triết học
thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu, có những đặc điểm cơ bản, nổi bật
như sau:
Một là, triết học phương Tây thời kỳ Trung cổ là hệ thống
triết học - thần học. Trong điều kiện tôn giáo thống trị toàn bộ
đời sống tinh thần của xã hội, thì khoa học và triết học không
thể không bị phụ thuộc vào thần học. Lúc này, tín điều của Nhà
thờ trở thành cơ sở cho mọi hành vi và hoạt động của con
người; thế giới quan thần học bao trùm lên đời sống tinh thần
của xã hội. Triết học trở thành công cụ để chứng minh cho giáo
lý của Nhà thờ, nó “luận chứng” cho đức tin tôn giáo cao hơn lý
trí; nó giúp khẳng định vai trò sáng thế và kiến tạo trật tự xã hội
của Thượng đế. Mặt khác, nó còn là công cụ tuyên truyền cho
trật tự phong kiến làm cho quần chúng tin rằng sự bất bình đẳng
và sự bóc lột trong xã hội là do sự định đoạt của Đấng bề trên.
Hai là, triết học phương Tây thời kỳ Trung cổ mang tính
kinh viện, xa rời đời sống hiện thực. Triết học không gắn với
thực tiễn xã hội, mà trở thành triết học Nhà thờ. Vấn đề quan hệ
giữa cái chung và cái riêng, tức giữa khái niệm và sự vật riêng
lẻ với những phẩm chất cá biệt là vấn đề sôi động của triết học
kinh viện. Khi giải quyết vấn đề này, triết học kinh viện đã phân
hóa thành chủ nghĩa duy thực (thuyết cho rằng chỉ có cái chung
26
mới thật sự tồn tại) và chủ nghĩa duy danh (thuyết cho rằng chỉ
có cái riêng mới thật sự tồn tại). Cuộc đấu tranh giữa hai thuyết
này đã để lại một dấu ấn rất sâu sắc trong lịch sử tư tưởng
phương Tây và kéo dài sang tận thời kỳ cận đại về sau.
c. Triết học phương Tây thời Phục hưng - Cận đại
Vào thế kỷ XV – XVI, ở Tây Âu, phong trào Văn hóa Phục
hưng, chủ trương khôi phục và phát triển những giá trị văn hóa
thời cổ đại bị quên lãng, đã hình thành từ Ý và lan sang các
nước Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Đức, v.v.
Ở Ý vào thời kỳ này, nhiều sáng chế kỹ thuật có giá trị như
máy kéo sợi, máy dệt, các loại động cơ đơn giản hoạt động nhờ
vào sức gió, sức nước, v.v. đã xuất hiện. Sự phát triển của kỹ
thuật làm cho các công trường thủ công nâng cao năng suất lao
động và làm biến đổi đời sống xã hội lúc bấy giờ. Nhiều nước
cộng hòa - thành thị, nhanh chóng trở thành trung tâm công -
thương nghiệp nổi tiếng của châu Âu. Nhiều nhà quý tộc mới,
giàu có và thích phô trương đã cho xây dựng nhiều lâu đài tráng
lệ và trang sức bằng các tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Tình
hình này có tác dụng khuyến khích giới văn nghệ sĩ Ý, trước hết
là họa sĩ và nhà điêu khắc phát huy truyền thống văn minh La
Mã cổ đại, đẩy mạnh sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của mình.
Sau Ý, chủ nghĩa tư bản được hình thành ở Anh và các
nước Tây Âu khác, đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
phong trào văn hóa Phục hưng lan tỏa. Đặc biệt, việc tìm ra các
tuyến đường biển, dẫn đến việc phát hiện ra các vùng đất mới;
sự ra đời và phát triển của nhiều ngành khoa học tự nhiên,
những cải tiến kỹ thuật trong giao thông hàng hải và sản xuất,
đã tạo điều kiện cho công - thương nghiệp tư bản chủ nghĩa ra
đời và phát triển vững chắc. Điều này đã dẫn đến sự hình thành
thị trường chung rộng lớn, liên kết giữa các quốc gia hoặc giữa
các châu lục với nhau.
Cùng với sự ra đời và phát triển của nền công - thương
nghiệp tư bản chủ nghĩa là sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ
rệt trong các cộng đồng dân cư. Giai cấp tư sản được hình thành
từ đội ngũ các chủ công trường thủ công, các chủ thầu, những
người cho vay nặng lãi, ... có vai trò ngày càng lớn trong đời
sống kinh tế - xã hội. Giai cấp vô sản ra đời, quy tụ những
người nông dân mất ruộng đất, những người nghèo khổ từ nông
thôn di cư ra thành thị kiếm sống trong các công trường, xưởng
thợ.
Sự biến đổi về điều kiện kinh tế – xã hội, đã góp phần đẩy
mạnh sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên. Toán học,
cơ học, địa lý, thiên văn, ... đã đạt được những thành tựu đáng
kể và đã bắt đầu tách ra khỏi triết học tự nhiên. Triết học đã
thay đổi đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Cùng với sự xuất
hiện của triết học mới, khoa học tự nhiên thật sự ra đời, phát
triển mạnh mẽ và nhanh chóng trở thành công cụ tinh thần, giúp
giai cấp tư sản non trẻ đấu tranh chống lại những lực lượng
chính trị – xã hội cũ ngăn cản bước đường phát triển tiến lên
của xã hội.
Nếu tới thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV–XVI), phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra đời, thì sang thời cận đại (thế
28
kỷ XVII–XVIII) phương thức sản xuất tư bản đã phát triển
mạnh mẽ, dẫn đến sự xuất hiện nhiều mâu thuẫn trong các lĩnh
vực đời sống xã hội. Sự phân hóa, xung đột trong lĩnh vực kinh
tế kéo theo sự phân hóa, xung đột trong lĩnh vực xã hội, đã làm
nảy sinh những xung đột và mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị,
tinh thần. Những xung đột, mâu thuẫn gay gắt đó đã làm bùng
nổ các cuộc cách mạng tư sản trên khắp các nước Tây Âu như ở
Hà Lan (1560–1570), ở Anh (1642-1648),… đặc biệt là ở Pháp
(1789–1794) – một cuộc cách mạng tư sản khá toàn diện và rất
triệt để, đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến, xác lập chế độ
cộng hòa tư sản.
Các cuộc cách mạng tư sản đã đưa giai cấp tư sản bước lên
vũ đài quyền lực chính trị, tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự
thống trị của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Để
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thống trị một cách vững
chắc, nền chính trị tư sản không thể không cần đến sự phát triển
của khoa học mới – khoa học giúp khám phá và làm chủ giới tự
nhiên. Các ngành khoa học tự nhiên có đối tượng và phương
pháp nghiên cứu riêng từng bước ra đời, phát triển và tồn tại
tương đối độc lập nhau, trong đó, cơ học là ngành khoa học
phát triển nhất, còn thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu tự
nhiên phổ biến. Vì vậy, quan điểm cơ học và phương pháp
nghiên cứu thực nghiệm đã thấm vào hầu hết các hoạt động
thực tiễn và tư tưởng của con người lúc bấy giờ.
Trong điều kiện thay đổi sâu sắc đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội và gắn liền với những thành tựu khoa học - kỹ thuật là sự
hình thành và phát triển một nền triết học mới, triết học Tây Âu
thời Phục hưng - cận đại. Mặc dù, nền triết học này được chia
thành hai giai đoạn: triết học Tây Âu thời Phục hưng (thế kỷ
XV–XVI) và triết học Tây Âu thời cận đại (thế kỷ XVII–đầu
XIX), ứng với hai giai đoạn hình thành và khẳng định của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng chúng thống
nhất với nhau. Triết học Tây Âu thời cận đại tiếp nối triết học
Tây Âu thời phục hưng, phản ánh sự thay đổi lớn trong đời
sống kinh tế – chính trị – tư tưởng của xã hội Tây Âu. Triết học
Tây Âu thời cận đại được chia ra thành hai thời kỳ: đầu thời cận
đại, tức thế kỷ XVII đến đầu XVIII và cuối thời cận đại, tức
cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Dù tồn tại trong sự phát
triển đan xen giữa các tư tưởng, trường phái triết học khác
nhau, nhưng nhìn chung, triết học thời kỳ này có những đặc
trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, trên bình diện thế giới quan, triết học thời phục
hưng - cận đại thể hiện rõ thế giới quan duy vật máy móc, bên
cạnh quan điểm tự nhiên thần luận của giai cấp tư sản, giai cấp
đang vươn lên giữa vai trò lãnh đạo xã hội. Sự xung đột giữa
chủ nghĩa duy vật và khoa học, với chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo, diễn ra rất quyết liệt. Chủ nghĩa duy vật đã trở thành thế
giới quan của giai cấp tư sản tiến bộ và cách mạng; còn khoa
học đã trở thành sức mạnh của họ trong cuộc đấu tranh chống
lại giai cấp phong kiến và Nhà thờ, nhằm xác lập một trật tự xã
hội mới. Các quan điểm duy vật đã tìm được cơ sở khoa học cụ
thể cho lý luận của mình. Còn quan niệm khoa học, mà trước

30
hết là cơ học, đã được mở rộng thành chủ nghĩa cơ giới (máy
móc). Mặc dù các thành tựu khoa học tự nhiên, đặc biệt là cơ
học, được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn cuộc sống và trong
nhận thức; nhưng niềm tin tôn giáo vẫn chưa bị đẩy lùi. Những
giá trị của Thượng đế được thừa nhận trước đây, bây giờ được
coi là những giá trị của giới tự nhiên. Giới tự nhiên được gán
ghép cho những tính siêu nhiên - thần thánh. Do đó, màu sắc tự
nhiên thần luận là một nét đặc sắc của chủ nghĩa duy vật máy
móc thời kỳ này.
Thứ hai, trên bình diện nhận thức – phương pháp luận, triết
học thời kỳ Phục hưng - Cận đại chủ yếu đi tìm phương pháp
nhận thức mới, nhằm khắc phục triệt để phương pháp kinh viện,
giáo điều, xây dựng hệ thống triết học và một khoa học mới có
liên hệ mật thiết với nhau, hướng đến xây dựng tri thức. Tuy
nhiên, sự đối lập giữa cảm tính và lý tính rất gay gắt, kéo theo
sự đối lập giữa phương pháp quy nạp và phương pháp diễn
dịch, giữa tư duy tổng hợp và tư duy phân tích, đã làm xuất hiện
sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm - duy giác, với chủ nghĩa
duy lý - tư biện. Sự đối lập này đã làm xuất hiện hai phương
pháp tư duy siêu hình trong nhận thức khoa học: thứ nhất,
phương pháp kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học tự nhiên
thực nghiệm; và thứ hai, phương pháp tư duy tư biện trong
nghiên cứu khoa học tự nhiên lý thuyết. Do khoa học thực
nghiệm chiếm ưu thế, nên phương pháp siêu hình kinh nghiệm
được đề cao. Và do cơ học giữ vai trò hàng đầu trong các ngành
khoa học tự nhiên, nên chủ nghĩa cơ giới (máy móc) xuất hiện
và xâm nhập trở lại các ngành khoa học đó. Vì vậy, trào lưu
triết học thống trị trong giai đoạn này là chủ nghĩa duy vật siêu
hình – máy móc. Tuy nhiên, sau đó chủ nghĩa duy vật siêu hình
– máy móc lại bộc lộ những nhược điểm yếu kém của mình
trong quá trình phát triển tư duy lý luận, vì vậy, phép biện
chứng duy tâm đã ra đời để thay thế.
Thứ ba, trên bình diện nhân sinh quan - ý thức hệ, nền triết
học thời kỳ Phục hưng - Cận đại, đã thể hiện rõ tinh thần khai
sáng và chủ nghĩa nhân đạo tư sản. Triết học trở thành ngọn cờ
lý luận của giai cấp tư sản để tập hợp, giác ngộ, hướng dẫn
quần chúng thực hiện những hành động cách mạng, nhằm cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới – chủ nghĩa tư bản. Khát
vọng giải phóng con người thoát khỏi sự thống trị của chế độ
phong kiến – giáo hội Nhà thờ, khỏi sự chi phối của các lực
lượng siêu tự nhiên, nhằm hướng đến cuộc sống tự do, hạnh
phúc, công bằng, bác ái cho con người trên trần gian được đặt
ra. Khát vọng đó có sức cuốn hút mạnh mẽ thúc đẩy quần
chúng đến hành động cách mạng cụ thể, để giải phóng giai cấp
và giải phóng xã hội.
Lịch sử triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng – cận đại là
một cuộc đấu tranh của các trào lưu, khuynh hướng, trường
phái triết học khác nhau trong bối cảnh phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa ra đời và tự khẳng định mình, trong sự hiện thực
hóa vai trò thống trị của giai cấp tư sản. Thế giới quan duy vật
máy móc, nhân sinh quan nhân đạo tư sản và phương pháp luận

32
siêu hình thể hiện rất rõ trong các trường phái, trào lưu, khuynh
hướng triết học xung đột nhau trong thời kỳ này.
Vào cuối thời kỳ cận đại, khi tiếp tục phát triển nhân sinh
quan nhân đạo tư sản, khắc phục thế giới quan duy vật máy
móc và phương pháp luận siêu hình của các trường phái triết
học đầu thời kỳ cận đại, đã xuất hiện Triết học cổ điển Đức -
giai đoạn bản lề của triết học Phương Tây, nối thời kỳ cận đại
với thời kỳ hiện đại.
d. Triết học cổ điển Đức
Cuối thế kỷ XVIII, mặc dù chủ nghĩa tư bản đã được thiết
lập ở nhiều nước châu Âu như Anh, Pháp, Ý,… nhưng ở nước
Đức, vẫn đang còn duy trì chế độ phong kiến lạc hậu và phân
quyền, với nhà nước Vương quốc Phổ mạnh mẽ. Nước Phổ vẫn
tăng cường quyền lực để duy trì chế độ quân chủ phong kiến,
cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản Đức ít về số lượng, lại bị phân tán, suy yếu về
kinh tế, bạc nhược về chính trị, nhưng lại có đời sống tư tưởng
tinh thần rất phong phú. Giai cấp tư sản Đức muốn làm một
cuộc cách mạng, thay đổi kinh tế - xã hội, nhưng lực bất tòng
tâm. Còn quần chúng nhân dân Đức đang chịu sự áp bức nặng
nề, muốn thực hiện hành động cách mạng, nhưng lại không có
lực lượng lãnh đạo.
Mặt khác, trong thời kỳ này các nước phương Tây đã đạt
được nhiều thành tựu rực rỡ về khoa học, đặc biệt là khoa học
tự nhiên. Các thành tựu khoa học – kỹ thuật mới, đã tạo tiền đề
cho sự xem xét thế giới một cách biện chứng. Mặt khác, những
thành tựu về văn hóa và nghệ thuật, cũng như giá trị tinh thần
của cuộc cách mạng tư sản Pháp đã có sự ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tình cảm và sức sáng tạo của tầng lớp trí thức Đức. Bằng
các công trình khoa học, tầng lớp trí thức Đức đã thể hiện tinh
thần chống lại sự trì trệ và bất công của xã hội Đức thời đó.
Nhưng, cũng như giai cấp tư sản Đức, tầng lớp trí thức Đức
cũng không đủ sức làm cách mạng trong hiện thực, vì vậy, họ
đã làm cách mạng trong tư tưởng.
Triết học cổ điển Đức đã đóng góp vào lịch sử tư tưởng
nhân loại nhiều lý luận có giá trị, mà trước hết là phép biện
chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc.
Triết học cổ điển Đức đã tiếp tục phát huy truyền thống duy
lý của Phương Tây, khôi phục lại quan niệm coi triết học là
khoa học của mọi khoa học. Các nhà triết học ra sức xây dựng
các hệ thống triết học vạn năng, bao trùm mọi lĩnh vực hoạt
động của con người, để làm cơ sở cho mục tiêu, quan niệm đó.
Đối với Hêghen, triết học thật sự phải là lôgích học, còn đối với
Phoiơbắc, đó là nhân bản học.
Tuy nhiên, do cố gắng khắc phục những hạn chế siêu hình
và máy móc của nền triết học duy vật thế kỷ XVII-XVIII, triết
học cổ điển Đức lại lúng túng và rơi vào chủ nghĩa duy tâm,
thần bí. Họ cho rằng tính biện chứng sống động chỉ là bản tính
của cái tinh thần, còn bản thân giới tự nhiên thì phi biện chứng.
Tuy nhiên, họ vẫn biết tiếp thu những tư tưởng biện chứng quý
báu trong di sản triết học truyền thống của nhân loại, phát triển
34
thêm và xây dựng được phép biện chứng như một học thuyết
triết học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Triết học
cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của con người với tính cách
là chủ thể của mọi hoạt động cải tạo thế giới – khách thể; và
khảo sát khách thể gắn liền với hoạt động thực tiễn của chủ thể
- con người. Song, do quan điểm duy tâm chi phối nên nhiều
nhà triết học cổ điển Đức lại hiểu, thực tiễn chỉ là hoạt động
sáng tạo của ý thức, đồng thời tuyệt đối hóa ý thức, biến ý thức
thành một lực lượng siêu tự nhiên, có năng lực sáng tạo kỳ vĩ,
vì vậy, triết học của họ mang tính duy tâm - thần bí.
Triết học cổ điển Đức là cơ sở thế giới quan là nền tảng ý
thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, vốn yếu kém về kinh tế, chính trị, nhưng có đời sống văn
hóa tinh thần khá phong phú, trong một xã hội mà tàn dư của hệ
tư tưởng phong kiến còn quá nặng nề, bảo thủ.
4. Khái lược về sự ra đời và phát triển của tư tưởng
triết học Việt Nam thời kỳ phong kiến
Tư tưởng triết học Việt Nam, trong quá trình hình thành,
phát triển, đã phản ánh sâu sắc những điều kiện, đặc điểm về
kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước. Mặc dù ở những thời
kỳ lịch sử khác nhau, bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước có
những biểu hiện khác nhau nhưng nhìn chung, có thể khái quát
những đặc điểm cơ bản của lịch sử dân tộc trên ba vấn đề lớn:
Một là, dân tộc Việt Nam có sự hình thành quốc gia dân tộc
khá sớm. Vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 tr.CN, lịch sử
dân tộc Việt Nam bước vào thời đại Hùng Vương với nhiều
chuyển biến sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa. Đó là sự phát
triển mạnh mẽ của nghề trồng lúa nước, nghề chăn nuôi, nghề
gốm, nghề chế tác đá và nghề luyện kim loại đồng thau, với dấu
ấn của nền văn minh qua các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng
Đậu, Gò Mun, Đông Sơn,… Sự phát triển của kinh tế nông
nghiệp trồng lúa nước đòi hỏi người dân phải chung sức, chung
lòng cùng tham gia công tác thủy lợi đào kênh mương tưới tiêu,
mở mang diện tích canh tác và cùng nhau chống chọi với sức
mạnh của tự nhiên để bảo vệ mùa màng, tài sản. Từ đó, ý thức
có chung một cội nguồn, ý thức cộng đồng, ý thức chủ quyền
quốc gia hình thành rất sớm. Sự ra đời của quốc gia và nhà
nước Văn Lang – Âu Lạc là kết quả của quá trình chuyển biến
về kinh tế, xã hội của thời Hùng Vương, đánh dấu một bước
chuyển cơ bản trong lịch sử xã hội Việt Nam, mở ra một thời
đại mới – thời đại dựng nước.
Hai là, trong suốt tiến trình lịch sử, dân tộc Việt Nam vừa
dựng nước, vừa phải liên tục đấu tranh chống lại các thế lực
ngoại xâm hùng mạnh nhất trên thế giới. Từ thế kỷ III tr.CN,
dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lược đầu tiên của phong kiến
phương Bắc, do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 tr.CN đến năm
905, nước ta tiếp tục chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc.
Đây là thời kỳ lịch sử đầy máu và nước mắt, nhưng cũng là thời
kỳ biểu hiện tinh thần quật cường, ý chí độc lập tự chủ của dân
tộc Việt Nam. Trong thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân ta đã liên tục
vùng dậy đấu tranh vũ trang để giành lại độc lập tự chủ, với các
cuộc khởi nghĩa vang dội như cuộc khởi nghĩa của Hai Bà

36
Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng v.v. và
kết thúc hơn một nghìn năm Bắc thuộc bằng cuộc khởi nghĩa
của Khúc Thừa Dụ năm 905. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt
các chiến thắng vang dội khác, như cuộc kháng chiến của Ngô
Quyền năm 938 với chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt, Lê Hoàn
đánh tan quân Tống năm 981, nhà Trần ba lần đánh bại quân
Nguyên – Mông, Lê Lợi đánh bại quân Minh, Nguyễn Huệ
đánh bại quân Thanh,… Rồi đến những thắng lợi vang dội của
các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trong thời kỳ lịch
sử hiện đại. Trong những cuộc chiến tranh vệ quốc tàn khốc đó,
nếu không có tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc,
thì một dân tộc nhỏ yếu như Việt Nam không thể làm nên
những chiến thắng vang dội, đánh thắng được những kẻ thù
mạnh nhất thế giới. Lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt Nam
đã được thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt
lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của mình,
đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước,
giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
Ba là, nước ta nằm ở vị trí địa lý thuận lợi của vùng Đông
Nam Á là trung tâm các đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng
từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Chính vì vậy, Việt Nam
có thuận lợi trong việc giao lưu về kinh tế, văn hóa với các
nước. Trong quá trình phát triển nói chung, văn hóa dân tộc đã
tiếp biến với các nền văn hóa khác nhau, như văn hóa Trung
Quốc, Nhật Bản, phương Tây v.v... Do vậy, tư tưởng triết học
Việt Nam, trong lịch sử đã tiếp thu, kế thừa và phát triển các
dòng tư tưởng khác nhau của cả phương Đông và phương Tây,
mà đặc biệt là tư tưởng của Nho, Lão và Phật giáo.
Phản ánh những đặc điểm cơ bản của lịch sử phát triển dân
tộc, tư tưởng triết học Việt Nam tập trung phát triển các nội
dung cơ bản sau đây:
Tư tưởng về đạo làm người: các nhà tư tưởng trong lịch sử
Việt Nam đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo làm người. Con
người cá nhân tồn tại ràng buộc trong các mối quan hệ với cộng
đồng xã hội, gắn với những bước thăng trầm của vận mệnh dân
tộc. Do vậy, những nguyên tắc, những chuẩn mực của đạo làm
người được hình thành làm cơ sở để đối nhân xử thế, để xác
định phương thức hành động cho con người và như vậy nó phản
ánh được yêu cầu của lịch sử là tất yếu. Trong thời kỳ Bắc
thuộc, quan điểm nhân sinh, quan điểm về đạo làm người, thể
hiện trước hết ở sự tôn kính và biết ơn cha mẹ, tổ tiên; sự tôn
kính và tuân theo thủ lĩnh. Cùng với quá trình giao lưu về mặt
văn hóa với các dân tộc khác, quan niệm về đạo làm người của
các nhà tư tưởng Việt Nam chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi các tư
tưởng của: Nho, Phật và Lão – Trang, trong đó Nho giáo có ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất. Các nhà tư tưởng, nhà yêu nước Việt
Nam đã khai thác Nho giáo để diễn đạt các nội dung yêu nước,
yêu dân, tin ở năng lực con người, trách nhiệm của con người
trước vận mệnh dân tộc. Các nhà tư tưởng yêu nước thời Lý –
Trần, nhấn mạnh khái niệm trung nghĩa, coi trung nghĩa là một
yêu cầu quan trọng trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm. Trần Quốc Tuấn đã lấy những tấm gương trung nghĩa của
38
lịch sử để giáo dục tướng sĩ. Với Nguyễn Trãi, thái độ của
người yêu nước, trước hết là phải cứu nước, cứu dân: “Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương con
người phải sống theo những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo,
phải thực hiện “cương thường”. Các quan niệm về con người
luôn được gắn với những nội dung cụ thể, như vấn đề vị trí, vai
trò của con người với tư cách là động lực của cuộc đấu tranh
giữ nước; đạo đức của con người gắn liền với đường lối và
phương châm trị nước; những vấn đề đạo lý của con người gắn
liền với ý thức trách nhiệm của con người trước vận mệnh của
đất nước,… Các quan điểm về con người luôn có sự gắn bó,
không tách rời các quan điểm về dân tộc và quốc gia có chủ
quyền, các vấn đề phương pháp luận của công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng
chung về con người đã có sự phát triển thành một hệ thống và
có bản sắc riêng, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc dựng
nước và giữ nước trong suốt quá trình lịch sử lâu dài của dân
tộc – quốc gia.
Tư tưởng về lòng thương người, sự khoan dung độ lượng
với những kẻ lầm đường lạc lối được các nhà tư tưởng đề cao
trong quan điểm về đạo làm người. Lối sống tương thân tương
ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì đồng cam
cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập; lối
ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa,
khoan dung cũng được thể hiện rõ nét qua ca dao, tục ngữ
chẳng hạn như: “Bầu ơi thương lấy bí cùng – tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn”; “Nhiễu điều phủ lấy giá gương –
người trong một nước thì thương nhau cùng”; “Lá lành đùm lá
rách”; “Uống nước nhớ nguồn”; v.v. Như vậy, do những đặc
điểm về kinh tế, chính trị, xã hội trong lịch sử Việt Nam, nên
các nhà tư tưởng Việt Nam ít quan tâm đến những vấn đề “bản
chất con người”, “mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác”, v.v.
mà rất chú trọng đến những quan niệm về chuẩn mực đạo đức
và đạo làm người, giáo dục con người, cách đối nhân xử thế,
vai trò, vị trí của con người đối với cộng đồng, đất nước, v.v.
Chính những tư tưởng đó đã phản ánh sâu sắc cuộc sống lao
động gian khổ của nhân dân, sự gắn bó giữa con người với
thiên nhiên, giữa con người với nhau trong mối quan hệ gia
đình, láng giềng, dòng họ của người Việt, cũng như trong cộng
đồng nhà - làng - nước - dân tộc và đặc biệt là phản ánh cuộc
kháng chiến trường kỳ vô cùng gian khổ của nhân dân chống lại
các thế lực ngoại xâm.
Tư tưởng về vị trí và vai trò của con người trong xã hội:
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, vấn đề về vị trí, vai trò của con
người các nhà tư tưởng rất được chú ý, chủ yếu là nhấn mạnh
đến vị trí và vai trò của nhân dân trong đời sống lịch sử - xã hội.
Các nhà tư tưởng đánh giá cao vai trò của nhân dân trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước, xác định rõ nhân dân giữ vai trò
là lực lượng quyết định sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, do vậy việc
quan tâm đến đời sống và nguyện vọng của nhân dân được xem
là nhiệm vụ hàng đầu của đạo trị nước. Trần Quốc Tuấn chủ
trương dựa vào dân để đánh giặc và thắng giặc. Ông quan niệm

40
rằng an dân, thương dân chính là điều kiện tất yếu để ổn định xã
hội, để đánh thắng giặc ngoại xâm. Có thể thấy rằng việc nhận
thức, đánh giá cao vai trò của nhân dân không chỉ là yêu cầu
của cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà còn là sự khái quát,
tổng kết những kinh nghiệm của lịch sử trong dòng chảy của
chủ nghĩa yêu nước, kết tinh của quan niệm sống, lối sống trong
truyền thống dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng về ý thức chủ quyền dân tộc, lòng tự hào dân tộc:
ý thức về cộng đồng người Việt và chủ quyền đất nước được
hình thành và phát triển từ rất sớm trong lịch sử. Ban đầu,
những tư tưởng này còn biểu hiện đơn giản, chất phác. Nhưng
dưới sự thống trị của ngoại bang, ý thức về cội nguồn, về cộng
đồng dân tộc, chủ quyền quốc gia đã mang nhiều yếu tố lý tính
và đã hình thành hệ thống các quan niệm. Câu chuyện Âu Cơ
lấy Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm
người con, năm mươi người con theo cha xuống biển, năm
mươi người con theo mẹ lên núi,… là ý thức về cộng đồng
được sự tích hóa. Nhận thức của nhân dân về độc lập, chủ
quyền và lãnh thổ của nhân dân được thể hiện qua bài thơ “Nam
quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt; “Hịch tướng sĩ” của Trần
Quốc Tuấn; tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi;…
là những biểu hiện điển hình.
Xuyên suốt lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tư tưởng
yêu nước là nội dung nổi bật. Tư tưởng yêu nước hình thành và
phát triển, gắn liền với cuộc đấu tranh của cộng đồng dân tộc
Việt Nam chống lại sự bành trướng xâm lược của phong kiến
phương Bắc và các thế lực ngoại xâm khác. Tư tưởng yêu nước
trước hết thể hiện ở ý thức về dân tộc, về dân tộc độc lập và
lòng tự hào dân tộc. Trên cơ sở đó, các nhà tư tưởng Việt Nam
luôn cố gắng để tìm con đường, giải pháp, động lực để cứu
nước, cứu dân nhằm bảo vệ chủ quyền lâu dài và độc lập dân
tộc.

III. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG


ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Khái quát sự hình thành và phát triển của triết học


Mác – Lênin
Triết học Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành
của chủ nghĩa Mác - Lênin, được Các Mác, Ăngghen sáng lập
vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin kế thừa,
bổ sung và phát triển. Triết học Mác - Lênin hình thành và phát
triển gắn chặt với những thành tựu của khoa học, lý luận và
thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân thế giới. Sự ra
đời của triết học Mác - Lênin là một cuộc cách mạng thực sự
trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung và trong lịch sử triết
học nói riêng. Triết học Mác – Lênin là hệ thống lý luận chặt
chẽ, có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Triết học Mác, về bản chất là hệ thống triết học duy vật,
khoa học. Những nhà sáng lập triết học Mác, kế thừa có phê
phán chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII. Những thiếu sót chủ yếu
nhất của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII là máy móc, siêu hình

42
và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. Các ông đã khắc
phục những thiếu sót ấy, đưa triết học duy vật phát triển trên cơ
sở tiếp thu một cách có phê phán, chọn lọc những thành quả của
triết học cổ điển Đức, đặc biệt là quan niệm duy vật về tự nhiên
của Phoiơbắc và là phép biện chứng trong hệ thống triết học
của Hêghen. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép
biện chứng duy tâm, vì vậy, các nhà sáng lập triết học Mác đã
cải biến, đưa nó về lập trường của thế giới quan duy vật. Chính
trong quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen và
tiếp tục phát triển thành tựu của chủ nghĩa duy vật cũ, trên cơ
sở khái quát hoá những thành tựu của khoa học tự nhiên và thực
tiễn, cho đến giữa thế kỉ XIX, Mác và Ăngghen đã sang tạo nên
hệ thống triết học duy vật biện chứng mới. Sau này vào nửa đầu
thế kỷ XX, được Lênin phát triển thêm và trở thành hệ thống
triết học Mác - Lênin. Về bản chất, triết học Mác - Lênin là triết
học duy vật biện chứng triệt để. Trong triết học Mác - Lênin,
các quan điểm duy vật về tự nhiên và xã hội, các nguyên lí của
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, gắn kết chặt chẽ với
nhau thành một hệ thống lí luận thống nhất, mang thuộc tính
khoa học.
Kết quả của sự vận dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng và phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu đời sống xã
hội và lịch sử nhân loại, Mác – Ăngghen đã sáng lập ra chủ
nghĩa duy vật lịch sử, một đóng góp mới vào kho tàng khoa học
lý luận của nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không nghiên cứu những mặt
riêng biệt của đời sống xã hội, mà nghiên cứu toàn bộ xã hội
với tất cả các mặt, các quan hệ xã hội, các quá trình có liên hệ
nội tại và tác động lẫn nhau của xã hội. Khác với những khoa
học xã hội cụ thể, chủ nghĩa duy vật lịch sử không nghiên cứu
những quy luật cục bộ, riêng biệt, chi phối sự phát triển của các
quá trình về kinh tế, chính trị hay tư tưởng, mà nghiên cứu
những quy luật chung nhất, phổ biến nhất, của sự phát triển xã
hội loài người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu xã hội với tư cách là
một chỉnh thể thống nhất, để vạch ra những nét chung của sự
phát triển xã hội; những động lực, những nguyên nhân cơ bản
của sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế - xã hội này, sang
một hình thái kinh tế - xã hội khác; mối liên hệ qua lại và sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa những hiện tượng khác nhau của đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, tư tưởng v.v… Chủ nghĩa duy
vật lịch sử vạch ra những quy luật chung nhất của sự vận động
và phát triển xã hội, chỉ ra vị trí và vai trò của các lĩnh vực
trong đời sống xã hội, trong hệ thống xã hội nói chung, vạch ra
những nét cơ bản của các giai đoạn phát triển của xã hội loài
người. Đánh giá ý nghĩa khoa học to lớn của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, Lênin viết: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là
thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa
học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ, đã thay cho sự lộn xộn và
tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về
lịch sử và chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy rằng do chỗ lực

44
lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã
hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ
chức xã hội khác, cao hơn”3. Và, “việc phát hiện ra quan niệm
duy vật lịch sử, hay nói cho đúng hơn, việc vận dụng, áp dụng
triệt để chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực những hiện tượng
xã hội, đã loại bỏ được hai khuyết điểm căn bản của những lý
luận lịch sử trước kia. Một là, những lý luận này cùng lắm thì
cũng chỉ xem xét những động cơ tư tưởng của hoạt động lịch sử
của con người, mà không nghiên cứu căn nguyên của những
hiện tượng đó, không phát hiện ra tính quy luật khách quan
trong sự phát triển của hệ thống quan hệ xã hội và không thấy
rằng trình độ phát triển của sản xuất vật chất là nguồn gốc của
những quan hệ ấy. Hai là, những lý luận trước kia đã không nói
đến chính ngay hoạt động của quần chúng nhân dân, còn chủ
nghĩa duy vật lịch sử, thì lần đầu tiên, đã giúp ta nghiên cứu
một cách chính xác như khoa học tự nhiên, những điều kiện xã
hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều
kiện ấy”4.
Đối tượng của triết học Mác – Lênin là tập trung nghiên
cứu những quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy; và
về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Trong lịch sử
triết học trước Mác, triết học được xem là khoa học của mọi
khoa học. Triết học Mác – Lênin xuất hiện đã làm thay đổi đổi
tượng nghiên cứu của triết học, chấm dứt thời kỳ triết học là

3
V.I.Lênin: Toàn tập. Nxb. Tiến bộ, Mátxơva, 1980, t.23, tr. 53.
4
V.I.Lênin: Toàn tập. Nxb. Tiến bộ, Mátxơva, 1980, t.23, tr. 68.
khoa học của mọi khoa học, đã giải quyết đúng đắn, khoa học
về mối quan hệ biện chứng giữa triết học nói chung, triết học
Mác – Lênin nói riêng, với sự phát triển của các khoa học cụ
thể.
+ Triết học Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và tiến
bộ, với 3 đặc điểm chính như sau:
Triết học Mác – Lênin có sự thống nhất giữa tính Đảng và
tính khoa học: triết học Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân là cơ sở lý luận cho sự hoạt động của các chính đảng
cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ
nghĩa xã hội hiện thực, đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa
duy tâm, siêu hình, bảo vệ và đem lại lợi ích cho giai cấp vô sản
và quần chúng nhân dân lao động. Tính đảng trong triết học
Mác – Lênin thể hiện ở chỗ đã đứng trên lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phản
ánh một cách khoa học hệ thống các quy luật vận động và phát
triển của thế giới, định hướng đúng đắn cho con người trong
quá trình cải tạo hiện thực khách quan.
Triết học Mác – Lênin có sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn: gắn nhận thức thế giới với cải tạo thế giới là nguyên
tắc cơ bản của triết học Mác. Triết học Mác - Lênin ra đời từ
nhu cầu thực tiễn, nhu cầu của phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân và quần chúng lao động, đã trở thành vũ khí lý
luận của giai cấp vô sản. Các nhà mácxít, thông qua tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn để bổ sung, phát triển triết học. Triết học
Mác – Lênin chỉ đạo, hướng dẫn cuộc đấu tranh của giai cấp vô
46
sản, chỉ rõ sứ mệnh và phương thức cách mạng để giai cấp vô
sản làm tròn sứ mệnh của mình. Thông qua hoạt động thực tiễn,
triết học Mác - Lênin mới trở thành sức mạnh vật chất, mới
phát triển và đổi mới không ngừng là công cụ để con người cải
biến thế giới.
Triết học Mác – Lênin có tính sáng tạo: Phát triển và sáng
tạo là thuộc tính bản chất của triết học Mác - Lênin. Phép biện
chứng duy vật khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng của thế
giới khách quan luôn ở trong trạng thái vận động và phát triển
không ngừng. Cho nên khi nghiên cứu về bản chất và quy luật
khách quan của các sự vật, hiện tượng, đòi hỏi tư duy con
người, cũng như bản thân triết học phải luôn luôn đổi mới.
Tính sáng tạo của triết học Mác - Lênin, một mặt xuất phát
từ chỗ nó là lý luận của giai cấp công nhân, của quá trình xây
dựng xã hội mới ngày càng tốt đẹp hơn; mặt khác, nó gắn quan
điểm về thực tiễn, coi thực tiễn là cơ sở, động lực và là tiêu
chuẩn của nhận thức, của chân lý. Tính sáng tạo của triết học
Mác – Lênin còn gắn liền với quan điểm lịch sử cụ thể. Đó là
quá trình vận dụng hệ thống các nguyên lý, quy luật của phép
biện chứng vào trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể làm
biến đổi lịch sử.
+ Về chức năng của Triết học Mác – Lênin:
Chức năng thế giới quan: triết học Mác - Lênin không phải
là một niềm tin như tôn giáo, mà là tri thức là sự hiểu biết khái
quát về thế giới là sự giải thích thế giới trên cơ sở các suy luận
lôgic và các căn cứ khoa học thực tiễn. Tri thức triết học cũng
khác với khoa học cụ thể và nghệ thuật. Triết học là sự hiểu biết
tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống về thế giới, nói chung, cung
cấp cho con người sự hiểu biết chung về thế giới và xác định
vai trò, vị trí của con người trong thế giới đó.
Chức năng nhận thức: triết học Mác - Lênin đã vạch ra các
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nó quyết
định thái độ của con người đối với thế giới xung quanh và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới của con người. Nhờ
phát hiện ra các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội,
triết học Mác Lênin đã hướng dẫn sự hoạt động của con người
theo đúng sự phát triển của xã hội và do đó thúc đẩy xã hội phát
triển.
Chức năng phương pháp luận: triết học Mác - Lênin không
chỉ làm nhiệm vụ giải thích thế giới mà còn định hướng, còn là
cơ sở lý luận cho con người sử dụng các phương pháp cụ thể
trong hoạt động thực tiễn, trực tiếp hành động, cải biến hiện
thực, cải tạo thế giới.
2. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống
xã hội
Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác là bước ngoặt cách mạng trong
lịch sử phát triển tư tưởng của nhân loại. Lênin đã đánh giá rằng
chủ nghĩa Mác là sự phát triển cao nhất của toàn bộ khoa học
lịch sử, khoa học kinh tế và triết học ở châu Âu.
Cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Triết học Mác đã chỉ
ra cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động lối thoát khỏi
48
sự nô lệ về mặt tinh thần, đem lại cho loài người, đặc biệt là
giai cấp công nhân công cụ nhận thức khoa học. Triết học
Mác, không chỉ giải thích thế giới, mà còn vạch ra cách thức,
phương pháp để cải tạo thế giới. Đứng trên lập trường của giai
cấp vô sản, Mác và Ăngghen đã biến triết học thành cơ sở lý
luận cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân,
thành cơ sở lý luận của chủ nghĩa cộng sản. Trong lịch sử triết
học trước Mác, các nhà triết học chủ yếu là giải thích thế giới,
không thấy được vai trò quyết định của thực tiễn đối với sự
phát triển của xã hội, của khoa học và triết học. Triết học Mác
không những chỉ giải thích đúng đắn thế giới, mà còn chỉ rõ
vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận, còn nhấn mạnh
vai trò to lớn của hoạt động tinh thần, trong quá trình cải biến
hiện thực khách quan. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen”, Mác viết: “Cố nhiên vũ
khí của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán của
vũ khí; lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng
vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất,
một khi nó xâm nhập vào quần chúng” 5. Lý luận cách mạng,
khi đã xâm nhập vào quần chúng, sẽ đem lại cho họ khả năng
hiểu biết những quy luật của đời sống xã hội và thực hiện một
cách tự giác những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh thực tiễn.
Mác và Ăngghen đã sáng tạo ra hình thức cao nhất của chủ
nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức cao

5
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1; tr.
580.
nhất của phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Trong
triết học mácxít, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng hợp
thành chỉnh thể thống nhất. Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã
đóng vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của khoa học,
trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm,
nhưng không khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm, không vạch
ra được nguyên nhân của sự phát triển xã hội và phép biện
chứng của quá trình nhận thức. Mác và Ăngghen không chỉ
đứng trên quan điểm duy vật để giải thích giới tự nhiên, mà còn
triệt để duy vật khi giải thích các vấn đề xã hội. Việc sáng tạo ra
chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của bước
ngoặt cách mạng lý luận do Mác và Ăngghen thực hiện. Khi
vạch rõ mối quan hệ tác động giữa kinh tế, chính trị và tư
tưởng, Mác và Ăngghen đã xác định tính thứ nhất của tồn tại xã
hội, điều kiện vật chất của đời sống xã hội và tính thứ hai của ý
thức xã hội. Mác và Ăngghen đã bác bỏ học thuyết duy tâm cho
rằng nguồn gốc của sự phát triển xã hội là do lực lượng tinh
thần, hay hoạt động của một cá nhân phi thường. Mác và
Ăngghen đã chỉ ra rằng chính quần chúng nhân dân là lực lượng
giữ vai trò quyết định trong việc tạo ra những giá trị vật chất và
tinh thần trong những cải biến cách mạng đời sống xã hội; sự
phát triển của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định đến sự
biến đổi của quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế và toàn bộ đời
sống tinh thần xã hội.
Triết học Mác – Lênin, giữ vai trò là thế giới quan và
phương pháp luận đối với sự phát triển của các khoa học cụ thể.

50
Hiểu biết các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan, sẽ
là cơ sở khoa học để nghiên cứu có hiệu quả các quy luật đặc
thù. Lênin viết: “…Nếu không có một cơ sở triết học vững vàng
thì tuyệt nhiên không có khoa học tự nhiên nào, hay chủ nghĩa
duy vật nào có thể tiến hành đấu tranh chống được sự lấn bước
của những tư tưởng tư sản và sự phục hồi của thế giới quan tư
sản. Muốn tiến hành được cuộc đấu tranh ấy và đưa nó đến
thành công hoàn toàn, nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà
duy vật hiện đại, một đồ đệ tự giác của chủ nghĩa duy vật mà
Mác là người đại diện, nghĩa là nhà khoa học tự nhiên ấy phải
là một nhà duy vật biện chứng”6.
Luận điểm đó của Lênin hoàn toàn đúng cho cả hệ thống
các khoa học xã hội. Nếu không có quan điểm duy vật biện
chứng về các hiện tượng của đời sống xã hội, thì không thể xây
dựng được kinh tế chính trị như một khoa học, không thể biến
chủ nghĩa xã hội không tưởng thành khoa học và không thể giải
thích một cách khoa học sự phát triển của đời sống tinh thần xã
hội.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng
luôn gắn với các thành tựu của khoa học hiện đại là sự khái quát
những thành tựu của khoa học mang lại, đồng thời, nó lại có vai
trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Đặc biệt,
trong giai đoạn hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đã và đang đạt những thành tựu to lớn, tác động sâu sắc
đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, tình hình thế giới

6
V.I.Lênin: Toàn tập. Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.45, tr. 421.
đương đại đang có những biến đổi phức tạp, để xem xét, phân
tích, đánh giá vấn đề một cách khoa học, đòi hỏi các nhà nghiên
cứu phải đứng vững trên lập trường thế giới quan duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để nhận thức và hoạt động thực tiễn
đúng đắn, chính xác.
3. Sự kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận chủ yếu, quyết định
sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết,
chủ nghĩa Mác - Lênin đã trang bị cho Hồ Chí Minh thế giới
quan, phương pháp luận khoa học và những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử;
những vấn đề có tính nguyên tắc phương pháp cách mạng. Trên
cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc lập trường, quan điểm và
phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh đã tiếp thu được những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây
để hình thành nên hệ tư tưởng đặc sắc của mình. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, góp phần đưa cách
mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.

52
Theo Hồ Chí Minh, mục đích học chủ nghĩa Mác - Lênin là
để “phụng sự lợi ích chung, chứ không có gì cao xa”7, “nếu
không hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư,
tự lợi như thế là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin”8. Hồ Chí
Minh còn chỉ rõ: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có
tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin
được”9.
Hồ Chí Minh nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác
- Lênin không phải theo lối giáo điều, kinh viện, mà có sự phát
triển làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều
kiện lịch sử mới. Người không bao giờ coi chủ nghĩa Mác -
Lênin là “cái gì đã xong xuôi hẳn” là đơn thuốc vạn năng, mà
như Người đã nói: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung
“cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã
xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của
lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì?
Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”10. Trong bài “V.I. Lê-nin,
người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam” viết cho báo Sự
thật của Liên Xô, Hồ Chí Minh khẳng định “thắng lợi của cách
mạng Việt Nam là một thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin ở
một nước trước đây là thuộc địa. Những thành công của cách

7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 08, tr.138
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 08, tr.138
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 12, tr. 554
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 01, tr. 465
mạng Việt Nam cũng góp phần ít nhiều vào kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin”11.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
là… kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, …”12.
Thắng lợi của cách mạng, cũng như sự phát triển, lớn mạnh
của Đảng Cộng sản Việt Nam gần một thế kỷ qua là kết quả
tổng hợp của rất nhiều yếu tố, nhưng không thể phủ nhận đó là
nhờ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được vũ trang bằng lý luận
cách mạng và khoa học nhất của thời đại - chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn tới, việc tiếp
tục kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam vẫn là
một tất yếu khách quan là một nhiệm vụ quan trọng và cấp
thiết.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ Luận
cương chính trị tháng 10-1930, cho đến văn kiện Đại hội VI đều
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Từ Đại
hội VII đến nay, Đảng ta có sự phát triển, bổ sung mới: “Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng của Đảng”. Đây là biểu hiện về nhận thức đúng

11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 10, tr. 550
12
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88.
54
đắn, sâu sắc về mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI của Đảng (tháng 01-2011)
đã tổng kết thực tiễn 25 năm đổi mới và rút ra một số bài học
kinh nghiệm, trong đó có bài học: “trong bất kỳ điều kiện và
tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu
đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” 13. Như vậy, Đảng ta xác định
rất rõ ràng: công cuộc đổi mới hiện nay phải kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới, không
phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó
làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành
động cách mạng. Lịch sử đã chứng minh, nếu mơ hồ, dao động
về hệ tư tưởng thì sẽ lúng túng trong hoạch định chủ trương,
đường lối, rối loạn trong tổ chức và tất yếu dẫn đến thất bại
trong hành động. Vì vậy, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính
nguyên tắc đối với Đảng ta là nhiệm vụ quan trọng trong toàn
bộ công tác tư tưởng, lý luận, nhất là trong bối cảnh mới của

13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 180.
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Điều
này đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam tuyệt đối không được xa
rời, hoặc từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trái lại, cần kiên định, vận dụng, một cách linh hoạt, sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện
lịch sử - cụ thể của hiện thực cách mạng Việt Nam. Mặt khác
cần phải kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù
địch để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”, đưa Việt Nam trở thành quốc gia –
dân tộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

56
CHƯƠNG 2

BẢN THỂ LUẬN

I. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG LỊCH


SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG, PHƯƠNG TÂY

1. Khái niệm về bản thể luận


Bản thể luận, thuật ngữ Hy Lạp là sự kết hợp của ontos và
logos, có nghĩa là tồn tại và khoa học. Là thuật ngữ trong lịch
sử triết học trước Mác, bản thể luận chỉ học thuyết về tồn tại,
đối lập với nhận thức luận là học thuyết về nhận thức. Bản thể
luận, hay học thuyết triết học về tồn tại, xem xét các vấn đề về
cái thực tồn. Vấn đề cơ bản của bản thể luận là: cái gì tồn tại
đích thực, còn sự tồn tại của cái gì là vẻ bề ngoài là ảo tưởng?
Bản thể luận không những cố gắng xây dựng bức tranh tổng thể
về thế giới, sáng tạo những quan niệm về thế giới nói chung,
mà còn đồng thời vạch ra bản chất bên trong, những nguyên
nhân sâu xa của sự phát triển thế giới hiện thực.
Bản thể luận xây dựng bức tranh chung về thế giới. Tuy
nhiên, bản thể luận triết học không trùng lặp với bức tranh của
các khoa học cụ thể về thế giới. Triết học tìm kiếm những cơ sở
tối hậu của tồn tại nói chung. Do đó, triết học cố gắng đi sâu
tìm hiểu cơ sở về sự tồn tại của thế giới mà khoa học đem lại,
thâm nhập vào bản chất sâu xa của các sự vật, hiện tượng, phát
hiện ra mối liên hệ phổ biến, bản thể luận triết học tìm kiếm các
phạm trù phổ biến, phản ánh cơ sở của mọi sự tồn tại. Theo
nghĩa chung nhất, bản thể luận là lý luận nghiên cứu về bản
chất của tồn tại.
2. Một số nội dung cơ bản và giá trị của bản thể luận
trong triết học phương Đông
- Bản thể luận trong triết học Phật giáo
Triết học Phật giáo cho rằng vũ trụ là vô thủy, vô chung,
vạn vật trong thế giới là dòng biến hóa vô thường, vô định,
không do một vị thần nào sáng tạo nên cả. Vì thế giới luôn là
dòng biến đổi vô thường cho nên không có cái gọi là bản ngã,
không có thực thể, tất cả đều theo luật nhân quả biến đổi không
ngừng nghỉ, theo quá trình sinh, trụ, dị, diệt (hay thành, trụ,
hoại, không) và chỉ có sự biến hóa ấy là thường hữu. Toàn bộ
các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ, theo triết học Phật
giáo, từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn, đều không tránh
khỏi sự chi phối của luật nhân quả. Cái nhân (hetu) nhờ cái
duyên (pratiya) mới sinh ra được thành quả (phla). Quả lại, do
cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ duyên mà
thành ra quả mới… Cứ thế, quá trình nhân quả nối tiếp nhau vô
cùng, vô tận và thế giới, vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh, hóa
hóa mãi.
Bản thể luận Phật giáo cho rằng con người cũng do nhân
duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai thành phần: thể xác và
tinh thần. Hai thành phần đó, được tạo nên từ ngũ uẩn, do nhân
duyên hợp thành, mỗi con người cụ thể đều có danh sắc. Các
58
nhân tố của ngũ uẩn cũng luôn biến hóa theo quy luật nhân quả
không ngừng nghỉ. Cho nên vạn vật, con người biến hóa, vụt
mất, vụt còn, không có cái riêng tồn tại mãi mãi, không có cái
tôi thường định. Cái tôi hôm nay không còn là cái tôi hôm qua.
Sự biến hóa trôi chảy không ngừng do nhân duyên gọi là vô
thường.
- Bản thể luận trong học thuyết Âm – Dương
Học thuyết Âm - Dương là quan điểm về vũ trụ quan trọng
nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Học thuyết Âm - Dương
đi sâu vào lý giải nguồn gốc và sự biến đổi của vạn vật trong
thế giới. Theo học thuyết Âm - Dương, nguyên lý tối cao và là
nguồn gốc biến hóa của vạn vật trong vũ trụ chính là sự liên hệ,
tác động giữa hai thế lực “âm”, “dương” trong Thái cực. Thái
cực là nguyên thể đầu tiên của thế giới, bao hàm trong nó hai
mặt đối lập “âm” và “dương”. “Dương” theo nguyên nghĩa là
ánh sáng mặt trời và những yếu tố thuộc về ánh sáng mặt trời;
“âm” là bóng tối và những yếu tố thuộc về bóng tối. Trong sự
phát triển tư tưởng về sau, “âm” và “dương” được coi là hai thế
lực cơ bản của vũ trụ, tiềm ẩn trong Thái cực, biểu thị và chi
phối vạn vật trong thế giới, từ vật vô cùng lớn đến vật vô cùng
nhỏ, từ cái đơn giản đến cái phức tạp, từ cỏ cây, động vật đến
con người. Chẳng hạn như trời và đất, sáng và tối, nóng và lạnh,
hút và đẩy, cương và nhu, động và tĩnh, trong và đục, nặng và
nhẹ, thể chất và tinh thần, đồng hóa và dị hóa, giống đực và
giống cái, vua và tôi, cha và con, chồng và vợ, hưng và
vong, chính và tà, hàn và nhiệt, khí và huyết, phủ và tạng, tỳ và
vị, v.v.
- Bản thể luận trong học thuyết Đạo gia
Vấn đề bản thể luận trong triết học Đạo gia thể hiện tập
trung ở tư tưởng về “đạo” của Lão Tử (khoảng thế kỷ VI - V
TCN). Tư tưởng về “đạo” đóng vai trò quan trọng trong triết
học Lão Tử.
Từ việc quan sát sự biến chuyển của vạn vật trong thế giới,
Lão Tử đã rút ra quy luật về sự biến hóa của tự nhiên, đề ra học
thuyết “đạo” để giải thích nguồn gốc hình thành và bản thể luận
của vạn vật. Học thuyết Đạo gia coi bản nguyên của vũ trụ là
“đạo”. Lão Tử cho rằng vũ trụ từ thuở ban đầu tồn tại trong
trạng thái “hỗn mang, mờ mịt”, trong đó xuất hiện “đạo”, từ
“đạo” nảy sinh ra “âm - dương”; từ “âm - dương” sinh ra trời
đất, vạn vật và con người. Như vậy, “đạo” là cội nguồn của trời
đất là cha mẹ của vạn vật là cơ sở của thế giới; đồng thời là quy
luật chung của thế giới. “Đạo” tồn tại một cách thoát trần,
không nhận thức được và không diễn tả được. Bởi lẽ “nó không
có hình dáng, không có âm thanh”. Lão Tử viết: “Có vật gì
trong sự hỗn độn, có trước cả trời đất, vừa trống vừa lặng yên,
đứng một mình không đổi, lưu hành khắp chốn không mỏi, có
thể là mẹ thiên hạ, ta không biết nó tên gì, nên mới đặt tên cho
nó là “đạo”, tạm gọi là lớn”14.
Lão Tử dùng thuyết “vô danh” và “chất phác” để giải thích
đặc điểm chung của “đạo”. Đạo nói được không phải là đạo

. Đạo Đức kinh (bản dịch của Nghiêm Toản, 1959), Bộ quốc gia giáo dục, Sài
14

Gòn,, chương 25.


60
thường; danh gọi được không phải là danh thường; vô danh là
đầu trời đất; hữu danh là mẹ vạn vật”15; “Đạo ẩn nấp thì vô
danh”. Lão Tử đã nhìn thấy sự khác nhau giữa cơ sở vật chất
đầu tiên và sự vật cá biệt, ông lấy đặc tính của vật thể riêng rẽ
để giải thích nguồn gốc của vạn vật. “Đạo” là bản chất sâu xa,
tuyệt đối là cơ sở của Trời, đất và vạn vật sinh sống, vì thế
“đạo” không thể giống với sự vật. Sự vật sinh ra từ “đạo” có
hình thể, có thể gọi tên được là “hữu”, còn “đạo”, không thể gọi
tên được là “vô”. Nhưng vì “đạo” có thể sinh ra vạn vật, nên
cũng có thể bảo nó là “hữu”. Như vậy “đạo” gồm cả hai phương
diện là “hữu” và “vô”. “Vô” là “thể” của “đạo” và “hữu” là
dụng của “đạo”. “Đạo” là thể thống nhất giữa “hữu” và “vô”,
“thể” và “dụng”. “Đạo” có tính phổ biến, vĩnh cửu, tự nó bất
biến, nhưng nó là động lực biến hóa của vạn vật mà không cần
hoạt động gì cả. Lão Tử viết “Mọi vật trong thiên hạ sinh ra từ
hữu, hữu sinh ra từ vô”16, hay “Đạo sinh một, một sinh hai, hai
sinh ba, ba sinh vạn vật”17. Đó cũng là quá trình phát sinh ra
vạn vật từ “đạo”.
Như vậy “đạo” theo quan điểm của Lão Tử là phạm trù khái
quát, nó không là một sự vật, hiện tượng cụ thể hữu hình nào,
mà là cái sinh ra tất cả mọi vật là cái tồn tại vĩnh viễn, bất biến.
Vạn vật dù muôn hình, muôn vẻ cũng chỉ là sự biểu hiện khác
nhau của một cái duy nhất, đó là “đạo”. Và “đạo” không tồn tại

15
. Đạo đức kinh (bản dịch của Nghiêm Toản, 1959), Bộ quốc gia giáo dục, Sài
Gòn, chương 1.
16
. Sđd, chương 40.
17
. Sđd, chương 42.
ở đâu ngoài sự vật hữu hình, hữu danh, đa dạng, phong phú, vô
cùng, vô tận. Vì thế “đạo” vừa duy nhất, vừa muôn hình, vạn
trạng; vừa biến hóa, vừa bất biến. Căn cứ vào quan điểm ấy,
Lão Tử đả kích quan điểm trời sáng tạo ra thế giới và cho rằng
trời không phải là căn cứ tồn tại của “đạo”, trái lại “đạo” có
trước thần linh. Trời đất là mẹ của thiên hạ: “Trời được một
(đạo) mà trong, đất được một mà yên, thần được một là linh”18.
Ngoài đặc tính “vô danh”, “chất phác”, Lão Tử còn đưa ra
học thuyết “đạo pháp tự nhiên” để giải thích bản chất của
“đạo”, tức bản thể luận của thế giới. Ông cho rằng “đạo” sinh
vạn vật, không có ý chí, dục vọng và cũng không có mục đích.
Ông cho rằng đạo sinh ra vạn vật, nhưng không cho vạn vật là
của mình; “đạo” không làm chúa tể chi phối vạn vật, mà “thuận
theo sự phát triển tự nhiên của vạn vật”19.
Xuất phát từ quan niệm cho “đạo” như là “tính quy luật của
tự nhiên”, như một “thực thể” tinh thần tuyệt đối, Lão Tử đã
tiến bộ hơn Khổng Tử một bước trong kết luận về nguồn gốc
của tự nhiên. Nếu “đạo trời” của Khổng Tử còn có tính duy
tâm, cảm tính thì “đạo” của Lão Tử đã được trừu tượng, lý tính
hóa ở mức cao, có yếu tố duy vật và tiến bộ hơn.
- Bản thể luận trong triết học Nho gia
Trong triết học Nho gia, Khổng Tử thường bàn đến trời,
đạo mệnh, mệnh trời. Khổng Tử thừa nhận có sự tồn tại của thế

18
. Sđd, chương 30.
19
. Sđd, chương 5.

