You are on page 1of 46

Chương 1.

KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

1. Khoa học và sự phát triển khoa học


1.1. Khái niệm khoa học
Khoa học là một khái niệm có nội hàm phức tạp, ở mức độ chung nhất,
khoa học được hiểu là:
1.1.1. Khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách
quan
Cuộc sống của xã hôi loài người gồm hai lĩnh vực: vật chất ( tồn tại xã hội
), tinh thần (ý thức xã hội). Vật chất là tất cả những gì diễn ra xung quanh ta.
Tinh thần là kết quả phản ánh vật chất vào bộ não con người thể hiện ở các
mức độ khác nhau như ý thức đời thường, ý thức xã hội.
Ý thức đời thường là sự phản ánh những cái cụ thể, trực tiếp, gần gũi với
cuộc sống hằng ngày của con người. Ý thức xã hội phản ánh những cái sâu
sắc, toàn diện và hệ thống về thế giới khách quan, được phản ánh bằng những
hình thái khác nhau, như Tôn giáo, Đạo đức, Nghệ thuật, Chính trị, Khoa
học,… Sự khác nhau giữa chúng được quy định bởi mục đích, tính chất và
phương thức phản ánh.
Tôn giáo phản ánh lòng tin không có căn cứ của con người trước lực
lượng siêu tự nhiên, sự bất lực trước những bất công và những tai họa xã hội.
Đạo đức phản ánh các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan
hệ xã hội và về nghĩa vụ, quyền lợi của mỗi người trong cộng đồng và được
biểu hiện bằng những quy tắc, chuẩn mực cụ thể.
Nghệ thuật phản ánh các hình tượng thẩm mỹ của thế giới khách quan
thông qua những rung cảm thẩm mỹ cá nhân.
Chính trị phản ánh các mối quan hệ kinh tế - xã hội, vị trí và quyền lợi
của các giai cấp, quốc gia xung quanh vấn đề lợi ích, trước hết là lợi ích kinh
tế.
Khoa học phản ánh hiện thực khách quan, tạo ra hệ thống chân lí về thế
giới. Nó không chỉ hướng vào việc giải thích mà còn nhằm tới cải tạo thế giới.
Nó làm con người mạnh mẽ trước thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cuộc
sống của mình.
Tuy tương đối độc lập với các hình thái xã hội khác, nhưng đồng thời
khoa học lại có mối quan hệ biện chứng với chúng. Bởi lẽ tất cả các hình thái
ý thức xã hội đều là đối tượng nghiên cứu của khoa học và khoa học có khả
năng vạch rõ nguồn gốc, bản chất của sự phản ánh hiện thực và ý nghĩa xã hội
của tất cả các hình thái xã hội khác.
1.1.2. Khoa học là một hệ thống tri thức về thế giới khách quan
Để tồn tại, con người phải lao động và nhận thức thế giới xung quanh.
Mục đích của nhận thức là tồn tại, thích ứng với môi trường, sau đó là vận
dụng những hiểu biết của mình vào cuộc sống làm cho cuộc sống ngày càng
tốt đẹp hơn. Quá trình nhận thức của con người tạo ra hai hệ thống tri thức về
thế giới: Tri thức thông thường; Tri thức khoa học.
Tri thức thông thường là những kinh nghiệm sống, những hiểu biết về
bản thân thế giới và xã hội. Nó được tạo ra từ các phép quy nạp giản đơn,
không có mô hình lý thuyết, do vậy chưa chỉ ra được bản chất, chưa khám phá
được các quy luật vận động, phát triển của những sự vật, hiện tượng và chưa
tạo thành một hệ thống. Nó dần được bổ sung, hoàn thiện và trở thành tri thức
dân gian, Tri thức này có ý nghĩa thực tiễn, có nhiều ích lợi cho cuộc sống
hằng ngày của con người.
Tri thức khoa học là hệ thống tri thức khách quan về các sự vật, hiện
tượng của thế giới và các quy luật vận động, phát triển của chúng. Nó là kết
quả của quá trình nhận thức có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp và
phương tiện đặc biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện.
Tuy khác nhau nhưng hai hệ thống tri thức trên có mối quan hệ mật thiết.
Có thể xuất phát từ tri thức thông thường, nhưng tri thức khoa học không phải
là hệ thống hóa hay hoàn thiện những tri thức thông thường mà là kết quả của
hoạt động xã hội đặc biệt - hoạt động nghiên cứu khoa học.
Những phân tích trên dẫn đến định nghĩa: Khoa học là hệ thống tri thức
về tự nhiên, xã hội và tư duy, về những quy luật phát triển khách quan của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri thức này được hình thành trong lịch sử
và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
- Đối tượng của khoa học là những hình thức vận động khác nhau của
vật chất, hay là thế giới khách quan và cả những phương pháp nhận thức thế
giới.
- Nội dung của khoa học gồm:
+ Những tài liệu về thế giới thu thập được qua quan sát, điều tra, thí
nghiệm.
+ Những nguyên lí được rút ra từ những sự kiện đã được thực nghiệm
chứng minh.
+ Những quy luật, lí thuyết được khái quát bằng tư duy lý luận.
+ Những phương pháp nhận thức (nghiên cứu) khoa học.
+Những quá trình ứng dụng lí thuyết vào sản xuất và đời sống.
- Nhiệm vụ của khoa học là:
+ Khám phá bản chất các hiện tượng trong thế giới khách quan. Giải
thích nguồn gốc phát minh, phát hiện các quy luật vận động và phát triển của
các hiện tượng ấy.
+ Hệ thống hóa các tri thức đã khám phá tạo thành các lí thuyết khoa
học.
+ Nghiên cứu ứng dụng những thành tựu khoa học để cải tạo thực tiễn.
- Động lực của sự phát triển khoa học là nhu cầu thực tiễn của cuộc
sống con người. Thực tiễn vừa là nguồn gốc nhận thức, là tiêu chuẩn xác
minh tính chân thực, vừa là mục tiêu giải quyết của mọi lí thuyết khoa học.
1.1.3. Khoa học là một hoạt động xã hội đặc biệt
Khoa học là hoạt động đặc biệt của loài người – hoạt động nghiên cứu
khoa học, có mục đích khám phá bản chất và các quy luật vận động, phát triển
của thế giới để ứng dụng vào sản xuất và đời sống. Với ý nghĩa ấy, khoa học
được hiểu là quá trình phát minh tri thức mới cho nhân loại.
1.2. Sự phát triển của khoa học
Sự phát triển của khoa học gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài
người. Khoa học ra đời khi xã hội đạt tới trình độ phát triển nhất định và gắn
liền với sự xuất hiện những cá nhân có năng lực trí tuệ đặc biệt.
- Ở thời cổ đại khi mới hình thành , khoa học là một thể thống nhất tập
trung vào Triết học. Arixtốt (384-322 trước CN) được coi là người đặt nền
móng cho khoa học cổ đại. Khoa học dần phát triển, Triết học được phân
thành Thiên văn học (Pôtôlêmê), Hình học (Ơclít), Tĩnh học (Acsimet), Cơ
học,…
- Trong thời Trung cổ kéo dài hằng nghìn năm, chủ nghĩa duy tâm thống
trị xã hội. Giáo hội bóp nghẹt mọi tư tưởng khoa học. Tuy nhiên do nhu cầu
của thực tiễn, khoa học vẫn được bổ sung, vẫn tiếp tục phát triển dù rất chậm.
- Thời kì Phục hưng (thế kỉ XV-XVIII) được F.Angghen cho là thời kì
đầu của sự phát triển khoa học hiện đại. Bởi vì trong khuôn khổ của chế độ
phong kiến xuất hiện nhiều mầm mống của chế độ tư bản (xuất hiện quá trình
đô thị hóa, công nghiệp hóa, phát triển thương mại, hàng hải,…). Một loạt các
nhà khoa học ra đời có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển khoa học về sau như
N.Côpecnich (với thuyết mặt trời là trung tâm đánh đổ thuyết của Pôtôlêmê
giáng một đòn trí mạng vào giáo hội), G.Galilê, I.Niutơn,… Khoa học bắt đầu
được phân chia thành các lĩnh vực theo đối tượng nghiên cứu. Vật lí học, Hóa
học, Sinh học, Địa chất học,… trở thành khoa học độc lập. Tuy vậy, khoa học
xã hội chưa phát triển hoàn chỉnh, vì việc giải thích các hiện tượng xã hội vẫn
dựa vào cơ sở triết học là chủ nghĩa duy tâm và phương pháp siêu hình.
- Thế kỉ XVIII-XIX là thời kì phát triển tư bản công nghiệp, theo
F.Angghen có ba phát minh vĩ đại: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng của R.Maye và J.Dulơ; Thuyết tế bào của P.Gôrianinôp và F.Purơkinê;
Thuyết tiến hóa của S.Đacuyn. Cùng với khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
cũng phát triển. Chủ nghĩa Mác ra đời là điểm nổi bật nhất của thời kì này.
