You are on page 1of 36

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT DÂN SỰ


INCLUDEPICTURE "https://lh4.googleusercontent.com/veeK-
XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb
Q" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
"https://lh4.googleusercontent.com/veeK-XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb
Q" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
"https://lh4.googleusercontent.com/veeK-XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb
Q" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
"https://lh4.googleusercontent.com/veeK-XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb
Q" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
"https://lh4.googleusercontent.com/veeK-XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb
Q" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
"https://lh4.googleusercontent.com/veeK-XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb
Q" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
"https://lh4.googleusercontent.com/veeK-XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb
Q" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
"https://lh4.googleusercontent.com/veeK-XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb
Q" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
"https://lh4.googleusercontent.com/veeK-XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb
Q" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
"https://lh4.googleusercontent.com/veeK-XvuYFikI6v56v_ehMRE-
uN8n_4ykHHAv11cqhdgnnCDLYwBRX_zCTaLSiQDCn-
PEyrB08y5jmgR49LalZ-
TKly1yNURpFOuk4SfDM69RPk9plkcoNR5xcM9r_lC5iAjoWC80py1unviF0Yeb

Q" \* MERGEFORMATINET
MÔN HỌC PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG
CHỦ ĐỀ 9
BÀI TẬP THÁNG THỨ HAI
GIẢNG VIÊN: LÊ THANH HÀ

DANH SÁCH NHÓM 7


STT HỌ TÊN MSSV
1 Hải Nữ Trinh Nguyên 2253801012157
2 Vũ Song Linh Nhi 2253801012170
3 Lê Hoàng Quỳnh Như 2253801012172
4 Trương Lâm Như 2253801012173
5 H Diu Niê 2253801012178
6 H SiNe Niê 2253801012179
7 Nguyễn Quỳnh Thư Niê 2253801012180
8 Nguyễn Mai Phương 2253801012192
9 Trần Kiều Thanh Tâm 2253801012215
MỤC LỤC
Vấn đề 1: Xác định thiệt hại vật chất được bồi thường khi tính mạng bị xâm phạm......5
1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về thiệt hại vật chất khi tính
mạng bị xâm phạm...........................................................................................................5
1.2. Nghị quyết số 03 và 02 của HĐTP có quy định chi phí đi lại dự lễ tang được bồi
thường không? Vì sao?....................................................................................................7
1.3. Trong thực tiễn xét xử trước đây, chi phí đi lại dự lễ mai táng có được bồi thường
không? Nếu có, nêu vắn tắt thực tiễn xét xử đó?.............................................................8
1.4. Đoạn nào trong bản án của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang cho thấy Tòa án đã
chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay? Đây có là chi phí đi lại dự lễ mai
táng không?......................................................................................................................8
1.5. Trong vụ việc trên, nếu chi phí máy bay trên là chi phí đi lại dự lễ mai táng, việc
cho bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?...............................................................8
1.6. Nếu chi phí trên là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự lễ tang thì chi phí đó có
được bồi thường không? Vì sao?.....................................................................................9
1.7. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp
dưỡng cho ai và không buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng cho ai?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?..............................................................................9
1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến người
được bồi thường tiền cấp dưỡng....................................................................................10
1.9. Trong bản án số 26, Tòa án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện một lần hay
nhiều lần?.......................................................................................................................11
1.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án liên quan đến cách
thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng................................................................................12
Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại phát sinh trong tai nạn giao thông.........................12
2.1. Thay đổi về các quy định liên quan tới Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra giữa BLDS 2005 và BLDS 2015?...........................................................13
2.2. Xe máy, ô tô có là nguồn nguy hiểm cao độ không? Vì sao?.................................14
2.3. Trong hai vụ việc trên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay do hành vi
của con người gây ra? Vì sao?.......................................................................................15
2.4. Trong hai vụ việc trên, đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy
định của chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?.................15
2.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng các quy định của chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra......................................................16
2.6. Trong Quyết định số 30, đoạn nào cho thấy Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt
hại?.................................................................................................................................16
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt hại...............16
2.8. Trên cơ sở Điều 604 BLDS 2005, Điều 584 BLDS 2015, Tòa án có thể buộc Giang
bồi thường thiệt hại không? Vì sao?..............................................................................17
2.9. Theo Nghị quyết số 03 và 02, chi phí xây mộ và chụp ảnh có được bồi thường
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................................................18
2.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm và của Tòa giám
đốc thẩm liên quan đến chi phí xây mộ và chụp ảnh.....................................................18
2.11. Trong Quyết định số 23, đoạn nào cho thấy Bình là người bị thiệt hại?..............18
2.12. Ông Khánh có trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình không? Vì sao?................19
2.13. Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh Bình với tư cách nào? Vì sao?.......19
2.14. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh Bình.
........................................................................................................................................19
2.15. Bình có lỗi trong việc để thiệt hại phát sinh không? Đoạn nào của bản án cho câu
trả lời?............................................................................................................................20
2.16. Đoạn nào cho thấy, Tòa giám đốc thẩm không theo hướng buộc ông Dũng và ông
Khánh bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Bình?........................................................20
2.17. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm..............20
2.18. BLDS và Nghị quyết số 03 và 02 có quy định cho phép chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi
hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không?...................21
2.19. Tòa giám đốc thẩm có theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền
mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không? Đoạn nào của quyết định cho
câu trả lời........................................................................................................................21
2.20. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa giám đốc thẩm theo hướng cho phép chủ sở
hữu nguồn nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại.....22
Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại trong hay ngoài hợp đồng.......................................22
3.1. Những điểm khác nhau cơ bản giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng....................................................................................23
3.2. Trong hai vụ việc trên, có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và bên bị
yêu cầu bồi thường thiệt hại không? Vì sao?.................................................................24
3.3. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng hay trong hợp đồng? Vì sao?.................................................25
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong hai vụ việc trên về vấn
đề xác định bản chất pháp lý (trong hay ngoài hợp đồng) quan hệ bồi thường giữa các
bên..................................................................................................................................26
Vấn đề 4: Buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ...............................................................26
4.1. Đối với vụ việc trong Quyết định số 36, đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã
buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng?...........................................................27
4.2. Hướng của Tòa án địa phương có được Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận không?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?.....................................................................28
4.3. Vì sao Tòa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên? Đoạn nào của Quyết định cho
câu trả lời?......................................................................................................................28
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.........28
4.5. Đối với vụ việc trong Bản án số 418, Công ty K có nghĩa vụ làm thủ tục để cấp
Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Vì sao?...................................29
4.6. Nghĩa vụ làm thủ tục trên đã bị vi phạm chưa và Tòa án có buộc Công ty K tiếp
tục làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Vì sao?
........................................................................................................................................29
4.7. Trên cơ sở văn bản, có quy định nào cho phép Tòa án buộc Công ty K tiếp tục làm
thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Nêu rõ cơ sở văn
bản khi trả lời.................................................................................................................29
4.8. Cho biết những cơ chế để việc buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hiệu quả trong
thực tế.............................................................................................................................30
Vấn đề 5: Tìm kiếm tài liệu.........................................................................................30
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2020 đến nay
(ít nhất 20 bài). Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải
thỏa mãn những thông tin theo trật tự như đã yêu trong buổi thảo luận thứ 3...............30
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên................................32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................
Vấn đề 1: Xác định thiệt hại vật chất được bồi thường khi tính mạng bị xâm
phạm
*Tóm tắt Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang
Bị cáo: Lay Bun Thy.
Người bị hại: Phạm Văn Quang, Lê Văn Được.
Ngày 16/7/2016, trong lúc nhậu có xảy ra cự cãi với các bị hại nên bị cáo Thy đã về
nhà lấy khẩu súng ngắn K59 và sau đó đã có hành vi sử dụng súng bắn vào vùng đầu,
trán và lưng khiến cho Được chết trên đường đi cấp cứu và Quang bị gãy xương hàm,
tỷ lệ thương tật 16%. Người đại diện hợp pháp của bị hại Được yêu cầu bồi thường
thiệt hại các khoản tiền: chi phí mai táng, tiền vé máy bay, tiền bù đắp về tổn thất tinh
thần và tiền cấp dưỡng nuôi con của bị hại Được. Bị hại Quang yêu cầu bồi thường
thiệt hại chi phí điều trị. Bà Thơ chủ quán nhậu nơi xảy ra vụ án cũng yêu cầu bồi
thường thiệt hại về tài sản của quán. Tòa ra quyết định: tuyên phạt bị cáo Thy 20 năm
tù về tội “Giết người”, 05 năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân
dụng”; chấp nhận yêu cầu các yêu cầu bồi thường và buộc bị cáo bồi thường thiệt hại
cho các bị hại.

*Tóm tắt Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc
Bị cáo: Nguyễn Văn A
Người bị hại: Anh Chu Văn D
Nội dung: Nguyễn Văn A gọi Chu Văn D và Lý Văn F để tra hỏi về chiếc quần cộc của
phạm nhân G bị mất. Khi bị phạm nhân Đ cùng một số phạm nhân khác hỏi thì F nhận
lỗi còn D không chịu nhận. Sau khi K, M kể lại việc đã nhìn thấy D lấy chiếc quần cộc
thì D mới nhận lỗi. A cho rằng D không thành khẩn nhận lỗi nên đã dùng chân đá trúng
vùng ngực của D làm D bất tỉnh và tử vong sau khi đưa đến bệnh viện. Tòa án xử phạt
A 8 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, cộng với 9 năm tù của Bản án số
202/2017/HSPT ngày 20/4/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, tổng là 17
năm tù; buộc A bồi thường chi phí mai táng, tổn thất tinh thần cho gia đình người bị
hại, có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu P sinh năm 1999 là con chưa thành niên của D
cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về thiệt hại vật chất
khi tính mạng bị xâm phạm.
Điều 591 BLDS 2015 Điều 610 BLDS 2005
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm 1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
bao gồm: bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi
theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại

7
này; trước khi chết;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng; b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà
người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường 2. Người xâm phạm tính mạng của
trong trường hợp tính mạng của người người khác phải bồi thường thiệt hại theo
khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt quy định tại khoản 1 Điều này và một
hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh
một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về thần cho những người thân thích thuộc
tinh thần cho những người thân thích hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị hại, nếu không có những người này thì
thiệt hại, nếu không có những người này người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp
thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng
nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền
người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về
này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu
tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không không thoả thuận được thì mức tối đa
thỏa thuận được thì mức tối đa cho một không quá sáu mươi tháng lương tối
người có tính mạng bị xâm phạm không thiểu do Nhà nước quy định.
quá một trăm lần mức lương cơ sở do
Nhà nước quy định.
- Điểm mới thứ nhất: Trong BLDS 2005, bên cạnh chi phí hợp lý cho việc mai táng
và tiền cấp dưỡng thì quy định này còn liệt kê các khoản chi phí phải bồi thường do
tính mạng bị xâm phạm bao gồm: “Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm
sóc người bị thiệt hại trước khi chết”. Tuy nhiên, BLDS 2015 đã tóm gọn đầy đủ hơn
các chi phí này bằng quy định: “Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại
Điều 590 của Bộ luật này”. Sự thay đổi này là hợp lý bởi vì trong thực tế vẫn có các
trường hợp trước khi chết thì người bị thiệt hại cần phải có người chăm sóc dẫn đến các
chi phí liên quan đến việc chăm sóc. Do đó, những khoản thiệt hại này là để bồi thường
cho chính người bị xâm phạm đến sức khỏe, còn những khoản bồi thường sau là bồi
thường cho người thân thích của người chết. 1
- Điểm mới thứ hai: Bên cạnh các thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm đã được liệt kê
thì BLDS 2015 có bổ sung quy định “thiệt hại khác do luật quy định” nhằm mở rộng
phạm vi, tránh bỏ sót các thiệt hại thực tế có xảy ra nhưng lại không được bồi thường.
- Điểm mới thứ ba: Sửa quy định tại khoản 2 từ “Người xâm phạm tính mạng của
người khác” thành “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng
của người khác bị xâm phạm”. Sự thay đổi này nhằm mở rộng các đối tượng phải bồi
thường, bao gồm cả các đối tượng không phải là người xâm phạm tính mạng của người
khác nhưng lại là đối tượng phải chịu trách nhiệm bồi thường trên thực tế.

