Professional Documents
Culture Documents
Ngành
khoa học
Bộ môn
khoa học
Trường phái
khoa học
Ý tưởng
Phương hướng khoa học
khoa học
Các tiêu chí nhận biết bộ môn khoa học
Để xác định một bộ môn khoa học, chúng ta dưa trên các
tiêu chí:
Tiêu chí 1: Đối tượng nghiên cứu: là bản chất sự vật hoặc
hiện tượng được đặt trong phạm vi quan tâm nghiên cứu.
Tiêu chí 2: Có một hệ thống lý thuyết: Chỉ khi hình thành
được một hệ thống lý thuyết (gồm các khái niệm, phạm
trù, quy luật…) bộ môn mới được khẳng định trong hệ
thống khoa học.
Tiêu chí 3: Hệ thống phương pháp luận (bao gồm lý luận
về PP, PP tiếp cận, PP thu thập và xử lý thông tin).
Tiêu chí 4: Có mục đích ứng dụng.
Tiêu chí 5: Có lịch sử nghiên cứu.
Khoa học luận có tất cả các tiêu chí trên.
Lý thuyết khoa học
Theo PGS.TS Vũ Cao Đàm thì lý thuyết khoa
học là: “Một hệ thống luận điểm khoa học về
một đối tượng nghiên cứu của khoa học. Lý
thuyết cung cấp một quan niệm hoàn chỉnh
về bản chất sự vật, những liên hệ bên trong
của sự vật và mối liên hệ cơ bản giữa sự vật
với thế giới hiện thực”.
Các bộ phận hợp thành lý thuyết khoa học
Ví dụ: Thống kê tỷ lệ lao động theo ngành nghề và trình độ (ĐVT: %).
(Nguồn: Huỳnh Ngọc Nhân, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 4, 8/1993).
Khoa học và công nghệ là nền tảng phát
triển đời sống văn hoá xã hội
Con người vừa là chủ thể, vừa là mục đích của quá
trình phát triển xã hội, trong quá trình sống và phát
triển con người không chỉ cần các điều kiện vật chất,
mà còn có những nhu cầu về phát triển chăm sóc sức
khoẻ, tình cảm, tâm lý, về vui chơi, giải trí, về phát
triển giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, thưởng
thức nghệ thuật,… Xã hội càng phát triển, khi đời
sống vật chất càng được nâng cao, thì nhu cầu về đời
sống văn hoá tinh thần của con người càng cao và
càng phong phú, phức tạp. Khoa học và công nghệ là
cơ sở, nền tảng để phát triển và nâng cao đời sống
văn hoá xã hội.
Khoa học và công nghệ là nền tảng của phát
triển hoàn thiện hệ thống chính trị
Mặt khác, khoa học và công nghệ phát triển đưa
xã hội phát triển với tốc độ nhanh hơn, đa dạng
hơn, đòi hỏi công tác tổ chức, quản lý nhà nước
phải khoa học, hiện đại hơn, những phương
thức tổ chức quản lý mới ra đời hoạt động ngày
càng hiệu quả như: Hành chính trực tuyến,
chính phủ điện tử. quản lý từ xa, quản lý trực
tuyến, quản lý đầu ra, quản lý online,…, nó đã
gắn kết đối tượng quản lý với chủ thể quản lý,
thậm chí còn đưa đối tượng quản lý thành tự
quản lý, làm cho quá trình quản lý ngày càng
hoàn thiện, hiệu quả và minh bạch hơn.
3.2.3. Vai trò động lực
Khoa học và công nghệ không chỉ đóng
vai trò là điều kiện, nền tảng mà còn là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Về
khái niệm, thuật ngữ “động lực”, theo tiếng
Anh là “motivation”, tiếng là Pháp
“motivation”, Đại từ điển tiếng Việt định
nghĩa là: “Cái thúc đẩy, làm cho biến đổi,
phát triển” [100, tr.667], khái niệm này có
phần nghiêng về động lực học, đối với triết
học thì quan điểm động lực được nhấn
mạnh vào nguyên nhân và nguồn gốc của
lực phát sinh hơn.
Vai trò động lực
Như vậy, để trở thành động lực phải hội
đủ hai yếu tố: 1). Cái sinh ra lực để thúc
đẩy sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng, 2. Là lực phát sinh đó mang ý
nghĩa là nội lực chứ không phải là những
nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài. Khoa học
và công nghệ hội đủ các yếu tố để trở
thành động lực thúc đẩy sự phát triển xã
hội, như Đảng ta khẳng định: “Phát triển
khoa học và công nghệ thực sự là động lực
then chốt của quá trình phát triển nhanh và
bền vững”.