Nhờ nó, chủ nghĩa duy vật thắng chủ nghĩa duy tâm, duy vật biện chứng
thống nhất duy vật lịch sử.
- Cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, phép duy vật biện chứng thâm
nhập vào mọi lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Khoa học tự nhiên được nghiên
cứu bằng phương pháp thực nghiệm. Khoa học phân hóa mạnh thành các kĩnh
vực, bộ môn riêng, đồng thời chúng thâm nhập vào nhau thành các khoa học
trung gian, liên ngành. Khoa học có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt trong đời
sống xã hội. Thành tựu khoa học được ứng dụng rộng rãi vào kĩ thuật. Công
nghiệp hóa bắt đầu diễn ra trên quy mô toàn thế giới.
- Ở thế kỉ XX đến đầu thế kỉ XXI, khoa học phát triển như vũ bão, lượng
thông tin tăng nhanh với tốc độ và phạm vi rộng lớn chưa từng thấy. Đây là
thời kì phát triển nhanh nhất của khoa học từ trước đến nay. Khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội.
Khoa học và công nghệ là đặc trưng của thời đại, là biểu hiện rõ nhất của nền
văn minh trong toàn bộ lịch sử loài người.
1.3 Quy luật phát triển của khoa học
Từ lịch sử phát triển của khoa học qua các thời kì, rút ra bốn quy luật
phát triển của khoa học:
1.3.1. Quy luật phát triển có gia tốc (ngày càng gia tăng) của tất cả các
lĩnh vực khoa học
Sự phát triển của khoa học hiện đại thể hiện rõ nhất ở nhịp độ phát triển
có gia tốc trong tất cả các lĩnh vực, trên tất cả các phương diện, như:
- Lượng thông tin khoa học được khám phá ngày càng nhiều: Cứ từ 5-7
năm, lượng thông tin khoa học lại tăng lên gấp đôi. Riêng ở thế kỉ XX, lượng
thông tin đã khám phá bằng 90% lượng thông tin đã khám phá trong lịch sử
nhân loại.
- Số lượng các nhà khoa học tăng lên rất nhanh: 90% các nhà khoa học
sống trong thế kỉ XX.
- Số lượng các cơ quan nghiên cứu khoa học phát triển với con số kỉ lục.
Ở Việt Nam, hiện có 300 viện, trung tâm nghiên cứu khoa học.
- Thời gian xem xét lại một lí thuyết khoa học ngày một rút ngắn. Ví dụ
như thuyết hấp dẫn của Arixtốt tồn tại 2000 năm, của Niutơn 200 năm, của
Dalton 100 năm, thuyết cấu trúc nguyên tử của Bor chỉ còn 10 năm,…
1.3.2. Quy luật phân hóa khoa học
Tri thức là toàn bộ sự hiểu biết của con người về một thế giới thống nhất.
Tuy vậy, đối tượng nghiên cứu lại vô cùng phức tạp, không một khoa học nào
lại có thể bao quát “trọn gói” đối tượng ấy. Chính vì thế, khoa học phải phân
chia để nghiên cứu từng mặt, từng bộ phận riêng lẻ khác nhau của nó. Phân
hóa là xu hướng hiện thực tất yếu và là sự biểu hiện của sự phát triển khoa
học, đồng thời là con đường để khoa học phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn.
Lúc đầu thống nhất trong một Triết học, nay khoa học đã phân thành
2000 bộ môn khác nhau nghiên cứu từng khía cạnh thế giới, từ thành phần
nhỏ bé nhất của vật chất (hạt nhân nguyên tử, tế bào , gien,…) đến không gian
vũ trụ bao la nhằm tìm kiếm môi trường sống mới ngoài Trái Đất.
1.3.3. Quy luật tích hợp của các lĩnh vực khoa học
Khoa học ngày càng phân hóa để nghiên cứu theo chiều sâu thì một bộ
môn khoa học hẹp lại không thể nghiên cứu một cách “trọn gói” các đối
tượng phức tạp có tính hệ thống cao. Vì thế, để nghiên cứu đối tượng ấy, cần
phải phối hợp một số bộ môn khoa học khác nhau tạo thành liên ngành để
cùng nghiên cứu. Đó chính là sự biểu hiện của quy luật tích hợp của sự phát
triển khoa học hiện đại.
Ngày nay có nhiều sản phẩm khoa học không phải của một tác giả, một
bộ môn khoa học mà là kết quả nghiên cứu phối hợp của tập thể, nhiều môn
khoa học. Như việc tìm kiếm sự sống ngoài Trái Đất là công trình nghiên cứu
phối hợp của các nhà khoa học Vật lí, Thiên văn, Kĩ thuật, Sinh học, Tâm lí,
Địa chất,…
Phân hóa và tích hợp khoa học là hai xu hướng ngược chiều nhau nhưng
không mâu thuẫn. Trong thực tiễn phát triển khoa học hiện đại, chúng tồn tại
song song, phụ thuộc và bổ sung lẫn nhau, cùng thúc đẩy sự tiến bộ nhanh
chóng của khoa học. Khoa học phân hóa để phát triển và tích hợp để tạo nên
một chất lượng mới, tổng hợp.
1.3.4. Quy luật ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học
Khoa học và đời sống gắn bó chặt chẽ: Mục đích của nghiên cứu khoa
học là làm tăng chất lượng cuộc sống; Nhu cầu cuộc sống là động lực thúc
đẩy quá trình nghiên cứu và trình độ phát triển cuộc sống là điều kiện phát
triển khoa học.
Có hai loại hình nghiên cứu khoa học chủ yếu quan hệ biện chứng với
nhau: cơ bản, ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản tạo ra những tri thức mới thúc
đẩy quá trình nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn; Nghiên cứu ứng dụng càng
khẩn trương càng làm cho quá trình nghiên cứu cơ bản phát triển nhanh
chóng.
Lịch sử phát triển khoa học và công nghệ cho thấy nhịp độ ứng dụng các
thành tựu khoa học ngày một nhanh. Có thể thấy rõ điều đó qua bảng thống
kê về thời gian ngày một rút ngắn kể từ lúc phát minh lí thuyết đến khi áp
dụng thành công vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm:
Tên phát minh Năm phát minh Năm sản xuất Thời gian (năm)
Máy hơi nước 1680 1780 100
Máy chiếu bóng 1756 1844 88
Phim ảnh 1832 1895 63
Rađiô 1867 1902 35
Ôtô 1868 1895 27
Điêzen 1878 1897 19
Máy bay 1897 1911 14
Vô tuyến điện 1922 1934 12
Tranzito 1948 1953 5
Pin mặt trời 1953 1955 2
Laze 1954 1954 0,5

Do quy luật này, hàng loạt những tiêu chí trong sản xuất đã thay đổi:
1) Thời gian đổi mới công nghệ sản xuất rút ngắn. Nếu trước đây một thế
hệ máy tồn tại từ 10-12 năm, thì nay còn 2-3 năm thậm chí còn ngắn hơn.
2) Sản phẩm hàng hóa thường xuyên cải tiến mẫu mã và chất lượng ngày
càng được nâng cao. Các sản phẩm mới xuất hiện liên tục trên thị trường.
3) Cơ cấu giá thành sản phẩm hàng hóa thay đổi, từ chỗ chủ yếu do
nguyên vật liệu và sức lao động giản đơn tạo ra thì đến nay, có những mặt
hàng tỉ trọng chất xám chiếm đến trên 60%.
4) Sản xuất hàng hóa chú trọng đến người tiêu dùng, đặc biệt phục vụ cho
nhu cầu thẩm mĩ cá nhân.
1.4. Phân loại khoa học
1.4.1.Mục đích
- Phân định rõ vị trí từng lĩnh vực, ngành, bộ môn khoa học.
- Xác định phương hướng phát triển các lĩnh vực khoa học trọng tâm,
mũi nhọn, chiến lược.
- Xây dựng quy hoạch đào tạo, bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ khoa
học kĩ thuật của quốc gia.
- Sắp xếp hệ thống các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học thuận lợi,
hợp lí cho việc nghiên cứu, ứng dụng và quản lí hoạt động đó.
1.4.2. Bản chất của phân loại khoa học là sắp xếp các bộ môn khoa học
thành một hệ thống thứ bậc theo những dấu hiệu đặc trưng, bản chất của
chúng.
1.4.3. Hai nguyên tắc cơ bản
Việc phân loại khoa học dựa vào hai nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc khách quan: Mỗi lĩnh vực khoa học phản ánh một hình
thức vận động của vật chất. Tất cả các khoa học phản ánh toàn bộ các hình
thức vận động của thế giới trong mối quan hệ biện chứng của chúng và tuân
theo một trình tự nhất định. Việc phân loại khoa học phải dựa vào đối tượng
mà nó nghiên cứu.
- Nguyên tắc phối thuộc:
Các khoa học được phân loại và sắp xếp liên tiếp theo một bậc thang
phù hợp với trật tự phát triển của thế giới vật chất, với nhận thức của loài
người. Tri thức có sau xuất phát từ tri thức có trước như một yếu tố tất yếu.
