You are on page 1of 10

Phật nói kinh Thập Thiện

Tôi nghe như vầy! Bấy giờ Phật ở Long Cung xứ Sa Kiệt La cùng với tám
nghìn chúng đại tỷ khiêu, ba vạn hai nghìn vị đại Bồ Tát đều ở hội này. Lúc bấy giờ
Đức Thế Tôn bảo Long Vương rằng: “Hết thảy chúng sinh tâm tưởng khác cho nên
nghiệp cũng khác, do đó có các con đường luân chuyển. Long Vương, ông có thấy ở
trong hội này và trong biển lớn, hình sắc, chủng loại có khác nhau không? Như vậy
hết thảy đều do tâm tạo nghiệp thiện hay bất thiện nơi thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý
nghiệp gây ra. Mà tâm không có sắc, không thể thấy hay lấy được, chỉ là giả dối. Các
pháp tập hợp, dấy lên, rốt ráo không có chủ thể, không có ta, không có của ta. Tuy
chúng theo nghiệp, chỗ thấy không giống nhau, mà thực trong đó không có tác giả.
Cho nên hết thảy các pháp được tự tính như huyễn đều không nghĩ bàn. Người trí
biết rồi, nên tu nghiệp lành, lấy đó làm chỗ sinh ra Uẩn – Xứ - Giới đều được đoan
chính (ngay thẳng), người xem không chán.
Long Vương, ông xem thân Phật từ trăm nghìn ức phúc đức sinh ra, các tướng
trang nghiêm, hào quang hiện ra rực rỡ, che khắp đại chúng. Giả sử có vô lượng ức
cõi trời Tự Tại, Phạm Thiên cũng chẳng thể hiện ra được. Người nào mà được chiêm
ngưỡng thân của Đức Như Lai, chẳng có ai là không bị lóa mắt. Ngươi lại xem các vị
Bồ Tát này sắc tướng trang nghiêm, thanh tịnh. Tất cả đều do tu tập nghiệp lành,
phúc đức mà sinh ra. Lại nữa loài trời, rồng, bát bộ… có uy lực lớn. Đều bởi tu tập
nghiệp lành, phúc đức mà sinh ra. Nay ở trong biển lớn, có các chúng sinh, hình sắc
thô xấu, hoặc lớn hoặc nhỏ, đều do bởi các loại tưởng niệm ở tự thân mình, gây ra
các nghiệp chướng chẳng lành ở nơi thân – ngữ - ý, bởi vậy tùy theo nghiệp mà tự
chịu quả báo. Ông nay nên như vậy mà tu học, cũng khiến chúng sinh hiểu rõ nhân
quả, tu tập nghiệp lành. Ông nên giữ cho tâm mình ở nơi chính kiến chẳng bị lay
động, chớ lại đọa vào trong nơi tà kiến của chấp thường, chấp đoạn. Đối với các bậc

1
Phúc Điền vui vẻ, cung kính, cúng dàng, cho nên ông và hết thảy cũng được người,
trời tôn trọng, cung kính, cúng dàng.
Long Vương, ông nên biết Bồ Tát có một pháp, có thể dứt trừ hết thảy các khổ
trong đường ác. Những gì là một? Nghĩa là ở trong ngày đêm thường nhớ, suy nghĩ,
xem xét các pháp lành, khiến các pháp lành mỗi ngày tăng thêm, không để một chút
mảy may các bất thiện xen lẫn vào. Tức là có thể khiến các điều ác vĩnh viễn dứt trừ,
thiện pháp tròn đầy, thường được gần gũi chư Phật, Bồ Tát và các hàng Thánh
chúng. Nói thiện pháp là, nghĩa là thân của người, trời, giác ngộ của hàng Thanh
Văn, giác ngộ của hàng Độc Giác, giác ngộ của Phật, đều nương vào pháp này, lấy
đó làm gốc rễ mà được thành tựu, cho nên gọi là pháp lành. Pháp này tức là mười con
đường thiện nghiệp. Những gì là mười? Nghĩa là có thể vĩnh viễn xa lìa sát sinh,
trộm cắp, việc làm sai trái, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt,
ham muốn dục lạc, sân hận, tà kiến.
1. Sát sinh:
Long Vương, nếu xa lìa sát sinh, liền được mười pháp xa lìa phiền não. Những
gì là mười?
1. Đối với chúng sinh phổ khắp pháp vô úy.
2. Thường đối với chúng sinh khởi tâm đại từ.
3. Vĩnh viễn dứt hẳn tập khí sân hận.
4. Thân thường không bệnh
5. Mạng sống dài lâu.
6. Thường được phi nhân ủng hộ.
7. Thường không ác mộng, ngủ thức an vui.
8. Diệt trừ oán kết, các oán tự giải.
9. Không sợ rơi vào đường ác.