1
Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ Luật Dân sự năm 2015 của nước CHXHCN Việt
Nam, Nhà xuất bản Công an Nhân Dân, tr.892.
8
- Điểm mới thứ tư: Thay đổi mức bù đắp về tổn thất tinh thần trong trường hợp không
thỏa thuận được từ “mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà
nước quy định” thành “mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không
quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”. Sự thay đổi này là hợp lý
vì có các trường hợp người được bù đắp tổn thất về tinh thần không chỉ là người bị
xâm phạm về tính mạng mà còn có người thân thích của họ. Trên thực tế, nhiều trường
hợp đã xảy ra mâu thuẫn giữa những người có thẩm quyền với nhau trong việc xác
định mức bù đắp tổn thất về tinh thần chỉ tính một lần với tất cả những người bị xâm
phạm tính mạng hay tính riêng với từng người. Sự bổ sung này đã giải quyết được
những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại
do tính mạng bị xâm phạm.2

1.2. Nghị quyết số 03 và 02 của HĐTP có quy định chi phí đi lại dự lễ tang được bồi
thường không? Vì sao?
- Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP tại khoản 2.2 Điều 2 phần II quy định về
các chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: “các khoản tiền mua quan tài, các vật
dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các
khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung.
Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc
mộ…”.
Qua đó, có thể thấy chi phí đi dự tang lễ không được liệt kê trong danh sách được bồi
thường. Mà ở phần chi phí không được bồi thường thì kết thúc danh sách là ba dấu
chấm “...” nên đây là danh sách mở, vì vậy chi phí đi dự tang lễ có thể được tính là chi
phí được bồi thường.
- Theo Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP tại khoản 2 Điều 8 quy định các chi phí hợp
lý cho việc mai táng bao gồm: “mua quan tài; chi phí hỏa táng, chôn cất; các vật dụng
cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản
chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo phong tục, tập quán
địa phương. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây
mộ, bốc mộ”.
Qua đó, chi phí đi dự tang lễ không được liệt kê trong danh sách được bồi thường. Ở
phần chi phí không được bồi thường thì kết thúc danh sách là dấu chấm “.” tức là đây
là danh sách đóng, những chi phí được liệt kê thì được xem là chi phí không được bồi
thường. Có thể thấy rằng chi phí dự tang lễ không được liệt kê trong cả danh sách được
bồi thường lẫn danh sách không được bồi thường. Thế nên để xác định chi phí dự lễ
tang có được xem là chi phí được bồi thường không thì ở Nghị quyết 02 chưa có câu
trả lời.

2
Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ Luật Dân sự năm 2015 của nước CHXHCN Việt
Nam, Nhà xuất bản Công an Nhân Dân, tr.892.
9
1.3. Trong thực tiễn xét xử trước đây, chi phí đi lại dự lễ mai táng có được bồi
thường không? Nếu có, nêu vắn tắt thực tiễn xét xử đó?
Trong thực tiễn xét xử trước đây, chi phí đi lại dự lễ mai táng được tính là chi phí được
bồi thường. Cụ thể trong Quyết định số 20/HĐTP-HS ngày 24/12/2002 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Tóm tắt Quyết định: Bích điều khiển xe máy khiến cho xe đâm vào mẹ con chị Hạnh
khiến chị Hạnh tử vong còn con chị thì bị thương. Gia đình chị Hạnh yêu cầu Bích bồi
thường các khoản tiền: chi phí mai táng, xây mộ, tiền chi phí vé đi lại cho người thân
của bị hại và tiền trợ cấp nuôi con của chị Hạnh. Theo quyết định của Tòa sơ thẩm và
Tòa phúc thẩm thì cả hai đều giải quyết theo hướng chấp nhận yêu cầu bồi thường tiền
chi phí vé đi lại cho người thân tuy nhiên có sự khác nhau về số tiền bồi thường. Tòa
GĐT nhận định: “chi phí cho việc dự lễ tang cần được xem xét nhưng chỉ chấp nhận
đến với những người có quan hệ thân thích, gần gũi với nạn nhân như cha mẹ, vợ
chồng, anh chị em ruột, con đẻ đi bằng phương tiện máy bay để kịp dự tang lễ”. 3

1.4. Đoạn nào trong bản án của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang cho thấy Tòa án đã
chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay? Đây có là chi phí đi lại dự lễ mai
táng không?
Đoạn trong bản án cho thấy Tòa án đã chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy
bay bao gồm: “người bị hại là bà Nguyễn Thị Nuôi và Trần Thị Nguyệt (mẹ, vợ của bị
hại Được) yêu cầu bị cáo bồi thường các khoản tiền như sau: …, tiền vé máy bay từ
Singapore về Việt Nam là 12.000.000 đồng, …” và đoạn “xét thấy, yêu cầu đòi bồi
thường của đại diện hợp pháp của người bị hại Lê Văn Được là bà Nguyễn Thị Nuôi,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thơ hoàn toàn phù hợp với quy
định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội và được bị cáo đồng ý nên Hội đồng xét
xử chấp nhận”.4
Qua đó, tiền vé máy bay từ Singapore về Việt Nam được xác định là chi phí đi lại để
dự lễ mai táng.

1.5. Trong vụ việc trên, nếu chi phí máy bay trên là chi phí đi lại dự lễ mai táng, việc
cho bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 591 BLDS 2015 về các thiệt hại do tính mạng bị xâm
phạm bao gồm:
“a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định”.
Theo đó, chi phí đi lại dự lễ tang có thể được xem là chi phí hợp lý cho việc mai táng
tại điểm b. Mặc dù Nghị quyết 02 không liệt kê chi phí này trong danh sách những chi

3
Quyết định số 20/HĐTP-HS ngày 24/12/2002 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
4
Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.
10
phí hợp lý cho việc mai táng và cũng không liệt kê trong danh sách những chi phí
không được bồi thường. Nhưng theo quan điểm của tôi thì việc một cá nhân chết đi thì
gia đình của nạn nhân đều nên tham gia lễ tang của người đó và chi phí đi lại dự lễ tang
so với mất mát mà gia đình nạn nhân phải chịu là không đáng kể. Trong vụ việc này,
nếu cái chết của nạn nhân không xảy ra thì người thân ở xa của nạn nhân đã không phải
tốn tiền vé máy bay từ Singapore bay về Việt Nam. Vì vậy, theo tôi việc Tòa cho bồi
thường là thuyết phục.

1.6. Nếu chi phí trên là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự lễ tang thì chi phí đó
có được bồi thường không? Vì sao?
Nếu chi phí trên là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự lễ tang thì chi phí đó không
được bồi thường. Căn cứ theo khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng: “Chi phí hợp lý cho việc mai táng đối với các khoản tiền: mua quan
tài; chi phí hỏa táng, chôn cất; các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang,
hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc
hỏa táng nạn nhân theo phong tục, tập quán địa phương. Không chấp nhận yêu cầu bồi
thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ.” Do đó, bên phía người gây
thiệt hại không cần thiết phải bồi thường khoản chi phí này.

1.7. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp
dưỡng cho ai và không buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng cho ai?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trong Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang,
Tòa án buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tiền cấp dưỡng cho con người bị hại
và bồi thường những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác nhưng không phải
bồi thường tiền cấp dưỡng. Đoạn của Bán án có câu trả lời:
“Buộc bị cáo Lay Bun Thy bồi thường tiền chi phí mai táng, tiền tổn thất tinh thần cho
người bị hại Lê Văn Được tổng cộng 242.400.000 đồng, có khấu trừ 150.000.000 đồng
gia đình bị cáo đã giao nộp tại quá trình điều tra, số tiền còn lại bị cáo phải nộp là
92.400.000 đồng.
Ngoài ra, còn cấp dưỡng nuôi cháu Lê Văn Đạt, sinh ngày 24/01/2016 (con anh Được)
đến lúc trưởng thành (18 tuổi), mức cấp dưỡng bằng ½ tháng lương cơ bản do Nhà
nước quy định tại thời điểm thi hành án, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 7/2016 do
bà Nguyễn Thị Nuôi đại diện nhận.
Buộc bị cáo Lay Bun Thy phải bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Nguyễn Thị Thơ số tiền 3.000.000 đồng.”5
Trong Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc,
Tòa án buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tiền cấp dưỡng cho con người bị hại
và bồi thường những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác nhưng không phải
bồi thường tiền cấp dưỡng. Đoạn của Bán án có câu trả lời:
5
Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.
11
“Trong vụ án này, những khoản tiền pháp luật quy định bị cáo Nguyễn Văn A phải bồi
thường cho gia đình người bị hại Chu Văn D bao gồm: Tiền chi phí mai táng phí cho
gia đình người bị hại; Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm
cho gia đình người bị hại; tiền cấp dưỡng con chưa thành niên của người bị hại Chu
Văn D.”6