Theo nguyên tắc này, sự phân loại khoa học phải vừa chú ý tới quy luật
phát triển của vật chất, vừa chú ý tới tính kế thừa biện chứng của sự phát triển
khoa học.
1.4.4. Phân loại khoa học
Trong lịch sử phát triển khoa học, sự phân loại khoa học đã được đề cập
từ rất lâu. Arixtôt (384-322 trước CN) là người đầu tiên đề cập đến sự phân
loại khoa học. Ông chia khoa học thành khoa học lí thuyết (được tiến hành “vì
bản thân nó”), khoa học thực hành (hướng dẫn cách cư xử cho con người),
khoa học sáng tạo (tìm ra cái có ích, cái đẹp như nghệ thuật).
Êpiquya (341-270 trước CN) chia khoa học thành Vật lí học (học thuyết
về tự nhiên), Lôgic học (học thuyết về cách nhận thức), Đạo đức học (học
thuyết về cách đạt tới hạnh phúc con người).
Ở thời trung cổ, khoa học được phân thành Thần học, Lôgic học và Ngữ
pháp; còn khoa học tự nhiên chỉ đóng vai trò phụ thuộc vào chúng.
F.Bêcơn – nhà triết học Anh (1561-1620) chia khoa học theo hoạt động
tinh thần, thành Lịch sử, Thơ ca, Triết học.
Xanh-Ximông ( 1760-1825) coi khoa học thành một chỉnh thể, chia khoa
học tự nhiên thành Vật lí hữu cơ, Vật lí vô cơ và coi khoa học xã hội là một bộ
phận của khoa học tự nhiên gọi là Vật lí xã hội.
Hêghen (1770-1831) trên lập trường của phép biện chứng duy tâm chia
khoa học tự nhiên thành Cơ học (nghiên cứu sự vận động của khối lượng),
Hóa học (nghiên cứu sự vận động của các nguyên tử, phân tử) và Cơ thể học
(nghiên cứu sự vận động thống nhất cao hơn, bao gồm và gắn liền cả Cơ học,
Hóa học).
Việc trình bày trên cho thấy các nhà khoa học xưa đã thấy cần thiết phải
phân loại khoa học, nhưng vẫn chưa tìm ra cách phân loại hợp lí. C.Mác
(1818-1883) và F.Angghen (1820-1895) là những người đầu tiên phân loại
khoa học dựa trên các cơ sở thực sự, cho rằng: Mỗi khoa học phản ánh một
hình thức vận động của vật chất. Phân loại khoa học là sự phân chia các hình
thức vận động của vật chất phù hợp với tính nhất quán, bản chất bên trong
của chúng. Mối liên hệ, chuyển hóa giữa các khoa học phản ánh sự chuyển
hóa, phát triển các hình thức vận động của thế giới.
Theo tinh thần ấy và dựa vào hai nguyên tắc (khách quan, phối thuộc), có
một số cách phân loại khoa học. Mỗi cách có đặc điểm riêng và được sử dụng
tùy theo mục đích tổ chức nghiên cứu, ứng dụng hay quản lí khoa học. Trong
số đó có cách phân loại của UNESCO (Tổ chức giáo dục, khoa học, và văn
hóa của Liên hợp quốc), chia khoa học thành 5 lĩnh vực:
1) Khoa học tự nhiên và khoa học chính xác.
2) Khoa học kĩ thuật.
3) Khoa học nông nghiệp.
4) Khoa học về sức khỏe.
5) Khoa học xã hội và nhân văn.
2. Công nghệ (công nghệ sản xuất)
2.1. Khái niệm kĩ thuật, công nghệ, công nghệ cao
Sự phát triển của khoa học kéo theo sự phát triển về kĩ thuật và công nghệ
sản xuất, làm tăng sức sản xuất lên gấp bội.
Thuật ngữ “Kĩ thuật”, trong ngày đầu công nghiệp hóa, được hiểu là các
giải pháp thực hiện một loại công việc hay công cụ được sử dụng trong sản
xuất làm tăng hiệu quả sản xuất.
Thuật ngữ “Công nghệ” ( hay “công nghệ sản xuất”) lúc đầu hiểu là quy
trình kĩ thuật dùng trong dây chuyền sản xuất, về sau được hiểu theo nghĩa
rộng hơn. Đến nay, theo định nghĩa của Trung tâm chuyển giao công nghệ
Châu Á và Thái Bình Dương, công nghệ là tất cả những gì liên quan đến việc
biến đổi tài nguyên ở đầu vào thành hàng hóa ở đầu ra của quá trình sản xuất,
gồm:
- Hệ thống máy móc, thiết bị của dây chuyền sản xuất (phần kĩ thuật,
phần cứng).
- Thông tin về quá trình sản xuất hay các bí quyết kĩ thuật cho một hệ
sản xuất (phần thông tin, phần mềm).
- Trình độ tay nghề của người trực tiếp sản xuất (phần con người).
- Trình độ tổ chức quản lí, điều hành sản xuất của Ban quản lí xí nghiệp,
công ty (phần tổ chức).
Về bản chất, công nghệ là kết quả của quá trình áp dụng các thành tựu
khoa học vào sản xuất, là sản phẩm lao động trí tuệ sáng tạo của con người
trong sản xuất.
Khái niệm công nghệ được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực của
cuộc sống con người, không chỉ trong sản xuất vật chất mà cả trong các hoạt
động xã hội (công nghệ thông tin, công nghệ giáo dục, công nghệ quản lí,…).
Tuy vậy, công nghệ luôn gắn liền với công nghiệp. Chúng là hai mặt của một
thực thể thống nhất: Công nghệ là nền tảng của công nghiệp; Công nghiệp là
phương thức chuyển tải công nghệ vào cuộc sống. Trong nền công nghiệp hiện
đại, một phần lao động cơ bắp và trí tuệ do máy móc đảm nhiệm, do vậy xuất
hiện thuật ngữ công nghệ cao.
Khái niệm công nghệ cao nói về một nền sản xuất ở trình độ tinh xảo
nhất với các đặc điểm:
- Hệ thống thiết bị được thiết kế tự động hóa hoàn toàn, máy móc có kết
cấu phức tạp nhưng vận hành đơn giản.
- Bí quyết của quy trình sản xuất được bảo mật hết sức tinh vi.
- Thiết bị sản xuất tiêu thụ rất ít năng lượng, nguyên vật liệu sản xuất sử
dụng rất tiết kiệm và nguyên liệu tái tạo được sử dụng nhiều lần.
- Năng suất lao động cao, chất lượng hàng hóa tốt.
- Nhà máy được thiết kế khép kín, phế thải được tinh lọc, không gây ô
nhiễm môi trường.
- Hàm lượng trí tuệ chất xám trong giá thành sản phẩm công nghệ ngày
càng cao. Nếu trước đây, hiệu quả kinh tế dựa chủ yếu vào vốn đầu tư, sức lao
động nặng nhọc chiếm tới 60-70% cơ cấu giá thành, thì ngày nay chất xám
chiếm tới 70-75% cơ cấu ấy.
2.2. Chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, thông qua
dịch vụ thương mại có tổ chức.
Chuyển giao công nghệ chú trọng đến hai phần kĩ thuật, thông tin một
cách đồng bộ. Phần đầu được chuyển giao bằng dịch vụ thương mại thông
thường, phần sau được chuyển giao bằng những thỏa thuận của cả hai bên
chuyển giao và tiếp nhận.
Chuyển giao công nghệ được thực hiện bởi hai nguồn:
- Chuyển giao dọc là chuyển giao từ nơi phát minh (nội dung công nghệ
hoàn toàn mới) đến các xí nghiệp ứng dụng sản xuất. Đây là con đường ngắn
nhất của chu trình nghiên cứu - ứng dụng, nhưng chứa nhiều yếu tố mạo hiểm
vì công nghệ mới chưa được thử thách.
- Chuyển giao ngang là chuyển giao từ cơ sở sản xuất có trình độ công
nghệ cao đến cơ sở sản xuất còn yếu kém. Con đường này ít mạo hiểm nhưng
bên mua thường bị thua thiệt, vì trong thị trường cạnh tranh không một xí
nghiệp nào lại bán bí quyết mới nhất cho đối thủ cạnh tranh.
3. Nghiên cứu khoa học
3.1. Khái niệm nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm
nhận thức thế giới, tạo ra một hệ thống tri thức có giá trị nhằm cải tạo thế
giới.
Quá trình nghiên cứu khoa học diễn ra rất phức tạp, luôn phải giải quyết
những mâu thuẫn xuất hiện liên tục giữa các xu hướng, trường phái, giả
thuyết, dự đoán lí thuyết khác nhau. Bởi vậy khoa học là cuộc cách mạng hiểu
theo ý nghĩa cái nào mang lại lợi ích cho con người là cái chiến thắng. Đồng
thời, nghiên cứu khoa học chứa đựng những yếu tố mạo hiểm, vì nó không
phải lúc nào cũng thành công. Nó là hoạt động khó hạch toán kinh tế (như về
chi phí vật tư, công sức và chi phí vô hình do trang thiết bị kĩ thuật lạc hậu,
…).
