You are on page 1of 38

Chủ đề 19: Phân tích tính chất của xã hội miền Nam sau năm 1954 và nôi dung

cơ bản Nghị quyết


15 (tháng 1 – 1959). Ý nghĩa của Nghị quyết với Cách mạng miền Nam
Hoàn cảnh
Sau Hiệp định Giơnevơ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền:
- Miền Bắc: Hoàn toàn được giải phóng và bước vào khôi phục kinh tế - văn hoá, đi lên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương vững chắc cho đấu tranh giải phóng miền Nam.
- Miền Nam: Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Trong xã hội miền Nam có 2 mâu thuẫn cơ bản:
- Nhân dân ta >< Đế quốc xâm lược (Đế quốc Mỹ)
- Mâu thuẫn chủ yếu
- Nông dân >< Địa chủ phong kiến
- Đảng phải có một đường lối hoàn chỉnh và toàn diện về cách mạng miền Nam.
Nội dung
Hội nghị chỉ rõ 2 mâu thuẫn cơ bản trong xã hội:
- Nhân dân ta >< Đế quốc xâm lược (Đế quốc Mỹ)
- Nông dân >< Địa chủ phong kiến
- Lực lượng tham gia cách mạng: giai cấp công nhân, nông dân, tư sản dân tộc và tiểu tư sản
Đối tượng: Đế quốc Mỹ, tư sản mại bản, địa chủ phong kiến và tay sai của đế quốc Mỹ.
Nhiệm vụ cơ bản:
- Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến
- Thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng
- Xây dựng nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân tộc, dân chủ và giàu mạnh.
- Nhiệm vụ trước mắt: Đoàn kết toàn dân đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập
chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện
đời sống nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà; tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam á và
thế giới.
Phương thức đầu tranh và con đường phát triển cơ bản:
- Sử dụng bạo lực cách mạng từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang
- Bạo lực cách mạng gồm 2 lực lượng, dưới 2 hình thức là đấu tranh chính trị và vũ trang.
Đấu tranh chính trị chỉ được coi là bạo lực cách mạng khi mà:
- Nằm ngoài vòng pháp luật của kẻ thù
- Đặt ra vấn đề giành chính quyền
- Đấu tranh lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu.
Chủ trương:
Nhận định:
- Đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất
- Cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang cục diện mới
- Thắng lợi cuối cùng nhất định về ta
- Tăng cường công tác mặt trận
- Củng cố, xây dựng Đảng bộ vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng thắng lợi
Ý nghĩa
- Đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên
- Đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta
- Thể hiện sâu sắc tinh thần độc lập tự chủ, năng động, sáng tạo trong đánh giá, so sánh lực lượng , trong
vận dụng lý luận Mác-Lênin
- Là ngọn lửa châm ngòi cho phong trào “Đồng khởi”
- Nghị quyết 15 tuy chậm nhưng vẫn kịp thổi vào cách mạng miền Nam Việt Nam làn gió mới, mở ra
hướng đi mới cho phong trào đấu tranh, đưa cách mạng miền Nam đi đến thắng lợi.
1
Chủ đề 20: Phân tích nội dung cơ bản đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam được
Đại hội III (9-1960) của Đảng vạch ra
Hoàn cảnh Đại hội III
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp trong hoàn cảnh lịch sử đất nước và thế giới có
những đặc điếm nổi bật:
- Đến cuối năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở hai miền nước ta có những bước tiến quan trọng. Ở miền
Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa với các thành phần kinh tế đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm đã giành được thắng lợi có
ý nghĩa chiến lược trong phong trào "Đồng khởi" (1959 - 1960), làm lung lay chế độ ngụy quyền Sài
Gòn. Phong trào cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng
từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.
- Trong thời điểm này, tình hình thế giới cũng có nhiều thay đổi, vừa là thuận lợi, vừa là thách thức cho
cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô và Trung Quốc
đã có nhiều ảnh hưởng tích cực đến cách mạng Việt Nam. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở
các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ. Đó là thuận lợi cơ bản cho cách mạng
Việt Nam ở cả hai miền. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong phong trào cộng sản mà tâm điểm là quan hệ
Liên Xô - Trung Quốc đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế và cũng ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của cách mạng hai miền Bắc - Nam
đòi hỏi Đảng phải nhanh chóng hoạch định đường lối cách mạng cho cả nước, thống nhất ý chí và hành
động, định hướng tư tưởng và hoạt động thực tiễn cho cách mạng của hai miền. Mặt khác, đã gần 10
năm kể từ khi diễn ra Đại hội đại biểu lần thứ 11 của Đảng (tháng 2-1951), cách mạng Việt Nam đã có
nhiều thay đổi, thế và lực của đất nước đã phát triển, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cho
cả dân tộc ta trên con đường cách mạng gải phóng dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, cùng với
sự thách thức của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nghèo nàn, lạc hậu, Đảng và dân tộc
Việt Nam đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề thực tiễn phức tạp đặt ra yêu cầu cấp thiết Đảng phải
sớm khẳng định những nhiệm vụ cụ thể cho sự nghiệp cách mạng ở hai miền đất nước. Lần đầu tiên sau
30 năm hoạt động trong điều kiện bí mật và chiến tranh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày 10-9-1960. Tham dự Đại hội có 525
đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết hay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước đến tham
dự Đại hội còn có đại biểu các đoàn thể và các đảng phái dân chủ trong nước và đại biểu của 16 đoàn
quốc tế.
Nội dung đại hội III (9/1960)
Mục tiêu chung
- 2 Nhiệm vụ chiến lược
- Vai trò Cách mạng mỗi miền
- Con đường thống nhất tổ quốc
Triển vọng cách mạng
- Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Dự Đại hội có 525
đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Gần 20
đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội. Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội
lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
- Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ư¬ơng Đảng và thông
qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây
dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thông
qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và Lời kêu gọi của Đại hội.
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta, Đại
hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai
chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền:
- Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
2
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn
thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
- Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam
thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung
là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
- Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền, Đại hội nêu rõ: Cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước,
hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai
trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống
nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp
đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
- Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống
nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như
của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng
đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược
miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống
nhất Tổ quốc.
- Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà
là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian
khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng
nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà.
- Về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm
lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường,
con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư
liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là:
Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với
các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội,
xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho
cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
- Hạn chế trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đại hội khóa III là nhận thức về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội còn giản đơn, chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
- Thành công lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ
hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải
phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
- Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960), Đại hội lần
thứ ba của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây
dựng bước đầu cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
là tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; xây dựng một bước cơ sở vật chất của chủ
3
nghĩa xã hội; cải thiện đời sống nhân dân; bảo đảm an ninh quốc phòng, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu
tranh thống nhất nước nhà.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng thành công tốt đẹp. “Đại hội sẽ là nguồn ánh sáng mới,
lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”. “Toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một
khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên”
Ý nghĩa, tác dụng
- Đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lực thể hiện tư tưởng, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH
- Thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc giải quyết những vấn đề riêng của CMVN
- Là cơ sở để Đảng chỉ đạo nhiệm vụ c/m ở mỗi miền vì mục tiêu chung
=> Việc tiến hành đồng thời 2 cuộc c/m là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác Lê-nin trong điều kiện
cụ thể của VN. Sáng tạo vì:
+ Theo lý luận về c/m k ngừng của CN Mác Le-nin. Sau khi hoàn thành gđ 1 là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân thì phải chuyển sang gđ 2 là CMXH chủ nghĩa giữa hai gđ k có bức tường thành ngăn
cách
+ Ở trên TG có nhiều nước bị chia cắt nhưng k tiến hành đồng thời như VN => xét về lý luận và thực
tiễn, chưa có tiền lệ trong lịch sử)
CHỦ ĐỀ 22 : GIAI ĐOẠN 1965-1975, Quá trình hình thành, phát triển và nội dung đường lối
kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1. Hoàn cảnh
- Thuận lợi: khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng thế giới đang ở thế tiến
công.
+ Ở miền Bắc: kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hóa. Sự chi viện
sức người, sức của miền bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
+ Ở miền Nam: vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-1962, từ năm 1963 cuộc đấu tranh
của quân dân ta đã có những bước phát triển mới. Ba công cụ của “chiến tranh đặc biệt” (ngụy quân,
ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân dân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965 chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản.
- Khó khăn:
+ Sự bất đồng của Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt nên gây khó khăn cho cách mạng Việt
Nam.
+ Việc đế quốc Mỹ mở cuộc “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư
hầu vào xâm lược miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
→ Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra đường lối kháng
chiến chống Mỹ cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc.
2. Các nghị quyết trung ương
Ngày 25-3-1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, ra Nghị quyết Về tình hình
và nhiệm vụ cấp bách trước mắt:
- Quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và văn hóa, giáo dục, đảm bảo cho miền Bắc có đầy đủ sức
mạnh đánh thắng không quân, hải quân Mỹ
- Duy trì và giữ vững sản xuất, tăng khả năng chi viện cho chiến trường miền Nam.
- Tháng 12-1965, Hội nghị lần thứ 12 Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích một cách toàn diện
chiến lược và hành động mới của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
- Hội nghị kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, cuộc chiến
đấu của quân và dân ta sẽ khó khăn, gian khổ gấp bội nhưng do quân Mỹ vào trong thế thua, thế bị động
nên lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không có sự thay đổi lớn.
4
- Cuộc kháng chiến vẫn giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công. Kết hợp đấu tranh quân sự và
đấu tranh chính trị, nhưng đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp.
- Phương châm là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
- Chiến lược: “Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà” .
3. Nội dung đường lối

Nội dung của đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Đảng và nhà nước đề ra trong Hội Nghị
lần thứ 11 và 12 gồm các nội dung lớn sau:
- Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Quyết định phát động kháng chiến chống Mỹ trên cả nước, coi đó
là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc; tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
- Phương châm chỉ đạo: tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến lâu dài,
dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương
đối ngắn ở Miền Nam.
- Tư tưởng chỉ đạo với Miền Nam: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục
tiến công; Kiên trì phương châm kết hợp quân sự với chính trị; triệt để thực hiện 3 mũi giáp công, đánh
địch trên cả 3 vùng chiến lược.
- Tư tưởng chỉ đạo với Miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế trong điều kiện có chiến tranh; tiến
hành cuộc chiến tranh nhân dân để bảo vệ Miền Bắc; động viên sức người sức của cao nhất để chi viện
Miền Nam.
- Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa 2 miền: Miền Bắc là hậu phương lớn, Miền Nam là tiền tuyến lớn. Hai
nhiệm vụ có mối liên hệ khăng khít và không tách rời nhau nhằm mục tiêu chung đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược.
4. Ý nghĩa đường lối
Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước được đề ra trong Hội nghị Trung ương lần thứ
11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng :
- Đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng thể hiện tư tưởng chiến lược giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề riêng của
Cách mạng Việt Nam.
- Là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài,dựa vào sức mình là chính được phát
triển trong hoàn cảnh mới tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta có đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Là cơ sở để Đảng chỉ đạo các nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền vì mục tiêu chung.
Kết luận:
- Việc tiến hành đồng thời 2 cuộc cách mạng là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lenin trong điều
kiện cụ thể của nước ta. Theo lí luận cách mạng không ngừng sau khi hoàn thành giai đoạn 1 là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải chuyển sang giai đoạn 2 là CMXHCN giữa 2 giai đoạn không có
bức tường thành ngăn cách.
- Trên thế giới có nhiều nước bị chia cắt: Đức, Triều tiên, Trung Quốc,… nhưng không tiến hành đồng
thời như Việt Nam.
- Xét cả về mặt lý luận và thực tiễn chưa hề có tiền lệ trong lịch sử.
Chủ đề 24: Ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoạn 1945-1975
1. Ý nghĩa thắng lợi đối với thế giới
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một thắng lợi tiêu biểu của
lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc
lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã tác động mạnh mẽ đến tình hình nước Mĩ và thế giới, là nguồn cổ
vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới
5
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đập tan cuộc phản công lớn nhất, kể từ sau
chiến tranh thế giới lần thứ 2, của chủ nghĩa đế quốc vào trào lưu cách mạng của thời đại mà mũi nhọn
là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước làm sáng tỏ tính hiện thực, tính phổ biến của xu
thế phát triển của loài người tiến bộ, góp phần động viên cổ vũ các dân tộc dũng cảm, kiên cường giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người và trực tiếp góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước
láng giềng Lào và Campuchia anh em.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là biểu tượng mới về sức mạnh của cách mạng
thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại về sức mạnh của đế
quốc Mỹ.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nêu bật một chân lý: Trong thời đại ngày nay,
một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song dân tộc ta đã đoàn kết
chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng mác xít-lêninít, có đường lối và phương
pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp chặt chẽ sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược.
- Là một sự kiện có “tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
2. Ý nghĩa thắng lợi đối với dân tộc
- Đã kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm 1945), 30 năm chiến
tranh cách mạng ( tính từ năm 1945), 117 năm chống đế quốc thực dân phương Tây (tính từ năm 1858),
quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, đưa lại độc lập,thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ cho đất nước.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đánh dấu bước ngoặt cơ bản; quyết định của con đường
cách mạng mà Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ trong chính cương vắn tắt năm 1930 –
Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự do, ấm no, hạnh phúc.