Khoa học và công nghệ là động lực phát
triển sản xuất
Khoa học và công nghệ phát triển tạo
ra những công cụ, phương tiện sản
xuất ngày càng hiện đại, quy trình
ngày càng chặt chẽ, thì càng yêu cầu
người lao động phải có trình độ cao để
sử dụng, điều khiển chúng, trình độ
khoa học và công nghệ của người lao
động luôn là tiêu chí quan trọng bậc
nhất để đánh giá trình độ sản xuất xã
hội.
Khoa học và công nghệ là động lực phát
triển sản xuất
Khoa học và công nghệ phát triển tạo ra năng
suất lao động và lợi nhuận siêu ngạch, đó chính
là động lực quan trọng để thúc đẩy sản xuất.
Ngày nay các nhà đầu tư, sản suất, kinh doanh
luôn nhắm vào khai thác lợi nhuận siêu ngạch.
Khoa học và công nghệ là công cụ hữu hiệu
trong cạnh tranh, phát triển sản xuất – kinh
doanh.
Khoa học và công nghệ cũng là động lực thúc
đẩy sự phát triển bền vững.
Khoa học và công nghệ là thước đo đánh
giá sự phát triển xã hội
Khoa học và công nghệ là động lực của
phát triển đời sống văn hóa xã hội
Khoa học và công nghệ phát triển làm cho sản
xuất phát triển, thời gian lao động sản xuất ra
của cải vật chất ngày càng giảm, cùng với đó là
khoa học và công nghệ cũng giải phóng con
người ra khỏi những công việc nội trợ, như dùng
robot dọn dẹp nhà cửa, các thiết bị thực hiện
công việc nội trợ tự động, mua bán hàng qua
mạng Internet… từ đó dẫn đến thời gian dành
cho sinh hoạt văn hóa tinh thần ngày càng tăng,
tạo ra nhu cầu hưởng thụ và thúc đẩy đời sống
văn hóa tinh thần phát triển.
Khoa học và công nghệ nâng cao dân chủ
Khoa học và công nghệ phát triển, thúc đẩy và
tạo ra lực lượng lao động có tri thức, trình độ
cao, đó là thứ tài sản quan trọng nhất, quý giá
nhất trong nền kinh tế tri thức, những tài sản đó
không bị mất đi, không thể bị tước bỏ, chiếm
đoạt mà ngày giàu lên qua quá trình lao động.
Chính điều đó, đã làm thay đổi vai trò, nhận
thức, địa vị của người lao động và họ đòi hỏi
quyền của mình được tham gia, giám sát hoạt
động hệ thống chính trị, đó chính là động lực để
phát triển hoàn thiện hệ thống chính trị, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Chương 4: Một số thành tựu đặc biệt của
khoa học và phương hướng phát triển, phát
huy vai trò của khoa học
4.1. Một số thành tựu đặc biệt của khoa học
- Bản chất của tri thức khoa học
- Một số thành tựu đặc biệt của khoa học.
4.2. Phương hướng, giải pháp phát triển, phát
huy vai trò của khoa học
- Phương hướng, giải pháp phát triển khoa học;
- Phương hướng, giải pháp chung để phát huy
vai trò của khoa học.
Phân loại nghiên cứu khoa học
Phân loại nghiên cứu khoa học có một ý
nghĩa thiết thực trong việc lựa chọn phương
pháp thu thập thông tin và xử lý thông tin để
xây dựng và kiểm chứng giả thuyết khoa học.
Có nhiều cách phân loại nghiên cứu khoa học
khác nhau, tùy theo cách tiếp cận mà người ta
có thể chọn cách phân loại phù hợp. Có nhiều
cách phân loại nghiên cứu khoa học, tuỳ theo
mục đích và cách tiếp cận, có thể kể đến một
số cách phân loại nghiên cứu khoa học như:
4.1.1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu
Theo chức năng nghiên cứu, nghiên cứu khoa
học được phân thành:
Nghiên cứu mô tả;
Nghiên cứu giải thích;
Nghiên cứu dự báo;
Nghiên cứu sáng tạo.