3.2. Các loại hình nghiên cứu khoa học
Việc phân chia các loại hình nghiên cứu khoa học dựa vào các trình độ
nhận thức. Lịch sử phát triển cho thấy loài người đã trải qua ba trình độ nhận
thức: mô tả, giải thích, phát hiện.
3.2.1. Trình độ nhận thức khoa học
3.2.1.1. Trình độ mô tả
Mô tả khoa học là trình bày lại những kết quả nghiên cứu một đối tượng
sao cho đối tượng ấy được thể hiện ở mức nguyên bản.
Tri thức mô tả là những tri thức thu nhận được qua quan sát, điều tra
được trình bày bằng hệ thống kí hiệu và là tài liệu cho việc giải thích khoa
học.
Tuy mô tả có thể cho hình ảnh đầy đủ về đối tượng nghiên cứu, nhưng
chưa xác lập được các mối liên hệ quy luật, bản chất của đối tượng.
3.2.1.2. Trình độ giải thích
Giải thích khoa học là trình bày tường minh bản chất của đối tượng
nghiên cứu, bằng cách chỉ ra đối tượng ấy tuân theo một phần hay toàn bộ các
quy luật phát triển chung của hiện thực.
Trình độ giải thích khoa học đã đi sâu vào bản chất sự kiện, bắt đầu tham
gia vào việc khám phá các quy luật vận động và phát triển của đối tượng nhận
thức. Tuy vậy, việc giải thích chính xác đến đâu còn phụ thuộc vào khả năng
người nghiên cứu, mức độ bộc lộ của đối tượng, tính khái quát và chân thực
của các quy luật chung của hiện thực đã biết từ trước, …
3.2.1.3. Trình độ phát hiện
Phát hiện khoa học đồng nghĩa với phát minh, sáng tạo ra chân lí mới
làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Trình độ phát hiện khoa học là trình độ chủ động khám phá bản chất các
quy luật vận động và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Tri thức phát hiện gồm các khái niệm, phạm trù, quy luật, thuyết, phương
pháp, quy trình công nghệ mới. Đó là những tri thức có giá trị đối với cả lí
luận và thực tiễn.
3.2.2. Các loại hình nghiên cứu khoa học
3.2.2.1. Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu cơ bản là các loại hình nghiên cứu có mục tiêu là khám phá
bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan. Đấy là loại
hình nghiên cứu phức tạp nhất vì phải do đội ngũ các nhà khoa học có năng
lực sáng tạo tiến hành, yêu cầu cao về trang thiết bị, chương trình nghiên cứu
lâu dài, chi phí lớn, mạo hiểm. Do vậy, chỉ có các quốc gia có tiềm lực khoa
học, kinh tế mạnh mới đủ khả năng để tổ chức loại hình này một cách rộng
rãi.
Cố hai loại hình nghiên cứu cơ bản:
- Nghiên cứu cơ bản thuần túy có mục tiêu khám phá những quy luật, lí
thuyết khoa học mới dù chưa có địa chỉ ứng dụng.
- Nghiên cứu cơ bản định hướng có mục tiêu tìm ra những kiến thức, giải
pháp mới theo yêu cầu của thực tiễn, đã có sẵn địa chỉ ứng dụng.
3.2.2.2. Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu ứng dụng là loại hình có mục tiêu tìm ra cách ứng dụng các
tri thức cơ bản để tạo ra những quy trình công nghệ, nguyên lí mới trong quản
lí kinh tế và xã hội. Nó làm cho khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của khoa học, sản xuất. Đây là con
đường giúp các nước phát triển nhanh chóng, bỏ qua giai đoạn nghiên cứu cơ
bản tốn kém, tiến kịp các nước có khoa học phát triển (điển hình là Nhật
Bản).
3.2.2.3. Nghiên cứu triển khai
Nghiên cứu triển khai là loại hình có mục tiêu tìm ra khả năng áp dụng
đại trà các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn, tạo ra các mô hình chế
biến thông tin khoa học thành các sản phẩm tinh thần hay vật chất. Nó làm
cho ý tưởng khoa học trở thành hiện thực, nối liền khoa học với đời sống, làm
tăng chất lượng đời sống con người.
Ở Việt Nam, loại hình này đang được tiến hành từng bước thận trọng:
Đầu tiên là thực nghiệm trong các phòng thí nghiệm, sau đó thí điểm ở các địa
bàn điển hình để thăm dò mọi khả năng ứng dụng vào thực tế.
3.2.2.4. Nghiên cứu dự báo
Nghiên cứu dự báo là loại hình có mục tiêu phát hiện những triển vọng,
khả năng, xu hướng mới của sự phát triển của khoa học và nhu cầu đời sống
xã hội. Cơ sở của nó là quy luật phát triển và tốc độ phát triển của khoa học
hiện đại, tiềm lực khoa học quốc gia và thế giới, nhu cầu và khả năng phát
triển của xã hội hiện đại.
Các dự báo gồm:
- Những thành tựu của khoa học kĩ thuật có thể đạt được trong tương lai
và những triển vọng của chúng.
- Những xu hướng, trường phái, chương trình khoa học mới và khả năng
phát triển của chúng.
- Những khả năng hình thành các tổ chức khoa học mới và triển vọng
của sự phát triển tiềm lực khoa học quốc gia, quốc tế.
Có ba cấp nghiên cứu dự báo:
- Cấp 1: Dự báo cho 15-20 năm.
- Cấp 2: Dự báo cho 40-50 năm.
- Cấp 3: Dự báo cho 100 năm (1 thế kỉ).
Sự chính xác của dự báo phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội và những
bí mật của thiên nhiên được phát hiện.
4. Cơ chế và kĩ năng sáng tạo khoa học
4.1. Cơ chế sáng tạo khoa học
Nghiên cứu là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, thường bắt đầu
từ việc xuất hiện ý tưởng, tiếp đến là tư duy và cuối cùng là phát minh. Vấn
đề là cơ chế sáng tạo khoa học trong hoạt động tư duy của các nhà khoa học
được nảy sinh và phát triển như thế nào? Việc phân tích quá trình phát minh
của các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới và tổng kết quá trình nghiên cứu
sáng tạo trong thực tế cho thấy có ba loại cơ chế sáng tạo khoa học sau:
4.1.1.Cơ chế trực giác
Việc bất ngờ xuất hiện một ý tưởng khoa học, một cách giải quyết vấn đề
mà phải mất nhiều thời gian chưa ra được gọi là trực giác (trực cảm).
Nhờ trực giác, con người khám phá nhiều phát minh vĩ đại. Như I.Niutơn
phát hiện định luật vạn vật hấp dẫn nhờ quan sát quả táo rơi, Ácsimét trong
bồn tắm khám phá công thức tính lực đẩy của nước đối với những vật nhúng
chìm trong đó,…Có nhiều cách giải thích hiện tượng này. Những người theo
chủ nghĩa duy tâm cho rằng tri giác là sự thành công của cảm hứng, là món
quà của “Thượng đế” và tất cả các phát minh khoa học đều do trực giác. Các
nhà khoa học duy vật cho rằng, món quà này là kết quả lao động không mệt
mỏi của con người, là bước nhảy vọt của tư duy đã giải phóng sự kìm hãm
của phương pháp cũ, xuất hiện năng lực trí tuệ đặc biệt và dẫn đến phát minh.
Trực giác là sản phảm của tài năng, là kết quả của sự tích lũy kiến thức,
sự say mê và kiên trì lao động. Không một phát minh nào nằm ngoài hoạt
động không mệt mỏi với một định hướng khoa học nghiêm túc.
4.1.2. Cơ chế algôrit
Algôrit sáng tạo (thuật toán) là bản ghi trật tự các bước tạo thành một
chuỗi thao tác lôgic hợp lí để giải quyết thành công bài toán sáng tạo, một loại
công việc.
Việc giải bài toán sáng tạo không thể được tiến hành bằng phép thử -sai
mà phải có kế hoạch. Việc sử dụng algôrit sáng tỏ để phá vỡ sức ì tâm lí với
lối tư duy truyền thống và tạo nên quá trình tưởng tượng mới có tính sáng tạo.
4.1.3. Cơ chế ơrixtic
Sáng tạo theo cơ chế ơrixtic là quá trình nghiên cứu khoa học được thực
hiện bằng việc đề xuất và chứng minh một giả thuyết khoa học về một sự
kiện, hiện tượng mới.
Giả thuyết khoa học là một dự đoán về bản chất đối tượng nghiên cứu, có
hai chức năng:
- Là một phương pháp nhận thức, là gợi ý chỉ dẫn con đường sáng tạo
giúp hiểu đúng bản chất và quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.
- Nếu giả thuyết được khẳng định là chân thực, nó trở thành một bộ phận
cấu thành của lí thuyết khoa học.
