You are on page 1of 24

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH


-------------------------------

Báo CÁO ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN


VIỆT NAM

Tên đề tài: Chương 3 – Đảng lãnh đạo cả nước quá độ


lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành công
cuộc đổi mới (1975 – nay).

Nhóm thực hiện: Nhóm 2 – sinh viên lớp MET05


CHƯƠNG 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1975 - nay).

1. Quá trình thống nhất đất nước về mặt Nhà nước của Việt Nam sau
tháng 5-1975:
(Hoàn cảnh? Lý do? Chủ trương của Đảng thống nhất nước nhà về mặt
Nhà nước? Chỉ đạo của Đảng để thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước?
Kết quả? Ý nghĩa?)

Về hoàn cảnh, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta
bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện bước quá độ này, rất nhiều
nhiệm vụ được Đảng đặt ra nhưng nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết nhất là
lãnh đạo thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Cụ thể là thống nhất hai
chính quyền khác nhau ở hai miền là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà ở miền Bắc và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam
Việt Nam ở miền Nam. Tháng 8/1975, Hội nghị lần thứ 24 BCH Trung
ương Đảng khoá III đề ra chủ trương hoàn thành thống nhất đất nước về
mặt nhà nước.
Trước hết, cần phải hiểu “thống nhất” là đưa non sông thu về một
mối, có cùng chung một thể chế chính trị, một đảng lãnh đạo và một
chính phủ duy nhất đại diện cho nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã chủ trương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước bởi;
Thứ nhất, sau năm 1975, miền Nam được giải phóng sau hơn 20 năm
kháng chiến chống Mỹ, nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, thống
nhất về mặt lãnh thổ song hai miền lại tồn tại hai chế độ khác nhau. Điều
này là trái với nguyện vọng của nhân dân. Xuyên suốt lịch sử từ các triều
đại phong kiến cho tới hiện đại, đất nước ta nhiều lần bị chia cắt. Điển
hình, vào thế kỷ X (945-967), đất nước ở trong tình trạng phân chia bởi
cuộc chiến tương tàn giữa các phe phái phong kiến. Đinh Tiên Hoàng nổi
lên dẹp loạn mười hai sứ quân, đem lại thống nhất cho dân tộc vào năm
967 hay thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, Việt Nam lại một lần nữa bị
chia cắt. Sau này, hiệp định Giơ-ne-vơ chia tách Việt Nam thành hai miền
Nam-Bắc tại vĩ tuyến 17, Mỹ dựng lên chính quyền Ngụy nhằm ngăn cản
nước ta thống nhất.Tuy nhiên, khát vọng được thống nhất, được độc lập,
hai miền Nam-Bắc về chung một nhà là ước nguyện lớn lao của nhân
dân, vừa là bước tiến khách quan trong lịch sử giống như câu nói của chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một;
sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi”.
Thứ hai, quyết định của Đảng là phải nhanh chóng thống nhất sau giải
phóng (1976) đã phá tan âm mưu tiếp tục chi phối Việt Nam của Mỹ. Sau
hiệp định Paris (1973), Mỹ đã hi vọng tạo dựng một chính phủ liên hiệp 3
thành phần ở miền Nam Việt Nam: Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
1
hòa miền nam Việt Nam, Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu và các lực lượng
trung lập. Nhưng sau thất bại tại Buôn Ma Thuột, Mỹ nhận ra kế hoạch 3
thành phần sẽ không thực hiện được nữa. Tuy nhiên, quân Mỹ vẫn tiếp
tục đưa ra giải pháp “2 thành phần” bao gồm Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và một thành phần trung lập do Mỹ
chi phối. Ngoài ra, chính phủ Pháp cũng muốn nhân cơ hội này, tiếp tục
kiểm soát về quân sự tại Việt Nam. Chính vì thế, một đòi hỏi cấp thiết ở
thời điểm đó là đất nước ta phải nhanh chóng thống nhất về mặt nhà
nước, tiến đến khẳng định vị thế là một quốc gia độc lập, có một đảng
cầm quyền duy nhất, một chính phủ duy nhất, đập tan âm mưu tiếp tục
thâu tóm quyền lực của đế quốc. Có thể nói, một quốc gia chỉ có thể phát
triển toàn diện khi quốc gia đó thực sự thống nhất hoàn toàn về mặt nhà
nước, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế, phá tan âm mưu chia rẽ của các
thế lực thù địch.
Chủ trương của Đảng thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước;
Với nguyện vọng của nhân dân là thống nhất sớm giữa hai miền, Tháng
8/1975, Hội nghị lần thứ 24 BCH Trung ương Đảng khoá III đề ra chủ
trương: hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, đưa cả nước
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH; miền Bắc phải tiếp tục
đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH và hoàn thiện quan hệ sản xuất
XHCN; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo XHCN và xây dựng
CNXH. Hội nghị đã nhấn mạnh rằng “Thống nhất đất nước vừa là nguyện
vọng thiết tha của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự
phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”. Thống
nhất càng sớm thì càng mau chóng phát huy sức mạnh mới của đất nước,
kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu chia rẽ của các thế lực phản động
trong và ngoài nước. Từ đó, các công việc để đạt được thống nhất đất
nước về mặt nhà nước đã được triển khai tích cực và khẩn trương.
Đảng đã có những chỉ đạo nhất định để thống nhất nước nhà về
mặt nhà nước, Hội nghị Trung ương Đảng (8/1975) đề ra chủ trương
hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, đưa cả nước tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN. Thực hiện chủ trương trên
đây của Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã hợp phiên đặc biệt
(27/10/1975) để bàn chủ trương, biện pháp. Tiếp tục, ngày 5-6/11/1975
tại Sài Gòn đã họp hội nghị liên tịch để hiệp thương giữa các đại biểu của
hai miền Nam-Bắc. Từ 15-21/11/1975, Hội nghị Nghiệp thương chính trị
đoàn đại biểu của nhân dân hai miền Nam – Bắc đã được triệu tập tại
thành phố Sài Gòn. Ngày 3/1/1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ
thị số 228-CT/TW. Cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 25/4/1976 để bầu Quốc
hội chung trong cả nước Việt Nm được tiến hành với hơn 23 triệu cử tri.
Thắng lợi của cuộc bầu cử thể hiện ý chí quyết tâm toàn dân tộc thực hiện
Di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp đó vào khoảng cuối