62
giới, vạn vật, con người và quỷ thần; đồng thời khẳng định sự
vận động và biến hóa của chúng, theo “đạo” nhất định. “Đạo”
theo Khổng Tử vừa là quy luật, trật tự của thế giới, lại vừa là
“thiên mệnh”… Sự sống hay chết, giàu sang hay nghèo hèn,
hạnh phúc hay khổ đau đều do “thiên mệnh” quy định. Bởi lẽ
“Sống chết có mạng, giàu sang tại trời” (Tử sinh hữu mệnh, phú
quý tại thiên). Tuy nhiên, nếu nỗ lực học tập, rèn luyện, thì con
người cũng có thể cải biến được “Thiên tính” ban đầu và do đó,
cũng cải thiện được cuộc sống của mình. Khổng Tử hoài nghi
về sự tồn tại của quỷ thần, do vậy ông chủ trương vừa tôn kính,
vừa thờ cúng quỷ thần, lại vừa xa lánh và cảnh giác chúng.
Như vậy, thế giới quan của Khổng Tử có tính chất nhị
nguyên, không rõ ràng là duy vật, hay duy tâm. Mục đích của
Khổng Tử khi bàn về “thiên mệnh” là làm chỗ dựa để ông đi
sâu vào các vấn đề chính trị - đạo đức xã hội. Về sau, trong quá
trình phát triển, những tư tưởng về bản thể luận của Khổng Tử
đã được các nhà triết học của trường phái Nho gia trong các
thời kỳ khác nhau bổ sung. Mạnh Tử đã hệ thống hóa, xây dựng
tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng Tử thành nội dung triết học
duy tâm, coi con người là sản phẩm của thế giới siêu tự nhiên
bên ngoài, do trời (Thượng đế) sinh ra, số phận con người do
trời định. Đến thời Chiến Quốc, phát triển quan điểm của
Khổng Tử về trời đất, Tuân Tử cho rằng “trời đất hợp lại thì
vạn vật sinh ra, âm dương giao tiếp với nhau thì sinh ra biến
hóa” (Tuân Tử - Lễ Vận). Theo ông, thế giới vật chất tồn tại
một cách độc lập, không phụ thuộc vào con người. “Trời không
vì người ta sợ rét mà bỏ mùa đông, đất không vì sợ người xa mà
rút ngắn lại”.
Tuân Tử cũng nói: “Nước và lửa có khí nhưng vô sinh, cỏ
cây có sinh (sinh mệnh) nhưng vô tri, cầm thú có trí nhưng vô lễ
nghĩa, con người có khí có sinh, có trí lại có nghĩa lễ, do vậy là
giống quý nhất trong thiên hạ”. Như vậy, Tuân Tử đã phân chia
thế giới vật chất, thành các dạng và quá trình tiến hóa của nó: từ
thể khí đến vật chất vô cơ (lửa, nước) đến vật chất hữu cơ bậc
thấp là cỏ cây, có “sinh mệnh” nhưng không có “tri giác”, đến
loài cầm thú có tri giác, nhưng không có khuôn phép đạo đức
và con người là bậc cao nhất có tổ chức xã hội, có khuôn phép
đạo đức. Đây là một quan niệm duy vật, đã thừa nhận con
người là một bộ phận và là bộ phận cao nhất của giới tự nhiên.
Trong khi khẳng định tính khách quan của quy luật tự nhiên,
Tuân Tử vẫn đề cao vai trò tích cực chủ quan của con người
trong hoạt động thực tiễn, con người phải lợi dụng quy luật
thiên nhiên để sinh tồn.
Vào thời nhà Hán, Vương Sung (27 - 105) nhấn mạnh: Thế
giới do thực thể vật chất “khí” tồn tại vĩnh viễn tạo thành, còn
“đạo” chính là quy luật phát triển của bản thân hiện thực; con
người cũng là sản phẩm của khí sinh ra (thứ khí tinh túy nhất);
ý thức hay tinh thần là sản phẩm của thể xác và phải dựa vào
thể xác mới phát huy được tác dụng. Ông nói: “Tinh thần vốn
lấy khí huyết làm chủ, khí huyết luôn phụ thuộc vào hình thể”
(Thiên “Luận tử”) và “Máu trong các mạch máu, đó là năng
lực sản sinh sự sống. Và khi con người chết, máu không lưu
64
thông nữa và liền sau đó sức sống biến mất. Sau khi sức sống
biến mất, thì cơ thể tan rã và biến thành tro bụi… Cái chết con
người như ngọn lửa bị dập tắt… Quả quyết rằng con người sau
khi chết (vẫn còn) có ý thức thì chẳng khác gì nói rằng “ngọn
lửa sau khi tắt vẫn còn đem lại ánh sáng”” (Thiên “Đạo hư”).
Vương Bật (226 - 249) khẳng định: Cái “vô” (không tồn
tại) sinh ra cái “có” (tồn tại). Theo ông, toàn bộ sự vật, hiện
tượng trong thế giới, đều từ “vô” mà sinh ra “có”. Trái với quan
điểm của Vương Bật, Hướng Tú (người cùng thời với Vương
Bật) lập luận rằng: Nếu thừa nhận cái “không” tồn tại thật, thì
cái “không” đã là không rồi, thì làm sao sinh ra cái “có” được.
Ông đưa ra quan điểm “Tạo vật vô chủ và vạn vật đều tự tạo”,
cho rằng thế giới không ai tạo ra và mọi sự vận động của sự vật
là do nguyên nhân bên trong của chúng, chứ không phải lực
lượng bên ngoài chi phối.
Đến thời nhà Tống, Trương Tải (1020 - 1077) đã xây dựng
học thuyết duy vật thô sơ, coi nguyên khí là nguồn gốc của thế
giới. Ông cho rằng mọi hiện tượng đều từ “khí” mà ra, mọi cái
vô hình, hay hữu hình đều là bộ phận của khí. Về phạm trù
“khí”, ông cho rằng khi “khí” chưa ngưng tụ, hoặc chưa “bốc
hơi”, thì không có hình dạng, mắt thường ta không nhìn thấy
được, “khí” ở trạng thái này gọi là “Thái hư”, cái “khí Thái
hư” ấy luôn vận động, lên xuống trên khắp thế gian, trong mọi
thời gian, nó là đầu mối là khởi nguồn của sự vật. Theo quan
niệm ấy, Trương Tải chỉ ra rằng sự hình thành của các vật do
quá trình “khí” ngưng tụ, sự tiêu tan của chúng là quá trình
tiêu tan của “khí”, để trở thành “Thái hư”. Như vây, “Thái hư”
là cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới. “Thái hư” được ông
hiểu như một phạm trù vật chất, không thể định nghĩa hoặc
xem như vật thể, mà là phạm trù có tính chung nhất, khái quát
nhất.
Tóm lại, ngay từ buổi đầu bình minh của nhân loại, các nhà
triết học phương Đông đã cố gắng giải thích vấn đề bản thể
luận, họ đã lý giải về nguồn gốc, bản chất của thế giới theo các
quan niệm khác nhau. “Tồn tại” hay “ không tồn tại” được hiện
diện trong triết học phương Đông rất đa dạng: vật chất và tinh
thần, sự vật và con người, sự sống và cái chết, thể xác và linh
hồn, thần linh và quỷ sứ,v.v… Nó phản ánh một cách sâu sắc
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm và
tôn giáo, dưới góc độ bản thể luận triết học.
3. Một số nội dung cơ bản và giá trị của bản thể luận triết
học trong phương Tây
a. Bản thể luận của triết học Hy Lạp cổ đại
Vấn đề bản nguyên thế giới luôn giữ một vị trí quan trọng
trong lịch sử triết học. Triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi mới
ra đời đã rất quan tâm đến bản nguyên thế giới và tạo ra những
đặc điểm khác với các nền triết học khác trong cùng thời kỳ lịch
sử.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, “tồn tại” được xem là cái có
thật, dưới dạng những vật thể cảm tính hữu hình; hoặc như là
thế giới “ý niệm” vô hình, siêu nhiên, tùy theo lập trường duy
vật, hoặc duy tâm triết học.
66
+ Lý luận về bản thể của Đêmôcrít (Démocrite 460-370
TCN)
Thuyết nguyên tử và quan niệm về bản nguyên thế giới:
Mặc dù những ý tưởng đầu tiên về nguyên tử, đã được Lơxíp
nêu ra nhưng, đến Đêmôcrít mới làm cho các quan điểm về
nguyên tử, trở thành một hệ thống lý luận chặt chẽ và có sức
thuyết phục. Theo ông, vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể
đầu tiên: nguyên tử và chân không.
Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy,
không phân chia được, không biến đổi, luôn vận động không
ngừng và tồn tại vĩnh viễn. Nguyên tử không có sự khác nhau
về chất, nhưng lại có sự khác nhau về hình dạng (hình cầu, hình
móc câu, hình tứ diện, hình lõm...), về kích thước, về tư thế
(nằm ngang, đứng, nghiêng). Cũng giống như sự kết hợp của
các chữ cái tạo thành các từ ngữ, thì ở đây, sự kết hợp của các
nguyên tử tạo thành các sự vật trong thế giới. Và sau đó, khi sự
vật, hiện tượng tan rã, thì các sự vật tự chúng biến trở lại thành
các nguyên tử.
Chân không: tồn tại không có kích thước, hình dáng cụ thể,
nhưng nó vô tận. Chân không, chính là khoảng không gian
trống rỗng. Theo Đêmôcrít, chân không cũng có vai trò quan
trọng như nguyên tử. Chân không là điều kiện cần thiết cho sự
vận động của nguyên tử, để từ đó các nguyên tử kết hợp với
nhau, tạo nên các sự vật, hiện tượng đa dạng trong thế giới.
Theo Đêmôcrít, trong thế giới, chỉ có một chân không, nhưng
có vô số nguyên tử. Những nguyên tử bị chi phối bởi luật nhân
quả. Luật nhân quả mang tính tất nhiên, khách quan, tuyệt đối.
Ông quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế
giới đều theo lẽ tất nhiên. Bởi vì bản chất thế giới là tất nhiên.
Sự thiếu hiểu biết, sự bất lực trong nhận thức của con người
sinh ra cái ngẫu nhiên. Nguyên tử vận động theo nhiều hướng,
theo nhiều kiểu: lúc chúng cố kết tụ lại, lúc chúng tách rời, phân
tán rộng ra. Khi các nguyên tử cố kết lại, sự vật được tạo thành;
và khi chúng tách rời nhau, sự vật biến mất. Khi các nguyên tử
tụ lại một điểm nào đó, chúng sẽ va chạm vào nhau tạo thành
một cơn xoáy lốc nguyên tử. Cơn lốc xoáy này đẩy các nguyên
tử nhỏ nhẹ ra bên ngoài, còn các nguyên tử to nặng thì được
quy tụ vào tâm, chúng tạo thành các tầng lớp nguyên tử cùng
kiểu dáng, kích thước và trọng lượng. Từ các tầng lớp nguyên
tử đồng kiểu này mà đất, nước, không khí, lửa... được tạo thành;
và từ đây, hình thành Trái Đất, sự sống, con người cùng các
thiên thể trên bầu trời, trong vũ trụ.
Theo Đêmôcrít, sự sống là kết quả của quá trình biến đổi
bản thân tự nhiên. Sự sống phát sinh từ những vật thể ẩm ướt,
dưới tác dụng của nhiệt độ. Sinh vật sống đầu tiên được hình
thành từ nước, bùn. Sinh vật sinh sống dưới nước; sau đó lên
sống trên cạn. Sinh vật tiến hóa dần dần và cuối cùng, con
người xuất hiện. Chỉ có sinh vật mới có linh hồn và các linh
hồn cũng được tạo thành từ các nguyên tử, nhưng đó là các
nguyên tử hình cầu, nhẹ, nóng và chuyển động nhanh. Linh hồn
không bất tử, nó sẽ rời thể xác và tan rã thành các nguyên tử khi
68
sinh vật mất đi.
Như vậy, vạn vật trong thế giới, dù là vô sinh hay hữu sinh,
đều xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh
hay Thượng đế sáng tạo ra và chi phối; thậm chí, các thần thánh
nếu có, ông cho rằng cũng được tạo ra từ nguyên tử và tồn tại
trong chân không. Mặc dù Đêmôcrít không lý giải được nguồn
gốc của vận động, không biết được linh hồn là hiện tượng tinh
thần; nhưng ông khẳng định bản chất thế giới là vật chất
(nguyên tử) luôn vận động theo quy luật nhân quả; vũ trụ vật
chất là vô hạn và đa dạng, không được sáng tạo và không bị
hủy diệt bởi các thế lực siêu nhiên. Đó là quan niệm duy vật, vô
thần dũng cảm đương thời. Đêmôcrít đã cống hiến cho khoa
học tự nhiên và chủ nghĩa duy vật tư tưởng nổi tiếng về học
thuyết nguyên tử, với tư cách là bản nguyên thế giới.
+ Học thuyết về ý niệm của Platôn
Platôn (Platôn 427 - 347 TCN) cho rằng thế giới “ý niệm”
là thế giới “tồn tại chân chính”; bởi vì nó là cái vô hình, vĩnh
cửu, không xuất hiện, không mất đi, không phụ thuộc vào
không gian và thời gian; còn thế giới những vật cảm tính (vật
chất) chỉ là cái bóng mờ nhạt của thế giới “ý niệm”, chúng có
tính chất nhất thời, luôn biến đổi, phụ thuộc vào không gian và
thời gian; vì vậy mà chúng đồng nhất với “cái không tồn tại”.
Tương tự như vậy, ông cho rằng linh hồn là cái “tồn tại chân
chính” và vĩnh viễn, còn thể xác là ngục tù tạm thời để giam
hãm linh hồn, sau khi thể xác chết, thì linh hồn được siêu thoát
trở về với “ý niệm”. Bản thể luận triết học của Platôn là học
thuyết duy tâm khách quan tuyệt đối – học thuyết ý niệm.
+ Học thuyết về 4 nguyên nhân của Arixtốt (Aristote)
Trong khi phê phán thế giới ý niệm của Platôn, Arixtốt đã
nêu ra lý thuyết về tồn tại. Ông cho rằng sự vật, hiện tượng xuất
phát từ bốn nguyên nhân cơ bản: 1) nguyên nhân vật chất, 2)
nguyên nhân hình dạng, 3) nguyên nhân vận động, 4) nguyên
nhân mục đích. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều phát
triển dựa trên bốn nguyên nhân đó và bất kỳ sự vật nào cũng có
bốn nguyên nhân trên, mới có thể tồn tại được.
Trong số bốn nguyên nhân của tồn tại, thì nguyên nhân hình
dạng là cơ bản nhất. Nó là thực chất của tồn tại là bản chất của
sự vật. Bản thân nó đã bao hàm cả nguyên nhân vận động và
mục đích tồn tại. Theo Arisxtốt, vạn vật trong thế giới đều có
thể vận động nhờ hình dạng (tức bản chất) vốn rất tích cực của
chúng. Cũng như Xôcrát và Platôn, Arixtốt là nhà mục đích
luận, khẳng định tính mục đích trong sự phát triển của mọi sự
vật. Theo ông, mọi sự vật đều phát triển theo trình tự, quy luật
và xu hướng của chúng, tức là với mục đích nhất định theo sự
sắp đặt trước của Thượng đế. Với việc thừa nhận nguyên nhân,
mục đích trong sự phát triển của mọi vật, Arixtốt đã làm cho
quan niệm của ông về tồn tại trở nên thần bí.
Như vậy, coi vận động và mục đích chỉ là những khía cạnh
khác nhau của nguyên nhân hình dạng, Arixtốt trên thực tế đã
thừa nhận học thuyết bốn nguyên nhân chỉ là sự phát triển, cụ
thể hóa quan niệm của ông về hình dạng và vật chất, cùng mối
quan hệ giữa chúng.
70
Trong số hai nguyên nhân cơ bản của tồn tại là vật chất và
hình dạng, thì Arixtốt coi hình dạng là nguyên nhân quan trọng
hơn, có vai trò quyết định bởi vì nó chính là bản chất của sự
vật. Để xác định bản chất của sự vật là gì, ông đưa ra hai tiêu
chuẩn:
Thứ nhất, vì mỗi sự vật bao giờ cũng thuộc về một loài, một
giống nhất định, do đó, bản chất phải là cái nhận thức trong
khái niệm, tức là cái chung. Theo góc độ này, ông hiểu bản chất
của sự vật như một cái gì đó thuộc về lĩnh vực tinh thần.
Thứ hai, dù giữa các sự vật có nhiều điểm tương đồng,
nhưng mỗi sự vật vẫn cần có những đặc tính riêng của mình.
Do vậy, bản chất của sự vật phải là cái riêng. Mà theo Arixtốt,
cái riêng không thể biểu hiện được bằng khái niệm, nó không
đem lại cho chúng ta một tri thức đích thực nào cả, vì khoa học
là tổng thể các tri thức, khái niệm mang tính chung và khái quát
cao.
Như vậy, hai tiêu chuẩn nói trên của bản chất mâu thuẫn với
nhau. Bản thân Arixtốt cũng ý thức được vấn đề và tìm cách
dung hợp giữa chúng. Nhưng ông đã không làm được điều đó,
mà chỉ dừng lại ở việc khẳng định cả hai yếu tố đều cần thiết.
b. Bản thể luận của triết học phương Tây thời kỳ
trung đại
Theo Tômát Đacanh (Thomas D'Aquyn 1225-1274), giới tự
nhiên do Trời tạo ra từ “hư vô” và trật tự, sự phong phú và hoàn
thiện của giới tự nhiên đều được quyết định bởi sự thông minh
của Trời. Mọi cái trên thế giới đều sắp xếp theo các bậc thang
tôn ti, trật tự, bắt đầu các sự vật không có linh hồn, tiến qua con
người, tới các thiên thần, các thánh và sau cùng là bản thân
chúa Trời. Mỗi bậc ở dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên; còn
toàn bộ hệ thống, thì mong muốn tiến tới chúa Trời. Do đó,
chúa Trời hay Thượng đế là mục đích tối cao là “quy luật” vĩnh
cửu đứng trên mọi cái, thống trị mọi cái là hình thức thuần túy
tước bỏ vật chất là nguyên nhân tác động cuối cùng của thế
giới. Con người cũng do chúa Trời tạo ra “theo hình dáng của
mình”, sống trên trái đất – trung tâm của vũ trụ. Mọi cái trong
tự nhiên được thích ứng với con người như thế nào, đều do
chúa Trời quy định.
Trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của cái chung, Tômát
Đacanh đứng trên lập trường duy thực ôn hòa. Ông cho rằng cái
chung tồn tại trên 3 mặt: một là, nó tồn tại trước sự vật trong trí
tuệ của Thượng đế như là mẫu mực lý tưởng của các sự vật
riêng lẻ; hai là, cái chung được tìm thấy trong các sự vật, cái
chung chỉ tồn tại khách quan khi nó chứa đựng các sự vật riêng
lẻ; ba là, cái chung được tạo ra, sau khi các sự vật trong trí tuệ
con người bằng con đường trừu tượng hóa tách khỏi các sự vật
riêng lẻ. Trong học thuyết triết học Tômát Đacanh cố gắng
chứng minh sự tồn tại của Thượng đế. Sự tồn tại của Thượng
đế, theo ông chỉ có thể được chứng minh trên cơ sở kinh
nghiệm, nghĩa là trên cơ sở tồn tại của thế giới như là sự sáng
tạo của Thượng đế. Ông đưa ra 5 luận điểm chứng minh:
1) Cần có cái động lực ban đầu, vì thế giới không phải là
sự vận động vĩnh cửu;
72
2) Mục đích của những nguyên nhân tác động không thể
là vô tận, nên cần phải có nguyên nhân đầu tiên;
3) Mọi sự vật của thế giới là ngẫu nhiên, do đó cần tồn tại
một cái tất nhiên tuyệt đối;
4) Các sự vật bộc lộ những giai đoạn hoàn thiện tuyệt đối;
5) Tính chất hợp lý của giới tự nhiên không thể giải thích
bằng nguyên nhân tự nhiên, cần phải tồn tại một thực
thể lý trí siêu tự nhiên điều chỉnh thế giới.
Như vậy theo Tômát Đacanh, Thượng đế chính là động lực
ban đầu là nguyên nhân ban đầu là cái tất nhiên tuyệt đối, sự
hoàn thiện tuyệt đối cũng như là nguyên nhân tạo ra sự hợp lý
của giới tự nhiên, Thượng đế sáng tạo ra thế giới.
c. Bản thể luận trong triết học nước Anh và Pháp, thời kỳ
cận đại
Nhất nguyên luận duy vật của Ph. Bêcơn (Francis Bacon
1561 - 1626)
Do chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của các nhà triết học duy
vật cổ Hy Lạp (lý luận về Homéomeries của Anaxagore,
nguyên tử luận của Démocrite, lý luận về hình dạng của
Aristote…), Ph. Bêcơn cho rằng: Thế giới (giới tự nhiên) tồn tại
khách quan, đa dạng và thống nhất. Con người là một sản
phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và linh hồn mang tính
vật chất.
Ph. Bêcơn cho rằng thế giới tồn tại một cách khách quan
không phụ thuộc vào tình cảm, uy tín, nhận thức (cái chủ quan)
của con người. Triết học và khoa học không thể biết cái gì
ngoài thế giới vật chất khách quan đó.
Tính đa dạng của thế giới chỉ có thể được lý giải một cách
đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm về vật chất, về hình
dạng (hình thức), về vận động... Vật chất là toàn thể các phần tử
rất nhỏ, với những tính chất khác nhau. Hình dạng là nguyên
nhân dẫn tới mọi sự khác biệt của các sự vật là lý do đầy đủ để
sự vật xuất hiện là bản chất chung của các sự vật cùng loại là
quy luật chi phối sự vận động của chúng. Vận động là bản năng
là sinh khí của sự vật vật chất. Vận động là thuộc tính đầu tiên
và quan trọng nhất của vật chất. Khi dựa vào quan sát thông
thường, Ph. Bêcơn cho rằng có tới 19 dạng vận động, trong đó:
hình dạng là một dạng vận động, mà nhờ vào nó các phần tử vật
chất cấu thành sự vật; đứng im cũng là một dạng vận động.
Vật chất, hình dạng và vận động thống nhất với nhau. Nhận
thức bản chất của sự vật vật chất là khám phá ra hình dạng,
nghĩa là vạch ra các quy luật vận động chi phối chúng.
Ph. Bêcơn cho rằng con người là một sản phẩm của thế
giới, nó bao gồm thể xác và linh hồn. Ông khẳng định rằng
không chỉ thể xác mà cả linh hồn của con người cũng đều là vật
chất. Linh hồn của con người giống như không khí hay lửa, biết
cảm giác, tồn tại trong bộ óc, vận động theo dây thần kinh và
mạch máu trong cơ thể. Ngoài sự hiện hữu của linh hồn con
người trong thể xác con người, Ph. Bêcơn còn thừa nhận sự
hiện hữu của linh hồn thực vật và linh hồn động vật trong cơ thể

74
thực vật và động vật. Khoa học nghiên cứu con người và linh
hồn của nó phải là khoa học tự nhiên.
Nhị nguyên luận trong siêu hình học của R. Đềcáctơ
(Renèu Descartes 1596 - 1650)
Về bản thể luận triết học, R. Đềcáctơ đưa ra quan điểm duy
vật về thế giới. Theo ông, vũ trụ là thế giới vật chất; vật chất là
vô tận; vật chất dù gồm có những hạt nhỏ nhất, nhưng về
nguyên tắc là có thể phân chia vô cùng, không có giới hạn.
R. Đềcáctơ cho rằng không có không gian và thời gian
trống rỗng, không có vật chất; trái lại, không gian và thời gian là
thuộc tính gắn liền với vật thể; vận động là không thể bị tiêu diệt,
nó luôn luôn gắn liền với các vật thể, vật thể luôn vận động,
chuyển đổi vị trí, tức là vận động trong không gian.
Thời bấy giờ, khoa học chưa phát triển đến mức cho phép
phát hiện ra các hình thức vận động khác của vật chất, cho nên
R. Đềcáctơ hiểu vận động của vật chất chỉ là vận động cơ giới,
sự dịch chuyển vị trí trong không gian.
Từ lý luận về hạt nhỏ nhất của vật chất, R. Đềcáctơ đã xây
dựng lý thuyết giả định về sự hình thành vũ trụ. Ông cho rằng
vật chất lúc đầu ở trạng thái hoàn toàn đồng loại, chuyển động
không ngừng theo chiều xoáy như những cơn lốc. Quá trình
“xoáy lốc” đó phân chia vật chất thành ba loại: những hạt lớn
hợp thành yếu tố như “đất, đá”, những hạt nhỏ hợp thành
“không khí”, còn những hạt cực nhỏ hợp thành yếu tố lửa.
Đương nhiên, giả thuyết “gió xoáy” của R. Đềcáctơ còn nhiều
hạn chế và thiếu cứ liệu khoa học cụ thể. Song, với quan niệm
vũ trụ học thời cổ đại, thì giả thuyết này của ông là một bước
tiến bộ rất lớn cả về quy mô và tầm vóc tư duy.
Trong “siêu hình học”, R. Đềcáctơ đứng trên quan điểm
nhị nguyên luận. Ông cho rằng có hai thực thể - thực thể vật
chất và thực thể tinh thần tồn tại độc lập với nhau. Đặc trưng
của thực thể vật chất là có quảng tính; còn đặc trưng của thực
thể tinh thần là biết tư duy; cả hai thực thể này đều phụ thuộc
một nguyên thể tối cao là Thượng đế. Con người được kết hợp
bởi hai yếu tố: vật chất (thể xác) và yếu tố tinh thần (tư duy).
Như vậy, xét về toàn bộ bản thể luận triết học của R.
Đềcáctơ, thì ông là người có xu hướng duy vật; xét riêng bộ
phận “siêu hình học”, ông là nhà duy vật thiếu triệt để, theo nhị
nguyên luận.
d. Bản thể luận duy tâm của triết học cổ điển Đức
+ Bản thể luận triết học của Cantơ
Một số quan điểm của Cantơ ở thời kỳ trước phê phán
Trong thời kỳ này, Cantơ (Immanuel Kant 1724-1804) tập
trung vào triết học tự nhiên để tìm và giải thích nguyên nhân
của sự sống, lịch sử phát triển của hệ Mặt Trời và Trái Đất, đặc
tính của vận động... Trong tác phẩm Lịch sử tự nhiên đại cương
và thuyết bầu trời (1755) và Những suy nghĩ về bản chất sự
sống... ông đã nêu một số quan điểm như sau:
Quan niệm về thế giới: Theo Cantơ, thế giới mà chúng ta
đang sống là thế giới vật chất luôn biến đổi không ngừng, mọi
sự vật đều liên hệ và tương tác lẫn nhau thông qua lực hút và

76
lực đẩy. Ông nói: "Hãy cho tôi vật chất tôi sẽ chỉ cho các anh
thấy thế giới phải ra đời từ vật chất như thế nào".
Quan niệm về vận động: Cantơ sử dụng tư tưởng của
Niutơn về sức hút để giải thích về sự vận động của vật chất.
Ông cho rằng nếu thế giới chỉ có sức hút thì không thể vận
động được; ngoài lực hút, còn phải có lực đẩy nữa. Tư tưởng
này là cơ sở để ông giải thích nguồn gốc của hệ Mặt Trời. Theo
ông, vũ trụ lúc đầu là đám bụi tinh vân khổng lồ, dần dần cô
đặc lại thành các hành tinh; còn Mặt Trời là trung tâm của vũ
trụ. Lực hút và lực đẩy làm cho các sự vật tự động xoay quanh
nó và xoay quanh Mặt Trời. Sở dĩ các hành tinh không bị hút
vào Mặt Trời là có lực đẩy, các hành tinh không bị đẩy ra xa
Mặt Trời là nhờ có lực hút.
Tóm lại, trong thời kỳ này ông vận dụng khoa học tự nhiên
để giải thích nguồn gốc của thế giới và vận động. tư tưởng bản
thể luận của ông ở giai đoạn này thể hiện rõ quan điểm duy vật,
tiến bộ.
Một số quan điểm của Cantơ ở thời kỳ phê phán.
Quan niệm về "vật tự nó": Theo ông, thế giới vật chất tồn
tại khách quan dưới dạng những sự vật riêng lẻ. Tuy nhiên, khi
nghiên cứu thế giới vật chất, chúng ta gặp phải mâu thuẫn trong
nhận thức. Bởi vì: Một mặt, nếu thừa nhận tri thức triết học và
khoa học phản ánh thế giới khách quan, mà thế giới khách quan
tồn tại dưới dạng các sự vật cá biệt, thì tri thức đó phải là tri
thức riêng lẻ, ngẫu nhiên mà không phải là tri thức phổ biến, tất
yếu. Nhưng, mặt khác, nếu thừa nhận tri thức mang tính phổ
biến, tất yếu thì phải thừa nhận tri thức này không phản ánh các
sự vật riêng biệt, không phản ánh thế giới khách quan. Điều này
nói lên rằng tri thức là sản phẩm của tư duy. Để giải quyết mâu
thuẫn trên Cantơ đưa ra khái niệm "vật tự nó" và thừa nhận sự
tồn tại của tri thức tiên nghiệm.
Ông cho rằng do thế giới vật chất xét về bản chất là "vật tự
nó", nên con người không nhận thức được bản chất - "vật tự nó"
của thế giới, mà chỉ nhận thức được hiện tượng bên ngoài của
nó mà thôi. Từ đó ông rút ra kết luận, tri thức của con người
không phản ánh thế giới khách quan, mà chỉ phản ánh các hiện
tượng của thế giới khách quan. Như vậy, ở đây, một mặt, ông
thừa nhận thế giới khách quan là những sự vật hiện tượng tồn
tại khách quan (tức quan điểm duy vật). Mặt khác, ông cho con
người không nhận thức được thế giới - "vật tự nó" (tức bất khả
tri). Theo nhận xét của V. I. Lênin, Cantơ đã dung hòa giữa duy
vật và duy tâm.
+ Bản thể luận triết học của Hêghen
Hêghen (Friedrich Hegel 1770 - 1831) đã xây dựng hệ
thống triết học của mình dựa trên quan điểm duy tâm khách
quan về ý niệm. Quan điểm về ý niệm của ông khác với quan
điểm về ý niệm của Platôn. Nếu ý niệm của Platôn là tồn tại bất
động, bất biến (không phát triển); thì ý niệm của Hêghen luôn
nằm trong trạng thái vận động, biến đổi. Nó phát triển trải qua
các giai đoạn khác nhau. Thông qua sự vận động, biến đổi (phát
triển) của ý niệm, thế giới vật chất và đời sống tinh thần của con
người được biểu hiện ra.
78
Hêghen chia quá trình vận động của ý niệm thành 3 giai
đoạn lớn. Mỗi giai đoạn lớn này được nghiên cứu bởi một phần
trong hệ thống triết học đồ sộ của ông. Do ý niệm bắt đầu từ
Lôgích trải qua Giới tự nhiên rồi kết thúc trong Tinh thần con
người; nên hệ thống của Hêghen có 3 bộ phận triết học cấu
thành là: Khoa học lôgích - Triết học tự nhiên - Triết học tinh
thần.
Khoa học lôgích gồm 3 học thuyết: Học thuyết về tồn tại;
học thuyết về bản chất; và học thuyết về khái niệm.
Học thuyết về tồn tại: Theo Hêghen, tồn tại xuất phát không
phải là tồn tại hiện hữu, mà là tồn tại thuần túy; nghĩa là, tồn tại
ở một phương diện nhất định được đồng nhất với hư vô, tồn tại
dẫn đến sinh thành. Quá trình chuyển từ tồn tại thuần túy sang
sinh thành là sự thống nhất giữa chất, lượng, độ. Chất là tính
quy định bên trong của sự vật, hiện tượng, quá trình. Lượng là
tính quy định bên ngoài của chúng. Độ là sự thống nhất của
chất và lượng với nhau trong sự vật, để sự vật là nó. Khi lượng
của sự vật thay đổi vượt quá độ (qua điểm nút) thì chất này
chuyển thành chất khác (qua bước nhảy vọt).
Trong học thuyết về tồn tại của mình, Hêghen đã trình bày
các quy luật, phạm trù của phép biện chứng mà cho đến nay
người ta chưa tìm thêm được một quy luật, phạm trù nào khác.
Nhưng đây mới chỉ là học thuyết về sự phát triển của ý niệm.
Học thuyết về bản chất: Nếu trong học thuyết về tồn tại,
Hêghen trình bày cách thức vận động phát triển, thì trong học
thuyết về bản chất ông trình bày nguồn gốc dẫn đến sự phát
triển đó. Ở đây ông đã đưa ra khái niệm nguồn gốc của sự vận
động phát triển. Đó là sự giải quyết các mâu thuẫn của các mặt
đối lập bên trong sự vật. Khi nghiên cứu quá trình vận động
phát triển của ý niệm, ông cho rằng trong bản thân ý niệm vốn
có sẵn cái khác biệt được sinh ra từ cái đồng nhất. Lúc đầu là
khác biệt nhỏ, do tích lũy dần dần đến khác biệt cơ bản (đối
lập); từ đây mâu thuẫn hình thành và phát triển dẫn đến chuyển
hóa.
Hêghen cho rằng bên trong bất cứ sự vận động nào cũng
chứa mâu thuẫn. Việc không thừa nhận mâu thuẫn là định kiến
tệ hại của phép siêu hình. Học thuyết của ông đã mở ra một
giai đoạn mới trong học thuyết về sự phát triển.
Học thuyết về khái niệm: Hêghen cho rằng khái niệm không
phải đứng im chết cứng, mà có đời sống của nó. Khái niệm trải
qua các giai đoạn khác nhau của sự nhận thức. Để nhận thức sự
vật, phải trải qua hai giai đoạn nhận thức là giai đoạn trực quan
cảm tính (với cảm giác, tri giác, biểu tượng) và giai đoạn lý tính
(với khái niệm, phán đoán, suy lý). Theo ông, do khái niệm luôn
luôn biến đổi, mà phán đoán được xây dựng trên khái niệm
ngày càng sâu sắc hơn.
Đóng góp lớn của Hêghen cho lịch sử nhận thức của nhân
loại là sự khắc phục tính chất siêu hình trong lý luận nhận thức
trước đó (tuyệt đối hóa một giai đoạn nhận thức), bằng cách chỉ
ra sự thống nhất biện chứng của hai quá trình nhận thức. Ý niệm
qua các giai đoạn tha hóa (từ học thuyết về tồn tại, đến học
thuyết về bản chất, học thuyết về khái niệm) đã sản sinh ra giới
80
tự nhiên. Giới tự nhiên chẳng qua là sự tha hóa của ý niệm.
Triết học tự nhiên gồm 3 học thuyết: Cơ học, Vật lý học,
Sự sống (hữu cơ). Trong triết học tự nhiên, Hêghen cho rằng
không chỉ giới vô cơ mà ngay cả đời sống hữu cơ cũng là sự
tha hóa của ý niệm. Nếu ý niệm luôn tự vận động, biến đổi và
phát triển; thì ngược lại, giới tự nhiên không tự vận động,
không biến đổi và cũng không phát triển theo thời gian. Nó
chẳng qua chỉ là sản phẩm thụ động (tha hoá) của ý niệm năng
động. Dù thụ động, song giới tự nhiên vẫn vận động biến đổi
trong không gian. Vì vậy, nó chuyển sang tinh thần.
Triết học tinh thần gồm 3 học thuyết: Học thuyết về tinh
thần chủ quan, học thuyết về tinh thần khách quan và học
thuyết về tinh thần tuyệt đối. Heghen cho rằng các giai đoạn
tinh thần chỉ là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trên trần gian.
Tinh thần chủ quan, thể hiện sự tồn tại trước hết của mình
trong linh hồn con người (đối tượng nhận thức của nhân loại
học); sau đó nó thể hiện trong ý thức (đối tượng nhận thức của
Hiện tượng học) để phân biệt với cơ thể; và sau cùng nó thể
hiện trong tri thức (đối tượng nhận thức của tâm lý học) - cái
tinh thần bắt thế giới bên ngoài phục tùng nó. Trong Nhân loại
học, Hêghen không chỉ lấy linh hồn làm đối tượng mà còn phát
triển những quan niệm chủng tộc phản động, cho rằng người
Đức là dân tộc tối cao. Trong Hiện tượng học, những hiện
tượng thực tế đều bị coi là những thực thể trừu tượng thể hiện
những tính quy định của tinh thần thế giới.
Tinh thần khách quan là sự phủ định biện chứng tinh thần
chủ quan. Nó thể hiện ý niệm tuyệt đối - tinh thần thế giới
mang tính tự do trước hết trong Pháp quyền. Hêghen cho rằng
triết học pháp quyền lấy ý niệm pháp quyền và việc thực hiện
của nó làm đối tượng. Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể
đạo đức, thì tinh thần khách quan tự do tự phát triển nâng lên
lĩnh vực Đạo đức. Đạo đức là pháp quyền của hành vi. Tinh
thần khách quan hoàn thành quá trình tự phát triển trong Phong
hóa. Phong hóa là sự hiện thực và cụ thể hóa của tự do; trong
đó, hình thức cao nhất của nó là Nhà nước. Trong học thuyết về
tinh thần khách quan, Hêghen trình bày sự đối lập bản chất của
tinh thần tự do với bản chất của vật chất. Từ đó ông cho rằng
lịch sử phát triển tiến bộ của thế giới là chỉ có thể là sự tiến bộ
trong ý thức tự do.
Tinh thần tuyệt đối là sự thống nhất của tinh thần chủ quan
và tinh thần khách quan. Hêghen có kì vọng làm cho triết học
của ông đem lại chân lý tuyệt đối, cho nên ông đặt tinh thần
tuyệt đối vào kết thúc toàn bộ hệ thống. Nó bắt đầu thể hiện
trong nghệ thuật (hình ảnh), sau đó, nó thể hiện trong tôn giáo
(biểu tượng) và cuối cùng nó hoàn thiện chính mình trong triết
học của Hêghen (khái niệm). Hêghen cho rằng triết học của ông
là học thuyết về tinh thần tuyệt đối. Nó là sự tổng hợp toàn bộ
giá trị của mọi học thuyết có giá trị trước đây thuộc mọi lĩnh
vực nghiên cứu tinh thần của con người. Nó là khoa học của
mọi khoa học. Trong triết học của ông ý niệm tuyệt đối đã hoàn
thành quá trình nhận thức, đã khám phá ra chính mình và quay
trở về với mình trong học thuyết về tinh thần tuyệt đối. Tinh

82
thần tuyệt đối là kết quả tối cao triệt để của lịch sử thế giới và
chứa đựng trong lòng nó tất cả sự phát triển của tương lai.
e. Bản thể luận trong triết học phương Tây đương đại
(Lý luận về “tồn tại của vật tồn tại” của Hâyđơgơ –
Heidegger 1889-1976)
Trong học thuyết của mình, Hâyđơgơ lưu ý rằng ông không
bàn về thực tại, hay thực tại của các sự vật, mà về hiện thể của
thực tại, tồn tại của thực tại, hiểu như cơ sở của sự vật. Bất chấp
ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khái niệm tồn tại đã
quá rõ ràng, minh bạch, Hâyđơgơ vẫn khẳng khái tuyên bố: cho
đến nay tồn tại vẫn là khái niệm mơ hồ nhất. Vấn đề ở chỗ “tồn
tại” là một khái niệm quá ư rộng lớn, không chỉ cắt nghĩa vài ba
dòng bằng cách phân biệt chủng loại và tiểu luận. Do đó, triết
học không thể là khoa học về tồn tại, cần phải tìm kiếm những
con đường và những phương tiện khác, ngoài phạm vi khoa học
để nhận thức nó. Cho dù tồn tại, như tồn tại của thực tại nói
chung không được xác định hoàn toàn, vẫn có một hình thức
tồn tại mà chúng ta biết rõ – đó là tồn tại của riêng có của chúng
ta. Con người hơn các thực tại khác ở chỗ con người ý thức
được sự tồn tại của mình và có thể nói “tôi là”. Ngay cả nếu
không biết thế nào là tồn tại, tôi vẫn biết tôi đang tồn tại, bởi lẽ
và có thể nói “tôi là”. Ngay cả nếu không biết thế nào là tồn tại,
tôi vẫn biết tôi đang tồn tại, bởi lẽ tôi cảm nhận sự tồn tại của
mình đầy đủ hơn bất ký cái gì khác. Hơn nữa con người còn
nhận ra nhiều điều trong tồn tại của mình.
Con người là một tồn tại có năng lực tự ý thức. Để cắt
nghĩa tồn tại này, Hâyđơgơ sử dụng thuật ngữ Dasein, thường
được dịch là “hiện thể”, đôi khi thành “tồn tại - ý thức”. Tóm
lại, hiểu biết về tồn tại tự nó là đặc trưng tồn tại của hiện thể.
Hiện thể khai thông con đường đi đến hữu thể. Tuy nhiên, hiện
thể chưa bao giờ là đối tượng, bởi lẽ chúng ta không thể nhìn
vào chính mình từ phía người khác. Mà do khoa học luôn chỉ
hướng đến đối tượng, nên hiện thể không thể là đối tượng của
nhận thức khoa học và những phương pháp thường thấy của nó
không thể dùng để cắt nghĩa hiện thể. Phương pháp duy nhất để
nhận thức hiện thể là nếm trải nó và mô tả nó như chính nó đã
khai lộ ra trong dòng cảm xúc này.

II. NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC


MÁC-LÊNIN

1. Phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề bản thể luận
trong triết học Mác-Lênin
Trong lịch sử triết học trước Mác, vấn đề bản thể luận được
các nhà triết học thảo luận một cách rộng rãi. Họ tập trung bàn
về vấn đề “tồn tại” và “không tồn tại”. Các nhà triết học duy
tâm thường quy “tồn tại” vào lực lượng siêu nhiên, có trước (ý
niệm, thượng đế, thần linh,…) - cái đầu tiên sinh ra vật chất.
Trái lại các nhà triết học duy vật đều xuất phát từ bản thân thế
giới để nhận thức sự tồn tại của nó. Họ cho rằng thế giới vật
chất tồn tại tự nó: tự tồn tại, tự vận động, tự phát triển; nó là
nguyên nhân của chính nó và là nguyên nhân của mọi cái khác.
Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác, lại quy “tồn tại” của
thế giới vật chất (cái vô cùng tận và vĩnh viễn) vào “tồn tại” của
84
sự vật cụ thể, hoặc vào thuộc tính của nó (cái hữu hạn và tạm
thời).
Những sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, cùng với
mặt hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác, đã trở thành vật
cản cho sự phát triển khoa học hiện đại và triết học. Điều này
chỉ được khắc phục một cách triệt để trong hệ thống triết học
mới – triết học Mác-Lênin.
- Cách tiếp cận mới của triết học Mác-Lênin về bản
thể luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại của thế
giới tự nhiên là tiền đề cho sự thống nhất của nó; song sự thống
nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó. Ph. Ăngghen:
“Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, vì
trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất, thì trước hết thế
giới phải tồn tại đã”20. Sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa
duy vật với chủ nghĩa duy tâm không phải ở việc thừa nhận hay
không thừa nhận tính thống nhất của thế giới, mà là ở chỗ chủ
nghĩa duy vật cho rằng cơ sở của sự thống nhất của thế giới là ở
tính vật chất của nó. Quan niệm này thể hiện tính nhất nguyên
luận duy vật triệt để; dựa trên sự tổng kết những thành tựu nhân
loại đã đạt được trong hoạt động thực tiễn, trong triết học, cũng
như trong khoa học. Ph. Ăngghen viết: “Tính thống nhất thực
sự của thế giới là ở tính vật chất của nó và tính vật chất này
được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ

20
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20,
tr. 67.
làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn
của triết học và khoa học tự nhiên”21.
2. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
- Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin và các nội dung cơ bản
của định nghĩa
Theo Lênin, phạm trù vật chất là phạm trù “rộng đến cùng
cực, rộng nhất, mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận cũng
chưa vượt quá được”22. Khi định nghĩa phạm trù này, không thể
quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng
không thể quy về phạm trù rộng hơn, vì đến nay chưa có phạm
trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định
nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với phạm trù ý thức, vật
chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thức hai. Bằng phương pháp
đó, phạm trù vật chất của Lênin được định nghĩa như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”23.
Trong định nghĩa này, V.I. Lênin phân biệt hai vấn đề quan
trọng:
Trước hết, cần phân biệt vật chất, với tư cách là phạm trù
triết học, với các quan niệm của khoa học tự nhiên, về cấu tạo

21
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20,
tr. 67.
22
. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr. 172.
23
. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr. 151.
86
và những thuộc tính cụ thể, của các đối tượng các dạng vật chất
khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học, chỉ vật
chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi, còn
các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu
đều có giới hạn, nó sinh ra và mất đi, chuyển hóa thành cái
khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể,
không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể
của vật chất, như các nhà triết học duy vật trong lịch sử cổ đại,
cận đại đã quan niệm.
Thứ hai, trong nhận thức luận, khi đem vật chất đối lập với
ý thức, cái quan trọng để nhận biết vật chất, chính là thuộc tính
khách quan. Khách quan theo V.I. Lênin là “cái đang tồn tại độc
lập với loài người và với cảm giác của con người”. Trong đời
sống xã hội, “vật chất là cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào
ý thức xã hội của con người”. Về mặt nhận thức luận, khái niệm
vật chất không có nghĩa gì khác hơn “thực tại khách quan tồn
tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản
ánh”.
Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin, bao gồm
những nội dung cơ bản như sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và
không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã
nhận thức được, hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người, khi gián
tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Định nghĩa của Lênin về vật chất đã bao quát cả hai mặt
của vấn đề cơ bản của triết học, trên lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, cả về bản thể luận và nhận thức luận. Định
nghĩa vật chất của Lênin có ý nghĩa thế giới quan và phương
pháp luận sâu sắc đối với nhận thức khoa học và thực tiễn. Định
nghĩa cũng đã khắc phục được tính chất siêu hình, trực quan
trong các quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước
Mác, quy vật chất vào các dạng cụ thể cảm tính, hoặc một thuộc
tính cụ thể nào đó của vật chất. Định nghĩa đã khẳng định, trong
hiện thực khách quan, mọi sự vật hiện tượng của thế giới vật
chất đều có liên hệ, chuyển hóa qua lại, biến đổi và phát triển.
Định nghĩa của Lênin về vật chất, đã chống lại các quan
điểm duy tâm về vật chất, tự nhiên. Hơn nữa, định nghĩa đã tạo
ra cơ sở lý luận để khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã
hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Chính vì không chỉ ra
được dạng vật chất của đời sống xã hội, nên khi giải thích các
hiện tượng xã hội, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã rơi vào lập
trường của chủ nghĩa duy tâm. Định nghĩa của Lênin về vật
chất bao quát cả dạng vật chất trong xã hội, đó là tồn tại xã hội
là tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con
người.
Là sự khái quát thành tựu của khoa học tự nhiên, định nghĩa
của Lênin về vật chất giữ vai trò định hướng cho sự phát triển
của nhận thức khoa học, giúp nhận thức khoa học tránh được
các cuộc khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng vật lý
học cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
88
Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương
thức tồn tại của vật chất; không gian và thời gian là những hình
thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph. Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung
nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất là
một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi
vị trí đơn giản cho đến tư duy”24.
Theo quan điểm của Ph. Ăngghen: vận động không chỉ
thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian, mà là “mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”; vận động “là
một phương thức tồn tại của vật chất là một thuộc tính cố hữu
của vật chất”, nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của
vật chất biểu hiện sự tồn tại của nó; vận động vật chất là tự thân
vận động. Sự tồn tại của vật chất gắn liền với vận động; vận
động là phương thức tồn tại của vật chất.
Dựa trên thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph. Ăngghen
đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản: vận động cơ
giới (sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian); vận động
vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các
quá trình nhiệt, điện,…); vận động hóa học (sự biến đổi các

24
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20,
tr.519.
chất vô cơ, hữu cơ trong những quá trình hóa hợp và phân giải);
vận động sinh vật (sự biến đổi của cơ thể sống, biến thái cấu
trúc gen,…); vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa,… của đời sống xã hội).
Các hình thức vận động cơ bản nói trên được sắp xếp theo
thứ tự từ trình độ thấp đến trình độ cao, tương ứng với trình độ
kết cấu của vật chất. Các hình thức có sự vận động khác nhau
về chất, song chúng không tồn tại biệt lập, mà có mối quan hệ
mật thiết với nhau, trong đó, hình thức vận động cao xuất hiện
trên cơ sở hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những
hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự
vật có nhiều hình thức vận động khác nhau, song bản thân nó
bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất
mà nó có.
- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của
vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một ví trí nhất
định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất
định và tồn tại trong các mối quan tương quan nhất định (trước
hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái) với những dạng
vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là
không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở
quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,…
Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không
có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có
90
không gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất vận động. Không
gian, thời gian đều có tính khách quan.
3. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về nguồn gốc
và bản chất của ý thức
- Khái niệm ý thức và nguồn gốc vật chất của ý thức
Khái niệm ý thức
Triết học duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc con người. Ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, nó tồn tại một cách đặc biệt -
gắn liền với sự tồn tại của giới tự nhiên, xã hội và chính bản
thân con người. Mác viết: “ý thức không phải là cái gì khác
như là tồn tại được nhận thức, còn sự tồn tại của con người là
quá trình hiện thực của đời sống của con người”. Sự tồn tại
một cách đặc biệt của ý thức được thể hiện ở những luận điểm
chủ yếu sau:
Một là, với tư cách là hiện tượng tinh thần của đời sống con
người và loài người, ý thức hiện hữu một cách trực tiếp trong
bộ não của mỗi con người. Ý thức được sinh ra và định vị trong
bộ não không phải là một hiện tượng vật chất thuần túy, mà là
hình ảnh chủ quan, tư tưởng, cảm xúc,…
Hai là, ý thức không phải là một hiện tượng tinh thần thần
bí mà nó được vật chất hóa (khách quan hóa) dưới dạng ngôn
ngữ, ký hiệu, biểu tượng, khái niệm, phạm trù,… và được thể
hiện trong các sự vật như sách vở, phim ảnh, băng từ,
nhạc cụ,...
Ba là, sự tồn tại của ý thức mang tính độc lập tương đối.
Nói đến tính độc lập tương đối của ý thức thì chúng ta chú ý
rằng: Thứ nhất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Thứ hai, sự tồn tại và phát triển của ý thức, một mặt phụ
thuộc vào thế giới khách quan, mặt khác nó còn bị chi phối bởi
những yếu tố bên trong nó. Nói cách khác, ý thức có quy luật và
lôgic phát triển bên trong riêng của mình. Vì vậy, ý thức không
bao giờ là hình ảnh “nguyên xi”, mà nó là hình ảnh đã được “tái
tạo”, “cải biến” của thế giới khách quan. Điều này thể hiện tính
tiêu cực hoặc tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn
của con người. Lênin nhấn mạnh: “Ý thức con người, không chỉ
phản ánh thế giới mà còn tạo ra thế giới khách quan”.
Nguồn gốc vật chất của ý thức
Ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển
của cả tự nhiên và của lịch sử xã hội con người. Nói cách
khác, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên, gồm bộ não người và sự phản ánh thế
giới khách quan vào bộ não con người. Nguồn gốc xã hội,
chính là lao động và ngôn ngữ. Giữa nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội có mối quan hệ với nhau, thống nhất với
nhau, vừa là điều kiện cần, vừa là điều kiện đủ cho sự ra đời,
hình thành và phát triển của ý thức. Tuy nhiên, nguồn gốc trực
tiếp và có ý nghĩa quyết định sự ra đời của ý thức là nguồn gốc
xã hội.
Bản chất phản ánh năng động, sáng tạo của ý thức
Như chúng ta đã biết, ý thức là sự phản ánh thế giới khách
92
quan vào bộ não người, trên cơ sở hoạt động thực tiễn mang
tính lịch sử - xã hội. Cho nên, về bản chất, ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy, ý thức là hình ảnh
chủ quan về hiện thực khách quan, chứ không phải bản thân
hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan chỉ là cơ sở, nguồn
gốc của nội dung phản ánh của ý thức mà thôi. Hình ảnh chủ
quan là hình ảnh phải thông qua bộ não con người, nó khác
hình ảnh vật lý, hình ảnh hóa học,…
Sự phản ảnh của ý thức không phải là sự phản ánh thụ
động, ý thức không phải là bản sao của thế giới khách quan một
cách khô cứng, giản đơn. Ý thức phản ánh sáng tạo lại hiện
thực, theo nhu cầu thực tiễn của con người. Tính sáng tạo của ý
thức được thể hiện rất đa dạng, phong phú, ý thức có khả năng
phản ánh chọn lọc hiện thực khách quan. Ý thức bao giờ cũng
tập trung phản ánh cái bản chất của hiện thực khách quan, theo
nhu cầu của con người, trước hết là nhu cầu thực tiễn. Tính
sáng tạo của phản ánh ý thức còn thể hiện ở chỗ: trên cơ sở
những tri thức đã có về sự vật, ý thức có thể sáng tạo ra những
tri thức mới về sự vật, có thể dự báo được xu hướng vận động,
biến đổi, phát triển của sự vật trong tương lai. Tính sáng tạo còn
thể hiện ở chỗ quá trình phản ánh ý thức của con người là quá
trình con người mô hình hóa khách thể trong bộ não của mình,
dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, không loại trừ sự
phản ánh, mà luôn thống nhất với cái phản ánh, trên cơ sở của
cái phản ánh. Phản ánh và phản ánh sáng tạo là hai đặc tính
thuộc về bản chất của ý thức. Chính thực tiễn xã hội là cơ sở tạo
nên sự năng động, sáng tạo của ý thức.
Kết cấu và chức năng của ý thức
Ý thức là một hiện tượng phức tạp, người ta có thể chia nó
thành ý thức cá nhân và ý thức xã hội, thành tự ý thức, tiềm
thức và vô thức, v.v.
Trong ý thức có những yếu tố như tri thức, tình cảm, ý
chí,… trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất, vì đó là sự
hiểu biết về hiện thực khách quan của chủ thể ý thức.
Ý thức giữ vai trò là nhân tố đặc trưng cho hành vi của con
người và hoạt động xã hội. Thông qua phản ánh thế giới xung
quanh, con người ý thức về mình như một cá nhân đang tồn tại,
đang nhận thức, có tư duy, có cảm giác, có hành vi đạo đức và
có vị trí trong xã hội. Do vậy, con người trong khi hành động
trong xã hội, luôn hành động có ý thức về hậu quả hành vi của
mình, có trách nhiệm về hành vi của mình, biết trước được hệ
quả hành vi của mình.
Ý thức là cơ sở cho hoạt động cải biến giới tự nhiên. Ý thức
không chỉ phản ánh thế giới, mà còn “sáng tạo” thế giới, thông
qua hoạt động thực tiễn, cải biến giới tự nhiên của con người. Ý
thức, tự nó không cải tạo được thế giới tự nhiên. Vai trò cải tạo
thế giới tự nhiên là ở chỗ ý thức chỉ đạo hoạt động - cải tạo thế
giới của con người; góp phần hình thành mục tiêu, kế hoạch, ý
chí, biện pháp cho con người – chủ thể hoạt động cải tạo thế
giới. Vai trò của ý thức còn thể hiện ở chỗ, ý thức ảnh hưởng rất
lớn đến việc con người hoạt động đúng, hay không đúng với
94
những quy luật khách quan mà ý thức cung cấp cho con người.
Rõ ràng sức mạnh, ý nghĩa, vai trò to lớn của ý thức không thể
tách rời điều kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan mà
dựa vào điều kiện vật chất, thông qua phương tiện vật chất và
hoạt động thực tiễn của con người.
Ngày nay, khi mà nền kinh tế tri thức đang hình thành, thì
vai trò của ý thức nói chung, của tri thức nói riêng là hết sức to
lớn. Với ý nghĩa đó, ý thức đóng vai trò hết sức quan trọng
trong phát triển lực lượng sản xuất, trong cải tạo xã hội, nhằm
phục vụ con người.
Ý thức có khả năng nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn
cải biến giới tự nhiên và xã hội. Bởi lẽ, hoạt động cải tạo tự
nhiên, xã hội của con người chỉ có được hiệu quả khi con người
– chủ thể hoạt động có tri thức – tức sự hiểu biết về tự nhiên và
xã hội, có ý chí quyết tâm, có niềm tin, nghị lực vươn lên. Do
vậy, ý thức góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến thế
giới tự nhiên và xã hội.
4. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo
quan điểm của triết học Mác – Lênin
- Tính quyết định của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý
thức là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất
quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là
bộ não người, nên chỉ con người mới có ý thức. Trong mối quan
hệ giữa con người với thế giới vật chất, thì con người là kết quả
của quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất là sản phẩm
của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự
phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là
một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có
trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội
của ý thức (bộ não người, thế giới khách quan tác động lên bộ
não gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc
chính bản thân thế giới vật chất, hoặc là những dạng tồn tại của
vật chất, nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất là hình ảnh chủ quan
về thế giới vật chất, nên nội dung của ý thức được quyết định
bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức
biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học và quy luật xã hội
và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố
này thuộc lĩnh vực vật chất, nên vật chất không chỉ quyết định
nội dung, mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện, cũng như
mọi sự biến đổi của ý thức.
- Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì ý
thức là thuộc tính của con người, nên nói đến vai trò của ý
thức là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó
không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay
đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật
96
chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ
đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra, hay
thay đổi thế giới vật chất, mà nó trang bị cho người tri thức về
thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục
tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn
phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện,… để thực hiện
mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của
mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất, diễn ra theo
hai hướng: tích cực và tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng,
có tri thức khoa học, có năng lực, có ý chí hành động phù hợp
với quy luật khách quan, trong thực hiện mục đích của mình,
thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức.
Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực
khách quan, bản chất, quy luật khách quan làm trái quy luật
khách quan sẽ tác động tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối
với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con
người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt
động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất
bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về
vai trò của vật chất, ý thức, có thể thấy rằng không bao giờ và
không ở đâu ý thức lại quyết định vật chất. Trái lại, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng
tạo của ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý
thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác
động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ
thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ
chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật
chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý
thức.
5. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất – ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng thế giới vật chất,
(các sự vật với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó) tồn
tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người, còn ý
thức là sự phản ánh chủ động, sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ não con người. Mặc dù ý thức do vật chất sinh ra và quyết
định, nhưng với tính độc lập tương đối, ý thức tác động (thúc
đẩy hoặc kìm hãm) trở lại thế giới vật chất. Vì vậy, trong đời
sống xã hội con người phải tuân thủ những nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, con
người phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế
khách quan làm cơ sở cho mọi hoạt động của mình. Điều đó có
nghĩa là, phải căn cứ vào bản chất vào lợi ích khách quan của
sự vật và nhu cầu, lợi ích của quần chúng lao động để hoạch
định đường lối, chính sách của cách mạng. Và khi thực hiện
đường lối, chính sách phải căn cứ vào đặc điểm thực tiễn của
98
đất nước trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể để vận dụng cho thích
hợp.
- Thứ hai, cùng với việc xuất phát từ thực tế khách quan,
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người
phải luôn phát huy tính năng động chủ quan của ý thức. Phát
huy tính năng động chủ quan của ý thức, trước hết là phát huy
tính chủ động, tích cực sáng tạo của nó trong việc nghiên cứu
năm bắt đúng bản chất, quy luật khách quan của sự vật và nhu
cầu, nguyện vọng của quần chúng để luận chứng cho việc xây
dựng đường lối, chính sách và thực hiện trong thực tiễn. Đồng
thời, phải tạo điều kiện để hạn chế những yếu tố tiêu cực , bảo
thủ, lạc hậu của ý thức, thường xuyên đổi mới tư duy và
phương pháp hoạt động. Lúc sinh thời, Lênin đã nhiều lần cảnh
báo về sức ì, tính bảo thủ trì trệ của tâm lý tiểu nông và căn
bệnh chủ quan duy ý chí của con người trong suy nghĩ và hành
động.
Trong lịch sử cách mạng ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới,
bên cạnh những thành tựu đạt được, Đảng ta đã “phạm sai lầm
chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: Nóng vội
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều
thành phần…”25. Vì vậy dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-
Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình
lãnh đạo cách mạng. Đại hội VII đã rút ra bài học quan trọng là:
“Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,

25
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa. Nxb Sự thật. Hà Nội, 1991, tr.4.
tôn trọng quy luật khách quan”26.
Những thành tựu to lớn cũng như những yếu kém tồn tại
trong gần 30 năm đổi mới vừa qua đều thể hiện trình độ, năng
lực, nghệ thuật của con người trong việc nắm bắt và vận dụng
mối quan hệ vật chất - ý thức và nguyên tắc phương pháp luận
của nó trong thực tiễn đổi mới đất nước.

26
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa. Nxb Sự thật. Hà Nội, 1991, tr.5-6.
100
CHƯƠNG 3

PHÉP BIỆN CHỨNG

I. KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA PHÉP


BIỆN CHỨNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

1. Khái niệm “biện chứng” và khái niệm “siêu hình”


+ Thuật ngữ “biện chứng” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là
dialektica (với nghĩa là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận). Theo
nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân
lý, bằng cách phát hiện mâu thuẫn trong lập luận của đối
phương và bảo vệ lập luận của mình. Người Hy Lạp cổ đại cho
rằng đã là tri thức đúng thì không thể có mâu thuẫn trong tri
thức đó và quá trình đi tới chân lý là quá trình giải quyết những
mâu thuẫn trong lập luận.
Trong triết học Mác, thuật ngữ “biện chứng” được hiểu là
cái đối lập với thuật ngữ “siêu hình”. Biện chứng, vừa là lý
luận, đồng thời cũng vừa là phương pháp xem xét sự vật trong
trạng thái liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau
và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng. Phương
pháp biện chứng không chỉ nhìn thấy những sự vật, hiện tượng
riêng biệt, mà còn nhìn thấy mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng;
không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật, mà còn thấy cả sự hình
thành và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy trạng thái tĩnh,
mà còn thấy trạng thái động của sự vật, hiện tượng. Theo
Ph.Ăngghen, phương pháp biện chứng “xem xét những sự vật
và những phản ánh trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn
nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh
và tiêu vong của chúng”27.
+ Thuật ngữ “siêu hình” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là
metaphysica, với nghĩa là “những gì sau vật lý học”. Theo
Arixtốt (384-322 TCN), “những gì sau vật lý học” là những
hiện tượng “siêu vật lý” thuộc về tinh thần, ý thức là bản chất
của sự vật, hiện tượng mà Arixtốt gọi là “vô hình” hay “siêu
hình”.
Trong triết học Mác, thuật ngữ siêu hình được hiểu theo
nghĩa là phương pháp xem xét sự tồn tại của sự vật, hiện tượng
và sự phản ánh chúng vào tư duy con người trong trạng thái biệt
lập, nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và
trong trạng thái không vận động, phát triển, còn nếu có vận
động phát triển thì cũng chỉ thay đổi về lượng chứ không thay
đổi về chất. Siêu hình là phương pháp xem xét có tính một
chiều, tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia, phủ nhận các khâu
trung gian, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
Các nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không
thể dung hòa, có là có, không là không; hoặc tồn tại, hoặc
không tồn tại; sự vật, hiện tượng không thể vừa là chính nó, vừa
lại là cái khác nó; là cái khẳng định và phủ định tuyệt đối, bài

27
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20,
tr. 38
102
trừ lẫn nhau. Ph. Ăngghen khẳng định, phương pháp siêu hình
“chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt, mà không nhìn thấy mối
liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại
của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu
vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của sự
vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy cây mà không nhìn thấy rừng”28
Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét
sự vật một cách máy móc, biệt lập, bất biến với tư duy cứng
nhắc, không linh hoạt; còn phương pháp biện chứng là phương
pháp xem xét sự vật một cách sinh động trong mối liên hệ ràng
buộc nhau, trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng
với tư duy sâu sắc, mềm dẻo, linh hoạt và uyển chuyển. Ph.
Ăngghen đã chỉ ra “điều căn bản” của phép biện chứng là
“xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư
tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự
ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của
chúng”29.
2. Phép biện chứng duy vật chất phác, sơ khai trong lịch
sử triết học phương Đông, phương Tây thời kỳ cổ đại
Phép biện chứng “tự phát” thời cổ đại được thể hiện khá rõ
nét trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Trong
Phật giáo, quan niệm về nhân duyên, vô ngã, vô thường đã chứa
28
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 20,
tr. 37.
29
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 21,
tr. 38.
đựng những tư tưởng biện chứng sơ khai sâu sắc. Trong thuyết
Âm Dương, “Âm - Dương” là khởi nguyên của vạn vật; “Âm -
Dương” thể hiện dưới dạng những mặt đối lập phong phú và đa
dạng như: sáng - tối, trắng - đen, cao - thấp, thịnh - suy, thiện -
ác,… “Âm - Dương” tồn tại trong mối liên hệ quy định lẫn
nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái bất biến với cái biến đổi;
giữa cái duy nhất với cái số nhiều, đa dạng, phong phú. Trong
thuyết Ngũ hành, năm yếu tố Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ tồn
tại và biến đổi trong mối liên hệ tương sinh, tương khắc với
nhau. Các yếu tố đó tác động, chuyển hóa lẫn nhau, ràng buộc,
quy định lẫn nhau, tạo ra sự biến đổi trong vạn vật. Lão Tử
(khoảng thế kỷ V TCN) cho rằng vạn vật bị chi phối bởi hai luật
phổ biến là quân bình và phản phục. Luật quân bình luôn giữ
cho sự vận động của sự vật theo một trật tự điều hòa trong tự
nhiên, không có thái quá, không có bất cập. Luật phản phục chỉ
ra rằng sự vật phát triển tột độ, thì lại trở thành cái đối lập với
nó. Trong Đạo đức kinh còn có những tư tưởng biện chứng trực
quan khi cho rằng bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng đều là thể
thống nhất của hai mặt đối lập vừa xung khắc với nhau, vừa
nương tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau, … Trong thế giới,
“cái gì khuyết ắt được tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng, cái
gì cũ thì mới lại, cái gì ít sẽ được, cái gì nhiều thì mất”30 và “…
nếu muốn cho sự vật nào đó suy tàn thì tạm thời làm cho hưng
thịnh lên, để cho nó phát triển đến tột cùng, tất nhiên nó sẽ đổi
sang mặt ngược lại, nếu muốn thu lại, hãy mở ra, muốn đoạt
30
. Đạo đức kinh (bản dịch của Nghiêm Toản, 1959), Bộ quốc gia giáo dục, Sài
Gòn, chương 2.
104
lấy hãy cho đi…”31.
Có thể nói rằng các nhà triết học cổ đại Hy Lạp, đều là
những nhà biện chứng bẩm sinh, luôn nhìn thế giới trong sự
vận động, biến đổi không ngừng. Theo Hêraclít, “thế giới vật
chất tồn tại trong sự hình thành, vận động vĩnh viễn của sự
thống nhất giữa các mặt đối lập”, chẳng hạn như nóng - lạnh,
cứng - mềm, cao - thấp, sống - chết, trẻ - già,.v.v.. Tư tưởng
biện chứng của Hêraclít phản ánh sự vận động, biến đổi của
thế giới vật chất nhờ phát hiện ra mâu thuẫn nội tại của sự vật,
hiện tượng. Ông coi sự vận động, biến đổi của thế giới cũng
giống như sự chuyển động, trôi đi, chảy đi của một dòng sông
mà ông đã xây dựng trong Học thuyết về dòng chảy. Với quan
niệm như vậy, Hêraclít đã khái quát một số phạm trù của phép
biện chứng như logos (gồm logos chủ quan và logos khách
quan) để luận bàn về những quy luật khách quan của thế giới
vật chất và coi đó là nội dung cơ bản của phép biện chứng.
Sau Hêraclít, phép biện chứng cổ đại tiếp tục được hoàn thiện,
phát triển với nhiều nội dung phong phú. Như Xôcrát, người
đầu tiên sử dụng thuật ngữ biện chứng theo nghĩa nghệ thuật
tranh luận, hướng các bên cùng tập trung tới vấn đề tranh luận,
với mục đích đạt được chân lý bằng con đường đối lập các ý
kiến qua hình thức hỏi – đáp. Tư tưởng này được tiếp tục phát
triển trong quan niệm biện chứng của Platôn. Nhà triết học
Platôn cho rằng phép biện chứng là nghệ thuật tìm ra các khái

31
. Đạo đức kinh (bản dịch của Nghiêm Toản, 1959), Bộ quốc gia giáo dục, Sài
Gòn, chương 36.
niệm đúng là việc phân chia và gắn kết các khái niệm, bằng
công cụ hỏi – đáp để xác định đúng bản chất của các khái
niệm đó. Phép biện chứng của Arixtốt đưa ra tư tưởng về các
phạm trù, quy luật và xây dựng các hình thức cơ bản của tư
duy. Ph. Ăngghen khẳng định: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ
đại đều là những nhà biện chứng tự phát bẩm sinh và Arixtốt,
bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã
nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện
chứng”32.
Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự
phát, ngây thơ và trực quan. Các nhà triết học cổ đại nghiên cứu
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong bức tranh
chung, chỉnh thể về thế giới. Do trình độ còn thấp kém về khoa
học, nên phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những quan điểm
biện chứng mộc mạc, mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ
sở những kinh nghiệm trực giác, mà chưa được minh chứng
bằng các tri thức khoa học. Ph.Ăngghen khẳng định: “Hình
thức thứ nhất là triết học Hy Lạp. Trong triết học này, tư duy
biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phát tự nhiên chưa bị
khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu”… Mặc dù còn nhiều
hạn chế, nhưng nhìn chung, phép biện chứng cổ đại đã coi thế
giới là chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận phong phú, sinh
động của thế giới có mối quan hệ qua lại, thâm nhập, tác động
và quy định lẫn nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi.

32
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 20,
tr. 34.
106
Những tư tưởng cơ bản của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại là
cơ sở để phép biện chứng phát triển lên các hình thức cao hơn.
3. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức
(cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX)
Phép biện chứng cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ, qua
Phíchtơ, Sêlinh và phát triển đến đỉnh cao trong phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Ph. Ăngghen khẳng định: “hình
thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất
với các nhà khoa học tự nhiên Đức là triết học cổ điển Đức từ
Cantơ đến Heghen”33. Và có thể nhận xét một cách khái quát
rằng đặc trưng của phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức
(phân biệt với phép biện chứng chất phác thời cổ đại) là mối
liên hệ nội tại sâu sắc của nó gắn liền với học thuyết về tính
tích cực của chủ thể nhận thức.
Là người sáng tạo ra triết học cổ điển Đức và phép biện
chứng duy tâm, Cantơ đã khởi xướng nhiều tư tưởng biện
chứng lỗi lạc mà sau này Phíchtơ, Sêlinh và Hêghen kế thừa có
phê phán, bổ sung và phát triển lên một trình độ mới. Tư tưởng
biện chứng của Cantơ cơ bản là tư tưởng về sự thống nhất giữa
các mặt đối lập, theo đó, sự thống nhất và thâm nhập lẫn nhau
giữa các mặt đối lập là động lực của sự vận động và phát triển.
Động lực đó có trước vật chất và vận động tách rời vật chất.
Trong triết học Phíchtơ, tư tưởng biện chứng, cơ bản là tư tưởng
cho rằng mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển. Mâu thuẫn

33
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 20,
tr. 492.
và phát triển chỉ tồn tại trong ý thức, thể hiện vận động tiến bộ
của tư duy trong quá trình nhận thức. Trong triết học Sêlinh, tư
tưởng biện chứng là tư tưởng về mối liên hệ phổ biến; tư tưởng
về sự thống nhất biện chứng của tự nhiên, về sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập trong tự nhiên.
Trong triết học Hêghen, phép biện chứng duy tâm được
phát triển đến đỉnh cao, với hình thức và nội dung phong phú.
Để xây dựng phép biện chứng, Hêghen đã nghiên cứu và phát
hiện ra rất nhiều phạm trù khác nhau như tồn tại, hư vô, sinh
thành, chất, lượng, độ, điểm nút,v.v. cùng với các quy luật tạo
thành một hệ thống lý luận thống nhất. Về hình thức, phép biện
chứng duy tâm của Hêghen đã bao quát cả ba lĩnh vực, bắt đầu
từ các phạm trù lôgíc thuần túy, đến lĩnh vực tự nhiên và kết
thúc bằng biện chứng của toàn bộ quá trình lịch sử. Về nội
dung, Hêghen chia phép biện chứng thành tồn tại, bản chất và
khái niệm. Tồn tại là cái vỏ bên ngoài, trực tiếp, dễ nhận thấy
nhất mà con người có thể cảm giác và được cụ thể hóa trong
các phạm trù chất, lượng và độ. Bản chất là tầng gián tiếp của
thế giới, không thể nhận thức được bằng cảm giác, tồn tại trong
mâu thuẫn đối lập với chính mình và được thể hiện trong các
phạm trù “hiện tượng - bản chất”, “hình thức - nội dung”, “ngẫu
nhiên - tất nhiên”, “khả năng - hiện thực”,… Còn khái niệm
(mà hiện thân của nó là giới hữu cơ, sự sống) là sự thống nhất
giữa tồn tại với bản chất là cái vừa trực tiếp có thể cảm giác
được, vừa gián tiếp không thể cảm giác được, được thể hiện
trong các phạm trù “cái phổ biến”, “cái đặc thù”, “cái đơn

108
nhất”. Phép biện chứng trong giai đoạn này là “sự phát triển”,
nghĩa là sự chuyển hóa từ cái trừu tượng đến cái cụ thể; từ chất
này sang chất khác, được thực hiện nhờ giải quyết mâu thuẫn.
Phát triển, được coi là sự phát triển tịnh tiến của “ý niệm tuyệt
đối”, từ tồn tại đến bản chất, từ bản chất đến khái niệm, trong
đó khái niệm vừa là chủ thể, vừa là khách thể, đồng thời là “ý
niệm tuyệt đối”. Hêghen coi phát triển là nguyên lý cơ bản nhất
của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là “tha hóa” và
khẳng định “tha hóa” được diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả
tự nhiên, xã hội và tinh thần.
Các nhà biện chứng cổ điển Đức, mà Hêghen là điển
hình, đã áp dụng phép biện chứng vào nghiên cứu các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Qua đó đã xây dựng được hệ
thống phạm trù, quy luật chung, thống nhất, có lôgic chặt chẽ
của nhận thức tinh thần và trong một ý nghĩa nào đó là của cả
hiện thực vật chất. Mặc dù có nhiều “hạt nhân hợp lý” và, “lấp
lánh mầm mống phôi thai của chủ nghĩa duy vật”, nhưng phép
biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức vẫn còn mắc
phải những hạn chế nhất định. Theo V.I. Lênin, những kết luận
trong phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức là
những phỏng đoán tài tình về “biện chứng của sự vật trong biện
chứng của khái niệm”34. Phép biện chứng duy tâm trong triết
học cổ điển Đức đã hoàn thành cuộc cách mạng về phương
pháp, nhưng cuộc cách mạng đó lại ở tận trên trời, chứ không
phải ở dưới trần gian, trong cuộc sống hiện thực của loài người

34
. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 29, tr. 209.
và do vậy, phép biện chứng đó cũng “không tránh khỏi tính
chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc”35. Do vậy,
học thuyết của Hêghen đã tạo ra một khoảng rộng cho các quan
điểm thực tiễn có tính chất đảng phái và hết sức khác nhau xuất
hiện.
Theo V.I. Lênin, cống hiến lớn nhất của phép biện chứng
duy tâm trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là của Hêghen là
đã trở lại đúng bản thể của phép biện chứng, coi biện chứng
như một phương pháp xem xét và đối lập với phương pháp siêu
hình thế kỷ XVII, XVIII. Nếu phép biện chứng cổ đại chủ yếu
được đúc rút từ kinh nghiệm cuộc sống hàng ngày, thì phép
biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức, đã trở thành hệ
thống lý luận tương đối hoàn chỉnh và trong một chừng mực
nhất định, đã trở thành một phương pháp tư duy triết học phổ
biến. Lần đầu tiên, phép biện chứng thể hiện với tư cách là
lôgic biện chứng, khắc phục một số hạn chế của lôgic hình
thức. Lênin cho rằng phép biện chứng duy tâm trong triết học
cổ điển Đức, đã tạo ra bước quá độ chuyển biến về thế giới
quan và lập trường từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang thế giới
quan khoa học duy vật biện chứng. Tuy nhiên, với những hạn
chế của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức,
khi khoa học tự nhiên phát triển sang giai đoạn tổng quát,
nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng
trên quan điểm duy vật, thì tất yếu tư tưởng biện chứng đó sẽ bị
35
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 20,
tr. 41.