- Từ đây, cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, tạo lập cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, cả dân tộc ta và mỗi người Việt
Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn vị trí, khả
năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nâng vị thế chính trị của Đảng trên thế giới
lên một tầm cao mới và là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam trong thế kỷ XX và mai sau.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kế tục thắng lợi Cách mạng tháng 8-1945,
phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954); là trận đánh quyết định
nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945-1975) gian khổ, ác liệt, giành lại nền độc lập tự do, thống nhất
Tổ quốc.
- Chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra bước ngoặt vĩ đại thiết lập quyền làm chủ
của nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa cả nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Nhân dân Việt Nam chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ nghĩa
thực dân mới.
- Góp phần khẳng định, nhân tố chính trị tinh thần của con người Việt Nam. Đó là sự nỗ lực phi thường
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên chiến thắng vĩ đại, được loài người tiến bộ trên thế giới
ngưỡng mộ, ca tụng. Có thể nói, con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã
phát triển ở một tầm cao mới.
Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ .
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, một cao trào giải phóng dân tộc đã dấy lên mạnh mẽ ở các nước
Á, Phi, Mĩ Latinh, trong đó có Việt Nam. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-
1975) của nhân dân Việt Nam đã góp phần thay đổi bản đồ chính trị thế giới. Hệ thống thuộc địa và chế
6
độ phân biệt chủng tộc kéo dài từ nhiều thế kỉ đã bị sụp đổ hoàn toàn. Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đó
đã đưa tới sự ra đời của hơn 100 quốc gia độc lập trẻ tuổi.
1. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)
a, Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu
- Đảng ta nhận thức rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử trước giai cấp, trước dân tộc và phong trào cách
mạng thế giới, đã ra sức xây dựng chính trị, tư tưởng và tổ chức vững mạnh. Chính nhờ vậy, Đảng đã
đáp ứng ngày càng đầy đủ yêu cầu khắt khe của một Đảng giữ vai trò quyết định thắng lợi của cuộc
kháng chiến vĩ đại trong lịch sử nước ta.
- Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa ra những
đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, kịp thời. Bên cạnh đó, Đảng kiên quyết chỉ đạo
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
- Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài ba của Đảng, nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước 1954-1975 với tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng và quả cảm, thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: Giải phóng miền Nam, xây dựng CNXH ở miền Bắc. Với đường lối giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH, Đảng đã kết hợp sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, động viên
đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một cuộc kháng
chiến đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên trình độ cao những truyền thống cách mạng và năng lực
sáng tạo của Đảng ta, dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH trên đất nước ta. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng
lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân
tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”
b, Truyền thống yêu nước, một lòng đi theo Đảng, chiến đấu ngoan cường, bất khuất, hi sinh vì
độc lập tự do dân tộc của nhân dân
- Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân
dân với tinh thần chiến đấu anh dũng, bền bỉ. Đồng bào, chiến sĩ miền Bắc luôn một lòng hướng về miền
Nam ruột thịt. Nhân dân miền Bắc hăng say lao động tạo ra cơ sở vật chất xây dựng Chủ nghĩa xã hội,
là hậu phương vững chắc chi viện toàn diện và liên tục cho cuộc kháng chiến ở miền Nam.
- Thấm nhuần tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và luôn khẳng
định Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết ấy. Nhờ sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, trước
hết là trong Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị nên Đảng ta đã phát huy cao nhất sự sáng tạo,
trí tuệ tập thể, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước
- Thành quả vĩ đại của khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đại thắng mùa Xuân
1975 còn thể hiện ở sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam với tinh thần bất khuất, vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sỹ miền Nam trên tiền tuyến lớn và sự chi viện
hết lòng của hậu phương lớn miền Bắc với tinh thần “Vì miền Nam ruột thịt”. Mặc dù kẻ thù luôn tìm
trăm phương, nghìn kế để chia rẽ Bắc - Nam hòng cô lập cách mạng miền Nam, nhưng Bắc - Nam luôn
là một nhà. Cả miền Bắc ngày đêm hướng về miền Nam, dốc hết sức người, sức của cho công cuộc giải
phóng miền Nam. Cả miền Nam ngày đêm hướng về miền Bắc - nơi đầu não của cách mạng và kháng
chiến.
- Cùng với tình cảm Bắc - Nam sâu nặng, “tình quân - dân cá nước” đã trở thành một biểu tượng sáng
ngời của khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đại thắng mùa Xuân 1975. Sở dĩ
có được tình cảm “đoàn kết quân - dân”, “gắn bó cán binh” là do quân đội ta “từ nhân dân mà ra”, “vì
nhân dân mà chiến đấu”. Trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, quân đội ta đã thể hiện bản lĩnh
và trí tuệ quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù
xâm lược, xứng đáng với lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Quân đội ta trung với
7
Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm
vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
c, Đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Tinh thần đoàn kết, yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Đứng trước những khó khăn, thử
thách, truyền thống đó lại càng được phát huy mạnh mẽ. Sự thống nhất trong Đảng đã tạo nên sức mạnh
lãnh đạo cách mạng, nâng cao lòng tin của toàn dân đối với Đảng và trở thành động lực xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân. Nhân dân ta đoàn kết trong chiến đấu, lao động sản xuất, khắc phục khó khăn,
thống nhất về tư tưởng, nhận thức và hành động.
- Triển khai thực hiện nhiệm chiến lược cách mạng ở hai miền theo mục tiêu chung của cách mạng cả
nước, Đảng ta đã chủ trương tập hợp quần chúng rộng rãi bằng các hình thức mặt trận dân tộc thống
nhất phù hợp với tình hình cụ thể. Ngày 10-9-1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời; ngày 20-12-
1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập; và sau đó, liên minh các lực lượng dân
tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam được thành lập vào ngày 20-4-1968. Tuy mục tiêu, cương lĩnh, thành
phần, cơ cấu tổ chức có nhiều điểm khác nhau nhưng hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, dân sinh
là mẫu số chung để quy tụ, tập hợp, đoàn kết toàn dân thành một khối thống nhất theo tinh thần “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định.
- Trên cơ sở các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng tổ chức xây dựng, thực hiện thế trận chiến
tranh nhân dân trường kỳ, toàn diện bằng sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang nhân dân; kết hợp giữa quân sự, chính trị và ngoại giao, vừa khởi nghĩa vũ trang vừa tiến công
quân sự; vừa kháng chiến vừa kiến quốc; vừa đánh giặc vừa từng bước xây dựng chế độ mới. Thế trận
đó được hình thành ở khắp nơi, trên cả ba vùng chiến lược, thậm chí cả ở sâu trong lòng địch, tạo ra sự
liên hoàn trên khắp chiến trường miền Nam, giữa miền Nam và miền Bắc và giữa 3 nước anh em trên
bán đảo Đông Dương.
- Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ hơn 20 năm trường kỳ kháng chiến được dồn lại cho
thời khắc lịch sử vinh quang. Dân tộc ta đã giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó
cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết dân tộc thời đại Hồ Chí
Minh.
d, Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh thắng Mỹ.
- Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, coi đó là một
bộ phận tất yếu và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng
chiến lược tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta.
- Ở đây, sức mạnh dân tộc chính là yếu tố bên trong. Đó là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội
sinh của dân tộc, quốc gia bao hàm toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; truyền thống
và hiện tại.
- Yếu tố bên ngoài, sức mạnh thời đại, là các xu thế chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới như: hòa bình,
hợp tác và phát triển, cách mạng khoa học công nghệ, xu thế dân chủ hóa, xu thế phát triển bền vững,
tự chủ, xu thế hợp tác và liên kết kinh tế. Bên cạnh đó, sức mạnh của thời đại ngày này còn là sức mạnh
của cộng đồng quốc tế ngày càng đồng thuận trong kiến tạo, củng cố một trật tự thế giới dựa trên luật
lệ, đa cực, đa trung tâm, dân chủ, công bằng, bình đẳng, sức mạnh của hàng trăm quốc gia phấn đấu
hoàn thành các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG); sức mạnh của thế giới văn minh trong kỷ
nguyên của cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa...
- Quan điểm về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh
xuất phát từ quan điểm mácxít về giải quyết mâu thuẫn, về mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Vận dụng quan điểm mácxít và tư duy biện chứng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc kết hợp giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài, đặt Việt Nam là
một phần của thế giới, xuôi theo dòng chảy lịch sử của thế giới. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là đánh giá, quan sát toàn diện “nhìn cho rộng, suy cho kỹ”
8
e, Đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào và Campuchia
- Đảng và nhân dân ta đã chủ động đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào và Campuchia trong cuộc
chiến đấu chống Mỹ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi nước, cùng nhau đoàn
kết chống kẻ thù chung.
- Trong những nguyên nhân trên thì sự lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự
chủ, đúng đắn sáng tạo… là nguyên nhân quan trọng nhất.Vì:
+ Đảng lãnh đạo là nguyên nhân bao trùm, chi phối các nguyên nhân khác….Nếu không có Đảng lãnh
đạo thì sẽ không có sức mạnh tổng hợp của dân tộc, không thể kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
+ Việc thành lập khối liên minh nhân dân Việt Nam – Lào – Campuchia là thắng lợi có ý nghĩa chiến
lược, Nhằm tăng cường sự chi viện của hậu phương miền Bắc và bạn bè quốc tế cho chiến trường miền
Nam và cách mạng Lào, Cam-pu-chia, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã quyết định mở tuyến vận tải
chiến lược Trường Sơn, nối liền từ hậu phương miền Bắc với các hướng chiến lược quan trọng trên
chiến trường ba nước Đông Dương. Tuyến đường vận tải chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh
là biểu tượng sinh động, sáng ngời về tình đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia.
Tạo cơ sở nâng cao quan hệ đoàn kết và phối hợp chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương, là đòn
giáng mạnh mẽ vào chính sách “chia để trị” của bọn thực dân, đế quốc.
Chủ đề 28: Làm rõ những bước đột phá trong đổi mới tư duy quản lý kinh tế của Đảng từ năm
1979 – 1985 , Phân tích nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng XHCN trong thời kỳ quá độ
được Đại hội IV (12/1976) của Đảng vạch ra
I. Xây dựng chủ nghĩa xh theo đường lối cũ từ năm 1975-1985
1. Hoàn cảnh trước năm 1986
- Thành tựu và hạn chế của 10 năm xây dựng CNXH trước đổi mới.
+ Đất nước vừa trải qua nhiều năm chiến tranh, cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính mệnh lệnh đã ăn
sâu vào tiềm thức của mọi người, việc đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với
điều kiện mới chưa được đặt ra một cách đúng mức. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, một mặt, tạo ra những thuận lợi vô cùng to lớn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; mặt
khác, cũng tạo ra tâm lý chủ quan duy ý chí cản trở sự phát triển nhận thức của Đảng. Trên nhiều lĩnh
vực, nhiều vấn đề, hệ thống chính trị còn nhiều hạn chế, hoạt động bị xơ cứng, kém hiệu quả. Hoạt động
của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Tính độc lập, chủ động
của Nhà nước bị vi phạm, hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước bị hạn chế. Kinh tế - xã hội thiếu năng
động. Quyền làm chủ của Nhân dân không được coi trọng, phát huy một cách thực chất.
+ Chiến tranh kết thúc, sự viện trợ của các nước anh em giảm dần và chuyển sang hợp tác, trao đổi theo
giá thị trường quốc tế. Các thế lực phản động quốc tế câu kết với nhau chống phá quyết liệt cách mạng
nước ta. Chiến tranh bùng nổ ở hai đầu biên giới. Mỹ tiến hành cuộc bao vây, cấm vận nước ta ngày
càng khắc nghiệt. Sau sự kiện Campuchia, nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong quan hệ đối ngoại, vị
thế đất nước bị giảm sút trên trường quốc tế...
+ Do những sai lầm trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và quản lý kinh tế, tình hình kinh tế - xã
hội đất nước ngày càng khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, lạm phát phi mã[1], hiệu quả đầu tư
hạn chế, đời sống Nhân dân không được cải thiện, thậm chí nhiều mặt còn sa sút hơn... Đất nước lâm
vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
2. Các bước đột phá
- Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, hay còn gọi là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986 tại Hà Nội (họp trù
bị từ ngày 5 đến ngày 14 tháng 12 năm 1986). Dự đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu
Đảng viên.Công tác chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI kéo dài 19 ngày. Sau hội nghị
lần thứ 10, các tổ chức đảng cấp tỉnh và địa phương bắt đầu bầu đại biểu dự đại hội cũng như chuẩn bị
các văn kiện Đại hội. Đại hội đã đưa ra các cải cách kinh tế, được gọi là Đổi Mới, và bầu ra ban lãnh
9
đạo mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tổng Bí thư Trường Chinh đương nhiệm không được bầu lại và
ông Nguyễn Văn Linh lên thay. Sau đó, Đại hội cũng đã bầu các thành viên của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa VI và Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng trong
Đại hội, Hội đồng cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, bao
gồm các cán bộ cấp cao, chủ chốt trong bộ máy chính trị đã về hết nhiệm kỳ tại Đại hội Đoàn toàn quốc
lần thứ VI. Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ phải xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Đây cũng là lần đầu tiên các tổ chức thông tấn phương Tây được phép đưa tin.
- Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện thành công những nhiệm vụ
đề ra trong Báo cáo chính trị, mà quan trọng là:
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu...
2. Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên với những hình thức và bước đi
thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy
sự phát triển của lực lượng sản xuất...
3. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
4. Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông.
5. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các chính sách xã hội.
6. Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước.
7. Tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại.
8. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
9. Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh đạo toàn dân thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược.
10. Nâng cao hiệu lực chỉ đạo và điều hành của bộ máy đảng và nhà nước.
- Đại hội đã chỉ ra "Chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân". Đại hội thẳng thắn cho rằng: "Những
sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chình sách lớn, sai lầm về chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện"' Đại hội chỉ rõ "Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh
tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của
Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân". Từ thực tiễn cách mạng, Đại hội nêu lên những bài
học kinh nghiệm quan trọng.
- Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát
triển quyền làm chủ của nhân dân lao dộng.
- Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực
nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
- Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
- Phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân
dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3. Ý nghĩa và tác dụng của các bước đột phá
- Đại hội đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động chỉ đạo của Đảng.
Một là trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", chăm lo xây
dựng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong điều kiện mới. Bốn là chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta. ĐH thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng thể hiện tinh
thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và trước dân tộc. Sau ĐH, Đảng đã lãnh đạo triển khai
10
thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từng bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa cách mạng
nước ta từng bước đạt được những thành tựu rất quan trọng.
Tính tất yếu phải đổi mới
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã họp 12 lần để bàn và quyết định các vấn đề trọng đại của
Đảng và Nhà nước ta, trong đó chủ yếu là tiếp tục đẩy mạnh đổi mới cơ chế quản lý kinh tế sang kinh
doanh XHCN; đổi mới quản lý Nhà nước, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đổi mới phong cách lãnh
đạo và công tác quần chúng của Đảng.
Chủ đề 30: Phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của thời kỳ 10 năm xây
dựng CNXH trên phạm vi cả nước (1976 – 1985)
1. Thành tựu
Thực hiện kế hoạch 5 năm, nhân dân ta đạt được những thành tựu quan trọng:
- 1976-1980: (giai đoạn 1)
+ Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị địch đánh phá về cơ bản đã được khôi phục
và bước đầu phát triển.
+ Trong nông nghiệp:nhờ tăng cường biện pháp khai hoang, thâm canh tăng vụ, diện tích gieo trồng
tăng thêm gần 2 triệu héc ta. Nông nghiệp được trang bị thêm 18.000 máy kéo các loại.
Trong công nghiệp: nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng như nhà máy điện, cơ khí, xi măng…
+ Trong giao thông vận tải: khôi phục và xây dựng mới 1 700 kilômét đường sắt, 3 800 kilômét đường
bộ, 30.000 mét cầu đường, 4.000 mét bến cảng. Tuyến đường sắt Thống nhất từ Hà Nội đi thành phố
Hồ Chí Minh sau 30 năm bị gián đoạn đã hoạt động trở lại.
+ Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh trong các vùng mới giải phóng ở miền Nam: giai
cấp tư sản mại bản bị xóa bỏ; 1500 xí nghiệp tư bản hạng lớn vừa được cải tạo chuyển thành xí nghiệp
quốc doanh hoặc công ty hợp danh. Đại bộ phận nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, thủ công
nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại.
+ Xóa bỏ những biểu hiện văn hóa phản động của chế độ thực dân, xây dựng nền văn hóa mới cách
mạng. Hệ thống giáo dục từ mầm non, phổ thông đến đại học đều phát triển. Tính chung, số người đi
học thuộc các đối tượng trong cả nước năm học 1979-1980 là 15 triệu, tăng hơn năm học 1976-1977 là
2 triệu.
- 1981-1985:
+ Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp: đã chặn được đà giảm sút của 5 năm trước (1976-1980)
và có bước phát triển: sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hằng năm là 4,9% so với 1,9% của những
năm 1976-1980, sản xuất lương thực tăng bình quân từ 13,4 triệu tấn lên 17 triệu tấn; sản xuất công
nghiệp tăng bình quân 9,5% so với 0,6% trong những năm 1976-1980; thu nhập quốc dân tăng bình
quân hằng năm là 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước
+ Về xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật: hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa
và nhỏ được hoàn thành. Dầu mỏ bắt đầu được khai thác, công trình thủy điện Hòa Bình, thủy điện Trị
An được khẩn trương xây dựng, chuẩn bị đi vào hoạt động.
+ Các hoạt động khoa học-kĩ thuật được triển khai, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
2. Hạn chế
- 1976-1980:
+ Nền KT chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ. Đại bộ phận lao động xã hội là lao động thủ công. Phân công
LĐ xã hội kém phát triển. Năng suất LĐ xã hội rất thấp.
+ Nền kinh tế vẫn còn mất cân đối. Kinh tế quốc doanh và tập thể còn thua lỗ, không phát huy được tác
dụng, tăng trưởng bình quân chỉ đạt 3.56%/năm. Nhiều chỉ tiêu đặt ra ko đạt được. Điều đó ảnh hưởng
đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống nhân dân.
+ Kinh tế tư nhân và cá nhân bị ngăn cấm.
+ Sản xuất phát triển chậm. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế còn yếu kém, trình độ kĩ thuật còn
lạc hậu. Công nghiệp nặng nhỏ bé, ko đáp ứng được nhu cầu tối thiểu, công nghiệp nhẹ phụ thuộc 70-
80% nguyên liệu nhập khẩu.
11
+ Thu nhập quốc dân thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
+ Xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.
+ Và Kết quả nhìn chung trong thời gian trên đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông, phân
phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân dân, cán bộ, công
nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc đã xuất
hiện hiện tượng “xé rào”, ”khoán chui”. Ở miền Nam, việc thí điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng
túng…
- 1981-1985:
+ Những khó khăn yếu kém của 5 năm trước vẫn chưa được khắc phục, thậm chí có phần trầm trọng
hơn.
+ Phân phối lưu thông bị rối ren. Thi trường tài chính, tiền tệ ko ổn định. Bội chi ngân sách ngày càng
cao gây rối loạn điều hành kinh tế của nhà nước.
+ Lạm phát ngày càng nghiêm trọng, Giá cả leo thang từng ngày.
+ Mục tiêu cơ bản là ổn định tình hình kinh tế - xã hội vẫn chưa thực hiện được.
+ Sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo và quản lí, chậm được khắc phục.
-> Đất nước thời kỳ này đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất tăng chậm,
nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu
thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ
sinh thiếu thốn. Nhìn tổng quát, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã
hội, ổn định đời sống nhân dân.
+ Tổng kết 10 năm 1975-1986 còn một số hạn chế: không hoàn thành các mục tiêu do Đại hội IV và
Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội kéo dài; sản xuất tăng chậm
và không ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích luỹ; lạm phát tăng cao và
kéo dài. Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.
3.Nguyên nhân
- Nguyên nhân hạn chế của thời kỳ 10 năm xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước (1976 – 1985)
+ Nguyên nhân khách quan: nguyên nhân của những khó khăn yếu kém trong việc thực hiện kế hoạch
5 năm (1976 - 1980 và 1981 - 1985) là do nền kinh tế nước ta vốn nghèo nàn lạc hậu lại bị chiến tàn phá
nặng nề, chính sách cấm vận của Mỹ đã làm cản trở quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và sự
khống chế, phá hoại của các lực lượng thù địch.
+ Nguyên nhân chủ quan: những sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà nước. Xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế
của nước ta, không coi trọng khôi phục kinh tế là nhiệm vụ cấp bách; nông nghiệp vẫn chưa thực sự là
mặt trận hàng đầu; muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng năm năm;
chưa biết kết hợp kế hoạch hóa với quan hệ hàng hóa - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong lĩnh
vực phân phối, lưu thông. Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn
về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Thực trạng của đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu
khách quan và bức thiết là phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để
ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
=> Đặt ra một yêu cầu cần phải đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc trong sự lãnh đạo của Đảng về
vấn đề kinh tế.
Chủ đề 31: Phân tích nội dung bốn bài học kinh nghiệm của thời kỳ xây dựng CNXH trước đổi
mới được Đại hội lần thứ VI (12/1986) của Đảng đưa ra.
1. Hoàn cảnh lịch sử ĐHVI (12/1986) ( Chủ yếu nêu từ 1981-1985)
2. Nêu và phân tích 4 bài học kinh nghiệm.
3. Ý nghĩa hay nhận xét về 4 bài học kinh nghiệm trên Đại Hội 6/12/1986
1. Hoàn cảnh lịch sử

12
+ Đại hội họp công khai tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, 1129 đại biểu, thay mặt
cho gần 1,9 triệu đảng viên, có 35 đoàn đại biểu quốc tế đến dự.
+ Đại hội đảng lần thứ 6 họp trong bối cảnh sau 10 năm tiến hành cải tạo và xây | dựng CNXH trên cả
nước, nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu trên cả 2 mặt | trận xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Song
chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái | lại còn gặp nhiều khó khăn và khuyết điểm mới. Tình hình
kinh tế xã hội nước ta
có nhiều diễn biến phức tạp, sản xuất trì trệ, lạm phát tốc độ cao, nhiều mặt kinh tế | mất cân đối nghiêm
trọng (làm không đủ ăn, xuất không đủ nhập, thu không đủ | chi...). Các tiêu cực xã hội nảy sinh và phát
triển mạnh. Đời sống nhân dân lao
động hết sức khó khăn.
+ Trong khi đó, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ lần thứ 3 trên thế giới phát | triển mạnh mẽ, làm
thay đổi bộ mặt và các mối quan hệ trong từng nước và trên | toàn thế giới.
+ Trong các nước XHCN, kể cả Liên Xô và Trung Quốc, do việc xây dựng CNXH | theo mô hình và
phương pháp kiểu cũ có những mặt không còn phù hợp với điều | kiện lịch sử mới, đã bộc lộ không ít
khuyết tật. Nhiều nước XHCN đã lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội, phải đi vào cải tổ, cải cách với
các hình thức và mức độ khác nhau.
+ Một mặt khác, nhiều nước tư bản, đế quốc trên thế giới, sau khi giải quyết được tình trạng khủng
hoảng sâu sắc của những thập kỷ trước đây, đã nhanh chóng tiếp thu được những thành tựu mới của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ 3, vươn lên phát triển nhanh chóng về kinh tế, quốc
phòng, đã liên kết lại để tiến hành "diễn biến hòa bình" nhằm phản kích và xóa bỏ hệ thống XHCN thế
giới.
+ Đổi mới đã trở thành yêu cầu cấp thiết, có tính chất sống còn đối với XHCN thế giới nói chung, đối
với cách mạng Việt Nam nói riêng.
3. Ý nghĩa về 4 Bài học kinh nghiệm
Đại hội VI của Đảng Đại hội VI của Đảng - đại hội mở đầu công cuộc đổi mới đã rút ra bốn bài học
kinh nghiệm:
- Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc," xây dựng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong điều kiện đảng cầm quyền, phải đặc biệt chăm lo củng
cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân; tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục
chủ nghĩa quan liêu. Mỗi đảng viên cộng sản phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện
vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng.
Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của
Đảng.
- Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Để khắc phục
được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư
duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các
quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của
xã hội.
- Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Trong toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của mình, chúng ta phải đặc biệt coi trọng kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế,
các yếu tố truyền thống và thời đại, sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh
tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và luôn luôn
làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình đối với các nước anh em và bầu bạn.
- Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để bảo đảm cho Đảng ta làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó,
vấn đề cấp bách là tăng cường sức chiến đấu và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn
của Đảng.

13
Chủ đề 32 : Phân tích nội dung cơ bản của chủ trương đổi mới xây dựng nền kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên CNXH của Đại hội VI (12/1986)
1. Hoàn cảnh lịch sử diễn ra Đại hội lần thứ VI
- Hoàn cảnh quốc tế:
+ Tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến sự tan rã và sụp đổ tại nhiều nước Đông Âu. Phong trào độc lập dân
tộc phát triển mạnh; phong trào không liên kết trở thành lực lượng chính trị rộng lớn, có vai trò ngày
càng quan trọng.
+ Hố ngăn cách giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng sâu rộng. Sự bóc
lột ngày càng nặng nề của các nước đế quốc chủ nghĩa khiến nhiều nước Á, Phi, Mỹ Latinh ngày càng
bần cùng và nợ nần chồng chất. Phong trào công nhân của các nước tư bản có bước phát triển mới.
+ Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực
lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá các lực lượng sản xuất.
+ Trong 5 năm nhân dân ta tiếp tục nhận được sự giúp đỡ to lớn và sự hợp tác nhiều mặt của Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.
- Hoàn cảnh trong nước:
+ Đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng về kinh tế-xã hội. Trong nước tiếp tục xây dựng CNXH, xây dựng
chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới XHCN gắn với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, 10 năm đầu tiên của thời kỳ quá độ, nền sản xuất cũ, hậu quả của các cuộc
chiến tranh, tàn dư của chế độ cũ đã cản trở sự phát triển của đất nước. Chúng ta chưa tiến xa được mấy
so với điểm xuất phát quá thấp. Những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải càng làm cho tình hình thêm
khó khăn.
2. Nội dung Đại hội lần thứ VI (tập trung vào chủ trương kinh tế)
- Về nhiệm vụ chiến lược cách mạng, Đại hội khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn
kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
- Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát
trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo”.