2
tháng 6 đầu tháng 7/1976 Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp thứ nhất tại
Hà Nội. Quốc hội quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước như:
Đổi tên nước thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (kể từ
ngày 2/7/1976). Vẫn lấy Hà Nội làm thủ đô chung của cả nước, lá cờ đỏ
sao vàng 5 cánh làm Quốc kỳ, bài Tiến quân ca làm Quốc ca, Quốc huy
mang dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đổi tên thành
phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Bầu ra cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Nhà nước, bầu những người lãnh đạo cao nhất của Nhà nước các
tổ chức chính trị - xã hội đều được thống nhất với tên gọi mới. Cử ra một
ban dự thảo hiến pháp mới và công bố vào năm 1980. Đến đây việc thống
nhất đất nước về mặt nhà nước đã hoàn thành. Đây là thắng lợi to lớn
của ta vì từ nay đã thể chế hoá được sự thống nhất đất nước về mặt lãnh
thổ trước đó. Nên hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước có
ý nghĩa vô cùng to lớn, là yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển
cách mạng Việt Nam. Với thắng lợi đạt được đã thể hiện tinh thần yêu
nước, đoàn kết toàn dân tộc, ý chí thống nhất Tổ quốc, quyết tâm xây
dựng một nước Việt Nam độc lập và thống nhất của toàn thể nhân dân ta.
Hơn thế nữa, nó tạo điều kiện cho việc tiếp tục hoàn thành thống nhất các
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với việc thực
hiện các nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước,
tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện
đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, tạo ra khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ đối
ngoại, ngoại thương, giao lưu quốc tế, đồng thời nâng cao hơn nữa uy thế
của nước ta trên trường quốc tế, góp thêm phần tích cực vào việc làm
củng cố tự do, bảo mật an ninh ở khu vực khu vực Đông Nam Á nói riêng
và trên quốc tế nói chung. Ngoài ra còn thể hiện tư duy chính trị nhạy bén
của Đảng trong thựuc hiện bước chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta.
Kết quả của việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà
nước đó là, khôi phục toàn vẹn chủ quyền và lãnh thổ vì quá trình thống
nhất đất nước đã đảm bảo rằng cả Bắc và Nam Việt Nam đều thuộc
quyền kiểm soát của một Chính phủ và một chế độ nhà nước. Điều này đã
chấm dứt tình trạng chia cắt lịch sử và khôi phục toàn vẹn chủ quyền và
lãnh thổ của Việt Nam. Ngoài ra quá trình thống nhất còn tạo nên sức
mạnh toàn diện của đất nước, việc thống nhất đất nước tạo ra sự thống
nhất trong việc thực hiện các chính sách và quyết định quốc gia. Điều này
tạo điều kiện cho sự tập trung sức mạnh và tài nguyên của đất nước vào
việc phát triển và xây dựng đất nước một cách toàn diện. Ngoài ra còn
phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước đồng nghĩa
với việc tạo ra cơ sở cho triển khai các nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên phạm vi cả nước. Các chính sách về cải cách đất nước, phân
phối tài nguyên, và phát triển kinh tế xã hội có thể được áp dụng đồng

3
nhất trên toàn quốc, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và
xóa bỏ sự phân biệt xã hội. Tóm lại, thống nhất đất nước về mặt nhà nước
không chỉ là một bước quan trọng trong lịch sử Việt Nam mà còn là nền
tảng cho sự phát triển và thịnh vượng của đất nước. Nó đã đánh dấu sự
kết thúc của giai đoạn chiến tranh và khởi đầu cho một tương lai tươi
sáng hơn cho Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Mô hình kinh tế ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới là gì? Đặc điểm
và khuyết tật của nó? Làm rõ các bước đổi mới bộ phận/ cục bộ/
từng phần ở Việt Nam (1979 - 1986)? Tác động của chúng?

Thời kì từ năm 1945 đến năm 1954 là thời kỳ nước ta đẩy mạnh
sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế kháng chiến. Đây là thời kì đầu
tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Việt Nam, cũng là giai đoạn khó khăn
nhất vì vừa phải kháng chiến vừa phải chống giặc, vừa phát triển kinh tế
trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn. Thời kì từ năm 1955 đến năm 1975
nước ta tập trung khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, thực
hiện các chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ
nhất. Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
lần thứ nhất để phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1986, Việt Nam hoạt động
theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Nguồn gốc của
loại mô hình này là do cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta đã
toàn thắng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Từ đó, đất nước ta hoàn toàn
thống nhất và bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội.
Loại mô hình này tức là Chính phủ và Nhà nước kiểm soát toàn bộ các
yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử dụng toàn bộ các yếu tố
sản xuất cũng như trong việc điều tiết và phân phối giá sản phẩm. Theo
đó trong mô hình kinh tế này thì yếu tố cung - cầu không được chú trọng
và cũng không được diễn ra theo tự nhiên do có sự can thiệp quá nhiều
phía từ nhà nước vào hoạt động kinh tế. “Thời bao cấp” là tên gọi được
sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế
đều được Nhà nước chi trả, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một
đặc điểm của nền kinh tế các nước thuộc khối Xô Viết thời kỳ đó. Theo
đó thì kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, nhường chỗ cho khối kinh tế tập thể và
kinh tế nhà nước. Trong mô hình kinh tế trên gồm hai thành phần kinh tế
là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kinh tế nhà nước là khu vực kinh
tế Nhà nước sở hữu, tại đây Nhà nước trực tiếp quản lý, điều hành các
hoạt động sản xuất, kinh doanh; dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư
liệu sản xuất; doanh nghiệp Nhà nước được tổ chức hoạt động sản xuất,
kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế; kinh tế nhà nước thực hiện
phân phối theo lao động và theo hiệu quả sản xuất kinh doanh, đây là