110
phủ định và thay thế bằng phép biện chứng duy vật.
4. Sự hình thành, phát triển của phép biện chứng duy
vật trong triết học Mác - Lênin
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật thường tách rời khỏi phép
biện chứng. Trong khi đó, phép biện chứng lại được nghiên cứu
và phát triển trong một số học thuyết triết học duy tâm, đặc biệt
là trong triết học Hêghen. Vì vậy, để xây dựng triết học mácxít.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã cải tạo một cách biện chứng chủ
nghĩa duy vật cũ, giải thoát chủ nghĩa duy vật ra khỏi tính máy
móc siêu hình; đồng thời cải biến một cách duy vật phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Trên cơ sở đó, các ông đã kiến tạo
nên triết học mácxít, mà về bản chất, đó là sự thống nhất hữu cơ
giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Như vậy, trong triết
học mácxít, chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng,
còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật.
Ph. Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về
sự liên hệ phổ biến”36 và “Phép biện chứng (…) là môn học
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự
phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”37.
V.I. Lênin viết: “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát
triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến
diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người,
nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không

36
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 20,
tr. 455.
37
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 20,
tr. 201.
ngừng”38. Hồ Chí Minh đánh giá “Chủ nghĩa Mác có ưu điểm
là phương pháp làm việc biện chứng”. Có thể hiểu phép biện
chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển; về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển
của tự nhiên, xã hội, tư duy.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa và phát triển sáng tạo,
những “hạt nhân hợp lý” trong lịch sử tư tưởng triết học nhân
loại, mà trực tiếp là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và
đặt nó trên nền tảng thế giới quan duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế
giới quan duy vật và phương pháp biện chứng; giữa lý luận
nhận thức và lôgic biện chứng. Sự xuất hiện của phép biện
chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy
triết học; là phương pháp tư duy có sự khác về chất, so với các
phương pháp tư duy trước đó; là “phương pháp mà điều căn
bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng
trong tư tưởng, trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau giữa chúng,
trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong
của chúng”39.
Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con
người tính tự giác cao trong mọi hoạt động. Những luận điểm
của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu rút ra

38
. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 53.
39
. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 20,
tr. 38

112
từ giới tự nhiên, cũng như từ lịch sử xã hội loài người. Mỗi
nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được
khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học. Chính vì vậy, phép
biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự
giác và trở thành phương pháp luận chung nhất của nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng. Trong khi vạch ra những tính
chất biện chứng chung nhất của thế giới, thông qua những phạm
trù, quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật rút ra những
quan điểm, nguyên tắc xuất phát để chỉ đạo việc hoạch định
phương pháp cho mọi hoạt động của con người. Đi sâu vào
từng nguyên lý, phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy
vật, chúng ta sẽ càng thấy rõ sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận
và phương pháp của phép biện chứng duy vật.

II. CÁC NGUYÊN LÝ, PHẠM TRÙ VÀ QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật


a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến là
khái niệm dùng để khái quát mối liên hệ, sự tác động qua lại,
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các
mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng. Cơ sở
của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới,
theo đó các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có
khác nhau đến thế nào đi chăng nữa, thì cũng chỉ là những dạng
cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng,
chúng luôn giữ vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn, không được tuyệt đối hóa mối quan hệ nào và
cũng không được tách rời mối liên hệ này khỏi mối liên hệ
khác, bởi trên thực tế, các mối liên hệ còn phải được nghiên cứu
cụ thể trong sự biến đổi và phát triển của chúng.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát bức tranh
toàn cảnh về thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa
các sự vật, hiện tượng phong phú, đa dạng, sinh động trong hiện
thực khách quan. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có
hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích
được trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều
mối liên hệ có hình thức, vai trò, tác động rất khác nhau. Từ
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, con người rút ra những quan
điểm, nguyên tắc chỉ đạo cho hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn đúng đắn, hiệu quả.
b. Nguyên lý về sự phát triển
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển là khái niệm
dùng để khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn hiện đến hoàn thiện hơn.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa có bước nhảy vọt làm
cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật hiện tượng mới về chất
ra đời. Phát triển là quá trình tự thân của sự vật, hiện tượng vật
chất. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối
lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường “xoáy
114
ốc”, cái mới xuất hiện dường như lặp lại một số đặc trưng, đặc
tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Sự phát triển còn thể
hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi
tương đối trong sự phát triển của sự vật, hiện tượng, quá trình
vật chất.
Phát triển là trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá
trình phát triển, sự vật, hiện tượng chuyển hóa sang chất mới,
cao hơn, phức tạp hơn làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức vận
động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn. Phát
triển có tính khách quan, phổ biến, đa dạng. Từ nguyên lý về sự
phát triển, con người rút ra được những quan điểm, nguyên tắc
chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2. Các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù cơ bản của
phép biện chứng duy vật
a. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Các mối quan hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được
phép biện chứng duy vật khái quát thành các phạm trù cơ bản
như cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên;
bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và kết quả; khả năng và
hiện thực; nội dung và hình thức,… Chúng được hình thành và
phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải
tạo tự nhiên, xã hội. Các phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn
nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng là cơ sở
phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp,
diễn dịch và quy nạp, khái quát hóa, trừu tượng hóa để từ đó
nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống. Các
phạm trù nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực là cơ
sở phương pháp luận, chỉ ra mối liên hệ và sự phát triển giữa
các sự vật, hiện tượng là một quá trình. Các phạm trù nội dung
và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình
thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa
dạng của các phương pháp nhận thức và thực tiễn. Các phạm trù
cơ bản được coi như các quy luật không cơ bản, chi phối sự tồn
tại, xuất hiện, vận động và biến đổi của sự vật, hiện tượng trong
thế giới.
b. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Bên cạnh các cặp phạm trù, phép biện chứng duy vật còn
khái quát ba quy luật phổ biến về sự vận động và phát triển của
tự nhiên, xã hội, tư duy. Đó là quy luật chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại;
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật
phủ định của phủ định.
+ Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại, chỉ ra cách thức vận động
và phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong đó, chất là tính quy
định khách quan vốn có của sự vật là sự thống nhất hữu cơ giữa
các thuộc tính làm cho nó là nó, mà không phải là cái khác.
Lượng là tính quy định khách quan vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển
của sự vật, cũng như các thuộc tính của nó. Mỗi sự vật đều là sự
thống nhất giữa chất và lượng. Giới hạn mà trong đó những
thay đổi về lượng của sự vật chưa tạo ra những thay đổi căn bản
116
về chất, gọi là độ. Những thay đổi về lượng vượt quá giới hạn
độ, sẽ làm cho chất của sự vật biến đổi căn bản. Điểm mà tại đó
có sự thay đổi căn bản về chất được thực hiện, gọi là Điểm nút.
Bước nhảy là bước phát triển làm thay đổi căn bản về chất của
sự vật, do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra. Mối quan hệ
giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất còn có chiều
ngược lại. Đến lượt nó, sự thay đổi về chất lại tác động đến
lượng, thúc đẩy lượng tiếp tục phát triển. Mối quan hệ giữa chất
và lượng là chuỗi biện chứng vô tận của hiện thực khách quan.
Nghiên cứu và nắm được nội dung quy luật lượng – chất,
giúp ta tránh được tư tưởng nóng vội, chủ quan, muốn đốt cháy
giai đoạn tích lũy về lượng. Đồng thời còn tránh được tư tưởng
tuyệt đối hóa sự thay đổi về lượng, không kịp thời chuyển
những thay đổi về lượng sang những thay đổi về chất, từ những
thay đổi mang tính tiến hóa sang những thay đổi mang tính cách
mạng và ngược lại, không biết sử dụng chất mới để thúc đẩy
lượng tiếp tục phát triển, hình thành cái mới.
+ Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật là quy luật chỉ ra
nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Theo phép
biện chứng, mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng biến
đổi trái ngược nhau. Mọi sự vật đều có những mặt đối lập. Sự
tác động giữa các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn bên trong sự
vật. Các mặt đối lập vừa thống nhất, lại vừa đấu tranh, chuyển
hóa với nhau. Trong đó, thống nhất là tương đối, tạm thời; đấu
tranh là tuyệt đối, vĩnh viễn. Sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, sự phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Quy luật mâu thuẫn có ý nghĩa phương pháp luận to lớn
trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn của sự vật, cũng
như tìm ra con đường, biện pháp đúng đắn để giải quyết mâu
thuẫn, thúc đẩy sự vật phát triển.
+ Quy luật phủ định của phủ định, chỉ ra khuynh hướng
phát triển của sự vật, hiện tượng vật chất. Phủ định biện chứng
là quá trình khách quan, tự thân là quá trình kế thừa cái tích cực
đã đạt được từ cái cũ là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra
đời của sự vật, hiện tượng mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình
phủ định của phủ định tạo thành sự vận động, phát triển không
ngừng, mang tính chu kỳ của thế giới khách quan. Trải qua
những lần phủ định, sự vật, hiện tượng dường như lặp lại những
giai đoạn đã qua trên cơ sở mới, cao hơn và như vậy, phát triển
không đi theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”, từ thấp
đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Quy luật phủ định của phủ định có một ý nghĩa phương
pháp luận to lớn trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới.
Quy luật khách quan này đòi hỏi phải xuất phát từ những điều
kiện khách quan cho phép; phải tạo điều kiện, tiền đề cho cái
mới chiến thắng cái cũ; phải biết kế thừa và phát triển sáng tạo
những cái tích cực đã đạt được từ cái cũ; đồng thời phải thấy
được tính chất quanh co, phức tạp trong quá trình ra đời cái
mới, đặc biệt là tiến trình phát triển của lịch sử xã hội.
Như vậy, trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật
118
chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại chỉ ra phương thức của sự phát triển, quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân
và động lực bên trong của sự phát triển, thì quy luật phủ định
của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả của sự
phát triển đó. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật,
định hướng việc nghiên cứu những quy luật đặc thù của các
khoa học chuyên ngành và các quy luật cơ bản về sự phát triển
của thế giới chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong sự gắn bó với
các quy luật đặc thù. Mối quan hệ giữa các quy luật cơ bản và
các quy luật đặc thù tạo nên cơ sở khách quan của mối liên hệ
giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các khoa học chuyên
ngành.

III. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN


CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG NHẬN THỨC
VÀ THỰC TIỄN
1. Những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của
phép biện chứng duy vật
Một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản được rút ra từ
nội dung của phép biện chứng duy vật giữ vai trò định hướng
cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Quá
trình phân tích nội dung các nguyên lý, phạm trù, quy luật của
phép biện chứng duy vật đã phần nào đề cập đến những nguyên
tắc phương pháp luận của chúng. Dưới đây là một số nguyên
tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật,
được xem xét trong mối liên hệ qua lại, phụ thuộc lẫn nhau
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
a. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn là một
trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, đặc biệt
quan trọng của phép biện chứng duy vật. Cơ sở lý luận của
nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Chúng ta phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc, quan điểm toàn
diện trong nhận thức và thực tiễn.
Để nhận thức đúng bản chất và quy luật của sự vật, nguyên
tắc toàn diện đòi hòi phải: a) Nghiên cứu tất cả các mặt (yếu tố,
thuộc tính, bộ phận) cấu tạo nên sự vật; b) Xem xét sự liên hệ
và tác động qua lại giữa các mặt đó; c) Đánh giá mức độ liên hệ
và tác động lẫn nhau giữa sự vật đó với những sự vật khác. Nói
cách khác, chúng ta phải nghiên cứu, xem xét và đánh giá tất cả
các mặt, các mối liên hệ tất yếu, vốn có của sự vật, hiện tượng
trong điều kiện cụ thể mà sự vật đó đang vận động, phát triển.
V.I. Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và
“quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”40 làm được như vậy “sẽ đề
phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc”41.
Quan điểm toàn diện, về nguyên tắc, đối lập với quan điểm
phiến diện, không chỉ ở chỗ nó hướng nhận thức của con người
vào việc xem xét nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật mà
điều quan trọng hơn là quan điểm toàn diện đi từ tri thức về

40
. V.I. Lênin: Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxccơva, 1979, tr. 364.
41
. V.I. Lênin: Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxccơva, 1979, tr. 364.
120
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát hóa
để rút ra cái bản chất, tính quy luật chi phối sự tồn tại và phát
triển của sự vật.
Như vậy, nguyên tắc toàn diện không những không đồng
nhất, mà còn đối lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy
biện. Chủ nghĩa chiết trung cũng chú ý nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ của sự vật, hiện tượng nhưng không rút ra được mặt bản
chất, mối liên hệ cơ bản của sự vật, hiện tượng, mà chỉ xem xét
một cách bình quân, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ khác
nhau, tạo thành một mớ hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng
túng, mất phương hướng và dẫn đến sai lầm. Thuật ngụy biện
lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất
thành cái bản chất. Cả chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện
đều là những biểu hiện khác nhau của phương pháp luận sai lầm
trong việc xem xét các sự vật, hiện tượng. Sự khác nhau giữa
chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện với phép biện chứng
duy vật là ở chỗ nếu thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung áp
dụng chủ quan tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của các khái
niệm thì ngược lại, phép biện chứng duy vật phản ánh sự vận
động, phát triển trong tính toàn diện của quá trình vật chất và sự
thống nhất của quá trình đó. Những phân tích trên cho thấy
lôgic của quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong nhận
thức, xem xét sự vật, hiện tượng phải trải qua nhiều giai đoạn,
cơ bản là đi từ quan điểm về cái toàn thể đến nhận thức mỗi
mặt; từ từng mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng, rồi đến
nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng
và cuối cùng rút ra tri thức về bản chất của sự vật, hiện tượng.
Trên cơ sở đó, có nhận thức và hoạt động thực tiễn đúng đắn,
khoa học.
b. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản, quan trọng của hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người. Cơ sở lý luận của nguyên
tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng
duy vật. Nguyên tắc phát triển yêu cầu khi xem xét sự vật, hiện
tượng, chúng ta phải xem xét nó trong trạng thái vận động, biến
đổi, chuyển hóa. Như vậy, chúng ta không chỉ nhận thức sự vật,
hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy khuynh
hướng phát triển của nó trong tương lai, nghĩa là phải cần phân
tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, hiện tượng, khái quát
những hình thức biểu hiện của sự biến đổi đó để tìm ra khuynh
hướng biến đổi của chính nó. Mặt khác, để xem xét sự vật, hiện
tượng trong sự vận động và phát triển để phát hiện ra các quy
luật quy định sự chuyển hóa về chất của sự vật để xem xét sự
vật từ giai đoạn này phát triển sang giai đoạn khác, cần phải chỉ
ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển là do mâu thuẫn, tồn
tại bên trong sự vật, hiện tượng. Điều quan trọng là phải xem
xét sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập;
phát hiện những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong, vốn có và
sự đấu tranh giữa những khuynh hướng ấy. “Điều kiện của một
sự nhận thức về tất cả các quá trình của thế giới trong “sự tự
vận động” của chúng, trong sự phát triển tự phát của chúng,
122
trong đời sống sinh động của chúng là nhận thức chúng với tính
cách là sự thống nhất của các mặt đối lập”42.
Phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng trong sự thống
nhất giữa các mặt đối lập, phát hiện những khuynh hướng mâu
thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu tranh giữa những khuynh
hướng ấy có vai trò quan trọng không những trong nhận thức sự
vật, hiện tượng với tính cách là đối tượng nhận thức đang vận
động, phát triển, mà còn có vai trò quan trọng trong việc giải
thích toàn bộ sự đa dạng của các thuộc tính khác và đối lập
nhau vốn có trong các trạng thái khác nhau về chất của chúng;
có vai trò quan trọng để chỉ ra sự những chuyển hóa từ trạng
thái này sang trạng thái về chất khác và sang mặt đối lập với nó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu chúng ta phải nhận thức sự
phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn. Mỗi giai đoạn phát triển, lại có những đặc điểm, tính chất,
hình thức khác nhau. Bởi vậy, phải có sự phân tích cụ thể, tìm
ra những hình thức tác động phù hợp để thúc đẩy, hoặc để hạn
chế sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn cần phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái
mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó
phát triển thay thế cái cũ; chống lại quan điểm bảo thủ trì
trệ,…Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp, bởi

42
. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, t. 29, tr. 379.
cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiến thắng cái cũ.
Trong quá trình đó, nhiều cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm
thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp. Nhận
thức như vậy sẽ giúp chúng ta vững tin ở cái mới, tìm mọi cách
vượt qua cản trở trên con đường phát triển, tạo điều kiện cho cái
mới chiến thắng cái cũ. Trong quá trình thay thế cái cũ, phải
biết kế thừa một cách có chọn lọc và cải tạo những yếu tố tích
cực đã đạt được, phát triển sáng tạo chúng trong cái mới.
c. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và
thực tiễn
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng là một trong những nguyên
tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc
lịch sử - cụ thể chúng ta cần phải xem xét sự hình thành, tồn tại
và phát triển của sự vật, hiện tượng trong điều kiện, môi trường
cụ thể, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Điểm xuất phát của nguyên
tắc lịch sử - cụ thể là sự tồn tại, vận động phát triển của các sự
vật, hiện tượng diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể.
Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau,
thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện
tượng cũng khác nhau, do vậy, chúng ta không chỉ nghiên cứu
sự vật, hiện tượng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu
chúng trong không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
- cụ thể khác nhau đó, để có sự hiểu biết đầy đủ, chính xác về
sự vật, hiện tượng.
Phương pháp nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận
124
động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó, biết phân
tích rõ mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong nội dung của
nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Bản chất của nguyên tắc lịch sử - cụ
thể nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng,
trong sự vận động, sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo
được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của
chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là tái tạo sự
vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch
sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo trình tự không
gian và thời gian. Đặc trưng quan trọng nhất của nguyên tắc
lịch sử - cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt
của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này
là ở chỗ nhờ đó ta có thể phản ánh được sự vận động lịch sử
phong phú và đa dạng các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật,
hiện tượng, từ đó nhận thức được bản chất của sự vật, hiện
tượng.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được sự
vận động có tính phổ biến là phương thức tồn tại của vật chất,
nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm cho sự vật, hiện
tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và
hình thức vận động quyết định bản chất của sự vật. Đồng thời,
phải chỉ rõ những giai đoạn cụ thể mà sự vật đã trải qua trong
quá trình phát triển; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, thì mới có
thể hiểu biết, giải thích đúng đắn những thuộc tính, những mối
liên hệ tất yếu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự
vật, hiện tượng.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức
những thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức
những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn yêu cầu chỉ
ra được các quy luật khách quan, quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả
năng chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ
định. Mặt khác, cũng cần chỉ ra được rằng thông qua sự phủ
định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới xuất hiện là sự kế tục
sự vật, hiện tượng cũ là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong
dạng đã được lọc bỏ, cải biến cho phù hợp với sự vật, hiện
tượng mới. Như vậy, chỉ khi tìm được mối liên hệ khách quan,
tất yếu giữa các trạng thái chất và lượng, tạo nên sự hình thành
và phát triển của sự vật, hiện tượng; tạo nên các quy luật quy
định sự tồn tại và chuyển hóa, quy định giai đoạn phát triển này,
sang giai đoạn phát triển khác thì mới có thể giải thích được
đầy đủ các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù, nhận thức
được bản chất thật sự của sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi chúng ta phải xem
xét sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ cụ thể của chúng.
Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của các sự vật,
hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển, mất đi của
chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất sự vật, hiện
tượng, như vậy mới có định hướng đúng đắn cho hoạt động
thực tiễn của con người. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận
126
thức, nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự
phụ thuộc của nhận thức vào trình độ phát triển của xã hội, trình
độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học trước đó.
2. Sự vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận biện
chứng duy vật trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
+ Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra
phương pháp nhận thức đồng bộ trong hoạt động thực tiễn.
Theo đó, muốn cải biến sự vật, hiện tượng, chúng ta cần phải áp
dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện
khác nhau, để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ
tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song, trong từng bước, từng
giai đoạn tác động, cần phải nắm đúng khâu trọng tâm, then
chốt để tập trung lực lượng giải quyết. Trước đây, trong giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, trên cơ sở phân tích toàn diện
bản chất xã hội Việt Nam là thuộc địa, nửa phong kiến, Đảng ta
chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam: thứ nhất là
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và thứ
hai là mâu thuẫn giữa nhân dân lao động Việt Nam, mà trước
hết là nông dân, với giai cấp địa chủ, phong kiến. Trong đó,
mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc xâm lược và
tập đoàn tay sai phản bội dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, cần tập
trung lực lượng giải quyết, sau đó giải quyết các mâu thuẫn
khác. Nhờ đó, cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi trọn vẹn. Ngày nay,
trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới,
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở
nhấn mạnh tính tất yếu phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh
vực chính trị, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là trọng
tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn quá trình đổi mới
gần 1/3 thế kỷ vừa qua đã chứng minh rằng những quan điểm
đó của Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng đắn, khoa học.
Trong mọi hoạt động thực tiễn, cần quán triệt và vận dụng
triệt để nguyên tắc toàn diện. Việc nghiên cứu trong các ngành
khoa học tự nhiên không tách rời nhau, ngược lại phải nghiên
cứu trong mối liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau giữa các
chuyên ngành khoa học đó. Có nhiều sự vật, hiện tượng phải có
sự nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học. Trong lĩnh vực xã
hội, nguyên tắc toàn diện cũng có vai trò quan trọng. Chúng ta
không thể hiểu đúng đắn được bản chất của một hiện tượng xã
hội nếu tách rời khỏi những mối liên hệ, những sự tác động qua
lại với các hiện tượng xã hội khác. Trong thời kỳ đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới của cách mạng Việt Nam hiện nay, nếu
không phân tích toàn diện những mối liên hệ tác động, sẽ không
đánh giá đúng tình hình và nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong
từng giai đoạn cụ thể. Và do vậy, sẽ không đánh giá hết những
khó khăn, những thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ xây
dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
+ Việc vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức
về con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển của
thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta luôn kiên định
128
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nước ta tiến
lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất
nhỏ, tụt hậu quá xa so với các nước trên thế giới, vì vậy phải
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình
xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng ta luôn chú ý đến các vấn
đề xã hội, từng bước giải quyết vấn đề công bằng xã hội, đồng
thời xây dựng môi trường nhằm đảm bảo phát triển nhanh,
mạnh mẽ, nhưng vẫn ổn định và bền vững.
Trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng như
trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng ta luôn chú ý
phát hiện ra các mâu thuẫn, phân tích đúng đắn các loại mâu
thuẫn và tìm ra phương pháp khoa học giải quyết mâu thuẫn,
phát triển đất nước. Thời kỳ quá độ là một thời kỳ đấu tranh
phức tạp của dân tộc ta với các thế lực thù địch là thời kỳ đấu
tranh giữa cái cũ với cái mới và cái mới sẽ từng bước chiến
thắng cái cũ. Đảng ta cũng xác định động lực phát triển đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về nội lực là
thực hiện nguyên tắc chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, trên
cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức do
Đảng ta lãnh đạo; là việc kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội; phát huy mọi tiềm năng và các nguồn lực của
các thành phần kinh tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Về
ngoại lực là phát huy sức mạnh của thời đại, sức mạnh đoàn kết
quốc tế nhằm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó,
nhân tố nội lực là quyết định, nhân tố ngoại lực là quan trọng,
những gắn kết với nhau một cách biện chứng, tạo thành sức
mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.
Các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy
vật có sự thống nhất chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất giữa các
nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật
được rút ra từ những nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép
biện chứng duy vật, phản ánh sự vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Sự khác nhau giữa chúng là mỗi
nguyên tắc được rút ra từ sự phản ánh từng mặt nhất định của
hiện thực. Mỗi một nguyên tắc có thể được xây dựng trên cơ sở
không phải của một, mà có thể của nhiều nguyên lý, phạm trù,
quy luật, cho nên khi vận dụng các nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản của phép biện chứng duy vật, vấn đề quan trọng
nhất là phải nhận thức các nguyên tắc phương pháp luận đó
trong mối liên hệ hữu cơ ở các giai đoạn phát triển của nhận
thức và thực tiễn.

130
CHƯƠNG 4

NHẬN THỨC LUẬN

I. CÁC QUAN NIỆM CHÍNH TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC


TRƯỚC MÁC VỀ NHẬN THỨC
Nhận thức là một trong những vấn đề trung tâm của triết
học. Các nhà triết học có nhiều cách lý giải khác nhau về khả
năng nhận thức của con người, cũng như về sự khác nhau giữa
các phương pháp nhận thức. Nguyên nhân dẫn đến sự khác
nhau trong các lý luận về nhận thức là do có sự khác nhau,
trong quan điểm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Ăngghen khẳng định: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết
học, nhất là của triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư
duy với tồn tại”43, tức là vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào giữ vai trò quyết
định và con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không. Tùy thuộc vào cách thức giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học, mà các nhà triết học trong lịch sử có các quan điểm
khác nhau về vấn đề nhận thức.

43
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 21, tr.
403.
1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm về nhận thức
Các nhà triết học duy tâm không thừa nhận thế giới vật chất
tồn tại độc lập với ý thức, do đó không thừa nhận nhận thức là
sự phản ánh thế giới khách quan. Các nhà triết học duy tâm chủ
quan quan niệm rằng nhận thức là sự phức hợp, tổng hợp hệ
thống hiểu biết do cảm giác của con người đem lại. Còn đối với
các nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng
nhận thức thế giới, song họ quan niệm rằng nhận thức cũng
không phải là sự phản ánh thế giới khách quan, mà chỉ là sự tự
nhận thức của ý niệm, tư tưởng tồn tại khách quan bên ngoài
con người.
Những người theo học thuyết hoài nghi lại luôn nghi ngờ
tính chính xác của nhận thức, biến nghi ngờ thành một nguyên
tắc của nhận thức, thậm chí chuyển thành nghi ngờ về sự tồn tại
của bản thân thế giới.
Những người theo thuyết “không thể biết” lại phủ nhận khả
năng nhận thức thế giới của con người. Đối với họ, thế giới là
cái không thể biết được, rằng lý trí của con người có tính chất
hạn chế và ngoài giới hạn cảm giác ra, con người không có khả
năng biết được về sự vật, hiện tượng.
2. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật về nhận thức
Đối lập với các quan điểm sai lầm nói trên về nhận thức,
chủ nghĩa duy vật thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới
vật chất và thừa nhận con người có khả năng nhận thức được
thế giới. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu về

132
khoa học, kỹ thuật và thực tiễn xã hội, đã xây dựng nên hệ
thống lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Theo quan điểm mácxít, nhận thức là sự phản ánh thực tại
khách quan vào bộ óc của con người là sự lặp lại hiện thực
trong ý thức con người là sự phán ánh sáng tạo hiện thực của
con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư duy của con
người là hoạt động cao nhất của hoạt động nhận thức. Tư duy là
sự nhận thức làm rõ bản chất của các sự vật, hiện tượng. Sức
mạnh của tư duy là ở năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa,
nhận thức được cái bản chất, tính quy luật và xu hướng phát
triển của sự vật, hiện tượng. Tư duy là một quá trình vận dụng,
liên hệ sáng tạo, tích cực các khái niệm, tạo nên tri thức, hiểu
biết. Các khái niệm, tuy có mối liện hệ chặt chẽ với thế giới
khách quan, nhưng không gắn chặt với một sự vật, hiện tượng
cảm tính nào, nó là năng lực phản ánh, sáng tạo của con người.
Như vậy, nhận thức là quá trình tạo thành tri thức trong bộ
óc con người về hiện thực khách quan. Nhờ có nhận thức, con
người mới có ý thức về thế giới. Ý thức là kết quả của quá trình
nhận thức thế giới. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập
với ý thức của con người, tác động vào các giác quan sinh ra
cảm giác, từ đó hình thành ý thức. Con người (cá nhân, nhóm
người, giai cấp, dân tộc, hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực,
chủ động, sáng tạo của nhận thức.
+ Chủ thể nhận thức là con người xã hội, sống và hoạt động
trong những điều kiện xã hội, tham gia vào hệ thống các quan
hệ xã hội xác định của một dân tộc, một thời đại. Năng lực nhận
thức của con người là sự kết tinh trí tuệ với vốn tri thức, các
phương tiện và phương thức nhận thức, kinh nghiệm nhận thức
thế giới mà nhân loại có được ở mỗi một thời đại. Trong quá
trình nhận thức, các yếu tố của chủ thể nhận thức như lợi ích, lý
tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức,… đều tham gia vào
quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng
đến kết quả nhận thức.
+ Còn khách thể nhận thức là một bộ phận, một lĩnh vực
nhất định nào đó của hiện thực khách quan mà nhận thức con
người hướng tới nắm bắt, phản ánh. Khách thể nhận thức không
đồng nhất hoàn toàn với hiện thực khách quan, phạm vi của
khách thể nhận thức lại tùy thuộc vào sự phát triển của nhận
thức, của khoa học, trong mỗi thời đại lịch sử khác nhau. Cả
chủ thể nhận thức và khách thể của nhận thức đều mang tính
lịch sử - xã hội.

II. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG


1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật
biện chứng
Trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng, C. Mác
và Ăngghen xây dựng lý luận về nhận thức dựa vào các nguyên
tắc cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan,
ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người.

134
+ Thứ hai, thừa nhận khả năng nhận thức của con người.
Con người có khả năng “chép lại, chụp lại, phản ánh” thế giới
khách quan. Tức là, về mặt nguyên tắc, không có cái gì mà con
người không thể biết được, chỉ có những vấn đề con người chưa
biết mà thôi.
+ Thứ ba, bản chất của nhận thức là sự phản ánh thế giới
khách quan. Đó chính là quá trình phản ánh chủ động, tích cực,
sáng tạo thế giới khách quan. Quá trình nhận thức diễn ra theo
con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn.
+ Thứ tư, thừa nhận thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích
của nhận thức.
2. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức là
một quá trình biện chứng, bao gồm nhiều mặt, nhiều giai đoạn
có liên hệ chặt chẽ với nhau. Lênin viết: “từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
– đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức
thực tại khách quan”44.
a. Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận
thức. Đó là giai đoạn nhận thức mà con người, trong hoạt động
thực tiễn, sử dụng hệ thống cơ quan giác quan để nhận thức,
phản ánh các sự vật, hiện tượng khách quan, mang tính chất

44
V.I. Lênin: Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, t.29, tr. 179.
trực tiếp và cụ thể, cảm tính với những biểu hiện phong phú
trong mối quan hệ với sự quan sát của con người. Do vậy, trong
giai đoạn nhận thức cảm tính này, con người mới chỉ phản ánh
được cái hiện tượng, chỉ biểu hiện ra bên ngoài của sự vật, hiện
tượng mà chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật, nguyên
nhân của sự vật, hiện tượng.
+ Nhận thức cảm tính được thực hiện với ba hình thức cơ
bản là: cảm giác, tri giác và biểu tượng:
Cảm giác của con người về sự vật khách quan là hình ảnh
sơ khai nhất, đơn giản nhất của quá trình nhận thức, nhưng nếu
không có nhận thức cảm giác thì sẽ không thể có bất cứ sự nhận
thức nào về sự vật, hiện tượng khách quan. Cảm giác là sự phản
ánh từng mặt, từng yếu tố, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật,
hiện tượng vào các giác quan của con người. Sự vật hoặc hiện
tượng trực tiếp tác động vào các giác quan của con người sẽ
hình thành nên cảm giác. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan là cơ sở hình thành tri giác, cơ sở của mọi
nhận thức của con người.
Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn diện, đầy đủ của con
người về những biểu hiện của sự vật, hiện tượng khách quan,
với thuộc tính cụ thể, cảm tính; tri giác được hình thành trên cơ
sở liên kết, tổng hợp những cảm giác về sự vật, hiện tượng đó.
Tri giác là hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, phản ánh đầy
đủ hơn, phong phú hơn về sự vật, hiện tượng nhưng vẫn chỉ là
sự phản ánh về những biểu hiện bên ngoài của sự vật.

136
Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan,
vốn đã được phản ánh bởi cảm giác và tri giác là hình thức phản
ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính
là bước quá độ từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính là
tiền đề của sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.
+ Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận
thức, đó là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những
thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật, hiện tượng
khách quan. Đây là giai đoạn nhận thức, thực hiện chức năng
quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy
luật của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức lý tính được thực hiện với ba hình thức cơ bản là
khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản
ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái
niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp các đặc điểm, thuộc
tính của sự vật hay nhiều sự vật, hiện tượng vật chất. Khái niệm
là cơ sở hình thành nên những phán đoán, trong quá trình con
người tư duy về sự vật khách quan.
Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được
hình thành trên cơ sở liên kết các khái niệm lại với nhau, theo
phương thức khẳng định, hay phủ định một đặc điểm, một
thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức. Tuy nhiên, phán
đoán không phải là tổng số giản đơn của những khái niệm tạo
thành, mà là quá trình biện chứng, trong đó các khái niệm có sự
liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Phán đoán được biểu hiện dưới
hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề, theo những quy tắc văn
phạm nhất định.
Theo trình độ của nhận thức, người ta có thể chia phán đoán
thành các cấp độ khác nhau như: phán đoán đơn nhất, phán
đoán đặc thù, phán đoán phổ biến. Phán đoán phổ biến là hình
thức phản ánh thể hiện sự bao quát, rộng lớn nhất về thực tại
khách quan.
Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình
thành trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới
về sự vật, hiện tượng. Điều kiện để hình thành nên suy lý là
phải dựa trên cơ sở những tri thức đã có, dưới dạng những phán
đoán; đồng thời tuân theo các quy tắc lôgic của các loại hình
suy luận: suy luận quy nạp (đi từ cái riêng đến cái chung), suy
luận diễn dịch (đi từ cái chung đến cái riêng, cái cụ thể). Suy lý
là công cụ vĩ đại của tư duy trừu tượng, thể hiện quá trình vận
động của tư duy, đi từ cái đã biết đến nhận thức cái chưa biết,
một cách gián tiếp. Có thể nói, nhờ toàn bộ các khoa học được
xây dựng trên hệ thống suy lý, mà con người ngày càng nhận
thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn thế giới hiện thực khách quan.
b. Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về
chất, có đặc điểm, vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự
vật, hiện tượng khách quan. Trong đó, nhận thức cảm tính là sự
phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động sự vật; còn nhận thức lý
138
tính là sự phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng, khái quát.
Nhận thức cảm tính đem lại những hình ảnh bề ngoài, chưa sâu
sắc về sự vật, còn nhận thức lý tính phản ánh được mối liên hệ
bên trong, bản chất, tất yếu của sự vật. Tuy nhiên, nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính thống nhất biện chứng với nhau,
liên hệ, tác động lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ và không tách rời
nhau. Cả hai trình độ nhận thức đều cùng phản ánh thế giới vật
chất, có cùng một cơ sở sinh lý duy nhất là hệ thần kinh của con
người và đều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn lịch sử - xã
hội. Nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lý tính, không
có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Trái lại,
nhận thức cảm tính mà không có nhận thức lý tính thì không thể
hiểu biết, nắm rõ được bản chất và quy luật của sự vật. Vì vậy,
cần phát triển nhận thức cảm tính lên trình độ nhận thức lý tính
để giúp cho nhận thức trở nên chính xác, đầy đủ và khoa học
hơn.
c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý
tính với thực tiễn
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là những
nấc thang của quá trình nhận thức của con người, chúng
thường diễn ra đan xen vào nhau và cùng phản ánh sự vật,
hiện tượng. Trong quá trình nhận thức, theo quan điểm mácxít,
thực tiễn là cơ sở, mục đích, động lực trực tiếp và chủ yếu nhất
của nhận thức. Ph. Ăngghen khẳng định: “… chính việc người
ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự
nhiên, với tính cách là giới tự nhiên là cơ sở chủ yếu nhất và
trực tiếp nhất của tư duy con người và trí tuệ con người đã
phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự
nhiên”45.
Nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động
của khách thể cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính có tính khái quát cao nhờ đó hiểu được
bản chất, quy luật vận động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm
tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Nhận thức lý tính mới chỉ đạt được những tri thức về đối
tượng, nhưng những tri thức đó có chính xác hay không cần
thì phải có sự kiểm nghiệm của thực tiễn, tức là nhận thức nhất
thiết phải quay trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn để đo lường
tính chân thực, đúng đắn của nhận thức. Thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý. “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý…”46. Toàn bộ nhận thức của con người, suy đến cùng, đều
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, có nguồn gốc từ thực tiễn và
quay trở lại phục vụ thực tiễn.
Tóm lại, quy luật chung của quá trình nhận thức là: từ thực
tiễn đến nhận thức - tái thực tiễn - tái nhận thức..., quá trình này
không có điểm dừng cuối cùng, nhờ đó mà quá trình nhận thức
45
C. Mác và Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.
720.
46
C. Mác và Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr. 9-
10.
140
đạt dần tới tri thức ngày càng đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, sâu
sắc hơn về thực tại khách quan. Đây cũng chính là quan điểm
về tính tương đối của nhận thức con người, trong quá trình phản
ánh thực tại khách quan.
Quy luật chung của nhận thức có ý nghĩa quan trọng về
mặt phương pháp luận, giúp chúng ta nắm được quy luật
khách quan của quá trình nhận thức.
3. Quan điểm biện chứng duy vật về chân lý
Tất thảy quá trình nhận thức, đều sáng tạo ra những tri thức,
tức những hiểu biết của con người về thực tế khách quan, Tuy
nhiên, không phải tất cả mọi tri thức đều có nội dung phù hợp
với hiện thực khách quan. Thực tế lịch sử tư tưởng của nhân
loại đã chứng minh rằng trong hệ thống những tri thức mà con
người đạt được, có nhiều trường hợp không phù hợp, thậm chí
hoàn toàn đối lập với thực tế khách quan, không phải là chân lý.
a. Khái niệm chân lý
Chân lý là khái niệm được dùng để chỉ những tri thức của
con người có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan, sự
phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Chân lý là sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế
giới. Vì vậy, chân lý cũng được hình thành và phát triển từng
bước, phụ thuộc vào sự phát triển của sự vật khách quan vào
điều kiện lịch sử - cụ thể của nhận thức và vào hoạt động thực
tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
b. Các tính chất của chân lý
Chân lý có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối
và tính cụ thể.
Tính khách quan của chân lý chỉ rõ tính độc lập về nội dung
phản ánh của tri thức đối với ý chí chủ quan của con người; nội
dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan, thuộc về
thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh tính khách quan
của chân lý, có nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách quan của
thế giới và sự phản ánh thế giới đó vào trong bộ óc của con
người. Nội dung mà chân lý phản ánh thuộc về thế giới khách
quan, chân lý chỉ có ở con người, do con người tạo ra trong
quá trình thực tiễn, nhưng nội dung của chân lý lại không phụ
thuộc vào con người, mà chỉ lệ thuộc và sự vật, hiện tượng
khách quan được chân lý phản ánh.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp, nhưng chưa
hoàn toàn đầy đủ, giữa nội dung phản ánh của những tri thức đã
đạt được với hiện thực khách quan, mới chỉ đạt được sự phù
hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, khía cạnh nào đó
và trong những điều kiện nhất định, cần phải được bổ sung,
điều chỉnh trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức.
Tính tuyệt đối của chân lý chỉ tính phù hợp hoàn toàn và
đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách
quan. Theo quan điểm duy vật biện chứng thì “theo bản chất
của nó, tư duy của con người có thể cung cấp và đang cung cấp
cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số
những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa
142
học lại đem thêm những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý
tuyết đối, nhưng giới hạn chân lý của mọi định lý khoa học đều
là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tùy theo sự
tăng tiến của tri thức”47. Sở dĩ như vậy là vì thế giới khách
quan là vô cùng, vô tận, thế giới biến đổi và phát triển không
ngừng, không có giới hạn cuối cùng, còn nhận thức của từng
người, từng thế hệ lại luôn bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử
khách quan và năng lực chủ quan của các thời đại tạo ra.
Tuy nhiên, chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không tồn
tại tách rời nhau, mà ngược lại, có sự thống nhất biện chứng
chặt chẽ. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý
tương đối; mặt khác trong mỗi chân lý mang tính tương đối, bao
giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Chân lý
tuyệt đối và chân lý tương đối là hai mặt của một chân lý cụ thể.
Một chân lý cụ thể vừa có tính tuyệt đối (vì nếu áp dụng trong
điều kiện cụ thể của nó thì nó luôn luôn đúng và không bao giờ
trở thành sai lầm), vừa có tính tương đối (vì nó chưa đầy đủ,
chưa toàn diện, nếu áp dụng trong điều kiện khác thì sẽ trở
thành sai lầm).
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa
nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền
với những điều kiện lịch sử cụ thể, do đó không có chân lý trừu
tượng, chân lý luôn luôn là cụ thể.

47
V.I. Lênin: Toàn tập. Nxb Tiến bộ, Máxcơva, 1980, t.18, tr. 158.
c. Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành các hoạt
động thực tiễn, nhưng hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công
và có hiệu quả khi con người có tri thức đúng đắn về thực tế
khách quan và vận dụng đúng đắn tri thức đó trong hoạt động
thực tiễn. Do vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên
quyết đảm bảo sự thành công và tính hiệu quả của hoạt động
thực tiễn. Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động trong thực
tiễn là mối quan hệ song trùng trong quá trình vận động, phát
triển của cả chân lý và thực tiễn. Chân lý phát triển nhờ thực
tiễn, nhưng thực tiễn lại phát triển nhờ vận dụng đúng đắn
những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực
tiễn.

III. PHƯƠNG PHÁP ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC XÃ HỘI


1. Tính đặc thù của nhận thức xã hội
Xã hội là bộ phận của tự nhiên là sản phẩm phát triển cao
nhất của tự nhiên. C. Mác viết: “đời sống thể xác và tinh thần
của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua
chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự
nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên” 48. Do
vậy, nhận thức các hiện tượng xã hội vừa tuân theo các quy luật
và những nguyên tắc chung, vừa có các yếu tố mang tính đặc
thù trong hoạt động nhận thức của con người.

48
C. Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, t.42, tr. 135.
144
Khác với quy luật tự nhiên, quy luật xã hội chỉ tồn tại và
tác động khi có con người sinh sống, mối liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau giữa người với người. Điều đó không có nghĩa là
con người có thể xóa bỏ, hoặc thay thế các quy luật xã hội. Con
người chỉ có thể tạm thời kìm hãm, hoặc phát huy sự tác động
của quy luật xã hội, bằng cách tạo ra những điều kiện thuận lợi,
hoặc không thuận lợi cho sự tác động của nó, trên cơ sở mức độ
tác động của các điều kiện đó đến lợi ích của các giai cấp, nhóm
xã hội nhất định. Cho nên, khi nghiên cứu các quy luật, hiện
tượng xã hội, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của
nhận thức. Con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là sản phẩm
phát triển của lịch sử xã hội loài người và cũng chính con người
là chủ thể nhận thức quá trình đó. Vì là chủ thể nhận thức, nên
hoạt động nhận thức của con người mang dấu ấn của cá nhân,
với ý chí, trình độ nhận thức của con người, dấu ấn của thời đại
và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp và lợi ích của các nhóm xã hội
nhất định. Sự định hướng giai cấp và hệ tư tưởng đến chủ thể
nhận thức có ảnh hưởng quan trọng đến tiến trình, cũng như kết
quả nhận thức. Nhận thức tự nhiên cũng chịu ảnh hưởng mang
tính giai cấp và hệ tư tưởng, nhưng chủ yếu biểu hiện ở khía
cạnh phương pháp luận nhận thức, ở sự luận giải về mặt thế
giới quan, về mặt triết học đối với kết quả nhận thức. Còn khoa
học xã hội xây dựng các lý thuyết, mà nội dung và các chức
năng xã hội tương ứng đều mang tính chất tư tưởng hệ, tính
đảng, tính giai cấp.
Như vậy, khác với khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
mang tính đảng, tính giai cấp. Nhận thức khoa học xã hội và
nhân văn, không chỉ phân tích được vai trò của các nhân tố
khách quan, mà còn nhận thức được vai trò chủ quan đến các
tiến trình xã hội. Thông qua lăng kính chủ quan của chủ thể
nhận thức, thế giới quan và nhu cầu của con người đã làm khúc
xạ khách thể nhận thức. Mặt khác, vận động xã hội là hình thức
vận động cao nhất, phức tạp nhất của vật chất. Do đó, nhận thức
xã hội đòi hỏi chủ thể nhận thức phải có khả năng trừu tượng
hóa, khái quát hóa cao, nhằm nhận thức hoạt động thực tiễn của
con người, phát hiện ra các quy luật vận động và phát triển của
xã hội, không chỉ các quan hệ, tính quy luật, mà còn cả tính quy
luật phát triển của các quan hệ tinh thần, tư tưởng.
2. Những nguyên tắc cơ bản của nhận thức khoa học xã
hội và nhân văn
Để nhận thức đúng đắn bản chất và quy luật xã hội, nhận
thức khoa học xã hội và nhân văn phải đảm bảo các nguyên tắc
cơ bản như sau:
+ Thứ nhất, quán triệt triệt để quan điểm toàn diện trong
nhận thức về xã hội. Các quá trình, hiện tượng xã hội có mối
quan hệ chặt chẽ, ràng buộc, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau. Khảo sát quan hệ của đối tượng với các đối tượng khác,
khám phá sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các đối tượng nghiên cứu
là điều kiện tất yếu của nhận thức bản chất các quá trình xã hội.
+ Thứ hai, đảm bảo nguyên tắc lịch sử - cụ thể khi phân
tích, xem xét, đánh giá các hiện tượng xã hội trong sự vân động
146
và phát triển không ngừng của chúng. Lênin viết: “Trong vấn
đề thuộc khoa học xã hội, phương pháp chắc chắn và cần thiết
nhất…, điều kiện quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa
học là không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản; là xem xét
vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã
xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua
những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm
của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như
thế nào”49. Do đó, tính quy luật của các hiện tượng xã hội trong
điều kiện lịch sử này, lại có thể trở thành vô nghĩa khi xem xét
trong điều kiện lịch sử khác.
+ Thứ ba, nguyên tắc chân lý cụ thể. Khi nhận thức các
quá trình mâu thuẫn, phức tạp trong xã hội, áp dụng riêng tư
duy lôgic hình thức là chưa đủ. Nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn và được thực tiễn chứng minh tính đúng đắn của kết
quả nhận thức.
+ Thứ tư, xuất phát từ các nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật lịch sử khi xem xét sự vận động và phát triển của xã hội.
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì nhận
thức xã hội mới đảm bảo tính khách quan, khoa học, vạch ra
được bản chất, quy luật vận động và phát triển của xã hội.
+ Thứ năm, đảm bảo tính đảng trong nhận thức xã hội.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi nhận thức các vấn đề xã hội, cần
dựa trên lập trường giai cấp, lợi ích giai cấp nhất định.

49
V.I.Lênin, toàn tập, tập 39, tr. 78.
IV. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Nội dung của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
a. Phạm trù thực tiễn
Các nhà triết học duy vật trước Mác đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trong việc phát triển thế giới quan duy vật
và đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm. Tuy nhiên, lý luận của các
nhà triết học trước Mác còn nhiều hạn chế, trong đó, hạn chế
lớn nhất là các nhà triết học đó đã không nhận thấy được vai trò
của thực tiễn đối với nhận thức lý luận; và đây chính là “khuyết
điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay –
kể cả chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc”50.
Kế thừa những hạt nhân hợp lý và khắc phục những hạn
chế trong quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó,
C. Mác và Ăngghen, lần đầu tiên, đã đưa ra được những quan
điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn, cũng như về vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức của con người. Theo quan điểm
mácxít, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, có tính
lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và
bản thân con người.
Hoạt động vật chất là hoạt động bản chất của con người,
nhằm biến đổi thế giới khách quan, đáp ứng nhu cầu tồn tại và
phát triển của con người. Con người tác động vào tự nhiên, tìm
50
C. Mác và Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.3, tr. 9.
148
tòi, nhận thức, sáng tạo ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu
của con người. Thực tiễn và trình độ phát triển của thực tiễn,
phản ánh, biểu hiện trình độ của con người trong việc làm chủ
tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Hoạt động thực tiễn rất phong phú và đa dạng, song có thể
khái quát thành ba dạng cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động chính trị - xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học,
trong đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất,
giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Ba dạng hoạt động cơ bản của thực tiễn có mối
quan hệ biện chứng với nhau, tác động, thúc đẩy lẫn nhau
cùng phát triển. Hoạt động sản xuất vật chất không thể tách rời
với các hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học. Hoạt động chính trị - xã hội trực tiếp tác động đến
đời sống chính trị - xã hội và kết quả của hoạt động này liên
quan đến quá trình giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển
kinh tế, xã hội, cũng như mở đường cho khoa học phát triển.
Cũng như vậy, hoạt động thực nghiệm khoa học không thể
không lấy phát triển kinh tế, xã hội làm mục đích của mình.
b. Phạm trù lý luận
Lý luận là sản phẩm của nhận thức, đồng thời lý luận cũng
thể hiện trình độ cao của nhận thức. Theo từ điển triết học thì:
“Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của
con người là toàn bộ tri thức về thế giới khách quan là hệ thống
tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong
lôgíc của các khái niệm cái lôgíc khách quan của các sự vật”51.
Lý luận là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn là hệ thống
các tri thức khách quan, phản ánh sự vận động và phát triển của
thế giới khách quan bằng các quy luật, khái niệm, phạm trù.
Lý luận khoa học mang tính trừu tượng và khái quát cao,
tính lôgíc và tính hệ thống chặt chẽ, đem lại sự hiểu biết sâu sắc
về bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.
c. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
- Vai trò quyết định của thực tiễn đối với nhận thức lý luận
* Thực tiễn là nguồn gốc là cơ sở của lý luận
Mọi tri thức của con người, dù ở trình độ tri thức kinh
nghiệm hay tri thức lý luận, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực
tiễn. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới khách
quan, con người đã làm bộc lộ những thuộc tính vốn có của thế
giới khách quan. Thông qua đó, con người thu nhận các tài liệu
cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa, trừu tượng hóa, v.v. phản ánh được bản chất, quy luật
của thế giới, từ đó xây dựng các lý luận khoa học. Quá trình
hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung, điều chỉnh, phát
triển những vấn đề mà đã được lý luận khái quát. Lênin đã nhấn
mạnh: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính
tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự

51
Từ điển Triết học. Nxb. Tiến bộ, Máxcơva, 1986, tr. 342-343.
150
vận động mâu thuẫn của nó, tự nó và vì nó”52. Như vậy, thực
tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Xét cho
cùng, mọi tri thức của con người đều bắt nguồn từ thực tiễn.
* Thực tiễn là động lực của lý luận
Thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi và xác định các nhu
cầu, nhiệm vụ, phương hướng mới cho sự phát triển của nhận
thức. Yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi phải có quá trình tổng kết
kinh nghiệm, khái quát lý luận làm cho lý luận ngày càng đầy
đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Thông qua đó, thực tiễn thúc đẩy
sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Trong quá trình
hoạt động thực tiễn, con người biến đổi thế giới khách quan,
đồng thời cũng biến đổi cả bản thân mình, phát triển năng lực
trí tuệ, năng lực sáng tạo của chính mình. Nhờ đó, con người
ngày càng hiểu biết sâu sắc hơn làm phong phú hơn tri thức của
mình về tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Hoạt động thực
tiễn còn là động lực thúc đẩy con người tìm tòi, khám phá, cải
tiến, sáng tạo ra công cụ lao động, nhằm nâng cao năng suất lao
động, qua đó thúc đẩy nhận thức, tư duy con người tiếp tục phát
triển, khám phá và sáng tạo thế giới.
* Thực tiễn là mục đích của lý luận
Tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa khi tri thức phục vụ hoạt
động thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức con người,
không phải là bản thân các tri thức, mà là cải tạo hiện thực
khách quan, đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần của
xã hội. Thực tiễn đề ra những vấn đề cho nhận thức cần giải
52
V.I. Lênin: Toàn tập. Nxb Tiến bộ, Máxcơva, 1981, t.29, tr. 227
đáp, đồng thời tạo ra những phương tiện cần thiết cho việc
nghiên cứu, nhằm đem lại các tài liệu để tổng kết thành tri thức
lý luận, đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người.
* Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với
hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. C.Mác
nhấn mạnh: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể
đạt chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là vấn đề
lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà
con người phải chứng minh chân lý”53. Lý luận chỉ đạt được giá
trị chân thực khi được chứng minh trong các hoạt động thực
tiễn. Thực tiễn là thước đo tính đúng đắn, chính xác và khoa
học của lý luận, tri thức.
- Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Trong quan hệ biện chứng của nó, lý luận có vai trò giải
thích, định hướng cho hoạt động thực tiễn và cải tạo thế giới.
Lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng,
cách thức để tác động vào thực tiễn, soi đường cho hoạt động
thực tiễn. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý
tưởng, liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo nên sức mạnh
to lớn nhằm cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. C.Mác viết: “Vũ
khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật

53
C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tâp. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.10.
152
chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”54. Mặc dù lý luận
có tính khái quát cao, song, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn
cần có quan điểm lịch sử - cụ thể, tránh vận dụng lý luận một
cách máy móc, giáo điều, kinh viện. Phải coi trọng lý luận
nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của lý luận, coi thường
thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”55.
d. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
- Thứ nhất, xuất phát từ con người hoạt động thực tiễn. Với
con người hoạt động thực tiễn – con người dùng lực lượng vật
chất, sử dụng các phương tiện vật chất tác động vào hiện thực
khách quan, biến đổi hiện thực khách quan theo chiều hướng có
lợi cho con người. Từ mối quan hệ của con người với thế giới
khách quan, đã quyết định các mối quan hệ khác của con người.
Mỗi bước tiến trong cải tạo tự nhiên, xã hội đồng thời cũng là
bước tiến bộ trong nhận thức và trong sự biến đổi, phát triển
của chính bản thân con người, loài người.
- Thứ hai, chỉ đạo thực tiễn bằng lý luận khoa học. Lý luận
khoa học có vai trò vô cùng to lớn đối với hoạt động thực tiễn.

54
C.Mác – Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.
580.
55
Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 95.
Hoạt động thực tiễn chỉ đạt được hiệu quả khi được định hướng
rõ ràng về mục tiêu, phương pháp, bước đi phù hợp. Chỉ có lý
luận khoa học mới giúp con người nắm bắt được các bản chất,
cũng như các quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng, định hướng cho con người trong hoạt động thực tiễn. Chỉ
có chỉ đạo thực tiễn bằng lý luận khoa học, mới giúp thực tiễn
phát triển không mò mẫm, tự phát, đạt hiệu quả cao, phù hợp
với quy luật trong hoạt động thực tiễn.
- Thứ ba, bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn, phát triển lý
luận. Công tác lý luận, trước hết, hướng vào các vấn đề do cuộc
sống đặt ra làm rõ căn cứ khoa học của các giải pháp, dự báo
các xu hướng, khả năng phát triển của hiện thực. Khi nắm bắt
được quy luật vận động của thực tiễn, thì con người sẽ làm chủ
được sự phát triển của thực tiễn. Tổng kết thực tiễn đúng đắn là
cơ sở để sửa đổi, bổ sung, phát triển lý luận, có cơ sở khái quát
kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận.
- Thứ tư, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm
đóng vai trò hết sức quan trọng trọng hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm,
không đánh giá đúng vai trò của lý luận, coi nhẹ lý luận, sẽ mắc
bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm sẽ dẫn đến lối suy nghĩ
giản đơn, phiến diện, không thấy được bản chất, quy luật của sự
vật, hiện tượng. Bệnh giáo điều là biểu hiện của hiện tượng
tuyệt đối hóa lý luận, nhưng lại hiểu lý luận một cách hời hợt,
không nắm bắt được thực chất của lý luận. Những luận điểm
154
khoa học, đáng lẽ ra phải được cụ thể hóa trong tính đa dạng,
muôn màu, muôn vẻ của thực tiễn, thì lại bị xơ cứng trong trừu
tượng, bất biến. Quán triệt và thực hiện nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là cơ sở phòng ngừa và khắc phục có
hiệu quả các bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
e. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất lý luận và
thực tiễn; giữa lý thuyết với thực hành, giữa lý thuyết,
lý luận và thực tế
Hồ Chí Minh coi lý luận và thực tiễn có mối liên hệ khăng
khít với nhau, không thể tách rời. Nó tác động lẫn nhau, chuyển
hoá cho nhau. Trong mối liên hệ này, thực tiễn có tác động
quyết định, còn lý luận, đến lượt nó, lại phản ánh vào thực tiễn.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lý luận chính là những kinh
nghiệm rút ra từ thực tế (thực tiễn) trong mọi hoạt động của con
người và xã hội. Còn thực tiễn lại cũng là toàn bộ những hoạt
động của con người để tạo ra những điều kiện cần thiết cho đời
sống xã hội. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được phát triển
trên cơ sở quan điểm lý luận của C.Mác cho rằng thực tiễn
trước hết là hoạt động vật chất là sản xuất, vì đời sống của xã
hội, sự sống của con người do sản xuất quyết định.
Hồ Chí Minh nói: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử,
trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh
thật kỹ lưỡng, rõ ràng làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng
minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính. Lý luận như cái kim
chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc
thực tế”56. Người còn nói: “Lý luận cốt để áp dụng vào công
việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận
suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu
không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng
sách”57. Người kết luận: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực
hành phải nhằm theo lý luận”58. Như vậy, rõ ràng, lý luận hình
thành trên nền tảng của thực tiễn là kết quả khoa học của sự
khái quát kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động đời sống xã hội.
Không có thực tiễn, không có lý luận khoa học. Thực tiễn
phong phú sẽ làm cho lý luận phong phú. Hồ Chí Minh dùng
nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Lý luận đi đôi với thực tiễn”,
“Lý luận kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành phải
luôn luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải liên hệ với thực tế”59
Theo Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với
thực tiễn, lý luận “như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng
cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng
túng như nhắm mắt mà đi”60, “Làm mà không có lý luận thì
không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp
váp”61. Làm mò mẫm chính là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm,
yếu kém về lý luận, không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm, mà
còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do yếu kém lý luận, cho nên
không hiểu được thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và

56
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, tr.233, 234.
57
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, tr.233, 234.
58
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, tr.233, 234.
59
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, tr.292.
60
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T6, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, tr.234-235.
61
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T9, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, tr.292.
156
do đó cũng không thể hiểu được bản chất những vấn đề thực
tiễn mới nảy sinh. Do đó, không vận dụng được lý luận vào giải
quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng,
thì cũng không sát thực tế, không phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng có lý
luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên
hệ với thực tiễn, nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức
bệnh giáo điều. Người khẳng định, “Lý luận cũng như cái tên
(hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên
mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên”62.
Như vậy cũng có nghĩa là lý luận suông, lý luận sách vở thuần
túy. “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà
không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem
được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem
ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”63. Do đó,
khi vận dụng lý luận vào thực tiễn, phải xuất phát từ thực tiễn,
nếu không cũng mắc phải bệnh giáo điều. Như vậy, lý luận chỉ
có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ
thực tiễn, đóng vai trò dẫn đường, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời,
khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải phù hợp điều kiện thực
tiễn. Rõ ràng, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí
Minh phải được hiểu là thực tiễn - lý luận, lý luận - thực tiễn,
thống nhất với nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
f. Ý nghĩa phương pháp luận

62
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, tr. 235.
63
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, tr. 234.
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn đòi hỏi các chủ thể nhận thức, trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn, không thể xuất phát từ
bản thân ý thức một cách chủ quan, mà phải xuất phát từ thực
tiễn. Thực tiễn là nguồn gốc là cơ sở, động lực, mục đích và
tiêu chuẩn của chân lý. Lênin nhấn mạnh: “Quan điểm về đời
sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”64. Sau khi lý luận khoa học đã hình thành,
sẽ tác động trở lại thực tiễn, giúp thực tiễn nhìn thấy trước được
mục tiêu, phương hướng vận động của đối tượng tác động, dẫn
dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận chỉ có sức sống, khi lý luận bám
sát vào thực tiễn, có sức sống từ thực tiễn. Do vậy, hoạt động
tổng kết thực tiễn là quá trình phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục, nhằm phản ánh, khái quát sự biến đổi của thực
tiễn, kịp thời bổ sung nội hàm của khái niệm, phát hiện và làm
sâu sắc quy luật, bản chất của thực tiễn. Tổng kết thực tiễn đúng
đắn là phải xác định rõ mục tiêu, lựa chọn đúng vấn đề cần tổng
kết; tổ chức lực lượng tổng kết; lập chương trình, kế hoạch, lộ
trình tổng kết; tiến hành điều tra, khảo sát thực tế, thu thập số
liệu; xử lý thông tin; phân tích đánh giá số liệu, tư liệu; thảo
luận, phân tích, rút ra kết luận và hướng dẫn vận dụng. Tổng kết
thực tiễn phải đảm bảo tính khách quan, tránh chủ nghĩa hình
thức, chủ nghĩa thành tích làm biến dạng thực tiễn. Nếu không
tiến hành tổng kết thực tiễn sẽ là biểu hiện của bệnh kinh
nghiệm, giáo điều, thỏa mãn với kinh nghiệm của bản thân, coi

64
V.I. Lênin: Toàn tập. Nxb Tiến bộ, Máxcơva, 1981, t.18, tr. 167.
158
thường lý luận khoa học, tách rời lý luận ra khỏi thực tiễn, áp
dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc.
2. Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam
- Sự tụt hậu và tách rời giữa thực tiễn và lý luận - hậu quả và
nguyên nhân
Vào những năm 1975 – 1985, Việt Nam lâm vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Nguyên nhân chủ quan là do
những sai lầm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước. Sau khi giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tư tưởng chủ quan, say
sưa với thắng lợi, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã
hội trong một thời gian ngắn xuất hiện và bộc lộ ngày càng rõ.
Cùng với việc nước ta bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận;
chiến tranh biên giới Tây Nam (1975-1978) và chiến tranh biên
giới phía Bắc (năm 1979) xảy ra đã làm cho tình hình kinh tế -
xã hội rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng, đời sống nhân dân
giảm sút nghiêm trọng. Đại hội VI của Đảng đánh giá, đó là
những sai lầm bắt nguồn từ “hoạt động tư tưởng và tổ chức của
Đảng đã không theo kịp yêu cầu của cách mạng... Trong lĩnh
vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận
dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc
bệnh duy ý chí, giản đơn hoá, muốn thực hiện nhanh chóng
nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta
mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến
không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy
luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan; do đó,
không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương,
chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các
nước anh em”65. Như vậy, để nước ta thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng, thì vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới
mạnh mẽ cách nghĩ, cách làm. Tại Đại hội VI (1986), Đảng ta
đã nhấn mạnh đến việc đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế, “phải tôn trọng quy luật khách quan và bài học lấy dân làm
gốc. Muốn đổi mới tư duy phải quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng
và hành động theo đúng quy luật khách quan”66.
- Những phương hướng cơ bản nhằm vận dụng đúng
nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn
+ Đối với hoạt động lý luận (các nhà khoa học, các cơ quan
hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước): lý luận phải
luôn bám sát thực tiễn, nắm bắt được yêu cầu của thực tiễn,
khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn, khắc phục
bệnh giáo điều. Từ thực tiễn cách mạng, Đảng ta rút ra bài học
kinh nghiệm sau: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận
thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh

65
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI. Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.27.
66
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI. Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.6-7.
160
đạo đúng đắn của Đảng”67. Như vậy, đối với hoạt động lý luận,
phải gắn chặt công tác lý luận với quá trình triển khai thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Công tác lý luận phải gắn bó hữu cơ với việc triển khai
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của
đất nước và nhất là phải kịp thời giải quyết những vấn đề mới
nảy sinh trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế, cũng như những vấn đề bức xúc của
nhân dân. Cần có sự tổng kết, đánh giá một cách khách quan
công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực, phân tích những
thành tựu và hạn chế; xây dựng chiến lược nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn ngắn hạn và dài hạn. Đồng thời, cần có sự
nghiên cứu, khảo sát, đánh giá, tham khảo, kế thừa có chọn lọc
những thành tựu, tinh hoa lý luận trên thế giới để làm giàu thêm
kho tàng lý luận Việt Nam. Bên cạnh những phương pháp
nghiên cứu, cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cần tìm
tòi, bổ sung, vận dụng sáng tạo những cách tiếp cận mới, những
phương pháp nghiên cứu hiện đại, tạo môi trường thực sự dân
chủ trong sinh hoạt lý luận. Đảng ta nhấn mạnh: “Tăng cường
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn,… không ngừng phát triển
lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của
công tác nghiên cứu lý luận”68.