Phân loại theo chức năng nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả: Là những nghiên cứu
nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về nhận
dạng sự vật, hiện tượng giúp cho ta phân
biệt được sự khác nhau giữa chúng. Nội
dung mô tả bao gồm :
* Mô tả hình thái (tức mô tả cấu trúc),
* Mô tả động thái (tức mô tả công năng),
* Mô tả tương tác (tức mô tả mối liên hệ).
Nghiên cứu giải thích
Là những nghiên nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự
hình thành và quy luật chi phối quá trình vận động của sự
vật.
Mục đích của giải thích là đưa ra những thông tin về
thuộc tính bản chất của sự vật để có thể nhận dạng không
chỉ những biểu hiện bên ngoài, mà còn cả những thuộc
tính bên trong của sự vật.
Nội dung của giải thích có thể bao gồm giải thích nguồn
gốc, giải thích quan hệ giữa các yếu tố cấu thành sự vật,
giải thích tác nhân gây ra sự vận động của sự vật, giải
thích mối liên hệ giữa các quá trình bên trong…
Thực hiện chức năng giải thích, khoa học đã nâng tầm
từ chức năng mô tả giản đơn các sự vật tới chức năng
phát hiện quy luật vận động của sự vật, trở thành công cụ
nhận thức các quy luật bản chất của thế giới.
Nghiên cứu dự báo
Là những nghiên cứu nhằm nhìn trước quá trình hình thành,
phát triển và tiêu vong của sự vật trong tương lai.
Với những công cụ về phương pháp luận nghiên cứu và
những trang thiết bị hiện đại, ngày nay thực hiện nghiên cứu
với một độ chuẩn xác rất cao về các hiện tượng tự nhiên và
xã hội,
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý trong khoa học là mọi dự báo
đều phải chấp nhận những sai lệch. Sự sai lệc có thể do rất
nhiều nguyên nhân do khách quan và do chủ quan. Phương
pháp luận biện chứng duy vật không cho phép người nghiên
cứu tự thỏa mãn với những dự báo hoặc lạm dụng các dự
báo. Cho dù là những dự báo đầy đủ luận cứu của những nhà
khoa học có uy tín lớn để phủ định những kết luận khoa học
đã được kiểm chứng trong đời sống thực tế.
Nghiên cứu sáng tạo
Nghiên cứu sáng tạo là loại chức năng nghiên
cứu nhằm làm ra một sự vật mới chưa từng tồn
tại. Lịch sử phát triển khoa học đã chứng tỏ,
khoa học không bao giờ dừng lại ở chức năng
mô tả, giải thích và dự báo. Sứ mệnh có ý nghĩa
lớn lao của khoa học là sáng tạo các giải pháp
cải tạo thế giới.
Giải pháp được nói ở đây chứa ý nghĩa chung
nhất, bao gồm các phương pháp và phương
tiện. Đó có thể là nguyên lý công nghệ mới, vật
liệu mới, sản phẩm mới.
4.1.2. Theo tính chất của Sản phẩm nghiên Cứu
Theo tính chất của sản phẩm, nghiên cứu khoa học
được phân thành:
Nghiên cứu cơ bản (fundamental research): Là những
nghiên cứu phân tích các thuộc tính, cấu trúc, hiện
tượng các sự vật nhằm phát hiện bản chất và quy luật
của các sự vật hoặc hiện tượng trong tự nhiên, xã hội,
con người.
Nghiên cứu cơ bản có thể thực hiện trên cơ sở những
nghiên cứu thuần túy lý thuyết. Nghiên cứu cơ bản
cũng có thể thực hiện trên những quan sát hoặc thí
nghiệm,… Kết quả của nghiên cứu cơ bản tạo ra hệ
thống lý thuyết, để từ đó làm cơ sở cho những nghiên
cứu ứng dụng tiếp theo.
Nghiên cứu ứng dụng ( applied research )
Là sự vận dụng các quy luật từ nghiên cứu cơ
bản để giải thích một sự vật; tạo ra nguyên lý mới
về các giải pháp và áp dụng chúng vào sản xuất,
vào đời sống xã hội.
Giải phápđược hiểu theo nghĩa rộng lớn nhật của
thuật từ này: có thể là một giải pháp về công
nghệ, về vật liệu, về tổ chức và quản lý. Một số
giải pháp công nghệ có thể thành sáng chế .
Cần lưu ý rằng: kết quả nghiên cứu ứng dụng
vẫn chưa ứng dụng vào sản xuất và đời sống xã
hội được.