4
hình thức phân phối cơ bản và chủ yếu. Kinh tế tập thể bao gồm các tổ
chức hợp tác xã với phương thức hoạt động là lấy lợi ích kinh tế làm
chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và tập thể, coi trọng lợi ích xã
hội của các thành viên. Kinh tế tập thể có mục tiêu chính là xoá đói, giảm
nghèo và phát triển cộng đồng. Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán
bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng thị trường, xây dựng quỹ hỗ
trợ hợp tác xã với kinh tế hợp tác xã là một thành phần quan trọng thuộc
kinh tế tập thể. Có bốn cơ chế chính để quản lí kinh tế Việt Nam lúc
bấy giờ. Thứ nhất, Nhà nước quản lí kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh tài
chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trên xuống dưới. Tất cả
phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn; định giá sản phẩm, tổ
chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết
định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh
nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước; lỗ thì Nhà nước
bù, lãi thì Nhà nước thu. Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp sâu
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhưng lại không
chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của
mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định của cơ quan hành chính
gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Thứ ba, quan hệ hàng hóa
- tiền tệ chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý
kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều hàng
hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất
quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý. Thứ tư, bộ máy
quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động.
Đặc điểm của mô hình kinh tế này ở Việt Nam được thể hiện rõ
nhất trong nền kinh tế kế hoạch. Phần lớn thương nghiệp tư nhân bị loại
bỏ, hàng hóa được phân phối theo tem phiếu do nhà nước điều hành; hạn
chế việc tự do mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển hàng hóa từ địa
phương này sang địa phương khác; Nhà nước độc quyền phân phối hàng
hóa, hạn chế dùng tiền mặt. Từ đó, chế độ hộ khẩu được thiết lập và
lương thực được phân phối theo đầu người, sổ gạo ấn định bắt buộc và
mặt hàng mà gia đình nào đó được phép mua. Mô hình kinh tế đó đã
đem lại cho Nhà nước ta một số ưu điểm đáng kể. Nhà nước có thể
nhanh chóng huy động một lượng lớn tài nguyên, vốn, con người vào các
ngành quan trọng, nhanh chóng huy động các nguồn lực cho các lĩnh vực
thiết yếu, đồng thời cắt giảm tối đa các lĩnh vực không thiết để dành
nguồn lực cho các lĩnh vực quan trọng hơn. Tình trạng phân hóa giàu
nghèo trong nước ta cũng rất ít, người dân sống đoàn kết hơn. Ngoài ra
mô hình đó còn hạn chế được nạn đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn
về giá cả vốn thường xảy ra trong thời chiến; bao cấp các nhu cầu thiết
yếu nên người lính có thể yên tâm ra trận, không phải lo lắng về sinh kế
cho gia đình, vợ con. Mặc dù vậy, mô hình kinh tế thời ấy vẫn còn vài

5
khiếm khuyết bên cạnh những ưu điểm vượt trội trên. Nó làm thủ tiêu
cạnh tranh trong thị trường, kìm hãm khoa học - công nghệ tiên bộ; triệt
tiêu động lực kinh tế của người lao động, không kích thích tính năng
động, phát minh sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Điều này
đã làm đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính lộng quyền,
hách dịch, quan liêu. Vì vậy nền kinh tế của nước ta lúc bấy giờ đã rơi
vào tình trạng ngưng trệ, khủng hoảng cục bộ và giải pháp thiết thực nhất
lúc bấy giờ là tiến hành đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế.
Trong giai đoạn 1979 đến 1986, Việt Nam có 3 bước đổi mới
kinh tế. Bước đột phá đầu tiên cho quá trình đổi mới ở nước ta là hội
nghị trung ương 6 khóa IV (8/1979) với chủ trương “làm cho sản
xuất bung ra”. Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc
phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa;
điều chỉnh những chủ trương, chính sách mở đường cho sản xuất phát
triển như quyết định 25-CP (21/01/1981) về một số chủ trương và biện
pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự
chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh, quyết định 26-CP
(21/01/1981) về mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và
vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của
Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước cũng đặt mục tiêu ổn định lương thực
trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do,
khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hóa; đẩy mạnh
chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức; sửa lại thuế lương thực, giá lương
thực để khuyến khích sản xuất; sửa chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác
xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất định lượng. Từ sau Nghị
quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV
(tháng 9-1979), Đảng và Nhà nước đã đề ra một số chủ trương, quyết
định (25-CP và 26-CP) về sản xuất và phân phối một số ngành và
đem đến một số tác động tích cực cho nước ta. Địa phương và cơ sở đã
áp dụng những cách làm mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất
phát triển, đẩy mạnh thu mua nắm hàng, cải thiện một bước nền tài chính
quốc gia, giải quyết một số vấn đề cấp bách về giá và lương. Tuy nhiên,
các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về vấn đề phân phối
lưu thông còn có những mặt hạn chế rất cơ bản như việc Nhà nước ta
vẫn giải quyết các vấn đề giá, lương và các vấn đề kinh tế khác trên cơ sở
tiếp tục duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu - bao cấp. Đồng thời,
nghị quyết 26-CP đề ra nội dung cải tiến phân phối lưu thông bao gồm ba
bước: ổn định tình hình kinh tế và đời sống, thực hiện cân bằng ngân sách
và tiền mặt, chuẩn bị các điều kiện để cải cách giá và lương. Nhưng thực
tiễn đã chứng minh việc chia ra ba bước như vậy là không đúng: không
thể ổn định được tình hình kinh tế và đời sống, vẫn duy trì bao cấp qua
giá và lương nhưng không cân bằng. Do phạm những khuyết điểm trên,

6
tình hình giá cả tiếp tục diễn biến xấu; giá nhà nước trở nên thấp dưới giá
trị quá nhiều đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng: thu nhập của khu
vực kinh tế quốc doanh chỉ đủ trả lương công nhân, viên chức của bản
thân nó ở mức rất thấp; xuất khẩu càng nhiều thì ngân sách phải bù lỗ
càng lớn; duy trì giá mua và giá bán thấp mang tính chất bao cấp làm cho
Nhà nước khó nắm hàng, nắm tiền. Hội nghị trung ương 8 khóa V
(6/1985) đã đánh dấu bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy kinh tế
với chủ trương: dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
thực hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp;
chuyển mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh sang cơ chế hoạch toàn kinh
doanh xã hội chủ nghĩa. Thực chất, các chủ trương của Hội nghị Trung
ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật sản xuất hàng
hoá trong nền kinh tế quốc dân. Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (tháng
8/1986) là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế với nội dung mang
tính đột phá. Trong cơ cấu sản xuất sẽ điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ
cấu đầu tư, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc. Trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần gồm
“kinh tế quốc doanh”; “kinh tế tập thể”; kinh tế gia đình”; “tư bản tư
doanh”; công tư hợp danh”; “tiểu sản xuất hàng hoá”; “tư bản tư
nhân”;“kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc” là một đặc trưng của thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong cơ chế quản lý kinh tế cần bố trí lại
cơ cấu kinh tế đi đôi với cơ chế quản lý kinh tế. Tóm lại, những đổi mới
kinh tế là những nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động – quan
tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,...
Những tư duy đổi mới về kinh tế tuy mới mang tính chất từng mặt, từng
bộ phận, dù chưa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị
quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt.