1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến người
được bồi thường tiền cấp dưỡng.
Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến người được bồi thường tiền cấp dưỡng
là hợp lý.
Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang:
Căn cứ theo khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân
sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
“3. Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng
hoặc nuôi dưỡng trước khi chết được xác định như sau:
a) Mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp
dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nhưng không thấp hơn 01
tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng;
b) Thời điểm cấp dưỡng được tính từ thời điểm người bị thiệt hại bị xâm phạm về sức
khỏe;
c) Đối tượng được bồi thường tiền cấp dưỡng là những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.”
Tòa án xác định đối tượng được cấp dưỡng là con chưa thành niên của người bị hại là
cháu Lê Thành Đạt (24/01/2016), mức cấp dưỡng bằng ½ tháng lương cơ bản do Nhà
nước quy định tại thời điểm thi hành án và thời điểm cấp dưỡng được tính từ tháng
7/2016 do bà Nguyễn Thị Nuôi đại diện nhận đến khi cháu đủ 18 tuổi.
Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc:
Căn cứ theo khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân
sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
“3. Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng
hoặc nuôi dưỡng trước khi chết được xác định như sau:
a) Mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp
dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nhưng không thấp hơn 01
tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng;
b) Thời điểm cấp dưỡng được tính từ thời điểm người bị thiệt hại bị xâm phạm về sức
khỏe;
c) Đối tượng được bồi thường tiền cấp dưỡng là những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.”
Tòa án xác định đối tượng được cấp dưỡng là con chưa thành niên của người bị hại là
cháu Chu Đức P (30/12/1999), mức cấp dưỡng bằng ½ mức lương cơ sở do pháp luật
6
Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
12
quy định là 605.000 đồng/tháng, thời điểm cấp dưỡng kể từ tháng 10/2016 đến khi
cháu đủ 18 tuổi. Trường hợp gia đình người bị hại yêu cầu tiền cấp dưỡng cho bố mẹ
người bị hại khi về già, căn cứ khoản 2 Điều 591 BLDS 2015:
“2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị
xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người
bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại
được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên
thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị
xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Đối với bố mẹ là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại sẽ được bồi
thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần chứ không phải tiền cấp dưỡng.
Vì vậy, Tòa án không giải quyết là hợp lý bởi vì pháp luật không quy định.

1.9. Trong bản án số 26, Tòa án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện một lần
hay nhiều lần?
Trong Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang ghi nhận: “Ngoài ra, còn tiền cấp dưỡng của cháu Lê Thành Đạt, sinh ngày
24/01/2016 (con anh Được) đến lúc trưởng thành (18 tuổi), mức cấp dưỡng bằng ½
tháng lương cơ bản do Nhà nước quy định tại thời điểm thi hành án, thời gian cấp
dưỡng tính từ tháng 7 năm 2016 do bà Nguyễn Thị Nuôi đại diện nhận.”7
Trong Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc ghi nhận: “Hiện nay người bị hại Chu Văn D có một người con chưa thành niên
là Chu Đức P, sinh ngày 30/12/1999 nên buộc bị cáo có nghĩa vụ cấp dưỡng, thời hạn
kể từ khi người bị hại chết cho đến khi con người bị hại đủ 18 tuổi. Mức cấp dưỡng
tương đương 1/2 mức lương cơ sở do pháp luật quy định. Gia đình người bị hại yêu
cầu cấp dưỡng một lần, bị cáo không đồng ý và có đề nghị giải quyết theo quy định của
pháp luật. Do vậy Hội đồng xét xử cần buộc bị cáo phải cấp dưỡng hàng tháng là phù
hợp quy định của pháp luật”. 8
Vì thế, trong cả hai bản án, Tòa án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện nhiều
lần.

1.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án liên quan đến
cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Hướng giải quyết nêu trên của Tòa án liên quan đến cách thức thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng là hợp lý.
Thứ nhất, việc thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng hàng tháng chỉ kết thúc khi con chưa
thành niên của người bị hại đủ 18 tuổi. Vậy thì quá trình cấp dưỡng này vẫn bị ràng
buộc bởi quyết định của Tòa án. Nếu bị cáo có bất kỳ sai phạm nào, quyết định của
7
Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.
8
Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
13
Tòa án sẽ là cơ sở bảo vệ cho quyền lợi cho người được cấp dưỡng. Đối với cấp dưỡng
một lần, trách nhiệm cấp dưỡng của bị cáo với người được cấp dưỡng đã hoàn thành,
số tiền cấp dưỡng được có sử dụng đúng mục đích, tinh thần pháp luật hay không
không còn thuộc phạm vi và ràng buộc của bản án nữa.
Thứ hai, căn cứ khoản 3 Điều 585 BLDS 2015 (khoản 3 Điều 605 BLDS năm
2005): “Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc
bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
thay đổi mức bồi thường”. Đối với trường hợp của Bản án số 26/2017/HSST ngày
29/05/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, ta không thể xác định số tiền 605.000
đồng/tháng có giữ nguyên được giá trị như khi thi hành bản án để cấp dưỡng cho đến
khi cháu P đến lúc đủ 18 tuổi hay sẽ làm tổn thất quyền lợi mà bên bị thiệt hại hoặc bên
gây thiệt hại lẽ ra không phải chịu. Vậy nên, đối với cách thức cấp dưỡng hàng tháng,
bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại đều có cơ hội được thay đổi mức cấp dưỡng khi
mức bồi thường không còn phù hợp.

Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại phát sinh trong tai nạn giao thông
*Tóm tắt Quyết định số 23/GĐT-DS ngày 2/2/2005 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao
Chủ thể: Anh Khoa, anh Bình, ông Khánh, và ông Dũng.
Nội dung: Quyết định số 23 về nói về vụ việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra, anh Bình có điều khiển xe đạp đi giữa hai làn đường dành cho xe cơ
giới, khi nghe tiếng còi ô tô phía sau, anh đã đánh xe sang phía bên trái. Ông Dũng
chạy xe ở phía sau, do không làm chủ tốc độ, tay lái và không giữ khoảng cách an toàn
nên anh anh Dũng đã va quẹt với xe anh Bình, kéo xe đi từ 5-6m sau đó mới dừng lại.
Đồng thời khi đó, xe ô tô của anh Khoa từ phía sau do không làm chủ được tốc độ và
tay lái nên đã kéo rê xe anh Bình thêm 20m và sau đó mới dừng lại. Vụ án đã được Tòa
tuyên chủ phương tiện ô tô là ông Khánh phải bồi thường cho anh Bình (Khoản 2 Điều
627 BLDS 1997).

*Tóm tắt Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2006 của Tòa hình sự Tòa án
nhân dân tối cao
Bị cáo: Nguyễn Thị Tuyết Trinh.
Bị hại: Nguyễn Thị Giỏi (đã chết).
Nội dung: Ngày 20/3/2005, Nguyễn Thị Tuyết Trinh nhờ Nguyễn Văn Giang điều
khiển xe mô tô (do ông Dương Văn Mướt đứng tên chủ sở hữu xe) chở bà Phạm Thị
Phê và bà Phạm Thị Huôl về nhà. Nguyễn Văn Giang lấy xe chở bà Phê và bà Huôi đi
được khoảng 1km thì đâm vào bà Nguyễn Thị Giỏi đang đi bộ qua đường khiến bà
Giỏi bị chấn thương sọ não và chết trên đường đi cấp cứu. Tòa án cấp phúc thẩm xử
phạt Trinh 18 tháng tù về tội
“giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ”,
nhưng cho hưởng án treo và buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Vồi
và chấp nhận yêu cầu bồi thường tiền tổn thất tinh thần là 17.500.000 đồng (tương
đương với 50 tháng lương tối thiểu) theo yêu cầu kháng cáo của bà Vồi. Giao hồ sơ vụ
14
án cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật.

2.1. Thay đổi về các quy định liên quan tới Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra giữa BLDS 2005 và BLDS 2015?
Sự thay đổi Bộ Luật Dân sự 2005 Bộ Luật Dân sự 2015
Chủ thể bồi Khoản 3,4 Điều 623 BLDS Khoản 2,3,4 Điều 601 BLDS
thường thiệt hại 2005 quy định: 2015 quy định:
ngay cả khi “3. Chủ sở hữu, người được chủ “3. Chủ sở hữu, người chiếm
không có lỗi sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
nguồn nguy hiểm cao độ phải cao độ phải bồi thường thiệt hại
bồi thường thiệt hại cả khi cả khi không có lỗi, trừ trường
không có lỗi, trừ các trường hợp hợp sau đây:
sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế
hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp
cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
luật có quy định khác. 4. Trường hợp nguồn nguy hiểm
4. Trong trường hợp nguồn cao độ bị chiếm hữu, sử dụng
nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, trái pháp luật thì người đang
sử dụng trái pháp luật thì người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
đang chiếm hữu, sử dụng nguồn hiểm cao độ trái pháp luật phải
nguy hiểm cao độ trái pháp luật bồi thường thiệt hại.
phải bồi thường thiệt hại. Khi chủ sở hữu, người chiếm
Khi chủ sở hữu, người được chủ hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng cao độ có lỗi trong việc để
nguồn nguy hiểm cao độ cũng nguồn nguy hiểm cao độ bị
có lỗi trong việc để nguồn nguy chiếm hữu, sử dụng trái pháp
hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử luật thì phải liên đới bồi thường
dụng trái pháp luật thì phải liên thiệt hại.”
đới bồi thường thiệt hại.”  Như vậy, Điều 601 BLDS
 Như vậy, Điều 623 BLDS 2015 quy định những người có
2005 quy định những người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ bao
do nguồn nguy hiểm cao độ gây gồm: người chiếm hữu, sử dụng
ra gồm: Chủ sở hữu; người được nguồn nguy hiểm cao độ.
chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử Những chủ thể chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ; dụng nguồn nguy hiểm cao độ
người đang chiếm hữu, sử dụng có thể theo sự chuyển giao của
nguồn nguy hiểm cao độ trái chủ sở hữu hoặc của một chủ
pháp luật. thể khác hoặc do họ tự chiếm
15
Đối với những chủ thể chiếm hữu, sử dụng thông qua một sự
hữu có căn cứ pháp luật nhưng kiện nhất định.
không phải theo sự chuyển giao  Từ quy định trên có thể thấy
của chủ sở hữu tài sản Điều luật so với BLDS 2005, thì phạm vi
này chưa đề cập đến. chủ thể quy định ở BLDS 2015
 Phạm vi chủ thể hẹp so với rộng hơn.
BLDS 2015. Việc sử dụng cụm từ “người
chiếm hữu, sử dụng” đã mở
rộng trách nhiệm bồi thường và
đảm bảo cho người bị thiệt hại
càng có cơ hội được bồi thường.
Bởi lẽ, trong thực tiễn, việc xác
định giao hay không giao quyền
giữa chủ sở hữu và người chiếm
hữu, sử dụng là rất khó.
Nghĩa vụ của chủ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
sở hữu cao độ phải vận hành, sử dụng, cao độ phải tuân thủ các quy
bảo quản trông giữ, vận chuyển định bảo quản, trông giữ vận
nguồn nguy hiểm cao độ theo chuyển, sử dụng nguồn nguy
đúng quy định của pháp luật. hiểm cao độ theo đúng các quy
(Khoản 1 Điều 623 BLDS định của pháp luật.
2005). (Khoản 1 Điều 601 BLDS
2015).