4.2. Kĩ năng nghiên cứu khoa học
Kĩ năng nghiên cứu khoa học là khả năng thực hiện thành công các đề tài
khoa học trên cơ sở nắm vững các quan điểm phương pháp luận, sử dụng
thành thạo phương pháp và kĩ thuật nghiên cứu.
Kĩ năng nghiên cứu khoa học bao gồm một hệ thống phức tạp các con
đường, cách thức nghiên cứu mà nhà khoa học phải thực hiện ở mức thành
thạo, có thể phân thành ba nhóm:
- Nắm vững lí luận khoa học và phương pháp nghiên cứu thể hiện bắt
đầu từ phát hiện đề tài, xây dựng giả thuyết, lập đề cương.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để tìm kiếm những thông
tin về đối tượng nghiên cứu.
- Sử dụng kĩ thuật nghiên cứu để thu thập, xử lí và trình bày thông tin khoa
học.
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

1. Khái niệm về phương pháp nghiên cứu khoa học


Có hai định nghĩa thông dụng về phương pháp trong triết học: Phương
pháp là phương tiện, con đường, cách thức giải quyết những nhiệm vụ nhất
định, để đạt tới mục đích xác định; Phương pháp là hình thức tự vận động
bên trong của nội dung, hay là ý thức về hình thức tự vận động bên trong của
nội dung.
Bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học là cách thức mà con
người sử dụng các quy luật vận động của đối tượng để khám phá chính đối
tượng ấy. Trên phương diện lí luận và thực tiễn, cần lưu ý:
- Phương pháp bao giờ cũng là cách thức làm việc cụ thể nhằm vào các đối
tượng cụ thể.
- Phương pháp có tính mục đích vì mọi hoạt động của con người đều có
mục đích.
- Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề cần
nghiên cứu. Trong mỗi đề tài khoa học có các phương pháp cụ thể, trong mỗi
ngành khoa học có một hệ thống phương pháp đặc thù.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học có một hệ thống các thao tác, hành
động được sắp xếp theo một trật tự tối ưu.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ, phương tiện
kĩ thuật hỗ trợ và có độ chính xác cao.
2. Phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học
Trong thực tế, có nhiều cách phân loại phương pháp nghiên cứu khoa
học theo các dấu hiệu khác nhau được diễn tả bởi sơ đồ sau:

Tùy theo mục đích và đặc điểm từng chuyên ngành, từng đề tài khoa học
người ta sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nhằm khẳng định các kết quả
nghiên cứu. Sau đây, ta chỉ nghiên cứu các phương pháp chung nhất theo
trình độ nhận thức khoa học.
3. Hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học chung nhất
Theo trình độ nhận thức chung của loài người, phương pháp nghiên
cứu khoa học được chia làm ba nhóm: nghiên cứu thực tiễn, nghiên cứu lí
thuyết, phương pháp toán học. Trong hai nhóm đầu, lại có thể chia chúng
thành các phương pháp cụ thể. Cách phân chia ấy được diễn tả bởi sơ đồ sau:

3.1. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn


Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn là nhóm các phương pháp
trực tiếp tác động vào đối tượng nhằm bộc lộ bản chất và các quy luật vận
động của đối tượng ấy trong thực tiễn. Nó có các phương pháp cụ thể sau:
3.1.1. Quan sát (quan sát khoa học)
3.1.1.1. Định nghĩa: Quan sát là phương pháp tri giác đối tượng một cách có
hệ thống để thu thập thông tin về đối tượng. Quan sát là hoạt động có mục
đích, có kế hoạch, có phương tiện để tri giác các đối tượng nhằm tìm ra các
dấu hiệu đặc trưng hay những quy luật vận động, phát triển của chúng.
3.1.1.2. Hai loại quan sát:
- Quan sát trực tiếp là quan sát trực diện đối tượng đang diễn ra trong thực
tế bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kĩ thuật (máy quan trắc, kính
lúp, kính hiển vi, kính thiên văn, …) để thu thập thông tin một cách trực tiếp.
- Quan sát gián tiếp là quan sát diễn biến hiệu quả của các đối tượng giữa
đối tượng cần quan sát với các đối tượng khác, mà bản thân đối tượng không
thể quan sát trực tiếp được (như nghiên cứu nguyên tử, chất lượng dạy học,
…).
3.1.1.3. Chức năng:
- Thu thập thông tin về đối tượng (là chức năng quan trọng nhất)
- Kiểm chứng các giả thuyết hay các lí thuyết đã có.
- Đối chiếu các kết quả nghiên cứu lí thuyết với thực tiễn để tìm ra sự sai
lệch. Từ đó tìm cách bổ sung, hoàn thiện lí thuyết.
3.1.1.4. Tiến hành:
- Xác định đối tượng quan sát, các phương diện cụ thể của đối tượng cần
quan sát.
- Lập kế hoạch quan sát (thời gian, địa điểm, số lượng đối tượng, người
quan sát, các thông số kĩ thuật cần đo, …).
- Lựa chọn cách quan sát (trực tiếp, gián tiếp; bằng mắt thường, bằng các
phương tiện kĩ thuật; một lần, nhiều lần; số người quan sát; địa điểm, thời
điểm và khoảng thời gian cho mỗi lần quan sát; …).
- Tiến hành quan sát theo kế hoạch đã vạch ra.
- Ghi chép diễn biến quan sát theo một hay nhiều cách: Theo mẫu phiếu in
sẵn; Ghi biên bản toàn bộ nội dung quan sát; Ghi nhật kí theo thời gian quy
định; Ghi vắn tắt theo dấu hiệu đặc biệt; Ghi âm, chụp ảnh, quay camera toàn
bộ sự kiện, …
- Xử lí tài liệu bằng cách phân loại, hệ thống hóa, thống kê toán học, máy
tính,…
- Kiểm tra kết quả quan sát như tự mình hay nhờ người khác có trình độ
cao hơn quan sát lại, quan sát nhiểu lần, trao đổi trực tiếp với nhân chứng, …
3.1.1.5. Lưu ý:
- Khách quan trong quan sát, vì chủ quan sẽ làm sai lệch, bóp méo sự thật.
- Chú ý tới các quy luật của cảm giác, tri giác.
- Xác định đúng và đủ các tiêu chí về đối tượng cần quan sát.
- Là phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, nhưng quan sát chưa
đạt tới trình độ nhận thức bản chất bên trong của đối tượng. Vì vậy, cần sử
dụng phối hợp nó với các phương pháp khác.
3.1.2. Điều tra (điều tra khoa học)
3.1.2.1. Định nghĩa: Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng
trên một diện rộng nhằm phát hiện một số quy luật phân bố, trình độ phát
triển, đặc điểm của những đối tượng cần nghiên cứu.
3.1.2.2. Hai loại điều tra:
- Điều tra cơ bản là điều tra nhằm nghiên cứu các quy luật phân bố
cũng như đặc điểm (cả về định tính cũng như định lượng) của những đối
tượng cần nghiên cứu. Ví dụ như điều tra địa hình, địa chất, dân số, chỉ số
thông minh (IQ) của trẻ em,...
- Điều tra xã hội học là điều tra quan điểm, thái độ của một số đông
người về sự kiện chính trị, xã hội, thị hiếu, hiện tượng văn hoá... Như điều tra
nguyện vọng này khác của sinh viên, lấy ý kiến phản hồi của người học về
hoạt động giảng dạy của giảng viên, trưng cầu dân ý về điều luật mới,...
Thực chất của điều tra là trưng cầu ý kiến của quần chúng về một vấn
đề nào đó, thường được tiến hành bằng các cách:
+ Phỏng vấn là nói chuyện trực tiếp giữa người cần nghiên cứu và đối
tượng cần biết ý kiến. Nó có thể được ghi âm, tốc kí, quay phim để thu được
tài liệu đủ và chính xác.
+ Hội thảo là tổ chức thu thập thông tin bằng cách tạo ra những tình
huống có vấn đề, nhằm thu hút các đối tượng nghiên cứu vào cuộc tranh luận
để mọi người tự bộc lộ thái độ, quan điểm.
+ Lập bảng hệ thống câu hỏi bằng văn bản (ankét) với các phương án
trả lời, người được hỏi chọn câu trả lời theo quan niệm và nhận thức của
mình. Có hai loại ankét: Ankét đóng (người được hỏi chỉ cần chọn một trong
các phương án có sẵn); Ankét mở (ngoài các phương án đã có sẵn, người được
hỏi có thể bổ sung thêm ý kiến khác của riêng mình).
3.1.2.3. Tiến hành:
- Xây dựng kế hoạch điều tra gồm mục đích, đối tượng, địa bàn, nhân
lực, kinh phí, thời gian,...
- Soạn các mẫu phiếu điều tra với các thông số, tiêu chí cần làm sáng
tỏ.
- Chọn mẫu điều tra điển hình cho số đông có đầy đủ các đặc trưng cho
đối tượng với lưu ý chi phí rẻ, thời gian ngắn, nhân lực điều tra ít, chủ động
kiểm soát mọi khâu kiểm tra, dự tính được diễn biến quá trình và kết quả điều
tra. Có hai loại chọn mẫu:
+ Chọn ngẫu nhiên (xác suất)
+ Chọn có chủ định.