- Những năm 1987-1988, đất nước vẫn đang khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng. Phân phối, lưu
thông rối ren, lạm phát ở mức cao. Do thiên tai, mất mùa nên kỳ giáp hạt năm 1988, nhiều nơi từ miền
Trung trở ra rất thiếu đói. Hội nghị Trung ương 2 (4-1987) chủ trương về một số biện pháp cấp bách về
phân phối lưu thông. Trọng tâm là thực hiện bốn giảm: Giảm bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá,
giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân; mở rộng giao lưu hàng hoá, giải thể các trạm
kiểm soát hàng hóa trên các đường giao thông; thực hiện cơ chế một giá và chế độ lương thống nhất cả
nước; giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt, tiết kiệm chi tiêu, chống tiêu cực; chuyển hoạt
động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; đổi mới quản lý
nhà nước về kinh tế. Quyết định số 217-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (14-11-1987) trao quyền tự chủ
cho các doanh nghiệp.
- Trong nông nghiệp nổi bật là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4-1988) về khoán sản phẩm cuối cùng
đến nhóm hộ và hộ xã viên (gọi tắt là Khoán 10). Theo đó, người nông dân được nhận khoán và canh
tác trên diện tích ổn định trong 15 năm; bảo đảm có thu nhập từ 40% sản lượng khoán trở lên. Lần đầu
tiên Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội khóa VIII thông qua, có hiệu lực từ ngày 1-1-1988.
- Trong công nghiệp, xoá bỏ chế độ tập trung, bao cấp, chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc
doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ, giải phóng mọi năng lực sản
xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học-kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội
14
với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Nhà máy thủy điện Hòa Bình phát điện tổ máy số 1.
Liên doanh dầu khí Việt-Xô khai thác những thùng dầu thô đầu tiên.
- Cùng với chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VI còn chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất,
điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Các chương trình đó là sự cụ thể hoá nội dung chính của công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu.
- Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI cho rằng, việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đảng đã thẳng thắn chỉ ra rằng: Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao
cấp từ nhiều năm nay đã không tạo được động lực phát triển làm suy yếu nền kinh tế, kìm hãm sản xuất,
làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện
tượng tiêu cực trong xã hội. Phong cách quản lý quan liêu, cửa quyền tư duy mang nặng tính chất chủ
quan, duy ý chí. Vì vậy, "Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xoá bỏ
tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách qua: và với trình độ phát
triển của nền kinh tế". Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương
thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chú trọng tính kế hoạch;
sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, các đơn vị sản xuất có quyền tự chủ sản xuất -
kinh doanh, tự chủ về tài chính; sử dụng tốt các đòn bẩy kinh tế
3. Ý nghĩa Đại hội VI:
- Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam.
- Là mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diên của đất nước, là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới,
đoàn kết bền lâu. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã mở đường cho đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế-xã hội tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội, đổi mới toàn diện. Từ đổi mới tư duy đến đổi mới
tổ chức, cán bộ và phong cách lãnh đạo.
- Đại hội đã thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, làm
thay đổi bộ mặt của xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ mới của lịch sử Cánh mạng Việt
Nam.
- Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đảng đã nhìn
thẳng vào sự thật, vào những sai lầm khuyết điểm và đổi mới theo xu thế mới của xã hội mới. Thể hiện
sự kết tinh trí tuệ toàn Đảng, toàn dân. Đảng đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối, từng bước tổng
kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa nước ta đạt được những thành tựu quan trọng.
- Là Đại hội: “Trí tuệ - Dân chủ - Đoàn kết và đổi mới”.
- Tuy nhiên, Đại hội còn có những hạn chế về những giải pháp tháo gỡ những tình trạng rối ren trong
phân phối và lưu thông.
Chủ đề 34: Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đại Hội VII, phân tích những cơ hội và thách thức
lớn của cách mạng Việt Nam được hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ (4/1994) đưa ra.
1 Cơ hội
- Trước sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước, lần đầu tiên Đảng tổ chức Hội
nghị giữa nhiệm kỳ (1-1994) . Hội nghị khẳng định, đổi mới là sự nghiệp khó khăn, chưa có tiền tệ, song
Đảng đã mạnh dạn tìm tòi và giành thắng lợi quan trọng. Điều cơ bản có tính chất quyết định nhất là
Đảng ta đã giữ vai trò lãnh đạo duy nhất , nếu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, có đường lối ,
chính sách phù hợp với quy luật và thực tiễn Việt Nam, phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết toàn dân , mở rộng hợp tác quốc tế.
- Ngoài việc cụ thể hóa việc thực hiện Nghị Quyết đại hội VII và bầu bổ sung 20 ủy viên Trung ương
Đảng mới thay thế cho số ủy viên Trung ương sức khỏe yếu hoặc bị kỷ luật, nhận thức mới của Hội nghị
giữa nhiệm kỳ là chỉ rõ trước mắt nhân dân ta là những cơ hội và thách thức lớn:
+ Đảng ta có đường lối đúng đắn , đoàn kết nhất trí , nhân dân cần cù ,thông minh, giàu lòng yêu nước,
có bản lĩnh và ý chí cách mạng kiên cường ,tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang
tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, những thành tựu của công cuộc
15
đổi mới đang tạo ra thế và lực mới , sự phát triển của cách mạng khoa học kĩ thuật, xu thế mở rộng quan
hệ hợp tác phát triển trên thế giới và khu vực mang đến cho chúng ta những nguồn lực quan trọng .
+ Từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng họp tại Hà Nội
. Hội nghị có nhiệm vụ kiểm điểm thực hiện Nghị quyết từ Đại hội VII và tổng kết một bước thực tiễn
đổi mới từ đại hội VI nhằm làm sáng tỏ thêm một số vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta , xác định những chủ trương và giải pháp lớn để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VII,
đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta tiếp tục tiến lên.
+ Đảng và nhân dân cùng chung chí hướng: Đảng ta và nhân dân ta quyết tâm không gì lay chuyển nổi
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã
lựa chọn, đó là con đường duy nhất đúng đắn.
+ Đảng ta kiên trì và tích cực đẩy mạnh công cuộc đổi mới do chính bản thân Đảng khởi xướng theo
những nguyên tắc đã được xác định. Trong khi tiếp tục lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, Đảng đẩy
mạnh hơn nữa nhiệm vụ đổi mới hệ thống chính trị, dân chủ hoá sinh hoạt xã hội, đổi mới mọi mặt đời
sống và hoạt động xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là
mệnh lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược.
+ Được sự ủng hộ của các bạn bè quốc tế: các đồng chí đại biểu quốc tế đã đem đến cho Đại hội Đảng
ta và nhân dân ta tình hữu nghị và đoàn kết, lòng tin cậy và sự ủng hộ mạnh mẽ của Đảng Cộng sản Liên
Xô và nhân dân Liên Xô quang vinh; của Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia anh em
đầy tình nghĩa trong sáng, đặc biệt thuỷ chung; của Đảng Cộng sản Cuba và nhân dân Cuba anh hùng
=> Những tiếng nói chân tình, thắm thiết của các đoàn đại biểu quốc tế anh em đã vang vọng khắp đất
nước ta, làm xúc động sâu sắc tình cảm những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, góp phần quý báu
vào thành công của Đại hội.
2. Thách thức
- Nguy cơ chệch hướng chủ nghĩa xã hội :
+ Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần hiện nay. Vấn đề này có một số biểu hiện như: sự giảm sút vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự gia tăng của tình
trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể;
gia tăng sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự băng hoại các giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc...
+ Xuất hiện tình trạng “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị". Một bộ phận cán bộ, đảng viên, phần
lớn còn trẻ tuổi, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng, xa rời truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Thậm chí, một số ít thanh niên bị lôi kéo, có những việc làm đi ngược lại truyền
thống của Đoàn, trái với mục tiêu của Đảng, của dân tộc. Có những cán bộ, đảng viên không giữ vững
bản lĩnh cách mạng, ý thức nhạy bén chính trị kém, bị tác động bởi luận điệu, thông tin sai trái, có những
biểu hiện tiêu cực, tạo ra mặt trái của xã hội và tiếp tay cho sự chống phá xuyên tạc của các thế lực thù
địch, nhất là trên mạng xã hội.
+ Đại hội 13 tiếp tục nhấn mạnh phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và các nguyên tắc
tổ chức, hoạt động của Đảng; chỉ rõ định hướng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Đồng thời, Đại hội XIII bổ sung, phát triển các nội dung mới là: Thực hiện nghiêm các nguyên
tắc, cơ chế, quy định và thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Coi
trọng nâng cao năng lực dự báo và ứng phó với các thách thức, biến động của tình hình. Khi hoạch định
chủ trương, giải pháp phải đánh giá tác động và cân đối, bố trí nguồn lực để tổ chức thực hiện có hiệu
quả; hình thành cơ chế tổ chức thực hiện nghị quyết bài bản, nghiêm túc, kiểm tra, giám sát chặt chẽ,
xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân.
- Nguy cơ suy thoái về đạo đức lối sống, tham ô, tham nhũng, lãng phí
+ Thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ cán bộ từ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời
hợt, ngại khó, ngại khổ, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn
16
biến", "tự chuyển hóa". Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu
gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ
nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp
nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật,
cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ
luật đảng và xử lý theo pháp luật. Thực tế còn một số cán bộ có bản lĩnh chính trị chưa thật sự vững
vàng, có biểu hiện dao động về lập trường, quan điểm, lười học tập, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đáng chú ý là gần đây có một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “đa nguyên”, “đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức hệ”, từ bỏ chủ nghĩa
xã hội… Một số cán bộ uy tín thấp, có biểu hiện sa sút vềc đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, thiếu
tinh thần trách nhiệm, nói không đi đôi với làm, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê
bình; thậm chí chưa vì lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân dân trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đặt
lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể; đặc quyền, đặc lợi, quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các
doanh nghiệp “sân sau”, sa vào “lợi ích nhóm”
+ Tham nhũng là vấn nạn nhức nhối hiện nay trong cán bộ, đảng viên, xuất hiện với nhiều hình thức
mới, như tham nhũng chính sách, tham nhũng đất đai, tham nhũng trong công tác cán bộ… Tình trạng
chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng,
chạy danh hiệu, chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi. Tham nhũng
làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, gây bức xúc dư luận, làm giảm sút niềm tin của nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với cán bộ, đảng viên, gây ra những nguy cơ tiềm ẩn, xung đột, làm
mất ổn định kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước, gây phương hại to lớn tới sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Công tác phòng
chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chuyển biến chưa rõ rệt, trách nhiệm của người
đứng đầu đối với công tác phòng chống tham nhũng chưa được đề cao. Việc phát hiện, xử lý tham
nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ
cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ
công chưa được đẩy lùi… Tham nhũng trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp,
với biểu hiện ngày càng tinh vi; tình trạng nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến,
gây bức xúc trong xã hội… Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng
và chế độ.
+ Thời gian qua, không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền, làm việc ở những
ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, bị xử lý kỷ luật của Đảng, hành chính của Nhà nước và xử lý hình sự. Tổng kết công tác xây dựng
Đảng của nhiệm kỳ XII, Đại hội XIII đã chỉ ra: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương
mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp”. Tổng kết về công tác PCTN, tiêu cực trong nhiệm kỳ Đại hội XII
của Đảng cho thấy, có đến hơn 87 nghìn đảng viên bị kỷ luật, trong đó vi phạm chủ yếu là nguyên tắc
tập trung dân chủ và quy chế làm việc, những điều đảng viên không được làm, tham nhũng, tiêu cực,
buông lỏng lãnh đạo, cố ý làm trái.
- Âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm vào cán bộ, đảng viên
Dưới góc độ thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc gia, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho rằng: “Đất nước
đang đứng trước 3 thách thức lớn đe dọa trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ”.
Cụ thể, theo ông Lâm, thách thức đầu tiên là âm mưu hoạt động chống phá, gây bạo loạn, lật đổ của các
thế lực thù địch, phản động ngày càng thâm độc, nguy hiểm hơn. Thứ hai là nguy cơ đe dọa chủ quyền
lãnh thổ trên Biển Đông, gắn với thách thức trong xử lý quan hệ với các nước lớn và giữ vững uy tín
của Đảng, chế độ trước nhân dân ngày càng gia tăng. Thách thức thứ ba là nguy cơ “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ gắn với suy giảm lòng tin của nhân dân diễn biến phức tạp. “Trong 3 thách
thức nêu trên, nguy cơ mất an ninh chính trị nội bộ, suy giảm thế trận lòng dân, làm suy yếu sức chiến
đấu của Đảng, của chế độ ta từ gốc, từ bên trong là nguy hiểm nhất”, ông Lâm khẳng định. Các thế lực
17
thù địch thường tranh thủ, len lỏi vào cán bộ, đảng viên để thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm chống
phá nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước. Bản chất thật sự của “diễn biến
hòa bình” là hoạt động của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước có chế
độ chính trị mà còn coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các biện pháp chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh… để chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này theo
quỹ đạo có lợi cho họ. Hiện nay, “diễn biến hòa bình” đã có những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến
hành, phương thức, nội dung, mục tiêu… đã phát triển đến đỉnh cao, với rất nhiều kịch bản khác nhau.
Đặc biệt là sự phát triển của công nghệ số, các trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực thù địch
ráo riết tận dụng triệt để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ không thể xem thường, thực tế đó đòi hỏi chúng ta cần phải có những
biện pháp, cách thức, đối phó và khắc chế cho phù hợp, không để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.
- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn là nguy cơ thường trực
và khó khắc phục
+ Theo GS-TS Trần Ngọc Đường Chủ nhiệm Hội đồng Dân chủ - Pháp luật, Ủy ban trung ương MTTQ
Việt Nam cho rằng, nguy cơ “phải đặc biệt coi trọng” cần phải khắc phục chính là nguy cơ tụt hậu ngày
càng xa về kinh tế. Ông Đường phân tích, hiện nay khoa học công nghệ phát triển rất nhanh, nhất là với
cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đã làm thay đổi các quan hệ xã hội, suy nghĩ, tư duy của con người. Bên
cạnh đó, thế giới ngày nay cũng diễn biến rất khó lường với những vấn đề an ninh phi truyền thống, từ
thiên tai cho tới dịch bệnh. “Nếu không vượt qua nguy cơ tụt hậu về kinh tế, trong đó có nguy cơ tụt hậu
về khoa học, công nghệ thì khó mà đạt được các mốc mục tiêu quan trọng. Toàn cầu hóa tạo ra những
thách thức không nhỏ đối với cán bộ, đảng viên trong công cuộc đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Trong khi đó thì hiện nay chúng ta đang thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học
và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn
hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không
đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi
trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện.
+ Kinh tế Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 6%/năm,
(năm 2020, do ảnh hưởng dịch Covid-19, nhiều nước “tăng trưởng âm”, nhưng Việt Nam vẫn đạt GDP
2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới). Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân
đầu người tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD).
+ Tuy nhiên, nhìn từ thực tế vẫn thấy: khoảng cách GDP của thế giới và của Việt Nam vẫn đang ngày
càng doãng ra với tốc độ rất nhanh. Nếu cách đây 30 năm, GDP của thế giới hơn GDP của Việt Nam là
3.900 USD thì nay con số đó là 7.500 USD. Và như vậy là cho dù Việt Nam đã đi được nhiều bước,
song đó chỉ là những bước ngắn, nên vẫn tụt hậu so với nhiều quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm,
nhưng họ lại đi được những bước dài. Và rõ ràng, đây là một thách thức thực sự, là một vấn đề khó đối
với Việt Nam hiện nay, rất cần có chiến lược tổng thể, dài hạn để khắc phục. Điều này cũng chính là
những thách thức, trở ngại và trách nhiệm lớn đặt lên vai cán bộ, đảng viên – là lực lượng làm việc
chính, là chủ, là người đứng đầu các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp… làm nhiệm vụ chèo lái
con thuyền kinh tế Việt Nam ra biển lớn trên con đường hội nhập quốc tế.
+ Những nguy cơ và thách thức luôn xuất hiện đan xen nhau và việc nhận diện chúng đóng vai trò hết
sức quan trọng trong việc xây dựng những quyết sách, chính sách, chiến lược phù hợp với điều kiện lịch
sử - cụ thể của Việt Nam hiện nay, do đó cần phải khắc chế nguy cơ nhằm phát triển đất nước nhanh,
bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập và phát triển, hướng tới mục tiêu cao
cả là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vượt qua
những nguy cơ trên để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
giữ vững thành quả cách mạng mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng phải hy sinh biết bao nhiêu
xương máu mới có được, vẫn đang và sẽ là những thách thức thực sự, đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có
những nỗ lực vượt bậc, sự đoàn kết cao độ, cùng chung sức, đồng lòng với cả dân tộc nhằm bảo vệ và
phát huy những thành quả cách mạng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
18
Chủ đề 35: Đại hội VIII (Phân tích quan điểm, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước của Đại hội VIII (7/1996).)
1. Nội dung đại hội VIII
a. Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam: 2 chiến lược:
- Đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc
- Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn
toàn độc lập và dân chủ trong cả nước
b. Về mục tiêu chiến lược chung: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
c. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng mỗi miền
- Cách mạng XHCN ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng VN và
đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà
- Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành CM dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước
d. Về hoà bình thống nhất đất nước: chủ trương thực hiện bằng con đường hoà bình.
e. Về triển vọng cách mạng: là quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu
dài nhưng nhất định thắng lợi
f. Về xây dựng CNXH:
1: Hoàn cảnh ĐH VIII(1996) ( Nhóm 1+ thuyết trình) (trả lời câu hỏi nếu cô hỏi có liên quan đến
phần 1)
Hoàn cảnh quốc tế:
Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột
về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở
nhiều nơi.
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng
sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và
đời sống xã hội.
Bối cảnh quốc tế nói trên, có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hoàn cảnh trong nước:
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về
mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất của
đông đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng cố. Đồng thời, thành tựu
10 năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Bên cạnh những thành tựu dạt được, nước ta cũng phải đối đầu với nhiều thách thức như nguy cơ tụt
hậu xa về kinh tế, “diễn biến hoà bình”; tệ quan liêu, tham nhũng; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ
nghĩa. Tình hình thế giới và thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra cho Đảng ta những nhiệm vụ và bước đi
mới.
Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày
28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2
triệu 130 nghìn đảng viên trong cả nước.
2: Quan điểm,chủ trương đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước ( nhóm 2 + trả lời
câu hỏi)
Ðại hội tổng kết 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, 5 năm thực hiện Nghị quyết
Ðại hội VII của Ðảng, đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng.
Nhận định đặc điểm tình hình thế giới, thời cơ và thách thức, Ðại hội xác định: Mục tiêu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
19
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh.
Ðại hội đã xây dựng định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu: Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chính sách đối với các thành phần kinh tế; tiếp tục đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế; phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội; quốc phòng và an ninh;
chính sách đối ngoại; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; tiếp
tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Ðại hội
cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Ðảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Ðó là, giữ vững
và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Ðảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng
lực cán bộ, đảng viên. Củng cố Ðảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Ðảng. Ðổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Ðảng.
3: Ý nghĩa Đại Hội VIII ( nhóm 3 + trả lời câu hỏi)
-Đánh dấu bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách mạng xã hội chủnghĩa ở miền Bắc
và đường lối đấu tranh thống nhất đất nước.
-Là cơ sở cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất.
-Là “nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng, toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.”
Câu hỏi: tên 6 quan điểm chỉ đạo cnh-hdh
1) Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối
ngoại.
2)CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
3)Lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
4)Khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH.
5)Lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án pháttriển, lựa chọn dự án
đầu tư và công nghệ
6)Kết hợp kinh tế với quốc phòng – an ninh
Chủ đề 36: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước và đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh công nông trí thức do Đảng lãnh đạo” của ĐH IX (4/2001). Để thực
hiện luận điểm đó cần làm gì?
1. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là Đại đoàn kết toàn dân
- Ðoàn kết là một truyền thống tốt đẹp, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước; điều này
được thể hiện đậm nét trong lịch sử dân tộc ta, nhất là trong cuộc cách mạng giải phóng đất nước. Trong
công cuộc đổi mới, Ðảng ta tiếp tục xác định xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam, là động lực chủ yếu, nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi
bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Bất kỳ quốc gia, dân tộc nào muốn phát triển cũng phải tạo ra sức mạnh đoàn kết của quốc gia, dân tộc
đó. Đối với Việt Nam, sự hình thành khối đại đoàn kết toàn dân có tính đặc thù do phải trải qua rất nhiều
khó khăn, thử thách để chống lại thiên tai, dịch bệnh khắc nghiệt và các kẻ thù xâm lược hùng mạnh
hơn từ bên ngoài. Do đó, đoàn kết đã được hun đúc từ đời này qua đời khác và trở thành một truyền
thống quý báu lâu đời, sức mạnh vô địch của dân tộc ta. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra
những kết luận có tính chân lý: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”,
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
- Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của
nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người. Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn
tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả
các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp
20
có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không
và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào. Nguyên tắc đại đoàn kết dân
tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp
nhất những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân
tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về
lợi ích. Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là bình
đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất
di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để
Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của
mình.
- Nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Người kế thừa và nâng lên một
bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa mác-Lenin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân
là người sáng tạo ra lịch sử.
- Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức mạnh to
lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết:
“Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng
không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những
người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
- Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc đã được kế thừa và phát triển đến cao độ; được thể hiện nhất quán và xuyên suốt quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã
xác định rõ những động lực phát triển đất nước, bao gồm: Đại đoàn kết toàn dân tộc; Dân chủ xã hội
chủ nghĩa; kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của con người;
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Công bằng xã hội; Đổi mới, sáng tạo… Trong đó, đại đoàn kết toàn dân tộc được xem là động lực hàng
đầu.
- Sở dĩ, đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta coi là động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, khi được quy tụ, tổ
chức, có sự lãnh đạo thống nhất, thì sẽ động viên đến mức cao nhất sức mạnh của tất cả các giai tầng
trong xã hội, đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước để hướng đến mục tiêu chung là xây dựng và phát
triển “Một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát
triển đất nước trong thời kỳ mới, khác với quan điểm tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp trước đây.
2. Phân tích liên minh công nông và trí thức
- Tại Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, người chủ trì Nguyễn Ái Quốc
Trên cơ sở đánh giá tình hình giai cấp và xã hội Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh thế giới, với quan
điểm lý luận gắn với thực tiễn cách mạng, Người nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.
Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi
lửa nóng. Liên minh công - nông - trí thức là sự cố kết của công nhân, nông dân, trí thức trong một chỉnh
thể”. Xây dựng khối liên minh công - nông - trí là lực lượng cơ bản tiến hành cách mạng Việt Nam.
Đường lối kháng chiến đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta làm nên nhiều
chiến thắng
- Về phía nông dân, do địa vị kinh tế - xã hội và bản chất giai cấp của mình, nông dân tự nguyện tìm
đến với giai cấp công nhân. Nếu không liên kết với công nhân, trí thức thì họ sẽ bị các giai cấp bóc lột
lợi dụng, lôi kéo trở lại cuộc sống nô lệ, bị áp bức, bóc lột. Ngày nay, sự tiến bộ của nông dân đã ngày
càng gắn bó hơn với công nhân và trí thức. Để đẩy nhanh sản xuất nông sản hàng hóa, làm cho nông
nghiệp phát triển bền vững, nông dân rất cần tới sự hỗ trợ của công nghiệp và những tri thức khoa học
kỹ thuật
21
- Về phía tầng lớp trí thức, là một tầng lớp xã hội đặc biệt có đặc trưng nổi bật là lao động trí óc sáng
tạo. Trong công cuộc đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nhân, nông dân rất cần
trí thức. Công nhân và nông dân tạo nên những cơ sở vật chất, điều kiện sinh hoạt và làm việc cần thiết,
đặt ra các nhu cầu làm động lực cho sự tìm tòi sáng tạo, hoạt động nghiên cứu của trí thức. Ngược lại,
các lĩnh vực hoạt động của công nhân, nông dân sẽ là môi trường để trí thức đem khoa học kỹ thuật vào
phục vụ cuộc sống.
- Trí thức là những người lao động trí tuệ, sáng tạo, dựa trên nền tảng học vấn và kiến thức chuyên môn
cao, có tính chuyên nghiệp. Thực hiện việc lãnh đạo, quản lý, điều hành xã hội cũng bao chứa lao động
trí óc, nhiều dạng hoạt động lao động khác trong xã hội hiện đại cũng không thể không có lao động trí
óc. Nhưng với trí thức, nhất là trí thức trong thời đại cách mạng KHCN, lao động trí óc của họ là lao
động trí óc chuyên nghiệp, gắn với sáng tạo, tích lũy, truyền bá tri thức.
-Liên minh công - nông trong quá trình công nghiệp hoá thể hiện rõ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
xã hội.
- Nội dung này thể hiện trước hết ở chỗ, hai giai cấp đoàn kết, gắn bó chặt chẽ, trở thành lực lượng cách
mạng chủ yếu nhất để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một công cụ chủ yếu để nhân dân lao động
từng bước thực sự làm chủ xã hội.
-Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản và quyết định nhất, làm cơ sở vững chắc cho liên minh công nông
trong quá trình công nghiệp hoá.
- Bản chất sâu xa của liên minh công-nông, xét về mặt kinh tế, chính là quá trình giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế của hai giai cấp và của toàn xã hội. Các lợi ích kinh tế này không
đối kháng mà về cơ bản là thống nhất nhưng vẫn luôn luôn nảy sinh mâu thuẫn cần phát hiện và giải
quyết những điều kiện cụ thể. Quá trình kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế biểu hiện ở các quan hệ tác
động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp, công nhân và nông dân, đặc biệt là quan hệ giữa Nhà
nước và nông dân.
- Đối với quan hệ giữa giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng đông đảo nhất trong dân cư, Hồ Chí
Minh xác định: “Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì nông dân mới được giải phóng. Cũng chỉ có thắt
chặt liên minh với nông dân thì giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Cho nên công
nhân phải chăm chú đến vấn đề nông dân, phải củng cố công nông liên minh”. Người cũng chỉ rõ: “Nông
dân, công nhân, lao động trí óc đều phải dựa vào nhau. Nông dân không có sự giúp đỡ của công nhân
thì không được. Công nhân không có nông dân cũng không được. Lao động trí óc không có công nhân,
nông dân cũng không được”.
- Liên minh công - nông - trí thức là hạt nhân, cơ sở của khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn kết
toàn dân, tập hợp, thu hút mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ vào một mặt trận chung thống nhất vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng lãnh đạo gì
+ Đại hội IX của Đảng (4/2001) là Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện ý chí kiên
cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc trong thời điểm trọng đại bước vào thế kỷ mới.