3. Khái quát về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ
quốc. Tìm hiểu về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc
năm 1979.
Khái quát về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ
quốc, còn được biết đến là chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia,
là cuộc xung đột quân sự giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Campuchia Dân chủ. Xuất phát từ các cuộc tấn công của quân Khmer Đỏ,
đặc biệt là thảm sát Ba Chúc, cuộc chiến đã đẩy Việt Nam tiến hành cuộc
xâm lược vào Campuchia vào ngày 25/12/1978, chấm dứt chính phủ Đảng
Cộng sản Campuchia. Mặc dù đánh bại Khmer Đỏ vào năm 1979, nhưng tàn
quân vẫn đe dọa Campuchia, buộc Việt Nam phải giữ quân ở đây trong 10
năm tiếp theo. Bắt đầu bởi việc xâm lược Campuchia (1978) thì đối mặt

7
với tình hình căng thẳng, Việt Nam quyết định thực hiện chiến dịch quân sự
để lật đổ chính quyền Khmer Đỏ và khôi phục ổn định tại Campuchia.
Chiến dịch bắt đầu vào tháng 12 năm 1978 và dẫn đến sự lật đổ chính quyền
Khmer Đỏ trong vài tuần. Tiếp theo sau đó là chiến tranh biên giới (1979-
1989), sau khi chiếm đóng Campuchia, Việt Nam đối mặt với sự phản đối
quốc tế và chống đối từ nhiều quốc gia, bao gồm Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Cuộc chiến tranh kéo dài từ 1979 đến 1989, với nhiều xung đột quân sự
giữa quân đội Việt Nam và lực lượng Khmer Đỏ và đối tác của chúng.
Bên ta đã rút quân và giải quyết hòa bình (1989) thì do áp lực quốc tế và
vấn đề kinh tế nội địa, Việt Nam quyết định rút quân khỏi Campuchia. Cuộc
xung đột chính thức kết thúc vào tháng 9 năm 1989 khi Việt Nam rút quân.
Cuối cùng là hậu quả, Campuchia chấp nhận mô hình chính trị đa đảng và
mở cửa cho sự hòa bình và phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh để
lại nhiều hậu quả nặng nề, bao gồm thiệt hại về con người, hạ tầng và môi
trường. Về bối cảnh, sau chiến thắng của Bắc Việt Nam và sự rút lui của
quân Mỹ, chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, và Việt Nam thống
nhất thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình ở
khu vực nhanh chóng phức tạp khi chế độ Khmer Đỏ của Pol Pot lên nắm
quyền ở Campuchia vào tháng 4 năm 1975. Chính quyền này thiết lập một
chế độ cộng sản tuyệt đối, thực hiện những hành động diệt chủ nghĩa và tội
ác nhân quyền lớn. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia trở nên căng
thẳng do chính sách và hành động của Khmer Đỏ, bao gồm việc xâm phạm
biên giới và chiến dịch quân sự chống lại Việt Nam. Trung Quốc hỗ trợ
Khmer Đỏ và thậm chí thực hiện cuộc tấn công biên giới năm 1979, trong
khi Liên Xô hỗ trợ Việt Nam trong cuộc xung đột này. Việt Nam bắt đầu
chiến tranh biên giới vào tháng 12 năm 1978 với mục tiêu lật đổ chính
quyền Khmer Đỏ và bảo vệ an ninh biên giới. Hành động này gặp sự phản
đối quốc tế, đặc biệt là từ Trung Quốc và Mỹ, dẫn đến áp đặt lệnh trừng
phạt và cô lập kinh tế đối với Việt Nam. Áp lực quốc tế, sự kinh tế suy thoái
và biến đổi chính trị quốc tế dẫn đến quyết định rút quân của Việt Nam khỏi
Campuchia vào tháng 9 năm 1989. Chiến tranh để lại những hậu quả nặng
nề về mặt con người, kinh tế và xã hội, đặt ra thách thức lớn cho cả hai quốc
gia trong việc khôi phục và phát triển sau khi chiến tranh kết thúc. Về lực
lượng Việt Nam gồm có quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) chủ
yếu chịu trách nhiệm thực hiện các chiến dịch quân sự trong Chiến tranh
biên giới. Đây là lực lượng quân đội chính thức của Việt Nam, được trang bị
vũ khí hiện đại và có sự hỗ trợ từ các đồng minh, đặc biệt là từ Liên Xô.
Bên cạnh quân đội chính thức, Việt Nam cũng có sự tham gia của quân dân
tự vệ và militsiya (lực lượng dân sự có nhiệm vụ bảo vệ và duy trì an ninh
nội địa). Còn nói về lực lượng Campuchia gồm có Khmer Đỏ là lực
lượng chính của chính quyền Dân chủ Kampuchea, do Pol Pot lãnh đạo,
thực hiện nhiều chiến dịch quân sự chống lại Việt Nam. Campuchia cũng có

8
sự tham gia của quân dân tự vệ, là những lực lượng dân sự được tập trung
để tham gia vào cuộc chiến tranh và bảo vệ lãnh thổ. Trung Quốc đã hỗ trợ
chính quyền Khmer Đỏ với vũ khí, quân đội và hỗ trợ kỹ thuật quân sự. Sau
khi đạt được mục tiêu chính là lật đổ chính quyền Khmer Đỏ, Việt Nam đã
rút quân khỏi Campuchia vào tháng 9 năm 1989. Sau khi Việt Nam rút
quân, Campuchia trải qua một quá trình chính trị và hòa bình, và quốc gia
này đã chấp nhận mô hình chính trị đa đảng và mở cửa đối ngoại.Đồng thời
hành động của Việt Nam tại Campuchia đã đối mặt với sự phản đối của
cộng đồng quốc tế, dẫn đến áp đặt lệnh trừng phạt và cô lập quốc tế đối với
Việt Nam. Cuộc chiến tranh đã gây ra những tác động lớn đối với cả hai
quốc gia, và lực lượng tham gia đã trải qua những biến động lớn trong quá
trình xung đột và sau đó. Nói về nguyên nhân thì chủ yếu do xung đột lịch
sử:trong quá khứ, có nhiều mối quan hệ xung đột lịch sử giữa Việt Nam và
Campuchia, đặc biệt là trong thời kỳ thực dân Pháp. Sau khi Khmer Đỏ
chiếm quyền vào năm 1975, họ thực hiện chính sách đối ngoại đối với Việt
Nam, bao gồm việc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam. Việc bảo vệ an ninh quốc
gia: Việc Campuchia xâm phạm lãnh thổ và thực hiện hành động quân sự tại
biên giới là một thách thức trực tiếp đối với an ninh quốc gia Việt Nam. Về
diễn biến chiến tranh thì sau khi chiếm quyền, chính quyền Khmer Đỏ
thực hiện nhiều hành động xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cả việc
tấn công và giết hại dân thường. Trong bối cảnh tình hình an ninh bị đe dọa,
Việt Nam quyết định tự vệ và bắt đầu chiến dịch quân sự để đẩy lùi quân
Khmer Đỏ và bảo vệ biên giới. Trong quá trình chiến tranh, Việt Nam nhận
được sự hỗ trợ từ Liên Xô và các nước đồng minh khác, trong khi
Campuchia được hỗ trợ từ Trung Quốc và các quốc gia tây phương khác.
Cuộc chiến tranh kéo dài suốt hơn một thập kỷ, gây tổn thất lớn về người và
của cải cho cả hai bên. Sau sự kiện lớn như sự thay đổi chính trị tại Liên Xô
và sự suy yếu của Campuchia, cuộc chiến tranh kết thúc vào năm 1989, khi
Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và hai quốc gia ký kết thỏa thuận hòa
bình. Đồng thời cả hai quốc gia đều phải đối mặt với hậu quả nặng nề của
chiến tranh, bao gồm thiệt hại về hạ tầng, kinh tế và xã hội, cũng như tình
trạng mất mát và đau thương tinh thần cho dân cư. Tóm lại, Cuộc chiến
tranh biên giới giữa Việt Nam và Campuchia là một phần quan trọng của
lịch sử khu vực, ảnh hưởng đến cả hai quốc gia và tạo ra những thách thức
lớn trong quá trình hồi phục và phát triển sau chiến tranh.
Đầu tiên là nói về về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ
quốc năm 1979 thì mâu thuẫn giữa Việt Nam và Trung Quốc có nguồn gốc
từ quá khứ lịch sử, bao gồm xung đột về lãnh thổ và quan hệ chính trị. Bên
cạnh là hậu quả của chiến tranh Việt Nam: sau khi Việt Nam chiến thắng
chiến tranh Việt Nam và thống nhất đất nước vào năm 1975, quan hệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc đã trở nên căng thẳng, đặc biệt là sau khi Việt
Nam ký Hiệp định Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô. Về bối cảnh lịch sử