2.2. Xe máy, ô tô có là nguồn nguy hiểm cao độ không? Vì sao?


Theo Khoản 1 Điều 601 BLDS 2015 thì:
“Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống
tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc,
chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”.
Và theo Khoản 18 Điều 3 của Luật giao thông đường bộ 2008:
“Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô;
máy kéo, rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo xe mô tô hai bánh
xe ô tô ba bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự”.
Như vậy, căn cứ từ hai quy định trên thì xe máy, ô tô là phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ theo quy định của Luật giao thông đường bộ nên được coi là nguồn nguy
hiểm cao độ theo quy định trong BLDS 2015.

2.3. Trong hai vụ việc trên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay do hành
vi của con người gây ra? Vì sao?
Thiệt hại trong hai vụ việc trên là do hành vi của con người gây ra.
Bởi vì nếu người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn tuân thủ quy tắc an
toàn giao thông thì sẽ không có tai nạn xảy ra. Thiệt hại phải do chính sự tác động của
16
bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây
ra.
Trong Quyết định số 23: Thiệt hại do hành vi của con người gây ra.
Bởi lẽ, anh Khoa khi điều khiển ô tô đã phát hiện được xe đạp của anh Bình và xe ông
Dũng phía trước nhưng do không làm chủ được tốc độ và tay lái nên đã để ô tô chèn
qua xe đạp anh Bình. Trong trường hợp này ô tô là phương tiện còn người điều khiển
sử dụng gây thiệt hại.
Trong Quyết định số 30: Thiệt hại do hành vi của con người gây ra.
Bởi lẽ, hành vi điều khiển xe mô tô của Nguyễn Văn Giang là hành vi vi phạm. Xe
moto trong tình huống này là phương tiện còn người điều khiển sử dụng phương tiện là
người gây thiệt hại.

2.4. Trong hai vụ việc trên, đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các
quy định của chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Đoạn mà Tòa án đã vận dụng các quy định của chế định bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, cụ thể là:
Quyết định số 23/2005/GĐT-DS ngày 2/2/2005: “Tòa án cấp phúc thẩm buộc chủ
phương tiện là ông Khánh bồi thường cho anh Bình là đúng, nhưng lại áp dụng khoản
3, Điều 627 là không chính xác, mà phải áp dụng khoản 2, Điều 627 Bộ luật Dân sự
mới đúng. Đồng thời, Tòa án các cấp không dành cho ông Khánh quyền khởi kiện yêu
cầu anh Khoa bồi thường cho ông Khánh số tiền mà ông bồi thường cho anh Bình do
lỗi của anh Khoa, nếu ông Khánh và ông Khoa không tự thương lượng giải quyết được
là không đảm bảo quyền lợi cho ông Khánh.”9
Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2006: “Về trách nhiệm dân sự của
Nguyễn Văn Giang: Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 627
Bộ luật Dân sự năm 1995) về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
và hướng dẫn tại điểm b khoản 2 mục III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thì “Trong trường hợp chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ không đúng quy định của pháp luật thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại xảy
ra.”10

2.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng các quy định của chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Việc Toà giám đốc thẩm cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được yêu cầu
người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải bồi hoàn khoản tiền mà chủ
sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại là hợp lý. Bởi lẽ, việc này đã giúp bảo vệ
quyền lợi và lợi ích cho chủ sở hữu do họ không phải là người có lỗi gây ra tai nạn.
Trong trường hợp này anh Khoa là người làm công cho ông Khánh và anh Khoa có lỗi
gây ra thiệt hại cho anh Bình. Căn cứ Điều 600 Bộ luật Dân sự 2015 về trách nhiệm
9
Quyết định số 23/2005/GĐT-DS ngày 2/2/2005 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
10
Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2009 của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao.
17
bồi thường của người làm công thì ông Khánh có quyền yêu cầu anh Khoa bồi hoàn lại
số tiền mà ông đã bồi thường cho anh Bình.
Ở góc độ văn bản, việc Tòa án vận dụng các quy định của chế định bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo nhóm em là chưa thực sự có sự thuyết phục.
Chế định “bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” được áp dụng khi
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trong khi đó, việc gây thiệt hại ở đây
không phải do hành vi có lỗi của con người mà thực chất đến từ sự hoạt động của bản
thân nguồn nguy hiểm cao độ.
Xét từ góc độ thực tiễn, nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì chủ sở hữu phải bồi thường
mà không xem xét ai đang chiếm giữ sử dụng khi hậu quả xảy ra là không chính xác
(như trong các vụ tai nạn giao thông, chủ xe phải bồi thường - không bảo vệ quyền và
lợi ích của chủ sở hữu). Thực tế việc áp dụng này có một hệ quả quan trọng là tạo điều
kiện thuận lợi cho nạn nhân. Do đó, nếu xét từ góc độ văn bản, thực tiễn xét xử là
không thuyết phục nhưng nhìn từ góc độ hệ quả của việc áp dụng thì đây có thể được
xem là hướng giải quyết đáng được khích lệ.

2.6. Trong Quyết định số 30, đoạn nào cho thấy Tòa án buộc bà Trinh bồi thường
thiệt hại?
Trong Quyết định số 30, đoạn cho thấy Tòa án buộc Bà Trinh bồi thường thiệt hại là:
“Nguyễn Thị Tuyết Trinh giao nguồn nguy hiểm cao độ cho Nguyễn Văn Giang sử
dụng trái pháp luật, do đó Trinh là người có trách nhiệm bồi thường khi thiệt hại xảy
ra”.11

2.7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt hại.
Toà án buộc bà Trinh bồi thường thiệt hại là không hợp lý. Việc bà Trinh giao xe cho
Giang điều khiển là sai. Theo khoản 4 Điều 601 BLDS 2015 quy định: “Khi chủ sở
hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn
nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường
thiệt hại.”. Vì thế bà Trinh không phải là chủ sở hữu của chiếc xe mô tô mà bà chỉ là
người chiếm hữu (chồng bà là ông Mướt đứng tên chủ sở hữu xe) và đồng thời bản
thân bà Trinh biết rằng Giang chưa đủ tuổi để điều khiển xe nhưng vẫn cố ý giao xe
cho Giang chở người khác, tức là bà đã vi phạm hành vi cố ý để người khác sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật nên Toà đúng trong việc buộc bà Trinh phải bồi
thường thiệt hại do cố ý sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
Không chỉ mình bà Trinh phải bồi thường thiệt hại mà Giang (do cha, mẹ là ông
Trường và bà Lài đại diện) cũng phải có trách nhiệm bồi thường, có thể hiểu Giang là
người chưa đến tuổi thành niên nhưng đã sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp
luật. Theo khoản 3 Điều 586 BLDS 2015 quy định: “3. Người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây
thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được
giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài
11
Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2009 của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao.
18
sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người
giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài
sản của mình để bồi thường.”. Trong trường hợp này, người giám hộ và đại diện cho
Giang là ông Trường và bà Lài cũng phải có trách nhiệm trong việc bồi thường thiệt
hại vì Giang cũng đã gây ra thiệt hại, phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cá
nhân mà ở đây Toà chưa nhắc đến vấn đề này.
Ông Mướt - chồng bà Trinh là người đứng tên chủ sở hữu xe mô tô. Theo khoản 4
Điều 601 BLDS 2015 quy định: “Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại”, ông Mướt là chủ sở hữu chiếc xe
mô tô cũng phải chịu một phần trách nhiệm liên đới với bà Trinh trong việc đưa người
khác sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật.

2.8. Trên cơ sở Điều 604 BLDS 2005, Điều 584 BLDS 2015, Tòa án có thể buộc
Giang bồi thường thiệt hại không? Vì sao?
Trên cơ sở Điều 604 BLDS 2005, Điều 584 BLDS 2015, Tòa án có thể buộc Giang bồi
thường thiệt hại.
Căn cứ Điều 604 BLDS 2005: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của
cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường.”
Và Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan
quy định khác.”
Giang thỏa mãn đủ 3 yếu tố để buộc phải bồi thường thiệt hại gồm:
+ Có việc xâm phạm tới quyền lợi ích hợp pháp người khác là hành vi sử dụng xe máy
đâm vào bà Giỏi đang đi bộ.
+ Có thiệt hại là bà Giỏi bị chấn thương sọ não và chết trên đường đi cấp cứu.
+ Có quan hệ nhân quả là hành vi điều khiển xe máy của bà Giang trực tiếp đâm vào bà
giỏi khiến bà bị chấn thương sọ não và chết.
Ngoài ra theo quy định tại BLDS 2005 còn 1 yếu tố nữa đó là: Có lỗi của người gây
thiệt hại là hành vi vô ý điều khiển xe máy của bà Giang đâm vào bà Giỏi.
Như vậy, cả 2 trường hợp áp dụng BLDS 2015 và BLDS 2005 Giang đều phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại vì hành vi xâm hại tính mạng của bà Giỏi.

2.9. Theo Nghị quyết số 03 và 02, chi phí xây mộ và chụp ảnh có được bồi thường
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo khoản 2.2 mục II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì chi phí xây mộ và chụp
ảnh không được bồi thường. Chi phí xây mộ và chụp ảnh không được bồi thường đồng
thời cũng được ghi nhận ở khoản 1 Điều 610 BLDS 2005 quy định về thiệt hại do tính
mạng bị xâm phạm:
19
“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi
chết;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng”.

2.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm và của Tòa giám
đốc thẩm liên quan đến chi phí xây mộ và chụp ảnh.
Hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm là chưa thật sự thuyết phục và hướng quyết định
của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến chi phí xây mộ và chụp ảnh là thuyết phục.
Tòa án phúc thẩm xác định chi phí xây mộ và chụp ảnh cũng nằm trong phần bồi
thường mà bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn mà chưa có sức thuyết phúc hay lý
giải rõ ràng. Đáng lẽ, nếu đưa vào Tòa án phúc thẩm cần có lời giải thích rõ ràng để
chứng minh cho hướng giải quyết của mình trong trường hợp nêu trên.
Đối với Tòa giám đốc thẩm, trong vụ án nêu trên Tòa giám đốc thẩm đã bác bỏ lập
luận của Tòa phúc thẩm về khoản xây mộ và chụp ảnh cũng như viện dẫn rõ quy định
tại khoản 2.2 Mục II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP. Cụ thể, tại khoản 2.2 Hội đồng
thẩm phán đã không chấp nhận việc xây mộ là khoản chi phí hợp lý đồng thời có
những khoản khác chưa được liệt kê (gợi ý mở) để xem đó là chi phí hợp lý để bồi
thường. Nhìn chung, hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm trong trường hợp này là
hợp tình, hợp lý, đảm bảo quyền lợi cho các bên đồng thời thể hiện rõ và làm sáng tỏ
các khoản chi phí cần bồi thường khi gây ra thiệt hại và tránh trường hợp những khoản
phí bồi thường thực sự chưa phù hợp và quá mức trong trường hợp nêu trên.