2
10. Khi chết sinh lên trời.
Đó là mười, nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng chính giác, sau khi
thành Phật, được tùy tâm Phật, thọ mệnh tự tại.
2. Thâu đạo (Trộm cắp)
Lại nữa ông Long Vương, nếu xa lìa trộm cắp, liền được mười thứ giữ được
pháp tin. Những gì là mười?
1. Của cải chứa đầy, Vua, giặc cướp, nước, lửa và con hư không thể phá hoại.
2. Nhiều người thương nhớ.
3. Người không khinh khi, phụ trái.
4. Mười phương xưng tán, khen ngợi.
5. Không lo tổn hại.
6. Tiếng lành đồn khắp.
7. Ở trong chúng không sợ.
8. Của cải, sinh mệnh, hình sắc, sức lực, an vui, biện tài đầy đủ không thiếu.
9. Thường ôm lòng bố thí.
10. Sau khi chết được sinh lên trời.
Đó là mười, nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng chính giác, sau khi
thành Phật, được chứng trí thanh tịnh đại bồ đề.
3. Tà hạnh:
Lại nữa Long Vương, nếu xa lìa tà hạnh, liền được bốn pháp người trí xưng tán.
Những gì là bốn?
1. Các căn điều thuận.
2. Vĩnh viễn xa lìa ồn ào, náo nhiệt.
3. Người đời khen ngợi.
4. Vợ (chồng) mình không thể xâm phạm.

3
Đó là bốn, nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng chính giác, sau khi thành
Phật, được tướng trượng phu ẩn mật tàng của Phật.

4. Vọng ngữ:
Lại nữa Long Vương, nếu xa lìa vọng ngữ, liền được tám pháp chư thiên xưng
tán. Những gì là tám?
1. Miệng thường thanh tịnh, thơm như hoa sen xanh (Ưu Bát).
2. Là chỗ mà người đời tín phục.
3. Lời nói phát ra được thành chứng, trời người yêu mến, kính quý.
4. Thường dùng lời êm dịu để an ủi chúng sinh.
5. Được ý vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh.
6. Lời nói không nhầm lỗi, tâm thường vui vẻ.
7. Nói ra được tôn trọng, người trời phụng hành (vâng làm).
8. Trí tuệ thù thắng, không ai có thể chế phục được.
Đó là tám, nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng chính giác, sau khi thành
Phật, liền được lời nói chân thực của đức Như Lai.
5. Lưỡng thiệt:
Lại nữa Long Vương, nếu xa lìa nói lưỡi đôi chiều, liền được năm pháp bất
hoại. Những gì là năm?
1. Được thân bất hoại, không thể làm hại được.
2. Được quyến thuộc bất hoại, không thể phá được.
3. Được lòng tin bất hoại, thuận theo bản nghiệp.
4. Được pháp hành bất hoại, chỗ tu kiên cố (vững bền).
5. Được thiện tri thức bất hoại, không lừa dối, hoài nghi.