9
thì Việt Nam vừa mới chiến thắng chiến tranh Việt Nam vào năm 1975, đưa
cả nước trở thành một quốc gia thống nhất dưới chế độ cộng sản. Sự kiện
này đã tạo nên một thách thức mới đối với quan hệ giữa Việt Nam và Trung
Quốc.Hỗ trợ Liên Xô: Việt Nam đã ký Hiệp định Hữu nghị và Hợp tác với
Liên Xô, điều này khiến Trung Quốc lo ngại về sự gia tăng ảnh hưởng của
Liên Xô trong khu vực. Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ xung đột
biên giới: Trung Quốc không hài lòng với sự thống nhất Việt Nam và có
mâu thuẫn lịch sử với Việt Nam liên quan đến lãnh thổ.Sự cô lập của Trung
Quốc: Trung Quốc đang trải qua sự cô lập quốc tế sau Chiến tranh Triều
Tiên và Cuộc chiến tranh Việt Nam, và họ muốn tái lập địa vị quốc tế của
mình. Sự xuất hiện của lãnh đạo Việt Nam tới Liên Xô để ký kết các hiệp
định quân sự và kinh tế đã khiến Trung Quốc nguy cơ mất ảnh hưởng trong
khu vực. Các tranh chấp về biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt
là vùng biên giới núi non, làm tăng thêm căng thẳng và khả năng xảy ra
xung đột quân sự. Trung Quốc đang trải qua khủng hoảng kinh tế và nhiều
vấn đề nội bộ, và một cuộc xung đột ngoại vi có thể giúp chính trị nội bộ của
họ. Đi sâu vào diễn biến chiến tranh thì Cuộc chiến tranh bắt đầu vào ngày
17 tháng 2 năm 1979 khi quân đội Trung Quốc xâm nhập lãnh thổ Việt
Nam. Đối đầu quân sự: Cuộc chiến diễn ra chủ yếu ở khu vực biên giới giữa
Việt Nam và Trung Quốc, với các trận đánh chủ yếu ở các tỉnh như Lạng
Sơn, Cao Bằng. Để chống lại quân Trung Quốc, quân đội Việt Nam đã có sự
đối đầu mạnh mẽ, và nhân dân Việt Nam cũng đã tham gia vào cuộc chiến
tranh, thể hiện sự đoàn kết và nhất trí chống lại sự xâm lược từ phía Trung
Quốc. Và cuối cùng là kết cục và hậu quả là Trung Quốc phải rút quân về
sau một thời gian ngắn, Trung Quốc nhận thức được sức mạnh của quân đội
và nhân dân Việt Nam, đồng ý kết thúc cuộc chiến và rút quân trở lại lãnh
thổ của mình. Cả hai bên đều gặp thương vong nặng nề, với số lượng binh sĩ
và dân thường thiệt mạng và bị thương. Cuộc chiến tranh này đã tạo ra ảnh
hưởng lớn đối với quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thập kỷ tiếp
theo. Mặc dù căng thẳng giảm đi sau này, nhưng tác động của sự kiện này
vẫn còn hiện hữu trong quan hệ hai bên. Theo thời gian, quan hệ giữa Việt
Nam và Trung Quốc đã trở nên ôn hòa hơn và có những bước tiến trong việc
giải quyết mâu thuẫn. Cả hai quốc gia đều rút ra những bài học quan trọng từ
cuộc chiến này và nhìn nhận tầm quan trọng của việc duy trì ổn định trong
khu vực.

4. Đại hội VI (12-1986)


(Tại sao Việt Nam phải tiến hành đổi mới? Nội dung cơ bản của Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng).
Lập bảng so sánh giữa 2 thời kỳ: trước đổi mới và Đổi mới trên các
nội dung cơ bản sau:

10
(Về cơ chế quản lý kinh tế; về cải tạo XHCN; về giá cả; về sản xuất
hàng hoá; quan niệm về nền kinh tế thị trường; về công nghiệp hoá
(sau này là công nghiệp hoá - hiện đại hoá), hội nhập quốc tế…)