Triển khai ( Development ).
Còn gọi là triển khai thực nghiệm hoặc triển khai
kỹ thuật, trong Đương đại khoa học từ điển gọi là
nghiên cứu phát triển: Là sự vận dụng các quy
luật từ nghiên cứu cơ bản và các nguyên lý thu
được từ nghiên cứu ứng dụng để đưa ra các hình
mẫu với những tham số khả thi về kỹ thuật. Cần
lưu ý là kết quả triển khai thì vẫn chưa triển khai
được, sản phẩm của triển khai chỉ mới là những
hình mẫu khả thi về mặt kỹ thuật, nghĩa là không
còn rủi ra về mặt kỹ thuật. Để áp dụng được còn
phải tiến hành nghiên cứu tính khả thi khác, như:
về tài chính, về kinh tế, về xã hội, về môi
trường…
4.1.3. Phân loại theo thông tin thu thập
Theo phương pháp thu thập thông tin, nghiên cứu
chia thành:
Nghiên cứu thư viện, còn được gọi là phương pháp
nghiên cứu tài liệu: Đây là những nghiên cứu được thực
hiện dựa trên cơ sở thu thập thông tin từ thư viện hoặc
các nguồn tài liệu khác nhau có thể thu thập được.
Nghiên cứu điền dã, còn được gọi là nghiên cứu phi
thực nghiệm: là phương pháp nghiên cứu dựa trên sự
quan sát trực tiếp ngoài hiện trường hay quan sát gián
tiếp nhờ các phương tiện đo đạc, ghi âm, ghi hình…
Nghiên cứu labô, còn được gọi là nghiên cứu thực
nghiệm (thí nghiêm): Là phương pháp nghiên cứu trong
đó người nghiên cứu chủ ý gây những tác động làm biến
đổi một số yếu tố trạng thái của đối tượng nghiên cứu.
Phân loại theo bản chất thông tin thu thập
Nghiên cứu định tính: Là những nghiên cứu dành cho
việc thu thập và phân tích xử lý thông tin định tính.
Nghiên cứu định tính nhằm chỉ rõ các đặc trưng về
chất của sự vật, hiện tượng, nên không thể thiếu trong
quá trình nghiên cứu.
Nghiên cứu định lượng: Là những nghiên cứu dành
cho việc thu thập và phân tích xử lý thông tin định
lượng. Nghiên cứu định lượng nhằm chỉ rõ các đặc
trưng về lượng của sự vật, hiện tượng và thực hiện các
tính toán nhằm đưa ra những phân tích, dự báo chính
xác. Ví dụ như: Chu vi của Trái đất, Mặt trăng, Mặt
trời, Tốc độ quay của trái đất…
Nghiên cứu phối hợp: Là những nghiên cứu dành cho
việc thu thập và phân tích xử lý dữ liệu được thực hiện
phối hợp giữa dữ liệu định tính, định lượng.
4.2. Kết quả nghiên cứu khoa học
Kết quả nghiên cứu khoa học là những
tri thức khoa học, tuy nhiên những tri
thức khoa học đó không thể tự thể hiện
được, mà nó phải thể hiện qua các vật
mang tri thức. Vật mang đó có thể là:
vật mang vật lý, vật mang công nghệ và
vật mang xã hội:
Một số sản phẩm đặc biết của nghiên cứu khoa
Phát minh ( tiếng anh – discovery, tiếng Pháp
découverte): Là sự khám phá ra những quy luật, những
tính chất hoặc những hiện tượng của thế giới vật chất
tồn tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết,
nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức con người.
Phát hiện ( tiếng Anh – discovery, tiếng Pháp
découverte ): Là sự khám phá ra những vật thể, những
quy luật xã hội đang tồn tại một cách khách quan.
Sáng chế ( tiếng Anh, tiếng pháp viết invention): Là
một giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ
thuật, tính sáng tạo và áp dụng được. Ví dụ máy hơi
nước của Jannes Waft, Công thức thuốc nổ TNT .
Bảng so sánh phát minh, phát hiện và sáng chế
Phát hiện Phát minh Sáng chế
Bản chất Nhận ra vật thể, chất, Nhận ra qui luật tự Tạo ra phương tiện
trường hoặc qui luật xã nhiên, qui luật toán học mới về nguyên lý kỹ
hội vốn tồn tại vốn tồn tại thuật chưa từng tồn tại