67
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI. Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.30.
68
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.255-256.
+ Đối với hoạt động thực tiễn (các chủ thể vận dụng lý
luận – đường lối chính sách): hoạt động thực tiễn phải có sự chỉ
đạo của lý luận, vận dụng lý luận phải phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử - cụ thể; khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Chủ
nghĩa kinh nghiệm chính là một biểu hiện của chủ nghĩa chủ
quan. Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối
hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học, khuếch đại vai
trò thực tiễn để hạ thấp vai trò của lý luận. Người mắc bệnh
kinh nghiệm thường thoả mãn với vốn kinh nghiệm bản thân,
ngại học lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi
thường khoa học - kỹ thuật, coi thường giới trí thức, thiếu sự
nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ. Lý luận là sản phẩm được
khái quát từ kinh nghiệm là trình độ cao hơn về chất so với kinh
nghiệm. Giá trị của lý luận là ở chỗ, lý luận phản ánh bản chất,
quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan, chỉ ra
nguyên nhân của các hiện tượng trong thực tiễn, đồng thời tìm
ra con đường chân lý cho hoạt động thực tiễn.
- Vấn đề tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận của sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Ngày 12/6/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 66-
KL/TW, về tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm
đổi mới, nhằm góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận quan
trọng, tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng, góp
phần chuẩn bị các văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng, yêu
cầu việc tổng kết phải xuất phát từ thực tiễn đổi mới của đất
nước, từ thực tiễn biến đổi của thế giới; dựa trên quan điểm,
162
đường lối của Đảng từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội XI (2011)
và các Hội nghị Trung ương các khóa. Phạm vi tổng kết gồm
một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 30 năm đổi mới, trọng tâm
là 10 năm đổi mới gần đây (2006-2016), tập trung vào 10 vấn
đề: Cục diện thế giới và khu vực - những biến động gần đây và
tác động đến Việt Nam, dự báo tình hình sắp tới; phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa, xây dựng
con người Việt Nam; giải quyết các vấn đề xã hội trong tình
hình mới; bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; hội nhập quốc
tế; đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta;
đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây
dựng Đảng cầm quyền, đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng; tổng hợp việc nhận thức và giải quyết 8 mối
quan hệ lớn được nêu trong Cương lĩnh 2011, qua đó làm rõ
những vấn đề có tính quy luật của đổi mới cả về nội dung, bước
đi, hình thức và phương pháp; những vấn đề vướng mắc hoặc
sai lầm trong lý luận và thực tiễn vừa qua, tiếp tục bổ sung, phát
triển và hoàn thiện lý luận về đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đặc biệt, việc tổng kết phải coi trọng tính thiết thực và hiệu
quả, gắn chặt giữa lý luận và thực tiễn, từ thực tiễn đổi mới của
đất nước mà tổng kết lý luận. Cần kết hợp việc tổng kết những
vấn đề dài hạn với giải quyết, xử lý các vấn đề trước mắt, nhất là
những vấn đề đang có vướng mắc; góp phần thực hiện hiệu quả
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Việc tổng kết phải góp phần phát triển tư duy lý luận của
Đảng, phát hiện, đề xuất được một số vấn đề, luận điểm mới có
căn cứ lý luận - thực tiễn, những giải pháp, kiến nghị mới đúng
đắn, thiết thực, cụ thể.

164
CHƯƠNG 5

HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ PHÂN KỲ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN


XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI

1. Quan điểm phân kỳ lịch sử của Liên hợp quốc


Với mục đích thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các
quốc gia, tổ chức Liên hợp quốc trong những năm 70 của thế kỷ
XX, đã phân chia các quốc gia thành những mức độ phát triển
khác nhau. Liên hợp quốc thống nhất quan điểm cho rằng thời
kỳ đầu tiên của loài người là thời kỳ mông muội – tức là thời kỳ
mà chúng ta thường gọi là xã hội cộng sản nguyên thủy, cuộc
sống của con người chủ yếu dựa vào tự nhiên, khai thác sản vật
sẵn có của tự nhiên. Thời kỳ thứ hai, bao gồm những nước
không những từ xưa, mà còn cả những nước hiện nay còn sinh
sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Họ gọi thời kỳ này
là thời kỳ nông nghiệp. Thời kỳ thứ ba, gồm những nước bắt
đầu thoát khỏi một phần phụ thuộc vào nông nghiệp. Thời kỳ
này họ gọi là thời kỳ nông công nghiệp. Tuy có sự tham gia của
công nghiệp, nhưng những nước này vẫn dựa vào sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu. Thời kỳ thứ tư gồm những nước đã ít phụ
thuộc vào nông nghiệp và họ gọi là thời kỳ công nông nghiệp.
Tức là sản phẩm công nghiệp đóng vai trò chủ yếu trong đời
sống của người dân những nước này. Thời kỳ thứ năm, gồm
những nước công nghiệp. Thời kỳ này tuy không thiếu sản
phẩm nông nghiệp, nhưng sự phát triển của công nghiệp chi
phối các nước, sự giàu có, sức mạnh, năng lực của một quốc gia
phụ thuộc hoàn toàn vào sự phát triển của công nghiệp. Hiện
nay, các nước G7 (những nước công nghiệp phát triển) được
Liên hợp quốc liệt vào nhóm nước công nghiệp. Họ gọi thời kỳ
này là thời kỳ công nghiệp. Thời kỳ thứ sáu, gồm những nước
phát triển chủ yếu dựa vào công nghệ tự động. Tức là, quá trình
sản xuất giảm bớt lao động con người, với 80% quá trình sản
xuất được thực hiện bằng công nghệ tự động, đời sống của đa
số con người có những bước phát triển mới. Cho đến nay, một
số ngành, một số lĩnh vực đã đạt đến trình độ công nghệ tự
động nhưng chưa có quốc gia đạt đến trình độ đó. Thời kỳ này
họ gọi là thời kỳ công nghệ (một số học giả gọi là hậu công
nghiệp).
2. Quan điểm phân kỳ lịch sử lấy tôn giáo làm tiêu chuẩn
Vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX, một số học giả
phương Tây đã dựa vào tôn giáo, để phân chia nhân loại thành
các vùng và đôi khi họ còn gọi là “nền văn minh”. Theo các học
giả này, thời kỳ đầu tiên của xã hội loài người vẫn là thời kỳ
mông muội. Thời kỳ này, tôn giáo lớn chưa hình thành, dưới
hình thức sơ khai của mình, với những niềm tin chủ yếu dựa
vào thần linh, tôn giáo còn mang tính nguyên thủy. Khi những
tôn giáo lớn trên thế giới được ra đời, với không chỉ niềm tin,
166
mà còn cả một hệ thống giáo lý đồ sộ, một số hệ thống tổ chức
tôn giáo chặt chẽ, thì loài người cũng bắt đầu phân chia theo sự
chi phối của tôn giáo, mà chủ yếu là các tôn giáo lớn. Theo họ,
loài người hiện nay chịu sự chi phối của các tôn giáo lớn.
Nền văn minh Cơ đốc giáo
Niềm tin, giáo lý và tổ chức của Cơ đốc giáo cũng như
các hệ phái của nó chi phối đời sống của hầu hết các nước Âu
– Mỹ hay còn gọi là phương Tây. Thế giới ngày nay là thế giới
văn hóa phương Tây. Họ cho rằng chuẩn văn hóa phương Tây
là chuẩn của văn hóa thế giới. Phương Tây văn minh hơn phần
thế giới còn lại. Từ đây, họ đặt cơ sở cho việc tranh luận
những lĩnh vực khác của đời sống con người – cả văn minh vật
chất, lẫn văn minh tinh thần.
Nền văn minh Hồi giáo
Hồi giáo có một bộ phận giáo dân khá lớn trên thế giới.
Với những đặc thù, Hồi giáo đang trỗi dậy và ngày càng thể
hiện vai trò chi phối đời sống của con người. Thuộc vào nền
văn minh này là những nước lấy Hồi giáo làm quốc giáo, hoặc
là tôn giáo chủ yếu. Có một số nước tuy giáo dân không
nhiều, nhưng chịu ảnh hưởng của niềm tin, giáo lý và cách thức
tổ chức của tôn giáo này cũng được xếp vào nền văn minh Hồi
giáo.
Nền văn minh Khổng giáo
Ngày nay, trên thế giới, ở tổ chức UNESCO của Liên
hợp quốc và các nước Nhật Bản, Triều Tiên, Hồng Kông…,
người ta còn gọi Nho học là Nho giáo.
Ở Trung Quốc, đa số giới học thuật đều gọi học thuyết do
Khổng Tử sáng lập là Nho học. Nhưng có người cho học thuyết
đó cũng là một tôn giáo. Giáo sư Nhậm Kế Dũ đã có nhiều bài
viết chứng minh cho luận điểm này. Nói chung, giới học thuật
chưa tán thành quan điểm đó.
Viện Tôn giáo thế giới, thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã
hội Trung Quốc, bên cạnh các phòng Phật giáo, Đạo giáo,
Thiên chúa giáo… còn có phòng Khổng giáo.
Giới học thuật ở nước ta thường nói đến khái niệm “Nho
giáo” và “Tam giáo”. Nhiều cuốn sách xuất bản trước kia và
hiện nay đêu gọi là “Nho giáo”. Ở đây vừa là cách gọi theo thói
quen, vừa có hàm ý Nho học là một tôn giáo.
Nhiều học giả phương Tây, căn cứ ảnh hưởng của Nho học
đối với xã hội phương Đông, đã coi Nho học như một tôn giáo.
Theo họ, mặc dù Phật giáo là một tôn giáo lớn, ra đời sớm nhất,
có giáo lý khá đồ sộ nhưng cách tổ chức của Phật giáo không
chặt chẽ nên không có sức mạnh như Khổng giáo hay Nho giáo.
Trong lịch sử tồn tại của mình, gần như toàn bộ xã hội phương
Đông đều chịu sự chi phối của Khổng giáo và ngày nay vẫn còn
ảnh hưởng rất lớn.
3. Quan điểm phân kỳ lịch sử theo các nền văn minh
Một số học giả phương Tây lại có cách phân chia xã hội
loài người theo nền văn minh. Quan điểm của các học giả này
dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất của mỗi thời đại.
Đương nhiên, sự phát triển lực lượng sản xuất là một trong
những tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội, nhưng không phải là tiêu
168
chuẩn duy nhất. Trường phái này cũng thống nhất cách gọi giai
đoạn đầu tiên của xã hội loải người là thời kỳ mông muội –
tương ứng với cách gọi là xã hội nguyên thủy hay cộng sản
nguyên thủy.
Nền văn minh thứ hai là nền văn minh nông nghiệp. Lực
lượng sản xuất của nền văn minh này chủ yếu là là công cụ thủ
công, lao động thủ công với năng suất thấp, đời sống con người
còn phụ thuộc vào thiên nhiên, chưa ổn định, nạn đói vẫn còn
diễn ra, con người chưa cải tạo thiên nhiên được nhiều. Thời kỳ
này kéo khá dài tronh lịch sử.
Nền văn minh thứ ba là nền văn minh công nghiệp. Theo
các học giả thuộc trường phái này, lực lượng sản xuất của thời
kỳ này được bắt đầu bằng việc phát minh máy hơi nước, với sự
mở đầu cho sự sản xuất cơ khí. Ngày nay, các nước công
nghiệp phát là triển tiêu biểu cho nền văn minh này. Ở công
nghiệp, sản phẩm của nền sản xuất, chủ yếu là từ sản xuất công
nghiệp. Công nghiệp phát triển làm cho đởi sống vật chất và
tinh thần của xã hội vượt trội, tiêu biểu cho nền văn minh nhân
loại hiện nay.
Nền văn minh thứ tư là nên văn minh hậu công nghiệp.
Nếu như trước đây, trong các nền văn minh nông nghiệp, nền
văn minh công nghiệp, giai cấp nông dân, giai cấp công nhân
đóng vai trò lãnh đạo chủ yếu thì trong nền văn minh hậu công
nghiệp, tầng lớp (có học giả gọi là giai cấp) tri thức đóng vai trò
lãnh đạo. Sản phẩm của sản xuất có hàm lượng trí tuệ là chủ
yếu. xã hội phát triển vượt bậc. Lúc đó loài người sẽ “hội tụ” ở
tri thức; còn các vấn đề giai cấp, dân tộc, nhà nước chỉ là hình
thức lịch sử. Con người sẽ sống với nhau một cách hòa bình.
Họ cổ vũ cho việc thực hiện nhanh ý tưởng đó. Tuy vậy, hiện
thực thế giới ngày nay vẫn còn khác xa với ý tưởng.
4. Quan điểm phân kỳ lịch sử của các nhà sử học
Đã từ lâu, trong giới sử học tồn tại một cách phân kỳ mà
cho đến ngày nay đã được mặc nhiên thừa nhận. Theo quan
điểm đó, lịch sử loài người được phân chia thành các giai đoạn
kế tiếp nhau, thời kỳ mông muội, thời kỳ cổ đại, thời kỳ trung
đại, thời kỳ cận đại và thời kỳ hiện đại.
Thời kỳ mông muội: cũng tương ứng như một số quan
điểm ở trên. Đó là thời kỳ nguyên thủy. Thời kỳ này bắt đầu ở
các quốc gia, các dân tộc khác nhau, tùy điều kiện hình thành
của họ, nhưng được kết thúc khi nhà nước chiếm hữu nô lệ ra
đời.
Thời kỳ cổ đại: Cũng giống như thời kỳ thứ nhất, mỗi
quốc gia đều có độ dài ngắn khác nhau, sự phát triển kinh tế -
xã hội cũng khác nhau. Điểm giống nhau cơ bản là nhà nước
chiếm hữu nô lệ suy tàn, thay vào đó là sự xuất hiện của nhà
nước phong kiến. Trong lịch sử, có những nước không trải qua
chế độ phong kiến, nhưng tiến trình chung của lịch sử nhân loại
diễn biến như vậy.
Thời kỳ trung đại: Thời kỳ này tương đối thống nhất trên
phạm vi thế giới, bắt đầu từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ XV.
Trong lịch sử, thời kỳ này cũng dược nhiều người gọi là thời kỳ
Trung cổ. Thời kỳ trung đại đã xảy ra nhiều việc bi thương, mà
170
đến ngày nay cách đánh giá về thời kỳ ấy còn rất nhiều quan
điểm khác nhau.
Thời kỳ cận đại: Đây là thời kỳ cách mạng tư sản nổ ra và
chủ nghĩa tư bản được thiết lập trên phạm vi thế giới. Tuy nhìn
chung là vậy, nhưng thời kỳ cận đại mang tính mở. Càng tiến
vào tương lai, thì thời kỳ cận đại càng có nhiều thay đổi.
Thời kỳ hiện đại. Thời kỳ này, trước đây, khi Ph.Ăngghen
đề cập đến thì được bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XIX – thời kì
xuất hiện chủ nghĩa đế quốc, cho đến ngày nay.
5. Quan điểm phân kỳ lịch sử của chủ nghĩa Mác
Theo quan diểm duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác phân chia
quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người dựa trên
cơ sở sản xuất vật chất – hay còn gọi là hình thái kinh tế - xã
hội. Phân kỳ lịch sử xã hội loài người của quan điểm duy vật
lịch sử bao gồm: Xã hội cộng sản nguyên thủy; Hình thái kinh
tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; Hình thái kinh tế - xã hội phong
kiến; Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa; Hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong Lời tựa viết cho lần xuất bản đầu tiên tác phẩm Phê
phán khoa Kinh tế chính trị, tháng Giêng năm 1859, C.Mác
khái quát: “Về đại thể, có thể coi các phương thức sản xuất
châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời đại
tiến triển dần dần của hình thái kinh tế - xã hội”69.

69
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004, t.13,
tr 16
Có thể nói, các cách phân chia lịch sử loài người của mỗi
trường phái ít nhiều, trong chừng mực nhất định đều có tính
hợp lý của nó. Đó là sự ảnh hưởng của một số yếu tố cơ bản
nào đó (theo quan điểm của mỗi trường phái cụ thể) đến các
lĩnh vực đời sống xã hội, kể cả đời sống vật chất, hoặc ít, hoặc
nhiều. Chúng tôi cho rằng lịch sử nhân loại đều chịu ảnh hưởng
không ít những yếu tố đó. Tuy thế, xét về bản chất, một số cách
phân chia ngoài mácxit nêu trên đã chưa phản ảnh đúng sự vận
động và phát triển toàn diện lịch sử xã hội loài người. Sự phát
triển như vũ bão của sản xuất vật chất do cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện nay đưa lại càng chứng tỏ việc phân kỳ
xã hội loài người theo hình thái kinh tế - xã hội của triết học
Mác là phù hợp hơn cả. Hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở để
phân kỳ lịch sử xã hội loài người theo quan điểm mácxit là hợp
lý, đúng đắn và có căn cứ khoa học.

II. CƠ SỞ ĐỂ C.MÁC XÂY DỰNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI


KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Sự tìm tòi của C.Mác trong giai đoạn đầu nghiên cứu
triết học
Sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 1839, C.Mác đăng ký
làm nghiên cứu sinh triết học tại trường đại học Béclin (Đức).
Đây là thời kỳ C.Mác bắt đầu nghiên cứu triết học. Cũng vào
thời kỳ này, C.Mác tích cực tham gia phái Hêghen trẻ. Lúc đó,
ở nước Đức nói chung, phái Hêghen nói riêng, đang sôi nổi
tranh luận và có thái độ khác nhau về triết học tự ý thức. Ngay
trong trường phái Hêghen, phái Hêghen trẻ và phái Hêghen
172
truyền thống, cũng đã có ý khác nhau về vấn đề đó. Triết học tự
ý thức, được đề cập vào thời kỳ suy thoái của triết học Hy Lạp.
Nhưng sự phát triển và suy thoái đó không hoàn toàn giống
nhau. Khi C.Mác tiến hành nghiên cứu, trong triết học đang tồn
tại ba hình thái tự ý thức. Tự ý thức theo trường phái Êpiquya,
muốn tìm sự an nhàn của chủ thể, sự bình an trong những biến
động của xã hội; tự ý thức mà phái Hêghen trẻ theo đuổi là đối
lập với hiện thực, coi thường hiện thực, cho ý thức của chủ thể
sáng tạo ra thế giới, ra lịch sử; còn đối với phái Hêghen truyền
thống, tự ý thức là sự phát triển của thế giới, thông qua sự kết
hợp tinh thần với hiện thực. Đối với C.Mác, ông không tán
thành việc tìm sự an nhàn, trốn tránh hiện thực như trường phái
Êpiquya; cũng không tán thành quan điểm đối lập tự ý thức với
hiện thực của phái Hêghen trẻ; mặc dù, ông nhất trí việc kết hợp
tinh thần với hiện thực của phái Hêghen truyền thống, nhưng
không tán thành cách điều hòa mâu thuẫn của trường phái đó.
Nghiên cứu quan niệm tự ý thức của các trường phái triết học,
C.Mác tuy đánh giá cao vai trò của triết học tự ý thức và đôi
lúc ông cho tự ý thức có thể chi phối, quyết định mục đích của
chủ thể, nhưng không coi tự ý thức sáng tạo ra hiện thực.
Mặc dù còn trẻ, nhưng C.Mác đã đánh giá đúng đắn rằng
các trường phái triết học nói chung, triết học tự ý thức nói
riêng, đều tách rời việc nghiên cứu lý luận với hiện thực. C.Mác
tự xác định cho mình phải biết kết hợp việc nghiên cứu triết
học, với tiến trình phát triển lịch sử, bám sát lịch sử mới có thể
hiểu được lôgíc tất yếu của nó. Theo cách tiếp cận đó, C.Mác đi
đến phân tích các nhân tố cơ bản, đầu tiên thúc đẩy lịch sử phát
triển của xã hội loài người. C.Mác nói: “Những công việc
nghiên cứu của tôi đã dẫn tôi tới kết quả là: không thể lấy bản
thân những quan hệ pháp quyền cũng như hình thái nhà nước,
hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con
người (người trích nhấn mạnh), để giải thích quan hệ và hình
thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái
đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất, mà toàn bộ
được Hêgen, theo cách của người Anh và người Pháp thế kỷ
XVIII, gọi gộp chung lại là “xã hội công dân” và việc giải phẫu
xã hội công dân này, thì phải tìm trong khoa kinh tế chính
trị”.Chính sự tìm tòi đó đã giúp C.Mác khẳng định: “Những
tiền đề xuất phát của chúng tôi, không phải là những tiền đề tùy
tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện
thực…”70; hay “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại
thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”71.
Trên những cơ sở như vậy, ông bắt đầu nghiên cứu những yếu
tố tác động đến sự biến đổi đời sống của con người,đời sống
của loài người. Ông nói; “Nhưng muốn sống được thì trước hết
phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác
nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất trong
những tư liệu để thỏa mãn nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản
thân đời sống vật chất. Hơn nữa đó là một hành vi lịch sử mà
(hiện nay cũng như hàng nghìn năm về trước) người ta thực
hiện hàng ngày hàng giờ chỉ duy trì đời sống con người. Dù
70
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t3, tr 28
71
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t3, tr 29
174
hiện thực cảm giác được bị thu hẹp tới mức tối thiểu thành một
cái gậy như đối với thánh Bruno thì hiện thực ấy cũng bao hàm
hoạt động đã sản xuất ra chiếc gậy ấy”72.
Như vậy, thời kỳ nghiên cứu triết học đầu tiên đã giúp
C.Mác phát hiện ra những tiền đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đó là quá trình sản xuất ra của cải vật chất để tiêu dùng, để làm
con người tồn tại là yếu tố quyết định sự xuất hiện, tồn tại và
phát triển của lịch sử xã hội và xây dựng phương pháp luận “cải
tạo thế giới”. Hình thái kinh tế -xã hội là một phát minh, sáng
tạo vĩ đại của C.Mác trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
2. C.Mác nghiên cứu các yếu tố của quá trình sản
xuất – cơ sở hình thành học thuyết hình thái kinh tế -
xã hội
Trong quá trình nghiên cứu triết học, C.Mác đã phê phán
những quan điểm duy tâm về vấn đề sản xuất vật chất của phái
Hêgen. Phái Hêgen cũng như những nhà duy tâm triết học lúc
đó, đăc biệt ở Đức, cho rằng trong quá trình sản xuất hàng hóa,
giá trị trao đổi mới là vật chất, còn lực lượng sản xuất không
phải là vật chất, mà chỉ là nguyên nhân của của cải vật chất; cái
vật chất của giá trị trao đổi thì có hạn, còn lực lượng sản xuất
mang bản chất tinh thần thì vô hạn. C.Mác không tán thành
quan điểm đó, nhân phê phán quyển sách của Ph. Listơ “Học
thuyết dân tộc về kinh tế chính trị học” xuất bản năm 1841(Ph.
Listơ là nhà kinh tế học tầm thường của giai cấp tư sản Đức)
ông viết: “…chỉ cần mở ra bản tổng quan thống kê đầu tiên ta
72
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t3, tr 40
gặp là đủ. Ở đó có nói về sức nước, sức hơi nước, sức người ,
sức ngựa. Tất cả những thứ ấy đều là lực lượng sản xuất”. Sự
thừa nhận như vậy các phẩm giá của con người, trong đó có
người hiện diện như là “sức mạnh” bên cạnh con ngựa,hơi
nước, nước có cao hay không?”73. Qua sự phê phán các trào lưu
tư tưởng trong triết học Đức, C.Mác đã chứng minh những yếu
tố tác động làm cho sức sản xuất xã hội phát triển. Theo C.Mác,
lực lượng sản xuất là những gì tạo nên sức sản xuất xã hội hay
tạo nên năng suất lao động xã hội để đáp ứng nhu cầu của con
người, mà trước hết là thực hiện “lòng thèm khát vị kỷ (bẩn
thỉu) của mình về lợi nhuận, của giai cấp tư sản. Trong các yếu
tố của lực lượng sản xuất, con người là quan trọng nhất. Đối với
nhà tư bản, không phải mọi con người nói chung, mà chỉ những
con người nào tạo ra giá trị của cải để làm giàu cho giai cấp tư
sản mới, được gọi là lực lượng sản xuất. Chính vì thế mà C.Mác
chỉ rõ: “Người tư sản xem người vô sản không phải là con
người, mà là lực lượng có khả năng tạo ra của cải là một lực
lượng mà người tư sản ấy ngoài ra còn có thể so sánh với lực
lượng sản xuất khác - với con vật với máy móc - và, nếu sự so
sánh ấy không có lợi cho con người, thì lực lượng mà con
người là hiện thân, sẽ buộc phải nhường chỗ cho lực lượng mà
hiện thân là con vật hoặc máy móc vả lại cả trong trường hợp
này nữa con người cũng sẽ có vinh dự (sẽ hưởng niềm vinh dự)
thể hiện ra như là “lực lượng sản xuất”74. Ngay cả với những
người “nếu cột sống bị vẹo, những khớp xương bị trật, sự phát
73
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t42, tr 354
74
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t42, tr 356
176
triển một chiều và sự rán sức của những cơ bắp nào đó v.v. làm
cho anh có năng lực làm việc nhiều hơn (có năng suất hơn), thì
xương sống bị vẹo của anh, những chi bị trật khớp của anh, sự
vận động các bắp thịt của anh là một sức sản xuất nào đó”75.
Cho nên, “tổng số những lực lượng sản xuất,những tư bản và
những hình thức xã hội của sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi
thế hệ thấy hiện có là cơ sở hiện thực của cái mà các nhà triết
học hình dung là thực thể là bản chất con người của cái mà họ
đã tôn sùng hoặc đả kích, một cơ sở hiện thực mà tác động và
ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của con người không hề
bị ngăn chặn bởi việc các nhà triết học ấy với tư cách là “Tự ý
thức” và Kẻ duy nhất nổi dậy chống lại nó”76 .
Trong quá trình nghiên cứu những yếu tố của lực lượng sản
xuất, C.Mác đã phát hiện: “Tư liệu lao động là một hiện vật,
hay là toàn bộ những vật mà con người đặt giữa họ và đối
tượng lao động và được họ dùng làm vật truyền dẫn hoạt động
của họ vào đối tượng ấy”77 và ông coi đây là yếu tố vô cùng
quan trọng.
Theo C.Mác, lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố tự
nhiên và sức sản xuất của bản thân con người. Ông cho rằng khi
con người là một bộ phận của lực lượng sản xuất, họ không chỉ
sáng tạo ra của cải vật chất, mà còn là chủ thể xã hội để cùng
với các yếu tố tự nhiên tạo nên lực lượng thúc đẩy loài người
phát triển. Đối với C.Mác, nền công nghiệp đóng vai trò quan
75
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t42, tr 354
76
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t42, tr 354
77
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t.23, tr 268
trọng trong sự phát triển xã hội. Vì trong công nghiệp, sức sản
xuất thông qua mối liên hệ giữa tình trạng phát triển của lực
lượng sản xuất với nền công nghiệp hiện đại làm biến đổi xã
hội, biến đổi mọi ý nghĩ của con người. Chính vì vậy, C.Mác dự
báo: “Ngày mai các lực lượng thiên nhiên và các lực lượng xã
hội do công nghiệp tạo ra sẽ phá tan xiềng xích mà người tư
sản dùng để ngăn cách lực lượng ấy với con ngời và qua đó
biến chúng từ chỗ là mối liên hệ xã hội thật sự thành gông cùm
quái dị của xã hội”78 .
Quá trình nghiên cứu đó đã giúp C.Mác hiểu rõ về động lực
phát triển của lich sử. Theo ông, động lực phát triển của lịch sử
là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, mặt khác,
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là yếu tố
quyết định các quan hệ kinh tế cũng như nguyên nhân chủ yếu
của các biến đổi xã hội. Đó là những vấn đề cơ bản, chuẩn bị cơ
sở lý luận để C.Mác xây dựng quan điểm duy vật, khoa học về
lịch sử, đặc biệt là lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
3. Sự hình thành quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen
về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Khi nghiên cứu đời sống xã hội và đã xác định tiền đề xuất
phát của nó, C.Mác và Ph Ăngghen đã tiến hành “giải phẫu”
toàn bộ cơ cấu xã hội- cái làm cho xã hội vận động và phát triển
.Theo các ông, người ta trước khi làm chính trị, nghệ thuật,
khoa học… thì trước hết cần phải sống, cần phải tồn tại đã.
Chính điều đó đã dẫn con người chúng ta thực hiện hoạt động
78
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t42, tr 350 -351
178
đầu tiên là sản xuất ra của cải để tiêu dùng. Để tiến hành sản
xuất, con người phải kết hợp sức lao động của mình, với những
yếu tố tự nhiên; không thể tiến hành lao động sản xuất một
mình mà phải kết hợp với nhau theo một cách thức nào đấy,
trong những xã hội nhất định.
Sau những năm tìm tòi, tranh luận, phê phán, C.Mác đã có
được những quan niệm cơ bản về sự vận động và phát triển xã
hội cùng những nguyên nhân bên trong, động lực bên trong của
xã hội. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán khoa Kinh tế
chính trị”, xuất bản năm 1859, ông đã khái quát quá trình sản
xuất và sinh hoạt vật chất, cũng như tinh thần của xã hội loài
người như sau: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết
định các quá trình phát triển xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của
họ; trái lại tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”79.
Từ những nền tảng xã hội đó, C.Mác và Ph Ăngghen đã bắt đầu
nghiên cứu làm rõ, xây dựng và hoàn thiện lý luận học thuyết
kinh tế - xã hội – một đóng góp quan trọng của C.Mác cho lý
luận lịch sử - xã hội.

III. QUÁ TRÌNH BỔ SUNG, HOÀN THIỆN VỀ HỌC THUYẾT


HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen


Sau những quan niệm, tiền đề ban đầu rất quan trọng,
C.Mác và Ph Ăngghen đã tiếp tục bổ sung những quan điểm

79
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t13, tr 15
mới về hình thái kinh tế - xã hội. Thực ra, C.Mác và
Ph.Ăngghen chưa có một tác phẩm nào tập trung làm rõ khái
niệm, cũng như kết cấu hình thành kinh tế - xã hội, nhưng trong
nhiều tác phẩm cơ bản như “Hệ tư tưởng Đức”, “Góp phần phê
phán khoa học kinh tế chính trị”, “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản”, “Bản thảo kinh tế triết học”, “Chống Đuyrinh”, “Lời bạt
viết cho tác phẩm về vấn đề xã hội ở Nga”, “Tư bản”…, C.Mác
và Ph Ăngghen đã đề cập tương đối đầy đủ về những yếu tố
hợp thành học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Trong Lời tựa, viết cho lần xuất bản đầu tiên tác phẩm
“Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, C.Mác đã có một
quan niệm, giống như định nghĩa ban đầu về hình thái kinh tế -
xã hội: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con
người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào
ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ
này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực
lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực, trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý
và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương
ứng với cơ sở hiện thực đó”80.
Trong quá trình nghiên cứu, sau khi xác định các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất và vai trò của chúng trong sự vận
động và sự phát triển của xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen tập
trung vào nghiên cứu vấn đề quan hệ sản xuất. Trong quá trình

80
Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, H 2004, t13, tr 14 - 15
180
nghiên cứu sau này, vấn đề quan hệ sản xuất trong quan niệm
của hai ông là nền tảng là cơ sở cho các mối quan hệ xã hội,
đồng thời, quan hệ sản xuất mặc dù chịu sự quyết định của lực
lượng sản xuất, nhưng đến lượt nó, quan hệ sản xuất đã tác
động trở lại lực lượng sản xuất. Mặt khác, muốn sản xuất thì lực
lượng sản xuất phải hoạt động theo cơ chế, theo những quy tắc
nhất định. Đó không có gì khác hơn là quan hệ sản xuất. Chính
C.Mác đã nói: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với
giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết
hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để
trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta
phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và
quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn
ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”.
Có lẽ, vì thế mà VI.Lênin đã có nhận xét rất đúng rằng: “Tuy
rằng Mác chỉ dùng độc có những quan hệ sản xuất, để giải
thích cơ cấu và sự phát triển của một hình thái xã hội nhất
định, song ở mọi nơi và mọi lúc ông đều phân tích những kiến
trúc thượng tầng tương ứng với những quan hệ sản xuất ấy và
thêm thịt, thêm gia vị cho có sườn đó”81. Bộ tư bản sở dĩ được
hoan nghênh nhiệt liệt, chính là vì cuốn sách đó của “nhà kinh
tế học Đức” đã vạch ra cho độc giả thấy rằng toàn bộ hình thái
xã hội tư bản chủ nghĩa là một cái gì sinh động - với những khía
cạnh đời sống hằng ngày, với những biểu hiện xã hội cụ thể của
sự đối kháng giai cấp vốn có của những quan hệ sản xuất, với

81
V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, M 1974, T1, tr 164 -165
cái kiến trúc thượng tầng chính trị tư sản đang bảo vệ sự thống
trị của giai cấp tư bản, với những ý niệm tư sản về tự do, bình
đẳng,…với những quan hệ gia đình tư sản.
2. Giai đoạn V.I.Lênin bổ sung về học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội
Thời kỳ V.I.Lênin, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai
đoạn độc quyền, đồng thời giai đoạn này đang bắt đầu thời kỳ
bão táp của cách mạng vô sản. Với cuộc cách mạng tháng 2
năm 1905, cũng như cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917 ở
Nga, việc ra đời hình thái kinh tế - xã hội mới, hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là xã hội xã hội
chủ nghĩa, đã cho phép V.I.Lênin khẳng định học thuyết của
C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ có giá trị lý luận đơn thuần
mà còn có ý nghĩa thực tiễn hiện thực. Trong tác phẩm “Những
người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người xã
hội dân chủ ra sao”, V.I.Lênin đã nhận xét như sau: “Cho đến
nay, trong cái mạng lưới phức tạp những hiện tượng xã hội, các
nhà xã hội học lúng túng, không phân biệt được những hiện
tượng nào là quan trọng và những hiện tượng nào là không
quan trọng (đó là căn nguyên của chủ nghĩa chủ quan trong xã
hội học) và họ không thể tìm được một tiêu chuẩn khách quan
cho sự phân biệt đó. Chủ nghĩa duy vật đã cung cấp một tiêu
chuẩn hoàn toàn khách quan bằng cách tách riêng những quan
hệ sản xuất, với tư cách là cơ cấu xã hội và bằng cách cho
chúng ta có khả năng ứng dụng vào những quan hệ ấy cái tiêu
chuẩn khoa học chung về tính lặp lại, tiêu chuẩn mà phái chủ
182
quan chủ nghĩa cho là không thể đem vào ứng dụng xã hội học
được… Việc phân tích những quan hệ xã hội vật chất khiến
chúng ta có thể nhận thấy ngay được tính lặp lại và tính hợp
quy luật và có thể đem những chế độ của các nước khác nhau
khái quát lại thành một khái niệm cơ bản duy nhất là: hình thái
xã hội”82.
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin và
nhân dân lao động Nga trong Liên bang cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô viết đã bắt tay vào xây dựng hình thái kinh tế - xã hội
mới. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã cho phép
V.I.Lênin xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội nói riêng và tiếp
tục bổ sung lý luận hình thái kinh tế - xã hội nói chung. Ông
cho rằng chủ nghĩa xã hội muốn chiến thắng được chủ nghĩa tư
bản, thì một trong những yếu tố quyết định là năng suất lao
động: “Chủ nghĩa tư bản đã tao ra một năng suất lao động
chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể
bị đánh bại hẳn, vì chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao
động mới, cao hơn nhiều”83. Nhưng để có năng suất lao động
cao thì trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất, hiện đại hóa
lực lượng sản xuất, đó là nguyên tắc bất biến của xã hội .
Theo V.I.Lênin, giai cấp vô sản có hai nhiệm vụ, thứ nhất là
cần phải đánh đổ giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền cách
mạng, tức chuyên chính vô sản và thứ hai là xây dựng xã hội
mới tiến bộ hơn. Ông cho rằng: “Nhiệm vụ thứ hai này khó hơn

82
V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, M 1974, T1, tr 162-163
83
V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, M 1976, t33, tr 33
nhiệm vụ thứ nhất, vì tuyệt nhiên không thể giải quyết được
nhiệm vụ đó bằng một hành động anh hùng nhất thời; nhiệm vụ
đó đòi hỏi phải có tinh thần dũng cảm lâu dài nhất, bền bỉ nhất,
khó khăn nhất của công tác quần chúng hằng ngày”84. Trong
hình thái kinh tế - xã hội mới này, “công tác kinh tế phải là sự
nghiệp chung của tất cả mọi người… là hoạt động chính trị có ý
nghĩa nhất”85.
V.I.Lênin cho rằng việc xây dựng hình thái kinh tế – xã hội
ở một nước nào còn tùy thuộc vào điều kiện lịch sử của nước
đó. Ông viết: “Không nghi ngờ gì nữa, ở một nước, trong đó
những người sản xuất – tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư,
chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt
những biệt pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở
những nước tư bản phát triển, trong đó công nhân làm thuê
trong công nghiệp và nông nghiệp chiếm tuyệt đại đa số dân
cư… Chỉ có một giai cấp như vậy, mới có thể là chỗ dựa về mặt
xã hội, kinh tế và chính trị, cho sự chuyển trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội. Chỉ trong những nước mà giai cấp ấy đã phát
triển đầy đủ, thì mới có thể chuyển trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, mà không cần đến những biệt pháp quá
độ đặc biệt có tính chất toàn quốc… Ở Nga, công dân công
nghiệp là thiểu số, còn tiểu nông là tuyệt đại đa số. Trong một
nước như vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể
thắng lợi triệt để với hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất là có sự

84
V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, M 1977, t39, tr 20
85
V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, M 1978, t43, tr 397
184
ủng hộ kịp thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước
hay một số nước tiên tiến… Điều kiện nữa là sự thỏa thuận
giữa giai cấp vô sản đang thực hiện chuyên chính của mình
hoặc đang nắm chính quyền nhà nước với đại đa số nông
dân”86.
Với đặc điểm của từng nước, sau khi cuộc cach mạng vô
sản thắng lợi, mà mỗi nước có thể vận dụng một trong hai con
đường để xây dựng hình thái kinh tế xã hội – cộng sản chủ
nghĩa. Con đường thứ nhất là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã
hội. Đay là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội với các nước
tư bản phát triển. Con đường thứ hai là quá độ lên chủ nghĩa
xã hội thông qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ -
quá độ gián tiếp. Đây là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
đối với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
Dù quá độ trực tiếp, hay quá độ gián tiếp thì hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa nhất thiết phải tiến bộ hơn hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin cho rằng muốn
chủ nghĩa xã hội thắng lợi thì “Cơ sở vật chất duy nhất của chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả
năng cải tạo cả nông nghiệp”87.

IV. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Sản xuất vật chất - nền tảng của sự vận động, phát
triển xã hội
86
V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, M 1978, t43, tr 68-69
87
V.I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, M 1978, t43, tr 11
Trên ý nghĩa bao quát nhất, khái niệm xã hội dùng để chỉ
những cộng đồng người trong lịch sử, đó là những cộng đồng
người có tổ chức, nhằm thực hiện các mối quan hệ giữa con
người với con người trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn
hóa, đạo đức, tôn giáo,…
Hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên của nhân loại là cộng
đồng thị tộc, bộ lạc với hình thức cơ cấu xã hội khá giản đơn. Sự
tiến hóa hơn nữa của lịch sử đã dẫn tới sự hình thành cơ cấu tổ
chức xã hội cao hơn nữa là hình thức tổ chức quốc gia theo hình
thái xã hội: tổ chức quốc gia - dân tộc. Ngày nay, do nhu cầu mới
của lịch sử trong thời đại mới, đã bắt đầu xuất hiện những hình
thức tổ chức liên minh rộng lớn giữa các quốc gia - dân tộc,
thành các hình thức xã hội ở phạm vi khu vực và quốc tế.
Trong bất cứ hình thức tổ chức nào của cộng đồng xã hội, dù
đơn giản nhất cũng đều phải có sự thống nhất của cả toàn bộ quá
trình sản xuất vật chất, sản xuất và tái sản xuất ra con người,
cùng những quan hệ xã hội cùa nó. Sản xuất vật chất là quá trình
liên kết con ngưởi dưới các hình thức tổ chức xã hội nhất định,
thực hiện mục đích cải biến môi trường tự nhiên làm biến đổi các
đối tượng vật chất tự nhiên, theo nhu cầu sinh tồn và phát triển
của con người. Sản xuất tinh thần là quá trình hoạt động không
ngừng để sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần trên tất cả các
lĩnh vực của xã hội, từ những giá trị tri thức cho tới những giá trị
văn hóa nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, triết học,... Cùng với những
quá trình sản xuất ra vật chất và tinh thần ấy là quá trình sản xuất
và không ngừng tái sản xuất ra chính bản thân con người và các
186
quan hệ xã hội của họ, trong hai mặt tự nhiên và xã hội của con
người. Ba loại hình sản xuất đó luôn luôn tồn tại trong tính quy
định, chi phối và làm biến đổi lẫn nhau, tạo nên tính chất sống
động của đời sống xã hội, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò
quyết định.
Tính quyết định của sản xuất vật chất, đối với toàn bộ đời
sống xã hội xuất phát từ tiền đề khách quan là: “người ta phải có
khả năng tồn tại đã rồi mới có thể "làm ra lịch sử". Nhưng muốn
sống được, thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và nhiều thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên
là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy,
việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”88. Sự thật khách quan
đó cũng cho thấy: tiền đề xuất phát để nghiên cứu về lịch sử con
người và lịch sử nhân loại phải được bắt đầu từ việc nghiên cứu về
hành vi lao động sản xuất vật chất của con người. C.Mác khẳng
định: “Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật
ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
của mình”89. Với ý nghĩa đó, có thể khẳng định phương thức đặc
trưng cho sự sinh tồn và phát triển của con người là hoạt động lao
động sản xuất ra của cải vật chất. Phương thức sản xuất vật chất
ấy là cái phân biệt căn bản giữa con người và động vật, khiến cho
động vật người trở thành con người, vì đã tự mình làm ra lịch sử
của chính mình.

88
C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, t3, tr 40
89
C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, t3, tr 29
Lao động sản xuất vật chất là hoạt động có mục đích của con
người nhằm cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên, cải biến giới
tự nhiên. Hoạt động sản xuất vật chất không thể là những hoạt
động riêng lẻ, độc lập của mỗi con người, mà nhất định phải là
hoạt động trên cơ sở liên kết những cá nhân thành cộng đồng có tổ
chức, tức là thành những cộng đồng xã hội nhất định, theo yêu cầu
tất yếu của việc cải biến giới tự nhiên. Mác khẳng định: “Trong
sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta
không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một
cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với
nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có mối quan hệ nhất
định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản
xuất chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã
hội đó”90.
Mối quan hệ nhất định với nhau trong quá trình sản xuất ấy,
theo quan điểm của C.Mác, chính là những quan hệ sản xuất, hay
những quan hệ kinh tế của xã hội, tức những quan hệ liên kết giữa
những con người nhằm thực hiện các lợi ích vật chất có được nhờ
quá trình sản xuất vật chất đó. Trên cơ sở những quan hệ này, tất
yếu làm nảy sinh tất cả những quan hệ xã hội khác, giữa con
người với con người trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật, đạo
đức, tôn giáo,... Sự nảy sinh những quan hệ ấy, suy đến cùng, chỉ
là sự phản ánh nhu cầu tất yếu cần phải có, để đảm bảo cho những
quan hệ sản xuất có thể được xác lập và thực thi, nhờ đó quá trình
sản xuất vật chất, tức cải biến giới tự nhiên, mới có thể thực hiện

90
C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, t6, tr 552
188
được. Như vậy, những quan hệ sản xuất của xã hội không phải là
những quan hệ mang tính chủ quan, tùy tiện, mặc dù nó được thiết
lập bởi chính con người, có thể mang những hình thức đạo đức,
tập tục như trong xã hội nguyên thủy, hay những hình thức pháp
lý trong các xã hội được tổ chức theo hình thức nhà nước, mà là
những quan hệ có cơ sở khách quan, tức có tính vật chất của nó, từ
nhu cầu khách quan của công việc sản xuất, từ trình độ kỹ thuật
công nghệ thực tế, trong mỗi điều kiện lịch sử của công việc sản
xuất ấy.
Cách tiếp cận duy vật về xã hội của Mác đã cho thấy: sản xuất
vật chất nhất định phải là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội là
cơ sở cuối cùng để giải thích mọi biến đổi của lịch sử; mọi sự biến
đổi, phát triển của các quan hệ xã hội giữa con người với con
người, của sự phát triển từ hình thức tổ chức xã hội này lên hình
thúc tổ chức xã hội khác cao hơn trong lịch sử nhân loại. Phương
pháp luận duy vật của Mác trong việc nghiên cứu về xã hội và lịch
sử cho thấy lịch sử tiến hóa văn minh của nhân loại có cơ sở quyết
định từ lịch sử phát triển của trình độ văn minh trong quá trình sản
xuất ra của cải vật chất của xã hội; do vậy, cũng cần phải nghiên
cứu trình độ phát triển nói chung của xã hội, trên mọi lĩnh vực của
nó, từ trình độ phát triển thực tế của nền sản xuất vật chất ấy, mà
suy đến cùng, thì trình độ phát triển ấy lại phụ thuộc vào trình độ
phát triển của phương thức sản xuất - tức là những cách thức mà
xã hội sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất ra của cải vật chất
ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Mỗi quá trình sản xuất vật chất, đều được tiến hành theo
những phương thức nhất định trên hai mặt - đó là phương thức kỹ
thuật, công nghệ của quá trình sản xuất và phương thức tổ chức
kinh tế của quá trình sản xuất ấy, trong đó, phương thức tổ chức
kinh tế phụ thuộc tất yếu vào trình độ phương thức kỹ thuật, công
nghệ hiện có của xã hội. Như vậy, chính trình độ phát triển của
phương thức kỹ thuật, công nghệ nói riêng và trình độ phát triển
nói chung của toàn bộ lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định
trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội và do đó nó
cũng chính là nhân tố quyết định trình độ phát triển của toàn bộ
đời sống xã hội trên tất cả các mặt khác nhau của nó. Có thể nhận
rõ sự khác nhau căn bản giữa phương thức sản xuất của xã hội
nông nghiệp truyền thống (điển hình là phương thức sản xuất
trong các xã hội phong kiến thời trung cổ) và phương thức sản
xuát công nghiệp hiện đại (tiêu biểu trong các xã hội tư bản đương
đại). Trong phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống,
phương thức tổ chức kinh tế, thường theo quy mô nhỏ với cách
thức hoạt động tự sản - tự tiêu, hay “tự cung tự cấp”, mang tính
chất khép kín của quy trình tái sản xuất giản đơn. Cách thức tổ
chức kinh tế này dựa trên tính chất sở hữu tư nhân nhỏ đối với các
tư liệu sản xuất. Các tư liệu sản xuất cũng như lao động, được sử
dụng trong quá trình sản xuất căn bản đều ở trình độ thủ công,
được tích lũy bởi kinh nghiệm của những người lao động trong
phạm vi tương đối hẹp. Ngược lại, phương thức sản xuất công
nghiệp hiện đại, mà tiền thân của nó là phương thức sản xuất công
nghiệp truyền thống tư bản chủ nghĩa, ra đời từ sau các cuộc cách
mạng tư sản ở các nước Tây Âu (thế kỷ XVIII). Trong phương
190
thức sản xuất công nghiệp hiện đại, cách thức tổ chức kinh tế
trong toàn xã hội (với phạm vi một quốc gia hay giữa các quốc gia
liên minh) là phương thức tổ chức kinh tế thị trường hiện đại với
sự tham gia của ba chủ thể kinh tế - tư nhân, kinh tế các hộ gia
đình và kinh tế nhà nước. Cách thức tổ chức kinh tế sản xuất công
nghiệp, dựa trên sự kết hợp của nhiều loại hình sở hữu các giá trị
tư bản, được vận hành trong các quá trình sản xuất của xã hội. Về
phương diện kỹ thuật công nghệ của quá trình sản xuất, phương
thức sản xuất công nghiệp hiện đại cơ bản dựa trên trình độ phát
triển của kỹ thuật, công nghệ cao, công nghệ hiện đại trong quy
trình sản xuất. Vì thế, phương thức sản xuất này cũng được gọi là
“phương thức công nghiệp - thị trường hiện đại”, tức là có sự
thống nhất giữa hai mặt của phương thức sản xuất vật chất của các
xã hội đã đạt được trình độ tiên tiến, từ khoảng nửa cuối thế kỷ
XX đến nay.
Tương ứng vớí quá trình chuyển từ phương thức sản xuất
nông nghiệp truỵền thống sang phương thức sản xuất công nghiệp
là quá trình biến đổi và cách mạng của hàng loạt các quan hệ giữa
con người với con người, trên các lĩnh vực tổ chức chính trị, pháp
luật, văn hóa, đạo đức, tôn giáo,... Đúng như Mác nhận định:
“Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và
chính mỗi một giai đoạn phát triến kinh tế nhất định của một dân
tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển
các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và
thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”91. Với

91
C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, t19, tr 500
việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất
trong nền sản xuất vật chất và vai trò quyết định trình độ phát triển
của toàn bộ đời sống xã hội và sự vận động, phát triển của toàn bộ
lịch sử nhân loại, Mác đã tiến hành phác họa lịch sử phát triển của
xã hội loài người qua lịch sử phát triển, thay thế lẫn nhau của các
phương thức sản xuất, từ trình độ thấp đến cao. Theo tư tưởng của
Mác trong tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị
(xuất bản năm 1859), thì về đại thể, có thể coi các phương thức
sản xuất châu Á cổ đại, phong kỉến và tư sản hiện đại là những
thời đại tiến triển dần dần, của các hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau trong lịch sử.
Khái niệm “phương thức sản xuất châu Á” được Mác sử dụng
để chỉ loại hình phương thức sản xuất đặc biệt, mang tính quá độ
từ phương thức sản xuất nguyên thủy, lên phương thức sản xuất
cao hơn đã tồn tại kéo dài trong lịch sử các xã hội thuộc phương
Đông vùng châu Á, mà hình thức tiêu biểu của nó là mô hình tổ
chức “công xã nông thôn” ở Ấn Độ. Trong đó, tính chất “sở hữu
kép” về ruộng đất - tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội nông
nghiệp dựa trên trình độ lao động thủ công chưa phát triển - được
Mác coi là “chiếc chìa khóa” để nghiên cứu “những bí mật” của
xã hội Ấn Độ nói riêng và các xã hội vùng phương Đông Châu Á
nói chung.
2. Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất - quy luật cơ bản của sự vận động,
phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử
Theo Mác, bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng
192
diễn ra với sự tồn tại song song của hai mối quan hệ cơ bản, đó là:
mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và mối quan hệ giữa
con người với con người. Khái niệm lực lượng sản xuất và khái
niệm quan hệ sản xuất phản ánh hai mối quan hệ song trùng ấy,
trong đó, khái niệm lực lượng sản xuất phản ánh trình độ con
ngườỉ chinh phục giới tự nhiên trong quá trình sản xuất, còn kháỉ
niệm quan hệ sản xuất phản ánh sự liên kết giữa những con người,
theo yêu cầu khách quan của sự chinh phục giới tự nhiên ở một
trình độ phát triển nhất định.
Khái niệm “lực lượng sản xuất” phản ánh mối quan hệ giữa
con người với giới tự nhiên, biểu hiện trình độ con người chinh
phục tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất. Đó là mối quan hệ
vật chất giữa con người với giới tự nhiên. Mối quan hệ đó, được
thực hiện thông qua quá trình lao động sản xuất vật chất, con
người cải biến giới tự nhiên bằng sức mạnh thực tiễn. Vì vậy, xét
về thực chất, khái niệm “lực lượng sản xuất” dùng để chỉ năng lực
thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Năng lực đó được
tạo ra trong đời sống hiện thực, bằng sự kết hợp giữa sức lao động
(sức lực vật chất và tinh thần - đặc biệt là yếu tố tri thức) của con
người với những tư liệu sản xuất, trong quá trình lao động của họ.
Do đó, có thể định nghĩa: Lực lượng sản xuất là toàn bộ các
yếu tố vật chất và tinh thần của con người, tạo thành năng lực
thực tiễn, cải biến giới tự nhiên theo mục đích của quá trình sản
xuất vật chất.
Trình độ phát triển của năng lực thực tiễn cải biến giới tự
nhiên của con người, tức trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau đây:
Một là, trình độ phát triển của các tư liệu sản xuất trong đó,
trình độ phát triển của công cụ lao động thể hiện tập trung trình độ
phát triển của các tư liệu sản xuất.
Hai là, trình độ phát triển của năng lực lao động thực tế của
con người, tức của sức lao động, bao gồm trong đó toàn bộ sức
lực vật chất và sức lực tinh thần (kỹ năng, kinh nghiệm,...) của
người lao động.
Ba là, phương thức kết hợp các yếu tố trong quá trình sản
xuất. Cùng một trình độ phát triển của tư liệu sản xuất và sức lao
động của con người, nhưng phương thức phân công, hợp tác, phối
kết hợp khác nhau có thể tạo ra chất lượng, trình độ phát triển
khác nhau của lực lượng sản xuất, do đó, trong thực tế chúng cũng
có giá trị hiện thực khác nhau, thể hiện trình độ năng lực thực tiễn
khác nhau trong quá trình sản xuất.
Trong các yếu tố của tư liệu sản xuất và người lao động (tức
con người có khả năng lao động được tạo nên bởi các yếu tố vật
chất và tinh thần của chính bản thân họ) thì nhân tố người lao
động là yếu tố cơ bản nhất. Bởi vì, suy đến cùng, trình độ phát
triển của tư liệu sản xuất chỉ là kết tinh giá trị lao động của con
người là sản phẩm lao động của con người, phản ánh trình độ lao
động của con người; đồng thời, giá trị thực tế tạo nên năng lực
thực tiễn trong quá trình sản xuất, phụ thuộc vào trình độ lao động
thực tế của người lao động, khi họ sử dụng những tư liệu đó. Nếu
194
xem xét quá trình lao động sản xuất không phải với tư cách trực
quan là quá trình lao động sản xuất đơn lẻ, riêng biệt của mỗi cá
nhân độc lập mà là tổng thể quá trình lao động của một xã hội, thì
các yếu tố tư liệu sản xuất và người lao động cần phải được phân
tích là tổng thể kết hợp giữa các loại và trình độ phát triển của tư
liệu sản xuất, cũng như giữa các loại và trình độ phát triển của
người lao động trong tính toàn thể xã hội của nó. Trong đó có sự
kết hợp giữa các loại lao động phát triển ở những trình độ khác
nhau (lao động trí óc và lao động chân tay, lao động trực tiếp và
gián tiếp,...). Cách hiểu đó mới có thể cho thấy rõ sự phát triển của
lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay. Một trong những đặc
điểm lớn của thời đại ngày nay là có sự phát triển hết sức nhanh
chóng của các ngành khoa học tự nhiên gắn kết với các quá trình
phát minh sáng chế kỹ thuật mới, từ đó làm xuất hiện và phát triển
rất nhanh chóng các ngành công nghệ cao như: công nghệ thông
tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ
trụ,... Các ngành công nghệ đó ngày càng đóng vai trò then chốt,
trụ cột trong sự phát triển của lực lượng sản xuất ở các nước có
nền công nghiệp hiện đại. Với sự phát triển đó, tất yếu đòi hỏi quá
trình phát triển trình độ ngày càng cao của người lao động, trong
xã hội công nghiệp hiện đại. Xu hướng sử dụng trình độ lao động
có đào tạo và được đào tạo ở trình độ chuyên môn cao, theo chiều
sâu của sự chuyên môn hóa để có thể thích ứng với việc sử dụng
sản phẩm kỹ thuật mới ngày càng được coi trọng, thay thế dần cho
trình độ lao động căn bản dựa trên những kỹ năng kinh nghiệm
lao động thông thường không cần trải qua quá trình đào tạo
chuyên sâu. Những sự phát triển đó của lực lượng sản xuất trong
xã hội công nghiệp hiện đại, đã thể hiện khuynh hướng gắn kết
ngày càng chặt chẽ giữa hai quá trình sản xuất vật chất và tinh
thần của xã hội, thể hiện khuynh hướng khoa học kỹ thuật ngày
càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mà Mác đã dự báo từ
thế kỷ XIX. Biểu hiện cao nhất của quá trình đó là sự ra đời và
phát triển của các khu công nghệ cao, trong đó có sự liên kết chặt
chẽ giữa những nhà sản xuất và những nhà khoa học, các tổ chúc
nghiên cứu khoa học, các trường đại học đào tạo nguồn nhân lực
có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu phát triển của nền công
nghiệp hiện đại. Khuynh hướng phát triển của lực lượng sản xuất
trong các xã hội công nghiệp hiện đại cũng tất yếu thúc đẩy tiến
trình “xã hội hóa của lực lượng sản xuất mà biểu hiện tiêu biểu là
sự phụ thuộc tất yếu ngày càng tăng về mặt trình độ phát triển của
kỹ thuật, công nghệ được sử dụng vào mỗi quá trình sản xuất công
nghiệp. Sự tiến bộ về mặt kỹ thuật, công nghệ của những ngành
sản xuất này tất yếu đòi hỏi phải có sự phát triển tương ứng vể mặt
kỹ thuật, công nghệ của ngành khác, nhờ đó mới có thể tạo ra sản
phẩm toàn diện của quá trình sản xuất. Cũng do đó, sự thay thế
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ này bằng một
trình độ mới cao hơn giữa các ngành sản xuất diễn ra với một tốc
độ và chu kỳ đổi mới hết sức nhanh chóng, không chỉ trong phạm
vi nền sản xuất của một quốc gia. Như vậy, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ở ngành này lại phụ thuộc vào trình độ phát
triển của ngành khác, trong đó, xét về tổng thể là mối quan hệ phụ
thuộc về trình độ phát triển kỹ thuật - công nghệ trong lực lượng
sản xuất thuộc cơ cấu giữa ba ngành công nghiệp - nông nghiệp -
dịch vụ, không chỉ trong phạm vi mỗi quốc gia riêng biệt.
196
Khái niệm “quan hệ sản xuất” dùng để chỉ mối quan hệ giữa
con người với con người, trong quá trình sản xuất và tái sản xuất
vật chất của một xã hội nhất định.
Mỗi quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất chỉ có thể diễn
ra được với sự kết hợp của tổng thể các mối quan hệ giữa con
người với con người, trong đó mối quan hệ về mặt kỹ thuật, công
nghệ mà nhờ đó có thể trực tiếp làm biến đổi các đối tượng vật
chất tự nhiên, thuộc về “lực lượng sản xuất". Còn mối quan hệ về
mặt xã hội giữa con người với con người trong quá trình đó thuộc
về “quan hệ sản xuất”. Trong đó, nội dung chính của nó là mối
quan hệ kinh tế, mặc dù mối quan hệ kinh tế nào trong xã hội
được tổ chức dưới hình thức nhà nước cũng cần có nội dung pháp
lý để đảm bảo tính thực thi của nó, vốn thuộc về thượng tầng kiến
trúc của xã hội. Mối quan hệ kinh tế là quan hệ liên kết giữa con
người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, nhằm
mục đích thực hiện lợi ích vật chất có được trong quy trình dó.
Từ sự phân tích trên, có thể định nghĩa khái quát: Quan hệ sản
xuất là mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người, nảy
sinh trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt là: quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý quá trình sản xuất và
quan hệ phân phối kết quả của quá trình sản xuất ấy. Ba mặt đó
của quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau,
trong đó, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết
định.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người
với nhau, trong việc xác định các tư liệu sản xuất thuộc về ai, với
nội dung cơ bản là tập hợp của các quyền: chiếm hữu, sử dụng,
mua bán, chuyển nhượng,... Tập hợp các quyền đó có thể mang
một hình thức pháp lý nhất định, được bảo hộ bởi quyển lực quản
lý của nhà nước, hoặc theo thông lệ tập tục truyền thống trong các
xã hội chưa có sự ra đời của bộ máy nhà nước.
Xét theo tính chất cơ bản của sở hữu, trong lịch sử nhân
loại đã từng tổn tại hai loại quan hệ sở hữu, đó là sở hữu tư
nhân và sở hữu cộng đồng xã hội, về tư liệu sản xuất. Mỗi loại
sở hữu đó lại có thể tồn tại, với những hình thức phù hợp với
mỗi điều kiện lịch sừ - cụ thể. Trong các quốc gia có sự phát
triển của nền kinh tế thị trường hiện đại có sự tồn tại của nhiều
loại hình sở hữu đan xen, hỗn hợp, tạo thành một hệ thống cơ
cấu sở hữu thống nhất trong tính đa dạng của nó: sở hữu tư
nhân tư bản (quy mô lớn và nhỏ), sở hữu tư nhân của những
người sản xuất nhỏ, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu
hỗn hợp trong các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần,...
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành quan hệ
tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ phân phối sản
phẩm làm ra. Hai loại hình quan hệ này, luôn có sự tác động trở
lại quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Sự tác động đó có thể theo
những chiều hướng khác nhau, tạo ra những ảnh hưởng tích
cực, hoặc tiêu cực đối với các quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
198
sản xuất là mối quan hệ giữa nội dung vật chất và hình thức
kinh tế của quá trình sản xuất. Đó cũng là mối quan hệ thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, trên cơ sở quyết định
của lực lượng sản xuất, tạo thành nguồn gốc và động lực cơ bản
của quá trình vận động, phát triển các phương thức sản xuất
trong lịch sử. Đó cũng chính là nội dung cơ bản của quy luật
“quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất” - quy luật cơ bản nhất của quá trình phát triển
xã hội. Thứ nhất, sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai
phương diện cơ bản, tất yếu của mỗi phương thức sản xuất -
mỗi quá trình sản xuất nhất định, do đó, chúng tồn tại trong tính
quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau trong quá trình sản xuất
của xã hội. Nói cách khác, mỗi phương thức sản xuất, hay mỗi
quá trình sản xuất không thể tiến hành được, nếu như thiếu một
trong hai phương diện đó, trong đó, lực lượng sản xuất chính là
nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ của quá trình này, còn
quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá trình
đó. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
chính là mối quan hệ tất yếu giữa nội dung vật chất và hình
thức kinh tế của cùng một quá trình sản xuất khách quan của xã
hội. Thứ hai, vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với
quan hệ sản xuất. Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối
với quan hệ sản xuất. Nói cách khác, quan hệ sản xuất phụ
thuộc tất yếu vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tính quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản
xuất, xét đến cùng là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ này.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ thuộc phạm trù “mâu thuẫn” trong phép biện
chứng duy vật, tức là mối quan hệ thống nhất của hai xu hướng
có khả năng vận động trái ngược nhau. Sự vận động của mâu
thuẫn này là đi từ sự thống nhất đến những khác biệt căn bản và
dẫn đến sự xung đột giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất, với quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển đó. Khi đó,
xuất hiện nhu cầu của những cuộc cải cách, hoặc cao hơn là một
cuộc cách mạng, nhằm thực hiện sự cải biến những quan hệ sản
xuất hiện thời, theo hướng làm cho nó phù hợp với nhu cẩu phát
triển của lực lượng sản xuất, nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới
của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Khi phân tích sự
vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, Mác nhận định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn
với những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện
pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn với những
quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản
xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực
lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất đó trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó, bắt đầu thời đại
của những cuộc cách mạng”92.
Sở dĩ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là mối quan hệ thống nhất của các mặt đối lập là vì có sự

92
C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, t13, tr 15
200
khác nhau về tính chất biến đổi của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất có xu hướng “động”, còn quan
hệ sản xuất thì, ngược lại, có xu hướng “tĩnh". Xu hướng động
và tĩnh của hai phương diện lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất đều là khách quan. Trong điều kiện bình thường, trong sự
ổn định tương đối của những hình thức kinh tế nhất định, lực
lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng, tái
tạo và phát triển. Nhưng chính sự phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất trong phạm vi ổn định của quan hệ sản xuất
lại tất yếu dẫn đến khả năng ngày càng bộc lộ sự xung đột với
những hình thức kinh tế hiện thời và tất yếu đòi hỏi phải cỏ
những thay đổi nhất định của quan hệ sản xuất mà lâu nay lực
lượng sản xuất phát triển trong đó thì mới có thể có được sự
phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất. Như vậy, sự vận
động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là đi từ sự thống nhất đến xung đột và một khi
xung đột đó được giải quyết thì lại tái thiết lập sự thống nhất
mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử tạo ra quá trình
vận động và phát triển của phương thức sản xuất - của nền sản
xuất xã hội và sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất cho thấy: chỉ trong sự thống nhất, phù hợp
của những quan hệ sản xuất hiện thực với trình độ phát triển
thực tế của các lực lượng sản xuất có mới có chế tạo ra được
những điều kiện thích hợp cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất, tuy nhiên, sự phù hợp giữa chúng chỉ là tương đối, tạm
thời trong một giai đoạn phát triển nhất định, còn khuynh
hướng vận động tuyệt đối của lực lượng sản xuất lại phá vỡ sự
phù hợp đó, tạo ra khả năng tái thiết lập phù hợp trong giai
đoạn phát triển mới.
3. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng - quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển
trong cơ cấu tổng thể của đời sống xã hội
Xét tổng thể, đời sống xã hội là một hệ thống cơ cấu tổ chức
hết sức phức tạp, bao gồm trong đó những mối quan hệ chi phối
lẫn nhau, từ lĩnh vực của những quan hệ kinh tế, đến lĩnh vực của
những quan hệ chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo,… Vậy, giữa
những lĩnh vực đó có mối quan hệ thế nào và sự biến đổi, phát
triển của cơ cấu tổng thể ấy tuân theo quy luật xã hội cơ bản nào?
Với phương pháp biện chứng duy vật trong tiếp cận nghiên
cứu về xã hội, Mác đã chỉ ra mối quan hệ quyết định của lĩnh vực
kinh tế đối với các lĩnh vực khác thuộc thượng tầng kiến trúc như
chính trị, pháp luật,… của xã hội; nói cách khác, Mác cũng đã chỉ
rõ quy luật về sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào tính
chất và trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Mác khẳng
định: “Toàn bộ những quan hệ xã hội… hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến
trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã
hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”93.
Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

93
C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, t3, tr 15
202
Theo tư tưởng nêu trên của Mác, có thể hiểu: trong học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội, khái niệm cơ sở hạ tầng dùng
để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất, hợp thành cơ cấu kinh
tế - xã hội; còn khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ
toàn bộ hệ thống kết cấu các quan hệ tư tưởng xã hội (chính trị,
pháp quyền, tôn giáo,…) cùng với các thiết chế chính trị - xã
hội tương ứng (chính đảng, nhà nước, giáo hội,…) được hình
thành trên một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội:
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện
cơ bản của đời sống xã hội - đó là phương diện kinh tế và
phương diện chính trị - xã hội, giữa chúng có mối quan hệ
thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau. Trong đó,
cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng
tầng và đồng thời, kiến trúc thượng tầng thường xuyên có sự tác
động trở lại cơ sở hạ tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc
thượng tầng được thể hiện trên nhiều phương diện: tương ứng
với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng
phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó. Những biến đổi
trong cơ sở hạ tầng, tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến
đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng. Tính chất mâu thuẫn
trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ
thống kiến trúc thượng tầng. Sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức
hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính trị - xã hội có nguyên
nhân sâu xa từ mâu thuẫn về cuộc đấu tranh giành lợi ích trong
cơ sở kinh tế của xã hội. Giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu
sản xuất của xã hội đồng thời cũng là giai cấp nắm được quyền
lực nhà nước, còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác ở vào địa
vị phụ thuộc đối với quyền lực nhà nước. Các chính sách và
pháp luật của nhà nước, suy đến cùng là sự phản ánh nhu cầu
thống trị về kinh tế của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu những tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vảo cơ sở hạ
tầng có nguyên nhân từ tính tất yếu kinh tế đối vớỉ toàn bộ các
lĩnh vực sình hoạt của xã hội, dù đó là lĩnh vực thực tiễn chính
trị, pháp luật, hay lĩnh vực sinh hoạt tinh thần của xã hội. Tính
tất yếu kinh tế lại phụ thuộc vào tính tất yếu của nhu cầu duy trì
và phát triển các lực lượng sản xuất khách quan của xã hội. Với
tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu
phát triển của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có
vị trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên có vai trò tác
động trở lại cơ sở hạ tầng. Sự tác động của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều phương thức.
Điều đó tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc
thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của những nhân tố đó
trong những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện kiến
trúc thượng tầng có nhà nước, thì phương thức tác động của các
yếu tố khác tới cơ sở kinh tế của xã hội thường phải thông qua
nhân tố nhà nước mới, có thể thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò

204
thực tế của nó. Nhà nước là nhân tố giữ vai trò tác động trực
tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.
Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể
diễn ra theo nhiều xu hướng, thậm chí, các xu hướng không chỉ
khác nhau, mà còn có thể đối lập nhau. Điều đó phản ánh tính chất
mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau
và đối lập nhau, vừa có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế
hiện tại, duy trì chế độ xã hội hiện thời, vừa lại có sự tác động theo
xu hướng xóa bỏ cơ sở kinh tế này, xác lập một cơ sở kinh tế
khác, xây dựng một chế độ xã hội khác.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng, đối với cơ sở hạ tầng
có thể diễn ra theo xu hướng tích cực, hoặc tiêu cực. Điều đó phụ
thuộc vào sự phù hợp, hay không phù hợp của các yếu tố thuộc
kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát
triển kinh tế; nếu phù hợp nó sẽ có tác dụng tích cực, ngược lại sẽ
có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển kinh tế
trong một phạm vi và mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động
của kiến trúc thượng tấng đối với cơ sở hạ tầng, dù diễn ra với
nhũng xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau, nhưng cũng
không thể giữ vai trò quyết định đối với cơ sở hạ tầng kinh tế của
xã hội; cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội vẫn mở đường đi cho nó,
theo tính tất yếu kinh tế cùa nó.
Sự phân tích về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng cho thấy đây là mối quan hệ biện chứng, được thực
hiện theo nguyên lý kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở
hạ tầng; chính trị, pháp luật cũng như các mặt khác của đời sống
văn hóa xã hội phụ thuộc tất yếu vào tính chất và trình độ phát
triến của kinh tế, cần phải có được sự phù hợp cùa kiến trúc
thượng tầng chính trị, pháp luật,... với cơ sở kinh tế của xã hội.
Tuy nhiên, sự phù hợp ấy chỉ là tương đối, tạm thời trong những
giai đoạn lịch sử nhất định và với những điều kiện nhất định.
Giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, cũng như giữa các
ỵếu tố trong mỗi lĩnh vực xã hội luôn luôn có sự vận động và do
đó, có khả năng làm xuất hiện những mâu thuẫn. Mâu thuẫn này
biểu hiện ở cuộc đấu tranh giữa các quan điểm thuộc ý thức hệ
xã hội, đặc biệt là cuộc đấu tranh giữa các ý thức hệ chính trị và
pháp quyền mà, suy đến cùng, đó chỉ là biểu hiện của mâu thuẫn
giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất không phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất, được thể hiện ở mâu thuẫn vì lợi ích kinh tế giữa các lực
lượng chính trị đại diện cho các giai cấp khác nhau. Theo phân
tích đó của Mác, có thể xác định khái niệm hình thái kinh tế - xã
hội, với tư cách là một phạm trù cơ bản của hệ thống quan điểm
duy vật về lịch sử, được dùng để chỉ mỗi xã hội cụ thể trong tiến
trình phát triển của nó, được đặc trưng bởi một kiểu quan hệ sản
xuất, phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy. Với khái niệm về xã hội theo
cấu trúc “hình thái” như vậy, đã đem lại phương pháp luận khoa
học về cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép phân tích đời sống
hết sức phức tạp của xã hội, để chỉ ra những mối quan hệ biện
chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó và đi tới quan niệm về sự

206
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hộỉ là một quá trình lịch
sử - tự nhiên.
4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử-tự nhiên
Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái
kinh tế - xã hội là chỉ quá trình vận động, phát triển của xã hội
tuân theo quy luật khách quan của nó, dưới sự tác động của các
nhân tố chủ quan, trong các điều kiện lịch sử nhất định. Quá trình
đó biểu hiện ở các nội dung chính sau đây:
Một, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý
chí chủ quan của con người, mà tuân thủ các quy luật khách quan
đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế -
xã hội là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học, ... mà trước hết và cơ bản nhất là quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ
tầng.
Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của
lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, đều có nguyên
nhân trực tiếp, hay gián tiếp, từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Lênin nhấn mạnh rằng: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã
hội vào những quan hệ sản xuất và đem quy những quan hệ sản
xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất, thì người ta mới
có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”94.
Hai, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội,
tức quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã
hội, ở trình độ cao hơn trong lịch sử nhân loại và, do đó là sự
phát triển của lịch sử xã hội loài người. Do vậy, muốn nhận
thức đúng đời sống xã hội, phải đi sâu nghiên cứu các quy luật
vận động phát triển của xã hội. Lênin nhấn mạnh rằng: “Xã hội
là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không
phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và, do đó,
cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào
cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải
phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu
thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu
những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội
đó”95. Những giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã
hội là những giá trị về mặt phương pháp luận chung nhất, của
việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử, nó không thể thay thế cho
những phương pháp đặc thù trong các quá trình nghiên cứu về
từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Lênin cho rằng: “lý
luận đó “không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ
có ý muốn vạch ra một phương pháp (...) duy nhất khoa học để
giải thích lịch sử”96.