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 19 đến ngày
22- 4-2001. Đại hội đã nghe đồng chí Trần Đức Lương, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị đọc Diễn văn
khai mạc Đại hội, đồng chí Lê Khả Phiêu,Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đọc
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về các văn kiện trình Đại hội IX.
Đại hội Đảng lần thứ IX có nhiệm vụ tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội VIII, 10 năm
thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991 – 2000 và tổng kết 15 năm tiến hành công
cuộc đổi mới. Đại hội IX kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng
Đảng ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới, sửa đổi, bổ sung Điều lệ, bầu ra Ban Chấp
hành Trung ương mới.
+ Đại hội khẳng định những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên vẫn còn có
giá trị lớn, nhất là những bài học: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
22
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải dựa vào nhân
dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới.
+ Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong thời kỳ
quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế.
+ Quan hệ các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn
kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mà nội dung chủ yếu của đấu tranh
giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức,
bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức
do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán
và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân.
+ Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
⇒ Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đánh dấu bước trưởng thành về
nhận thức vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển và cụ thể hóa
Cương lĩnh chính trị năm 1991 của Đảng trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Để thực hiện luận điểm cần làm gì?
+ Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh" làm điểm tương đồng.
+ Mục tiêu trên là ước vọng ngàn đời của mọi người Việt Nam yêu nước, thương nòi. Yêu nước, đoàn
kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước đã trở thành lẽ sống của cả dân tộc; của mỗi người Việt
Nam qua các thời đại.
+ Mục tiêu trên cũng là hoài bão, thể hiện ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tôi chỉ có một
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
Đó cũng là điều mong muốn cuối cùng của Người trước lúc đi xa: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết
phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
+ Giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh" là mẫu số chung, là chất kết dính để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng
lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mục tiêu "Dâu giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" được xác định từ Hội nghị giữa nhiệm
kỳ khóa VII của Đảng họp tháng 1-1994, được Đại hội IX của Đảng bổ sung thành "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" và được Đại hội X tái khẳng định.
Xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội

23
+ Nước ta là nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Nhân dân ta đã từng trải qua hơn một phần ba thế kỷ tiến
hành các cuộc kháng chiến cứu nước và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước cũng đã từng bị chia cắt tạm thời làm
hai miền. Tuy đất nước đã thống nhất được hơn 30 năm, nhưng "những mặc cảm, những khoảng cách
còn lại" ở nơi này, nơi khác, thậm chí trong mỗi gia đình, nhất là các tỉnh phía nam và trong một bộ
phận đồng bào có đạo và đồng bào ta định cư ở nước ngoài vẫn tồn tại với những mức độ khác nhau.
+ Mặt khác, chấp nhận phát triển kinh tế nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa
là chấp nhận thu nhập khác nhau, mức sống, lối sống khác nhau và chấp nhận sự tồn tại lợi ích khác
nhau giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội.
Trên cơ sở thừa nhận còn tồn tại những khác biệt đó, Đại hội X của Đảng xác định: Để thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc ở tầm cao mới phải: "xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá
khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao
truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính
trị và đồng thuận xã hội".
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các
tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
+ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trước hết là trách nhiệm của Đảng vì Đảng là hạt nhân
lãnh đạo của hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo toàn xã hội. Đường lối đúng đắn của Đảng là yếu tố quan
trọng hàng đầu để khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Đổi mới, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng
lực và sức chiến đấu của Đảng để Đảng đoàn kết, thống nhất, thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đào tạo xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực, gắn
bó mật thiết với nhân dân là việc làm có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp đại đoàn kết toàn
dân tộc.
+ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Nhà nước, vì Nhà nước là trụ cột của
hệ thống chính trị, người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc: tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân; cán bộ, công chức phải thật sự là công bộc của dân. Đây là yếu tố rất quan trọng, bảo đảm sự bền
vững của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc (bao gồm các đoàn
thể nhân dân). Là tổ chức liên minh chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong
việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và
Nhà nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội, động viên nhân dân phát huy quyền làm
chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết
với nhân dân.
+ Tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là đường
lối chiến lược của Đảng.
Câu hỏi thảo luận
Câu 1: Để phát huy vai trò trí thức, theo em Đảng và Nhà nước cần phải làm gì ?
Ðảng ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề để tạo động lực thúc đẩy
sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước cần thực hiện các chính sách xây dựng và từng
bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi
trường phát huy vai trò của trí thức; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc gia,
phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức người Việt Nam ở nước
ngoài.
Câu 2: Tại sao cần có sự lãnh đạo của Đảng trong sự phát triển đất nước ?
Nhiệm vụ cơ bản về bảo vệ Tổ quốc: Giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, duy trì và xây dựng
Đảng là nhiệm vụ theo chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội
24
bộ. Nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề
xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm
công bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với việc
tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng lòng cốt. Đẩy mạnh hoạt
động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng
thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn. Trên cơ sở đó, Trung ương đã nêu các nhiệm vụ cơ bản
và giải pháp chủ yếu Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Chủ đề 38: Phân tích những phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở Việt Nam của Cương lĩnh
năm 2011 được Đại hội XI (1/2011) thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) được
thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta như sau:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường.
+ Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế.
+Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
1.Sự phát triển nhận thức lý luận về phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội:
Với phương hướng 1:
-Những luận điểm đã rõ:
Nhìn nhận công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề cơ bản của việc phát triển mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xem xét công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách
toàn diện hơn: công nghiệp hóa gắn hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh
tế tri thức, tức là phù hợp xu thế phát triển của nhân loại; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ
tài nguyên, môi trường là phù hợp thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các nước đi trước đã thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung với công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn là phù hợp thực tế Việt Nam.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Tiêu chí của một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như tiêu chí của nền kinh tế tri thức vận dụng
vào điều kiện cụ thể Việt Nam chưa thống nhất. Từ đó làm cho chúng ta còn lúng túng về biện pháp,
con đường, điểm đột phá để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như xây dựng nền kinh tế tri
thức. Chúng ta cũng chưa nhận thức rõ vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong
thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Trong công nghiệp thì
đột phá ngành gì, ưu tiên ngành gì cũng còn lúng túng. Trong nông nghiệp cũng tương tự như vậy, chưa
chọn được khâu đột phá để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Nguyên nhân hạn chế:

25
Chưa thống nhất về mặt nhận thức lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về kinh tế tri thức; còn cầu
toàn quá về nghiên cứu lý luận nên chậm trong triển khai thực tiễn. Hơn nữa, chúng ta chậm tổng kết
thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường
trong thời kỳ đổi mới để rút ra những bài học cần thiết cho thực hiện phương hướng này.
Với phương hướng 2:
-Những luận điểm đã rõ:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ thực hiện nhất quán, lâu dài mô hình kinh tế này. Những đặc trưng cơ bản
của mô hình kinh tế này đã được nêu ra và về đại thể là được chấp nhận trong toàn Đảng. Đặc biệt, tại
Đại hội XII của Đảng, những đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại hơn.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Vẫn chưa thống nhất trong Đảng, nhất là trong xã hội về những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là việc cụ thể hóa những đặc trưng này trong từng lĩnh
vực để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, còn lúng túng trong tổ chức thực hiện.
Do vậy, cơ chế “xin – cho” vẫn còn tồn tại và biểu hiện biến tướng phức tạp.
- Nguyên nhân hạn chế:
Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về vấn đề này còn chậm. Còn những nhóm lợi ích nhóm xấu tìm
mọi cách giữ lại cơ chế “xin – cho”. Hơn nữa, đây là mô hình kinh tế mới chỉ có ở nước ta, nên không
thể học hỏi kinh nghiệm các nước khác được.
Với phương hướng 3:
-Những luận điểm đã rõ:
Nhận thức toàn diện hơn về xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng như mối liên hệ
giữa xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Tư duy lý luận về vai trò của văn hóa đối với phát triển
bền vững được khẳng định, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu và động
lực của phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là sức mạnh nội sinh của phát triển bền
vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là văn hóa nhân cách,
văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị; tư duy bước đầu về xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực của
văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế; đổi mới, nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trên
lĩnh vực văn hóa là tất yếu chính trị.
Thực tiễn thực hiện phương hướng này cho thấy chúng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, vị trí của
giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ với tư cách là quốc sách hàng đầu. Đã gắn tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Chế độ phân
phối đã thể hiện được tinh thần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Cơ chế, điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa còn chung
chung, chưa rõ ràng, chưa cụ thể. Xã hội công dân chưa được nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc chỉ đơn
thuần là phủ định. Chưa đề ra được hệ giá trị chuẩn mực văn hóa Việt Nam; hệ giá trị con người Việt
Nam. Chưa có giải pháp đột phá để bứt phá về giáo dục, đào tạo; phát triển khoa học công nghệ; trọng
dụng nhân tài. Nhiều chủ trương đúng vẫn dừng ở tư tưởng, quan điểm chưa hoặc chậm triển khai trên
thực tế.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta còn chủ quan và chưa nhận thức, đánh giá đúng vai trò, vị trí của một số vấn đề văn hóa, xã
hội, con người, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong mối quan hệ với kinh tế; chưa nhận
thức hết vai trò sức mạnh mềm của văn hóa. Còn có tư tưởng tuyệt đối hóa kinh tế, còn tâm lý chỉ chú
ý lo tăng trưởng GDP. Chúng ta chậm tổng kết thực tiễn việc xây dựng xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người.
26
Với phương hướng 4:
-Những luận điểm đã rõ:
Đã nhận thức và gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia với nhiệm vụ giữ vững chế độ, bảo vệ
Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội, văn hóa cũng như gắn kết phương hướng bảo đảm quốc phòng,
an ninh quốc giai với yêu cầu giữ vững an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân. Trên
thực tế, phương hướng bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội luôn
gắn với nhiệm vụ đối ngoại. Nhận thức mềm dẻo, linh hoạt phù hợp thực tiễn về “đối tác” và “đối tượng”
trong quốc phòng, an ninh được thay thế cho nhận thức cũ, cứng nhắc. Gắn xây dựng đường lối quốc
phòng, an ninh nhân dân với kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng
đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Nhận thức lý luận về vấn đề ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh từ xa vẫn còn chung chung, chưa
cụ thể. Có những vấn đề liên quan đến nội bộ trong đời sống xã hội của nhân dân gắn với an toàn, trật
tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân như “Luật biểu tình” chưa được nhận thức giải quyết triệt
để, còn các ý kiến trái chiều. Đây là một trong những nguyên nhân chưa giải quyết triệt để vấn đề tụ tập
đông người, lợi dụng dân chủ, “dân chủ quá trớn” gây mất trật tự, an toàn xã hội cho người dân. Vấn đề
an ninh phi truyền thống chưa được quan tâm đúng mức. Việc nghiên cứu những dự báo chiến lược về
lĩnh vực quốc phòng, an ninh chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Đặc biệt là những nhận thức và
tư duy chiến lược về vấn đề biển Đông chưa chủ động, còn chậm so với một số nước khác trong khu
vực, thậm chí có lúc bị động, còn có biểu hiện chạy theo lợi ích kinh tế mà coi nhẹ chiến lược quốc
phòng, an ninh.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta chưa tập trung nghiên cứu, giải quyết dứt điểm những vấn đề liên quan quốc phòng, an ninh
nảy sinh từ thực tế; còn thận trọng quá mức dẫn tới “né tránh” vấn đề.
Với phương hướng 5:
-Những luận điểm đã rõ:
Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trong đối ngoại. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đã được kiên trì, kiên định trong
qúa trình thực hiện Cương lĩnh. Từ “sẵn sàng là bạn” “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”
chúng ta đã chuyển thành công sang phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” và “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” tức là công tác đối ngoại
ngày càng toàn diện hơn. “Đối ngoại nhân dân” đã được thay bằng “Ngoại giao nhân dân”. Chúng ta
luôn giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo trong sách lược bằng những biện pháp, hình thức linh
hoạt, sáng tạo, tranh thủ điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, giải quyết các tranh chấp bằng thương
lượng hoà bình.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Tính tới tháng 9/2018, Việt Nam có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 16 đối tác chiến lược (bao gồm cả 3
đối tác chiến lược toàn diện) và 12 đối tác toàn diện nhưng chúng ta chưa có “chiến lược, chương trình,
nội dung” cụ thể cho từng đối tác và chưa có trọng tâm, trọng điểm để đột phá về đối ngoại.
Nội hàm của khái niệm lợi ích quốc gia dân tộc, độc lập, chủ quyền, cùng thế nào là ưu tiên bảo đảm lợi
ích quốc gia dân tộc trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay còn chung chung, chưa rõ.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chưa xác định thật rõ liên minh hay liên hiệp mà mình phải dựa vào khi tình hình khó khăn, trong khi
bối cảnh thế giới biến động khôn lường. Do vậy, chúng ta còn rất cẩn trọng trong xác định từng đối tác
cụ thể trong đối ngoại. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về những vấn đề trên còn chậm,
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Với phương hướng 6:
-Những luận điểm đã rõ:

27
Chuyển “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới” thành “dân chủ xã hội
chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của phát triển đất nước”. Như vậy đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, phù hợp
thực tế hơn. Coi dân chủ xã hội chủ nghĩa như một phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Gắn xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa với thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng trên cơ sở “cộng đồng Việt Nam”
rộng hơn trước kia trên cơ sở các “dân tộc trong nước”. Lấy điểm tương đồng về mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Cơ chế, phương thức thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra chưa rõ” cho
nên việc phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân còn hạn chế. Cơ chế, điều kiện thực hiện dân chủ
trực tiếp của nhân dân còn hạn chế. Phương thức hoạt động hiệu quả nhất trong điều kiện quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân
dân chưa rõ. Bệnh hành chính hóa, nguy cơ quan liêu hóa của các cơ quan này được nhận thức từ sớm
nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu, triệt để khắc phục.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta chưa quyết liệt giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tế, bằng lòng với kết quả đã có. Chưa
tổng kết thực tiễn, xây dựng mô hình thí điểm hoạt động của Mặt trận đoàn kết để tìm ra phương thức
hoạt động tối ưu. Chưa quyết liệt tổng kết thực hiện việc thí điểm nhân dân bầu trực tiếp một số chức
danh lãnh đạo ở cấp cơ sở và cấp quận (huyện) để tổ chức thực hiện trên cả nước.