Việt Nam phải tiến hành đổi mới vì mùa xuân 1975, giang san thu
về một dải, nhưng Việt Nam phải đối diện với những khó khăn do chiến
tranh để lại. Hạ tầng bị tàn phá, nền kinh tế lạc hậu, cơ chế tập trung, kế
hoạch hóa phù hợp huy động nguồn lực cho chiến tranh nay lại trở thành
kìm hãm của sự phát triển. Trong khi đó, chúng ta phải căng mình cho
cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi
họa diệt chủng, hồi sinh đất nước trong tình thế bị các nước bao vây cấm
vận. Liên Xô và Đông Âu bắt đầu cải cách, mở cửa nên cắt giảm viện trợ.
Đời sống nhân dân hết sức khó khăn, tiềm lực kinh tế vô cùng nhỏ bé.
Trước tình hình đó, Đảng đã nhận định, đã đến lúc phải đổi mới tư duy về
lý luận cũng như tư duy kinh tế.
Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ
ngày 15 đến 18-12-1986. Dự Đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho gần
1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu
quốc tế: Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Uỷ viên Bộ Chính trị đọc diễn văn
khai mạc Đại hội; Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đọc Báo cáo
Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Đồng chí Võ Văn Kiệt -
Uỷ viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo về phương hướng, mục tiêu chủ yếu
phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm (1986-1990). Đại hội khẳng định
quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách
mạng và khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một đoạn đường
đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng
cũng có nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu
do Đại hội thứ V đề ra, nhân dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những
thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành
những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa
vụ quốc tế. Đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - xã hội đang có
những khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư
thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong
nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm
được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn… Nhìn
chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần
thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời
sống nhân dân.
Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong
những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh

11
tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến nhiều sai
lầm “trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn
cho rằng: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo
dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận
thức lý luận. Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng.
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo
quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm
nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về
những sai lầm khuyết điểm, đổi mới tự lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo
nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Trước hết là đổi
mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông
nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp
nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện). Thực hiện ba chương
trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình
hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu. Xây dựng và củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế. Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ
nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của
nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3
mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế
độ phân phối xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm
vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và
cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã
hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và
giải quyết việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu
giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Trên lĩnh
vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông

12
Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế
giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và
các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Xây dựng
và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã được Đại
hội lần thứ VI xác định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”.
Phương thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu:
Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đó là nền nếp hàng ngày của xã
hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của
mình. Báo cáo Chính trị chỉ rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy Nhà
nước và nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng. Thể chế hoá đường lối, chủ
trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể. Xây dựng chiến lược
kinh tế- xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội. Quản lý hành chính – xã hội và hành chính kinh tế,
điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch,
giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc
phòng, an ninh. Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, phát
hiện những mất cân đối và đề ra những biện pháp để khắc phục. Thực
hiện quy chế làm việc khoa học có hiệu suất cao. Xây dựng bộ máy gọn
nhẹ, có chất lượng cao, với đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, có
năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Nâng cao
năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh:
Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo
và công tác. Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ
chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan
trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng Đảng. Để lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VI gồm 124 uỷ viên chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ nhất bầu Bộ Chính trị,
Ban Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn
Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.

BẢNG SO SÁNH HAI THỜI KÌ: TRƯỚC ĐỔI MỚI VÀ ĐỔI MỚI
Nội dung Trước đổi mới Đổi mới
Cơ chế kế hoạch hóa tập Cơ chế thị trường định
13
trung, bao cấp hướng XHCN
Nhà nước nắm quyền quản Nhà nước giữ vai trò chủ
lý toàn bộ nền kinh tế đạo, kinh tế tư nhân là
Cơ chế quản lý kinh thành phần kinh tế quan
tế trọng trong nền kinh tế
Các doanh nghiệp nhà Các thành phần kinh tế
nước là chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật
chủ yếu
Tăng cường vai trò của Phát triển kinh tế hàng
kinh tế nhà nước, hạn hóa, đa dạng hóa thành
chế kinh tế tư nhân phần kinh tế, thúc đẩy
Cải tạo XHCN cạnh tranh
Thực hiện cải tạo xã hội Thực hiện cải tạo xã hội
chủ nghĩa trong nông chủ nghĩa trong tất cả các
nghiệp, công nghiệp, lĩnh vực của đời sống xã
thương mại, dịch vụ hội
Giá cả do Nhà nước định Giá cả do thị trường quyết
Giá cả định
Nhà nước quản lý giá Nhà nước quản lý giá cả
cả thông qua các biện thông qua các biện pháp
pháp hành chính kinh tế
Sản xuất hàng hóa chủ yếu Sản xuất hàng hóa chủ yếu
phục vụ nhu cầu xã hội phục vụ nhu cầu tiêu dùng
Sản xuất hàng hóa và sản xuất
Sản xuất hàng hóa mang Sản xuất hàng hóa mang
tính tự cung tự cấp, manh tính chuyên môn hóa, hợp
mún tác hóa
Nền kinh tế thị trường là Nền kinh tế thị trường là
Quan niệm về nền thể chế kinh tế đối lập với một hình thức tổ chức
kinh tế thị chủ nghĩa xã hội kinh tế tiến bộ, có thể vận
trường dụng trong chủ nghĩa xã
hội
Công nghiệp hóa theo mô Công nghiệp hóa theo
Công nghiệp hóa hình Xô Viết hướng hiện đại, hội nhập
(sau này là công quốc tế
nghiệp hóa - Tập trung vào phát triển Phát triển cân đối giữa
hiện đại hóa ) công nghiệp nặng công nghiệp nặng và
công nghiệp nhẹ, dịch vụ
Chưa tích cực hội nhập Tích cực hội nhập quốc
quốc tế tế, mở rộng hợp tác kinh
Hội nhập quốc tế tế, thương mại, văn hóa,
giáo dục… với các nước
trên thế giới
14
Có thể thấy, trước đổi mới, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Nhà nước nắm toàn bộ quyền
quản lý kinh tế, từ sản xuất, lưu thông, phân phối đến giá cả. Các thành
phần kinh tế khác (tư nhân, hợp tác xã,...) bị hạn chế phát triển. Từ Đại
hội VI (1986) đến nay, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế thị trường
được xác định là cơ chế vận hành nền kinh tế. Các thành phần kinh tế
được bình đẳng trước pháp luật, được tự chủ trong sản xuất, kinh
doanh, lưu thông, phân phối. Đổi mới kinh tế đã mang lại những thành
tựu to lớn cho đất nước. Nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển
vượt bậc, tăng trưởng liên tục với tốc độ cao. Thu nhập bình quân đầu
người tăng lên đáng kể. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, đổi
mới kinh tế cũng còn những hạn chế. Đó là: Cơ chế thị trường chưa
được hoàn thiện, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế; Các thành phần kinh
tế chưa phát triển đồng đều, một số thành phần vẫn còn gặp khó khăn;
Môi trường kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch; Sự cạnh
tranh chưa lành mạnh, dẫn đến tình trạng gian lận thương mại, hàng
giả, hàng nhái. Để tiếp tục phát triển kinh tế, Việt Nam cần tiếp tục
hoàn thiện cơ chế thị trường, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho
các thành phần kinh tế phát triển. Đồng thời, cần tăng cường kỷ luật,
kỷ cương trong kinh doanh, đấu tranh chống gian lận thương mại, hàng
giả, hàng nhái.