94
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.1, tr.163
95
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.1, tr.198
96
Sđd, t.1, tr.171
208
Như vậy, quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của sự phát
triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần
tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã
hội trong những điều kiện nhất định. Với những giá trị khoa học
và cách mạng như vậy, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là
cơ sở triết học đặc biệt quan trọng để xác lập lý luận về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
5. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội
Mác và Ăngghen đã sớm dự báo về cách mạng vô sản và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở sáng tạo ra học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Mác và Ăng-ghen đã vận dụng
học thuyết đó để phân tích xã hội tư bản từ cơ sở của nền sản
xuất vật chất của chủ nghĩa tư bản. Khi phân tích xã hội tư bản,
một mặt, Mác và Ăng-ghen đã khẳng định những thành tựu to
lớn của chủ nghĩa tư bản trong tất cả các phương diện khác
nhau của nó, đặc biệt là trên lĩnh vực phát triển các lực lượng
sản xuất của xã hội công nghiệp. Mặt khác, các ông đã phát
hiện ra xu hướng phát triển của mâu thuẫn khách quan giữa tính
chất xã hội hóa trong lực lượng sản xuất công nghiệp với tính
chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
trong bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trước hết
thể hiện ở các nước tư bản phát triển trong giai đoạn thế kỷ XIX
là các nước Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Theo Mác và Ăngghen,
chính mâu thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất tư bản là
nguồn gốc sâu xa của những cuộc cách mạng vô sản sẽ xảy ra
trong tương lai. Mác và Ăngghen đã dự báo: “Các cuộc cách
mạng cộng sản chủ nghĩa không những có tính chất dân tộc mà
sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít
nhất, ở Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Trong mỗi một nước đó, cách
mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển nhanh hay chậm là tùy ở
chỗ nước nào trong những nước đó có công nghiệp phát triển
hơn, tích lũy được nhiều của cải hơn và có nhiều lực lượng sản
xuất hơn”97.
Từ những dự báo về khả năng bùng nổ của các cuộc cách
mạng cộng sản chủ nghĩa ở các nước tư bản phát triển, Mác và
Ăng-ghen cho rằng với sự thắng lợi của những cuộc cách mạng
ấy, giai cấp vô sản ở những nước đó sẽ tiến hành tổ chức xây
dựng mô hình xã hội mới - xã hộỉ chủ nghĩa và từ kinh nghiệm
cách mạng, cũng như với sự giúp đỡ trong thực tiễn của giai
cấp cách mạng trong các nước phát triển, thì giai cấp cách mạng
ở các nước chưa trải qua sự phát triển tư bản chủ nghĩa, có thể
tiến hành cuộc cách mạng của mình và thực hiện con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Tuy nhiên, những dự báo về những
cuộc cách mạng cộng sản ở các nước tư bản phát triển nhất cho
đến nay vẫn chưa xảy ra trên thực tế.
Sự phát triển của Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội
Trên cơ sở bảo vệ tính khoa học cùa học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội do Mác và Ăngghen sáng lập, đồng thời tiếp tục
thực hiện tư tưởng về cuộc cách mạng vô sản cũng như con
97
C.Mác & Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, t20, tr.385
210
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Lênin đã tiếp tục phát triển
những tư tưởng ấy trong điều kiện lịch sử mới, đặc biệt là phát
triển, bổ sung các luận điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở các nước chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã có
những bước phát triển sang giai đoạn mới của nó, với đặc trưng
kinh tế là từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa. Gắn liền với quá trình đó là khả năng phát
triển không đồng đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư
bản trên phạm vi quốc tế. Trong điều kiện đó, Lênin đã đưa ra
quan điểm mới về khả năng bùng nổ cách mạng vô sản ở một số
ít nước tư bản, thậm chí chỉ ở một nước tư bản nhất định. Mặt
khác, ông cũng chỉ ra sự liên kết giữa cuộc cách mạng vô sản ở
các nước tư bản chủ nghĩa, với những cuộc cách mạng gỉải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Trong điều kiện đặc biệt
ấy, Lênin đưa ra lý luận về haỉ khả năng khách quan và cũng từ
đó là quan điểm về hai con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thứ
nhất là con đường quá độ trực tiếp, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội thông qua cuộc cách mạng vô sản ở các nước tư
bản phát triển. Thứ hai là con đường quá độ gián tiếp, thông
qua những khâu trung gian, vớỉ nhiều bước quá độ cụ thể, được
thực hiện thông qua cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của các
đảng cộng sản ở các nước chưa qua sự phát triển tư bản chủ
nghĩa, còn ở trình độ kinh tế lạc hậu. Lênin khẳng định:
“Không nghi ngờ gì nữa, ở một nước trong đó những người sản
xuất - tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực
hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những
biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những
nước tư bản phát triển trong đó công nhân làm thuê trong công
nghiệp và nông nghiệp chiếm tuyệt đại đa số dân cư... Chỉ có
một giai cấp như vậy mới có thể là chỗ dựa về mặt xã hội, kinh
tế và chính trị cho sự chuyển biến trực tiếp lên chủ nghĩa xã
hội. Chỉ có trong những nước mà giai cấp ấy đã phát triển đầy
đủ, thì mới cỏ thể trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội mà không cần đến những biện pháp quá độ đặc biệt có tính
chất toàn quốc”98. Khi luận giải về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở các nước chưa qua phát triển tư bản chủ nghĩa, Lênin
cho rằng cần phải có hai điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho
“cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể thắng lợi triệt để”. “Điều
kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở một hay một số nước tiên tiến (...) Điều kiện
nữa là sự thỏa thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự
chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước
với đại đa số nông dân”99. Khi vận dụng những quan điểm đó
vào nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười (1917), Lênin đã
đưa tư tưởng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông
qua những bước quá độ gián tiếp, những khâu trung gian bằng
hai biện pháp chính. Thứ nhất, thực hiện sự phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần để sử dụng triệt để sức sản xuất của xã hội
còn ở trong tình trạng phát triển với những trình độ rất khác
nhau. Thứ hai, thực hiện chính sách sử dụng chủ nghĩa tư bản,

98
Sđd, t.43, tr.68
99
Sđd, t.43, tr.69
212
nhất là phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước làm nấc thang
trung gian trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về chủ trương lợi dụng chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa tư bản là xấu so với
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ,
với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân
tán của những người tiểu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có
điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã
hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không
thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền sản xuất và trao đổi;
bởi vậy chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng
cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm
mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội
làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng
lực lượng sản xuất lên”100.
Tóm lại, cần vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội để
phân tích, luận chứng về cách mạng xã hội chủ nghĩa và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại lên chủ
nghĩa xã hội luôn bị chi phối tác động của nhiều nhân tố khác
nhau. Mác - Lênin đã đi tới hai tư tưởng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa không
phải là hình thái phát triển cuối cùng của lịch sử nhân loại.
Theo tính tất yếu quy luật của sự phát triến các hình thái kính tế
- xã hội, những cuộc cách mạng vô sản nhất định sẽ nổ ra ngay
100
Sđd, t.43, tr.276
trong hệ thống phát triển của chủ nghĩa tư bản. Cuộc cách mạng
đó chỉ là hệ quả tất nhiên, của sự phát triển mâu thuẫn nội tại
của chủ nghĩa tư bản - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của
lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản về tư
liệu sản xuất. Thông qua cuộc cách mạng vô sản, giai cấp cách
mạng sẽ thực hiện con đường khách quan và chủ quan vào các
điều kiện lịch sử cụ thể, do đó, con đường cách mạng xã hội
chù nghĩa và đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước khác nhau,
đương nhiên phải biểu hiện cụ thể khác nhau.
Thứ hai, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nhất định phải
trảí qua thời kỳ quá độ, trong đó, có hai con đường quá độ khác
nhau là con đường trực tiếp phù hợp với trình độ các nước đã
trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và con đường quá độ
gián tiếp, phải trải qua những khâu trung gian phù hợp với các
nước chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Những
biện pháp thực hiện sự quá độ đó đương nhiên cũng phải khác
nhau.
Những biện pháp quá độ trực tiếp được Mác và Ăngghen đề
cập trong một số tác phẩm mà tiêu biểu và toàn diện nhất là
trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848), trong đó
đề cập 10 biện pháp cơ bản như: tước đoạt quyền sở hữu ruộng
đất, tập trung tín dụng vào trong tay nhà nước, đánh thuế lũy
tiến cao, thực hiện nghĩa vụ lao dộng với tất cả mọi người, thực
hiện chế độ giáo dục công cộng không mất tiền đối với tất cả trẻ
em; còn những biện pháp quá độ gián tiếp được Lênin trình bày
trong nhiều tác phẩm thuộc giai đoạn sau Cách mạng tháng
214
Mười (1917) mà tiêu biểu là các tác phẩm Kinh tế và chính trị
trong thời đại chuyên chính vô sản, Bàn về thuế lương thực,
Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô-viết...
Những tư tưởng cơ bản nêu trên của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác-Lênin là những tư tưởng có tính chất định hướng
cho các đảng cộng sản ở các nước nghiên cứu, phát triển và vận
dụng phù hợp với điều kiện thực tế, trong tiến trình thực hiện
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau khi Lênin qua đời (1924), do những điều kiện khách
quan và chủ quan, tư tưởng của ông về con đường quá độ gián
tiếp (hay “con đường phát triển rút gọn”) không được nghiên
cứu, phát triển và vận dụng đầy đủ ở Liên Xô, cũng như ở các
nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây. Khuynh hướng
chủ quan nóng vội, muốn thực hiện sự quá độ trực tiếp ngày
càng trở thành khuynh hướng chủ đạo trong lịch sử phát triển
của các nước xã hội chủ nghĩa trước thời kỳ cải tổ, cải cách hay
đổi mới. Những sai lầm trong việc thực hiện xây dựng chủ
nghĩa xã hội đó, đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng và sụp
đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vào thập niên 80 của
thế kỷ XX, mà nguồn gốc sâu xa của nó là sự vi phạm nghiêm
trọng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất, đã được Mác
phát hiện và đã nêu rõ trong học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội.
6. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay
Việc xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp thực hiện con
đưòng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong mấy chục năm
qua là kết quả của sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta,
trong đó rõ nét nhất là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và lý
luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, về con đường
quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Sự vận dụng sáng tạo đó
thể hiện rõ nét trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam (từ 1986 đến
nay), đã có thể tạo ra sự biến đổi sâu sắc về vật chất, về kinh tế
- xã hội của xã hội nước ta trên tất cả các lĩnh vực. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho nên
nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ. Quá trình thực hiện con đuờng đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta cũng nhất định diễn ra sự đan xen và đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định
Mục tiêu tổng quát khỉ kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây
dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp,
tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc. Trước mắt, từ nay đến giữa thế kỷ
XXI, cần phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong Cương lĩnh cũng xác định, để thực hiện thành công các
mục tiêu đó, cần phải thực hiện tốt tám phương hướng cơ bản:
216
1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; 2.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân. thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; 4. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; 5. Thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; 6. Xây dựng nền
tảng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; 7. Xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân: và, 8. Xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh cũng nhấn mạnh: Trong quá trình thực hiện các
phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và
giải quyết tất cả mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định
và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; không phiến diện, cực
đoan, duy ý chí;...
Trong 8 phương hướng cơ bản đã được xác định trong
Cương lĩnh thì đẩy mạnh công nghiệp hóa được xác định là
phương hướng đầu tiên, đồng thời cùng với phương hướng đó
là phương hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Thực chất, hai phương hướng này là nhằm xác lập
phương thức sản xuất công nghiệp - thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa - nhân tố quyết định trình độ phát triển của nền
sản xuất vật chất xă hội chủ nghĩa, nhân tố quyết định thắng lợi
của một chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm cùa
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội, mỗi xã hội đều được xác lập trên cơ sở của
trình độ phát triển nhất định của một nền sản xuất vật chất,
trong đó, nhân tố quyết định trình độ phát triển ấy, suy đến
cùng là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hội tư
bản, sở dĩ phát triển ở trình độ cao hơn xã hội phong kiến và
các xã hội trước đó, bởi vì nó được xác lập trên cơ sở của nển
sản xuất được đặc trưng bởi trình độ phát triển cao của lực
lượng sản xuất - đó là trình độ lực lượng sản xuất theo phương
thức công nghiệp. Xã hội chủ nghĩa với tư cách là một xã hội
phát triển cao hơn xã hội tư bản, tất nhiên nó cũng chỉ có thể
được xác lập trên cơ sở của nền sản xuất công nghiệp. Quá trình
đó chỉ có thể được tạo ra, bởi quá trình công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa. Đối với Việt Nam là một nước căn bản còn ở trình
độ nền sản xuất thủ công lạc hậu, để thực hiện con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội thì việc giải quyết vấn đề công nghiệp hóa,

218
hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất lên trình độ công
nghiệp hiện đại, phải được coi là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu.
Trong các văn kiện gần đây của Đảng Cộng sản Việt Nam
đều xảc định nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về phương thức thực hiện, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta trong điều kiện hiện nay được xác định là con đường:
có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có
những bước nhảy vọt; phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng
mọi khả năng đề đạt trình độ công nghiệp tiên tiến, đặc biệt là
công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng
ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) cũng nhấn mạnh
vai trò của khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ giữ
vai trò then chốt trong việc phát triển lực luợng sản xuất hiện
đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao nâng suất, chất
lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế
tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong thời kỳ đổi mới, đã có sự nhận thức lại về bản chất
và vị trí, vai trò của kinh tế thị trường trong quá trình thực hiện
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một bước nhận
thức, bổ sung và tiếp tục phát triển tư tưởng của Lênin về việc
sử dụng kinh tế nhiều thành phần, kinh tế hàng hóa trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ quá độ.
Khái niệm kinh tế thị trường chỉ trình độ phát triển cao của
kinh tế hàng hóa, được đặc trưng bởi phương thức phân bố các
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế, không tuân theo cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp, đó là kiểu tổ chức kinh tế, được định
đoạt từ một trung tâm kế hoạch của nhà nước, mà là tuân theo
cơ chế thị trường. Tức cơ chế phân bố nguồn lực tự do trên thị
trường, theo nguyên tắc kích thích các nhân tố sáng tạo trong
việc huy động và phát huy các nguồn lực cho quá trình phát
triển sản xuất và kinh doanh, nhờ đó cơ chế này có thể huy
động dược tối đa và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực,
tức là các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội vào việc tăng
truởng và phát triển kinh tế.
Như vậy, bản thân cơ chế thị trường không mang tính giai
cấp, nhưng việc sử dụng kinh tế thị trường theo mục đích nào,
thì lại có thể mang tính giai cấp. Sự khác nhau cơ bản giữa kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là ở hai điểm cơ bản, đó là sự khác nhau về
220
mục tiêu xã hội và về vai trò của quan hệ sản xuất nền tảng
trong nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện hiện nay cần phải có
sự thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm về phát triển kinh tế thị trường trong tiến trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng tiếp tục được khẳng
định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011): Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ
chức kinh doanh vả hình thức phân phối. Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Thành phần
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động
lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan
kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng
phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại
thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng
xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền
của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều
có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối
bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn
lực được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng
góp vốn cùng các nguốn lực khác và phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền
kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách và
lực lượng vật chất.
Tóm lại, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta lựa chọn là
con đường duy nhất đúng đắn, bởi nó có đủ cơ sở, lý luận khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin và được thực tiễn từng bước
chứng minh là thích hợp. Xét về mặt lịch sử, đó là con đường
lâu dài và phải trải qua những bước trung gian của sự quá độ,
phù hợp với mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Con đường quá độ
đó chỉ có thể dẫn tới chủ nghĩa xã hội khi thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn kết với phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời với

222
quá trình đó còn phải là quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị,
pháp luật và phát triển toàn diện các mặt văn hóa, xã hội.
CHƯƠNG 6

TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ

I. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ CHÍNH TRỊ TRONG LỊCH SỬ


TRIẾT HỌC

1. Quan điểm của triết học ngoài mácxit về chính trị


a. Quan điểm về chính trị trong lịch sử triết học
trước Mác
Khái niệm “chính trị” Politics, có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ
đại, do Arítxtốt – một triết gia Hy Lạp cổ đại đề xướng, chính
trị ở đây có nghĩa là nghệ thuật cai trị và quản lý của một nhà
lãnh đạo lỗi lạc, xuất chúng, hoặc là khoa học giành và nắm giữ
vương quyền trong thiên hạ.
Quan điểm về chính trị và các vấn đề chính trị cơ bản như
quyền lực và tổ chức Nhà nước đã được phản ánh trong các
quan điểm triết học thời kỳ cổ đại, khi xã hội loài người hình
thành giai cấp và nhà nước.
Triết học Ấn Độ cổ đại ra đời khoảng thế kỷ VII TCN,
trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội Ấn Độ đang chuyển biến
mạnh mẽ từ chế độ công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu
nô lệ, cùng với sự phân chia xã hội thành những giai cấp khác
nhau. Quan điểm chính trị được thể hiện trong Vêđa và
224
Upanishad. Tuy nhiên, đến thời kỳ Phật giáo những quan điểm
về chính trị, được thể hiện rõ nét hơn. Phật giáo đã nêu tầm
quan trọng, cũng như các điều kiện thiết yếu của một chính phủ
tốt. Phật Giáo cho rằng khi lãnh đạo chính phủ tham nhũng và
bất công, thì xứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại và đau khổ,
vì vậy để chống lại sự tham nhũng, chính phủ phải biết quản trị
dựa trên các nguyên tắc nhân ái. Có thể thấy, Phật Giáo đã nêu
quan điểm kết hợp cả pháp trị và đức trị trong quản lý đất nước,
đó là tư tưởng chính trị nhân ái.
Ở Trung Quốc, từ thiên niên kỷ thứ 2 TCN đã hình thành xã
hội chiếm hữu nô lệ. Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ Trung
Quốc cổ đại là lịch sử đấu tranh tàn khốc giữa các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, đã hình thành nên các trường phái tư tưởng
chính trị khác nhau. Trong học thuyết Nho giáo, các vấn đề đạo
đức không tách rời các vấn đề triết học, cũng như các vấn đề
chính trị - xã hội. Về phương diện chính trị xã hội, phương pháp
chính trị là một trong những nội dung được Nho giáo đặc biệt
quan tâm, với mục tiêu cứu vãn trật tự xã hội. Phương pháp
chính trị là cách thức thực hiện có hiệu quả những mục tiêu
chính trị đặt ra. Theo nghĩa đó, phương pháp chính trị trong
Nho giáo được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, người cầm quyền, tham gia chính sự phải thường
xuyên tu thân để nêu gương cho dân chúng. Với tư cách là học
thuyết chính trị - đạo đức, “tu thân” là một trong những tiêu
chuẩn được Nho giáo đặt lên hàng đầu, bởi đó là điều kiện căn
bản, tiên quyết của mọi thành công, của việc thực hiện lý tưởng
“trị quốc, bình thiên hạ”.
Thứ hai, dùng đức để làm chính sự (Vi chính dĩ đức), thực
hiện vương đạo. Nho giáo nhấn mạnh về giá trị đạo đức, tuyệt đối
hoá vai trò của đạo đức đối với xã hội. Đạo đức trở thành công cụ
và vũ khí thực hiện mục tiêu chính trị.
Thứ ba, phải đi từ tề gia đến trị quốc, “muốn trị được quốc
trước hết phải tề được gia”.
Thứ tư, phải coi trọng vấn đề dưỡng dân và giáo dân, coi
trọng vai trò của dân, “dân là gốc nước”.
Ngoài Nho gia, trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại,
một trong những trường phái triết học có ảnh hưởng đến sự
nghiệp thống nhất về tư tưởng và chính trị xã hội Trung Hoa là
trường phái Pháp gia, đại diện là Hàn Phi Tử ( 280-233 TCN)
thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc. Để cải biến xã hội, nếu Nho
Gia chủ trương "nhân trị", Mặc Gia lấy "kiêm ái", Đạo Gia chủ
trương sống theo đạo tự nhiên " vô vi" để trị nước, thì Pháp Gia
đã coi hình pháp là công cụ quan trọng để ổn định, phát triển xã
hội và củng cố chế độ chuyên chế phong kiến của Trung Quốc.
Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử đã trở thành học thuyết với
nội dung hoàn chỉnh, đó là tổng hợp của "pháp", "thế", "thuật".
Trong đó "pháp" là nội dung chính của chính sách cai trị, "thế"
và "thuật" là phương tiện để thực hiện chính sách đó.
Quan điểm chính trị trong triết học Hy Lạp thời cổ đại.
Platôn (429-347 TCN) cho rằng con người quan trọng hơn xã
hội, cần phải nghiên cứu bản chất của con người để xác định
226
đúng những đặc tính của một xã hội được mong đợi. Platôn đã
khẳng định: "Con người thế nào thì quốc gia thế ấy", "Chính
quyền cũng biến hóa như tính tình của con người biến hóa", "
Quốc gia được cấu tạo bởi các bản tính của những người đang ở
trong đó. Sau Platôn, Arítxtốt (384-322 TCN), với tác phẩm
Chính trị và chính thể Aten của mình, ông quả quyết rằng về
bản chất, con người là một động vật chính trị. Ông cho rằng
luân thường và chính trị có liên kết chặt chẽ với nhau. Ông đã
xây dựng học thuyết Nhà nước lý tưởng, trên nền tảng bản chất
con người. Ông đặt vai trò và lợi ích của nhà nước lên trên
quyền lợi và tầm quan trọng của cá nhân. Theo ông, không phải
xã hội cần đến con người, mà ngược lại, con người phải cần đến
xã hội; bởi lẽ xã hội là một thực tại có giá trị đạo đức, phát sinh
từ những nhu cầu thiết yếu của nhân loại.
Đến thời kỳ trung và cận đại, trong triết học Phương Tây đã
xuất hiện rất nhiều các nhà triết học bàn về vấn đề chính trị.
Tômát Đacanh (1225-1274, triết gia và nhà thần học người
Italia), cho rằng Thượng Đế là nhà lập pháp tối thượng, sáng
tạo mọi quy luật, cả siêu nhiên lẫn tự nhiên – bắt nguồn từ
những quy luật gốc ấy, luật pháp của con người được hình
hành. Tômát Đacanh nhận định rằng trật tự xã hội và những quy
tắc công bằng của nó, tuân theo khuôn mẫu mà Thượng đế đã
định sẵn trong thế giới tự nhiên. Con người phải tuân theo giới
cầm quyền, bởi vì không có quyền lực nào nằm ngoài quyền
năng của Thượng đế. Tômát Đacanh còn cho rằng trong xã hội
trần tục, người lãnh đạo tối cao của nhà nước nhận lãnh thiên
mệnh, thực hiện trật tự của Thượng đế; mọi thần dân và thuộc
cấp đều phải tuân theo. Triết lý chính trị của Tômát Hốpxơ
(người Anh,1588 -1679) được trình bày trong tác phẩm nổi
tiếng Leviathan năm 1651, đã thiết lập nền tảng cho triết học
chính trị phương Tây. Trong lý thuyết về khế ước xã hội, ông
cho rằng con người ban đầu vốn sống ở trạng thái tự nhiên,
trong tình trạng vô chính phủ, chưa hề có sự cưỡng bức xã hội
lên mỗi cá nhân. Con người qua khế ước xã hội, từ bỏ những
quyền tự do tự nhiên của mình, để được hưởng sự an toàn và
trật tự của xã hội văn minh. Về mặt luật pháp, khế ước xã hội là
một bản hợp đồng trên đó các thành viên xã hội thống nhất các
nguyên tắc để cùng nhau chung sống. Triết gia người Anh,
Lốccơ G.(1632-1704), với cốt lõi là lý thuyết về quyền tự nhiên
và khế ước xã hội, đã khẳng định rằng khi nhà nước chưa ra
đời, con người bên cạnh quyền tự nhiên của mình, đã phải tự
đặt cho mình quyền xét xử và trừng phạt kẻ khác, để duy trì luật
của tự nhiên. Chính vì vậy, khi xã hội văn minh ra đời, với thể
chế nhà nước là hệ quả của khế ước xã hội, giúp duy trì luật của
tự nhiên, thông qua luật lệ của xã hội văn minh. Chức năng của
một chính quyền dân sự hợp lẽ là phải bảo vệ quyền tự nhiên
của con người, tức là quyền công dân được sống, được tự do, có
sức khỏe và của cải.
Triết lý chính trị còn được các nhà của triết học Khai sáng
Pháp như Rútxô G.G(1712 -1778), Hônbách P.H(1723 -1789)
và Xanh Ximông ( 1760 -1825). Rútxô phê phán thể chế tư
hữu, kêu gọi chính quyền phải bảo đảm tự do, bình đẳng cho tất

228
cả công dân. Hônbách cho rằng loài người có thể thoát khỏi ách
phong kiến bằng việc phổ cập giáo dục làm cho lý tính thắng
chủ nghĩa ngu dân thời trung cổ. Ông mong muốn có sự quá độ
hòa bình, từ chế độ phong kiến sang xã hội tư bản bằng con
đường lập pháp "hoàn thiện". Còn theo Xanh Ximông, sự bất
công và mất dân chủ trong xã hội, có nguyên nhân khách quan
từ sự phát triển kinh tế, trong hình thức sở hữu về tài sản. Ông
cho rằng xác lập quyền sở hữu là cơ sở của cấu trúc xã hội, tiêu
chuẩn để phân biệt sự khác nhau của xã hội là chế độ sở hữu.
Ông đưa ra một tư tưởng sâu sắc rằng cuộc cách mạng Pháp là
do cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt đẻ ra.
Quan điểm chính trị trong triết học cổ điển Đức, thể hiện rõ
nét trong triết học của Cantơ (1724 -1804) và của Hêghen (1730
– 1831). Các quan điểm chính trị xã hội của Cantơ cho rằng xã
hội là phương thức tồn tại của con người như một chủ thể, trong
đó, bằng hành động, con người ngày càng phát triển bản năng
và bản chất, thực hiện các lý tưởng đạo đức. Ông khẳng định
mâu thuẫn xã hội là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Sự
xung đột giữa các tầng lớp, các đẳng cấp xã hội là phù hợp với
quy luật khách quan của lịch sử. Cantơ mong muốn xây dựng
một thế giới hòa bình, hữu nghị, không có chiến tranh. Theo
ông, chiến tranh phá hoại các chuẩn mực đạo đức của con
người. Vì vậy, ông kêu gọi các quốc gia đoàn kết, xây dựng một
"liên bang", trong đó mỗi dân tộc vẫn được bảo đảm tự do và
độc lập về chính trị. Triết học pháp quyền của Hêghen cho rằng
nhà nước tồn tại vĩnh viễn, với mọi giai đoạn của lịch sử. Nhà
nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong đời sống xã hội.
Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp, mà là tổng thể các
quy chế, kỷ cương, chuẩn mực trên mọi lĩnh vực đạo đức, pháp
quyền, chính trị, văn hóa... của xã hội, nhờ đó mà xã hội phát
triển bình thường.
Tóm lại, các nhà lý luận trước Mác đã nêu được nhiều tư
tưởng chính trị có giá trị. Những tư tưởng đó là tiền đề cho sự
ra đời lý luận Mác- Lênin về chính trị và hệ thống chính trị
trong xã hội.
b. Các quan điểm của triết học đương đại về chính trị
Như vậy, chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề
gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội
xoay quanh vấn đề trung tâm là chính trị, giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước.
Hiện nay, trên thế giới đã hình thành 4 quan niệm khác
nhau về chính trị. Đó là:
- Chính trị là nghệ thuật của phép cai trị
- Chính trị là những công việc của chung
- Chính trị là sự thỏa hiệp và đồng thuận
- Chính trị là quyền lực và cách phân phối tài nguyên
hay lợi ích
Chính trị có thể hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa hẹp, đó là
những vấn đề điều hành bộ máy nhà nước, hoặc những hoạt
động của giai cấp, chính đảng nhằm giành, hoặc duy trì quyền
điều hành nhà nước: chế độ chính trị, tình hình chính trị, hoạt
230
động chính trị. Theo nghĩa rộng chính trị là những hiểu biết về
mục đích, đường lối và nhiệm vụ đấu tranh của các chính đảng
cũng như đông đảo quần chúng: công tác chính trị, giáo dục ý
thức chính trị.
Triết học chính trị phương Tây bắt nguồn từ thời Hy Lạp
cổ đại, khi xã hội đang thử nghiệm nhiều hình thức tổ chức
chính trị khác nhau, bao gồm chế độ quân chủ, độc tài, quý
tộc, thủ lĩnh và dân chủ. Triết học chính trị nghiên cứu các vấn
đề cơ bản về nhà nước, chính quyền, chính trị, tự do, công
bằng, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp bởi các cơ
quan thẩm quyền.
Chính trị học ( hay khoa học chính trị ) là ngành khoa học
nghiên cứu về chế độ chính trị, hành vi chính trị; miêu tả và
phân tích các hệ thống chính trị và các ứng xử chính trị; nghiên
cứu về việc giành quyền lực và sử dụng quyền lực.
Các lĩnh vực của khoa học chính trị bao gồm: lý thuyết
chính trị, triết học chính trị, giáo dục công dân, các hệ thống
chính trị của các quốc gia, phân tích chính trị, phát triển chính
trị, quan hệ quốc tế, chính sách ngoại giao, quân sự và pháp
luật.
2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về chính trị
a. Các tiền đề hình thành quan niệm về chính trị trong
triết học Mác
Tư tưởng chính trị của C.Mác - Ph.Ăngghen được hình
thành từ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư
sản đầu thế kỷ XIX, trên hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Với tinh thần phê phán và cách mạng, C.Mác, Ph.Ăngghen, trên
cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, đã
hình thành quan niệm khoa học mới về chính trị. Theo Mác,
Chính trị là vấn đề giai cấp, quan hệ giai cấp, đấu tranh giai cấp
và đỉnh cao của cuộc đấu tranh này là giành quyền lực cho một
giai cấp nhất định. Bước ngoặt của đấu tranh chính trị là sự
bùng nổ cách mạng xã hội, giành chính quyền nhà nước, lật đổ
chế độ cũ và thiết lập chế độ mới. Chính trị là vấn đề quyền lực,
biểu hiện trực tiếp là quyền lực nhà nước và tính hiện thực của
quyền lực lại là lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
Từ hoạt động thực tiễn và lý luận, Mác và Ăngghen đã thấy
rõ hơn tầm quan trọng của vấn đề dân chủ, trong cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và toàn bộ chế độ
tư bản. Ăngghen cho rằng đó chính là quá trình xây dựng một
chế độ dân chủ mới. Bởi vì, “Trước hết, nó tạo ra một chế độ
dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền
thống trị của giai cấp vô sản”. Mác và Ăngghen đã xác định
những vấn đề có tính nguyên tắc về dân chủ trong chính đảng
của giai cấp vô sản. Trong các nguyên tắc ấy, có nguyên tắc bảo
đảm dân chủ và tập trung dân chủ, trong quá trình tổ chức chính
đảng của gia cấp vô sản. Tập trung dân chủ trở thành một trong
những nguyên tắc có tầm quan trọng hàng đầu trong việc xây
dựng chính đảng nhằm tập hợp, đoàn kết giai cấp vô sản trong
cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, xây dựng xã hội mới
tiến bộ.

232
b. Định nghĩa của Lênin về chính trị
Đầu thế kỷ XX, Lênin đã bảo vệ thành công chủ nghĩa
Mác nói chung và tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác nói
riêng, đồng thời, tiếp tục phát triển làm phong phú, sâu sắc
thêm lý luận của chủ nghĩa Mác trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản, giải phóng gia cấp vô sản, xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử mới. Theo Lênin, “chính
trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp người trong xã
hội và là cuộc đấu tranh để giành, giữ và thực thi quyền lực”.
Kinh tế là nguồn gốc của chính trị là nhân tố quyết định chính
trị. Nguyên lý căn bản của mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị là: “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” “Chính
trị tức là kinh tế được cô đọng lại”, “chính trị không thể không
chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”, Chính trị ở trong kinh tế
và, ngược lại, kinh tế thâm nhập vào chính trị.
Lênin luôn quan tâm đến vấn đề dân chủ và cuộc đấu tranh
vì dân chủ trong tiến trình cách mạng của giai cấp vô sản,
“không có con đường nào khác dẫn đến chủ nghĩa xã hội,
ngoài cách kinh qua chế độ dân chủ, qua tự do chính trị”. Sự
phát triển của chế độ dân chủ đầy đủ, theo Lênin, có nghĩa là
làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia bình đẳng và
rộng rãi vào công việc nhà nước.
Hồ Chí Minh đã mở rộng và phát triển luận điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về chính trị, trong nhiều vấn đề, từ quan
niệm về chính trị đến những vấn đề chính trị trong thực tiễn,
như đường lối cách mạng Việt Nam; những vấn đề về xây dựng
Đảng, giành giữ chính quyền, xây dựng chế độ mới, xây dựng
và thực thi quyền làm chủ của nhân dân, vấn đề cán bộ, đạo đức
cách mạng.v.v. Khi bàn về chống nạn quan liêu, tham ô, lãng
phí, Hồ Chí Minh đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác
trong điều kiện mới; tham ô là hành động xấu xa nhất, lấy trộm
của công là tội ác; lãng phí là thiếu tinh thần trách nhiệm,
không có ý thức quí trọng sức người, sức của dân, tài sản của
Nhà nước; tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là một “thứ giặc
nội xâm” là lực cản đối với cách mạng. Về phương hướng,
phương pháp và biện pháp chống tham ô, lãng phí và bệnh quan
liêu Hồ Chí Minh cho rằng là nhiệm vụ thường xuyên của toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân.
c. Các đặc trưng cơ bản của chính trị
- Bản chất của chính trị
Trước hết chính trị mang bản chất giai cấp. Chính trị là sản
phẩm của lịch sử phát triển xã hội, từ khi có giai cấp và nhà
nước. Đó là lĩnh vực của các quan hệ giai cấp, quan hệ giữa các
lực lượng, các tập đoàn xã hội trong cuộc đấu tranh vì lợi ich và
quyền lực vốn mâu thuẫn, xung đột, thậm chí đối lập nhau. Nó
liên quan trực tiếp tới chế độ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội và thể chế nhà nước để thực hiện quyền lực. Nếu
kinh tế là cơ sở sâu xa của chính trị là nội dung vật chất, hiện
thực của đấu tranh chính trị, thì quyền lực và thể chế thực hiện
quyền lực là vấn đề trung tâm của đấu tranh chính trị, của các
cuộc cách mạng chính trị với tư cách là các cuộc cách mạng xã
hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác nhấn mạnh rằng
234
chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng. Điều đó phù hợp với mọi hình thái lịch sử của các cuộc
cách mạng, kể cả cách mạng vô sản do giai cấp vô sản và quần
chúng lao động tiến hành, hướng vào đối tượng của nó là thể
chế quyền lực tư sản và chế độ tư bản thống trị, tiến tới chủ
nghĩa xã hội, với tư cách là một chế độ xã hội mới.
- Quyền lực chính trị là sự thể hiện của bản chất
chính trị
Khi xã hội chưa có giai cấp, xã hội được điều chỉnh chỉ
bằng quyền lực công. Quyền lực công nảy sinh từ những nhu
cầu sinh hoạt chung của cộng đồng là cái vốn có của xã hội, lấy
ý chí và lợi ích chung của xã hội làm cơ sở cho sự tồn tại và
phát triển. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thể hiện ý chí
lợi ích của mình đối với xã hội. Ý chí đó chỉ thực sự có hiệu lực
khi giai cấp nắm được quyền, điều hành quyền lực công. Để
làm được điều đó, các giai cấp tiến hành đấu tranh, giai cấp
giành thắng lợi, trở thành đại diện và là chủ sở hữu của quyền
lực công. Họ sử dụng quyền lực công cho mục đích giai cấp,
biến quyền lực công thành quyền lực giai cấp; đồng thời, cũng
biến ý chí của giai cấp thành quyền lực công. Cả hai quyền lực
ấy hợp thành một chỉnh thể quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền đối với toàn xã hội. Vì vậy có thể kết luận: Quyền lực
chính trị là quyền lực của một giai cấp, hay của liên minh giai
cấp, tập đoàn xã hội, biểu hiện khả năng của một giai cấp, thực
hiện lợi ích của mình. Ph.Ănghen đã khẳng định: “Quyền lực
chính trị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức của một
giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”101.
Từ đó, có thể thấy bản chất thực sự của quyền lực chính
trị là:
Thứ nhất, quyền lực chính trị luôn mang bản chất của giai
cấp. Hình thức tổ chức quyền lực chính trị, có thể là thể chế
chính trị của một giai cấp, hoặc của sự liên minh giữa các giai
cấp, hay của nhân dân. Nhưng thực chất của quyền lực đó bao
giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định, giai cấp thực thụ cầm
quyền – giai cấp thống trị nền kinh tế xã hội.
Thứ hai, quyền lực chính trị là sức mạnh trấn áp bằng tổ
chức bạo lực. Suy cho cùng, ý chí của giai cấp chỉ có hiệu lực
khi có được sức mạnh trấn áp. Sức mạnh trấn áp, được bảo đảm
bằng tổ chức bạo lực. Vì vậy, để ý chí của giai cấp mình buộc
giai cấp khác phải thực thi, các giai cấp lập ra những tổ chức có
sức mạnh bạo lực trấn áp tương ứng với yêu cầu và năng lực
của mình. Trong những tổ chức đó của các giai cấp, tiêu biểu
nhất là nhà nước. Chỉ khi thiết lập được quyền lực nhà nước,
giai cấp mới nắm và sử dụng được quyền lực công theo yêu cầu
lợi ích của mình.
Ba là, quyền lực chính trị luôn hướng tới quyền lực nhà
nước. Cho nên, các lực lượng chính trị xã hội luôn hướng quyền
lực của mình để nắm lấy, hay chi phối quyền lực nhà nước.
Trong cuộc đấu tranh, giai cấp giành được thắng lợi, tổ chức
quyền lực của giai cấp mình thành quyền lực nhà nước, thực
101
Mác - Ăngghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 628
236
hiện sự thống trị của giai cấp đối với toàn xã hội, với tư cách là
quyền lực công – quyền lực xã hội.
Bốn là, quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được thể
hiện thành hệ thống thể chế chính trị của xã hội. Đó là hệ thống
các thiết chế tổ chức với các đảng chính trị, các cơ quan nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác; trong đó, nhà nước
đóng vai trò trung tâm và chi phối. Các thiết chế tổ chức và các
định chế đó tồn tại theo quy định của pháp luật, hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật và được bảo vệ bằng pháp luật.
Như vậy, có thể khái quát lại là: Bản chất quyền lực chính
trị là khả năng thực hiện ý chí của một giai cấp đối với sự phát
triển của xã hội thông qua tổ chức nhà nước.
- Sự tha hóa của quyền lực chính trị thể hiện dưới một số
dạng sau
Sự lạm quyền. Đây là sự tha hoá của quyền lực chính trị thể
hiện dưới dạng chủ thể nắm quyền lực tự cho mình thêm những
quyền mà họ không có được khi được trao quyền.
Sự lộng quyền, sự tha hoá này, thường do sự thiếu kiểm
soát, nên chủ thể của quyền lực sử dụng quyền lực quá mức,
ngoài thẩm quyền mà luật cho phép.
Sự lợi dụng quyền lực (trục lợi từ quyền lực). Sự tha hóa
này hình thành dần trong quá trình thực thi quyền lực chính trị .
Sự tiếm quyền. Sự tiếm quyền là biểu hiện nghiêm trọng
của sự tha hóa quyền lực chính trị. Người thực hiện quyền lực
không phải là người nhận được quyền lực một cách hợp pháp
mà là sự chiếm đoạt địa vị của người có quyền lực hợp pháp.
Sự quan liêu. Quá trình phát triển của lịch sử chính trị đã
cho thấy sự tha hóa quyền lực chính trị thường diễn ra theo
hướng bảo vệ lợi ích ích kỷ của giai cấp thống trị. Vì thế, giai
cấp thống trị thường tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng: đồ
sộ hơn mức cần thiết, bộ máy quan liêu nhiều tầng nấc và phức
tạp hơn nhu cầu quản lý; đội ngũ quan lại ngày càng đông đảo
hơn nhu cầu thực tế; chi phí cho Nhà nước ngày càng tăng cao
hơn mức cần thiết.
Sự độc đoán, chuyên quyền, Giai cấp thống trị chính trị thâu
tóm, khống chế quyền lực bằng một cơ chế tập trung quyền lực
cao độ về tay mình. Từ đó làm xuất hiện nguy cơ sử dụng
quyền lực một cách độc đoán, chuyên quyền với các thủ đoạn
chính trị cực đoan, trấn áp tất cả các thế lực chống đối, từ đó
tuyệt đối hóa quyền lực của mình.
Sự phân tán quyền lực. Là xu hướng làm suy yếu quyền lực
tập trung của nhà nước. Hiện nay, sự phân quyền được biến
tướng dưới dạng như cục bộ địa phương, lợi ích bản vị, chia bè
kéo cánh … làm mất đi tính thống nhất về quyền lực nhà nước,
cũng như lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Sự tha hóa tiêu cực của quyền lực chính trị, đều gây ra hậu
quả xấu cho xã hội và ảnh hưởng đến uy tín của nhà nước. Do
vậy, cần phải có các biện pháp nhằm hạn chế sự tha hóa của
quyền lực chính trị, nhằm giữ cho xã hội ổn định, phát triển.

238
3. Quan điểm đương đại về hệ thống chính trị
a. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chuyên
chính vô sản
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu rõ: Giữa xã hội tư bản chủ
nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kì cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kì ấy là
thời kì quá độ chính trị và nhà nước của thời kì ấy là nền
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Chuyên chính vô
sản là việc giai cấp công nhân nắm quyền lực nhà nước và sử
dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, để tiến hành
xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về
chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân
chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới,
chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân.
Nền tảng của chuyên chính vô sản là liên minh công nông,
trong đó giai cấp công nhân - thông qua Đảng tiên phong của
mình - giữ vai trò lãnh đạo. Chuyên chính vô sản có nhiều hình
thức khác nhau, thích ứng với những điều kiện lịch sử cụ thể
khác nhau, nhưng tựu trung vẫn là quyền lực của giai cấp vô
sản, của nhân dân lao động. Chính vì vậy, chuyên chính vô sản
có hai chức năng cơ bản là tổ chức, xây dựng và bạo lực, trấn
áp. Trong đó chức năng tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội
không còn áp bức bóc lột, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
– là chức năng cơ bản của chuyên chính vô sản.
Chuyên chính vô sản trước hết mang bản chất của giai cấp
công nhân, gắn với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và
dân tộc, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Chuyên chính vô sản là cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân dưới hình thức mới, trong điều kiện mới. Giai cấp
công nhân vừa sử dụng hình thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết
phục, vừa kiên quyết, sử dụng mệnh lệnh hành chính, bạo lực,
cưỡng chế, trong điều kiện giai cấp công nhân đã giành được
chính quyền và đang lãnh đạo đất nước xây dựng xã hội mới.
b. Hệ thống chính trị - cấu trúc chính trị phổ biến trong
xã hội hiện đại
Hệ thống chính trị là một cơ chế chính trị của một chế độ xã
hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế chính trị - xã hội có
những mối liên hệ lẫn nhau, bảo đảm thực hiện có kết quả
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị trong quan hệ với các
giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội khác, nhằm tác động vào quá
trình kinh tế - xã hội để duy trì và phát triển xã hội đương thời.
Là một phạm trù lịch sử, hệ thống chính trị ra đời khi xã hội
xuất hiện giai cấp và mâu thuẫn đối kháng. Hệ thống chính trị
được hoàn thiện và sẽ mất đi cùng với giai cấp và nhà nước.
Khi xã hội hình thành, có những lợi ích khác nhau nên hình
thành các hình thức tổ chức, các thể chế xã hội khác nhau, song
chúng quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên hệ thống chính trị xã
hội. Lịch sử đã chứng minh, ở mỗi chế độ xã hội có giai cấp thì
có hệ thống chính trị tương ứng.
Kết cấu của hệ thống chính trị là một chỉnh thể gồm các tổ
chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các đảng chính
trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết
240
trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của
đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị
phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Chỉ những tổ chức
được lập ra chủ yếu để thực hiện quyền lực chính trị thì mới gọi
là tổ chức chính trị.
Đặc trưng của hệ thống chính trị: Hệ thống chính trị xuất
hiện cùng với giai cấp và nhà nước. Bản chất của hệ thống
chính trị do quan hệ sản xuất đặc trưng quy định. Hệ thống
chính trị thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền.
Giai cấp thống trị thông qua hệ thống chính trị (trước hết và chủ
yếu là nhà nước) để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, chính vì
thế mà hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp. Trong các chế
độ bóc lột, trình độ phát triển của hệ thống chính trị rất khác
nhau, nhưng chúng có chung một bản chất là đều dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và duy trì quyền áp
bức bóc lột của giai cấp thống trị đối với đông đảo nhân dân lao
động.
c. Hệ thống chính trị xã hội tư bản và hệ thống chính trị
xã hội chủ nghĩa
Ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới hiện
nay, hệ thống chính trị gồm hai thành phần cơ bản là nhà nước
và các chính đảng (đảng chính trị). Khác với hệ thống chính trị
ở các nước tư bản chủ nghĩa, hệ thống chính trị ở các nước xã
hội chủ nghĩa ngoài nhà nước và các chính đảng, còn có một số
tổ chức chính trị - xã hội.
Bản chất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là sự lãnh
đạo chính trị của giai cấp công nhân (thông qua Đảng Cộng
sản), đối với toàn xã hội. Mang bản chất giai cấp công nhân,
điều đó quy định nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của hệ
thống chính trị. Sự lãnh đạo chính trị thuộc về giai cấp công
nhân, thực hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân.
Trong khi đó bản chất của hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa
là phục vụ cho lợi ích của thiểu số giai cấp thống trị, đó là giai
cấp tư bản.
Bản chất dân chủ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
được biểu hiện ở việc chính quyền nhà nước chuyển vào tay
nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân,
thiết lập sự thống trị của đa số nhân dân lao động với thiểu số
bóc lột.
Một điểm chung là hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa đều
áp dụng học thuyết “tam quyền phân lập”, trong tổ chức quyền
lực Nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế, các nước này lại có sự
vận dụng học thuyết đó theo những phương thức khác nhau và
chịu sự chi phối của điều kiện lịch sử, đặc điểm phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi nước. Trong khi đó, hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa thực hiện Tính nhất nguyên chính trị: Không có
chính đảng đối lập, chỉ thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm
quyền duy nhất của Đảng Cộng sản, nhất nguyên về tổ chức,
các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng
Cộng sản sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền
lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần
242
chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng, vừa
là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo
chính trị đối với xã hội. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ
chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác –
Lênin.

II. CÁC PHƯƠNG DIỆN CƠ BẢN VỀ CHÍNH TRỊ TRONG ĐỜI


SỐNG XÃ HỘI

1. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp


a. Các quan điểm triết học ngoài mácxit về giai cấp và
đấu tranh giai cấp
Thuật ngữ giai cấp có nguồn gốc từ chữ "classis" trong
tiếng Latinh, nguyên nghĩa là tập đoàn, tầng lớp, nhóm. Khi loài
người bước sang chế độ chiếm hữu nô lệ thì xã hội bắt đầu có
sự phân chia người giàu, người nghèo, hình thành các tầng lớp,
các giai cấp và đã xuất hiện các cuộc đấu tranh giữa các tầng
lớp, giai cấp với nhau. Chính vì vậy, ngay từ thời kỳ cổ đại,
trong các học thuyết của mình, các nhà tư tưởng đã phản ánh
tình trạng xã hội phân chia thành giai cấp và các cuộc đấu tranh
giai cấp.
- Quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ cổ, trung đại
Ở phương Đông, Lão Tử (khoảng thế kỷ VI-V Tr.CN) đã
thừa nhận sự tồn tại của các giai cấp. Ông đã phê phán giai cấp
thống trị, phản đối sự bất bình đẳng xã hội do tình trạng áp bức,
bóc lột của tầng lớp quý tộc, bênh vực những người nông dân.
Xuất phát từ quan điểm "vô vi", ông đòi hỏi giai cấp thống trị
phải tuân theo quy luật tự nhiên, không được can thiệp vào đời
sống tự nhiên của con người, đưa xã hội, con người trở về với
trạng thái tự nhiên.
Quan điểm của Khổng Tử (551-479 Tr.CN) về giai cấp
được thể hiện trong học thuyết "nhân". Ông chia xã hội thành
hai hạng người : tiểu nhân và quân tử, đối lập nhau, cả về địa vị
xã hội và nhân cách. Người quân tử có quyền lực lớn, kẻ tiểu
nhân là người hèn kém luôn phải phục tùng quyền lực của
người quân tử. Ông phản đối đấu tranh của quần chúng nghèo
khổ chống lại giai cấp thống trị. Ông có quan điểm xoa dịu và
điều hòa mâu thuẫn giai cấp: "an bần nhi lạc" – "dĩ hòa vi quý";
khuyên người nghèo nên an phận, không oán trách, không
chống đối giai cấp thống trị.
Mặc Tử (479 -381Tr.CN), trong học thuyết "kiêm ái" đã
phản ánh sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp trong xã
hội. Ông thừa nhận xã hội vốn tồn tại các đẳng cấp: sĩ, nông,
công, thương. Ông lên án sự bất bình đẳng giữa quý tộc và
thường dân và đòi hỏi phải có quyền bình đẳng giữa các tầng
lớp trong xã hội. Tuy nhiên, ông chưa giải thích được nguồn
gốc của sự xuất hiện các đẳng cấp khác nhau trong xã hội.
Ở Ấn Độ cổ đại, trong Kinh Vêda, một trong những tác
phẩm cổ xưa nhất của Ấn Độ đã khẳng định về sự phân chia các
đẳng cấp trong xã hội, đó là:
- Brahman (tăng lữ)
- Ksatriya ( quý tộc)
244
- Vaisya (bình dân tự do)
- Ksudra (nô lệ)
Trong các đẳng cấp này, chỉ Brahman là có đầy đủ các
quyền, đứng trên các đẳng cấp khác, còn Ksudra là đẳng cấp
hèn kém nhất trong xã hội, chỉ có bổn phận phục vụ, phục tùng
tuyệt đối. Trật tự đẳng cấp này được coi là thiên định, bất biến
và không thể vượt qua. Về vấn đề giai cấp, quan điểm của Phật
giáo lại cho rằng giữa con người với nhau, không có sự khác
biệt căn bản về địa vị, sang hèn, đẳng cấp, bởi vì mọi sự vật (kể
cả con người) đều từ "không", do hội đủ nhân duyên trở thành
"có" (tồn tại), rồi cuối cùng lại trở về với "không" (vô ngã).
Chính vì vậy, con người thuộc về các giai cấp, tầng lớp khác
nhau trong xã hội đều bình đẳng ở chỗ đều cần phải và có thể
được giải thoát.
Ở Hy Lạp cổ đại, trong học thuyết của mình, các nhà tư
tưởng như Platôn, Aritxtôt đều thừa nhận xã hội có sự phân chia
thành các giai cấp, các tầng lớp xã hội đối lập nhau và thường
xuyên đấu tranh với nhau. Theo Platôn, xã hội có ba đẳng cấp
cơ bản gồm: các nhà thông thái, các nhà triết học ở địa vị cao
nhất; các chiến binh có nhiệm vụ bảo vệ quốc gia; nông dân và
thợ thủ công có nhiệm vụ lao động sản xuất cung cấp lương
thực, thực phẩm và vật dụng cho quốc gia. Nô lệ không được
coi là người mà chỉ là "công cụ biết nói". Theo ông, xã hội cần
duy trì các hạng người khác nhau, do đó không thể có sự hoàn
toàn bình đẳng giữa mọi người. Còn Aritxtôt, với tác phẩm
Chính trị và chính thể Aten, ông đã thừa nhận trong xã hội có
một loại người cầm quyền, thống trị và một loại khác là kẻ bị
trị, nô lệ, chế độ nô lệ là hiện tượng tự nhiên và việc con người
được phân chia thành người tự do và nô lệ trong xã hội là việc
làm có lợi và cần thiết.
- Quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong triết
học phương Tây thời trung, cận đại
Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, cuộc đấu tranh giữa giai
cấp tư sản và giai cấp địa chủ quý tộc xuất hiện, quan niệm về
giai cấp và đấu tranh giai cấp trở nên rõ ràng hơn. Các nhà tư
tưởng như Tômat Morơ (người Anh 1478-1535), Tômadô
Campanenla (người Italia 1568-1639) đều cho rằng giai cấp là
những bộ phận người khác nhau trong xã hội, có quyền lực, địa
vị khác nhau, sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp có
nguồn gốc từ sự phát triển kinh tế, do sở hữu tài sản. Mabơli
(1709-1785) lại coi xã hội gồm những người sở hữu; giai cấp
những người sản xuất và giai cấp của những kẻ vô tích sự.
Adam Xmít (người Anh 1723-1790) cũng cho rằng xã hội có ba
giai cấp là: những người hưởng địa tô, những người hưởng
thặng dư, những người làm công ăn lương. Trong quan điểm
của mình, ông lấy phương thức thu nhập làm cơ sở của sự phân
chia giai cấp. Xanh Ximông(người Pháp 1760-1825) đã đưa ra
nhiều quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong xã hội.
Ông chia xã hội thành ba giai cấp: các nhà khoa học, chủ sở
hữu và không có sở hữu. Theo ông, đấu tranh giai cấp là đặc
trưng của các xã hội có áp bức bóc lột. Cuộc đấu tranh đó thể

246
hiện nguyện vọng của các giai cấp muốn xác lập một trật tự xã
hội phù hợp với lợi ích của họ.
Tuy nhiên, công lao lớn nhất trong việc phát hiện ra giai
cấp và đấu tranh giai cấp lại thuộc về các nhà sử học người
Pháp như G. Phrăngxoa Ghido (1778-1874), Ôguyxtanh Chiery
(1795-1856), Phrăngxoa Minhe (1796-1884). Các nhà tư tưởng
này cho rằng sự thay đổi quan hệ sở hữu về tài sản, chủ yếu là
quan hệ sở hữu về ruộng đất đã đưa đến sự thay đổi về quan hệ
giai cấp và sự thay đổi về chế độ chính trị. Tuy nhiên, họ lại
quan niệm rằng sự hình thành giai cấp và nhà nước dựa trên cơ
sở chinh phục bằng bạo lực và sự tan rã xã hội cũ, bằng sự nô
dịch của những dân tộc và bộ lạc này đối với những dân tộc và
bộ lạc khác. Họ thấy được mâu thuẫn trong xã hội tư bản,
nhưng lại muốn xóa nhòa sự đối kháng đó bằng việc điều hòa
giai cấp.
Như vậy, trong suốt thời kỳ cổ đại, trung đại và cận đại đã
xuất hiện nhiều tư tưởng phản ánh sự phân chia giai cấp và cuộc
đấu tranh giai cấp trong xã hội. Tuy nhiên, các tư tưởng này còn
đơn giản và chưa đưa ra một định nghĩa khái quát về giai cấp,
chỉ mới thừa nhận giai cấp là những người có quyền lực, địa vị
khác nhau trong xã hội, chưa giải thích đúng đắn về nguồn gốc
của giai cấp và đấu tranh giai cấp. Mặc dù vậy, các nhà tư
tưởng trước Mác cũng đã nêu luận điểm có giá trị về giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Những tư tưởng đó là tiền đề góp phần cho
sự ra đời lý luận của chủ nghĩa Mác về giai cấp và đấu tranh
giai cấp sau này.
- Quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà
tư tưởng tư sản hiện nay
Nhìn chung, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản luôn tìm
cách phủ nhận học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai
cấp và đấu tranh giai cấp.
Một số học giả tư sản phủ nhận hoàn toàn học thuyết giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Họ cho rằng Mác đã quá nhấn mạnh
về sự đối lập giữa tư sản và vô sản khi đề ra học thuyết này. Họ
khẳng định rằng quy luật đấu tranh giai cấp không phải là quy
luật phổ biến và không thể áp dụng cho xã hội tư bản chủ nghĩa.
Một số học giả khác cũng thừa nhận sự phân chia xã hội thành
giai cấp, nhưng lại tìm cách bác bỏ quan điểm về giai cấp của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Xu hướng phổ biến là họ lấy cơ sở sinh
học như tố chất cấu tạo cơ thể, cấu trúc hoàn thiện hoặc không
hoàn thiện của cơ thể để giải thích sự phân chia giai cấp. Nhiều
người lại đưa ra những tiêu chí khác để phân biệt giai cấp như
sự khác nhau về ý thức, tâm lý, nghề nghiệp,… Các nhà kinh tế
lại lấy thu nhập để phân biệt giai cấp. Tất cả những quan niệm
trên đều trái ngược với chủ nghĩa Mác – Lênin, đều phản bác lại
lý luận khoa học về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Trong phong trào công nhân quốc tế cũng luôn xuất hiện
hai khuynh hướng tả khuynh và hữu khuynh. Khuynh hướng
hữu khuynh muốn sử dụng các biện pháp cải lương, để giải
quyết mâu thuẫn giai cấp. Họ nhấn mạnh về đấu tranh kinh tế,
không chú ý đến đấu tranh chính trị, lảng tránh cách mạnh xã
248
hội. Phái Bécxtanh và phái Cauxki ở Đức, đảng Mensêvich ở
Nga, bộ phận "Mácxit Áo"… đều đứng trên lập trường chủ
nghĩa cải lương về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Theo
họ đấu tranh giai cấp chỉ là cải cách điều kiện hoàn cảnh sống
của công nhân dưới chế độ tư bản, điều hòa lợi ích giữa giai
cấp tư sản và giai cấp công nhân. Tuy chủ nghĩa cải lương xuất
hiện từ cuối thế kỷ XIX nhưng vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Việc chống chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh
và chủ nghĩa xét lại đang là một trong những nội dung chủ yếu
trong tình hình quốc tế mới.
Đối lập với quan điểm của chủ nghĩa hữu khuynh là chủ
nghĩa tả khuynh. Theo Lênin, chủ nghĩa giáo điều tả khuynh,
thực chất là đầu óc "cách mạng" tiểu tư sản. Đặc điểm của chủ
nghĩa cơ hội tả khuynh là nó che giấu bản chất cơ hội, dưới vỏ
bọc của những khẩu hiệu "cách mạng cực đoan", để lợi dụng
tình cảm của quần chúng. Họ luôn chủ quan trong việc đánh giá
tình hình, họ muốn bỏ qua các bước quá độ, những biện pháp
mềm dẻo, do vậy đẩy phong trào cách mạng đến chỗ phiêu lưu,
mạo hiểm, dễ bị tổn thất.
Cả chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh lẫn tả khuynh đều trái với
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đều là những căn bệnh
nguy hiểm có thể gây tổn thất nghiêm trọng cho phong trào
cách mạng, do vậy chúng ta phải thường xuyên, kiên quyết đấu
tranh chống lại hai khuynh hướng này.
b. Quan điểm chủ nghĩa Mác –Lênin về nguồn gốc và
bản chất của giai cấp
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định giai cấp không ra đời
cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người. Đã có những giai
đoạn phát triển của xã hội, trong đó giai cấp chưa xuất hiện.
C.Mác đã viết: "Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với các giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử"102. Trong tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của Nhà
nước”, Ph.Ăngghen đã trình bày rõ về sự xuất hiện giai cấp.
Trong thời kỳ nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất
còn thấp kém, công cụ lao động còn thô sơ… con người làm ra
sản phẩm chỉ đủ dùng, chưa có sản phẩm dư thừa, chưa xuất
hiện chế độ bóc lột người, chưa có giai cấp. Cuối thời kỳ
nguyên thủy, lực lượng sản xuất phát triển, con người đã biết sử
dụng công cụ lao động bằng kim loại, thay thế cho công cụ lao
động thô sơ. Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự phân
công lao động: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, trao đổi
sản phẩm trở nên phổ biến hơn. Điều đó làm cho sản xuất hàng
hóa phát triển, năng suất lao động nâng cao, xuất hiện của cải
dư thừa tương đối. Trong bối cảnh đó, những người có quyền
lực trong thị tộc, bộ lạc đã lợi dụng địa vị của mình để chiếm
đoạt của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu ra đời và
chính chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp cho sự
phân hóa xã hội thành giai cấp có lợi ích đối kháng nhau. Như
vậy, Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguyên nhân phân chia xã
hội thành giai cấp là nguyên nhân kinh tế, chứ không phải từ

102
C.Mác Và Ph.Ăngghen: Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.28,
Tr. 662
250
nguyên nhân chính trị hay tư tưởng, như vậy, đặc trưng cơ bản
của giai cấp, cũng là đặc trưng kinh tế.
Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”, V.I.Lênin đã định nghĩa
khái quát về giai cấp: "Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to
lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về
quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản
xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động, xã hội và như
vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã
hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập
đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động
của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau
trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định"103.
Theo định nghĩa của Lênin, giai cấp là phạm trù kinh tế - xã
hội có tính lịch sử, gắn liền với một hệ thống sản xuất nhất
định, với các giai cấp khác nhau về địa vị trong hệ thống sản
xuất đó. Địa vị khác nhau đó thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, các giai cấp có quan hệ khác nhau đối với việc
sở hữu tư liệu sản xuất, đây là sự khác nhau cơ bản nhất. Trong
xã hội, những tập đoàn người chiếm đoạt tư liệu sản xuất cơ
bản của xã hội sẽ trở thành giai cấp thống trị, bóc lột; còn tập
đoàn người mất tư liệu sản xuất trở thành giai cấp bị trị, bị bóc
lột. Trong lịch sử, các tập đoàn chủ nô, địa chủ phong kiến và
tư sản trở thành những giai cấp thống trị, bóc lột là do những
103
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ,Matxcơva,1979,t.39, tr. 17-18
tập đoàn đó chiếm được tư liệu sản xuất của xã hội. còn những
tập đoàn người bị mất tư liệu sản xuất (nô lệ, nông dân, vô sản)
trở thành giai cấp bị trị, bị bóc lột.
Thứ hai, các giai cấp có vai trò khác nhau trong tổ chức
lao động và quản lý sản xuất. Trong xã hội, tập đoàn nào chiếm
hữu tư liệu sản xuất cơ bản sẽ giữ vai trò lãnh đạo, tổ chức và
quản lý nền sản xuất toàn xã hội, cũng như các tổ chức kinh tế.
Các giai cấp, tầng lớp lao động là những tập đoàn người trực
tiếp tiến hành quá trình sản xuất, dưới sự điều khiển của giai
cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất xã hội.
Thứ ba, các giai cấp có phương thức và quy mô khác nhau
trong thu nhập của cải xã hội. Là tập đoàn người nắm tư liệu
sản xuất, lãnh đạo, tổ chức và quản lý nền sản xuất xã hội, giai
cấp thống trị có quyền quyết định phương thức phân phối của
cải xã hội và do đó, họ chiếm đoạt phần lớn của cải xã hội. Còn
giai cấp bị trị, bị lệ thuộc vào giai cấp thống trị, nên chỉ nhận
được một lượng của cải ít ỏi so với công sức lao động bỏ ra.
Như vậy, sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị
trong chế độ kinh tế - xã hội tất yếu dẫn đến tập đoàn người này
chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác. Vì vậy, bản chất
của vấn đề giai cấp là đối kháng giai cấp. Sự đối kháng này bắt
nguồn từ sự đối lập về lợi ích kinh tế cơ bản không thể điều hòa
giữa các tập đoàn người, phát triển mở rộng đến sự đối lập về
chính trị, tư tưởng. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, bên
cạnh giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, bao giờ cũng tồn tại
những tầng lớp trung gian, không chiếm địa vị cơ bản trong
252
phương thức sản xuất của xã hội. Các tầng lớp trung gian luôn
bị phân hóa, một số leo lên địa vị giai cấp thống trị, một số khác
rơi xuống địa vị giai cấp bị trị.
Trong xã hội tư bản hiện đại, các giai cấp và quan hệ giai
cấp có những biển đổi đáng kể. Giai cấp công nhân vẫn không
ngừng phát triển về số lượng. Tuy nhiên, số lượng công nhân
kỹ thuật cao, những công nhân lao động trí óc ngày càng nhiều
và trở thành bộ phận tiêu biểu của giai cấp công nhân hiện đại,
số lượng công nhân "áo xanh" – thuần túy lao động cơ bắp ngày
càng giảm. Sự phát triển của các công ty cổ phần là biểu hiện
xu thế xã hội hóa tư bản. Mặc dù một số công nhân mua được
cổ phiếu và được chia lợi nhuận, nhưng không làm thay đổi bản
chất mối quan hệ giữa giai cấp tư sản giai cấp công nhân. Giai
cấp tư sản vẫn là những người chiếm hữu tư liệu sản xuất của
xã hội, chỉ huy nền sản xuất và chiếm hữu giá trị thặng dư, còn
giai cấp công nhân vẫn là giai cấp bị bóc lột là người làm thuê.
c. Quan điểm chủ nghĩa Mác –Lênin về đấu tranh
giai cấp
- Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp
Nguyên nhân khách quan của đấu tranh giai cấp trong xã
hội có giai cấp đối kháng là do mâu thuẫn gay gắt giữa lực
lượng sản xuất phát triển mang tính xã hội hóa cao, với quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa
một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng
sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, bảo thủ,
đại diện cho lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp, tầng lớp bị
thống trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động, mà còn
bị áp bức về chính trị, tinh thần. Giai cấp thống trị sử dụng
quyền lực Nhà nước làm công cụ chủ yếu để bảo vệ đặc quyền,
đặc lợi của mình. Sự đối kháng về lợi ích giữa giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp. Chính vì
vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: lịch sử loài người từ
khi có giai cấp đối kháng đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp.
- Nội dung của đấu tranh giai cấp
Theo V.I Lênin, đấu tranh giai cấp là "cuộc đấu tranh của
quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và bọn ăn bám, cuộc
đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những
người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp vô
sản"104.
Như vậy, đấu tranh giai cấp về thực chất là cuộc đấu tranh
giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau là cuộc đấu
tranh của giai cấp bị trị, bị bóc lột chống lại giai cấp thống trị,
bóc lột để giải phóng sức lao động, lật đổ giai cấp thống trị, xóa
bỏ xã hội lỗi thời và xây dựng xã hội mới tiến bộ.
- Các hình thức của đấu tranh giai cấp trong lịch sử
Đấu tranh giai cấp trong lịch sử diễn ra với nhiều hình thức
khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.