- Tiến hành điều tra thu thập tài liệu.
- Xử lí tài liệu thu thập được. Phân loại tài liệu bằng phương pháp thủ
công, toán học thống kê hay máy tính.
- Kiểm tra kết quả điều tra như lặp lại điều tra, thay đổi địa điểm, thời
điểm, thời gian, người điều tra; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu
khác;...

3.1.2.4. Yêu cầu kĩ thuật điều tra:


- Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn sao cho người được hỏi trả lời đúng
với mọi mục đích nghiên cứu.
- Hệ thống câu hỏi phải đạt được mục đích điều tra. Nghĩa là mỗi câu
hỏi phải thu được một thông tin gì từ phía quần chúng và toàn bộ câu hỏi phải
phản ánh nhận thức, quan điểm chung của xã hội.
- Chọn thời điểm điều tra thích hợp, tạo bầu không khí tự nhiên, cởi
mở, thảng thắn trong buổi làm việc.
- Lưu ý đến người được chọn để điều tra về vấn đề học vấn, thái độ,
động cơ trả lời,...
- Phải xử lí kết quả điều tra bằng thống kê toán học.
3.1.2.5. Trắc nghiệm (Test)
Test là phương pháp điều tra khoa học được sử dụng trong nghiên cứu
Tâm lí học, Giáo dục học để đo chỉ số trí tuệ IQ của trẻ em, kiểm tra đánh giá
kết quả học tập của học sinh và các phẩm chất của nhân cách.
Test là các câu hỏi khó nhưng ngắn gọn kèm theo các phương án trả
lời. Người được điều tra phải nghiên cứu để lựa chọn phương án trả lời đúng.
Nó có tính khách quan và kết quả dễ dàng được xử lí bằng thống kê toán học
Cuối cùng cần lưu ý điều tra là một trong những phương pháp nghiên
cứu thực tiễn quan trọng. Tuy nhiên, nhiều khi kết quả điều tra chỉ cho ta các
thông tin hỗ trợ, bổ sung hay kiểm tra kết quả của những phương pháp khác
chứ không phải là các thông tin bản chất. Vì thế, điều tra không phải là
phương pháp vạn năng.
3.1.3. Thực nghiệm khoa học
3.1.3.1. Định nghĩa: Thực nghiệm là phương pháp, trong đó nhà khoa học
chủ động tác động vào đối tượng và diễn biến sự kiện mà đối tượng tham gia
nhằm hướng dẫn sự phát triển của chúng theo mục tiêu dự kiến của mình.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn này được coi là quan trọng nhất,
đóng vai trò chủ công trong nghiên cứu khoa học hiện đại, không chỉ trong
lĩnh vực nghiên cứu khoa học tự nhiên mà cả trong lĩnh vực nghiên cứu khoa
học xã hội.
3.1.3.2. Đặc điểm:
- Thực nghiệm được tiến hành để khẳng định tính chân thực của giả
thuyết về sự diễn biến tốt hơn của đối tượng nếu ta chú ý đến một số biến số
quan trọng và bỏ qua một số biến số thứ yếu.
- Kế hoạch tiến hành thực nghiệm chi tiết, chính xác.
- Để kiểm tra giả thuyết, các đối tượng thực nghiệm được chia làm
nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Chúng được chọn ngẫu nhiên, có số
lượng và trình độ phát triển ngang nhau (qua kiểm tra chất lượng ban đầu).
Nhóm thực nghiệm bị tác động bởi các nhân tố thực nghiệm để xem xét diễn
biến có đúng với giả thuyết ban đầu không. Nhóm đối chứng cho diễn biến
phát triển hoàn toàn tự nhiên, không chịu tác động bởi bất cứ điều gì khác
thường, là cơ sở để kiểm tra những kết quả thay đổi của nhóm thực nghiệm.
Những khác biệt của hai nhóm giúp người nghiên cứu khẳng định hay phủ
định giả thuyết.
3.1.3.3. Tiến hành:
- Xây dựng giả thuyết thực nghiệm.
- Chọn đối tượng thực nghiệm điển hình cho cả lớp đối tượng nghiên
cứu. Chia đối tượng ấy thành hai nhóm thực nghiệm, đối chứng.
- Tiến hành thực nghiệm kiểm chứng giả thuyết đã đề ra. Theo dõi
khách quan diễn biến hai nhóm trong từng giai đoạn.
- Xử lí kết quả thực nghiệm bằng phương pháp phân tích, phân loại,
thống kê toán học, máy tính để khẳng định mối liên hệ của các biến số trong
nghiên cứu không phải ngẫu nhiên mà là bản chất, nhân quả.
Việc phân tích kết quả gồm hai phần: phân tích định tính và phân tích
định lượng. Phân tích định tính là phân tích kết quả thu được về ý nghĩa thực
tiễn, ý nghĩa khoa học, mức độ đóng góp, khó khăn, hạn chế, triển
vọng,...Phân tích định lượng là dựa vào thống kê toán học khẳng định thêm
kết quả thu được qua phân tích định tính. Từ đó, đưa ra kết luận cuối cùng và
kết quả thực nghiệm.
- Khẳng định giả thuyết, từ đó đề xuất những khả năng áp dụng vào
thực tiễn.
3.1.4. Phân tích và tổng kết kinh nghiệm
3.1.4.1. Định nghĩa: Phân tích và tổng kết kinh nghiệm là phương pháp
nghiên cứu xem xét lại những thành quả của hoạt động thực tiễn trong quá
khứ để rút ra những kết luận bổ ích cho thực tiễn, cho khoa học. Nó thường
dùng để nghiên cứu diễn biến và nguyên nhân của các sự kiện, các giải pháp
thực tiễn đã áp dụng trong sản xuất, trong hoạt động xã hội để tìm ra các giải
pháp tối ưu.
3.1.4.2. Tiến hành:
- Phát hiện các sự kiện điển hình (thành công hay thất bại) có ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống và hoạt động thực tiễn.
- Gặp gỡ, trao đổi với những nhân chứng đã trực tiếp tham gia sự kiện
để nắm được diễn biến, nguyên nhân sự kiện.
- Lặp lại mô hình sự kiện, khôi phục lại sự kiện đã xảy ra.
- Phân tích nguyên nhân, diễn biến của sự kiện và những thành công
hay thất bại của những giải pháp theo trình tự lịch sử.
- Trên cơ sở lí thuyết khoa học đã được thừa nhận, giải thích sự kiện,
rút ra kết luận về bản chất, quy luật phát triển của sự kiện, đề ra các bài học
cần thiết và bổ ích phổ biến qua hội thảo khoa học, đăng tải trên tạp chí
chuyên ngành hay các phương tiện thông tin đại chúng.
3.1.5. Phương pháp chuyên gia
3.1.5.1. Định nghĩa:
Phương pháp chuyên gia là phương pháp sử dụng trí tuệ của các
chuyên gia có trình độ cao của một chuyên ngành để xem xét, nhận định bản
chất của sự kiện khoa học, tìm ra giải pháp tối ưu cho sự kiện ấy hay phân
tích, đánh giá một sản phẩm khoa học.
Đây là phương pháp rất kinh tế, tiết kiệm thời gian, sức lực để triển
khai nghiên cứu. Tuy nhiên, chỉ nên sử dụng nó khi không có điều kiện hay
không thể thực hiện được các phương pháp nghiên cứu khác, vì nó dựa chủ
yếu vào trực giác hay kinh nghiệm của các chuyên gia.
3.1.5.2. Yêu cầu:
- Chọn đúng chuyên gia có năng lực chuyên môn về lĩnh vực nghiên
cứu, trung thực, khách quan và có kinh nghiệm trong nhận định, đánh giá.
- Nếu sử dụng chuyên gia để nhận định một sự kiện thì thông qua hội
thảo. Nếu sử dụng chuyên gia để đánh giá công trình khoa học thì phải xây
dựng một hệ thống tiêu chí cụ thể, tường minh và tốt hơn cả là một thang
điểm chuẩn để đánh giá.
- Để đảm bảo tính khách quan trong đánh giá, nhận định một sự kiện,
cần hạn chế tới mức tối đa ảnh hưởng qua lại giữa các chuyên gia như yêu cầu
không gặp gỡ nhau, đánh giá bằng văn bản. Nếu đánh giá công khai, người có
uy tín nhất không phải là người phát biểu ý kiến đầu tiên.
3.2. Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết là nhóm các phương pháp thu
thập thông tin khoa học bằng các thao tác tư duy lôgic rút ra các kết luận khoa
học cần thiết trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có. Nó gồm các
phương pháp cụ thể sau:
3.2.1. Phân tích và tổng hợp lí thuyết
Phân tích lí thuyết là phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài liệu lí
luận khác nhau về một chủ đề, bằng cách phân tích chúng thành từng mặt,
từng bộ phận theo trình tự thời gian để hiểu chúng một cách toàn diện, để phát
hiện ra những xu hướng, trường phái nghiên cứu của từng tác giả, từ đó chọn
lọc những thông tin phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Tổng hợp lí thuyết là phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận
thông tin từ các lí thuyết đã thu thập được, để tạo ra một hệ thống lí thuyết
mới về chủ đề nghiên cứu.