5.Nêu chủ đề và các điểm nổi bật của Đại hội VI (12-1986) đến Đại
hội XIII (1-2021)
Tìm hiểu về Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh bổ sung 2011.
Đánh giá thành tựu trên các mặt:
(kinh tế - chính trị; văn hoá – xã hội; giáo dục – đào tạo; quốc phòng –
an ninh; quan hệ đối ngoại – hội nhập quốc tế…)

Chủ đề của đại hội VI (12/1986) có sự khác biệt so với các kì đại
hội trước đó là Đảng phải đổi mới tư duy, thay đổi nội dung và phương
thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới. (Lý do:Thắng lợi vĩ đại của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một mặt, tạo ra những thuận lợi
vô cùng to lớn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; mặt khác, cũng
tạo ra tâm lý chủ quan duy ý chí cản trở sự phát triển nhận thức của Đảng.
Trên nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề, tình trạng Đảng bao biện làm thay khá
nghiêm trọng, dẫn đến hệ thống chính trị bị xơ cứng, kém hiệu quả. Hoạt

15
động của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng nhiều khi chỉ mang tính
hình thức. Tính độc lập, chủ động của Nhà nước bị vi phạm, hiệu lực
quản lý của bộ máy nhà nước bị hạn chế. Kinh tế - xã hội thiếu năng
động. Quyền làm chủ của Nhân dân không được coi trọng, phát huy một
cách thực chất. Chiến tranh kết thúc, sự viện trợ của các nước anh em
giảm dần và chuyển sang hợp tác, trao đổi theo giá thị trường quốc tế.
Các thế lực phản động quốc tế câu kết với nhau chống phá quyết liệt cách
mạng nước ta.Do những sai lầm trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã
hội và quản lý kinh tế, tình hình kinh tế-xã hội đất nước ngày càng khó
khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, lạm phát, hiệu quả đầu tư hạn chế,
đời sống Nhân dân không được cải thiện, thậm chí nhiều mặt còn sa sút
hơn... Đất nước dần lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng.Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa
IV về phương hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa
phương, tháo gỡ các rào cản, làm cho sản xuất “bung ra”; Chỉ thị số 100-
CT/TW, ngày 31-1-1981 của Ban Bí thư khóa V về cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động
trong hợp tác xã nông nghiệp... đã tạo ra những bước đột phá nhất định,
song vẫn không làm thay đổi được đáng kể tình hình kinh tế - xã hội đất
nước. Các điểm nổi bật:Trên cơ sở thực tiễn cách mạng của 10 năm vừa
qua, Đại hội nêu lên bốn bài học kinh nghiệm có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Phải luôn luôn xuất phát từ thực
tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.Phải biết kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.Phải xây
dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính sách
đổi mới: Đại hội khẳng định: “Quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của
Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học” Đại hội đánh giá cao quá
trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời
gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội.Về nhiệm vụ chiến lược cách mạng,
Đại hội khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một
lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Đại hội xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình
kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”.
Ban Chấp hành Trung ương phải chỉ đạo tiến hành trong toàn Đảng và

16
toàn xã hội “cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của
các tổ chức đảng; làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ
máy nhà nước; đẩy lùi và xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh
các quan hệ xã hội và thực hiện công bằng xã hội”

Chủ đề của đại hội VIII (1/2021) có sự khác biệt so với các kì đại
hội trước đó là Với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ
cương - Sáng tạo - Phát triển” đại hội XIII đã được thực hiện dựa trên chủ
đề: "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp
tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến
giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa". Các điểm nổi bật: Mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng
lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa;
khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý
chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại;
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ 21 nước ta trở thành một
nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Trên nguyên tắc bảo
đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa và bổ sung phù hợp với những
thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; đồng thời nghiên
cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực phát triển
chung của thế giới, Đảng xác định các mục tiêu cụ thể. Đến năm 2025:
Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua
mức thu nhập trung bình thấp.Đến năm 2030: Là nước đang phát triển có
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.Đến năm 2045: Trở thành
nước phát triển, thu nhập cao. Nhiệm vụ trọng tâm: Tiếp tục đẩy mạnh
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đổi mới mạnh mẽ và
có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới
sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Khơi dậy tinh thần và ý chí,
quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh,
trường tồn; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ
chủ quyền. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội
chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp chế, đảm bảo
kỷ cương xã hội. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài
17
nguyên; tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển
khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.

Về Cương lĩnh 1991, được thực hiện thông qua chủ đề sau: quan
điểm, đường lối chiến lược về Đảng và đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Các
điểm nổi bật: Chính trị: Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa những thuộc tính
bản chất giai cấp công nhân; đồng thời, xác định nội dung, biện pháp giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Kinh tế:
Đảng ta xác định chủ trương, biện pháp từng bước đổi mới hệ thống
chính trị, đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH,
hội nhập kinh tế thế giới, có nhiều ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân
dân đề nghị cần thể hiện đầy đủ hơn, phản ánh sát thực hơn bản chất của
Đảng Cộng sản Việt Nam – một Đảng ra đời từ phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Quốc phòng an ninh – Đối ngoại: Cương lĩnh
1991 xác định “nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh là bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN,
sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân
dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc,
phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Cương lĩnh
91 đã khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ quá độ đi
lên CNXH ở nước ta và xác định quan điểm chiến lược đổi mới, chỉnh
đốn Đảng.
Về cương lĩnh bổ sung 2021, Chủ đề chính của đảng ta ở cương
lĩnh lần này là: xác định xã hội xã hội chủ nghĩa có 8 đặc trưng: (1) dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (2) do nhân dân làm
chủ; (3) có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; (4) có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; (5) con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện; (6) các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (7) có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; (8) có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới. Tám đặc trưng trên vừa mang giá trị, ý nguyện và
khát vọng của dân tộc Việt Nam, vừa mang giá trị phổ quát của nhân loại
và tầm nhìn của thời đại.Các điểm nổi bật: Thứ nhất, về kinh tế, xác
định rõ hơn nội hàm, đặc trưng, cơ cấu, quan hệ bên trong và định hướng
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định đó
là một loại hình kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện Việt Nam, vừa
tuân thủ đầy đủ quy luật thị trường vừa coi trọng, tăng cường các thành tố
định hướng xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ quá trình phát triển, phù hợp
với điều kiện đất nước trong từng giai đoạn.Thứ hai, về văn hóa, xã hội,
con người: những định hướng nêu trong Cương lĩnh là cơ sở quan trọng