104
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ,Matxcơva,1979,T.7, tr. 237-238
254
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, cuộc đấu tranh của giai cấp
nô lệ chống lại giai cấp chủ nô diễn ra với những hình thức: bỏ
việc làm, bỏ trốn, phá hoại sản xuất, tổ chức bạo động hay khởi
nghĩa vũ trang chống chủ nô.
Trong xã hội phong kiến, nông dân thường đấu tranh chống
giai cấp địa chủ, phong kiến bằng những hình thức: phá hoại
trang trại, cướp lương thực, bạo động và tổ chức các cuộc khởi
nghĩa chống lại nhà nước phong kiến.
Trong xã hội tư bản ngày nay, cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống lại giai cấp tư sản diễn ra với nhiều hình thức
đa dạng, phong phú. Trước hết là đấu tranh kinh tế, với mục
tiêu là lợi ích kinh tế: đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện
điều kiện làm việc, chống sa thải, bảo vệ môi trường sống…Các
cuộc đấu tranh kinh tế này xuất hiện rất sớm, ngay từ khi giai
cấp công nhân mới hình thành và đang tiếp tục phát triển mạnh
trong thời đại ngày nay. Thứ hai là đấu tranh tư tưởng, đây là
hình thức đấu tranh bằng diễn đàn báo chí, nghị viện tư sản, tổ
chức mít tinh, biểu tình… vạch trần bản chất bóc lột, hiếu chiến
của chủ nghĩa tư bản, tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin trong
phong trào công nhân. Hình thức đấu tranh cao nhất của giai
cấp công nhân là đấu tranh chính trị. Đây là hình thức đấu tranh
với mục tiêu giành chính quyền. Giai cấp thống trị luôn sử dụng
bạo lực để chống lại các cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, vì vậy giai cấp công nhân phải
sử dụng bạo lực cách mạng, để chống lại bạo lực phản cách
mạng. Mặt khác, trong những điều kiện nhất định, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động có thể giành chính quyền bằng
phương pháp hòa bình. Song, trong trường hợp đó, chính đảng
của giai cấp công nhân phải xây dựng lực lượng quần chúng
hùng mạnh, sẵn sàng làm thất bại mọi hành động bạo lực phản
cách mạng của giai cấp thống trị.
- Vai trò của đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp
đối kháng
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp là
một trong những động lực phát triển quan trọng của xã hội.
Những quan hệ sản xuất lỗi thời trong xã hội, không tự mất đi,
nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mới, mà được giai cấp thống
trị bảo vệ bằng tất cả sức mạnh chính trị, kinh tế, tư tưởng, tổ
chức hành chính và cả bạo lực. Để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ
và giai cấp thống trị lỗi thời, phải thực hiện cuộc đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội. Chính vì vậy, C. Mác và Ph.Ăngghen
đã xem đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội là
đòn bẩy để thay đổi hình thái kinh tế - xã hội và là động lực
trực tiếp thúc đẩy lịch sử trong xã hội có giai cấp.
Đấu tranh giai cấp còn là động lực phát triển mọi mặt của
đời sống xã hội. Dưới chế độ tư bản, các hoạt động đấu tranh
của giai cấp công nhân là một trong những động lực thúc đẩy
giai cấp tư sản đổi mới phương thức quản lý, cải tiến kỹ thuật,
mở rộng dân chủ xã hội.
Đấu tranh giai cấp cải tạo xã hội, cải tạo chính bản thân giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Thông qua cuộc đấu tranh
giai cấp, các giai cấp bị trị còn nâng cao ý thức tự giác, tính tổ
256
chức, kỷ luật, rèn luyện tinh thần đoàn kết, dũng cảm, đồng thời
giác ngộ được vị trí, vai trò và sứ mệnh của giai cấp mình trong
lịch sử.
- Đấu tranh giai cấp trong điều kiện hiện nay
Trong thời đại hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
trong điều kiện mới, hình thức mới, nội dung mới, phương pháp
mới, vì:
+ Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, so sánh lực lượng tạm thời có lợi cho các lực lượng phản
cách mạng và bất lợi cho lực lượng cách mạng. Trong điều
kiện đó, các lực lượng phản cách mạng đang tuyên truyền
xuyên tạc học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác – Lênin, gây chia rẽ, mất đoàn kết và làm suy yếu
phong trào cách mạng.
+ Thứ hai, chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh, thay
đổi thích nghi với điều kiện mới để phát triển và tạm thời xoa
dịu mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
+ Thứ ba, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ mà lực lượng sản xuất tăng nhanh, đưa
xã hội loài người bước vào thời đại của nền kinh tế tri thức.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã
hội tư bản có nhiều biểu hiện mới gay gắt, phức tạp, khó nhận
biết.
Do những điều kiện mới của cuộc đấu tranh giai cấp, một
số người không đi sâu vào phân tích bản chất của chủ nghĩa tư
bản đã vội kết luận thế giới ngày nay không còn đối đầu, mà là
một "xã hội đồng thuận", chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất
và không còn bóc lột giá trị thặng dư của giai cấp vô sản nữa,
do đó mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân
không còn nữa. Một số khác thì cho rằng cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ đã biến giai cấp công nhân thành tầng lớp trí
thức và do vậy sứ mệnh lịch sử xây dựng xã hội mới đã chuyển
từ giai cấp công nhân sang tầng lớp trí thức.
Những quan điểm trên đều thể hiện cách nhìn phiến diện và
không đúng với bản chất của đấu tranh giai cấp trong xã hội
ngày nay. Thực tế cho thấy, sau khi Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu tan rã, thế giới vẫn chưa có sự đồng thuận,
hòa bình ổn định. Chủ nghĩa khủng bố, ly khai, bạo lực đã và
đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, các cuộc "cách mạng
màu" do các nước tư bản tài trợ lật đổ các chính phủ hợp pháp ở
Ukraina, Grudia, Nam Tư, Siry, Liby, các cuộc chiến tranh sắc
tộc và tôn giáo kéo dài nhiều năm,… đã cho thấy các cuộc đấu
tranh giai cấp trên thế giới hiện nay diễn ra gay gắt, phức tạp,
khôn lường. Do đó, trọng tâm cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động hiện nay là đấu tranh vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân chủ, tiến bộ và hòa bình trên thế
giới, chống lại các thế lực phản động, đang ráo riết thực hiện
chiến lược "diễn biến hòa bình" với mục đích lật đổ chính
quyền ở các nước không theo chủ nghĩa tư bản.
Trong các nước tư bản hiện nay, cuộc cách mạng khoa học
– công nghệ đã làm cho năng suất lao động tăng, nhờ vậy mà
mức sống của công nhân cũng được tăng theo. Tuy nhiên, mức
258
sống của người lao động tăng lên hoàn toàn không tương xứng
với mức tăng năng suất lao động, mức tăng của cải của xã hội
và mức tăng lợi nhuận của các nhà tư bản. Khoảng cách giàu
nghèo giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân ngày càng cao.
Vì vậy, sự đối lập lợi ích giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân, ngày càng gay gắt. Trong điều kiện đó, cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản có những nội dung
và hình thức mới. Mặc dù hiện tại vẫn tồn tại ba hình thức là
đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng. Tuy
nhiên, giai cấp công nhân hiện nay cần tập trung vào các cuộc
đấu tranh chống sa thải, đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, chống
chạy đua vũ trang và chiến tranh, chống chủ nghĩa khủng bố
quốc tế, chống phân biệt sắc tộc, tôn giáo, đấu tranh bảo vệ môi
trường sống. Về nội dung, bao gồm cả đấu tranh giữa giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chống lại sự thống trị bóc lột
của giai cấp tư sản, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước xã
hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển, chống lại sự can
thiệp của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập dân tộc và lợi
ích chân chính của dân tộc mình.
d. Cách mạng xã hội – hình thức cao nhất của đấu tranh
giai cấp
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: Cách mạng xã hội là một
phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi về chất của toàn bộ
xã hội làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội thấp
lên hình thái kinh tế - xã hội cao và tiến bộ hơn.
Cách mạng xã hội khác với tiến hóa xã hội. Tiến hóa xã hội
là hình thức phát triển của xã hội diễn ra một cách tuần tự, dần
dần làm thay đổi cục bộ trong phạm vi một hình thái kinh tế -
xã hội. Còn cách mạng xã hội làm thay đổi căn bản chất của xã
hội. Cách mạng xã hội cũng khác cải cách xã hội. Cải cách xã
hội tạo nên sự biến đổi về chất nhất định của từng yếu tố, bộ
phận riêng lẻ trong khuôn khổ chế độ đang tồn tại, không làm
thay đổi căn bản xã hội. Cách mạng xã hội cũng khác với đảo
chính. Đảo chính là cuộc lật đổ chính quyền nhà nước, được
thực hiện bởi một vài cá nhân, hoặc một nhóm người, để giành
quyền lãnh đạo trong khuôn khổ xã hội đó, không làm thay đổi
bản chất của xã hội.
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung, khi lực
lượng sản xuất không ngừng phát triển sẽ mâu thuẫn với quan
hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế bằng
một quan hệ sản xuất tiên tiến hơn. C.Mác và Ăngghen đã chỉ
rõ : "Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng
sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các
lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách
mạng xã hội"105.
Về mặt xã hội, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị,
đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời, với giai cấp bị trị, đại
diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ. Giai cấp thống trị sử dụng

105
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập,Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội,1993,t.13,tr.15
260
mọi thủ đoạn, công cụ và phương tiện bảo vệ quan hệ sản xuất
lỗi thời, đàn áp cuộc đấu tranh của nhân dân lao động. Để thay
thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng quan hệ sản xuất tiến bộ hơn,
giai cấp bị trị phải đứng lên đấu tranh, tiến hành cuộc cách
mạng xã hội, giành lấy chính quyền nhà nước. Chính vì vậy,
cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp, trong đó
việc giành chính quyền trở thành vấn đề cơ bản của mọi cuộc
cách mạng nói chung.
Cách mạng xã hội có vai trò to lớn đối với sự phát triển của
xã hội loài người. Cách mạng xã hội xây dựng quan hệ sản xuất
mới tiến bộ, mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Do cách mạng xã hội mà xã hội loài người đã phát triển từ thấp
đến cao: từ xã hội công xã nguyên thủy lên xã hội nô lệ, từ xã
hội nô lệ lên xã hội phong kiến, từ xã hội phong kiến lên xã hội
tư bản chủ nghĩa và từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã
hội.
Ngày nay, do sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa
học – công nghệ, quá trình toàn cầu hóa, sự sụp đổ của mô hình
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, sự thay đổi của chủ
nghĩa tư bản, những biến đổi phức tạp của phong trào cách
mạng thế giới… đã tác động không nhỏ đến khả năng nổ ra và
giành thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại
ngày nay. Vì vậy, để giành thắng lợi trong cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và chính đảng của mình cần
phải đề ra các hình thức đấu tranh mới, phương pháp đấu tranh
mới, nội dung đấu tranh mới cho phù hợp với điều kiện và bối
cảnh lịch sử hiện nay.
e. Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay
- Đặc điểm của giai cấp và quan hệ giai cấp trong thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cơ cấu giai cấp - xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta hiện nay mang tính đa dạng và thống nhất.
Tính đa dạng thể hiện ở chố, xã hội nước ta tồn tại nhiều giai
cấp, tầng lớp, nhóm xã hội, với giai cấp công nhân, nông dân,
tầng lớp trí thức, các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có
giai cấp tư sản. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ giai cấp công
nhân, lực lượng tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới, giữ
vai trò chủ đạo trong quá trình cải biến xã hội. Điều này thể
hiện ở chỗ giai cấp công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ cả
về chất lượng và số lượng. Đồng thời thông qua Đảng của
mình, giai cấp công nhân còn đóng vai trò lãnh đạo khối liên
minh giữa công nhân, nông dân và trí thức, từ đó tạo nên sự
thống nhất trong cơ cấu giai cấp trong suốt thời kỳ quá độ.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mối
quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội vừa có mâu thuẫn,
vừa có quan hệ liên minh, tiến tới xóa bỏ hiện tượng bất bình
đẳng, dẫn đến sự xích lại gần nhau giữa các giai cấp, tầng lớp
cơ bản trong xã hội. Giai cấp tư sản tồn tại trong nền kinh tế
nhiều thành phần, tất yếu sẽ có mâu thuẫn về lợi ích với người
lao động làm thuê, mâu thuẫn giữa sự phát triển theo con đường
xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng kinh tế tư bản tư nhân.Tuy
262
nhiên, do kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận không thể thiếu
được trong nền kinh tế nhiều thành phần, giai cấp tư sản có vai
trò tích cực tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, vì vậy lợi
ích hợp pháp của giai cấp tư sản căn bản thống nhất với lợi ích
chung của cộng đồng. Đây là mặt thống nhất giữa giai cấp công
nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản, thể hiện quan hệ
vừa hợp tác vừa đấu tranh, để hướng đến xây dựng xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
- Nội dung và hình thức của đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các
giai cấp và mâu thuẫn giai cấp vẫn còn tồn tại, do đó đấu tranh
giai cấp là một thực tế khách quan. Tuy nhiên, khác với đấu
tranh giai cấp trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, ngày
nay, do sự thay đổi tương quan lực lượng giữa các giai cấp,
tầng lớp xã hội, do thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội trong
nước, do những biến động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, nên đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay, có những
nội dung mới và bằng những hình thức mới.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn
hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa; khắc phục tình trạng
nước nghèo kém phát triển, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; làm thất bại mọi
âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc
thành quả cách mạng và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước
ta, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức. Trước
hết là cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và quần chúng
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, với các thế lực phản
động, thù địch chống Đảng, chống Nhà nước, chống lại sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thông qua chiến lược “diễn
biến hòa bình", lật đổ chính quyền cách mạng. Cuộc đấu tranh
giai cấp hiện nay ở nước ta còn biểu hiện ở cuộc đấu tranh
giữa hai con đường: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đây
là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với các nhân tố tự phát theo
tư bản chủ nghĩa, do các thế lực phản động trong và ngoài
nước câu kết với nhau, lợi dụng phục vụ cho mục đích của
chúng. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng này diễn ra trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tư tưởng, chính trị.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nhận thức
rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp. Cần
nắm vững quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tránh rơi vào hai thái cực sai lầm: quá
cường điệu đấu tranh giai cấp cũng như quá mơ hồ, mất cảnh
giác đi đến phủ nhận đấu tranh giai cấp, sẽ gây tổn thất cho
cách mạng, dân tộc.

264
2. Vấn đề dân tộc và quan hệ giai cấp – dân tộc –
nhân loại
a. Dân tộc - hình thức cộng đồng người cao nhất và phổ
biến nhất trong lịch sử
- Sự hình thành dân tộc trong lịch sử
Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của xã
hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải
qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc,
bộ tộc.
Sự hình thành dân tộc ở phương Tây, gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
làm cho nền kinh tế tự cấp, tự túc của phương thức sản xuất
phong kiến bị xóa bỏ, thị trường nhỏ hẹp, khép kín mở rộng
thành thị trường dân tộc. Cùng với quá trình đó, sự phát triển
của các nhân tố ý thức, văn hóa, ngôn ngữ, việc chấm dứt tình
trạng cát cứ phong kiến để hình thành lãnh thổ chung, thống
nhất đã làm dân tộc xuất hiện. Trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản, C.Mác và Ăngghen đã khẳng định: "Những địa
phương độc lập, liên kết với nhau hầu như chỉ bởi những quan
hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan
khác nhau, thì đã được tập hợp lại thành một dân tộc thống
nhất, có một chính phủ thống nhất, một lợi ích dân tộc thống
nhất mang tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống
nhất"106.
Ở phương Đông, do tác động của quá trình đấu tranh cải tạo
tự nhiên và đấu tranh lịch sử, bảo vệ sự tồn tại của cộng đồng
mình nên dân tộc hình thành rất sớm, trước chủ nghĩa tư bản.
Loại hình dân tộc đó xuất hiện trên cơ sở một ngôn ngữ chung,
một lãnh thổ thống nhất, một nhà nước, một luật pháp, một nền
văn hóa, một tâm lý dân tộc, dựa trên cơ sở một cộng đồng kinh
tế chung.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ tất cả các
hình thức cộng đồng người trong lịch sử như: bộ lạc, bộ tộc…
theo nghĩa đó, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, chẳng hạn
Việt Nam có 54 dân tộc cùng nhau chung sống trong một lãnh
thổ.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là khái niệm chỉ một cộng đồng
người ổn định, hợp thành dân cư một nước, có lãnh thổ, quốc
gia, có nền kinh tế thống nhất, ngôn ngữ chung, gắn bó với
nhau trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh lâu dài dựng nước và
giữ nước. Ở góc độ này, dân tộc được hiểu là toàn bộ nhân dân
của quốc gia nhất định – quốc gia dân tộc; chẳng hạn dân tộc
Việt Nam, dân tộc Pháp, dân tộc Nhật Bản, v.v.
Dân tộc, được nhận biết với các đặc trưng cơ bản như sau:

106
C.Mác,Ph.Ăngghen: Toàn tập,Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995,t.4,tr.603
266
Thứ nhất, dân tộc là cộng đồng về ngôn ngữ - một phương
tiện giao tiếp chung thống nhất, giữa các thành viên trong cộng
đồng dân tộc.
Thứ hai, dân tộc là cộng đồng về lãnh thổ, bao gồm là vùng
đất, vùng trời, vùng biển đảo,… thuộc chủ quyền quốc gia dân
tộc.
Thứ ba, dân tộc là cộng đồng về kinh tế, đây là đặc trưng
quan trọng nhất phân biệt giữa dân tộc với bộ lạc, bộ tộc trong
lịch sử. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các thành viên
của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Thứ tư, dân tộc là cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách.
Văn hóa dân tộc được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài,
tạo ra bản sắc riêng của dân tộc. Văn hóa dân tộc mang tính
thống nhất và đa đạng, một mặt, thể hiện sắc thái văn hóa của
các địa phương; nhưng mặt khác, vẫn là nền văn hóa thống
nhất, không bị chia cắt, tách rời. Văn hóa dân tộc vừa thường
xuyên giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, vừa
không ngừng đấu tranh để bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa
của dân tộc mình. Văn hóa dân tộc được kết tinh trong tâm lý,
tính cách, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc. Mỗi dân tộc có
một tâm lý, một phong tục, tập quán, lối sống riêng được xây
dựng trên cơ sở điều kiện sinh hoạt kinh tế - xã hội riêng biệt.
Đây là cốt lõi tạo nên bản sắc văn hóa từng dân tộc.
Các đặc trưng trên đây có quan hệ chặt chẽ, tác động biện
chứng trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc, trong đó nhân
tố kinh tế - xã hội có vai trò quyết định và quan trọng nhất.
b. Quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại
- Quan hệ lợi ích giữa giai cấp và dân tộc
Trong lịch sử, giai cấp có trước dân tộc, tuy nhiên, khi giai
cấp mất đi thì dân tộc vẫn tồn tại. Giai cấp và dân tộc có mối
quan hệ mật thiết với nhau, không thay thế, nhưng cũng không
tách rời nhau. Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trở thành
một trong những mối quan hệ cơ bản của xã hội. Một dân tộc
bao giờ cũng gồm nhiều giai cấp khác nhau. Trong kết cấu giai
cấp của một dân tộc, có giai cấp cơ bản, giai cấp không cơ bản
và các tầng lớp trung gian.
Trong xã hội có giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp
không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Khi giai cấp thống trị còn
là giai cấp cách mạng tiến bộ, lợi ích của nó còn phù hợp với lợi
ích chung, cơ bản của dân tộc, thì các giai cấp và các tầng lớp
xã hội còn đi theo giai cấp thống trị. Khi giai cấp thống trị đã
trở nên phản động, thì sẽ đi ngược lại với lợi ích chung của dân
tộc, phản lại lợi ích dân tộc. Khi đó, các giai cấp và các tầng lớp
khác trong xã hội sẽ nổi dậy chống lại giai cấp thống trị, bảo vệ
lợi ích chính đáng của dân tộc. Giai cấp thống trị phản động,
thường lôi kéo cả dân tộc vào mục tiêu giai cấp của mình, do
vậy đưa đến tình trạng dân tộc này, áp bức bóc lột dân tộc khác.
Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định rằng áp bức giai cấp là
nguyên nhân sâu xa của áp bức dân tộc, hiện tượng thống trị, áp
bức của dân tộc này đối với dân tộc khác, thực chất là giai cấp
thống trị của dân tộc này áp bức, bóc lột dân tộc khác, trong đó
lực lượng chịu áp bức, bóc lột nặng nề nhất là những người lao
268
động. Chính vì vậy, muốn xóa bỏ triệt để hiện tượng áp bức dân
tộc, phải xóa bỏ tình trạng áp bức giai cấp.
Thực tế cho thấy, dân tộc là một trong những vấn đề quan
trọng hàng đầu của cách mạng vô sản. Trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có vai trò to
lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân trên
toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc của các dân tộc bị
áp bức là một bộ phận của cuộc cách mạng của giai cấp vô sản
trên toàn thế giới. Chính vì vậy, Lênin đã đưa ra khẩu hiệu: "Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Đó
là quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác –Lênin về mối
quan hệ giữa giai cấp và dân tộc.
Thời đại ngày nay đang có nhiều biến đổi sâu sắc, ảnh
hưởng đến vấn đề dân tộc và mối quan hệ dân tộc – giai cấp. Đó
là, sự sụp đổ của Liên Xô và chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu đã
làm thay đổi cán cân lực lượng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản, đang tạm thời có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Sự
phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
hiện đại, đã tạo ra bước nhảy vọt về chất của lực lượng sản
xuất, thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hóa, quốc tế hóa
trong kết cấu giai cấp và quan hệ giai cấp – dân tộc, quá trình
toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng trên toàn thế giới càng làm
cho các dân tộc phụ thuộc vào nhau, ràng buộc lẫn nhau trong
các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội, mặt khác cũng làm cho sự
phân hóa giàu – nghèo giữa các dân tộc, phân hóa giai cấp ngày
càng sâu sắc. Trong bối cảnh đó, nội dung của vấn đề giai cấp
hiện nay là đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi sự áp bức của chủ
nghĩa đế quốc. Nội dung của vấn đề dân tộc là xây dựng mối
quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, thúc đẩy cuộc đấu tranh
của phong trào giải phóng dân tộc vì sự nghiệp giải phóng giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, tiến tới xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, có thể thấy vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Để giải quyết mối quan hệ
này, các Đảng Cộng sản cần nắm vững quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin nhằm đề ra các chính sách kinh tế, xã hội
đúng đắn, đoàn kết nhân dân lao động, đưa sự nghiệp cách
mạng tiến lên.
- Nhân loại và quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích
nhân loại
Nhân loại là “khái niệm chỉ toàn thể cộng đồng người
sống trên trái đất, kể từ khi loài người xuất hiện, không phân
biệt dân tộc, chủng tộc, giai cấp, tôn giáo”. Nhân loại là một
thể thống nhất gồm nhiều loại cộng đồng người với những mức
độ khác nhau, theo những tiêu chí khác nhau như giai cấp, dân
tộc, các tộc người.
Lợi ích nhân loại là “toàn bộ những điều kiện tất yếu
khách quan, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của toàn thể
xã hội loài người”. Lợi ích nhân loại có liên quan đến sự sống
còn của loài người như chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi
trường sống, quá trình phát triển dân số…

270
Lợi ích nhân loại và lợi ích giai cấp thống nhất với nhau,
nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Trong xã hội công xã
nguyên thủy, các cộng đồng người với quy mô nhỏ, sống còn
biệt lập với nhau, chưa hình thành những mối liên hệ toàn nhân
loại. Khi xã hội loài người có sự phân chia giai cấp, giữa nhân
loại và giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều này thể
hiện ở chỗ lợi ích nhân loại bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Mỗi
giai cấp, do địa vị xã hội khác nhau sẽ nhìn nhận và giải quyết
vấn đề nhân loại theo cách thức khác nhau. Giai cấp tiên tiến,
cách mạng có lợi ích phù hợp với lợi ích của nhân loại, do vậy
sẽ giải quyết vấn đề nhân loại theo hướng tích cực. Ngược lại,
giai cấp bảo thủ, phản động có lợi ích đối lập với lợi ích nhân
loại sẽ kìm hãm sự phát triển của nhân loại. Trong xã hội có
giai cấp, vấn đề giai cấp không chỉ là vấn đề riêng của một giai
cấp, một tầng lớp nào đó, mà là vấn đề của toàn nhân loại. Đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng các dân tộc bị áp bức là
nội dung cơ bản của quá trình giải phóng con người, đưa toàn
nhân loại tiến lên. Đây vừa là vấn đề giai cấp, dân tộc, vừa là
vấn đề nhân loại. Do vậy, không thể tách rời vấn đề giai cấp
với vấn đề nhân loại.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của toàn
cầu hóa trong nền kinh tế thị trường thế giới đã gia tăng sự hợp
tác, liên kết, phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia, các dân
tộc. Chính vì vậy, đã xuất hiện các vấn đề có tính nhân loại,
đòi hỏi sự hợp tác của toàn thể nhân loại cùng giải quyết. Đó là
các vấn đề như: chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường
sống, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, vấn đề phát triển dân
số, vấn đề khủng bố, rửa tiền, buôn lậu ma túy,… đều là những
vấn đề có tính nhân loại hiện nay.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp –
dân tộc và nhân loại trong cách mạng Việt Nam
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
triển nhiều lý luận đặc sắc về mối quan hệ giai cấp, dân tộc,
nhân loại, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn cách mạng,
trong thời đại ngày nay. Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xác định đúng đắn vị trí của các mạng Việt Nam, trong mối
quan hệ với cách mạng thế giới và khẳng định, cách mạng
Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng
thế giới. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam phải
liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới, phải nhận được sự
ủng hộ, giúp đỡ về mọi mặt của phong trào cách mạng thế
giới, mặt khác, những thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng
góp phần thúc đẩy sự thành công của cách mạng vô sản thế
giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ xu hướng tất yếu,
khách quan của sự phát triển xã hội trong thế kỷ XX, đó là
giải phóng giai cấp kết hợp chặt chẽ với giải phóng dân tộc.
Trong mối quan hệ này, sự nghiệp giải phóng dân tộc tạo tiền
đề cho sự nghiệp giải phóng giai cấp. Cách mạng vô sản ở các
nước tư bản tạo điều kiện cho cách mạng giải phóng dân tộc
giành thắng lợi, ngược lại cách mạng giải phóng dân tộc cũng
272
thúc đẩy cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển và
giành thắng lợi. Phân tích tình hình cách mạng trong nước và
trên thế giới, Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng
dân tộc, không thể chờ đợi cách mạng vô sản thắng lợi, mà
phải tích cực, chủ động và trong những điều kiện nhất định,
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có thể
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản.
Đây là luận điểm đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh, đóng
góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự kết
hợp, sáng tạo giữa giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc,
trong điều kiện cụ thể của cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các vấn đề giai cấp, dân tộc,
nhân loại luôn gắn bó mật thiết với nhau. Xuất phát từ đó,
Người đưa ra luận điểm: độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Trong các nước thuộc địa, đấu tranh giành độc
lập dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Độc lập dân tộc là
điều kiện giải phóng giai cấp, không có độc lập dân tộc thì
không thể giải phóng con người được. Tuy nhiên, độc lập dân
tộc thực sự chỉ có được khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì
chỉ có chủ nghĩa xã hội mới xóa bỏ triệt để áp bức giai cấp,
xóa bỏ tận gốc tình trạng bóc lột giữa người và người. Như
vậy, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp. Đây
là sự giải quyết tài tình, độc đáo mối quan hệ giữa giai cấp và
dân tộc trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng để cách mạng giải phóng
dân tộc thành công thì phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng
Cộng sản chính là đội tiền phong của giai cấp công nhân,
không chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn
đại diện cho lợi ích dân tộc và lợi ích của toàn thể nhân dân
Việt Nam. Trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951), Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động nên nó là Đảng của dân
tộc Việt Nam”107 . Do vậy, Hồ Chí Minh chăm lo, xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, xung quanh Đảng Cộng sản Việt
Nam. Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng được khối đại đoàn
kết toàn dân, Đảng phải dựa vào công nhân và nông dân, phải
lấy liên minh công - nông là gốc của cách mạng giải phóng
dân tộc. Ở đây, vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề nhân
loại thống nhất biện chứng với nhau. Sự nghiệp cách mạng
của giai cấp vô sản không thể thành công nếu không có sự
đoàn kết của nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ của
dân tộc. Ngược lại, sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng không
thể thành công, không thể thắng lợi triệt để nếu không đặt nó
trong mối quan hệ chặt chẽ và gắn liền với cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản, không gắn với chủ nghĩa xã hội.
c. Đặc thù của vấn đề dân tộc Việt Nam
- Sự hình thành và đặc điểm của dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh
em cùng sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm 87% dân số;

107
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6,tr.175
274
53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số, được phân bổ rải rác trên
cả nước.
Dân tộc việt Nam đã hình thành rất sớm và trở thành một
quốc gia dân tộc thống nhất từ nhiều thế kỷ trước. Sở dĩ như
vậy là do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước,
để sinh tồn, các cư dân sống trên dải đất Việt Nam đã đoàn kết
lại, thành một cộng đồng thống nhất để đấu tranh, cải tạo thiên
nhiên làm các công trình thủy lợi, đắp đê, chống lũ lụt, bão
tố… Đặc biệt, trải qua lịch sử liên tục chống giặc ngoại xâm,
đoàn kết là xu hướng khách quan, cố kết các dân tộc Việt Nam
trên cơ sở có chung lợi ích, chung vận mệnh lịch sử trong quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chính những điều kiện
ấy đã hình thành trong cộng đồng người Việt Nam một ngôn
ngữ chung, một lãnh thổ thống nhất, một Nhà nước, một luật
pháp, với một nền kinh tế và một nền văn hóa thống nhất.
Đặc điểm nổi bật nhất trong quan hệ giữa các dân tộc Việt
Nam là sự cố kết, đoàn kết dân tộc đã trở thành truyền thống,
thành sức mạnh và đã được thử thách trong quá trình lao động
sản xuất chống thiên tai khắc nghiệt, đặc biệt trong các cuộc
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc qua mấy ngàn
năm lịch sử của dân tộc.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của chế độ áp bức
bóc lột trong lịch sử, nên trình độ phát triển kinh tế, văn hóa…
giữa các dân tộc còn có sự khác biệt và chênh lệch nhau. Nhiều
vùng dân tộc thiểu số còn sản xuất ở trình độ thấp, chủ yếu dựa
vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào các dân tộc thiểu số còn thiếu thốn, nghèo đói, tỷ lệ người
dân mù chữ cao. Đường giao thông và phương tiện đi lại nhiều
vùng còn khó khăn; điện, nước phục vụ cho đời sống và sản
xuất nhiều vùng còn rất thiếu. Chính điều đó, đã dẫn đến tình
trạng chênh lệch, bất bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta,
nhất là giữa dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số ở vùng sâu,
vùng cao.
Với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam đều có đời sống văn hóa mang bản sắc riêng rất
phong phú, phản ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần,
độc đáo qua ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, phong tục tập
quán, y phục, tôn giáo… của từng dân tộc. Chính sự phát triển
đa dạng mang bản sắc văn hóa của từng dân tộc đã làm phong
phú thêm nền văn hóa của cả cộng đồng dân tộc.
Các dân tộc thiểu số ở nước ta tuy chỉ chiếm hơn 13% dân
số cả nước, nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến
lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và
giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên giới, vùng núi cao, hải
đảo… Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây là căn
cứ cách mạng kháng chiến và các dân tộc thiểu số đã có nhiều
đóng góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc của cách mạng
nước ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Xuất phát từ những điều kiện và đặc điểm nêu trên của dân
tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến chính sách
dân tộc, xem xét dân tộc là vấn đề xã hội – chính trị rộng lớn,

276
toàn diện, gắn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Các chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện hiện nay
Trong điều kiện cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước
đặc biệt coi trọng vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc. Chủ tịch Hồ Chủ Minh đã chỉ rõ: “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Trong
mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn coi việc giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược
nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của
từng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm chỉ đạo có tính chiến lược, được thể hiện trong
những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta:
Thứ nhất, thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hóa
ở các vùng dân tộc thiểu số, phù hợp với điều kiện và đặc điểm
từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc
khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu và đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề
quan trọng nhằm phát huy tiềm lực kinh tế của các vùng dân
tộc thiểu số, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào, khắc phục sự chênh lệnh về kinh tế,
văn hóa, xã hội, hướng đến bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân
tộc.
Thứ hai, tôn trọng lợi ích truyền thống, văn hóa, ngôn
ngữ, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc, từng
bước nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Việc tôn trọng truyền
thống văn hóa của các dân tộc thiểu số sẽ góp phần làm phong
phú bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong văn kiện Đại
hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: "Tiếp
tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam, đậm đà bản
sắc dân tộc…Xây dựng và thực hiện chính sách bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu
số”108.
Thứ ba, tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu
tranh kiên cường của các dân tộc, vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, chống lại tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, chống
miệt thị và chia rẽ dân tộc.
Thứ tư, tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số, giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các
dân tộc.
Như vậy, có thể thấy chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước đã thể hiện tư tưởng đại đoàn kết toàn dân trong sự phát
triển của cách mạng Việt Nam. Đó là, quan điểm mang tính
toàn diện, chú ý tất cả các lĩnh vực xã hội, liên quan đến mỗi
dân tộc và quan hệ dân tộc trong cả cộng đồng quốc gia. Trong
đó, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc được
coi là nền tảng, cơ bản nhất là cơ sở để xóa bỏ sự chênh lệch về
trình độ phát triển giữa các dân tộc, thực hiện sự bình đẳng và

(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
108

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.224-225


278
đoàn kết các dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước thể hiện tính cách mạng và tiến bộ và mang tính nhân
đạo, đã thể hiện sự quan tâm trong việc nâng cao đời sống
đồng bào các dân tộc, tôn trọng quyền làm chủ của con người
và quyền tự quyết của các dân tộc.
3. Nhà nước – tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị
a. Các quan điểm triết học ngoài mácxit về nhà nước
- Quan điểm về nhà nước trong thời kỳ cổ và trung đại
Trong lịch sử, từ khi Nhà nước xuất hiện, đã có nhiều nhà
tư tưởng, các nhà triết học nghiên cứu tìm hiểu về nguồn gốc
và bản chất của Nhà nước. Như:
Thuyết thần quyền cho rằng: Nhà nước do Thượng đế sáng
tạo ra để duy trì và bảo vệ trật tự chung của xã hội, do vậy nhà
nước là lực lượng siêu nhiên, quyền lực nhà nước là vĩnh cửu,
bất biến.
Thuyết gia trưởng cho rằng: Nhà nước ra đời là kết quả sự
phát triển của gia đình là hình thức tổ chức tự nhiên của xã hội.
Nhà nước tồn tại trong mọi xã hội và quyền lực nhà nước, cũng
giống như quyền gia trưởng của người đứng đầu gia đình.
Thuyết bạo lực có quan điểm cho rằng: Nhà nước xuất
hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị
tộc khác, mà kết quả là thị tộc chiến thắng tạo ra hệ thống
chính trị đặc biệt, gọi là nhà nước, để làm công cụ cai trị xã
hội.
Tuy nhiên, các quan điểm nêu trên còn hạn chế, chưa chỉ
rõ nguồn gốc và bản chất của nhà nước.
- Quan niệm về nhà nước của các nhà lý luận tư sản
Đến thời kỳ cận và hiện đại, các nhà triết học tư sản cũng
đã đưa ra nhiều quan điểm về nguồn gốc và bản chất Nhà nước,
tiêu biểu như:
+ Thuyết khế ước xã hội của Tômát Hốpxơ (người
Anh,1588 -1679) cho rằng Nhà nước ra đời là kết quả của một
thỏa thuận xã hội (khế ước), giữa những con người sống trong
trạng thái tự nhiên của xã hội (vốn có các quyền được sống, tự
do, bình đẳng, sở hữu tài sản,...là các quyền tự nhiên, thiêng
liêng và bất khả xâm phạm) với tổ chức được giao quyền lực
công, gọi là nhà nước, để thay mặt họ quản lý xã hội.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì lợi ích của nhân
dân. Theo Tômát Hốpxơ trong trường hợp, nếu Nhà nước
không thực hiện được vai trò của mình, các quyền tự nhiên của
con người bị xâm phạm, thì khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân
dân có quyền lật đổ Nhà nước này và ký kết khế ước mới, một
Nhà nước mới sẽ ra đời, thay thế.
+ Tư tưởng của Giônlốccơ (Anh-1632-1704) đã cho rằng:
Nhà nước được thành lập để bảo vệ các quyền tự nhiên của con
người, ban hành luật pháp để tạo lập và bảo vệ quyền sở hữu,
cũng như sử dụng các lực lượng xã hội để thực hiện các đạo
luật này và bảo vệ sự tấn công từ bên ngoài.
+ Tư tưởng của Vônte (Pháp 1694-1778): Vônte tán thành
hệ thống lập hiến của Anh. Vào những năm 60 của thế kỷ
280
XVIII, ông nghiêng về tư tưởng dân chủ kiểu Anh, khi mâu
thuẫn giữa thể chế chuyên chế và đẳng cấp thứ ba trở nên sâu
sắc. Hơn nữa, bắt đầu xuất hiện những tư tưởng cộng hòa, trong
hệ thống tư tưởng của ông.
+ Tư tưởng của Môngtexkiơ (Pháp, 1689-1775):
Môngtexkiơ có tư tưởng chống lại chế độ chuyên chế, theo ông
chuyên chế là hình thức cầm quyền, trong đó cả quốc gia nằm
dưới quyền của một người, đó là nhà nước phụ thuộc vào sự
lộng quyền của người cầm quyền. Trong nhà nước chuyên chế
không có pháp luật và nếu có pháp luật thì vẫn không có ý
nghĩa thực tế, vì những thiết chế đảm bảo duy trì pháp luật. Bởi
vậy, theo ông, nhà nước chuyên chế là nhà nước khủng bố, Nhà
nước của sự chuyên quyền.
+ Tư tưởng của Giăng Giắc Rútxô (Pháp 1712 – 1778): Tuy
Rútxô đã trình bày một cách duy tâm về nguồn gốc nhà nước,
nhưng ông cũng đã cho rằng nhà nước là sản phẩm của chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất và những bất công trong xã hội. Hơn
thế nữa, sự bất công sẽ dẫn đến đối lập quyền lợi, đàn áp lẫn
nhau, đó là cội nguồn của áp bức. Quan điểm này chứng tỏ
Rútxô cố gắng giải thích nguồn gốc nhà nước, từ lập trường duy
vật.
+ Tư tưởng của Emmanuen Cantơ (Đức, 1724 – 1804):
Khẳng định quan điểm duy tâm về bản chất của nhà nước,
Cantơ nhanh chóng được giai cấp bóc lột thừa nhận là một
trong những nhà lý luận đầu tiên về “nhà nước pháp quyền”,
tức là nhà nước dựa trên độc lập cá nhân và trong hoạt động
dường như tuân thủ tuyệt đối các điều khoản của pháp luật. Ông
phân chia nhà nước có ba dạng: nhà nước chuyên chế, nhà nước
quý tộc và nhà nước dân chủ. Ông cho rằng trung tâm của vấn
để tổ chức nhà nước là phương thức nhân dân cầm quyền.
+ Tư tưởng của G.V.Ph. Hêghen (Đức -1770 – 1831): theo
ông, Nhà nước là thể chế tổng hợp, trong Nhà nước, sự thống
nhất giữa nội dung pháp luật và niềm tin đạo đức đạt tới hình
thức cao nhất. Nhà nước là hiện thực của tư tưởng đạo lý: “Sự
tồn tại của nhà nước là cuộc du ngoạn của Chúa trong xã hội
loài người”. Nhà nước có giá trị tuyệt đối tự thân, mà không cần
sự khẳng định có tính thực dụng nào cả, nhà nước không phụ
thuộc vào xã hội công dân. Ngược lại, xã hội cần tiền đề là sự
tồn tại của nhà nước. Sự tồn tại của nhà nước đi trước sự phát
triển của xã hội.
+ Trong xã hội tư bản hiện đại có những quan điểm về
“Nhà nước phúc lợi chung” và “Nhà nước dân chủ đa nguyên”.
Theo lý thuyết “nhà nước phúc lợi chung”, thì Nhà nước có khả
năng điều chỉnh, can thiệp vào các quan hệ kinh tế - xã hội, có
thể giải quyết được các vấn đề xã hội. Nhà nước không phân
biệt đối xử với mọi giai cấp, nhà nước không có tính giai cấp và
không phải là công cụ thống trị của giai cấp, mà là tổ chức
“phúc lợi chung”, chăm lo lợi ích chung cho tất cả mọi người
trong xã hội. Quan điểm của lý thuyết “nhà nước dân chủ đa
nguyên”, lại cho rằng trong xã hội tư bản đang diễn ra sự
khuếch tán quyền lực, tức quyền lực không chỉ được thực hiện
bởi nhà nước, mà còn bởi các tổ chức xã hội. Nhà nước không
282
còn là trung tâm của quyền lực chính trị, mà chỉ có vai trò như
một trong những tổ chức, bình đẳng với các hình thức tổ chức
khác, nhằm thể hiện quyền lực của nhân dân.
Tất cả các quan điểm trên đều giải thích nguồn gốc, bản
chất nhà nước không đúng đắn, thiếu cơ sở khoa học. Các
quan điểm đó đều lảng tránh đề cập đến bản chất giai cấp của
nhà nước, thể hiện tư tưởng mỵ dân của chủ nghĩa tư bản, khi
cho rằng nhà nước tư bản là “nhà nước toàn dân”, nhà nước
phục vụ mọi người, nhằm biện hộ cho bản chất của nhà nước
tư sản bóc lột.
b. Quan điểm của triết học Mác- Lênin về Nhà nước
- Nguồn gốc và bản chất nhà nước
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của Nhà nước, Ph.Ănghen khẳng định, xã hội loài
người đã từng tồn tại xã hội không có nhà nước, đó là xã hội
cộng sản nguyên thủy. Trong thời kỳ nguyên thủy, nền sản
xuất và kinh tế còn thấp kém, xã hội chưa phân hóa giai cấp, vì
vậy hình thức tổ chức đầu tiên của xã hội nguyên thủy là thị
tộc, bộ lạc. Đứng đầu thị tộc bộ lạc là các tù trưởng, tộc trưởng
do người dân bầu ra. Quyền hành của người đứng đầu những
cơ quan quản lý xã hội, chủ yếu dựa vào uy tín và đạo đức.
Trong xã hội đó không có quân đội, nhà tù, pháp luật, mọi
người tự giác chấp hành theo sự phân công, quản lý của tộc
trưởng và sự tự quản của nhân dân. Nhà nước chưa xuất hiện.
+ Khi nghiên cứu về nguồn gốc nhà nước trong lịch sử,
chủ nghĩa Mác –Lênin khẳng định, nhà nước là sản phẩm của
sự phát triển xã hội đến một giai đoạn nhất định. Cuối thời kỳ
nguyên thủy, con người đã phát hiện ra công cụ kim loại thay
thế công cụ đồ đá, sự phân công lao động giữa trồng trọt và
chăn nuôi, giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển, các
cuộc chiến tranh đã cung cấp cho những thị tộc, bộ lạc một
tầng lớp nô lệ, là nguyên nhân làm cho sản xuất phát triển
nhanh chóng. Sự phát triển của sản xuất, đã dẫn đến sự dư thừa
tương đối của cải trong xã hội. Những người đứng đầu thị tộc,
bộ lạc đã sử dụng quyền lực để chiếm đoạt sản phẩm lao động
của xã hội. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời, sự phân
hóa giai cấp trong xã hội xuất hiện. Các lãnh đạo thị tộc, bộ lạc
từ chỗ là công cụ của nhân dân, đã trở thành đối lập với nhân
dân. Mâu thuẫn giai cấp lần đầu tiên xuất hiện là mâu thuẫn
giữa chủ nô và nô lệ, ngày càng gay gắt. Do vậy cần có một lực
lượng đứng trên xã hội, với nhiệm vụ làm dịu mâu thuẫn xã
hội, giữ mâu thuẫn đó trong “trật tự”. Lực lượng đó chính là
Nhà nước. Như vậy, nhà nước ra đời không phải để giải quyết
các mâu thuẫn trong xã hội, cũng không phải để điều hòa mâu
thuẫn giai cấp, mà là để duy trì mâu thuẫn giai cấp trong một
giới hạn trật tự, nhằm thực hiện sự bóc lột của giai cấp nắm tư
liệu sản xuất, đối với người lao động.
Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin việc
xuất hiện nhà nước là tất yếu khách quan, từ sự phát triển của
xã hội loài người, từ nhu cầu của sản xuất và mối quan hệ giữa
người với người trong sản xuất. Nhà nước ra đời khi xuất hiện
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành

284
các giai cấp đối kháng. Nhà nước xuất hiện, trực tiếp từ nguyên
nhân kinh tế.
+ Về bản chất của nhà nước, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng
định rằng: Nhà nước là thiết chế đặc biệt trong kiến trúc
thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng. Nhà nước, thực
chất là bộ máy để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác là công cụ của giai cấp thống trị dùng để bảo vệ
lợi ích của mình và áp bức, bóc lột giai cấp khác trong xã hội.
Ph.Ăngghen viết: “Cái lực lượng cố kết xã hội văn minh là nhà
nước, nhà nước này, trong tất cả những thời kỳ điển hình, vẫn
chỉ là Nhà nước của giai cấp thống trị và trong mọi trường
hợp về thực chất, vẫn là bộ máy dùng để đàn áp giai cấp bị trị,
bị bóc lột”109. Lênin cũng khẳng định về bản chất nhà nước:
“Nhà nước không phải là cái gì khác hơn là một bộ máy đàn
áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác”110. Khi giai
cấp thống trị chiếm địa vị thống trị về kinh tế, nhờ có nhà
nước, đã trở thành giai cấp chiếm địa vị thống trị về chính trị,
cũng do đó mà có phương tiện để đàn áp và bóc lột giai cấp bị
trị.
- Đặc trưng của nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước có
những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhà nước quản lý dân cư theo lãnh thổ quốc gia,
trong phạm vi lãnh thổ đó, nhà nước quản lý theo khu vực địa

109
C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội,1995,t.21,tr.261
110
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1980,t.37,tr.328
lý hành chính, để thực hiện sự thống nhất quyền lực cai trị. Về
nguyên tắc, quyền lực nhà nước có hiệu lực bắt buộc đối với
mọi người dân sinh sống và hoạt động trên địa bàn lãnh thổ mà
nó quản lý. Từ đó, xuất hiện đường biên giới quốc gia, trong
một quốc gia có thể cùng tồn tại nhiều dân tộc, sắc tộc khác
nhau. Biên giới quốc gia còn là ranh giới để phân biệt nhà
nước của quốc gia này, với nhà nước của quốc gia khác. Đây là
đặc trưng để phân biệt giữa nhà nước với thị tộc, bộ lạc trong
xã hội nguyên thủy. Hình thức tổ chức thị tộc và bộ lạc chưa
quản lý theo lãnh thổ quốc gia, mà việc quản lý dân cư, chủ
yếu dựa vào quan hệ huyết thống của các thành viên trong
cộng đồng.
Thứ hai, nhà nước có một hệ thống các cơ quan quyền lực
chuyên nghiệp, mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên
trong xã hội. Hệ thống cơ quan quyền lực bao gồm quân đội,
cảnh sát, nhà tù, các cơ quan hành chính, thực hiện chức năng
cai trị quản lý, buộc mọi người dân phải phục tùng ý chí của
giai cấp thống trị.
Thứ ba, nhà nước xác lập chế độ thuế khóa để duy trì, tăng
cường bộ máy cai trị và nuôi bộ máy nhà nước. Về cơ bản, nhà
nước chỉ có thể tồn tại và hoạt động, nhờ sự đóng góp thuế của
người dân, có thể bằng con đường cưỡng bức, hay tự nguyện.
Trong khi đó để duy trì hoạt động trong các tổ chức thị tộc và
bộ lạc, chỉ chủ yếu dựa vào sự đóng góp tự nguyện của các
thành viên trong cộng đồng.
- Chức năng của nhà nước
286
Nhà nước có các chức năng chính trị, chức năng xã hội,
chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
+ Chức năng chính trị của nhà nước là quyền lực chuyên
chính của giai cấp thống trị. Nhà nước sử dụng mọi công cụ,
mọi biện pháp để bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp thống
trị. Để thực hiện chức năng này, nhà nước phải xác lập và củng
cố cơ sở kinh tế của giai cấp cầm quyền làm cho quan hệ sản
xuất của giai cấp thống trị chi phối toàn bộ nền kinh tế đất
nước; phải xác lập và củng cố hệ tư tưởng của giai cấp thống
trị và làm cho hệ tư tưởng này chi phối đời sống tinh thần của
xã hội; sẵn sàng sử dụng các cơ quan quyền lực trấn áp sự phản
kháng của các tầng lớp và giai cấp đối lập trong xã hội.
+ Chức năng xã hội của nhà nước là nhiệm vụ bảo vệ và
thực hiện lợi ích chung của cả cộng đồng quốc gia, trong đó có
cả lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng xã hội đóng vai trò
là cơ quan quyền lực công, để nhà nước giải quyết các vấn đề
an sinh xã hội, nhằm làm cho xã hội tồn tại trong vòng ổn định,
trật tự mà giai cấp thống trị mong muốn.
Chức năng chính trị và chức năng xã hội của nhà nước có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Chức năng chính trị quyết
định tính chất, phạm vi, mức độ, hiệu quả để thực hiện chức
năng xã hội. Ngược lại chức năng xã hội của nhà nước giữ vai
trò là cơ sở cho việc thực hiện chức năng chính trị, đảm bảo
cho chức năng chính trị được thực hiện hiệu quả. Trong xã hội
có giai cấp đối kháng, để giữ được vai trò thống trị, giai cấp
thống trị đều nhân danh xã hội để giải quyết những công việc
chung. Việc giải quyết hiệu quả những công việc chung của xã
hội, sẽ giúp giai cấp thống trị giữ vững được địa vị cầm quyền.
Như vậy, việc thực hiện chức năng xã hội của giai cấp cầm
quyền là điều kiện để nhà nước thực hiện vai trò thống trị giai
cấp của nó. Khi nói về mối quan hệ giữa chức năng chính trị và
chức năng xã hội của nhà nước, Ph.Ănghen đã viết: “Ở khắp
nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự
thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện
chức năng xã hội của nó”111.
+ Chức năng đối nội của nhà nước là chức năng nhằm duy
trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị của xã hội, phù hợp với lợi
ích cơ bản của giai cấp cầm quyền. Chức năng đối ngoại của
nhà nước là chức năng bảo vệ lãnh thổ quốc gia và thực hiện
các mối quan hệ hợp tác về kinh tế, chính trị, xã hội với các
nhà nước khác, vì lợi ích của giai cấp thống trị và cả lợi ích
quốc gia.
Chức năng đối ngoại và chức năng đối nội của nhà nước
có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó chức năng đối nội
đóng vai trò quyết định. Sự thống trị của giai cấp nắm giữ
quyền lực được thể hiện trước hết trên địa bàn quốc gia dân
tộc. Lợi ích của giai cấp thống trị, trước hết và chủ yếu là duy
trì việc cai trị người dân trong nước. Tính chất của chức năng
đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại. Ngược
lại, tính chất và nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động

111
C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1995,t.20,tr.253
288
và ảnh hưởng mạnh mẽ tới chức năng đối nội của Nhà nước.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng hiện nay, việc mở rộng chức năng đối ngoại của Nhà
nước đóng vai trò quan trọng , vì nó tạo ra tiền đề để giải
quyết những vấn đề đối nội của mỗi quốc gia. Mặt khác, Nhà
nước cũng cần đổi mới và tăng cường chức năng đối nội,
nhằm tạo ra nội lực đáp ứng được nhu cầu của chức năng đối
ngoại.
- Các kiểu và hình thức nhà nước
+ Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy nhà
nước thuộc giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương
ứng với hình thái kinh tế nào. Trong lịch sử, tương ứng với ba
hình thái kinh tế - xã hội dựa trên sự đối kháng của giai cấp, có
ba kiểu nhà nước khác nhau: Nhà nước chủ nô, nhà nước
phong kiến và Nhà nước tư sản. Kiểu nhà nước thứ tư là kiểu
nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước tồn tại trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa cộng sản.
+ Hình thức nhà nước là khái niệm chỉ cách thức và
phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức cầm
quyền của giai cấp thống trị bị quy định bởi bản chất giai cấp
của Nhà nước, bởi kết cấu giai cấp – xã hội, bởi tương quan
lực lượng giữa các giai cấp, bởi đặc điểm kinh tế, xã hội, chính
trị, văn hóa truyền thống của mỗi nước.
Trong một kiểu Nnhà nước, có thể có nhiều hình thức nhà
nước. Nhà nước chiếm hữu nô lệ là nhà nước đầu tiên của lịch
sử loài người, trong đó quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp
chủ nô. Trong kiểu nhà nước chủ nô có hai hình thức chủ yếu
là hình thức quân chủ và hình thức cộng hòa quý tộc. Hai hình
thức này, mặc dù có khác nhau về cách thức tổ chức và cơ chế
hoạt động của bộ máy nhà nước, nhưng đều có cùng bản chất,
đó là nền chuyên chính của chủ nô đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước mà quyền lực thuộc
về giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm thống trị giai cấp nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động. Kiểu Nhà nước phong
kiến được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau. Ở phương
Tây, hình thức quân chủ phân quyền là phổ biến. Do tính phân
tán của cơ sở kinh tế, mà mỗi lãnh chúa phong kiến là vua trên
lãnh địa của họ. Vì vậy quyền lực Nhà nước bị phân tán cho
các lãnh chúa phong kiến ở từng địa phương. Còn ở nhà nước
phong kiến phương Đông, thì hình thành hình thức quân chủ
tập quyền. Do dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất,
mà quyền lực tối cao tập trung vào nhà vua.
Nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính của giai cấp tư
sản, nhằm thống trị giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nhà nước tư sản có nhiều hình thức khác nhau như chế độ
cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thống, quân chủ lập hiến.
V.I. Lênin nhận xét: "Những hình thức của các nhà nước tư
sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung
quy lại thì tất cả các nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất
nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”112.

112
V.I.Lênin: Toàn tập ,sđd, T.33, tr.44
290
Nhà nước vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt, một nhà nước
không nguyên nghĩa – tồn tại trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Kiểu nhà nước này khác biệt về
bản chất, so với các kiểu nhà nước trước đây. Đó là kiểu nhà
nước mang bản chất của giai cấp công nhân, đại diện cho lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chống lại
thiểu số bóc lột. Nhà nước chuyên chính vô sản, về nguyên lý,
sẽ "tự tiêu vong" khi xã hội loài người phát triển đến chủ nghĩa
cộng sản.
c. Đặc thù của Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và
hiện đại
- Sự hình thành Nhà nước Việt Nam trong lịch sử
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc, Nhà nước Việt Nam đã hình thành từ rất sớm. Trước Công
Nguyên, người Lạc Việt, một trong những nhóm tộc Việt ở
phía nam, mà ngày nay là miền bắc Việt Nam, đã xây dựng
Nhà nước của mình, đó là Nhà nước Văn Lang do các vua
Hùng cai trị, đóng đô ở Phong Châu (thuộc Phú Thọ ngày nay).
Thời kỳ Vua Hùng được ghi nhận là một quốc gia có tổ chức
đầu tiên của người Việt Nam, bắt đầu với truyền thuyết con
Rồng cháu Tiên. Lịch sử Nhà nước phong kiến Việt Nam gắn
liền các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ
quyền đất nước, với quá trình đấu tranh cải tạo tự nhiên, mở
mang bờ cõi đất nước.
Tháng 8/1945, nắm vững thời cơ cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã phát
động dân tộc vùng lên làm Cách mạng tháng Tám thành công,
lập lên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngay từ khi mới ra đời,
Nhà nước cộng hòa non trẻ đã phải tiến hành cuộc kháng chiến
chín năm chống lại thực dân Pháp xâm lược. Năm 1954, sau
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc được
giải phóng và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam
tiếp tục cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ
tay sai của chúng. Tháng 4/1975 sau khi đất nước hoàn toàn
giải phóng, Nhà nước cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
đời, với nhiệm vụ xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Những đặc trưng của Nhà nước Việt Nam thời cổ đại
+ Thứ nhất, Nhà nước cổ đại Việt Nam ra đời, trong trạng
thái phân hóa xã hội, chưa tới mức độ sâu sắc như những nước
khác. Nói cách khác, nhà nước ra đời sớm, sớm cả về mặt thời
gian và không gian là do hai yếu tố tự vệ và trị thủy - thủy lợi
thúc đẩy. Cuối thời đại Hùng Vương, dân cư tràn xuống chinh
phục các vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn và phát triển nông
nghiệp trồng lúa nước, nên công cuộc trị thủy - thủy lợi giữ vai
trò đặc biệt quan trọng. Vị trí địa lí của nước ta lại nằm trên
đầu mối của những luồng giao thông tự nhiên, nên yếu tố tự vệ
chống lại các thế lực đe dọa từ bên ngoài ngày càng trở nên
bức thiết.
+ Thứ hai, quá trình phân hóa xã hội và hình thành Nhà
nước diễn ra rất chậm chạp, kéo dài hàng ngàn năm. Nguyên
292
nhân sâu xa và cơ bản nhất do nước ta lúc đó chưa có chế độ tư
hữu về ruộng đất.
+ Thứ ba, Tổ chức nhà nước cổ đại Việt Nam còn giản
đơn, hình thức pháp luật còn sơ khai. Nhà nước và pháp luật
còn bảo lưu nhiều tàn dư của chế độ công xã nguyên thủy.

III. VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Vấn đề phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay


a. Quan niệm về dân chủ
- Quan điểm về dân chủ trong triết học phi mácxít
Khái niệm dân chủ, lần đầu tiên trong lịch sử được nêu lên
trong xã hội ở Hy Lạp cổ đại. Đó là nền dân chủ Aten. Tiếng
Hy Lạp gọi dân chủ là “Demokratos”, do ghép hai từ: “Demos”
(nhân dân) và “Kratos” (quyền lực). Có nghĩa, dân chủ là quyền
lực của nhân dân. Nền dân chủ Aten kéo dài từ thế kỷ thứ VIII
đến cuối thế kỷ VI trước công nguyên.
Thế kỷ thứ V (SCN), đế quốc La Mã sụp đổ. Châu Âu rơi
vào thời kỳ phong kiến kiểu vương hầu. Các lãnh chúa cát cứ,
xưng hùng xưng bá, gây chiến tranh liên miên, dân chúng bị áp
bức cực khổ. Suốt một nghìn năm trường, nền dân chủ bị lãng
quên. Đến thời kỳ Phục hưng vào thế kỷ thứ XV, châu Âu mới
xuất hiện những nhà tư tưởng lớn, việc cải cách thể chế được
thúc đẩy. Đầu tiên là Tômát Morơ, người Anh (1478-1535),
ông đã miêu tả xã hội lý tưởng được thiết lập trên một hòn đảo
lấy tên là Utopia – tiếng Hy Lạp có nghĩa là một xứ sở không
tưởng hoặc không tồn tại. Chủ trương của ông là xóa bỏ tư hữu
tài sản; kế hoạch hóa sản xuất cho toàn xã hội; các công dân
làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu; những người điều hành
đất nước do dân chúng bầu ra; hoàn toàn tự do tín ngưỡng…
Những quan điểm ấy là nền móng cho lý thuyết về chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản không giai cấp, do Mác và Ăngghen
phát triển sau này.
Đến thời kỳ khai sáng ở châu Âu, thế kỷ thứ XVIII-XIX, tư
tưởng dân chủ được mở rộng và phát triển, đặc biệt là cống hiến
của các triết gia người Pháp. Các nhà tư tưởng Pháp quan tâm
đến những quyền cơ bản của con người, trong đó có tự do và
bình đẳng. Môngtexkiơ (1689-1755) đã đề nghị phân chia
quyền hành cho cơ quan lập pháp (thượng viện), hành pháp
(chính phủ) và tư pháp (tòa án). Ba cơ quan này độc lập với
nhau. Theo ông, chỉ có như vậy mới có thể tránh được sự thống
trị tuyệt đối và sự điên rồ của những vua chúa độc quyền. Còn
triết gia Pháp, Rútxô (1712-1788) chứng minh con người sinh
ra với bản chất tự do và bình đẳng. Vì vậy muốn cho xã hội
phát triển hài hòa, phải thiết lập thể chế Dân chủ Cộng hòa, đặt
chính quyền dưới sự kiểm soát của nhân dân. Trong trường hợp
nhà cầm quyền lạm dụng quyền hành, dân chúng có thể làm
cách mạng để lật đổ.
Những ý tưởng của Rútxô là cơ sở cho bản tuyên ngôn độc
lập của Mỹ và tuyên ngôn nhân quyền của Pháp về sau. Lần đầu
tiên quyền con người được được ghi nhận thành văn bản rõ ràng
trong tuyên ngôn độc lập của Mỹ, được công bố ngày 04 tháng
7 năm 1776: “Chúng tôi cho những sự thực sau đây là hiển
294
nhiên: rằng tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo
hóa đã cho họ những quyền bất khả xâm phạm, rằng trong số
những quyền ấy có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc…”. Năm 1789, cách mạng Pháp bùng nổ, lật đổ chế
độ quân chủ tập quyền. Ngày 26 tháng 7 năm ấy, bản tuyên
ngôn về quyền con người và quyền công dân ở nước này được
công bố.
Tóm lại, lịch sử nhân loại từ lâu đời đã có nhu cầu, thực
hiện quyền dân chủ và bước đầu đã có quan niệm về dân chủ.
Tuy nhiên các quan điểm đó chưa đầy đủ, chưa phản ánh đúng
bản chất của dân chủ, chưa đề ra được những biện pháp để thực
hiện dân chủ thực sự trong xã hội.
- Quan điểm triết học Mác-Lênin về dân chủ
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác –Lênin đã kế thừa những nhân tố
hợp lý, những hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại
về dân chủ. Đặc biệt tán thành quan điểm: Dân chủ là một nhu
cầu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân.
Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước – tức là một chế
độ dân chủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước, thì khi đó không có
dân chủ chung chung, phi giai cấp, “dân chủ thuần túy”. Trái
lại, mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước, đều mang bản chất
giai cấp thống trị xã hội. Do vậy, dân chủ trong xã hội có giai
cấp, mang tính giai cấp, gắn liền với các giai cấp đã thiết lập
nền dân chủ đó, như: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Do đó, từ khi có chế độ dân chủ, thì dân chủ
tồn tại với tư cách một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị.
Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ thì dân chủ, còn với ý
nghĩa là một hình thức nhà nước, trong đó chế độ bầu cử, bãi
miễn các thành viên của nhà nước, có quản lý xã hội theo pháp
luật nhà nước và thừa nhận ở nhà nước đó “quyền lực thuộc về
nhân dân”, gắn liền với một hệ thống chuyên chính của xã hội.
Thứ tư, với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều
do giai cấp thống trị cầm quyền, chi phối tất cả các lĩnh vực của
toàn xã hội, do vậy, tính giai cấp thống trị cũng gắn liền và chi
phối tính dân tộc, tính chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… ở
mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể.
b. Bản chất của dân chủ XHCN
Bản chất dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ:
- Bản chất chính trị: Chủ nghĩa Mác –Lênin chỉ rõ: Bản
chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo
chính trị của giai cấp công nhân, đối với toàn xã hội, chủ yếu để
thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có
giai cấp công nhân. V.I. Lênin đã nhấn mạnh: dân chủ xã hội chủ
nghĩa là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công
việc nhà nước. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa mang bản
chất giai cấp công nhân, vừa mang tính chất nhân dân rộng rãi,
tính dân tộc sâu sắc.
- Bản chất kinh tế: Dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở
kinh tế là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đảm bảo, dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, đáp ứng sự phát
296
triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất, trên cơ sở khoa học,
công nghệ hiện đại, nhằm thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu vật
chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. Bản chất kinh
tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là kế thừa và phát triển mọi
thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời loại bỏ
những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm của các chế độ kinh tế
trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột… Thực hiện
dân chủ trong kinh tế là tiền đề, cơ sở để thực hiện dân chủ về
chính trị và văn hóa – tư tưởng. Vì vậy, thực hiện dân chủ trên
lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa cơ bản.
- Bản chất tư tưởng văn hóa: Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng, đồng
thời kế thừa, phát huy những tinh hoa, văn hóa, tư tưởng của
nhân loại. Do đó, đời sống tư tưởng - văn hóa của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa rất phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày
càng trở thành nhân tố hàng đầu, thành mục tiêu và động lực
cho quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, bởi nó phát huy cao
độ tính tự giác và sức sáng tạo to lớn của con người trong xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Bản chất của dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa là
khác nhau. Dân chủ tư sản là một trong những hình thức chính
trị của nhà nước tư sản, còn dân chủ xã hội chủ nghĩa là một
trong những hình thức chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa,
bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được xác định, đó là quyền lực
của nhân dân. Tất cả các công dân đều có quyền tham gia vào
công việc của nhà nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa
với tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân hết sức
rộng rãi. Hệ thống dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng trên
những điều kiện mới của sự phát triển lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa theo
V.I.Lênin là chế độ dân chủ “gấp triệu lần” hơn bất cứ chế độ
dân chủ nào trong lịch sử.
c. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Các điều kiện để xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Để phát huy dân chủ về kinh tế, phải thực hiện nhất quán
chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Để phát huy dân
chủ về chính trị, phải nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
Nhà nước các cấp, bảo đảm nhà nước thật sự của dân, do dân,
vì dân, phấn đấu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Điều kiện quyết định nhất để xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là Đảng nêu gương về dân chủ và lãnh đạo thắng
lợi quá trình đổi mới hoạt động của nhà nước. Dân chủ trong
Đảng quyết định dân chủ trong tổ chức hoạt động nhà nước,
gắn liền với dân chủ trong xã hội. Bởi vì trong cơ quan Nhà
nước có tổ chức Đảng, cán bộ chủ chốt đều là Đảng viên, cán
bộ Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện cả trong Đảng
và Nhà nước. Do vậy, Đảng lãnh đạo quá trình dân chủ, tất yếu
phải lãnh đạo nhà nước thực hiện dân chủ, lãnh đạo nhân dân
tham gia giám sát cơ quan, công chức Nhà nước trong bảo đảm
quyền làm chủ nhân dân.
- Nội dung phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
298
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần thực
hiện những nội dung sau đây:
Thứ nhất, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức, hoạt động của Đảng và Nhà nước. Tập trung
dân chủ là một nội dung thống nhất, không phải là sự kết hợp
hai mặt tập trung và dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ,
nhằm hướng tới tập trung, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành
động.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức
phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu rõ: “Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân
chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất
cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải
được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”113.
Thứ ba là, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân,
năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Đề cao
trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB
113

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 84-85, 20-21


nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân,
sự lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức. Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu rõ: “Nâng cao ý thức về
quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản
lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện
trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn quy chế
dân chủ ở cơ sở và pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn”114.
Thứ tư, để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức,
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng
quan liêu, hành chính. Thực hiện nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đó là chế độ hiệp thương
dân chủ. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải là một tổ chức rộng
rãi của tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội, phát huy vai trò
nòng cốt, tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản
biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch,
vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động
các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Thứ năm, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB
114

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 84-85, 20-21


300
bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hoà bình,
độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ
mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận
những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc;
đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung...
để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường
đồng thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên cơ sở
giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã
hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân là cơ sở vững chắc để xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ sáu, quan tâm, chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự
do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về
quyền con người. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta do một
Đảng lãnh đạo. Trong điều kiện đó, dân chủ trong Đảng gắn
liền với dân chủ trong xã hội có vai trò rất quan trọng.
Vấn đề dân chủ và phát huy dân chủ là một nội dung lớn,
quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Đó là kết quả
của một quá trình gần 30 năm đổi mới, tiến hành tổng kết thực
tiễn - phát triển lý luận của Đảng. Trong điều kiện hiện nay, các
thế lực thù địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền để kích động
chống lại Đảng, chống chế độ, tuyên truyền “đa nguyên”, “đa
đảng”thì việc tìm hiểu nghiên cứu vấn đề dân chủ là một nội
dung quan trọng góp phần đưa quan điểm, đường lối của Đảng
vào thực tiễn làm thất bại âm chống phá của các thế lực thù
địch.
2. Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
hiện nay
a. Nhận thức mới của Đảng ta về hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa
- Kết cấu hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hệ thống chính trị nước ta là một bộ máy (hệ thống thể
chế), bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân như Tổng liên
đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam.
+ Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một
bộ phận của hệ thống chính trị, nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo
của toàn bộ hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu
thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối,
chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể
chế hoá bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế
hoạch, chương trình cụ thể.
+ Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là trụ cột của hệ
thống chính trị ở nước ta là công cụ thực hiện ý chí và quyền
lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước

302
nhân dân, để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội.
Nhà nước bao gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ
thống tư pháp (Tòa án và Viện Kiểm sát nhân dân) và chính
quyền các địa phương. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam. Chủ tịch nước là người đứng đầu
Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong
số đại biểu Quốc hội. Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất
quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị kinh tế, văn hóa,
xã hội quốc phòng an ninh và đối ngoại của Nhà nước. Tòa án
nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân có chức năng là bảo vệ
Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước ta. Hệ thống tòa án ở nước
ta bao gồm: tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa
phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định. Đó
là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, các viện kiểm sát
nhân dân địa phương, các viện kiểm sát quân sự, thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi
trách nhiệm do luật định.
+ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội: Đây là
những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp, được tổ chức để tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện,
tự quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ
thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích nhằm bảo
vệ quyền dân chủ của nhân dân. Mặt trận hoạt động theo
nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống
nhất hành động giữa các thành viên. Các đoàn thể chính trị - xã
hội của nhân dân lao động: Tổng liên đòan lao độngViệt Nam;
Hội nông dân Việt Nam; Hội phụ nữ; Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh; Hội cựu chiến binh. Tuỳ theo tính chất, tôn
chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn
viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội
viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và
xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội.
- Vai trò và những hạn chế của hệ thống chính trị nước ta
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có
những đổi mới đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị,
tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày
càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo
hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân
và vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội từng
bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu
quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát huy...
Bên cạnh đó, hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều
nhược điểm: Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu

304
quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của
các đoàn thể chính trị-xã hội chưa đáp ứng kịp đòi hỏi của bối
cảnh lịch sử mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm
được sắp xếp và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện
quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác
tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế
cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực, phẩm chất của đội ngũ
cán bộ của hệ thống chính trị, chưa tương xứng với yêu cầu
của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý
tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức, sức chiến
đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém,
bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và
vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất
đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa
không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi. Chức
năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa
được xác định rành mạch, tránh nhiệm không rõ; nội dung và
phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít
được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn
chưa hoàn thiện. Những yếu kém của hệ thống chính trị được
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Dân chủ và
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chưa được phát huy đầy đủ.
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh
vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn hình thức. Việc
tuyên truyền vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các
phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ
sở”115.
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với đổi
mới nền kinh tế, từng bước đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị
là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách.
b. Quan niệm về đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay
-Mục tiêu của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay
Việc đổi mới hệ thống chính trị phải hướng vào mục tiêu
chủ yếu là thực hiện đúng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà
nước theo hướng kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Xây dựng một nền
hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng
bước hiện đại hóa. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, tăng cường pháp chế. Xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Tiếp tục đổi

Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
115

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.171, 258


306
mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Nội dung cơ bản nhằm đổi mới, kiện toàn hệ thống
chính trị nước ta hiện nay
Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng: Để
thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, cần tập trung thực hiện
những nội dung chủ yếu như sau:
Một là, trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, một
vấn đề có tính nguyên tắc là phải kiên định vai trò lãnh đạo, vị
thế cầm quyền của Đảng, đồng thời làm tốt công tác xây dựng
Đảng, thường xuyên đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp
với thực tiễn Việt Nam. Nâng cao nhận thức và thực hiện đúng
vai trò hạt nhân chính trị và trình độ lãnh đạo của tổ chức
Đảng ở các cấp để phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh
thần trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Hai là, để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cần
nâng cao nhận thức đúng đắn về sự lãnh đạo toàn diện của
Đảng. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, giữ vững đoàn
kết thống nhất trong Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm
việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm
chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên của Đảng. “Tiếp
tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống
chính trị. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng
đảng viên”116.
Ba là, đổi mới tư duy trong công tác cán bộ; làm tốt hơn
nữa công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán
bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng, công chức nhà nước trong
sạch, có đủ đức - tài theo hướng đề cao các yêu cầu về lập
trường chính trị, tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, có
thái độ tôn trọng luật pháp và thực sự “cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư”, phục vụ nhân dân.
Bốn là, thường xuyên củng cố và tăng cường mối liên hệ
chặt chẽ với nhân dân, chống tư tưởng quan liêu, xa rời quần
chúng - đó là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng
là nhân tố tạo ra sức mạnh của Đảng.
Năm là, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân.
Đảng tập trung lãnh đạo Nhà nước xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
lãnh đạo xây dựng hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, đồng bộ, thể
hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thể chế
hóa đúng đắn và kịp thời đường lối của Đảng và tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đảng phải luôn luôn dựa vào và
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị
- xã hội. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ
chức này; khắc phục tình trạng hành chính hóa; vận động và tổ
chức nhân dân tham gia xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước,
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB
116

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.171, 258


308
tham gia các công việc và giám sát, kiểm tra hoạt động của Nhà
nước và các cán bộ công chức hoạt động trong cơ quan nhà
nước; đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục tệ quan liêu, tham
nhũng, cùng các biểu hiện tiêu cực khác.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước:
Để Nhà nước làm nhiệm vụ quản lý và lãnh đạo xã hội, cần làm
tốt một số vấn đề sau:
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước thực sự là của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực
hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết
đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nhà nước chăm
lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của
mọi người dân.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính;
giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà
cho tổ chức và công dân. Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ
thống chính quyền Nhà nước trong việc mở rộng và thực hiện
dân chủ, hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt quy chế dân
chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng
pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật,
pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh
vào cuộc sống. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của
Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
và kỷ luật, kỷ cương.
Đổi mới và kiện toàn các đoàn thể chính trị-xã hội:
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn
thể nhân dân, các tổ chức xã hội nghề nghiệp... các tổ chức
quần chúng.
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng
mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng nhân
dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng
và hợp pháp của nhân dân.
3. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay
a. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử
- Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ cổ và
trung đại
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong triết học Hy Lạp
cổ đại gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của Nhà
nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp với những tên tuổi điển hình như
Solon (638 - 559 tr.CN), Pytago (580 - 500 tr. CN), Hêracờlít
(530 - 470 tr. CN), Đềmôcơrít (460- 370 tr. CN), Sôcờrát (469 -
99 tr. CN), Platôn (427- 347 tr. CN), Aríttốt (384 - 322 tr. CN).
Nhìn thấy tính chất quân chủ chuyên chế của Nhà nước Hy Lạp
đương thời, Xôlông cho rằng để đạt tới tự do và công bằng thì
quyền lực nhà nước cần phải đặt ngang hàng với pháp luật và
chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự, tạo nên sự thống
310
nhất. Sau tư tưởng của Xôlôn, nhà toán học kiêm triết gia
Pytago đòi phải thực hiện mệnh lệnh của Nhà nước, tức là phải
tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải đứng cao hơn các phong tục,
tập quán truyền thống. Trên quan điểm duy vật biện chứng sơ
khai, Hêracờlít cho rằng pháp luật là phương thức thực hiện các
quyền lợi chung của nhân dân; do vậy, muốn có tự do và bình
đẳng thì nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ pháp luật. Nhà triết
học duy vật Đềmôcơrít cho rằng Nhà nước và pháp luật là sản
phẩm cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân, bị thống trị nhằm
liên kết với nhau thành cộng đồng xã hội, để bảo vệ quyền lợi
của mình. Nhà nước là sự hiện thân quyền lực chung của mọi
công dân. Sự tự do của công dân chính là sự tuân thủ pháp luật.
Cuối thế kỷ V (TCN), xã hội Hy Lạp xuất hiện nhiều phe phái
chính trị, nền dân chủ Aten lâm vào khủng hoảng, Sôcờrát cho
rằng dân chủ không thể tồn tại, nếu thiếu pháp luật hay pháp
luật bất lực. Giá trị cao nhất là công lý, nghĩa là con người ta
sống tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Một trong những học trò
xuất sắc của Sôcờrát là Platôn. Trong tác phẩm “Nền cộng
hoà”, Platôn xác định rằng người cầm quyền phải gạt ý chí,
quyền lợi cá nhân, để tuân thủ ý chí, mục đích của pháp luật.
Ông đã nhìn thấy tính giai cấp của pháp luật, khi cho rằng
“pháp luật được làm bởi đảng cầm quyền vì lợi ích riêng của
đảng ấy”. Sự sụp đổ của nền dân chủ Aten vào giữa thế kỷ IV
(TCN), đã tạo cơ sở thực tiễn cho Aríttốt đi đến những kết luận
mới về Nhà nước. Ông nêu tư tưởng phân chia hoạt động Nhà
nước thành ba thành tố: nghị luận, chấp hành và xét xử. Theo
Aríttốt, Nhà nước là một tổ chức phức tạp, tập hợp những cá thể
khác nhau về chức phận, về tình trạng tài sản, về phẩm chất đạo
đức, trình độ học vấn; khả năng tham gia của công chúng vào
công việc Nhà nước quy định thể chế chính trị của nó. Còn luật
pháp không phải là cái có sẵn, mà được xây dựng nên từ những
giá trị truyền thống, phong tục tập quán lâu đời, do vậy, nó có
tính chất bền vững và thiêng liêng.
- Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong triết học Tây
Âu - Phục hưng và cận đại.
Trong thời đại Phục hưng, châu Âu xuất hiện nhiều biến cố
lịch sử, chống lại tư tưởng chuyên chế và thần quyền trung cổ,
xã hội xuất hiện nhu cầu cần phải tăng cường quyền lực Nhà
nước, đó là lý do ra đời tư tưởng về quyền lực Nhà nước của
nhà tư tưởng nổi tiếng người Itaia - Machiavel (1469-1527).
Ông chủ trương phân biệt giáo hội với Nhà nước. Theo ông,
Nhà nước phải có một tổ chức quyền lực, có các công cụ bạo
lực mạnh như quân đội, lụât pháp, để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Tiếp tục phát triển quan điểm của Hốpbơ, Giôn Lốccơ (nhà triết
học pháp quyền người Anh, 1632- 1704) lý giải về việc phải
thực hiện phân quyền, dựa trên sự ngự trị của pháp luật thể hiện
dưới hình thức nhà nước, trong đó luật có tính tối cao - Luật
phù hợp với pháp luật tự nhiên, công nhận tự do và các quyền
tự nhiên của cá nhân. Nhà nước đối lập với chuyên quyền; pháp
chế đối lập với phi pháp của người nắm quyền. Theo ông,
nguyên tắc “cho phép làm tất cả những gì mà luật không cấm”
chỉ đúng khi áp dụng đối với công dân, còn đối với người nắm
quyền lực phải áp dụng nguyên tắc ngược lại: "Cấm không
được làm những gì mà luật không cho phép". Quan niệm mới
312
về phân quyền thể hiện đầy đủ trong các công trình của
Môngtexkiơ (Pháp 1689- 1755). Theo ông, ở mỗi nhà nước có
ba loại quyền: quyền lập pháp; quyền hành pháp; quyền tư
pháp. Để tránh lạm quyền, ba quyền đó phải nằm trong tay ba
cơ quan khác nhau, chế ước lẫn nhau. Đó là điều kiện chủ yếu
để đảm bảo tự do chính trị trong nhà nước. Tự do có nghĩa là
được làm tất cả những gì mà luật cho phép. Người kế thừa tư
tưởng của Môngtexkiơ là Rútxô (1712-1788), ông đã bổ sung
học thuyết về Nhà nước pháp quyền tư sản những quan điểm lý
luận mới và sâu sắc hơn. Theo Rútxô, để cho xã hội tồn tại và
phát triển, mọi công dân thực hiện một bản cam kết hay khế
ước uỷ quyền cho các đại biểu trong bộ máy Nhà nước. Và khi
Nhà nước đang hiện hành, vi phạm "khế ước xã hội" như đã
thoả thuận, thì nhân dân có quyền thay thế bằng Nhà nước mới.
- Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong triết học cổ
điển Đức
Kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhà khai sáng người
Pháp Rútxô, Cantơ (1724-1804) tán thành nguyên tắc phân
quyền. Theo ông, ở đâu áp dụng nguyên tắc phân quyền, thì ở
đó có nhà nước pháp quyền; còn nếu không thì là chuyên
quyền. Nhà nước pháp quyền không phải là hiện thực kinh
nghiệm mà là mô hình lý luận; lý tưởng cần được tuân thủ như
sự đòi hỏi của lý trí và mục đích của nỗ lực của con người trong
đời sống pháp luật - Nhà nước. Nhà nước pháp quyền là nhà
nước cộng hòa thuần tuý, nơi pháp luật là tối cao. Hoạt động
của nhà nước, thực chất là lập pháp, mục đích của quyền lập
pháp là sự tự do, còn quyền hành pháp không có mục đích pháp
lý chung (quản lý chỉ có thể tác động đến phúc lợi của công
dân) và do vậy những biện pháp nhằm đạt tới những mục đích
không phải pháp lý, không thể là các biện pháp cưỡng chế.
Trong lịch sử triết học trước Mác, Hêghen (1770-1831) là
người đầu tiên đưa pháp luật, thành đối tượng nghiên cứu của
triết học. Hêghen cho rằng nhà nước pháp quyền là thực tiễn
của lý trí trong những hình thức nhất định, của sự tồn tại thường
ngày của con người. Hêghen coi lịch sử thế giới là một quá
trình nhận thức về tự do, quá trình con người nhận thức ngày
càng sâu sắc về chân lý khách quan, kể cả việc nhận thức về
mình như một thực thể tinh thần, tự do và quá trình thực hiện
khác nhau về tự do dưới hình thức nhà nước - pháp luật. Theo
Hêghen, pháp luật là tư tưởng tự do, nhà nước cũng chính là
pháp luật, pháp luật cụ thể, có nội dung phong phú và là toàn bộ
hệ thống pháp luật, một hệ thống bao hàm việc thừa nhận mọi
quyền khác, quyền của cá nhân, gia đình và xã hội. Hêghen đặt
Nhà nước lên cao nhất, trên cá nhân, trên cả xã hội. Nhà nước là
thứ pháp luật cụ thể ở vị trí đỉnh chóp của hình nón pháp luật.
Ông thần thánh hóa nhà nước pháp quyền, coi các quyền cá
nhân và xã hội phụ thuộc, phục tùng nhà nước không phải với
tính cách là bộ máy bạo lực, mà là một thứ pháp luật cao hơn.
d. Nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
- Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền

314
Nhà nước pháp quyền là một tổ chức nhà nước đặc biệt, ở
đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung cơ bản là
thực hiện quyền lực của nhân dân.
Với ý nghĩa đó, nhà nước pháp quyền có những đặc trưng
cơ bản sau:
+ Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ
dân chủ. Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền,
vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước. Mục tiêu của
nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ,
đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình, thông qua dân chủ trực tiếp; dân
chủ đại diện.
+ Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật luôn
giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt động Nhà
nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp
của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
+ Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo
quyền con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của nhà nước và
xã hội. Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền
của chế độ nhà nước. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước,
được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính
bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa nhà nước và cá nhân được xác
định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm
những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ
những điều luật cấm.
+ Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ
chức và thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công
quyền lực và kiểm soát quyền lực. Tính chất và cách thức phân
công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng, tuỳ thuộc vào
chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm
chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một
người vào một cơ quan, mà phải được phân chia giữa các cơ
quan nhà nước, trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp.
+ Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ
Hiến pháp và pháp luật phù hợp - Nền tảng của nhà nước pháp
quyền là hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ và công bằng,
do vậy, cơ chế bảo vệ hiến pháp và pháp luật luôn là yêu cầu và
điều kiện cần thiết, nhằm đảm bảo cho hiến pháp, pháp luật
được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Đồng thời với
bảo vệ hiến pháp, nhà nước pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây
dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch
và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực
hoạt động của nhà nước và xã hội.
+ Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn
được giới hạn trong các mối quan hệ: nhà nước và kinh tế; nhà
nước và xã hội.Trong mối quan hệ giữa nhà nước và kinh tế, vị
trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước được xác định
bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị trường, theo
hướng nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan
của thị trường, để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc
phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường. Mối quan hệ giữa
316
nhà nước, kinh tế, xã hội là quan hệ tương tác, quy định và chi
phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội.
Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ
kinh tế và xã hội trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa, phát triển các giá trị tư
tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử. Tuy nhiên, do điều
kiện và hoàn cảnh lịch sử của thời đại mình, Mác và Ănggen
chưa có điều kiện nghiên cứu và xây dựng một lý luận hoàn
chỉnh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mặc dù vậy,
các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác cũng đã phác họa nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa với đặc điểm chủ yếu như sau:
+ Nhân dân đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành lấy
chính quyền, xây dựng Nhà nước của mình. Nhà nước vô sản
phải bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Nhà nước kiểu mới phải giải phóng
con người, bảo đảm sự phát triển tự do tối đa và phát triển toàn
diện con người.
+ Nhà nước phải sử dụng pháp luật, thể chế hoá quyền tự
do dân chủ của nhân dân, pháp luật quy định rõ những thiết chế
bảo đảm thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân
dân.
+ Nhà nước phải đề cao đạo đức, phẩm chất, năng lực và
trách nhiệm của bộ máy nhà nước, của công chức, viên chức
trong nhà nước pháp quyền. Đề cao vai trò của pháp luật, pháp
luật luôn có tính giai cấp.
+ Nhà nước pháp quyền, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi
vi phạm pháp luật, bảo đảm mọi người bình đẳng trước pháp
luật là yêu cầu khách quan, có tính nguyên tắc.
Sau cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, trên cơ sở bảo vệ
tư tưởng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Mác và
Ăngghen, mặt khác căn cứ thực tiễn của quá trình xây dựng và
bảo vệ chính quyền Xô viết, Lênin đã nêu những đặc điểm cơ
bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo Lênin,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải bảo đảm vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, pháp luật là ý chí của nhà
nước và của nhân dân lao động. V.I.Lênin kịch liệt đấu tranh
với lề thói quan liêu, bệnh tham nhũng, lãng phí trong hoạt
động của bộ máy Nhà nước, vì vậy theo ông cần củng cố mối
liên hệ giữa tổ chức, bộ máy của Đảng, Nhà nước với quần
chúng, coi đây là điểm khác biệt cơ bản giữa chế độ tư bản với
chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong tổ chức, hoạt động của Nhà
nước V.I.Lênin còn quan tâm đến nguyên tắc tập trung dân chủ,
nhất là vấn đề quan hệ giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ
trách. Ngoài ra, V.I.Lênin đặc biệt quan tâm vấn đề xây dựng
pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa trong Nhà nước chuyên
chính vô sản.
e. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về những
đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Dựa trên các nguyên lý của chủ nghĩa Mác –Lênin về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đặc điểm cụ thể của kinh

318
tế - xã hội Việt Nam, Đảng ta đã nêu ra những đặc trưng cơ bản
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chúng ta đang xây
dựng như sau:
- Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể
hiện quyền làm chủ của nhân dân
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”117; “Chế độ ta là chế
độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”118. Với Hồ Chí Minh,
nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà
nước. Toàn bộ quyền lực Nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân,
do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy Nhà nước thực hiện, nhằm
phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy Nhà nước được thiết
lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội
ngũ cán bộ, công chức Nhà nước không thể là các ông quan
cách mạng mà là công bộc của nhân dân. Là Nhà nước của
dân, do chính nhân dân lập ra thông qua chế độ bầu cử dân
chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy Nhà
nước đã được xác lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính
chính đáng của chính quyền, khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền
lực từ nhân dân. Tư tưởng về một Nhà nước của dân, do dân,
vì dân đã được thể chế hoá thành một mục tiêu trong bản Hiến
pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hoà ở nước ta.

117
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6,tr.515
118
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5,tr.499
- Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ
Hiến pháp
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa
chọn chính trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ
nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Vì vậy, Hiến pháp được coi là
Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất,
quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng,
an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu,
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã
hội và sự an toàn của người dân.
- Thứ ba, Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội
bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong
đời sống xã hội
Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kết quả của sự thể
chế hoá đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá giáo dục
khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức
quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là
thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công bằng, dân chủ,
bình đẳng. Nhà nước pháp quyền phải có một hệ thống pháp
luật cần và đủ, để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật thể
chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội là hình thức tồn tại của các

320
cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy,
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là là nguyên tắc
của xã hội pháp quyền. Toàn thể các cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh
chấp hành Hiến pháp và Pháp luật.
- Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của
công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân,
giữa Nhà nước và xã hội
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở
rộng quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà
nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước, … luôn được
Đảng ta, Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Văn kiện Đại hội Đảng
VI xác định: Xây dựng một chính quyền không có đặc quyền,
đặc lợi, hoạt động vì cuộc sống của nhân dân. Văn kiện Đại hội
Đảng IX xác định rõ những phương châm cơ bản: Xây dựng cơ
chế cụ thể để thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong
cách, bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và
thực hiện các quyết định.
- Thứ năm, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong
việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có
sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực Nhà
nước
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với “Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội”, quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự phân công,
phối hợp giữa ba cấu trúc quyền lực đó của Nhà nước mới được
chính thức khẳng định để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của bộ máy Nhà nước. Và đến Hội nghị Trung ương lần
thứ tám (khoá VII), (1995) quan niệm của Đảng về ba quyền đã
có được sự bổ sung quan trọng: quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Theo đó nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hoàn thiện một
bước quan trọng. Đây là quan điểm có tính nguyên tắc, chỉ đạo
thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
- Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách
quan. Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo
chính trị, quyết định phương hướng chính trị của Nhà nước,
bảo đảm để Nhà nước ta thực sự là tổ chức thực hiện quyền lực

322
của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, thực hiện
thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị
quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt động quản lý Nhà
nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.
Trong ý nghĩa ấy, Nhà nước pháp quyền nằm dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những đặc trưng cơ
bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
f. Phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam
Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải thực hiện định
hướng sau:
Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với
quan điểm Nhà nước là công cụ chủ yếu, thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân. Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
là phương hướng, đồng thời là mục tiêu bao trùm trong hoạt
động xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay. Để thực hiện phương hướng này cần tiếp tục hoàn
thiện các thiết chế dân chủ gián tiếp (hoàn thiện tổ chức, hoạt
động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; tổ chức,
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên Mặt trận,
v.v..) cũng như các thiết chế dân chủ trực tiếp (bầu cử; giải
quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp dân; giải quyết đơn, thư dân
nguyện, v.v..). Nhân dân tham gia quản lý xã hội bằng sự kết
hợp, phối hợp các tổ chức, các phong trào, các nguồn lực để
thực hiện phát triển kinh tế - văn hoá, xây dựng môi trường xã
hội lành mạnh, xoá đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn, giữ
gìn an ninh trật tự, ổn định chính trị - xã hội, tổ chức đời sống
văn hoá tinh thần, xây dựng đạo đức, lối sống.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội
nhập quốc tế; đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện pháp
luật. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật xuất phát từ những yêu cầu khách quan sau đây:
- Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
- Yêu cầu bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân
- Yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật
- Yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới.
- Yêu cầu khắc phục những hạn chế, bất cập của hệ
thống pháp luật hiện hành và việc thực hiện pháp luật của Nhà
nước ta.
Cùng với việc đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cần phải đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực
324
hiện pháp luật bao gồm công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật; mở rộng các
hoạt động dịch vụ và tư vấn pháp lý trong xã hội; chấn chỉnh
các tổ chức và hoạt động của luật sư, công chứng, giám định, hộ
tịch, thi hành án; đổi mới tổ chức hoạt động của các cơ quan tư
pháp các cơ quan bảo vệ pháp luật (công an, toà án nhân dân,
viện kiểm sát nhân dân, thanh tra nhà nước, hải quan, quản lý
thị trường, v.v..) bảo đảm cho các cơ quan này thực hiện đúng
chức năng luật định.
Ba là, đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội theo yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
Quốc hội; Xây dựng Quốc hội đảm bảo được vai trò, chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định;
bảo đảm hiệu lực, hiệu quả tính chuyên nghiệp, hiện đại, tính
minh bạch, công khai trong tổ chức, hoạt động của Quốc hội.
Cần tiếp tục nâng cao chất lượng, kiện toàn tổ chức, đổi mới
phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội;
hoạt động lập pháp; trong việc quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước; thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát.
Mặt khác, cần phát huy vai trò, trách nhiệm, nâng cao năng
lực, bản lĩnh và nghiệp vụ hoạt động của đại biểu Quốc hội, đổi
mới chế độ bầu cử Đại biểu Quốc hội, nhằm bảo đảm chất
lượng của đại biểu Quốc hội.
Bốn là, tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức trong sạch, có năng lực theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ cán bộ, công chức luôn
giữ vai trò quan trọng trong việc thực thi pháp luật, chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với toàn bộ xã hội, vì vậy cần quan
tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh
đạo. Nhiệm vụ hiện nay cần quan tâm trước hết là xây dựng và
áp dụng chức danh, tiêu chuẩn của các loại cán bộ công chức
trong bộ máy hành chính, các tổ chức sự nghiệp. Đổi mới công
tác tuyển dụng cán bộ, công chức, chuyển từ phương thức xét
tuyển sang phương thức thi tuyển để lấy người có trình độ vào
làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước; đồng thời chú ý
đến các vùng sâu, vùng xa, đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên
cần có những vận dụng phù hợp trong tuyển dụng.
Năm là, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên
quyết chống tham nhũng, lãng phí. Phòng và chống tham
nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách,
vừa lâu dài. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế,
tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch
vụ công, doanh nghiệp nhà nước. Xử lý đúng pháp luật, kịp
thời, nghiêm minh cán bộ tham nhũng; tăng cường công tác
kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức
năng.

326
CHƯƠNG 7

Ý THỨC XÃ HỘI

I. KHÁI NIỆM TỒN TẠI XÃ HỘI, Ý THỨC XÃ HỘI


1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản hợp thành
tồn tại xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội
Theo quan điểm duy vật lịch sử, tồn tại xã hội là phạm trù
triết học dùng để chỉ phương diện sinh hoạt (hoạt động) vật
chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Trong các
mối quan hệ vật chất, tạo nên đời sống vật chất của xã hội, có
hai mối quan hệ cơ bản nhất: quan hệ vật chất giữa người với
người và quan hệ giữa người với tự nhiên.
Xét về thực chất, hoạt động vật chất của xã hội chính là
hoạt động thực tiễn, mà trước hết và cơ bản là hoạt động sản
xuất ra của cải vật chất để duy trì sự sinh tồn, phát triển của xã
hội. Đồng thời, gắn liền với hoạt động đó là quá trình hình
thành, phát triển của các hình thức, phương thức giao tiếp, kết
quả của sản xuất vật chất giữa con người với nhau, cũng như
giữa các cộng đồng xã hội khác nhau.
b. Các yếu tố cơ bản tạo thành tồn tại xã hội bao gồm: các
yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, điều kiện
dân số và phương thức sản xuất vật chất.
Điều kiện tự nhiên, với tư cách là yếu tố cơ bản tạo thành
tồn tại xã hội là toàn bộ điều kiện vật chất tự nhiên, tạo thành
những điều kiện khách quan cho sự sinh tồn và phát triển của
cộng đồng người trong lịch sử. Không có cộng đồng người nào
có thể tồn tại ngoài những điều kiện vật chất tự nhiên nhất định.
Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ” của con người. Chính trong
điều kiện tự nhiên, con người có thể thực hiện được quá trình
trao đổi chất, tiến hành sản xuất vật chất, cung cấp những điều
kiện vật chất, đảm bảo sự sinh tồn và phát triển của mình.
Yếu tố dân số, bao gồm toàn bộ các phương diện về số
lượng, cơ cấu, mật độ phân bố, cấu trúc tổ chức dân cư, … tạo
thành điều kiện vật chất khách quan, đảm bảo cho sự sinh tồn
và phát triển của xã hội. Cùng với điều kiện tự nhiên, yếu tố
dân số là tiền đề xác lập một phương thức sản xuất nhất định,
đồng thời cũng biến đổi theo yêu cầu khách quan của sự vận
động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch sử.
Phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản và trực tiếp quy
định sự sinh tồn, phát triển của mỗi con người, cũng như toàn
bộ cộng đồng xã hội, quy định trực tiếp phương thức hoạt động
vật chất của mỗi xã hội nhất định. Phương thức sản xuất nào
cũng được tạo nên từ hai mặt, đó là mặt vật chất – kỹ thuật của
quá trình sản xuất (biểu hiện tập trung ở trình độ phát triển
phương thức kỹ thuật, công nghệ) và mặt kinh tế - xã hội của
328
quá trình ấy (thể hiện tiêu biểu ở trình độ phát triển của phương
thức tổ chức kinh tế). Trong hai mặt đó, mặt kinh tế - xã hội phụ
thuộc tất yếu vào trình độ phát triển của mặt vật chất – kỹ thuật,
trực tiếp quy định tính chất và trình độ phát triển của một tồn tại
xã hội nhất định.
Các yếu tố cấu thành nên tồn tại xã hội có mối quan hệ
thống nhất, biện chứng, tác động lẫn nhau, tạo thành điều kiện
sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất
vật chất là yếu tố cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất đối với
toàn bộ tồn tại xã hội và sự phát triển của ý thức xã hội.
2. Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu cơ bản của ý thức
xã hội
a. Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là phạm trù triết học dùng để chỉ phương diện
sinh hoạt tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống, … nảy sinh từ tồn tại
xã hội và phản ánh những giai đoạn phát triển nhất định của tồn
tại xã hội.
Ý thức của con người được hình thành trong quá trình con
người lao động sản xuất và giao tiếp. Theo C. Mác và Ăngghen,
ngay từ đầu, ý thức đã là sản phẩm của một xã hội và vẫn như
vậy chừng nào con người còn tồn tại. Xét về mặt bản chất, ý
thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội.
Giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự thống nhất
biện chứng nhưng không đồng nhất với nhau. Mối quan hệ
giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân thuộc mối quan hệ giữa
cái chung và cái riêng. Ý thức cá nhân là đời sống tinh thần
của mỗi con người cụ thể, riêng biệt. Về nguyên tắc, ý thức cá
nhân cũng nảy sinh từ tồn tại xã hội, song, với mức độ khác
nhau, tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể của các cá nhân ấy.
Do đó, ý thức cá nhân mang tính xã hội, nhưng không phải
bao giờ nó cũng thể hiện đầy đủ những tư tưởng, quan điểm,
tình cảm phổ biến của cộng đồng, của xã hội, hay của một thời
đại nhất định. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong
mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, chúng luôn thâm
nhập vào nhau và làm phong phú lẫn nhau.
b. Tính giai cấp của ý thức xã hội
Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn mang tính giai
cấp. Các giai cấp khác nhau có những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác nhau, do địa vị của mỗi giai cấp trong phương thức
sản xuất quy định. Do vậy, ý thức xã hội của các giai cấp có
nội dung và hình thức phát triển khác nhau, thậm chí đối lập
nhau.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, bao giờ cũng có những
quan điểm, tư tưởng đối lập nhau, tư tưởng của giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị, tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp bị
bóc lột. Những tư tưởng thống trị của thời đại lịch sử, bao giờ
cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị
của thời đại đó. C. Mác và Ăngghen đã viết: “Giai cấp nào chi
phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả
những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung, tư tưởng
330
của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng
thời bị giai cấp thống trị đó chi phối”119. Tuy nhiên, mức độ
ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đối với xã hội nói
chung, đối với giai cấp bị trị nói riêng, còn tùy thuộc vào trình
độ phát triển ý thức cách mạng của giai cấp thống trị. Ngược
lại, hệ tư tưởng của giai cấp bị trị cũng ảnh hưởng nhất định đến
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, đặc biệt nhất là trong thời kỳ
cách mạng xã hội phát triển mạnh. Vào thời điểm đó, có những
người xuất thân từ giai cấp thống trị, nhất là những trí thức tiến
bộ, đã rời bỏ giai cấp xuất thân của mình, chuyển sang giai cấp
cách mạng và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ tư tưởng của giai
cấp cách mạng.
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ
mang dấu ấn của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện
sinh hoạt chung của cả dân tộc như phong tục, tập quán, tình
cảm, ước muốn, thói quen, … phản ánh những điều kiện sinh
hoạt chung của cả dân tộc. Những đặc tính đó thấm sâu, bám
chắc vào mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần của dân tộc, lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo thành truyền thống
dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc.
c. Kết cấu cơ bản của ý thức xã hội
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức
phức tạp. Tùy thuộc vào đối tượng, phạm vi và trình độ phản
ánh, có thể phân loại ý thức xã hội thành các cấp độ: ý thức xã
hội thông thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư
119
C. Mác và Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.3, tr. 66.
tưởng.
+ Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức,
những quan niệm,... của con người, trong một cộng đồng người
nhất định, được hình thành và phản ánh một cách trực tiếp từ
hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái
quát hóa thành lý luận, chỉ mới ở trình độ kinh nghiệm. Ý thức
xã hội thông thường là cơ sở cung cấp những tư liệu phong phú
để xây dựng nên những lý thuyết khoa học.
+ Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ
thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình
bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý
luận khoa học có khả năng phản ảnh hiện thực khách quan một
cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ
bản chất của các sự vật và hiện tượng. Ý thức lý luận đạt trình
độ cao và mang tính hệ thống, tạo thành các hệ tư tưởng. Do đó,
ý thức lý luận là nhân tố chủ yếu thể hiện tính tiên tiến của ý
thức xã hội.
+ Tâm lý xã hội là toàn bộ đời sống tình cảm, tâm trạng,
truyền thống, tập quán, thói quen, khát vọng ý chí của những
cộng đồng người nhất định; là sự phản ánh trực tiếp và tự phát
đời sống và sinh hoạt thường ngày của con người. Tâm lý xã
hội, tuy không có khả năng vạch ra được cái bản chất và tính
quy luật của tồn tại xã hội, nhưng là tiền đề và điều kiện cần
thiết để con người tiếp thu được hệ tư tưởng.
+ Hệ tư tưởng là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan
điểm xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn
332
giáo, … phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội. Hệ
tư tưởng là trình độ phát triển cao của ý thức xã hội, có khả
năng phản ánh được bản chất và quy luật phát triển của xã hội.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là hai trình độ, hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, đối với cùng một tồn tại
xã hội, chúng có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau.
Tuy nhiên, tâm lý xã hội không thể sản sinh ra hệ tư tưởng, mà
chỉ tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho việc hình thành,
phát triển, truyền bá và tiếp thu hệ tư tưởng.

II. VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI ĐỐI VỚI Ý
THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý
THỨC XÃ HỘI

1. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội quyết định sự ra đời và bản chất của ý thức
xã hội
Một trong những công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen
là đã phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây dựng quan
điểm duy vật về lịch sử, giải quyết một cách khoa học vấn đề
hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Các ông đã chứng
minh rằng đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển
trên cơ sở của đời sống vật chất; rằng không thể tìm nguồn gốc
của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không
thể tìm trong đầu óc con người, mà phải tìm trong hiện thực vật
chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải
thích được chính xác đến nguyên nhân cuối cùng của nó, nếu
chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Theo C.Mác: “... không
thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức
của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những
mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có
giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất
xã hội”120.
Quan điểm trên đây đối lập với quan điểm của chủ nghĩa
duy tâm về xã hội, tức đối lập với quan điểm đi tìm nguồn gốc
của ý thức, tư tưởng trong bản thân ý thức, tư tưởng, coi đó là
nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự phát triển
xã hội và phản ánh lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời
cơ sở kinh tế - xã hội. Ngược lại, theo quan điểm duy vật lịch
sử thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; ý thức xã hội là sự
phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội;
mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi
thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính
trị pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, v.v. tất
yếu sẽ biến đổi theo. Cho nên, ở những thời kỳ lịch sử khác
nhau, nếu chúng ta thấy có những lý luận quan điểm tư tưởng
xã hội khác nhau, thì đó là do những điều kiện khác nhau của
đời sống vật chất quyết định.
- Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã
hội không chỉ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn
tại xã hội, mà còn chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, không phải một cách giản đơn, trực tiếp, mà thường thông

120
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia: Hà Nội, 1995, t.3
tr.15
334
qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan
niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng
và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào
xét đến cùng, chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế
được phản ánh bằng cách này, hay cách khác, trong các tư
tưởng ấy. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất
biến đổi, thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm
về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ
thuật,… sớm muộn cũng thay đổi theo.
Như vậy, có thể khái quát nội dung cơ bản của nguyên lý
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội với hai luận điểm cơ bản
như sau:
Một là, bản chất và nội dung của ý thức xã hội, suy cho đến
cùng, chỉ là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và có nguồn gốc
từ tồn tại xã hội.
Bản chất ý thức xã hội là chỉ các đặc tính, hay những đặc
trưng cơ bản của đời sống tinh thần xã hội, được kết tinh thành
hệ giá trị tinh thần của xã hội, thể hiện tiêu biểu ở bản sắc văn
hóa của các cộng đồng người, đặc biệt là bản sắc văn hóa của
mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa là sự kết tinh của hệ giá trị ứng xử
giữa con người với con người trong đời sống xã hội, cũng như
giữa con người với giới tự nhiên. Bản sắc ấy, suy cho đến cùng,
cũng chỉ là sự kết tinh nhận thức của mỗi cộng đồng người về
phương thức ứng xử hợp lý nhất, trong một hoàn cảnh khách
quan nhất định.
Nội dung của ý thức xã hội là chỉ những “hình ảnh chủ
quan”, mang tính cải biến sáng tạo trong đời sống tinh thần của
xã hội là sự tái tạo các hình ảnh trong hiện thực khách quan của
đời sống xã hội. Nội dung của ý thức xã hội, không chỉ là sự
phản ánh các đối tượng hiện thực khách quan của tồn tại xã hội
dưới hình thức tâm lý hay tư tưởng nào đó, mà ngay cả mâu
thuẫn trong đời sống hiện thực khách quan của xã hội còn được
phản ánh và biến thành mâu thuẫn trong đời sống sinh hoạt tinh
thần của xã hội và thể hiện với những mức độ khác nhau trong
đời sống tinh thần của mỗi thành viên trong cộng đồng.
Hai là, sự biến đổi, phát triển của ý thức xã hội có nguyên
nhân căn bản từ sự biến đổi, phát triển của tồn tại xã hội, mà
đặc biệt là sự biến đổi và phát triển của phương thức sinh tồn,
phát triển của xã hội, trong đó, vai trò quan trọng nhất là sự
biến đổi, phát triển của phương thức sản xuất của một xã hội
nhất định.
Ý thức xã hội không phải là cái cố hữu, bất biến của con
người, của xã hội, mà nó chỉ là sự phản ánh đối với tồn tại xã
hội hiện thực, do đó, một khi tồn tại xã hội thay đổi thì nhất
định, sớm hay muộn, sẽ dẫn đến sự thay đổi của ý thức xã hội.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và vai trò
của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Quan điểm duy vật biện chứng về xã hội không chỉ khẳng
định tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, mà
còn làm sáng tỏ những nội dung thể hiện tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Nội dung tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội, được phân tích trên các phương
336
diện sau đây:
a. Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại
xã hội
Theo nguyên lý, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội thì
khi tồn tại xã hội biến đổi, sẽ tất yếu dẫn tới những sự biến đổi
của ý thức xã hội. Tuy nhiên, không phải trong mọi sự biến đổi
của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý
thức xã hội; trái lại nhiều yếu tố của ý thức xã hội (cả tâm lý
xã hội và hệ tư tưởng xã hội) có thể còn tồn tại rất lâu dài,
ngay cả khi cơ sở tồn tại xã hội sản xuất ra nó, đã được thay
đổi căn bản. Sở dĩ như vậy là vì: Một là: Do bản chất của ý
thức xã hội, chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội cho nên, nói
chung, ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi
của tồn tại xã hội. Mặt khác, sự biến đổi của tổn tại xã hội do
sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động
thực tiễn, diễn ra với tốc độ nhanh, mà ý thức không thể phản
ánh kịp thời. Hai là, Do sức mạnh của thói quen, truyền thống,
tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình
thái ý thức xã hội kéo dài sự tồn tại dai dẳng của nó. Ba là: Ý
thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập
đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy,
những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội
phản tiến bộ, lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực
lượng xã hội tiến bộ. Cho nên, ý thức xã hội chậm biến đổi
hơn tồn tại xã hội.
Những hiện tượng ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi
một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới,
chúng ta phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu
tranh chống lại những âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch
về mặt tư tưởng, kiên trì xóa bỏ những ý thức tàn dư cũ, lạc
hậu, có hại, đồng thời phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp.
b. Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt lên trước tồn tại xã hội
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội,
so với tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời thừa
nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con
người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Ý thức xã hội khoa học có
thể dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của con người, hướng hoạt động của con người
vào giải quyết những nhiệm vụ mới, do sự phát triển chín muồi
của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên, suy đến
cùng, khả năng phản ánh vượt trước ý thức xã hội vẫn phụ
thuộc vào tồn tại xã hội.
c. Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự
phát triển của nó
Lịch sử phát triển đời sống tinh phần của xã hội cho thấy
rằng những quan điểm lý luận của mỗi thời đại, được tạo ra trên
cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể
giải thích được một học thuyết lý luận nào đó, nếu chỉ dựa vào
những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý xem xét đến các
giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư
338
tưởng đã cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của
triết học, văn học, nghệ thuật, v.v. nhiều khi không phù hợp
hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh
tế, của điều kiện tồn tại xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội
gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế
thừa những nội dung, ý thức, tư tưởng xã hội khác nhau của các
thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư
tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. V.I. Lênin nhấn mạnh rằng
văn hoá xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và
truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hoá nhân loại, trên cơ sở
thế giới quan mácxít. Người viết: “văn hoá vô sản phải là sự
phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài
người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã
hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”121.
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng ta
khẳng định: “Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi với mở rộng
giao lưu văn hóa với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới”122,
trên cơ sở giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam.

121
V.I. Lênin: Toàn tập. Nxb. Tiến bộ. Mátxcơva. 1977. t.41, tr.361.
122
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 49.
d. Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức
xã hội trong sự phát triển của chúng
Trong sự phát triển, các hình thái ý thức xã hội luôn tác
động qua lại lẫn nhau. Đây là một quy luật phát triển của ý thức
xã hội. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là
một trong những nguyên nhân làm cho trong mỗi hình thái ý
thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được
một cách trực tiếp, từ tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy thông thường
ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, sẽ có
những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động
mạnh đến các hình thái ý thức khác. Ở Hy Lạp thời cổ, triết học
và nghệ thuật đã từng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Ở Tây
Âu thời trung cổ, tôn giáo đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi
mặt tinh thần của xã hội như: triết học, đạo đức, nghệ thuật,
chính trị, pháp quyền. Các nước Tây Âu, ở giai đoạn lịch sử sau
này, thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn, tác động mạnh
mẽ đến các hình thái ý thức xã hội khác. Ở Pháp, từ nửa sau thế
kỷ XVIII và ở Đức cuối thế kỷ XIX, triết học và văn học là
công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính
trị là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã
hội tiên tiến. Ngày nay, trong sự tác động lẫn nhau giữa các
hình thái ý thức xã hội, đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện đại,
ý thức chính trị thường có vai trò đặc biệt quan trọng, ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các hình thái ý thức xã hội khác. Ý thức
chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển
340
theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
e. Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại
tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan
điểm duy tâm, (tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội) mà còn
bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường, hay “chủ nghĩa duy vật
kinh tế”, tức quan điểm phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức
xã hội trong đời sống xã hội. Theo Ph.Ăngghen: “Sự phát triển
của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
.v.v… đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả
chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở
kinh tế”123. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát
triển xã hội tất nhiên sẽ phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử
cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư
tưởng nảy sinh vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư
tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đó với các
nhu cầu phát triển xã hội vào mức độ mở rộng của tư tưởng
trong quần chúng, v.v.. Mặt khác, các hình thái ý thức xã hội tác
động đến tồn tại xã hội có vai trò, tính chất, đặc điểm khác
nhau, do đặc trưng của các hình thái ý thức xã hội khác nhau
chi phối. Do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng
tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ với sự phát triển xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ rõ tính chất phức tạp

123
C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, t.39,
tr.271
trong lịch sử phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần
xã hội nói chung. Nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bác
bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Quan điểm duy vật mácxít về vai trò quyết định của tồn tại
xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội là một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, một trong những cơ sở phương pháp luận căn
bản của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Theo nguyên lý này,
một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần
xã hội cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó;
mặt khác cũng cần phải giải thích các hiện tượng tinh thần xã
hội, từ những phương diện khác nhau, do tính độc lập tương đối
của chúng. Do đó, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới cần phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt, tồn
tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội
cũ là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội cũ. Đồng
thời, cùng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại
xã hội mới, tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời
sống tinh thần của xã hội, mà ngược lại những tác động của đời
sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định, cũng có thể
tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Đó
là những nguyên tắc phương pháp luận của C.Mác về xây dựng
và phát triển đời sống tinh thần của xã hội.

342
III. XÂY DỰNG NỀN TẢNG TINH THẦN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và tính tất yếu
của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt
Nam hiện nay
a. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, nền kinh tế nước ta
chịu ảnh hưởng nặng nề do hậu quả của hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để lại. Ở miền Bắc, nền
kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, cơ
chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, kém hiệu quả.
Ở miền Nam, do chính sách thực dân kiểu mới, yếu tố tư bản
chủ nghĩa đã xâm nhập mạnh vào các ngành công nghiệp,
thương nghiệp, tài chính ngân hàng ... và bước đầu đã xâm nhập
vào lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, kinh tế miền Nam chủ
yếu vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu mất cân đối và lệ thuộc rất nặng
vào viện trợ của nước ngoài. Vì vậy, khi Mỹ rút quân, cắt giảm
viện trợ, nền kinh tế miền Nam lập tức rơi vào khủng hoảng. Có
thể nói rằng nền kinh tế Việt Nam vào thời điểm năm 1975,
thống nhất đất nước, có điểm xuất phát thấp. Như vậy, nhiệm
vụ khôi phục nền kinh tế đất nước sau khi giành chính quyền là
hết sức cần thiết. Đại hội IV (năm 1976) của Đảng xác định,
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, nhằm phát huy mạnh
mẽ lực lượng sản xuất, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với
xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ; tổ chức lại sản xuất xã hội, phân bố lại lao động để
sử dụng tốt nhất lực lượng lao động, thiết bị, vật tư, máy móc,
cải thiện đời sống của nhân dân, đáp ứng được những nhu cầu
thông thường của người dân như ăn, mặc, ở, đồ dùng hàng
ngày,...
Đặc điểm lớn nhất của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ
này là quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, nhưng có điểm xuất phát là một nước nghèo nàn, lực
lượng sản xuất lạc hậu, thu nhập bình quân đầu người thuộc
nhóm các nước thấp nhất thế giới. Do vậy, việc lựa chọn mô
hình, cách thức, đường lối phát triển kinh tế phù hợp với điều
kiện cụ thể ở Việt Nam, gặp nhiều khó khăn. Từ năm 1979 trở
về trước, mô hình kinh tế ở nước ta là mô hình kế hoạch hóa,
dựa trên cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, với hai
hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể là chủ yếu. Nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã loại bỏ yếu tố thị trường, sản
xuất không gắn với nhu cầu của người tiêu dùng, hàng hóa khan
hiếm, đời sống nhân dân khó khăn. Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương khóa IV (9/1979), lần đầu tiên Đảng ta
đã đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, xóa bỏ “ngăn sông cấm chợ”, cho sản xuất “bung ra”,
nhằm phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng sức lao động,
tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân. Trên cơ sở đó, chủ trương xóa bỏ cơ chế tập

344
trung quan liêu, bao cấp đã được hình thành và thay vào đó là
cơ chế hạch toán kinh doanh, phản ánh đầy đủ các chi phí sản
xuất, tiếp cận với nền kinh tế thị trường, nhằm mục tiêu phát
triển kinh tế đất nước.
Đường lối đổi mới kinh tế, do Đại hội lần thứ VI (năm
1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã mở đường
cho thời kỳ phát triển mới của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đại hội đã chính thức công nhận nền kinh tế thị
trường, có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia, thực hiện cơ
chế giá thỏa thuận và giá kinh doanh là đường lối phát triển
kinh tế đúng đắn trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Các nguồn
lực phát triển trong các thành phần kinh tế đã được huy động
tốt, góp phần nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Cơ chế
quản lý tập trung, bao cấp từng bước được thay thế, xóa bỏ.
Nhà nước đã chuyển dần từ cách thức quản lý, can thiệp trực
tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống
pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết
vĩ mô khác, mở đường cho kinh tế phát triển. Mục tiêu của
công cuộc đổi mới là nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, tiến tới hoàn thiện quan hệ sản xuất, đáp
ứng ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan
trọng trên các lĩnh vực, trong đó nổi bật là lĩnh vực kinh tế. Với
sự đổi mới, kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh, lực lượng sản
xuất được giải phóng, đời sống của các tầng lớp nhân dân từng
bước được cải thiện.
Đặc trưng cơ bản về sở hữu của nền kinh tế đa thành
phần ở nước ta hiện nay là sự cùng tồn tại ba hình thức cơ bản:
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Nhà nước
không sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất, mà chỉ sở hữu các tư liệu
sản xuất chủ yếu trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu,
để định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Việc thừa
nhận nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại, hoạt động bình đẳng
trong nền kinh tế, đã tạo điều kiện khai thác và mở rộng tối đa
nguồn lực vật chất và nguồn lực con người trong xã hội, thúc
đẩy sản xuất phát triển làm tăng năng suất lao động một cách
đột biến. Trên cơ sở ba hình thức sở hữu cơ bản, nhiều thành
phần kinh tế được hình thành, cùng tồn tại trong một thị trường
vừa đa dạng, vừa có sự thống nhất, vừa cùng cạnh tranh quyết
liệt để tồn tại và phát triển, trong đó thành phần kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tư nhân, được coi là một bộ
phận không thể thiếu và không thể tách rời trong cơ cấu nền
kinh tế quốc dân, được phát triển không hạn chế trong những
ngành, lĩnh vực mà luật pháp không ngăn cấm; được khuyến
khích đầu tư và tạo mọi điều kiện phát triển như mọi thành phần
kinh tế khác trong nền kinh tế đất nước. Kết quả là, nền kinh tế
Việt Nam bước đầu khởi sắc, tạo được vị thế của mình trong
nền kinh tế khu vực và trong cộng đồng thế giới. Đại hội VIII
của Đảng (1996) khẳng định mô hình kinh tế ở nước ta: “Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ

346
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”124. Tiến lên một bước, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung phát
triển năm 2011), đã điều chỉnh mô hình kinh tế của nước ta là
phát triển “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức
kinh doanh và hình thức phân phối”125. Đây là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội hiện nay.
Trên cơ sở nhận thức sản xuất hàng hóa “không đối lập
với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây
dựng”126, Đảng ta đã khẳng định: “để đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”127. Như vậy, đối với nước ta, muốn đưa nền
kinh tế còn kém phát triển lên nền kinh tế sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, thì không còn con đường nào khác là phải phát triển
kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

124
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 168.
125
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 73.
126
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 97.
127
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 69.
Nam là một hình thức tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy
luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được chi phối
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Nói cách
khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mục đích của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Sự
phát triển của nền kinh tế thị trường có vai trò tác động mạnh
mẽ đối với đời sống tinh thần ở Việt Nam hiện nay.
b. Tính tất yếu của việc xây dựng nền tảng tinh thần của
xã hội Việt Nam hiện nay
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, lĩnh vực đời sống tinh
thần của xã hội nước ta hiện nay, so với thời kỳ bao cấp, đã có
những bước tiến bộ rõ rệt. Tính năng động xã hội và tính tích
cực công dân được khơi dậy, phát huy thay cho tâm lý thụ động,
ỷ lại, trông chờ bao cấp trong cơ chế cũ. Bầu không khí dân
chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên. Mặt bằng dân trí từng bước
được nâng cao, sở trường, năng lực cá nhân con người được
khuyến khích, tôn trọng. Trong sự phong phú, đa dạng của đời
sống và hoạt động văn hóa, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh được Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo, đóng
vai trò là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam bảo đảm cho đời
sống tinh thần của xã hội phát triển đúng hướng, vì độc lập tự
348
do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội mở rộng, giao lưu văn hóa,
góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam cũng đang chịu tác động sâu
sắc từ những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Đó là
những hiện tượng suy thoái đạo đức, đặc biệt là tệ nạn tham
nhũng, hối lộ, buôn lậu, gian lận thương mại, mua bán chức
quyền, thói lừa đảo, chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu dùng vô độ,
sức mạnh đồng tiền và chủ nghĩa thực dụng. Đó còn là trạng thái
dao động, hoài nghi, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng ở một
bộ phận đảng viên, cán bộ, kể cả một số cán bộ trung, cao cấp.
Những biểu hiện suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình,
đạo lý thầy trò, quan hệ bạn bè, sự đảo lộn một số chuẩn mực giá
trị và nếp sống truyền thống vốn tốt đẹp. Các tệ nạn xã hội, lối
sống bất chấp đạo lý, dư luận xã hội và luật pháp có chiều hướng
gia tăng. Tất cả những hiện tượng biểu hiện đó đang làm xói mòn
nền tảng tinh thần xã hội, kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội,
phát triển đất nước.
Với tính cách là “nền tảng tinh thần của xã hội”, văn hóa
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế. Đảng
ta xác định: “Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh
thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh,
không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thì không thể có sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế
phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh,
con người phát triển toàn diện”128. Mục tiêu của quá trình phát
triển là phải nâng cao chất lượng cuộc sống con người, bảo đảm
hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Để đạt
mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự phát triển cao về kinh tế, về
cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ. Song, phát triển kinh tế
không phải là sự tăng trưởng với bất kỳ giá nào, thậm chí là hy
sinh các giá trị văn hóa, hy sinh phẩm giá con người. Bởi vậy,
xây dựng nền tảng tinh thần tiến bộ, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, xã hội là đòi hỏi có tính tất yếu khách quan. Nếu thiếu nền
tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, thì không có sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải
nhằm mục tiêu phát triển nền tảng tinh thần xã hội tiến bộ, vì xã
hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện.
Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh đến quan điểm,
xây dựng nền văn hóa Việt Nam là nền tảng tinh thần, sức mạnh
nội sinh của sự phát triển: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”129.