Tuy phân tích và tổng hợp đối lập nhưng lại thống nhất biện chứng.
Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp, tổng hợp giúp phân tích sâu sắc. Không có
phân tích thì không có tổng hợp. Nghiên cứu lí thuyết thường bắt đầu từ phân
tích tài liệu để tìm ra cấu trúc các lí thuyết, trường phái, xu hướng phát triển
của lí thuyết. Từ đó, người ta tổng hợp chúng lại để xây dựng thành một hệ
thống khái niệm, phạm trù tiến tới tạo thành các lí thuyết khoa học mới.
3.2.2. Phân loại, hệ thống hoá lí thuyết
Phân loại là sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống lôgic chặt
chẽ theo từng mặt, đơn vị kiến thức, vấn đề khoa học cùng dấu hiệu bản chất
hay cùng một hướng phát triển
Hệ thống hoá là sắp xếp thành hệ thống trên cơ sở một mô hình lí
thuyết làm cho sự hiểu biết về đối tượng nghiên cứu được đầy đủ, sâu sắc.
Phân loại và hệ thống hoá gắn liền nhau, tạo ra những kiến thức mới và
sâu sắc. Trong phân loại, có yếu tố của hệ thống hoá. Hệ thống hoá phải dựa
vào phân loại, làm cho phân loại được đầy đủ, chính xác.
3.2.3. Mô hình hoá
Mô hình là hệ thống các yếu tố vật chất hoặc ý niệm được xây dựng
gần giống với đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở tái hiện lại những mối liên hệ
cơ cấu - chức năng, mối liên hệ nhân quả của các yếu tố trong đối tượng.
Mô hình hoá là phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách xây dựng
các mô hình giả thuyết về nó và dựa trên mô hình ấy để nghiên cứu trở lại đối
tượng, là phương thức chuyển cái trừu tượng thành cái cụ thể, dùng cái cụ thể
để nghiên cứu cái trừu tượng.
3.2.4. Giả thuyết
Giả thuyết là phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách dự đoán
bản chất của đối tượng và tìm cách chứng minh dự đoán ấy. Nó có hai chức
năng là dự đoán và phát hiện bản chất của sự kiện trên cơ sở dự đoán đó.
Trong nghiên cứu khoa học, khi phát hiện ra các sự kiện mới lạ không
thể giải thích bằng vốn kiến thức đã có, người ta thường so sánh nó với sự
kiện đã biết và từ vốn hiểu biết cũ kết hợp với đầu óc tưởng tượng sáng tạo
mà hình dung ra cái cần tìm. Đó chính là xây dựng giả thuyết. Tuy giả thuyết
có cơ sở khoa học nhưng vẫn là dự đoán, do vậy cần chứng minh. Có hai cách
chứng minh: trực tiếp (dựa vào các luận chứng chân thực và các quy tắc suy
luận), gián tiếp (khẳng định phản luận đề là giả dối, từ đó rút ra luận đề là
chân thực).
3.2.5. Lịch sử
Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu nguồn gốc phát sinh,
quá trình vận động và phát triển của đối tượng để phát hiện bản chất và quy
luật của đối tượng.
Yêu cầu của phương pháp lịch sử là làm rõ quá trình phát triển cụ thể
của đối tượng, phát hiện quy luật phát triển của đối tượng hay tìm ra lôgic của
lịch sử (chính là mục đích nghiên cứu của khoa học).
Trong nghiên cứu lí thuyết, phương pháp này còn được sử dụng để
phân tích các tài liệu lí thuyết đã có nhằm phát hiện các xu hướng, trường
phái nghiên cứu, từ đó xây dựng tổng quan về vấn đề nghiên cứu giúp người
nghiên cứu phát hiện những sai lệch, không hoàn chỉnh trong các tài liệu ấy,
từ đó khẳng định tính cấp thiết (thời sự) của đề tài nghiên cứu.
3.3. Phương pháp toán học trong nghiên cứu khoa học
Toán học là khoa học suy diễn, đảm bảo cho quá trình nghiên cứu nhất
quán, đi đúng hướng. Ngày nay toán học là một phương tiện, công cụ đắc lực
trong việc nghiên cứu không chỉ khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội,
bởi lẽ "Một khoa học chỉ thực sự phát triển khi nó sử dụng được Toán học"
(Các Mác)
Sự phát triển của khoa học hiện đại dẫn đến hai xu hướng trong nghiên
cứu khoa học:
- Sử dụng các trang thiết bị kĩ thuật để tiến hành nghiên cứu, vì chúng
là công cụ hỗ trợ trong thực nghiệm và xử lí các số liệu thu thập được.
- Sử dụng toán học trong việc tìm ra các lí thuyết chuyên ngành, từ đó
khám phá bản chất và quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.
Chương 3. LÔGIC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động của các nhà khoa học được tổ chức
đặc biệt, theo một lôgic gồm các bước, giai đoạn sắp xếp theo một trình tự
chặt chẽ. Lôgic này gồm hai mặt là lôgic tiến trình nghiên cứu và lôgic nội
dung công trình (đề tài).
1. Lôgic tiến trình nghiên cứu công trình khoa học
Lôgic tiến trình một công trình khoa học là trình tự gồm các bước, giai
đoạn của quá trình nghiên cứu như sau:
1.1. Chuẩn bị nghiên cứu
Giai đoạn này gồm các công việc:
- Xác định đề tài (hay tìm vấn đề làm đối tượng để nghiên cứu). Đây là
khâu then chốt, vì thực tế đã chỉ ra rằng nhiều khi phát hiện được vấn đề để
nghiên cứu còn khó hơn giải quyết vấn đề.
Đề tài phải có tính cấp thiết tại thời điểm nghiên cứu, Việc giải quyết được
nó phải đem lại những giá trị thiết thực về lí luận và thực tiễn, góp phần thúc
đẩy sự phát triển khoa học. Mặt khác , việc lựa chọn đề tài phải phù hợp với
xu hướng , khả năng, kinh nghiệm của người nghiên cứu, với điều kiện vật
chất, kĩ thuật và nguồn thông tin, tư liệu khoa học hiện có trong và ngoài cơ
quan nghiên cứu, trong và ngoài nước.
- Xây dựng đề cương nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu là văn bản trình bày cấu trúc nội dung cơ bản và các
bước tiến hành đề tài ( trình bày kĩ trong mục 2, chương 4). Xây dựng đề
cương nghiên cứu là việc làm quan trọng phù hợp với lôgic sáng tạo khoa
học.
- Xây dựng kế hoạch triển khai nghiên cứu
Kế hoạch nghiên cứu là văn bản trình bày kế hoạch dự kiến tiến hành đề
tài về mọi mặt: nội dung công việc, thời gian hoàn thành từng công việc, sản
phẩm phải có, trách nhiệm từng thành viên, cộng tác viên.
Kế hoạch nghiên cứu đề tài cấp Bộ, Nhà nước còn chỉ rõ cá nhân và cơ
quan chủ trì, kế hoạch bổ sung nhân lực, nguồn vật liệu, tài lực, thông tin
khoa học và yêu cầu về hợp tác, đào tạo, nghiên cứu trong và ngoài nước.
1.2. Triển khai nghiên cứu
Giai đoạn này bao gồm các khâu sau:
- Lập thư mục các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu ( tài liệu
tham khảo). Để nhanh chóng, nên tham khảo các tài liệu tham khảo của các
công trình khoa học đã công bố gần với đề tài.
- Nghiên cứu các tài liệu, công trình khoa học có liên quan trực tiếp,
gián tiếp tới đề tài làm tổng quan (lịch sử nghiên cứu vấn đề).
Tổng quan là tổng thuật những gì liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
Nó giúp người nghiên cứu phát hiện ra những yếu điểm, chưa hoàn thiện của
các công trình trước đó hay những vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo,
chưa được quan tâm đúng mức của lí luận hay thực tiễn mà đề tài tìm cách
nghiên cứu, phát triển.
-Xây dựng cơ sở lí thuyết hay tìm ra chỗ dựa lí thuyết của đề tài. Muốn
vậy, phải phân tích, hệ thống hoá, khái quát hoá các tài liệu nói ở trên kết hợp
với suy luận.
- Phát hiện thực trạng phát triển của đối tượng bằng các phương pháp
nghiên cứu thực tiễn.
- Chứng minh giả thuyết khoa học đã đề xuất lúc đầu bằng các tài liệu lí
thuyết thu được với các phương pháp nghiên cứu khác nhau.
- Tiến hành thực nghiệm kiểm tra giả thuyết, khẳng định tính chân thực
của các kết luận.