4
Đó là năm, nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng chính giác, sau khi thành
Phật, được quyến thuộc chân chính, các ma ngoại đạo không thể ngăn trở, phá hoại.
6. Ác khẩu:
Lại nữa Long Vương, nếu xa lìa ác khẩu, liền được thành tựu tám nghiệp thanh
tịnh. Những gì là tám?
1. Lời nói không trái pháp độ.
2. Lời nói đều có lợi ích.
3. Lời nói đều hợp với đạo lý.
4. Lời nói tốt đẹp, khéo léo.
5. Lời nói có thể được lĩnh thụ, tiếp nhận.
6. Lời nói thì đáng tin dùng.
7. Lời nói không bị chê bai hiềm khích.
8. Lời nói đều được mọi người yêu mến, vui.
Đó là tám, nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng chính giác, sau khi thành
Phật, đầy đủ tiếng Phạm âm của đức Như Lai.
7. Ỷ ngữ:
Lại nữa Long Vương, nếu xa lìa lời nói thêu diệt, liền được thành tựu ba pháp
quyết định. Những gì là ba?
1. Quyết định được chỗ người trí yêu quý.
2. Quyết định có thể dùng trí chân thực để trả lời các câu hỏi.
3. Quyết định đối với trời người uy đức tối thắng không hề có hư vọng, giả dối.
Đó là ba, nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng chính giác, sau khi thành
Phật, liền được Đức Như Lai thụ ký đều không tổn hại.
8. Tham dục:

5
Lại nữa Long Vương, nếu xa lìa tham lam, ham muốn liền được thành tựu năm
thứ tự tại. Những gì là năm?
1. Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) được tự tại, các căn đầy đủ.
2. Tiền tài vật chất tự tại, tất cả giặc cướp, oán ghét không thể cướp đoạt được.
3. Phúc đức tự tại, theo tâm chỗ mình mong muốn, vật chất đều được đầy đủ.
4. Ngôi vị của Vua được tự tại, được nhiều của báu lạ, quý, đẹp đều được dâng
hiến
5. Chỗ vật chất đưa đến cho mình còn gấp bội lần chỗ mình muốn mong cầu.
Do ở đời quá khứ không tham lam, đố kỵ.
Đó là năm, nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng chính giác, sau khi thành
Phật, đặc biệt được ba cõi hết thảy đều tôn trọng, cung kính cúng dàng.
9. Sân khuể:
Lại nữa Long Vương, nếu xa lìa sân giận liền được tám pháp vui vẻ nơi tâm.
Những gì là tám ?
1. Tâm không tổn hại, phiền não.
2. Tâm không sân giận.
3. Tâm không tranh cãi, kiện tụng.
4. Tâm hiền dịu, ngay thẳng.
5. Được tâm từ bi của bậc Thánh.
6. Thường có tâm làm lợi ích an lạc cho chúng sinh.
7. Thân tướng đoan chính, trang nghiêm, mọi người tôn kính.
8. Do hòa hợp, nhẫn nhục cho nên nhanh chóng sinh lên cõi trời Phạm Thiên.
Đó là tám nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng, chính giác, sau khi thành
Phật, được tâm vô ngại, người xem không chán.
10. Tà kiến