128
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55.
129
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.75-76.
350
2. Một số vấn đề cơ bản của việc xây dựng nền tảng tinh
thần của xã hội Việt Nam hiện nay
Xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần của xã hội Việt
Nam hiện nay, chúng ta cần phải quán triệt một số nguyên tắc
sau đây.
a. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong việc xây
dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay
Truyền thống và hiện đại là những yếu tố luôn có mặt trong
đời sống của xã hội, trên mọi lĩnh vực của quá trình phát triển,
trong đó có lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội. Tuy nhiên,
truyền thống và hiện đại không bao giờ tồn tại một cách tĩnh tại,
tách biệt nhau mà luôn ở trong hình thái vận động, liên hệ tác
động, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau làm thành diện
mạo văn hóa của dân tộc.
Truyền thống, được hiểu như là tập hợp những tư tưởng và
tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của
một cộng đồng người nhất định, được hình thành trong lịch sử
và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Truyền thống văn hóa là hệ thống giá trị văn hóa đã hình
thành trong lịch sử, thường xuyên được các thể hệ bổ sung để
trở thành phẩm chất văn hóa một dân tộc và tự thân đã là một
khái niệm có tính biện chứng, chuyển tải trong đó nội hàm là
hành vi sáng tạo văn hóa của cộng đồng. Truyền thống văn hóa
là kết tinh các yếu tố vật chất, tinh thần của một xã hội trong
những thời kỳ lịch sử nhất định, với những giá trị và đặc trưng
nhất định. Căn cứ vào truyền thống văn hóa, có thể nhận biết
các giá trị, phẩm chất các giá trị của một dân tộc. Truyền thống
văn hóa luôn tạo ra khả năng tự vệ có hiệu quả trước mọi cuộc
xâm lăng văn hóa tư bên ngoài.
Hiện đại, được hiểu là những giá trị “thuộc thời đại ngày
nay” là “cái đang diễn ra”, gắn liền với sự phát triển, tạo ra
những giá trị mới hơn, có phẩm chất tốt hơn, tiến bộ. Đặc tính
phát triển không ngừng của nhu cầu văn hóa, quy định bản chất
của tính hiện đại, nghĩa là trên cơ sở truyền thống văn hóa, phải
thường xuyên bổ sung các yếu tố mới, để truyền thống văn hóa
phù hợp với sự phát triển của thời đại. Do đó, tính hiện đại của
văn hóa xuất hiện từ hai nguồn gốc chủ yếu là: từ hoạt động
sáng tạo của chủ thể văn hóa dân tộc và từ việc tiếp thu qua các
giao lưu văn hóa ngoài dân tộc. Tính hiện đại, không chỉ giúp
truyền thống văn hóa thích nghi với phát triển, mà còn giúp văn
hóa dân tộc có khả năng thỏa mãn tốt nhất những nhu cầu văn
hóa mới nảy sinh trong sinh hoạt xã hội. Tuy nhiên, giá trị văn
hóa hiện đại chỉ thích hợp với văn hóa truyền thống khi đáp ứng
được nhu cầu văn hóa chân chính, được thừa nhận của số đông,
trở thành thói quen trong tư duy và trong hành vi sáng tạo của
chủ thể văn hóa. Mặt khác, không phải bất cứ giá trị văn hóa
nào nảy sinh trong thời đại cũng có thể tiếp thu, mà đây là tiếp
thu có chọn lọc để giá trị tích cực có thể cộng sinh cùng truyền
thống văn hóa. Cho nên, truyền thống văn hóa chỉ có thể phát
triển khi thường xuyên được bổ sung các giá trị tiên tiến của
thời đại, nói cách khác, truyền thống văn hóa và tính hiện đại
không tách rời nhau. Hai giá trị tinh thần đó thống nhất hữu cơ

352
trong một chỉnh thể, mà ở đó, truyền thống văn hóa là nền tảng,
tính hiện đại là sự bổ sung cho nền tảng ấy ngày càng bền vững
và sự thống nhất phải đạt đến mức tính hiện đại gia nhập, trở
thành yếu tố của truyền thống văn hóa. Chính vì thế, để phát
triển văn hóa trong thời đại mới, chúng ta cần phải dựa trên nền
tảng của truyền thống văn hóa và truyền thống ấy luôn phải
được củng cố, bổ sung phù hợp với yêu cầu của sự phát triển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Kế
thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,
vì lợi ích chân chính và phẩm giá của con người, với trình độ
tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”130.
b. Phát huy tinh thần khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp đổi mới
Tổng kết thực tiễn lịch sử hoạt động, lãnh đạo của Đảng và
của quá trình cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến
nay, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục
khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
130

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.76.


động”131. Có thể khẳng định rằng nguồn gốc sâu xa của mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam là do Đảng Cộng sản Việt
Nam được tổ chức, lãnh dựa trên hệ thống lý luận khoa học của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong các
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và trong
công cuộc xây dựng đất nước, đặc biệt là từ thực tiễn phong
phú, sinh động, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được trong công
cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng
định: “Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”132.
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, những biến
đổi trên thế giới nhanh chóng, phức tạp, khó lường; những vấn
đề mới đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng nhiều, càng đòi
hỏi phải có những lời giải đáp thuyết phục, có cơ sở lý luận và
thực tiễn. Trong lúc đó, các thế lực thù địch đang tìm mọi thủ
đoạn xuyên tạc, phủ nhận từng luận điểm trong học thuyết Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đi tới xoá bỏ nền tảng tư
tưởng, lý luận của Đảng và nhân dân ta. Vì vậy, hơn lúc nào

131
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2011, tr.86.
132
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.255.
354
hết, việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu nhằm khẳng định, bảo
vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đang trở
thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong công tác tư tưởng, lý
luận của Đảng ta hiện nay.
Kiên định, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng và nhân dân ta, trước hết Đảng phải trung thành,
nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng đúng
đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vào điều kiện, tình hình cụ thể của cách mạng Việt Nam,
không máy móc, giáo điều. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận và phương pháp luận để
tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật
khách quan và thực tiễn đất nước, trên cơ sở đó đề ra cương
lĩnh, đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân và quy luật phát triển của lịch sử. Trung thành và
kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
phải nắm vững mối quan hệ giữa kiên định và phát triển, tức là
phát triển trên cơ sở kiên định nguyên tắc cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù
hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, với xu thế thời đại.
Thực tiễn luôn biến đổi, phát triển, nên lý luận Mác - Lênin
cũng cần được bổ sung, đổi mới, phát triển nếu chúng ta
không muốn lạc hậu so với cuộc sống. Chủ nghĩa Mác - Lênin
là một hệ thống mở, không thể coi những nhận thức đạt được
cho đến ngày nay là những chân lý tuyệt đối cuối cùng. Không
ngừng phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vừa là yêu cầu của
thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu nội tại của học thuyết Mác -
Lênin. Có phát triển và thông qua phát triển, chủ nghĩa Mác -
Lênin mới tự bảo vệ được mình, mới phát huy được sức mạnh,
sức sống đối với thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta. Vì vậy, bảo vệ, vận dụng và
phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là phát
huy sức mạnh, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin ở nước ta.
Đi đôi với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phải kiên quyết đấu tranh với những quan
điểm, tư tưởng sai trái, thù địch, bảo vệ sự trong sáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Cần tổ chức nghiên cứu, nhận
diện các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ những luận điểm
chung đến những luận điểm cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
c. Khắc phục những hạn chế và tác động tiêu cực của tư
tưởng, tâm lý tiểu nông trong sự nghiệp công nghiệp
hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới hiện nay
Tư tưởng, tâm lý tiểu nông đã ảnh hưởng rất lớn đến quan
niệm, tác phong, tập tính và cách thức làm việc của người lao
động Việt Nam, từ đó ảnh hưởng tiêu cực, kìm hãm quá trình
356
công nghiệp hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Tư tưởng và tâm
lý tiểu nông biểu hiện trên các mặt chủ yếu như sau:
+ Trước hết, đó là những suy nghĩ manh mún, không hệ
thống, nhận thức và lối suy nghĩ thường giản đơn, đại khái,
phiến diện, thiếu tính hệ thống, thiếu lôgic. Quá trình nhận
thức hướng vào quá khứ là chính, do sự trải nghiệm trực tiếp,
chủ quan nên thường lấy cái cổ xưa làm chỗ dựa, lấy ý thức
của cha ông làm chân lý, v.v. Tư duy, nhận thức thường dựa
vào yếu tố trực quan, trực tiếp là chủ yếu, nên sự nhận thức
kém khái quát, không nhìn ra bản chất, quy luật, nguyên nhân,
nguồn gốc bên trong của sự vật, hiện tượng. Đó là lối tư duy
kinh nghiệm, chỉ thấy cái ngắn hạn trước mắt, không nhìn xa
trông rộng, dễ bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, ít sáng tạo mà
nặng về bắt chước làm theo. Lối tư duy này xem nhẹ sự học
căn bản, xem nhẹ tri thức khoa học, coi “trăm hay không bằng
tay quen”, điều này cần tránh trong thời đại kinh tế tri thức.
+ Thứ hai là tính kỷ luật kém. Đây là một tập quán rất xấu,
cản trở sự phát triển của nền kinh tế và gây ấn tượng không tốt
cho lao động Việt Nam trong việc cạnh tranh thu hút đầu tư
nước ngoài.
+ Thứ ba, về đời sống tinh thần, tình cảm và quan hệ xã
hội. Biểu hiện của lối sống tiểu nông là sống nặng về tình mà
nhẹ về lý, vì tình họ có thể “chín bỏ làm mười”, “ dĩ hòa vi
quý”, “trăm cái lý không bằng một tý cái tình”. Cũng do nặng
vì tình, mà trong quan hệ và thái độ ứng xử, người ta có xu
hướng muốn an toàn, trung dung, bình quân chủ nghĩa. Lối
sống này có tâm lý thích sự yên ổn, bình yên, ngại va chạm,
không muốn đổ vỡ, ngại thay đổi, nhường nhịn nhau, không
đấu tranh phản biện để làm sáng tỏ chân lý. Họ thường không
dám mạo hiểm, nhưng do thiếu cơ sở khoa học, thiếu bản lĩnh,
mù quáng mà đôi khi có hành vi ứng xử thái quá, cực đoan, độc
đoán, gia trưởng.
+ Thứ tư, về nhu cầu và thói quen. Biểu hiện của lối sống
tiểu nông là sự an phận thủ thường, sống theo kiểu tiết chế nhu
cầu, thường bằng lòng với bản thân, ít có nhu cầu khám phá,
sáng tạo cái mới. Họ thường có tâm lý tự ti, mặc cảm là mình
“ thấp cổ bé họng” không thể làm được việc lớn; trong làm ăn,
tính toán thường theo tâm lý tư lợi, vun vén cá nhân. Ngoài ra,
phải kể đến thói quen, tâm lý bản vị, cục bộ, địa phương, bè
phái, ít giao lưu mở rộng quan hệ, nên đã hạn chế rất nhiều
đến tầm nhìn cũng như sự phong phú về nhân cách.
Thực tiễn cho thấy, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ xuất phát điểm
khá thấp. Với cơ sở kinh tế là nền nông nghiệp lúa nước, tự cấp
tự túc và cơ sở xã hội trước đó là hệ tư tưởng Nho giáo phong
kiến, đã từng tồn tại ở nước ta hàng ngàn năm nay, nên mặc dù
trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện đại, thì những tàn
dư lối sống tiểu nông vẫn ít nhiều còn tồn tại trong mỗi người
nông dân, công nhân, thậm chí trong các nhà trí thức, những
người lãnh đạo – quản lý xã hội là một thực tế. Để khắc phục tư
tưởng, tâm lý tiểu nông, cần chú trọng đến việc nâng cao chất
358
lượng giáo dục đào tạo, hướng giáo dục đào tạo vào bồi dưỡng,
xây dựng những phẩm chất và năng lực của con người mới, con
người của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách
đảm bảo và khuyến khích người lao động, nhất là lao động trẻ,
như chính sách lương phù hợp, chính sách nhà ở, bảo hiểm xã
hội, chính sách khen thưởng những người có sáng kiến, cải tiến
đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy hội nhập
kinh tế quốc tế. Đồng thời, trên lĩnh vực kinh tế, cần có các cơ
chế, chính sách phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, kết hợp tốt phát triển kết
cấu hạ tầng và đô thị hóa nông thôn; xây dựng môi trường văn
hóa tiến bộ lành mạnh nhằm khắc phục và loại bỏ những mặt
tiêu cực của tâm lý sản xuất nhỏ, những tập quán lạc hậu, các tệ
nạn xã hội và hủ tục mê tín dị đoan trong nhân dân,...
Tóm lại, trong thời kỳ đổi mới, phát triển đất nước hiện nay,
Đảng và Nhà nước, bên cạnh quá trình phát triển kinh tế, tăng
năng suất lao động, rất cần thiết phải ưu tiên xây dựng, phát
triển đời sống tinh thần của xã hội, để Việt Nam tiến nhanh, tiến
mạnh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
được ổn định, bền vững.
CHƯƠNG 8

TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI

I. KHÁI LƯỢC CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI


TRONG LỊCH SỬ

Vấn đề con người và giải phóng con người là một trong


những chủ đề lớn của triết học trong gần 3000 năm xuất hiện và
phát triển. Xuất phát từ thực tại cuộc sống con người đầy khổ đau,
trước một xã hội đầy rẫy sự phi lý, từ Đức Phật, Chúa Giêsu,
C.Mác và cả các nhà triết học hiện sinh nữa,… tất cả đều có một
điểm chung là đi tìm con đường nhằm đưa con người thoát khỏi
thực tế đầy bất công và khổ đau, để đạt đến cuộc sống hạnh phúc,
giải thoát hay giải phóng.
1. Quan điểm về con người trong triết học
phương Đông
Triết học phương Đông thời cổ đại đã coi con người là chủ
thể của đối tượng nghiên cứu triết học, đã tách con người khỏi
động vật và thần linh và cho rằng “con người có khí, có sinh có
tri thì cũng có nghĩa, bởi vậy con người là vật quý nhất trong
thiên hạ”133. Đại diện cho vũ trụ là trời, đại biểu của vạn vật là
đất. Trời, đất, người cùng một thể tạo thành tam tài, thậm chí có

133
Tôn Tử – Vương Chế
360
khi còn nhấn mạnh vai trò và địa vị của con người ngang hàng
với trời “thiên nhân hợp nhất”.
- Về bản chất con người theo quan điểm Đạo giáo, Phật
giáo, Nho giáo...
Đạo giáo: Triết học Đạo giáo gắn liền với tên tuổi của Lão
Tử, toàn bộ tư tưởng của ông được trình bày trong tác phẩm
Đạo đức kinh, trong đó có tư tưởng về con người. Trong tác
phẩm này, những vấn đề về đạo đức nhân sinh được Lão Tử
trình bày trong học thuyết vô vi, theo đó ông đề cao mặt tự
nhiên của con người, phủ nhận mặt xã hội. Theo Lão Tử,
phương pháp sống để đạt đến hạnh phúc là tuân theo lẽ tự
nhiên, tự do tuyệt đối, “không bị ràng buộc bởi bất cứ ý tưởng
dục vọng, đam mê, ham muốn nào, trái với tự nhiên”.
Nho giáo: Triết học Nho giáo chịu ảnh hưởng nhiều của tư
tưởng của Kinh Dịch. Theo tư tưởng này, lúc âm - dương phân
định, thanh khí làm trời, trời là chúa tể của vũ trụ; trọng khí làm
đất; con người và vạn vật được tạo thành từ sự hỗn hợp giữa
thanh khí và trọng khí trong khoảng giữa âm - dương, nhưng
con người bẩm thụ khí trời, nên bản tính con người là thiện.
Con người cũng như vạn vật chịu sự chi phối mệnh trời,
nhưng con người có thể thay đổi số mệnh, do hoạt động tu
dưỡng bản thân trong cuộc sống. Hiểu mệnh trời, sống theo
mệnh trời và tự tu dưỡng mình là đạo làm người, theo quan
điểm của Nho giáo.
Quan điểm về đạo làm người cũng được Nho gia thể hiện
trong thuyết Chính danh. Theo thuyết này, tương ứng với từng
danh, từng cặp danh là một hệ thống những yêu cầu chuẩn mực
mà con người phải thực hiện. Những yêu cầu chung nhất và
cũng là những yêu cầu cơ bản nhất của danh “người” (nhân) đó
là ngũ thường, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; trong đó nhân là
gốc và rễ là phương tiện để thực hiện và thể hiện nhân.
Sống chính danh và giúp người khác sống chính danh, được
coi là người quân tử là mẫu người lý tưởng và hầu hết các nhà
nho đều quan niệm rằng cuộc sống của họ là tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ.
Nhìn chung, quan điểm về con người trong triết học
phương Đông rất phong phú. Về cơ bản, các học thuyết này đã
lấy vấn đề đạo đức làm nền tảng giải quyết các vấn đề trong
cuộc sống; song nội dung các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo
đức, quan điểm về bản tính con người, đạo làm người và hình
mẫu con người lại rất đa dạng, chứa đựng những tư tưởng vừa
giống nhau, lại vừa có sự khác nhau và thậm chí đối lập nhau.
Tất cả những tư tưởng đó đều tồn tại lâu dài trong lịch sử tư
tưởng và giữ vai trò nền tảng, trên cơ sở đó các thế hệ sau tiếp
tục hoàn thiện để thể hiện quan điểm của mình.
Triết học Nho giáo gắn liền với tên tuổi của Khổng Tử, với
triết lý hành động, quan tâm đặc biệt đến các vấn đề chính trị-xã
hội, đạo đức nhân sinh. Vấn đề con người đã được Nho giáo
dành một vị trí quan trọng. Trước hết là về nguồn gốc con
người; về bản tính con người; đạo làm người; mẫu người lý
tưởng; mẫu người quân tử, ...

362
Phật giáo: triết học Phật giáo ra đời trong điều kiện mà tư
tưởng, nội dung của kinh Vêđa và Upanisad đang chi phối
mạnh mẽ đời sống tinh thần của người Ấn Độ. Mặc dù chịu ảnh
hưởng nhiều tư tưởng của các quan niệm truyền thống, song
Phật giáo phủ nhận vai trò của Đấng sáng tạo Brahman, phủ
nhận cái tôi (Atman) của con người.
Triết học phật giáo quan niệm: Thế giới tự tại, do nhiều yếu
tố hợp thành, trong đó có sắc và danh. Sắc, danh tạo nên vũ trụ
và con người, song bản chất thế giới là vô thường, nên sự hội tụ
của sắc, danh cũng chỉ diễn ra trong một thời gian nhất định.
Điều này chứng tỏ không có cái tôi vĩnh hằng.
Trong quá trình tồn tại, theo quan niệm Phật giáo, thì con
người nào cũng có trần tục tính và Phật tính. Trần tục tính là
tham, sân, si; là vô minh, ái dục; Phật tính là tính giác ngộ về
cõi niết bàn, về cõi chân như. Đây là điểm khác biệt của con
người và vạn vật. Với quan niệm trên, Phật giáo thừa nhận bản
tính con người vốn có cái ác và cái thiện song hành.
Vẫn theo quan điểm của triết học Phật giáo, trong quá trình
tồn tại, cuộc đời con người do chính bản thân con người quyết
định qua quá trình tạo nghiệp. Tạo nghiệp thiện là quá trình
từng bước xóa bỏ tham, sân, si; từng bước xóa bỏ vô minh, loại
trừ ái dục để trở thành con người trong suốt về tâm linh, không
bị tác động bởi cám dỗ của cuộc đời và sau khi chết, thoát khỏi
vòng luân hồi, thoát khỏi nghiệp báo. Tùy vào từng mức độ
thấp, cao khác nhau con người đã đạt được trong quá trình tạo
nghiệp, mà họ được suy tôn là La Hán, Bồ tát hay Phật.
Con đường tu hành để trở thành La Hán, Bồ tát hay Phật
cũng được coi là đạo làm người. Đấy là quá trình thực hiện hệ
thống những yêu cầu mà giới, định, tuệ đã quy định.
2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
trước Mác
Trong lịch sử phát triển của triết học phương tây qua các
giai đoạn, có một vấn đề trung tâm mà tất cả các trường phái
triết học khác nhau đều xoay quanh nó, đó chính là vấn đề con
người.
Thời kỳ tiền triết học: do sự ngạc nhiên của con người về thế
giới xung quanh, đã làm nảy sinh triết lý của con người về thế
giới ở buổi đầu lịch sử, thể hiện trong huyền thoại, nhất là trong
các câu chuyện thần thoại và sinh hoạt tín ngưỡng nguyên thủy.
Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, phản ánh sự nhận thức ngây
thơ, có tính hoang tưởng của con người với thế giới xung quanh.
Thần thoại, được coi là hình thức tư duy phổ biến của con
người trong thời kỳ nguyên thủy, cùng với thuyết nhân hình, vật
linh thuyết, vật hoạt luận… Trong thần thoại, các yếu tố tư
tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất,
khách quan và chủ quan, hiện thực và tưởng tượng, tự nhiên và
siêu nhiên còn trộn lẫn, chưa phân đôi.
Thế giới quan trong thần thoại nói chung và tư tưởng về
con người nói riêng, do đó, cũng phát triển qua các giai đoạn.
Đỉnh cao của thần thoại cũng đồng thời là báo hiệu sự cáo
chung tất yếu của nó, sự thay thế nó bằng hình thức thế giới
quan mới, đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới ngày càng sâu
364
sắc hơn của con người. Quá trình này bắt đầu từ thời đại Hôme
(thế kỷ IX – VIII TCN) với việc xóa bỏ dần hố sâu ngăn cách
giữa thần và người, nêu ra các ý tưởng sơ khởi về hỗn mang, về
các hành chất, về nguồn gốc thế giới và cả những thông điệp
của con người về tình bạn, tình yêu, tinh thần ái quốc. Xu
hướng này được tiếp tục ở Hêsiốt. Trong “Thần hệ” của Hêsiốt,
các trạng thái vũ trụ được mô tả thông qua các thế hệ thần linh,
từ Hỗn mang đến thần Dớt – biểu tượng của trật tự, ánh sáng và
sự tổ chức cuộc sống trong vũ trụ. Hiện tượng Prômêtê lấy trộm
lửa của thần Dớt đem đến cho con người hàm chứa ý nghĩa sâu
xa: lửa – biểu tượng của sức mạnh và lý trí – không còn là đặc
quyền của thần linh như trước, mà đã gắn kết với con người.
Con người trở nên tự chủ hơn trong quan hệ với thế giới xung
quanh.
Quan điểm thời kỳ cổ đại:
Triết học Hy Lạp, tiêu biểu của nền triết học phương Tây cổ
đại, lại đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con
người là vốn quý là trung tâm hoạt động của thế giới. Sở dĩ như
vậy, ngoài lý do xuất phát từ nhu cầu con người tự ý thức về
bản thân mình, thì còn do: thứ nhất, trong sự đa dạng của tri
thức triết học cần quy về một đầu mối; thứ hai, vì là một hệ
thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới và
về vị trí của con người trong thế giới, nên trong hệ thống tri
thức ấy, vấn đề con người vừa là điểm xuất phát và lại vừa là
điểm kết thúc của mọi tri thức triết học. Như nhà triết học S.L
Phrancơ từng nói: “Con người là gì và sứ mệnh chân chính của
nó là gì – đó là vấn đề cơ bản là mục đích tối hậu của toàn bộ
tư duy nhân loại"134.
Đầu tiên là các quan điểm duy vật, tự nhiên về con người và
vấn đề con người: Ở Hy Lạp, các nhà duy vật đầu tiên là các nhà
triết học tự nhiên, họ đã xuất phát từ những cái nhìn thiên tài về
giới tự nhiên, đi đến sự hiểu biết mang tính phỏng đoán về vấn
đề con người. Xuất phát từ quan điểm thế giới do một chất hoặc
nhiều chất tạo nên, các nhà triết học thời kỳ này cũng quan niệm
con người được bắt nguồn từ một hay nhiều chất đó, trong thế
giới tự nhiên.
Trong các nhà duy vật thời kỳ Hy Lạp cổ đại, quan điểm
của Em-pê-đốc và của Lơxíp, Đề-mô-cơ-rít được xem là những
tư tưởng tiêu biểu nhất, cho quan điểm duy vật về vấn đề con
người.
Xuất phát từ quan điểm coi nguồn gốc của thế giới là lửa,
không khí, đất và nước. Những yếu tố này hòa hợp với nhau trải
qua bốn thời kỳ đã tạo ra sự sống. Em-pê-đốc-lơ cho rằng tất cả
các sự sống đều có lý tính nhưng con người có lý tính cao nhất,
thông minh nhất, đặc biệt con người có đôi tay để thực hiện lý
tính của mình.
Lơxíp và Đề-mô-cơ-rít quan niệm bản nguyên của thế giới
là nguyên tử. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới là kết quả
của sự kết hợp giữa các loại nguyên tử theo tỷ lệ nhất định. Ông
cũng khẳng định, con người là sản phẩm của sự kết hợp các
nguyên tử mà thành. Con người có linh hồn, linh hồn cũng do
134
Hợp tuyển triết học thế giới, t1. Nxb Khoa học, Mátcơva, 1980, tr.28
366
các nguyên tử tạo nên, đó là những nguyên tử nhẹ, sáng, bóng
và một số yếu tố của linh hồn ấy là nhu cầu tưởng tượng, đã dạy
cho bàn tay con người hoạt động, để đưa con người từ mông
muội đến văn minh.
Trong quan điểm về con người thời kỳ cổ đại, Sô-cơ-rát
được coi là người đặt nền móng là người thực hiện bước ngoặt
trong triết học. Trước hết, ông là người đã đưa triết học từ trên
trời xuống dưới đất, yêu cầu triết học phải trở về với vấn đề
thiết thực trong cuộc sống, vấn đề con người, chứ không phải
chỉ quan tâm đến những vấn đề về bầu trời, về vũ trụ. Thứ hai,
vấn đề con người mà ông quan tâm không phải là vấn đề về vật
lý, vấn đề cấu thành cơ thể người mà là vấn đề tinh thần, tự do
cá nhân, về đạo đức. Nhiều nhà triết học chỉ tập trung phân tích
ông về khía cạnh thế giới quan, liệt ông vào quan điểm duy tâm
về con người mà không thấy được tầm vượt thời đại của ông.
Ông đã sẵn sàng đón nhận cái chết để thể hiện sự kiên định lập
trường tư tưởng của mình trước thế lực cầm quyền đương thời.
Chính Sô-cơ-rát đã là nhà triết học đầu tiên đặt con người, bản
tính con người, mục đích tồn tại của con người vào trung tâm
của những luận giải triết học của mình.
Platôn (427 – 347 TCN) cho rằng ý niệm có trước tất cả là
nguồn gốc của tất cả. Ý niệm tồn tại vĩnh cửu và bất biến. Con
người gồm hai phần độc lập với nhau là thể xác và linh hồn.
Thể xác đươc tạo từ đất, nước, lửa, không khí nên có thể mất đi.
Khi con người chết đi, linh hồn sẽ trở về với thế giới ý niệm của
mình, để đến một lúc nào đấy linh hồn lại nhập vào thể xác mới
và tạo ra một con người mới. Kết cấu ba cấp độ của linh hồn
con người lý trí – ý chí – tình cảm (dục vọng) cho thấy nó là sự
thể hiện của linh hồn vũ trụ. Phẩm chất con người được đánh
giá theo biểu đồ tương tự, qua đó chứng tỏ rằng ai cũng có thể
nhận thức, nhưng năng lực nhận thức không như nhau. Platôn
đưa ra ba thứ hạng người, điển hình là triết gia, các chiến binh,
những người nông dân, thợ thủ công. Nhận thức của con người
chính là sự hồi tưởng lại những cái mà thế giới ý niệm đã có.
Như vậy, vấn đề con người đã sớm trở thành vấn đề trung
tâm của triết học Hy Lạp Cổ đại, trở thành tâm điểm của các
cuộc tranh luận, các luận giải triết học. Mặc dù vậy, con người
ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức, chứ chưa phải là con
người được nhìn nhận một cách tổng thể.
Thời kỳ Trung cổ:
Thời kỳ Trung cổ trong lịch sử nhân loại là thời kỳ hệ tư
tưởng Cơ Đốc giáo giữ vai trò thống trị, trong đời sống tư tưởng
xã hội. Ở phương diện đạo đức, nhân sinh, xã hội, thì các phạm
trù đạo đức Kytô giáo trở thành chuẩn mực cho sự phán xét
hành vi con người và bản chất xã hội.
Nhân học và đạo đức học Trung cổ đã luôn nhấn mạnh và
xác định, con người được sáng tạo “theo hình ảnh Chúa và
giống như Chúa”135. Nhưng đó chỉ là điểm xuất phát, còn trong
quá trình tồn tại con người, thì các phạm trù “nguyên tội tổ
tông”, “chuộc lỗi”, “phục sinh” được nhắc đến thường xuyên
135
Kinh Thánh Kytô giáo, Cựu ước, Sách Sáng thế, I, 1, đoạn 1, 26.
368
như bài học về cuộc sống, về thái độ ứng xử để được “cứu rỗi”.
Bên cạnh đó, quan niệm của triết học cổ đại về con người như
“sinh vật có lý trí” cũng được sử dụng vì mục đích giáo hóa
theo tinh thần Kytô.
Theo quan điểm chung của thời kỳ Trung cổ, con người có
hai mặt thân xác và linh hồn. Thân xác và linh hồn con người
do Thượng đế ban tặng, chiếm vị thế đặc biệt trong thế giới –
con người là khâu trung gian giữa vương quốc của tinh thần và
vương quốc của tự nhiên. Do đó con người một mặt gần với
Thượng đế, mặt khác giống với loài vật. Tuy nhiên, khác với
triết học phương Tây thời kỳ cổ đại, đặt con người vào vị thế
cao nhất của tự nhiên, triết học thời kỳ Trung cổ lại cho rằng
với tính cách là “hình ảnh và tương tự Chúa” đứng trên tự
nhiên, con người dường như đến từ một thế giới khác, hiện diện
ở cõi trần một cách tạm thời. Con người, do đó, sống ở cả hai
thế giới – cõi tạm và cõi vĩnh hằng. Chết là rời cõi tạm, nên
người Trung cổ, với niềm tin sâu sắc vào thế giới bên kia,
không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ về cuộc sống “từ phục sinh
đến phục sinh”. Đối với ý thức Trung cổ, toàn bộ ý nghĩa cuộc
sống của con người chứa đựng trong ba từ – sống, chết và chịu
phán xử.
Thời kỳ Phục hưng và cận đại
Thuật ngữ “Phục hưng” (rinascimento, renaissance) dùng
để chỉ hoạt động văn hóa khá phổ biến, diễn ra tại các nước Tây
Âu trong thời kỳ lịch sử, trước khi nổ ra các cuộc cách mạng tư
sản, nhằm khôi phục, kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa
cổ đại Hy Lạp, La Mã, từng bị lãng quên dưới thời Trung cổ do
sự phong tỏa của ý thức hệ phong kiến và nhà thờ Kytô giáo.
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng, thời kỳ Phục
hưng có thể được xem như là một thời đại “con người trở về với
chính mình”, hay nói cách khác, con người được sáng tạo ra
một lần nữa. Vì lẽ đó, tư tưởng nhân văn đã trở thành nội dung
nổi bật và xuyên suốt của nền văn hóa Phục hưng. Đối với thời
kỳ Phục hưng, tư tưởng nhân văn bao hàm hai nghĩa chính, đó
là: đề cao “nhân tính”, ca ngợi những giá trị đích thực của con
người, lấy hình ảnh “con người tiến lên tự do” làm trung tâm;
hướng đến thiết lập một xã hội tốt đẹp nhất dành cho con người,
hay nói như các nhà nhân văn Phục hưng, thay thế “sự thống trị
của Thượng đế”, bằng “sự thống trị của con người”, xây dựng
một “thiên đường trên mặt đất” bởi con người và cho con
người.
Tiếp nối những thành tựu của thời kỳ Phục hưng, thời kỳ
cận đại được gọi là thời đại của các cuộc cách mạng tư sản “cổ
điển”, còn về mặt khoa học, thì đó là thời đại của những khám
phá và phát minh, xây dựng và sáng tạo là thời đại mà lý trí (lý
tính) có định hướng thực tiễn. Khoa học trong thời kỳ này đã từ
bỏ tính kinh viện, thực hiện nhiệm vụ khai mở trí tuệ cho con
người, giúp con người nâng cao năng lực làm chủ tự nhiên làm
chủ xã hội và hoàn thiện chính bản thân mình. Khẩu hiệu của
thời kỳ cận đại là Lý trí – Tự do – Tính tích cực công dân.
Ở Italia, tư tưởng con người “hãy thờ phụng chính bản thân
mình, hãy chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chính bản thân mình”,
370
thuật ngữ “nhân đạo” ra đời từ thời cổ đại, trở thành phạm trù
trung tâm của triết học khuynh hướng đề cao vai trò của trí tuệ,
tự do, bình đẳng thể hiện rõ nét trong quan điểm của Bruno,
Galileo, Tomat Morơ, Tôma Campanenla, …
Ở Anh, nhà triết học F.Bacon coi thể xác con người là sản
phẩm của tự nhiên là thực thể vật chất, còn tinh thần là thứ vật
chất chỉ tồn tại trong bộ óc con người vận động theo thần kinh
và mạch máu, song chính thứ vật chất ấy đã đem lại cho con
người sức mạnh tiềm tàng là tri thức. Hốp-xơ gọi con người là
“vật thể tự nhiên” – lực lượng đã tạo ra “vật thể nhân tạo” là xã
hội.
Ở Pháp, Rút-xô đã coi bản tính con người là tự do và lịch
sử nhân loại không tuân theo ý muốn của bất kỳ thế lực nào là
kết quả hoạt động của con người mang bản tính tự do ấy. Đi-đơ-
rô coi con người là sản phẩm cao nhất của quá trình tiến hóa lâu
dài của giới tự nhiên; coi trí tuệ và đạo đức là sản phẩm của
hoàn cảnh xã hội và coi sức mạnh của con người nằm trong tri
thức khoa học.
Ở Hà lan, Spinoda cho rằng giới tự nhiên là thực thể duy
nhất, tồn tại theo chính mình, con người là sản phẩm của giới tự
nhiên. Triết học có nhiệm vụ chính là giúp con người có học
thức để nhận thức giới tự nhiên làm theo giới tự nhiên và làm
theo những lý tưởng đạo đức cao đẹp…
Nét nổi bật trong triết học thời Phục hưng và cận đại là sự
phủ nhận quyền lực của Đấng Sáng tạo là sự đề cao các giá trị
và đề cao tư tưởng vì con người.
Thời kỳ hiện đại:
Vấn đề con người trong triết học phương Tây hiện đại thể
hiện rõ nét các quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị,
chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa phê phán, hiện tượng học, chú
giải học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc… Tư tưởng
của những học thuyết này đã tạo nên trào lưu triết học nhân bản
phi lý tính, trong đó chủ nghĩa hiện sinh đóng vai trò trọng yếu.
Cách nhìn của triết học hiện sinh về con người mở ra một
lãnh vực còn rất bao la của đời sống con người mà triết học trước
đây (theo các nhà hiện sinh) đã bỏ quên, chẳng hạn: tự do, nhân
vị, độc lập, tha nhân như người đối diện.... Như thế, triết học
hiện sinh không thể không gắn liền với những sinh hoạt thường
nhật của con người và nhờ đó mà tạo nên cả một trào lưu hiện
sinh có lúc phát triển rầm rộ, ảnh hưởng đến cuộc sống của con
người hiện đại, trong những mức độ nhất định.
Theo trào lưu hiện sinh thì, hoặc bản năng tính dục làm cơ
sở quan trọng nhất cho mọi hành động của con người (quan
điểm phân tâm học), hoặc chỉ có “nhân vị” mới là bản thể chân
thực nhất vì nhờ có quan hệ với “nhân vị” mà phần thế giới còn
lại có ý nghĩa (quan điểm của chủ nghĩa nhân vị); hoặc chỉ có
cá nhân con người mới hiểu được sự tồn tại của mình, nên chỉ
có cá nhân mới “hiện sinh”, con người cần thoát khỏi sự ràng
buộc của xã hội, của những cá nhân khác để thể hiện giá trị hiện
sinh của mình (quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh), …
Nhìn chung, các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân
bản phi lí tính, cũng như những học thuyết khác ở phương Tây
372
hiện đại, đều coi những yếu tố về tinh thần như nhu cầu bản
năng, vô thức, tri thức, tình cảm, … là bản chất của con người.
Con người được tuyệt đối hóa về cá nhân. Mối quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, cá nhân với xã hội
thường được đề cập dước góc độ hoài nghi, bi quan, bế tắc, …
Tất cả những quan điểm ấy đã phản ánh sự khủng hoảng về mặt
giá trị của con người trong xã hội phương Tây hiện đại.

II. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI

1. Khái niệm con người


Trên cơ sở của các thành tựu khoa học và kế thừa những
thành tựu đã đạt được của các nhà triết học trước đó, với quan
điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, CMác đã đưa
ra quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người, cũng như về
bản chất của con người. C.Mác cho rằng bản chất con người là
tổng hòa các quan hệ xã hội trên nền tảng sinh học của nó.
Như vậy, theo C.Mác, con người không phải là cái gì đó
đồng nhất tuyệt đối về chất, mà là sự đồng nhất bao hàm hai
mặt đối lập: con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên là
sự phát triển tiếp tục của tự nhiên; mặt khác, con người là một
thực thể xã hội, được tách ra như một lực lượng đối lập với tự
nhiên.
• Mặt tự nhiên của con người thể hiện ở cấu tạo cơ thể, sự
phát triển của con người tuân theo những quy luật của tự nhiên,
tâm sinh lí, có các nhu cầu sống như: ăn ở, tái sản xuất, nhu cầu
tình cảm …
• Trên nền tảng sinh học ấy, mặt xã hội của con người thể
hiện ở chỗ các quy luật xã hội chi phối, quy định mối quan hệ
giữa con người với con người như: quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, giữa kiến trúc thượng
tầng với cơ sở hạ tầng…
+ Về vai trò của con người là chủ thể hoạt động thực tiễn
Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử, với tư cách là
sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, mà còn là
chủ thể của lịch sử. Lịch sử, hiểu theo nghĩa rộng là những quá
trình đan xen, nối tiếp nhau tất cả những bảo tồn và biến đổi
diễn ra trong quá trình ấy.
Hoạt động của con là người làm ra lịch sử, vì thế để có lịch
sử, trước hết phải có con người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là
sự tồn tại của những cá nhân con người sống, vì vậy, hành động
lịch sử đầu tiên là hành động lao động sản xuất để con người
tách khỏi động vật. Con người tách khỏi động vật như thế nào
thì bước vào lịch sử như vậy.
Con người làm ra lịch sử không phải làm theo ý muốn tùy
tiện của mình, với những điều kiện mình có quyền tự lựa chọn,
mà là trong những điều kiện do quá khứ để lại. Với những điều
kiện ấy, mỗi người, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động
cũ của thế hệ trước trong những hoàn cảnh mới; một mặt tiến
hành các hoạt động mới của mình, để biến đổi hoàn cảnh cũ.
Xét mối quan hệ giữa các thế hệ và hoàn cảnh sống của con
người thì “bản thân xã hội sản xuất ra con người như thế nào
thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế”.
374
Như vậy, trong quá trình phát triển của thế giới nói chung và
của con người nói riêng, thì từ khi con người ra đời cho đến bất
cứ khi nào con người còn tồn tại, con người vẫn luôn vừa là sản
phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
+ Các quan niệm và cấp độ khác nhau trong tiếp cận về
con người: cá nhân, nhân cách
Cá nhân là một con người hoàn chỉnh trong sự thống nhất
giữa những khả năng riêng có của người đó, với chức năng xã
hội do người đó thực hiện. Hay nói cách khác, cá nhân là con
người cụ thể, xác định, có bản sắc riêng để phân biệt người này
với người khác, trong xã hội loài người.
Trong mối quan hệ với giống loài, tức trong mối quan hệ
với xã hội, con người cá nhân biểu hiện ra với các tư cách:
• Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài “người”.
• Cá nhân là phần tử riêng lẻ là phần tử đơn nhất tạo
thành cộng đồng xã hội.
• Cá nhân là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
• Cá nhân chỉ hình thành và phát triển trong xã hội.
Cá nhân là một hiện tượng lịch sử: cá nhân chỉ hình thành
và phát triển trong xã hội, mà xã hội luôn vận động và phát
triển, nên mỗi một giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử có
một kiểu cá nhân đặc thù của nó.
Nhân cách, bản sắc độc đáo của con người thể hiện ở mỗi
cá nhân. Nếu cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài, thì
nhân cách là cách thức biểu hiện (hay phương thức tồn tại) của
mỗi cá nhân.
Nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội –
sinh lí – tâm lí, tạo thành một chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự
ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh mọi hoạt động
của mình. Do đó, nhân cách là bản sắc độc đáo của mỗi cá
nhân.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nhân cách:
• Tiền đề sinh học
• Môi trường xã hội.
• Hạt nhân cơ bản của nhân cách là thế giới quan cá nhân,
bao gồm toàn bộ những quan điểm, lí tưởng, niềm tin, định
hướng chung cho cá nhân.
2. Các phương diện tiếp cận nguồn gốc, bản chất
con người
Sự hình thành, phát triển con người là một quá trình gắn
liền với lịch sử sản xuất vật chất. Lao động là điều kiện chủ yếu
quyết định sự hình thành, phát triển của con người. Sáng tạo là
thuộc tính tối cao của con người.
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học
và mặt xã hội. Các yếu tố và mối quan hệ giữa mặt sinh học và
mặt xã hội; cơ chế di truyền và hoạt động xã hội của con người.
Con người là một thực thể cá nhân – xã hội
Trong khi khẳng định: “Con người là thực thể sinh vật - xã
hội” và là chủ thể của lịch sử, C.Mác đồng thời khẳng định:
376
“Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người tổng hòa các quan hệ xã hội”136. Bản chất con người
hình thành và thể hiện ở con người hiện thực. Đó là những con
người cụ thể, sinh sống trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó
có những mặt khác nhau, tạo nên bản chất của con người, được
bộc lộ ở những mức độ cụ thể. Tất cả các quan hệ xã hội, đều
góp phần hình thành nên bản chất con người. Các quan hệ này
không kết hợp với nhau theo phép cộng mà chúng tổng hòa,
nghĩa là chúng có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng không
tách rời nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn
nhau. Khi các quan hệ thay đổi, thì chắc chắn bản chất con
người sớm muộn gì cũng sẽ thay đổi.
Sự thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con
người nhân loại.
Mỗi con người sống trong một không gian, thời gian nhất
định, luôn tồn tại muôn vàn mối quan hệ, mà tổng hòa các mối
quan hệ ấy tạo thành bản chất con người. Những mối quan hệ
hiện tại, trực tiếp về mặt kinh tế, chính trị tạo nên bản chất giai
cấp, bản chất hàng một (lớp cắt thứ nhất) của con người ấy. Tuy
nhiên, cũng theo quan điểm duy vật biện chứng, con người là
sản phẩm của lịch sử là kết quả kế thừa những giá trị chung
được tạo ra trong lịch sử xã hội, qua các thời đại, các phương
thức sản xuất. Chính những giá trị lịch sử ấy đã tạo nên đặc tính

136
C.Mác và Ăngghen toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t3, tr.11
phổ quát, tính nhân loại trong bản chất con người bất luận con
người ấy ở bất kỳ giai cấp nào (lớp cắt thứ hai).
Việc nhìn nhận con người trong tính thống nhất giữa con
người giai cấp và con người nhân loại là cơ sở quan trọng, cần
thiết cho việc giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp, đấu tranh
giai cấp cũng như vấn đề thực hiện quyền con người trong thực
tiễn cách mạng. Trong thực tiễn cách mạng, ngoài việc quan
tâm và giải quyết các vấn đề về lợi ích giai cấp, liên minh giai
cấp, chính sách đúng đắn, còn phải thỏa mãn những nhu cầu về
quyền con người. Chính sách đúng đắn ấy chính là điều kiện
cần và đủ để thực hiện cải tạo xã hội và xây dựng thành công
cách mạng chủ nghĩa xã hội.
3. Hiện tượng tha hóa của con người và vấn đề
giải phóng con người
- Hiện tượng tha hoá của con người.
Trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, C.Mác phân
tích sự tha hoá loài từ hoạt động nền tảng của con người (hoạt
động lao động) và xác định quá trình khắc phục sự tha hoá ấy
trong sự vận động, nhằm “xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư
hữu” thông qua “hình thức chính trị của sự giải phóng”.
Hiện tượng tha hóa của con người được Mác phân tích qua
hiện tượng lao động bị tha hóa. Lao động là một hoạt động
người, song ở lao động bị tha hóa, nó “là một cái gì đó bên
ngoài” người lao động. Người lao động thực hiện hoạt động lao
động không phải để thỏa mãn nhu cầu của mình, mà chỉ vì sự
sinh tồn của thể xác. Đó là lao động cưỡng bức. Điều này tất
378
yếu dẫn đến việc người lao động chỉ thấy mình tự do khi thực
hiện những chức năng động vật như ăn, uống, sinh con đẻ cái, ..
còn những chức năng con người, thì người lao động cảm thấy
mình chỉ còn là con vật. Cái vốn có của súc vật trở thành cái
chức phận của con người, cái vốn có tính người thì biến thành
cái vốn có của súc vật, “tính bị tha hóa của lao động rõ rệt ở
chỗ là một khi không còn sự cưỡng bức về thể xác hoặc về mặt
khác, thì người ta trốn tránh lao động như trốn tránh bệnh dịch
vậy”137.
Trong lao động, người lao động thực hiện mối quan hệ với
tư liệu sản xuất là thực hiện mối quan hệ với đồ vật. Song, vì
hoàn toàn phụ thuộc vào tư liệu sản xuất, nên không phải con
người sử dụng tư liệu sản xuất, mà là tư liệu sản xuất sử dụng
con người.
Mặt khác, chỉ vì phải có sản phẩm để nhận thù lao, mà
người lao động phải lao động, nên con người đã bị sản phẩm
của chính mình nô dịch; người lao động tạo ra sản phẩm, song
sản phẩm không phải của người lao động mà của người chủ,
nên nó trở thành xa lạ đối với chính người đã tạo ra nó.
Toàn bộ phân tích của C.Mác nhằm chỉ ra rằng chúng ta
không chỉ có thể, mà còn cần phải khôi phục lại nguyên vẹn và
phát triển các giá trị loài ở nấc thang cao hơn. Vế thứ nhất đề
cập đến khả năng con người, vế thứ hai nhấn mạnh mệnh lệnh
lịch sử của lực lượng xã hội bị áp bức và khao khát đấu tranh vì

137
C.Mác và Ăngghen toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 200, t42, tr.133
tự do. Do vậy, trong tác phẩm, xét từ góc độ này là điểm khởi
đầu của tư tưởng nhân văn mácxít.
- Vấn đề giải phóng con người trong Triết học Mác-Lênin.
Đưa con người thoát khỏi thực tại khổ đau, bất công và
hướng đến xã hội công bằng, hạnh phúc được coi là cứu cánh
của tất cả các tư tưởng tiến bộ. Từ tư tưởng giải thoát của triết
học Ấn Độ, đến tư tưởng hướng đến xã hội đại đồng của Trung
Hoa, hay tư tưởng cứu rỗi của triết lý Kytô giáo đều thể hiện
khát vọng ấy. Lịch sử đã ghi nhận những học thuyết, quan điểm
về giải phóng con người, song do điều kiện lịch sử ràng buộc về
vấn đề giai cấp, do cách hiểu về con người, nguồn gốc, bản chất
con người… khác nhau, nên việc xác định giải phóng con người
là đối tượng nào? Giải phóng như thế nào? ... cũng rất khác
nhau.
Trên cơ sở thực tiễn, bằng lý luận duy vật lịch sử, C.Mác đã
đưa ra học thuyết giải phóng con người, khắc phục sự tha hóa
mà Lênin là người phát triển và hiện thực hóa học thuyết ấy. Vì
vậy có thể khẳng định: Thực chất của triết học Mác – Lênin là
học thuyết giải phóng con người, vì sự phát triển toàn diện của
con người.
Cơ sở xã hội của sự tha hóa: Để khắc phục tha hóa (giải
phóng con người) cần vạch ra cơ sở xã hội của nó, mảnh đất
phát sinh các quan hệ “trái chiều”, phi nhân tính, xuyên tạc bản
tính loài. Chính trong quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản, dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đã tước đoạt
tư liệu sản xuất khỏi tay người lao động, thậm chí cái vốn quý
380
giá gắn liền với thân thể họ, sức lao động cũng bị tước đoạt, vì
thế họ bị mất đi tính sáng tạo trong lao động, hoạt động lao
động từ sự tự nguyện đã trở thành sự ép buộc, lao động bị tha
hóa.
Hệ quả của sự tha hóa: Sự tha hóa không chỉ diễn ra đối
với người lao động mà còn diễn ra đối với cả giới chủ.
Đối với người lao động, họ hoàn toàn bị lệ thuộc vào chính
những vật phẩm mà họ tạo ra, họ trở nên thù hằn với lao động
và với chính những sản phẩm mà mình tạo ra.
Đối với giới chủ, chính sự cạnh tranh khốc liệt buộc họ phải
tính toán, chạy theo lợi nhuận, phải toan tính nhỏ nhen… làm
cho họ bị cuốn theo guồng máy khóc liệt không thể thoát ra
được.
Biện pháp khắc phục tha hóa: lao động bị tha hóa, dẫn đến
bản thân con người bị tha hóa, vì thế để khắc phục sự tha hóa,
giải phóng con người cũng phải bắt đầu từ hoạt động này. Theo
Mác, để khắc phục sự tha hóa cần:
Thứ nhất, cần xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư sản, vì chính
sự phát triển của nó đã dẫn đến sự đối lập giữa tư bản và lao
động làm thuê, dẫn đến lao động bị tha hóa. Sự giải phóng lao
động làm thuê khỏi chế độ nô dịch không chỉ là hoạt động
chính trị nhằm giải phóng giai cấp vô sản, giai cấp công nhân
mà còn là hoạt động nhằm giải phóng toàn xã hội.
Thứ hai, sự nghiệp giải phóng xã hội là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân là lực lượng nòng cốt, nắm giữ ngọn cờ lãnh
đạo là giai cấp công nhân. Lực lượng xã hội tiến hành việc giải
phóng xã hội đó, không ai khác hơn là những người đang “tích
luỹ” một cực khác, đối lập với nhà tư bản – “tích luỹ” sự nghèo
đói, bần cùng – giai cấp vô sản.
Thứ ba, sự nghiệp giải phóng con người, gắn liền với sự
nghiệp giải phóng giai cấp và đó là một quá trình lâu dài. Sự
giải phóng con người và xã hội khỏi những quan hệ sản xuất tạo
cơ sở kinh tế co sự bóc lột và bất công, phải dựa trên trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hội mới, xã hội chủ nghĩa
chỉ có thể thắng thế xã hội tư bản và tiền tư bản, bằng năng suất
lao động xã hội.
Như vậy, triết học Mác-Lênin xác định “bất kỳ sự giải
phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó “trả thế giới con người về
với bản thân con người”138 là “sự giải phóng lao động thoát
khỏi lao động bị tha hóa”139. Trong các tác phẩm của mình,
C.Mác đã chỉ rõ những biểu hiện của lao động bị tha hóa,
nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa; trên cơ sở đó, C.Mác cũng xác
định phương thức và lực lượng có thể thực hiện sự nghiệp giải
phóng con người thoát khỏi tha hóa để tiến tới một xã hội, mà
“sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người”140.

138
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà nội 1995, t.1, tr.55
139
Xem C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 200, t42,
tr.16
140
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà nội 1995, t.4, tr.628
382
III. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Quan niệm về con người
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người được hình thành
trực tiếp từ chính điều kiện lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX; là sự tiếp thu, kế thừa có sáng tạo từ truyền
thống văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, mà đỉnh
cao là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Về bản chất con người, khi xem xét con người, Hồ Chí Minh
bao giờ cũng xuất phát từ con người hiện thực, cụ thể, Người
không quan tâm, xem xét đến con người trừu tượng. Tùy theo
từng hoàn cảnh và từng thời điểm lịch sử cụ thể, gắn liền với
từng thời kỳ cách mạng, Hồ Chí Minh xem xét con người dưới
nhiều bình diện, nhiều góc độ khác nhau, trên quan điểm thực
tiễn.
Những năm 20 của thế kỷ XX, trong các bài viết, bài báo
cáo diễn đạt về con người như "người bản xứ", "người bản xứ
bị áp bức", "người da vàng", "người da đen", "người bản xứ bị
bắt làm nô lệ", "người lao động bản xứ", người bị bóc lột,
"người vô sản thuộc địa", "người vô sản chính quốc",... được
Hồ Chí Minh dùng để chỉ tầng lớp quần chúng nhân dân lao
động bị áp bức bóc lột và đối lập, mâu thuẫn về mọi mặt đối với
tầng lớp, giai cấp thống trị bóc lột. Hồ Chí Minh còn dùng các
khái niệm để chỉ tầng lớp bóc lột này như những tên "thực dân",
"thực dân độc ác", "viên chức tàn bạo", "bọn ăn bám đủ các
cỡ", "kẻ diễm phúc có đặc quyền đặc lợi", "đức ngài tư bản chủ
nghĩa",... Đó là nhờ những năm đang bôn ba ở xứ người, Hồ
Chí Minh đã bắt đầu tiếp thu, giác ngộ giai cấp và giác ngộ dân
tộc, kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Điều đó cũng có nghĩa là, để hiểu đúng đắn về tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói
riêng, cần có quan điểm nhìn nhận con người trên cơ sở nhận
thức một cách biện chứng.
Khi về nước lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
Hồ Chí Minh dùng những khái niệm chỉ con người như; "nhân
dân", "dân", "quần chúng", "đồng bào", "cán bộ đảng viên",...
Người nói: “Nhân nghĩa là nhân dân, trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh “chúng ta phải quý
trọng con người, nhất là công nhân, vì công nhân là vốn quý
của xã hội”141.
Vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ
tính giai cấp, tính lịch sử xã hội, tính chiến đấu và khát vọng tự
do, hạnh phúc, hướng tới những giá trị phổ biến của con người
nhằm đạt tới sự đoàn kết dân tộc, quốc tế vì sự nghiệp chung là
giải phóng con người; xoá bỏ áp bức bóc bất công, đòi lại
"những phẩm giá con người" cho các dân tộc thuộc địa. Điều
này thể hiện giá trị minh triết và tính nhân văn trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Tóm lại, "con người" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những
con người hiện thực, những con người lao động, con người cụ
thể, bằng xương bằng thịt. Đó là con người gắn liền với hoạt
động thực tiễn, đấu tranh cách mạng, cải tạo xã hội và lao động
141
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, H Nội, 2000, tr.313.
384
sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Suốt quá trình ấy, vấn đề
giải phóng dân tộc đem lại tự do hạnh phúc cho con người và
xây dựng rèn luyện con người bao giờ cũng là trung tâm, hàng
đầu là mục tiêu mọi hoạt động của Hồ Chí Minh.
2. Về mục tiêu giải phóng con người
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được coi vừa là
mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
vừa là động lực của chính sự nghiệp đó. Trong lý luận về xây
dựng chế độ mới, Hồ Chí Minh đã khẳng định, xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng
thời tạo ra những tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội;
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ dân
chủ nhân dân. Người nói: "Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ
chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái
mới mẻ, tốt tươi", cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi,
nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Về chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh không bao giờ quan niệm hình thái xã hội đó
như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất biến. Bao giờ
Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị,
văn hóa khách quan của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người luôn đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ
bản nhất, với tính khả thi cao nhất.
Về vai trò động lực của con người trong cách mạng Việt
Nam: Hồ Chí Minh xác định nhân tố con người – quần chúng
nhân dân lao động có vai trò quan trọng quyết định đến sự
nghiệp giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng
dân tộc.
Một là, khái niệm con người đồng nghĩa, cùng một bậc với
khái niệm quần chúng, nhân dân trên cở sở lập trường của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Cách mạng phải nhằm mục đích do dân và
vì dân, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân. "Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân; Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”.
Hai là, vai trò con người, thể hiện tập trung ở vai trò quần
chúng nhân dân, những người sáng tạo chân chính ra lịch sử,
thông qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất: lao động sản
xuất, đấu tranh chính trị – xã hội và sáng tạo các giá trị văn hoá
– tinh thần. Người nói: "Vì chúng ta quên một lẽ rất đơn giản
dễ hiểu: tức là vô luận việc gì, đều do người làm ra và từ nhỏ
đến to, từ gần đến xa, đều thế cả"142, hơn nữa, tất cả của cải vật
chất trong xã hội đều do công nhân, nông dân làm ra.

142
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, H Nội, 2000, tr.241.
386
IV. VẤN ĐỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Quan niệm triết học về nhân tố con người


Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng
quy định vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người,
bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với
tổng hòa các đặc trưng về số lượng, phẩm chất, năng lực của
con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội
nhất định.
Nhân tố con người được hiểu là những chỉ tiêu về số lượng,
chất lượng, nói lên khả năng của con người, của cộng đồng
người như những khả năng tiềm tàng cần khai thác, bồi dưỡng
và phát huy. Đó là những tiêu chí về số lượng lao động, tình
hình sức khỏe, trình độ học vấn, tuổi thọ, mức sống… Đó là
những tiêu chí về nhân cách, về chức năng xã hội của con
người. Những tiêu chí này nói lên khả năng sáng tạo của cá
nhân trong hệ thống các quan hệ xã hội, bao gồm năng lực
chuyên môn, kỹ thuật được đào tạo lẫn thái độ lao động,…Các
mặt nội dung này có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Phát huy nhân tố con người không chỉ là việc sử dụng một
cách hiệu quả năng lực thực tiễn của con người, mà còn là sự
thu hút, khơi gợi tính chủ động sáng tạo, khả năng tiềm tàng
của con người trong các hoạt động cải tạo và xây dựng xã hội.
Nó còn bao hàm việc bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực của
con người là sự đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của con người.
2. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay
Sự nghiệp đổi mới đặt con người vào vị trí trung tâm - vừa
là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
Ngay từ thời kỳ đầu của cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã coi cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, chính nhờ sức
mạnh của toàn dân mà chúng ta đã có được sức mạnh tổng hợp
to lớn để vượt qua khó khăn thách thức. Trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay, tôn chỉ con người là mục tiêu và là động lực của
cách mạng vẫn tiếp tục được thực thi. Chiến lược phát triển đất
nước đến năm 2020 khẳng định: “Con người là trung tâm của
phát triển bền vững. Phát huy tối đa nhân tố con người với vai
trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển
bền vững; đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và
tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển
bền vững đất nước”.
Vấn đề chiến lược con người ở Việt Nam hiện nay
Với quan điểm nhất quán và xuyên suốt, coi con người là
chủ thể và là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển
xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đại hội lần thứ XI
của Đảng cộng sản Việt Nam đã tiếp tục khẳng định: “Phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố
quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công
388
nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và
là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững”143.
Ngày 19 tháng 04 năm 2011, Thủ tướng chính phủ cũng đã
ban hành Quyết định số 579 phê duyệt Chiến lược phát triển
nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020. Theo đó, cần tập
trung tạo đột phá trong việc phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi
mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ. Theo đó, giải pháp ưu tiên để phát triển nguồn nhân lực
đến năm 2020 là tăng đầu tư phát triển để hiện đại hóa có
trọng tâm, trọng điểm cho hệ thống đào tạo nhân lực; xây
dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập
trung chỉ để thực hiện các nhiệm vụ, chương trình, dự án đào
tạo nhân lực theo mục tiêu ưu tiên.
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là tài nguyên
đặc biệt của mỗi quốc gia, nguồn lực của sự phát triển kinh tế.
Do đó, phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực là vấn đề
trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi
quốc gia; chăm lo đầy đủ cho con người là yếu tố đảm bảo chắc
chắn cho sự phồn vinh, hưng thịnh của mọi quốc gia trên thế
giới. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở
chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.

143
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Lần thứ
XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tr.130
- Những động lực cơ bản phát huy nhân tố con người trong
đổi mới đất nước hiện nay.
+ Lợi ích với tính cách là một động lực tích cực hóa nhân
tố con người. Vấn đề giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi
ích, thực hiện công bằng xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay là một động lực đặc biệt quan trọng cho sự phát triển.
Bản chất của mối quan hệ giữa người với người là quan hệ
lợi ích, trong đó khái quát lại thành lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần. Động lực thúc đẩy con người tham gia vào các mối
quan hệ xã hội là lợi ích. Vì vậy, để con người chủ động, tích
cực tham gia vào các mối quan hệ xã hội, cụ thể là thu hút được
sự đóng góp của các giai tầng, cộng đồng dân tộc vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chính là giải quyết một cách thỏa
đáng các quyền lợi hợp pháp của họ.
Con người vừa là động lực, vừa là đối tượng phục vụ của
cách mạng. Chăm lo cho hạnh phúc, cho con người là mục tiêu
cao cả là nhiệm vụ trung tâm, trọng đại của Đảng và Nhà nước
ta, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Chính việc thực hiện
tốt điều này đã đưa đến những thành tựu to lớn trong sự nghiệp
cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
+ Dân chủ với tính cách là một động lực tích cực hoá
nhân tố con người. Vấn đề dân chủ hoá mọi mặt đời sống
xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

390
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình
vận động và thực hành dân chủ, là quá trình vận động biến
dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, là quá trình đưa các giá trị, chuẩn
mực, nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc
sống mới.

Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu
của cách mạng xã hội chủ nghĩa vì: xây dựng, phát triển và
hoàn thiện dân chủ nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Trước hết, nó trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền
lực, quyền làm chủ của nhân dân là điều kiện cần thiết, tất
yếu để mỗi công dân được sống trong bầu không khí thực
sự dân chủ. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng
chính là quá trình thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng
Cộng sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại những
biểu hiện của dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa
mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng mang
tính toàn diện và sâu sắc, vì vậy đòi hỏi phải có sự liên
minh giai cấp, đoàn kết dân tộc rộng rãi và bền chặt mới có
thể đưa cách mạng đến thành công. Cơ sở để liên minh ấy
được củng cố và phát triển đó là lợi ích, trong đó quyền lợi
về chính trị, quyền được sống và cống hiến trong một môi
trường tự do, bình đẳng là một trong những quyền lợi cơ
bản. Chính dân chủ sẽ là động lực để thúc đẩy các giai tầng
tham gia vào việc thực thi nhiệm vụ cách mạng, dù đó là
nhiệm vụ khó khăn và gian khổ nhất. Vì vậy, dân chủ được
coi là động lực thúc đẩy cách mạng nổ ra và thành công là
động lực tích cực hoá nhân tố con người.

+ Trí tuệ - động lực bên trong của tính tích cực, tự
giác, sáng tạo con người. Giáo dục – Đào tạo với vấn đề
phát triển trí tuệ và nền tảng thể chất của con người Việt
Nam hiện nay.
Để đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thoát khỏi sự
tụt hậu. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định cần phải
tiến hành công nghiệp hóa, gắn với hiện đại hóa để từ đó
phát triển nền kinh tế theo hướng tri thức. Là một nền kinh
392
tế tri thức thì hàm lượng tri thức trong cơ cấu giá trị của
sản phẩm phải chiếm từ 50% trở lên trên tổng giá trị của
sản phẩm, vì thế đội ngũ trí thức đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, vừa thoát khỏi
chiến tranh như Việt Nam thì đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao được coi
là điểm mấu chốt nhằm tạo bước đột phá trong quá trình
phát triển. Chính vì lẽ đó, chúng ta đang thực hiện một chủ
trương lớn và cấp bách đó là đổi mới toàn diện, căn bản
nền giáo dục nước nhà, với mục đích làm biến đổi về chất
của nền giáo dục, nhất là giáo dục đại học. Một khi giáo
dục đã được đổi mới toàn diện, nguồn nhân lực đáp ứng
được đòi hỏi ngày càng cao của thị trường lao động, của
công cuộc xây dựng đất nước đến lượt nó, các thành tựu về
kinh tế xã hội sẽ là tiền đề để phát triển con người Việt
Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ GD& ĐT (2003): Triết học (dùng cho nghiên cứu sinh và học
viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học), 3 tập. Nxb.
CTQG, Hà Nội.
[2] Bộ GD& ĐT (2010): Giáo trình triết học Mác – Lênin (dùng cho
học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học), Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991): Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự
thật. Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996): Văn kiện Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[9] Hợp tuyển triết học thế giới(1980), Tập 1, Nxb. Khoa học,
Mátcơva.
[10] Lão Tử, Đạo đức kinh (bản dịch của Nghiêm Toản, 1959), Bộ
394
quốc gia giáo dục, Sài Gòn
[11] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 1, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[12] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 7, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[13] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 18, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[14] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 23, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[15] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 33, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[16] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 37, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[17] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 39, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[18] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 41, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[19] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 42, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[20] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 43, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[21] V.I.Lênin (1980): Toàn tập. Tập 45, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[22] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 1, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[23] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 3, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[24] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 4, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[25] Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 6, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[26] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 13, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[27] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 19, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[28] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 20, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[29] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 21, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[30] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 23, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[31] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 28, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[32] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 39, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[33] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004): Toàn tập. Tập 42, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[34] Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập. Tập 1, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[35] Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập. Tập 5, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[36] Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập. Tập 6, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[37] Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập. Tập 8, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[38] Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập. Tập 9, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[39] Hồ Chí Minh (2002): Toàn tập. Tập 10, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[40] Từ điển Triết học, Nxb. Tiến bộ, Máxcơva, 1986.

396

You might also like