2.11. Trong Quyết định số 23, đoạn nào cho thấy Bình là người bị thiệt hại?
Trong phần xét thấy của Tòa, đoạn cho thấy Bình là người bị thiệt hại: “Khi đó ông
Dũng điều khiển xe máy do không làm chủ tốc độ, không đảm bảo khoảng cách an toàn
khi tránh vượt và không làm chủ được tay lái khi tham gia giao thông nên đã để xe máy
va quệt với xe đạp và kéo xe đạp của anh Bình đi được 5-6m mới dừng lại được.
Còn anh Khoa khi điều khiển ôtô đã phát hiện được xe đạp của anh Bình phía trước,
sau đó là xe của ông Dũng, nhưng do không làm chủ được tốc độ, tay lái nên đã để xe
ô tô chèn qua xe đạp của anh Bình sau khi xe ông Dũng va quệt với xe anh Bình và kéo
rê đi được gần 20m mới dừng.”12
Và đoạn: “Tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định trong trường hợp này cả anh Bình,
ông Dũng và anh Khoa cùng có lỗi gây ra vụ tai nạn trên và gây thiệt hại cho anh Bình
(trong đó anh Bình có lỗi chính) là đúng cơ sở pháp luật.”13

12
Quyết định số 23/2005/GĐT-DS ngày 2-2-2005 của Tòa dân sự Toà án nhân dân tối cao.
13
Quyết định số 23/2005/GĐT-DS ngày 2-2-2005 của Tòa dân sự Toà án nhân dân tối cao.
20
2.12. Ông Khánh có trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình không? Vì sao?
Ông Khánh không trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình. Là bởi ông Khánh là chủ
phương tiện nhưng ông đã giao chiếc xe cho Khoa và Khoa đã điều khiển chiếc ôtô này
và gây thiệt hại.

2.13. Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh Bình với tư cách nào? Vì sao?
Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh Bình với tư cách chủ sở hữu phương tiện
gây thiệt hại.
Tòa đã căn cứ theo khoản 2 Điều 627 BLDS 1995: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã
giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng, thì những người này phải bồi thường, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.”
Trong trường hợp này anh Khánh là chủ sở hữu chiếc ô tô (nguồn nguy hiểm cao độ)
đã giao cho Khoa sử dụng, thì anh Khánh phải bồi thường.

2.14. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh
Bình.
Việc Toà án buộc không ông Khánh bồi thường cho anh Bình vẫn chưa thực sự hợp lý.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 627 BLDS 1995: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao
cho người khác chiếm hữu, sử dụng, thì những người này phải bồi thường, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác.”
Và trong khoản 2 Điều 601 BLDS 2015: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho
người khác chiếm hữu, sử dụng, thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.”
Trong Quyết định trên, ông Khánh đã giao chiếc ôtô cho anh Khoa và chính anh điều
khiển chiếc xe gây thiệt hại nên anh Khoa phải bồi thường.
Đã có quan điểm được đưa ra cho rằng người được giao sử dụng tài sản phải bồi
thường: “Trong trường hợp chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật, khi nguồn nguy hiểm cao
độ gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác thì người được giao này phải bồi thường.”14
Nhóm em đồng tình với quan điểm trên, là bởi khi chủ sở hữu đã giao cho người khác
sử dụng tức là việc người đó sử dụng vào việc gì là ngoài tầm kiểm soát của chủ sở
hữu và việc gây ra tai nạn cũng không thể lường trước nên không thể buộc chủ sở hữu
phải bồi thường mà cần xem xét đến trách nhiệm của người được giao sử dụng.
Tuy nhiên, nếu Toà theo hướng ông Khánh phải bồi thường thì cũng cần xem xét đến
trách nhiệm của anh Khoa. Theo quy định BLDS 1995 cũng như BLDS hiện hành thì
đều đề cập đến việc có thỏa thuận. Và trong trường hợp này ông Khánh và Khoa có thể

14
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 421.
21
thỏa thuận với nhau để Khoa bồi thường cho ông Khánh số tiền mà ông bồi thường cho
ông Bình do lỗi của anh Khoa, và việc thỏa thuận cũng đảm bảo được lợi ích cho ông
Khánh.

2.15. Bình có lỗi trong việc để thiệt hại phát sinh không? Đoạn nào của bản án cho
câu trả lời?
Bình có lỗi trong việc để thiệt hại phát sinh. Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Tòa cấp
sơ thẩm, phúc thẩm xác định trong trường hợp này cả anh Bình, ông Dũng và anh
Khoa cùng có lỗi gây ra vụ tai nạn trên và gây thiệt hại cho anh Bình (trong đó anh
Bình có lỗi chính) là đúng cơ sở pháp luật.”15

2.16. Đoạn nào cho thấy, Tòa giám đốc thẩm không theo hướng buộc ông Dũng và
ông Khánh bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Bình?
Ở đoạn 4 phần Xét thấy, Tòa giám đốc thẩm không theo hướng buộc ông Dũng và ông
Khánh bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Bình: “Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm, phúc
thẩm xác định trong trường hợp này cả anh Bình, ông Dũng và anh Khoa cùng có lỗi
gây ra vụ tai nạn trên và gây thiệt hại cho anh Bình (trong đó anh Bình có lỗi chính) là
có cơ sở đúng pháp luật. Đồng thời cấp phúc thẩm xác định tổng số thiệt hại của anh
Bình là 13.095.418 đồng là có căn cứ. Nhưng lại buộc ông Dũng và ông Khánh bồi
thường toàn bộ, mà không xem xét đến trách nhiệm của anh Bình là không chính
xác.”16

2.17. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm hoàn toàn hợp lý, đúng đắn. Vì các
đương sự điều thừa nhận lỗi của mình. Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm đã xác định
trong trường hợp này cả anh Bình, ông Dũng và anh Khoa cũng có lỗi gây ra vụ tai
nạn.
- Anh Bình là người đi sai làn đường khi anh điều khiển xe đạp đi vào giữa hai làn
đường dành cho xe cơ giới.
- Anh Dũng có lỗi khi không làm chủ được tốc độ, tay lái nên đã va quẹt và kéo xe anh
Bình gần 5 - 6m rồi mới dừng lại.
- Anh Khoa có lỗi trong việc không làm chủ được tốc độ, tay lái nên để ôtô chèn qua
xe anh Bình và kéo rê gần 20m trước khi dừng lại. Nhưng do ông Khánh là chủ sở hữu
của chiếc xe ôtô trên nên ông Khánh có nghĩa vụ phải bồi thường cho anh Bình.
Và xác định tổng thiệt hại cho anh Bình là 13.006.418 đồng là có căn cứ. Nhưng lại
buộc ông Dũng và ông Khánh bồi thường tuyệt đối mà không xem lại trách nhiệm của
anh Bình là không phù hợp. Do đó, Tòa cấp phúc thẩm buộc chủ phương tiện là ông
Khánh bồi thường cho anh Bình là có căn cứ dựa trên khoản 2 Điều 627 BLDS 1995
(khoản 2 Điều 601 BLDS 2015) thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ (oto) gây
15
Quyết định số 23/2005/GĐT-DS ngày 2-2-2005 của Tòa dân sự Toà án nhân dân tối cao.
16
Quyết định số 23/GĐT-DS ngày 2/2/2005 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
22
thiệt hại phải bồi thường. Song, Toà án các cấp không dành cho ông Khánh quyền khởi
kiện yêu cầu anh Khoa bồi thường cho ông Khánh số tiền mà ông bồi thường cho anh
Bình do lỗi của anh Khoa, nếu ông Khánh và ông Khoa không tự thương lượng giải
quyết được là không đảm bảo quyền lợi cho ông Khánh là phù hợp với quy định của
pháp luật.

2.18. BLDS và Nghị quyết số 03 và 02 có quy định cho phép chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi
hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không?
Trong BLDS và Nghị quyết số 03 và 02 đều không có quy định cho phép chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây
thiệt hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy
nhiên, chúng ta vẫn có thể áp dụng một số chế định khác trong BLDS như: Bồi thường
thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra (Điều 600), Bồi thường thiệt hại do
người thi hành công vụ gây ra (Điều 598), Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân
gây ra (Điều 597), khoản 2 Mục III Nghị quyết 03/2006,... để cho phép chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ có quyền yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây
thiệt hại phải bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu đã bồi thường cho người bị thiệt hại.

2.19. Tòa giám đốc thẩm có theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi hoàn
khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại không? Đoạn nào của
quyết định cho câu trả lời.
Tòa giám đốc thẩm có theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được
yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi thường hoàn khoản
tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại. Đoạn cho thấy câu trả lời: “Tòa
án các cấp không dành cho ông Khánh quyền khởi kiện yêu cầu anh Khoa bồi thường
cho ông Khánh số tiền mà ông bồi thường cho anh Bình do lỗi của anh Khoa,nếu ông
Khánh và ông Khoa không tự thương lượng giải quyết được là không đảm bảo quyền
lợi cho ông Khánh.”17

2.20. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa giám đốc thẩm theo hướng cho phép chủ sở
hữu nguồn nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại.
Việc Tòa giám đốc thẩm theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền
mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại là hợp lý. Căn cứ theo khoản 2 Điều
601 BLDS 2015:

17
Quyết định số 23/GĐT-DS ngày 2/2/2005 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
23
“Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những
người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác”, trong trường hợp này,
tuy ông Khánh là chủ sở hữu xe ô tô nhưng người sử dụng là anh Khoa nên anh Khoa
phải có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại do chính mình gây ra. Và theo quy định
của pháp luật về nguyên tắc bồi thường thiệt hại thì thiệt hại phải được bồi thường toàn
bộ và kịp thời. Vì thế, chủ sở hữu ở đây là ông Khánh bồi thường là đúng quy định của
pháp luật, nhưng lỗi thuộc về anh Khoa nên Tòa đã cho phép ông Khánh có quyền yêu
cầu anh Khoa hoàn trả lại khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại là
hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, hướng giải quyết này chỉ phù hợp trong trường hợp người
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc gây thiệt hại. Ngược lại, nếu người
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi hoàn toàn không có lỗi thì không
phải hoàn trả cho chủ sở hữu. Mặc dù, như đã nêu ở trên, trong phần chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không có quy định về trách nhiệm
hoàn trả của người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nhưng nếu người sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì họ cũng nên chịu trách nhiệm về
hành vi có lỗi của mình, tức là hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền mà chủ sở hữu đã bỏ
ra để bồi thường thiệt hại. Điều này giúp bảo vệ tốt quyền lợi của chủ sở hữu.

Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại trong hay ngoài hợp đồng
*Tóm tắt Quyết định số 451/2011/DS-GĐT ngày 20/6/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao
Nguyên đơn: Ông Đào Văn Nghinh
Bị đơn: Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Yên Đỗ
Nội dung: Ông Nghinh vay Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Yên Đỗ số tiền 2.000.000 đồng, thời hạn vay 08 tháng với lãi suất 2.5%/tháng. Khi vay
ông có thế chấp một căn nhà. Ông Nghinh trả một tháng tiền lãi và vì kinh tế khó khăn
nên ông không kịp trả lãi nên Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Yên Đỗ đã tổ chức bán đấu giá ngôi nhà ông đã thế chấp để thu hồi nợ. Ông khởi
kiện yêu cầu Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Yên Đỗ bồi
thường thiệt hại. Tòa án quyết định hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 66/2007/QĐ-PT ngày 23/11/2007 của
TAND tỉnh Gia Lai và hủy Quyết định 42/2007/QĐST-DS ngày 5/6/2007 TAND TP
Pleiku, tỉnh Gia Lai. Giao hồ sơ vụ án cho TAND TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ
thẩm lại theo quy định của pháp luật.

*Tóm tắt Bản án số 750/2008/DSPT ngày 17/07/2008 của Tòa án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh
Nguyên đơn: Bà Võ Thị Yến Phi.
Bị đơn: Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung: Ngày 31/8/2006, bệnh nhân Bá được chuyển từ Bệnh viện Đại học Y dược
thành phố Hồ Chí Minh sang Bệnh viện chợ rẫy và mất vào sáng ngày 09/9/2006. Bà
Võ Thị Yến Phi, vợ ông Bá khởi kiện yêu cầu Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố
24
Hồ Chí Minh bồi thường thiệt hại vì đã gây ra cái chết của ông Bá với chứng cứ là
những kết luận của cơ quan Thanh tra Bộ Y tế tiến hành thanh tra sau khi ông Bá chết.
Bà Phi cho rằng ekip phẫu thuật gây nên cái chết của ông Bá nhưng không chứng minh
được, nên không thể kết luận ekip mổ đã có hành vi vi phạm hoặc có lỗi (kể cả lỗi vô
ý) gây nên cái chết của ông Bá. Như vậy những người trực tiếp chữa trị cho bệnh nhân
Bá hoàn toàn không có lỗi, mà theo quy định của pháp luật không có lỗi của người gây
thiệt hại thì không có cơ sở để giải quyết việc bồi thường. Do đó Tòa đã không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phi. Tòa quyết định không chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của nguyên đơn. Không Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phi yêu cầu Bệnh viện
Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh bồi thường thiệt hại. Không chấp nhận yêu
cầu của Bệnh viện đòi lại số tiền mà bà Phi đã nhận.

3.1. Những điểm khác nhau cơ bản giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Tiêu Bồi thường thiệt hại trong hợp Bồi thường thiệt hại trong hợp
chí đồng đồng
Nguồn Do sự thỏa thuận giữa hai bên, được Do quy định của pháp luật, không
gốc quy định trong hợp đồng. phụ thuộc vào hợp đồng.
phát Có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo Do có thiệt hại xảy ra nên mục đích
sinh hợp đồng. của bồi thường thiệt hại ngoài hợp
Đã gây ra thiệt hại. đồng là phục hồi lại tình trạng như
ban đầu.
Căn cứ Thiệt hại không phải là điều kiện bắt Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
phát buộc. thường thiệt hại ngoài hợp đồng gồm:
sinh Chỉ cần có hành vi vi phạm nghĩa vụ hành vi vi phạm pháp luật, có thiệt
trách đã có thể phát sinh trách nhiệm dân hại thực tế, có mối quan hệ nhân quả
nhiệm sự. giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
Bên vi phạm vẫn phải chịu trách thực tế, yếu tố lỗi.
nhiệm dù đã có hay chưa có thiệt hại Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật
xảy ra khi bên kia bị vi phạm hợp chất và tinh thần, thiệt hại là điều
đồng. kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi
Hai bên có thể dự liệu và thỏa thuận thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
trước về các trường hợp thiệt hại do
vi phạm hợp đồng và cách thức chịu
trách nhiệm như bồi thường thiệt hại
hay phạt vi phạm hợp đồng.
Thời Kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực Kể từ thời điểm xảy ra hành vi gây
điểm và có bên vi phạm nghĩa vụ hợp thiệt hại.
phát đồng.
25
sinh
trách
nhiệm
Phương Giữa bên có thể thỏa thuận mức bồi Bên gây thiệt hại phải bồi thường
thức, thường hay phạt vi phạm kể từ khi toàn bộ và kịp thời, cả thiệt hại trực
mức độ giao kết hợp đồng (thể hiện bản chất tiếp và thiệt hại gián tiếp, các bên
bồi thỏa thuận của hợp đồng). trong quan hệ trách nhiệm dân sự có
thường Có thể thỏa thuận thấp hơn hay cao thể không biết nhau và không biết
hơn mức thiệt hại xảy ra. trước việc sẽ xảy ra để làm phát sinh
quan hệ trách nhiệm dân sự, do đó
không thể thỏa thuận trước về việc
bồi thường.
Yếu tố Phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của Yếu tố lỗi không còn là căn cứ làm
lỗi người không thực hiện hoặc thực phát sinh trách nhiệm bồi thường
hiện không đúng hợp đồng, trừ thiệt hại ngoài hợp đồng, việc xác
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc định có lỗi vô ý hay không có lỗi chỉ
pháp luật có quy định khác. có ý nghĩa trong việc áp dụng giảm
nhẹ mức bồi thường.
Trách Trường hợp nhiều người cùng gây Trong trường hợp nhiều người cùng
nhiệm thiệt hại thì họ liên đới chịu trách gây thiệt hại thì họ đều phải chịu
liên đới nhiệm nếu khi giao kết hợp đồng họ trách nhiệm liên đới theo các quy
có thỏa thuận trước về vấn đề chịu định cụ thể của pháp luật dân sự.
trách nhiệm liên đới.

3.2. Trong hai vụ việc trên, có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và bên
bị yêu cầu bồi thường thiệt hại không? Vì sao?
Quyết định số 451/2011/DS-GĐT:
Ông Nghinh vay ngân hàng 2.000.000 đồng trong thời hạn 8 tháng, lãi suất 2,5%/tháng
để phục vụ cho sản xuất trong gia đình. Ông đã thế chấp căn nhà của mình để đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ, ông đã trả được một tháng tiền lãi thì do kinh tế khó khăn nên không
kịp trả lãi đúng hạn nữa. Ngân hàng mới tự ý bán đấu giá căn nhà của ông để thế chấp
thu hồi nợ, gây thiệt hại cho ông Nghinh.
Thực tế giữa hai bên tồn tại quan hệ hợp đồng, bởi trước khi ngân hàng cho ông
Nghinh vay tiền, giữa hai bên đã có sự thỏa thuận trước về thời hạn, mức lãi cũng như
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Tức là giữa hai bên đã có sự tồn tại của
quan hệ hợp đồng, ràng buộc quyền và nghĩa vụ của hai bên.
Tuy nhiên việc tranh chấp xảy ra là nằm ngoài khuôn khổ của hợp đồng bởi vì hai bên
chỉ thỏa thuận là thế chấp căn nhà để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của ông Nghinh, chứ
không đề cập đến chuyện phải thông qua ông Nghinh hay Ngân hàng được toàn quyền
xử lý tài sản thế chấp khi ông Nghinh nợ quá hạn.
26
Bản án số 750/2008/DSPT:
Giữa bị hại là ông Trương Hoàng Bá và bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại là Bệnh
viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh có tồn tại quan hệ hợp đồng. Đó là việc
Bệnh viện tiến hành phẫu thuật nâng mũi môi phải cho ông. Vợ của ông Bá là bà Phi
khởi kiện bệnh viện Y dược thành phố Hồ Chí Minh phải bồi thường thiệt hại vì đã gây
ra cái chết của ông Bá. Còn giữa bên bị thiệt hại là bà Phi vợ ông Bá (thiệt hại về tinh
thần) và Bệnh viện thì không tồn tại quan hệ hợp đồng mà là trường hợp thiệt hại ngoài
hợp đồng.

3.3. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay trong hợp đồng? Vì sao?
Quyết định số 451/2011/DS-GĐT:
Bên vay là ông Nghinh và bên cho vay là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Yên Đỗ tồn tại hợp đồng vay có biện pháp bảo đảm bằng thế chấp và nội dung
của hợp đồng là về vấn đề vay tiền giữa ông Nghi và ngân hàng, còn ông Nghinh yêu
cầu bồi thường thiệt hại là do hành vi phát mãi không tuân theo quy định pháp luật, chứ
không phải quy định trong hợp đồng. Thiệt hại trên là thiệt hại phát sinh do hành vi trái
pháp luật và không nằm trong sự thỏa thuận của hai bên. Nên Tòa án đã sử dụng quy
định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để giải quyết, điều này được thể hiện rõ tại
đoạn 3 phần “Xét thấy” của Quyết định:
“Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng” là đúng. Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định “Tranh chấp về hợp
đồng dân sự là sai.”18
Bản án số 750/2008/DS-PT:
Tòa án không nêu rõ về việc xác định đây là bồi thường trong hay ngoài hợp đồng. Yêu
cầu của bà Phi là yêu cầu bồi thường thiệt hại vì gây ra cái chết và không được hai bên
dự liệu trong hợp đồng dịch vụ từ trước. Qua phần “Xét thấy”, Tòa án đã sử dụng quy
định tại Điều 604 BLDS 2005 (căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng) để giải thích vụ việc trên không thỏa mãn các căn cứ trên. Nên có thể thấy
Tòa án đã xác định quan hệ này là ngoài hợp đồng và yêu cầu của bên bị thiệt hại
không được chấp nhận do không thỏa mãn đủ căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường ngoài hợp đồng. Cụ thể tại đoạn trong phần “Xét thấy” của Bản án, Toà có nêu:
“Theo quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố: Phải có thiệt hại xảy ra; Phải
có hành vi trái pháp luật; Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành
vi trái pháp luật; Phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây thiệt hại.
Trong vụ kiện này, phía bà Phi không chứng minh được hành vi trái pháp luật của các
bác sĩ và ê kíp phẫu thuật của Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh. Đồng thời bà Phi cũng không đưa ra được những căn cứ để khẳng định các
bác sĩ và ê kíp phẫu thuật đó là có lỗi trong quá trình phẫu thuật u nang mũi môi phải
cho ông Trương Hoàng Bá.”19
18
Quyết định số 451/2011/DS-GĐT ngày 20/6/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
19
Bản án số 750/2008/DSPT ngày 17/07/2008 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
27
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong hai vụ việc trên về
vấn đề xác định bản chất pháp lý (trong hay ngoài hợp đồng) quan hệ bồi thường
giữa các bên.
Quyết định số 451/2011/DS-GĐT:
Hướng giải quyết của tòa án là chưa hợp lý. Vụ việc được tòa án nhận định là tranh
chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, với những dữ liệu được đưa ra thì
lại chưa đủ căn cứ để xác định đây là bồi thường ngoài hợp đồng. Căn cứ về có hành vi
gây thiệt hại và trái pháp luật, trong bản án trên hành vi gây thiệt hại là hành vi xử lý
tài sản bảo đảm (phát mãi), ở bản án trên tòa án chưa xác định được hành vi đó có trái
pháp luật không nên chưa đủ căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Việc phát mãi làm gây thiệt hại trên xuất phát từ việc xử lý tài sản bảo
đảm và việc này phát sinh từ việc do ông Nghi không thực hiện đúng nghĩa vụ nên cần
được coi là phát sinh trong hợp đồng.
Bản án số 750/2008/DSPT:
Hướng giải quyết của tòa án là hợp lý. Do không tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị
thiệt hại và bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại nên xác định tranh chấp là bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vấn đề 4: Buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ


*Tóm tắt Quyết định số 36/2013/KDTM-GĐT ngày 17/9/2013 của Tòa kinh tế Tòa án
nhân dân tối cao
Nguyên đơn: Công ty cổ phần Hồng Hà Bình Dương.
Bị đơn: Công ty TNHH DAMOOL VINA (Công ty VINA).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thế Giới
Nhà.
Nội dung: Công ty Hồng Hà và Công ty Vina ký kết thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng tài sản và nhà xưởng gắn liền quyền sử dụng đất của Công ty VINA tại khu
công nghiệp, cùng quá trình thực hiện hợp đồng thì có một hợp đồng nguyên tắc kèm
theo và Công ty VINA đã vi phạm hợp đồng đó. Công ty VINA lại hủy ký hợp đồng
chính thức với Công ty Cổ phần Hồng Hà, và đi ký hợp đồng với Công ty vật liệu xây
dựng Thế Giới Nhà. Sau đó, Công ty Hồng Hà khởi kiện yêu cầu Công ty VINA thực
hiện biện pháp đền bù cho hợp đồng chính. Nhưng Tòa địa phương buộc Công ty
VINA tiếp tục thực hiện hợp đồng với Công ty Hồng Hà và bồi thường cùng lúc. Công
ty VINA khởi kiện lại nhưng không được chấp thuận, về sau, Công ty vật liệu xây
dựng Thế Giới Nhà nộp kháng nghị thì được thay đổi chấp nhận cho Công ty Vina đền
bù tổn thất hợp đồng.
Quyết định của Toà án: Huỷ Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm và giao hồ sơ
vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.

28
*Tóm tắt Bản án số 418/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án nhân dân quận 10,
Tp. Hồ Chí Minh
Nguyên đơn: ông Trương Khắc V và bà Nguyễn Thị Thanh T.
Bị đơn: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển địa ốc K.
Người đại diện cho Bị đơn: Ông Trịnh Minh T.
Nội dung: Tranh chấp hợp đồng.
Công ty K và ông V, bà T có ký với nhau 1 hợp đồng mua bán căn hộ. Công ty K chậm
bàn giao căn hộ nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Công ty K bồi thường chi phí thuê
nhà. Tuy nhiên, nguyên đơn đã rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu Công ty
K phải trả lãi. Xét yêu cầu của nguyên đơn thì Công ty K phải có trách nhiệm làm các
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ chung cư. Tuy nhiên, đã quá 50 ngày
sau khi bàn giao nhà và phía nguyên đơn cũng không có văn bản đề nghị tự làm thủ tục
nêu trên nhưng Công ty K vẫn không tiến hành các thủ tục cấp giấy chứng nhận cho
nguyên đơn. Do đó, Tòa quyết định đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn bồi thường chi phí thuê nhà; đình chỉ xét xử việc
yêu cầu bị đơn trả lãi; buộc bị đơn làm các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu
căn hộ cho nguyên đơn.

4.1. Đối với vụ việc trong Quyết định số 36, đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương
đã buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng?
Đoạn trong Quyết định số 36 đã cho thấy Tòa án địa phương đã buộc các bên tiếp tục
thực hiện hợp đồng:
“Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 06/2010/KDTM-ST ngày 27/8/2010,
Toà án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
…Buộc Công ty TNHH Damool VINA tiếp tục thực hiện hợp đồng số 007/09/DMVN-
HHDT ngày 10/10/2009 giữa Công ty TNHH Damool VINA với Công ty cổ phần Hồng
Hà Bình Dương.”20

4.2. Hướng của Tòa án địa phương có được Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Hướng của Tòa án địa phương không được Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận.
Trong Quyết định số 36, phần Xét thấy, đoạn cho thấy Tòa án nhân dân tối cao không
chấp nhận quyết định của Tòa án địa phương là: “Trước và trong quá trình giải quyết
vụ án, Công ty VINA đều từ chối việc thực hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007 và đồng ý
chịu phạt 5% giá trị hợp đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
buộc Công ty Hồng Hà Bình Dương và Công ty VINA tiếp tục Hợp đồng nguyên tắc số
007 là không đúng.” 21

20
Quyết định số 36/2013/KDTM-GĐT ngày 17/9/2013 của Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao.
21
Quyết định số 36/2013/KDTM-GĐT ngày 17/9/2013 của Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao.
29
4.3. Vì sao Tòa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên? Đoạn nào của Quyết định
cho câu trả lời?
Tòa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên vì Công ty Hồng Hà Bình Dương khởi
kiện yêu cầu buộc Công ty VINA nếu không thực hiện theo cam kết tại hợp đồng
nguyên tắc thì phải chịu phạt theo thỏa thuận hợp đồng chứ không yêu cầu buộc Công
ty VINA tiếp tục thực hiện hợp đồng. Và trong quá trình giải quyết thì Công ty VINA
từ chối thực hiện hợp đồng nguyên tắc và chấp nhận chịu phạt theo thỏa thuận trong
hợp đồng.
Trong Quyết định số 36, phần Xét thấy, đoạn cho thấy câu trả lời là: “Công ty Hồng
Hà Bình Dương khởi kiện yêu cầu buộc Công ty VINA nếu không thực hiện theo cam
kết tại Hợp đồng nguyên tắc số 007 thì phải thanh toán cho Công ty Hồng Hà Bình
Dương tiền phạt theo thỏa thuận tại hợp đồng là 290.000USD x 5% = 14.500 USD.
Trước và trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty VINA đều từ chối việc thực hiện
Hợp đồng nguyên tắc số 007 và đồng ý chịu phạt 5% giá trị hợp đồng. Vì vậy, Tòa án
cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty Hồng Hà Bình Dương và Công ty
VINA tiếp tục Hợp đồng nguyên tắc số 007 là không đúng.”22

4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý, thuyết phục. Bởi vì:
Thứ nhất, yêu cầu khởi kiện của Công ty Hồng Hà Bình Dương là buộc Công ty
VINA nếu không thực hiện theo cam kết như trong hợp đồng nguyên tắc thì phải thanh
toán tiền phạt theo như đã thỏa thuận.
Thứ hai, Công ty VINA đã từ chối việc thực hiện hợp đồng nguyên tắc, thậm chí Công
ty VINA cũng đã từ chối ký hợp đồng chuyển nhượng chính thức mà thay vào đó là ký
hợp đồng chuyển nhượng với Công ty Thế Giới Nhà (đã thanh toán được 50%) và chấp
nhận chịu phạt hợp đồng.
Do đó việc Tòa án nhân dân tối cao có hướng giải quyết như trên là hoàn toàn hợp lý,
thuyết phục, và đảm bảo được yêu cầu của nguyên đơn.

4.5. Đối với vụ việc trong Bản án số 418, Công ty K có nghĩa vụ làm thủ tục để cấp
Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Vì sao?
Đối với vụ việc trong Bản án số 418, Công ty K phải có nghĩa vụ làm thủ tục để cấp
Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư là ông T, bà V.
Bởi vì theo như trong Hợp đồng mua bán được ký kết giữa ông V, bà T và Công ty K
thì: “Bên A (Công ty K) có nghĩa vụ hướng dẫn bên B (nguyên đơn) thực hiện các thủ
tục cần thiết liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu căn hộ. Sau khi hoàn thành công
trình bên A (Công ty K) phải bàn giao Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ cho bên
B (nguyên đơn) ngay khi được cơ quan chức năng cấp.” 23 Do đó căn cứ theo nội dung

22
Quyết định số 36/2013/KDTM-GĐT ngày 17/9/2013 của Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao.
23
Bản án số 418/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án nhân dân quận 10, Tp. Hồ Chí Minh.
30
hợp đồng thì Công ty K phải có nghĩa vụ làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho
người mua nhà chung cư là ông V, bà T.

4.6. Nghĩa vụ làm thủ tục trên đã bị vi phạm chưa và Tòa án có buộc Công ty K tiếp
tục làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Vì
sao?
Nghĩa vụ làm thủ tục trên đã bị vi phạm và Tòa án buộc Công ty K tiếp tục làm thủ tục
để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư là ông V, bà T. Bởi vì:
Thứ nhất, bên phía nguyên đơn có yêu cầu buộc phía Công ty K phải tiến hành các thủ
tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ.
Thứ hai, theo quy định tại hợp đồng mua bán căn hộ được ký giữa ông V, bà T và
Công ty K thì sau khi hoàn thành công trình thì Công ty K phải bàn giao Giấy chứng
nhận quyền sở hữu căn hộ cho ông V, bà T.
Thứ ba, đã quá 50 ngày sau khi bàn giao nhà và phía nguyên đơn cũng không có văn
bản đề nghị tự làm thủ tục nêu trên nhưng Công ty K vẫn không tiến hành các thủ tục
cấp giấy chứng nhận cho nguyên đơn. Do đó, Tòa án đã buộc Công ty K tiếp tục làm
thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho ông V, bà T.

4.7. Trên cơ sở văn bản, có quy định nào cho phép Tòa án buộc Công ty K tiếp tục
làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Nêu rõ
cơ sở văn bản khi trả lời.
Trên cơ sở văn bản, đã có quy định cho phép Toà án buộc Công ty K tiếp tục làm thủ
tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư.
Cụ thể, trong Hợp đồng mua bán số 0110/002T02-K1GV/HĐMB ngày 17/9/2012
quy định tại mục 5.7 Điều 5: “Bên A (Công ty K) có nghĩa vụ hướng dẫn bên B
(nguyên đơn) thực hiện các thủ tục cần thiết liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu
căn hộ. Sau khi hoàn thành công trình bên A (Công ty K) phải bàn giao Giấy chứng
nhận quyền sở hữu căn hộ cho bên B (nguyên đơn) ngay khi được cơ quan chức năng
cấp.”
Ngoài ra, khoản 4 Điều 13 Luật kinh doanh bất động sản 2014 có quy định về trách
nhiệm của chủ dự án đầu tư bất động sản như sau: “Trong thời hạn 50 ngày kể từ ngày,
kể từ ngày bàn giao nhà, công trình xây dựng cho người mua hoặc kể từ ngày hết hạn
thuê mua thì phải làm thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bên
mua, bên thuê mua, trừ trường hợp bên mua, bên thuê có văn bản đề nghị tự làm thủ
tục cấp giấy chứng nhận.”