Với phương hướng 7:
- Những luận điểm đã rõ:
So với Cương lĩnh 1991, lần đầu tiên tính chất pháp quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong
phương hướng xây dựng nhà nước ở Việt Nam. Coi xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và
xây dựng đội ngũ công chức là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Chúng ta mới chỉ thấy tính chất pháp quyền trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chưa thấy
được đây là phương thức thực hiện quyền lực của nhân dân hiệu quả nhất, cũng như phương thức thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa thực tế nhất trong điều kiện hiện nay.
Mô hình, cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn chưa rõ, nhất là cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước. Cụ thể cơ chế “phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp” trong thực hiện quyền lực nhà nước chưa được làm rõ. Do vậy, chưa có cơ chế
ngăn chặn sự tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Chúng ta phủ định mô hình “tam quyền phân lập” của phương Tây một cách giản đơn mà không nghiên
cứu để tìm ra “hạt nhân hợp lý”, gạt bỏ những bất hợp lý không phù hợp điều kiện Việt Nam.
- Nguyên nhân hạn chế:
Đây là vấn đề mới và khó cho nên chúng ta chưa nghiên cứu về mặt lý luận một cách toàn diện, bài bản.
Đã vậy, chúng ta chưa tổng kết được thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam để rút ra bài học cho việc kiểm soát quyền lực tốt hơn. Chúng ta chưa quyết liệt trong việc loại bỏ
những công chức biến chất, tha hóa ra khỏi bộ máy nhà nước. Việc xây dựng bộ máy nhà nước tinh
giản, hiệu lực, hiệu quả bàn, tổ chức triển khai nhiều nhưng kết quả rất hạn chế.
Với phương hướng 8:
-Những luận điểm đã rõ:
Khẳng định và kiên trì, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động mà còn của cả dân tộc. Cùng với xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức thì
Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức. Những luận điểm này phù hợp thực
tiễn Việt Nam và được thực tiễn chứng minh là đúng.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
28
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được nêu ra từ rất sớm nhưng
nội hàm, cơ chế vận hành của mối quan hệ này còn lúng túng, chưa rõ. Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và công dân cũng chưa được làm rõ. Vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng cũng
chưa được nhận thức và giải quyết một cách quyết liệt. Cơ chế ngăn ngừa sự suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự suy thoái, tự chuyển hóa” còn chung chung.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chậm nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, vai trò của xây dựng Đảng về Đạo đức; tổ chức thực hiện
trên thực tế công tác xây dựng Đảng về đạo đức chưa tốt. Chúng ta tổ chức đấu chống tham nhũng, quan
liêu, cửa quyền ,v.v.. trong bộ máy Đảng, chính quyền trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội nhưng hiệu quả
không cao, chưa đáp ứng yêu cầu mong mỏi của nhân dân và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Chủ đề 39:Phân tích những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới vì CNXH do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo.
1.Công cuộc đổi mới vì CNXH từ năm 1986 đến nay.
- 35 năm đổi mới (1986 - 2021) là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước, đánh dấu sự
trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân, là sáng tạo có tính tất yếu, toàn diện để gạt bỏ,
tháo gỡ những vướng mắc, giải phóng năng lực sản xuất, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của
đất nước.
- Bởi đổi mới là công cuộc có tính tổng thể, được chuẩn bị bài bản, theo cách thức, với từng đường đi
nước bước cụ thể, được cân nhắc chắc chắn, triển khai một cách sâu rộng và đồng bộ, cho nên 35 năm
qua, công cuộc đổi mới đã thật sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, gắn bó với mỗi
người Việt Nam, và được bạn bè quốc tế hết sức quan tâm.
- Ðổi mới để phát triển, song phải là phát triển trong thế ổn định, theo đúng định hướng, con đường mà
chúng ta đã chọn. Ðổi mới để thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế
thị trường do Nhà nước quản lý, điều hành theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng thả nổi thị
trường; phát triển kinh tế nhưng phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân
hóa giàu nghèo. Ðổi mới yêu cầu gắn với mở cửa, hội nhập, với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa để đất nước phát triển nhanh, bền vững; xây dựng, tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát
triển quan hệ sản xuất phù hợp, từ đó nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới.
- Sau 35 năm, đất nước đã đạt được những kết quả thiết thực, mà trước hết là đổi mới tư duy để khắc
phục được nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, vì thế vai trò lãnh đạo của
Ðảng càng được tăng cường, định hướng XHCN được giữ vững, hình thành quan niệm mới về mục tiêu,
bước đi, cách thức phát triển đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế,
quản lý xã hội, kinh tế thị trường theo định hướng XHCN từng bước hình thành, phát triển. Công cuộc
đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ra khỏi
tình trạng một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng kể, ổn định chính trị - xã hội
được bảo đảm, an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng sâu
rộng. Ðổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu thốn, có khi phải nhập lương thực, nay đã thành nước xuất
khẩu gạo đứng ở tốp đầu thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn đến thành
thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách
sống, làm việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có nhiều nét mới mẻ, tươi tắn như hôm nay. Ðổi
mới giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả tốt đẹp đạt được trước đây, vừa có cách
nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn khác trước, làm khác trước, phù hợp với trạng thái phát triển
mới, vì thế, đã đem đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức chúng ta đi thêm những bước dài trên
con đường đã chọn.
- Qua 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát
huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất
29
nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững;
quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao…
- Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những năm tới;
đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát
triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân tích cực ủng hộ, thực hiện, được bạn bè
quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng đã nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng,
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra các chủ trương, quyết
sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình thế giới và trong nước. Ðó là cơ sở để năm
2020, với phương châm vì tính mạng con người, không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân,
toàn quân đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền trung, giúp
nhân dân sớm ổn định cuộc sống.
2. Một số hạn chế của công cuộc đổi mới vì CNXH từ năm 1986 đến nay.
- Trong 35 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt nam cũng còn nhiều hạn chế,
yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn
một số vấn đề chưa rõ, chưa sâu sắc hoặc chưa cụ thể.
- Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển vẫn chưa tương xứng
với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt trong 10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả,
năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa
đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang
cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm
và gặp nhiều khó khăn.
- Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, còn nhiều hạn
chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và
quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải quyết có hiệu quả. Đạo đức xã hội có một số mặt
xuống cấp; văn hóa phẩm độc hại, lai căng tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài
nguyên bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác
động đến Việt Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực, người dân chưa được thực
hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới.
- Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới
kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu
lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang tầm với nhiệm vụ.Biên chế của hệ thống chính trị ngày
càng tăng lên, nhưng chất lượng công vụ thấp.
- Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều tiến bộ song cũng còn
nhiều hạn chế. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước còn nhiều bất cập. Số văn bản luật ngày càng
tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc phát huy dân chủ chưa đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ
luật, pháp luật. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn
chậm trễ, cải cách tư pháp còn lúng túng.
- Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, song công
tác xây dựng Đảng chưa có nhiều chuyển biến cơ bản trong tình hình mới. Chưa có những giải pháp
hiệu quả để ngăn chăn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực xã hội còn diễn ra nghiêm
trọng. Công tác tư tưởng- lý luận, công tác tổ chức- cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, công tác dân
vận còn nhiều bất cập. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
30
thể nhân dân chậm đổi mới. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản
lý đảng viên chưa chặt chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng đầu.
- Những hạn chế trên đây làm cho Đảng chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, chưa ngang tầm nhiệm vụ,
làm ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa.
- Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, Đảng
phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận- thực tiễn do
công cuộc đổi mới đặt ra:
+ Vấn đề xác định lộ trình và bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều bước đi, nhiều chặng đường phát triển. Cho đến nay, Việt Nam đã hoàn thành chặng đường
đầu tiên và đang trong chặng đường tiếp theo là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo nền
tảng sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, từ đây
cho đến khi kết thúc thời kỳ quá độ để trở thành một nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam còn phải trải qua
bao nhiêu chặng đường, nội dung kinh tế- xã hội của từng chặng đường là gì? Chỉ có đẩy mạnh nghiên
cứu lý luận- thực tiễn để giải đáp những câu hỏi đó một cách có căn cứ khoa học thì mới có chính sách
cho từng chặng đường và cho cả thời kỳ quá độ, phòng ngừa và khắc phục tư duiy giản đơn, chủ quan
nóng vội trong lãnh đạo, quản lý đem mục tiêu xa áp đặt cho mục tiêu gần.
+ Vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng theo yêu cầu nền kinh tế thị trường
hiện đại. Cần nghiên cứu làm sáng tỏ hơn việc tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường với bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường như thế nào để bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa ? Vai trò của thị trường đến đâu trong việc phân bổ tài nguyên, phân
bổ các nguồn lực trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Cần tiếp tục nghiên cứu vai trò của kinh tế Nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhà nước, những giải
pháp để kinh tế nhà nước thực sự đóng góp vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân; những giải pháp
củng cố và phát triển kinh tế tập thể. Nhà nước cần đổi mới, bổ sung cơ chế, chính sách nhất là thể chế
pháp luật để bảo đảm sự bình đăng thực sự của kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác, phát
huy mạnh mẽ hơn vai trò động lực của kinh tế tư nhân.
+ Vấn đề mô hình và phương thức quản lý phát triể xã hội:
Cần nghiên cứu làm rõ mô hình xã hội Việt Nam hướng đến là mô hình xã hội đoàn kết, đồng thuận,
hài hòa, xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó tầng lớp trung lưu sẽ ngày càng chiếm số
động trong xã hội. Chủ động quản lý phân tầng xã hội, quản trị sự biến đổi xã hội, có chính sách kinh
tế, xã hội, văn hóa đồng bộ để cải thiện điều kiện sống của nhân dân, chủ động xây dựng cơ cấu xã hội
hợp lý trên cơ sở phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Vấn đề đổi mới đồng bộ giữa chính trị và kinh tế:
Hiện nay, đổi mới chính trị (tư duy chính trị và tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị) còn chậm hơn
so với đổi mới kinh tế. Vì vậy phải đẩy mạnh đổi mới chính trị cho đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh
tế, tập trung vào đổi mới thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách, phương thức huy động và phân bổ nguồn
lực, kiểm soát quyền lực và phát huy các động lực của phát triển.
+ Vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam:
Để định hướng đúng đắn cho việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong giai đoạn mới, cần đẩy
mạnh nghiên cứu xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam. Cần nghiên cứu làm rõ hơn các
tiêu chí về tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học. Tiếp tục nghiên cứu những
tiêu chí cụ thể của con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
+ Vấn đề đảng cầm quyền:
31
Cần tiếp tục làm sáng tỏ lý luận về đảng cầm quyền trong điều kiện một đảng để thực sự đổi mới trong
thực tiễn về nội dung cầm quyền, phương thức cầm quyền, mô hình cầm quyền, các điều kiện để cầm
quyền bền vững, hiệu quả.
Cần nghiên cứu những giải pháp có hiệu quả để chống suy thoái trong Đảng, phòng chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ.
+ Vấn đề động lực của đổi mới và phát triển Việt Nam trong thời kỳ mới:
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, cần phải phát huy mạnh mẽ các động lực. Muốn vậy phải
nghiên cứu sâu lý luận về động lực và hệ động lực phát triển, đặc biệt nhận thức đúng và xử lý tốt các
động lực như lợi ích, dân chủ, đoàn kết yêu nước, phát huy nhân tố con người…
Các động lực đó tác động lẫn nhau, tạo thành động lực tổng hợp thúc đẩy công cuộc đổi mới của Việt
Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
CHỦ ĐỀ 40: Kinh nghiệm chủ yếu : 5 bài học kinh nghiệm + 2.Nội dung, phân tích các bài học
kinh nghiệm
1. Bài học thứ nhất về xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và cán bộ
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên
cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm
các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm
soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực
sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Điểm mới của bài học này so với các đại hội trước là
xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện: Chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nhấn
mạnh xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; nhấn mạnh hoàn thiện
cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; nhấn mạnh yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược.
2. Bài học thứ hai về dân: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu
sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”
Thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể
của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát
từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân
dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu,
củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Điểm
mới của bài học này là phải thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”, “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; nhấn mạnh lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu
3. Bài học thứ ba về lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện
Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành
động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực
và tính ưu việt của chế độ xã hội; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người đứng đầu
gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị, giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng
chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. Điểm mới của bài học này là trong lãnh đạo,

32
chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động,
sáng tạo, có bước đi phù hợp; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế
4. Bài học thứ tư về thể chế và giải quyết các mối quan hệ
Tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kế thừa và đổi mới, ổn
định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật
thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con
người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế-xã hội với
bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; thực sự
coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất
nước. Điểm mới của bài học này là nhấn mạnh tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển (cả
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại).