18
để Đại hội XI, XII và các hội nghị chuyên đề của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI, XII tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung, phát triển. Vai trò, đặc
trưng, phương hướng phát triển của văn hóa, con người Việt Nam được
xác định đầy đủ, rõ nét hơn. Văn hóa là mục tiêu, nền tảng tinh thần,
nguồn lực nội sinh và động lực phát triển. Xây dựng văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với những đặc trưng: dân tộc, nhân văn,
dân chủ, khoa học; chú trọng xây dựng môi trường văn hóa; phát triển các
lĩnh vực văn hóa; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo; đột phá cơ
chế, chính sách phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; làm cho văn
hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là chính trị, kinh
tế - xây dựng văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế.Thứ ba, về
quốc phòng, an ninh: định hướng của Cương lĩnh là cơ sở quan trọng để
Đảng lãnh đạo xây dựng, không ngừng hoàn thiện Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, Chiến lược an ninh
mạng, Dự báo chiến lược...: làm sâu sắc, đầy đủ hơn nội hàm “bảo vệ Tổ
quốc”, quan hệ khăng khít giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa tăng
cường quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối
ngoại. Thứ tư, về đối ngoại, quán triệt định hướng của Cương lĩnh:
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế..., Đảng chú trọng bám sát thực tiễn khu vực, thế giới, tăng cường
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh, phát triển lý luận ngoại giao làm cơ sở hoàn thiện đường lối đối
ngoại đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.Thứ năm, Về hệ thống chính trị và sự
lãnh đạo của Đảng: trong gần 10 năm qua, tư tưởng, quan điểm chỉ đạo
của Cương lĩnh là những định hướng có tính nguyên tắc, là cơ sở để Đảng
làm sâu sắc, đầy đủ hơn nhận thức lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa,
về đổi mới hệ thống chính trị, trọng tâm là xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về bản
chất, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng.
Cương lĩnh 2011 đánh dấu bước phát triển lý luận của Đảng, đồng
thời Cương lĩnh đặt nền tảng để Đảng tiếp tục hoàn thiện, làm phong phú
hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.

19
20
DANH SÁCH BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ CÁC THÀNH VIÊN
STT Họ và tên Mã SV Nhiệm vụ Điểm đánh giá
1 Phạm Yến Nhi Nhóm trưởng
23080072 Đề tài 1
Tổng hợp tài liệu nhóm
Phản biện cùng chủ đề
2 Hoàng Lê Khanh 23080046 Đề tài 1
Phản biện cùng chủ đề
3 Nguyễn Ngọc Hoàng Giang 23080027 Đề tài 2
Phản biện chủ đề khác
4 Mai Phạm Nga Nhi 23080070 Đề tài 2
Powerpoint
5 Trần Thị Phương Thảo 23080081 Đề tài 3
Thuyết trình
6 Nguyễn Thị Diễm Quỳnh 23080078 Đề tài 3
Thuyết trình
7 Bùi Thị Trúc Ly 23080060 Đề tài 4
Powerpoint
8 Nguyễn Hương Giang 23080026 Đề tài 4
Phản biện chủ đề khác
9 Nguyễn Thạch Bảo Long 23080058 Đề tài 5
Phản biện chủ đề khác
10 Lê Thảo Linh 23080054 Đề tài 5
Phản biện chủ đề khác

21
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
 https://loigiaihay.com/hoan-thanh-thong-nhat-dat-nuoc-ve-mat-
nha-nuoc-c87a8456.html
 https://luatduonggia.vn/y-nghia-viec-hoan-thanh-thong-nhat-dat-
nuoc-ve-mat-nha-nuoc/
 https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?
AnPhamItemID=233
 https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-nguyen-tat-
thanh/lich-su-dang/ttlsd/52327907
 https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng_C
%E1%BB%99ng_s%E1%BA%A3n_Vi%E1%BB%87t_Nam
 https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-
dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-
hanh-trung-uong-dang-khoa-v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-
quoc-lan-thu-vi-cua-1491
 https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-
dang/dai-hoi-dang/lan-thu-viii
 Báo pháp luật điện tử: https://baophapluat.vn/nho-mot-thoi-bao-
cappost471442.html#:~:text=Th%E1%BB%9Di%20bao%20c
%E1%BA%A5p%2C%20c%C3%A1ch%20g%E1%BB%8Di,
%C4%91%E1%BA%BFn%20l%C6%B0%C6%A1ng%20th
%E1%BB%B1c%20h%E1%BA%B1ng%20ng%C3%A0y
%E2%80%A6
 Luật Minh Khuê:https://luatminhkhue.vn/co-che-ke-hoach-hoa-
tap-trung-quan-lieu-bao-cap-la-gi.aspx#google_vignette
 Thư viện Violet:https://baigiang.violet.vn/present/trinh-bay-nhung-
hieu-biet-cua-ban-ve-co-che-bao-cap-uu-va-nhuoc-diem-cua-no-
5546538.html
 Tổng cục thống kê:
https://www.gso.gov.vn/su-kien/2020/09/23410/
 Tư liệu văn kiện Đảng: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-
kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-v/nghi-quyet-
hoi-nghi-lan-thu-8-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-v-ve-
gia-luong-tien-1097
 https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/
book/van-kien-dang-toan-tap/van-kien-dang-toan-tap-tap-47-125
 https://www.qdnd.vn/40nam-chien-thang-chien-tranh-bao-ve-bien-
gioi-tay-nam/phan-tich-binh-luan/chien-thang-chien-tranh-bao-ve-
to-quoc-o-bien-gioi-tay-nam-bai-hoc-cho-cong-cuoc-bao-ve-chu-
quyen-dat-nuoc-559169

22
 https://baohagiang.vn/thoi-su-chinh-tri/201901/chien-thang-chien-
tranh-bao-ve-bien-gioi-tay-nam-cua-to-quoc-va-cung-quan-dan-
campuchia-danh-do-che-do-diet-chung-739618/
 https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-
oi-ngoai1/-/2018/53966/y-nghia-lich-su-cua-chien-thang-chien-
tranh-bao-ve-to-quoc-o-bien-gioi-tay-nam---40-nam-nhin-lai-va-
bai-hoc-cho-hien-nay.aspx
 http://baoquankhu5.vn/chien-tranh-bien-gioi-tay-nam-la-cuoc-
chien-ve-quoc-lon-cua-dan-toc/
 https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_bi
%C3%AAn_gi%E1%BB%9Bi_Vi%E1%BB%87t_Nam_
%E2%80%93_Campuchia
 Tư liệu-Văn kiện
 Wikipedia
 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa VI
 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa VII

23

You might also like