4.8. Cho biết những cơ chế để việc buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hiệu quả trong
thực tế.
Cơ chế của việc buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ là tổng hợp các biện pháp cũng như
cách thức do các chủ thể có quyền thực hiện hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp
31
dụng nhằm tác động vào người có nghĩa vụ, cưỡng chế họ phải thực hiện đúng nghĩa
vụ mà họ đã cam kết thỏa thuận. Điều 352 BLDS 2015 đã quy định về trách nhiệm tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ, khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình
thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của họ. Nhờ
cơ chế như vậy, việc buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã đem đến hiệu quả trong thực
tế, cụ thể thường xảy ra trong các hợp đồng mua bán tài sản, đó là bảo vệ được quyền
lợi, lợi ích hợp pháp của bên có quyền trong các quan hệ nghĩa vụ khi người có nghĩa
vụ vi phạm: không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của
họ. Đồng thời, việc áp dụng các cơ chế này vào quá trình khởi kiện giúp hạn chế tối
thiểu thiệt hại cho cả hai bên.
Trên thực tế, cơ chế thường dùng để việc buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hiệu quả là
tiến hành khởi kiện bên vi phạm lên tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
2015.
Ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng tại Điều 418 BLDS
2015: “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi
phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.”. Trong trường hợp bên
có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ để buộc bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.

Vấn đề 5: Tìm kiếm tài liệu

Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2020
đến nay (ít nhất 20 bài). Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc
liệt kê phải thỏa mãn những thông tin theo trật tự như đã yêu trong buổi thảo luận
thứ 3.
1. Huỳnh Thị Nam Hải – Ngô Trần Hiếu Quỳnh – Guillemette Marraud Des Grottes,
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cha, mẹ đối với thiệt hại do con
chưa thành niên gây ra theo quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp và một số gợi ý
dành cho Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03 năm 2023, trang 50-58.
2. Đỗ Giang Nam – Đào Trọng Khôi, “Pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trước thách thức của trí tuệ nhân tạo và công nghệ số mới nổi”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 20 (468) tháng 10/2022, trang 03-14.
3. Đoàn Thị Ngọc Hải, “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, Số 1+2 năm 2020, trang 38-42.
4. Hồ Bảo, Bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm người khác
trong một số bộ luật ở Việt Nam thời phong kiến”, Tạp chí Luật học, số 02/2020, trang
3-10.
5. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cơ
sở bán lẻ rượu bia với việc hạn chế tai nạn giao thông do sử dụng rượu bia”, Tạp chí
Khoa học Kiểm sát, số 02/2020, trang 41-46.
6. Phùng Trung Tập, “Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra”, Tạp chí Kiểm sát, số 13/2022, trang 25-31.

32
7. Đỗ Văn Đại – Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại khi có việc xâm phạm quyền nhân thân của người khác trên mạng xã hội”, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 17 năm 2020, trang 20-28.
8. Hoàng Đình Dũng, “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo
Bộ luật Dân sự năm 2015”, Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, số 6 năm
2020, trang 3-5.
9. Đàm Hải Thao, “Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tình
thế cấp thiết”, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 23 năm 2020, trang 24-27.
10. Nguyễn Hoàng Thái Hy, “ Trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng do sự
thay đổi cơ bản của hoàn cảnh theo quy định của công ước Vienna năm 1980”, Tạp chí
Khoa học pháp lý Việt Nam, số 05(135)/2020, trang 49.
11. Phan Thị Thu Thủy – Phan Thị Lan Anh, “Quy định của pháp luật hiện hành về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường”, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 10 năm 2023, trang 40-44.
12. Nguyễn Viết Xuân, “Một số ý kiến về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành
vi làm ô nhiễm môi trường gây ra.”, Tạp chí điện tử Tòa án Nhân dân, số 21 tháng
11/2020, trang 1-7.
13. Trần Thị Anh Thư, “Bàn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người làm công
gây ra.”, Tạp chí điện tử Tòa án Nhân dân, số 2022-02-13, trang 1-6.
14. Đặng Thị Thơm, “Bồi thường cho người bị thiệt hại trong các vụ án giao thông và
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí Tòa án, phát hành ngày 24 tháng 04
năm 2022.
15. Phan Phi Long, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên
cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, số 12 phát hành tháng 5 năm 2020.
16. Lê Thị Hồng Vân, “Quy định về thiệt hại được bồi thường do hàng hóa không đảm
bảo chất lượng gây ra cho người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số
01(161)/2023, trang 25-37.
17. Cao Ngọc Sơn, “Xác định thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng theo quy
định của Bộ Luật Dân sự 2015”, Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa
học và ứng dụng công nghệ, số 19 phát hành tháng 8 năm 2020.
18. Đào Kim Anh, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng trong nhượng quyền
thương mại”, Tạp chí KTĐN, số 120 phát hành ngày 25 tháng 3 năm 2020.
19. Lưu Anh Tuấn, “Quy định BLDS năm 2015 về bồi thường thiệt hại do tính mạng,
thi thể bị xâm phạm và thực tiễn xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2021, trang 1-
2.
20. Trần Thăng Long - Lê Ngọc Ngân Linh, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người dùng chất kích thích gây ra”, Tạp chí Kiểm sát, số 20/2022, trang 28-33.

Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.
Tìm kiếm từ khóa “bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” trên các trang mạng điện tử
như Tạp chí Luật học, thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội, thư viện trường Đại học
Luật TP.HCM, Tạp chí Nghiên cứu khoa học,…
33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Dân sự (Luật số 44/L/CTN) ngày 9/11/1995.
2. Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005.
3. Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015.
4. Bộ luật tố tụng dân sự (Luật số 92/2015/QH13) ngày 25/11/2015.
5. Luật giao thông đường bộ (Luật số 23/2008/QH12) ngày 13/11/2008.
6. Luật kinh doanh bất động sản (Luật số 66/2014/QH13) ngày 25/11/2014.
7. Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân
sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
8. Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 6/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

B. Tài liệu tham khảo


1. Bản án số 750/2008/DSPT ngày 17/07/2008 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh.
2. Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.
3. Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
34
4. Bản án số 418/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án nhân dân quận 10, Tp.
Hồ Chí Minh.
5. Quyết định số 20/HĐTP-HS ngày 24/12/2002 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
6. Quyết định số 23/GĐT-DS ngày 2/2/2005 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao.
7. Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2006 của Tòa hình sự Tòa án nhân
dân tối cao.
8. Quyết định số 451/2011/DS-GĐT ngày 20/6/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
9. Quyết định số 36/2013/KDTM-GĐT ngày 17/9/2013 của Tòa kinh tế Tòa án
nhân dân tối cao.
10. Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019), (tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và
bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức.
11. Tạp chí Tòa án nhân dân số 03 năm 2023 “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng của cha, mẹ đối với thiệt hại do con chưa thành niên gây ra theo
quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp và một số gợi ý dành cho Việt Nam”
Huỳnh Thị Nam Hải – Ngô Trần Hiếu Quỳnh – Guillemette Marraud Des
Grottes
12. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 20 (468) tháng 10/2022 “Pháp luật bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trước thách thức của trí tuệ nhân tạo và công nghệ số
mới nổi”, Đỗ Giang Nam – Đào Trọng Khôi.
13. Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam số 1+2 năm 2020 “Bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng”, Đoàn Thị Ngọc Hải.
14. Tạp chí Luật học, số 02/2020 “Bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, uy
tín, nhân phẩm người khác trong một số bộ luật ở Việt Nam thời phong kiến”,
Hồ Bảo.
15. Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 02/2020 “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng của cơ sở bán lẻ rượu bia với việc hạn chế tai nạn giao thông do sử
dụng rượu bia”, Nguyễn Thị Hồng Hạnh.
16. Tạp chí Kiểm sát số 13/2022 “Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây
dựng khác gây ra”, Phùng Trung Tập.
17. Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17 năm 2020 “Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại khi có việc xâm phạm quyền nhân thân của người khác trên mạng xã
hội”, Đỗ Văn Đại – Nguyễn Tấn Hoàng Hải.
18. Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, số 6 năm 2020 “Bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo Bộ luật Dân sự năm 2015”,
Hoàng Đình Dũng.
19. Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 23 năm 2020 “Miễn trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tình thế cấp thiết”, Đàm Hải Thao.
20. Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05(135)/2020 “Trách nhiệm của bên vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng do sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh theo quy định của
công ước Vienna năm 1980”, Nguyễn Hoàng Thái Hy.
35
21. Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10 năm 2023 “Quy định của pháp luật hiện hành về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường”, Phan Thị
Thu Thủy – Phan Thị Lan Anh.
22. Tạp chí điện tử Tòa án Nhân dân, số 21 tháng 11/2020 “Một số ý kiến về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra”,
Nguyễn Viết Xuân.
23. Tạp chí điện tử Tòa án Nhân dân số 2022-02-13 “Bàn về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do người làm công gây ra.”, Trần Thị Anh Thư.
24. Tạp chí Tòa án phát hành ngày 24 tháng 04 năm 2022 “Bồi thường cho người
bị thiệt hại trong các vụ án giao thông và một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật”, Đặng Thị Thơm.
25. Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công
nghệ số 12 phát hành tháng 5 năm 2020 “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng có yếu tố nước ngoài - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, Phan Phi
Long.
26. Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 01(161)/2023 “Quy định về thiệt hại
được bồi thường do hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây ra cho người tiêu
dùng”, Lê Thị Hồng Vân.
27. Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công
nghệ số 19 phát hành tháng 8 năm 2020 “Xác định thiệt hại được bồi thường do
vi phạm hợp đồng theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015”, Cao Ngọc Sơn.
28. Tạp chí KTĐN số 120 phát hành ngày 25 tháng 3 năm 2020 “Nghĩa vụ cung cấp
thông tin tiền hợp đồng trong nhượng quyền thương mại”, Đào Kim Anh.
29. Tạp chí Tòa án nhân dân số 8/2021 “Quy định BLDS năm 2015 về bồi thường
thiệt hại do tính mạng, thi thể bị xâm phạm và thực tiễn xét xử”, Lưu Anh Tuấn.
30. Tạp chí Kiểm sát số 20/2022 “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dùng
chất kích thích gây ra”, Trần Thăng Long - Lê Ngọc Ngân Linh.

36

You might also like