6
Lại nữa Long Vương, nếu xa lìa tà kiến, liền thành tựu được 10 pháp công đức.
Những gì là mười?
1. Được ý vui chân thiện, được nhiều bạn tốt.
2. Tin sâu nhân quả, thà bỏ thân mạng, trọn đời không làm ác.
3. Chỉ quy y Phật, không theo các trời hay quỷ thần nào khác.
4. Tâm ngay thẳng, thấy đúng, xa lìa hết thảy lưới nghi ngờ, tốt xấu.
5. Thường sinh cõi Trời, cõi người, không trở lại đường ác.
6. Phúc đức trí tuệ vô lượng, luôn luôn tăng trưởng.
7. Xa lìa đường tà, làm việc thánh đạo.
8. Không khởi thân kiến, bỏ các ác nghiệp.
9. Ở trong cái thấy vô ngại.
10. Không bị rơi vào các tai nạn.
Đó là mười. Nếu hay hồi hướng về đạo vô thượng chính đẳng, chính giác. Sau khi
thành Phật, nhanh chóng chứng được hết thảy pháp của Đức Phật, thành tựu được
thần thông tự tại.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Long Vương rằng: Nếu có Bồ Tát nào nương vào
thiện nghiệp này. Trong khi hành đạo, có thể xa lìa giết hại mà làm việc bố thí.
Thường được giàu có, của báu không thể xâm đoạt. Mạng sống lâu dài, không chết
yểu, không bị hết thảy oán tặc làm tổn hại.
+ Xa lìa nghiệp chẳng cho mà lấy mà làm việc bố thí. Thường được giàu có, của báu
không thể xâm đoạt, thù thắng không ai sánh kịp. Có khả năng biết rõ được đầy đủ
pháp tạng của Chư Phật.
+ Xa lìa lỗi phi phạm hạnh (tà hạnh) mà làm việc bố thí. Thường được giàu có, của
báu không thể xâm đoạt. Trong nhà hòa thuận, mẹ và vợ, con không bị ai đem lòng
nhìn ngó, ham muốn.

7
+ Xa lìa nói dối mà làm việc bố thí. Thường được giàu có, của báu không ai có thể
xâm đoạt. Xa lìa các sự chê bai, phỉ báng, giữ gìn chính pháp, như lời thệ nguyện đó,
chỗ làm ắt có kết quả.
+ Xa lìa lời nói ly gián mà làm việc bố thí. Thường được giàu có,của báu không bị
xâm đoạt. Quyến thuộc hòa thuận, cùng một ý chí an vui, thường không trái nghịch.
+ Xa lìa lời nói thô ác mà làm việc bố thí. Thường được giàu có, của báu không bị
xâm đoạt, hết thảy mọi người vui vẻ quy y. Lời nói đều được tin nhận, không ai
chống trái.
+ Xa lìa lời nói vô nghĩa mà làm việc bố thí. Thường được giàu có, của báu không bị
xâm đoạt, lời nói không giả dối phô trương, mọi người đều tôn trọng mà tiếp nhận.
Hay dùng phương tiện khéo léo dứt các nghi ngờ.
+ Xa lìa tâm tham cầu mà làm việc bố thí. Thường được giàu có, của báu không bị
xâm đoạt, hết thảy vật sở hữu đều lấy lòng thương để cho đi. Tin hiểu kiên cố, đủ uy
lực lớn.
+ Xa lìa tâm giận dữ mà làm việc bố thí. Thường được giàu có, của báu không bị
xâm đoạt, nhanh chóng tự mình thành tựu tâm trí vô ngại. Các căn trang nghiêm, tốt
đẹp. Người thấy đều cung kính, yêu mến.
+ Xa lìa tâm tà kiến, điên đảo mà làm việc bố thí. Thương được giàu có, của báu
không bị xâm đoạt, thường sinh trong nhà chính kiến, kính tín. Được thấy Phật nghe
pháp cúng dàng chúng Tăng, thường không quên mất tâm đại bồ đề. Đó là các bậc
Đại sỹ khi tu Bồ Tát đạo, làm 10 thiện nghiệp. Do bố thí trang nghiêm mà chỗ được
lợi ích lớn như vậy.
Ông Long Vương, tóm lại mà nói, làm mười đường thiện, lấy giới để trang
nghiêm, có thể sinh hết thảy nghĩa lợi nơi Phật pháp, đẩy đủ nguyện lớn.