5. Bài học thứ năm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên
cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn
và các nước láng giềng, đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát huy hiệu quả sức mạnh tổng
hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Điểm mới của bài học này là nhấn mạnh chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không
để bị động, bất ngờ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng.
3. Ý nghĩa của các bài học kinh nghiệm về việc thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa những năm 1986-2002
- Về kinh tế, đổi mới nền kinh tế đất nước từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, đẩy mạnh nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị trường, định hướng lên xã hội chủ
nghĩa và chịu sự quản lý của Nhà nước;
- Về chính trị – xã hội, đẩy mạnh vai trò của cả 03 nhánh quyền lực: lập pháp, tư pháp và hành pháp;
trong đó, vai trò của cơ quan lập pháp được chú trọng; hoạt động hành chính nhà nước được đơn giản
hóa, cụ thể hóa, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, lấy nhân dân làm gốc, xây dựng nhà nước “của
dân, do dân, vì dân”
- Về văn hóa – giáo dục, gìn giữ, kế thừa văn hóa truyền thống dân tộc, hội nhập và tiếp cận nền văn
hóa đa sắc màu của thế giới; cải cách giáo dục theo hướng chú trọng thực hành, tăng tính tự do, tự chủ
và chú trọng vào người học.
- Có thể thấy, trong bối cảnh chung đó, ý nghĩa của công cuộc đổi mới 1986 là vô cùng lớn. Sự đổi mới
kịp thời không chỉ giúp nước ta giải quyết được các khó khăn, tồn tại trong quá khứ mà còn chủ động,
kịp thời nắm bắt được những cơ hội để phát triển, hoàn thiện đất nước;… Và đặc biệt là tạo động lực
cho nền kinh tế – xã hội phát triển vượt bậc và hướng tới dân chủ hóa xã hội, đề cao hơn nữa quyền
công dân .
- Từ đó, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn:
+ Củng cố nên nền độc lập, tự chủ dân tộc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa của đất nước.
+ Tăng cường sức mạnh tổng hợp, từng bước phát triển về đời sống nhân dân, khẳng định vị thế và uy
tín của VN trên trường quốc tế.
+ Khẳng định sự đúng đắn trong đường lối, chính sách lãnh đạo của đảng, làm vững lòng dân, đoàn kết
cùng phát triển về mọi mặt.
+ Hội nhập quốc tế, nắm bắt đúng thời cơ để phát triển; đồng thời khắc phục những hạn chế đang tồn
tại hiện có.
+ Giúp VN trở thành một đối tác tối ưu, không ngừng đổi mới và phát triển để bắt kịp nhịp độ của các
quốc gia phát triển trên toàn thế giới.
Chủ đề 41 : Thắng lợi của đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc
33
a. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
- Thắng lợi Cách mạng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong gần một thế
kỷ, lật đổ chế độ quân chủ và ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
- Thắng lợi của Cách mạng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa
dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do. Với thắng lợi của Cách mạng Tám,
Đảng và nhân dân ta đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, cung
cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân
chủ. Cách mạng Tám thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân giành độc lập, tự do.
- Viết về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: là thắng lợi vĩ đại
nhất trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân
Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào
rằng: Lần này là làn đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
b. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm
tròn nghĩa vụ quốc tế
- Thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đã buộc thực dân Pháp và các nước phải
công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở
rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải
phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu
phương lớn cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta
và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Đối với quốc tế, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng
thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ ở ba
nước Đông Dương, là tấm gương cổ vũ các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc, góp phần làm sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
- Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực
dân hùng mạnh, Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng lả một thắng lợi
của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Thắng lợi đó đã chứng minh rằng
một dân tộc dù đất không rộng, người không đông, nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, có đường
lối chính trị, quân sự đúng đắn, được sự ủng hộ quốc tế thì hoàn toàn có thể giành thắng lợi.
- Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự
Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng"
- Thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu nước (1954-1975): Quân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, giành lại độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ đất nước; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ
nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến
lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân
tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ
nước giai đoạn sau; góp phần quan trọng và việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt Nam trên
trường quốc tế.
- Đối với cách mạng thế giới, thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu nước đã đập tan cuộc phản kích lớn
nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau chiến tranh thế giới
thứ hai, đã làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác
động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài; góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, phá
34
vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh
khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân
chủ, tự do và hòa bình phát triển của nhân dân thế giới.
- Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi
của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi và lịch sử dân tộc
như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
- Thắng lợi của quân và dân Việt Nam trong việc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc ở
biên giới Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc là “là một bảo đảm cực kỳ quan trọng cho nhân dân ta trong sự
nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”3
và tiếp tục tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa các nước và góp phần củng cố hoà bình, ổn định ở
Đông Nam Á và trên thế giới.
Thắng lợi của công cuộc đổi mới
- Qua hơn 30 năm đổi mới, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
trên đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị-xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa-xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của
nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn
kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền
và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng cao.
- Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ
trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
- Nhìn khái quát, trong gần 90 năm, kể từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta
đã giành được những thắng lợi to lớn, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc
gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở
thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát
triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
- Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều. Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết
điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan. Nhưng vấn đề căn bản là Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi
mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên
Đánh giá những thành tựu cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan
ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến
vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công

35
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Chủ đề 42: Phân tích những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng với Cách mạng Việt Nam từ
năm 1930 đến năm 2018
5 BÀI HỌC LỚN
Từ những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại đã giành được, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết
và nêu lên một số bài học chủ yếu.
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là lí tưởng, là mục tiêu chiến lược của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Mục tiêu đó được đề
ra ngay từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và được đặt ra và cụ thể hóa trong từng thời kì, từng
giai đoạn của cách mạng Việt Nam; được phát triển cả về nhận thức lí luận và thực tiễn trong các Cương
lĩnh tiếp theo. Điều cần nhấn mạnh là, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam ngày càng nhận thức rõ
hơn nội dung của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và sự thống nhất không thể tách rời nhau của hai
mục tiêu chiến lược đó. Độc lập dân tộc là đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, là bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, biển đảo của Tổ quốc; là bảo vệ Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường phát triển độc lập, tự chủ của đất nước; là bảo vệ sự ổn
định chính trị và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân; là giữ gìn và phát huy những giá trị
truyền thống và bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng đã từng
bước hiện thực hóa và nhận thức ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thống nhất với nhau trong mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng một xã hội do nhân dân làm chủ; đất nước có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất với sự quản lí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng thống
nhất trong một xã hội không có áp bức, bất công, mọi người được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc
và phát triển toàn diện cá nhân với đời sống ngày càng nâng cao về vật chất, tinh thần trong nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thống nhất trong chính sách bình
đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và hòa bình, hữu
nghị, hợp tác cùng phát triển với các dân tộc, quốc gia trên thế giới.
Hai là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Thành công nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam là đề ra Cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn vì
lợi ích của đất nước và dân tộc. Trên cơ sở đường lối đúng đắn mà tập hợp, đoàn kết lực lượng của toàn
dân tộc phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại đoàn kết dân tộc là đường
lối chiến lược nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ nhận thức ngoài lợi ích của giai cấp,
dân tộc và nhân dân, Đảng không có mục đích nào khác. Đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng
vững chắc là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đồng thời đoàn
kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp khác, đoàn kết 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam, đoàn kết các tôn
giáo, đoàn kết với cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đại đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng thời bảo đảm lợi
ích riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp, bộ phận, cá nhân không trái với lợi ích chung của dân tộc, đất nước.
Đảng chú trọng xây dựng các hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp đoàn kết rộng
rãi mọi thành phần, lực lượng trong dân tộc, xã hội, đa dạng hóa các hình thức tổ chức tập hợp quần
chúng, nêu cao vai trò các đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng, nghề nghiệp. Đường lối và bài học
đại đoàn kết dân tộc của Đảng là sự kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết hình thành trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống gắn kết trong các hình thức cộng đồng, gia đình, dòng
họ, làng xã đến cộng đồng dân tộc, quốc gia. Đại đoàn kết dân tộc cũng là nối tiếp truyền thống nhân
36
văn, nhân ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau của dân tộc Việt Nam. Sự kết tinh các giá trị cao cả và sâu
sắc đó của chiến lược đại đoàn kết dân tộc trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng và dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng sự nghiệp đấu tranh giành và giữ chính quyền, lãnh đạo
xây dựng và tăng cường vai trò, sức mạnh của Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Từ khi ra đời năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh giành độc lập
dân tộc với giành chính quyền về tay nhân dân. Trải qua 3 cao trào cách mạng, dẫn tới thắng lợi của
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú
trọng xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng kiểu mới, chính quyền Nhà nước thật sự là công bộc
của nhân dân, phục vụ nhân dân, gánh việc chung cho dân chứ không phải là chính quyền cai trị dân
như dưới thời của chế độ phong kiến, thực dân. Chính quyền nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã
tổ chức công cuộc xây dựng kinh tế, kiến thiết đất nước, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, động viên và tổ chức lực lượng của toàn dân tiến hành
các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc giành độc lập, thống nhất hoàn toàn và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam độc lập, xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Lãnh đạo quá trình cụ thể hóa, thể chế hóa Cương lĩnh,
đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện bộ máy
Nhà nước và chính quyền các cấp, bố trí cán bộ trong bộ máy chính quyền Nhà nước, kiểm tra, giám sát
hoạt động của Nhà nước bảo đảm cho Nhà nước phát huy cao độ hiệu lực, hiệu quả quản lí, thực hiện
đúng đắn đường lối của Đảng, lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước không ngừng hoàn
thiện hệ thống pháp luật, chính sách để quản lí tốt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện tốt các chính sách xã hội, an sinh xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân, tăng cường sức mạnh
quốc phòng, an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại. Quốc hội không ngừng đổi mới để thực hiện tốt hơn
chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề to lớn của đất nước và giám sát tối cao. Đẩy mạnh cải
cách hành chính để Chính phủ và chính quyền các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lí hành
chính nhà nước. Cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ m áy, nâng cao chất lượng và trách nhiệm của
đội ngũ công chức, cải cách tài chính công là những vấn đề bức thiết hiện nay. Đẩy mạnh cải cách tư
pháp. Nắm vững quan điểm: Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạch, phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan làm chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Bốn là, kết hợp nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Cương lĩnh, đường lối của Đảng ngay từ đầu đã tổ chức và động viên sức mạnh của dân tộc, coi cách
mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của cách mạng thế giới. Trong
Đường cách mệnh (1927) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Muốn người ta giúp cho,
thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong cao trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã kêu gọi
toàn thể quốc dân hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhờ phát huy sức mạnh, ý chí tự
lực tự cường của cả dân tộc, nên đã chớp được thời cơ thuận lợi dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945. Trong các cuộc kháng chiến lâu dài giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, Đảng đã triệt
để phát triển sức mạnh của dân tộc, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, đồng thời tranh thủ tối
đa sự giúp đỡ, ủng hộ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.
Công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng và dẫn
tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Điều đó đòi hỏi Đảng
Cộng sản Việt Nam nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, nâng cao bản lĩnh chính trị để
đứng vững trước khó khăn, thử thách và kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, động viên cao
độ nội lực. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường củng cố sự đoàn kết các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại, kiên định lập trường của chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đề ra và thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
37
của các nước, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đảng và Nhà nước cũng tranh thủ tối
đa những vấn đề mới của thời đại: Hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa, thành quả của cách mạng
khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lí của các nước tiên tiến, những vấn đề về kinh tế tri thức… Nội
lực và sức mạnh dân tộc bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định, xong sức mạnh đó được tăng cường khi
có sự kết hợp đúng đắn với ngoại lực và sức mạnh của thời đại.
Năm là, không ngừng nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Những bài học đã nêu trên đây thể hiện nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Có được thành công đó trong lãnh đạo
là nhờ Đảng không ngừng tự đổi mới và chỉnh đốn, luôn luôn coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Đảng coi trọng nâng cao trình độ trí tuệ, lí luận, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển lí luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng nghiên cứu lí luận, nâng cao trình độ lí luận của
cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lí chủ chốt, nâng cao tầm tư duy, chiến lược,
nắm bắt và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, khắc phục biểu hiện giáo điều, chủ quan, duy
ý chí. Chú trọng tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam để bổ sung, phát triển và làm sáng tỏ những
vấn đề lí luận. Đảng không ngừng phát triển, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối chính trị, từ Cương lĩnh
tháng 2-1930, tháng 10-1930 đến Cương lĩnh của Đại hội II (2-1951), Cương lĩnh 1991 và Đại hội XI
sắp tới của Đảng sẽ bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991: Đường lối của Đảng trên từng lĩnh vực cụ thể
cũng được xây dựng và hoàn chỉnh.
Đảng coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cả ở cấp chiến lược và cấp cơ
sở. Đảng hoạt động, lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
thương yêu đồng chí, kỉ luật nghiêm minh; đoàn kết thống nhất trong Đảng; tự phê bình và phê bình
những sai lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa; gắn bó mật thiết với nhân dân và Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xứng đáng là người lãnh đạo,
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.

38

You might also like