8
+ Lấy Nhẫn nhục để trang nghiêm, cho nên được âm tròn đầy của chư Phật, đầy đủ
tướng tốt.
+ Lấy Tinh tiến để trang nghiêm, cho nên có thể phá được những ma oán, thâm nhập
được vào trong pháp tạng của Phật.
+ Lấy Định để trang nghiêm, cho nên có thể sinh ra chính niệm, trí tuệ, hổ thẹn, nhẹ
nhàng.
+ Lấy Tuệ để trang nghiêm, cho nên có thể dứt trừ hết thảy phận biệt, cái thấy không
thật.
+ Lấy Từ để trang nghiêm, cho nên đối với chúng sinh không khởi tâm tức giận, sát
hại.
+ Lấy Bi để trang nghiêm thân, cho nên thương sót chúng sinh, thường không chán
bỏ.
+ Lấy Hỷ để trang nghiêm, cho nên thấy người tu các việc thiện, tâm không sinh
ghen ghét đố kị.
+ Lấy Xả để trang nghiêm, cho nên đối với các cảnh thuận nghịch không sinh tâm
yêu ghét.
+ Lấy Nhiếp Pháp (Tứ Nhiếp Pháp) để trang nghiêm, cho nên thường siêng năng
giáo hóa hết thảy chúng sinh.
+ Lấy Niệm Xứ (Tứ Niệm Xứ) để trang nghiêm, cho nên có khả năng tu tập quán xét
Tứ Niệm Xứ.
+ Lấy Chính Cần (Tứ Chính Cần) để trang nghiêm, cho nên có khả năng dứt trừ hết
thảy các pháp chẳng lành, thành tựu hết thảy các pháp lành.
+ Lấy Thần Túc (Tứ Thần Túc – Tứ Như Ý Túc) để trang nghiêm, cho nên thường
khiến cho tâm được nhẹ nhàng, yên ổn và vui vẻ.

9
+ Lấy Ngũ Căn để trang nghiêm, cho nên tin sâu, bền vững, siêng năng không lười
biếng. Thường không mê hoặc, vẳng lặng ôn hòa (điều thuận), dứt trừ các phiền não.
+ Lấy Lực (Ngũ Lực) để trang nghiêm thân, cho nên các oán tặc diệt hết, không gì
phá hoại được.
+ Lấy Giác Chi (Thất Giác Chi) để trang nghiêm, cho nên thường khéo giác ngộ hết
thảy các pháp.
+ Lấy Chính Đạo (Bát Chính Đạo) để trang nghiêm, cho nên được trí tuệ chân chính,
thường hiện ra ở phía trước.
+ Lấy Chỉ để trang nghiêm, cho nên có thể trừ sạch được hết thảy các kết sử.
+ Lấy Quán để trang nghiêm, cho nên như thật biết được tự tính của các pháp.
+ Lấy Phương Tiện để trang nghiêm, cho nên nhanh chóng thành tựu tròn đầy cái vui
Vô Vi (vui Niết Bàn).
Long Vương, ông nên biết mười nghiệp thiện này, hay khiến cho Thập Lực, Tứ
Vô Úy, Thập Bát Bất Cộng, tất cả Phật pháp đều được tròn đầy. Bởi vậy các ông phải
siêng năng tu học. Ông Long Vương! Giống như hết thảy các thành thị, xóm làng đều
nương vào đại địa mà được an trụ. Hết thảy cỏ cây, rừng bụi cũng nương vào đại địa
mà được sinh trưởng. Mười con đường thiện này cũng lại như thế. Hết thảy trời,
người cũng nương vào đó mà được an lập. Hết thảy Thanh Văn, Độc Giác, Bồ Đề,
các hạnh Bồ Tát, hết thảy Phật pháp đều cùng nương vào Đại Địa Thập Thiện này mà
được thành tựu.
Phật nói Kinh này xong, Sa Kiệt La Long Vương cùng toàn thể đại chúng, hết
thảy thế gian trời, người, A Tu La… đều hoan hỷ tin nhận vâng làm.

10

You might also like