- Tổ chức hội thảo, tận dụng trí tuệ của các chuyên gia xin ý kiến đóng
góp về phương pháp, nội dung, các sản phẩm nghiên cứu,…Từ đó sửa chữa,
bổ sung và hoàn chỉnh công trình.
- Trong từng giai đoạn nghiên cứu, công bố dần các kết quả thu được
bằng báo cáo ở hội thảo, hội nghị khoa học và viết báo cáo đăng tải trên các
tạp chí khoa học chuyên ngành trong và ngoài nước.
1.3. Viết công trình
Viết công trình là trình bày bằng văn bản toàn bộ kết quả nghiên cứu.
Thường phải viết nhiều lần:
- Viết nháp nhờ tổng hợp các tài liệu đã thu thập được.
- Sửa chữa bản thảo theo đề cương chi tiết trên cơ sở góp ý của người
hướng dẫn và chuyên gia.
- Viết sạch công trình để đưa ra thảo luận ở Bộ môn.
- Sửa chữa theo góp ý của Bộ môn.
- Viết sạch để bảo vệ ở Hội đồng đánh giá cấp cơ sở.
- Sửa chữa lần cuối theo góp ý của Hội đồng đánh giá cấp cơ sở.Viết hoàn
thành văn bản và hoàn tất văn bản ấy.
1.4. Nghiệm thu, bảo vệ
Đây là giai đoạn cuối cùng nhằm xác nhận các kết quả nghiên cứu, gồm
các công việc:
- Hoàn chỉnh công trình bằng văn bản theo yêu cầu về nội dung và hình
thức trình bày của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Xin nhận xét của các phản biện về kết quả nghiên cứu, các phương
pháp nghiên cứu và hình thức trình bày công trình. Xin nhận xét của các nhà
khoa học trong lĩnh vực chuyên ngành về văn bản, tóm tắt văn bản cũng theo
các mặt trên.
- Bảo vệ trước Hội đồng đánh giá.
2. Lôgic nội dung công trình khoa học
Lôgic nội dung công trình khoa học là trật tự các phần của nội dung đề tài,
luận văn, luận án gồm các phần:
2.1. Những vấn đề chung (Mở đầu)
Phần này trình bày như trong đề cương nghiên cứu (Xem mục 2,
chương 4), gồm:
1) Lí do chọn đề tài (Tính cấp thiết của đề tài).
2) Mục đích nghiên cứu.
3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4) Giả thiết khoa học.
5) Nhiệm vụ nghiên cứu.
6) Phương pháp nghiên cứu.
7) Đóng góp (cái mới) của đề tài.
8) Cấu trúc của đề tài.
2.2. Các kết quả nghiên cứu (Nội dung)
Phần này trình bày toàn bộ kết quả nghiên cứu lí thuyết, thực tiễn của
đề tài. Thông thường luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ được trình bày ít nhất
trong ba chương, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục
nghiên cứu:
Chương 1.Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
- Tổng quan (Lịch sử nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài).
- Những cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
- Các bước tiến hành nghiên cứu và kết quả thu được.
- Khái quát tài liệu thực tiễn.
Chương 3. Thực nghiệm (khẳng định giả thuyết khoa học). Những bài học
rút ra từ thực nghiệm
2.3. Kết luận
- Những kết quả nghiên cứu về lí thuyết, thực tiễn quan trọng nhất của
tác giả.
- Đề xuất ứng dụng kết quả nghiên cứu.
- Phương hướng và kiến nghị cho việc nghiên cứu tiếp theo.
2.4. Tài liệu tham khảo và phụ lục
- Cuối đề tài trình bày các tài liệu tham khảo được sắp xếp theo quy
định
( mục 2, chương 4).
- Cuối cùng là các phụ lục làm rõ thêm các kết quả nghiên cứu mà
trong phần chính đề tài chưa trình bày, hoặc làm giảm độ dày của đề tài làm
cho người đọc dễ dàng hơn.
Chương 4. XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC

1. Đề tài khoa học


Đề tài khoa học là một vấn đề khoa học chứa một nội dung thông tin
chưa biết, cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ. Hiểu đơn giản thì đề tài khoa học
là một câu hỏi, một vấn đề của khoa học cần phải tìm câu trả lời, cách giải
quyết và khi giải đáp được sẽ làm cho khoa học phát triển thêm một bước.
Về thực chất, vấn đề khoa học là một sự kiện, hiện tượng mới phát hiện
mà khoa học chưa biết, là một sự thiếu hụt của lí thuyết hay một mâu thuẫn
của thực tiễn đang cản trở bước tiến của con người, với vốn kiến thức và kinh
nghiệm đã có không giải thích được, đòi hỏi các nhà khoa học phải nghiên
cứu để làm sáng tỏ. Như vậy, một vấn đề trở thành đề tài khoa học khi thoả
mãn các điều kiện:
1) Là một sự kiện, hiện tượng mới chưa từng biết, một mâu thuẫn hay
vướng mắc cản trở bước tiến của khoa học hay thực tiễn.
2) Bằng kiến thức, kinh nghiệm đã có không giải quyết được phải dựa cậy
vào các nhà khoa học.
3) Nếu giải quyết được sẽ cho một thông tin mới có giá trị cho khoa học
hay làm khai thông các hoạt động của thực tiễn.
Sự phát triển đề tài là do nhu cầu của thực tiễn cuộc sống, của phát
triển khoa học. Vì thế, đề tài khoa học phải là vấn đề có tính cấp thiết đối với
lí luận hay đối với thực tiễn.
Đề tài khoa học được diễn đạt bằng tên đề tài, là tên gọi của vấn đề
khoa học cần nghiên cứu. Tên gọi là vỏ ngoài, vấn đề khoa học là cốt lõi bên
trong. Tên đề tài được diễn đạt bằng một câu ngữ pháp trọn vẹn, rõ ràng, một
nghĩa và chứa đựng nội dung vấn đề cần nghiên cứu. Bất đắc dĩ mới đặt tên
có thêm ngoặc đơn để giải thích. Không đặt tên quá dài, thiếu xác định, quá
xa nội dung, đa nghĩa hoặc dùng mĩ từ bóng bẩy như: Bước đầu nghiên
cứu…, Một sô vấn đề về…, Thử tìm hiểu…., Góp phần làm sáng tỏ…;….
Đề tài đa dạng về chủng loại, phong phú về nội dung và do nhiều cấp
quản lí nên được phân thành các loại theo các dấu hiệu khác nhau như:
- Dựa vào trình độ đào tạo, đề tài khoa học gồm khoá luận tốt nghiệp ( là
một văn bản trình bày kết quả tập dượt nghiên cứu khoa học của sinh viên đại
học), luận văn thạc sĩ (là một công trình nghiên cứu khoa học có giá trị thực
tiễn, thường hướng vào việc tìm tòi các giải pháp, một vấn đề nào đó của thực
tiễn chuyên ngành), luận án tiến sĩ (là công trình nghiên cứu khoa học của
nghiên cứu sinh, kết quả nghiên cứu có những đóng góp mới có giá trị trong
khoa học và thực tiễn chuyên ngành)
- Dựa vào cấp quản lí đề tài, có đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp cơ
sở (ở trường đại học, còn gọi là đề tài cấp Trường). Chúng khác nhau không
chỉ về cấp quản lí mà khác cả về phạm vi nghiên cứu và ứng dụng, kinh phí
hỗ trợ. Trong số đó, đề tài cấp Nhà nước có phạm vi rộng gồm những vấn đề
có tấm cỡ chiến lược quốc gia và chỉ dẫn các đề tài cấp dưới theo một định
hướng chung.
- Dựa theo các loại hình nghiên cứu khoa học có đề tài nghiên cứu cơ
bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu dự báo.
Dù ở thể loại nào, đề tài khoa học cũng xuất phát từ nhu cầu của thực
tiễn với mục đích chỉ yếu là phát hiện các tri thức mới, các quy luật phát triển
của thế giới, hoặc các phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới.
2. Xây dựng đề cương nghiên cứu đề tài khoa học
Để nghiên cứu một đề tài khoa học, trước tiên phải xây dựng đề cương
nghiên cứu nó. Đó là một văn bản gồm các bước đi và nội dung cơ bản của đề
tài.
Với luận văn thạc sĩ hay luận án tiến sĩ, đề cương nghiên cứu bao gồm các
mục chủ yếu sau:
Tên đề tài:…( Yêu cầu về diễn đạt tên đề tài đã trình bày ở trên: Tên đề
tài được diễn đạt bằng một câu ngữ pháp thể hiện được đối tượng, nội dung
và phương pháp nghiên cứu).
1) Lí do chọn đề tài ( Tính cấp thiết của đề tài)
Ở đây, yêu cầu phải trình bày rõ ràng nhưng lí do cấp thiết đối với lí
luận, thực tiễn khiến tác giả phải chọn đề tài để nghiên cứu. Lí do chọn đề tài
thường xuất phát từ việc phát hiện các thiếu sót, sai lệch trong nghiên cứu lí
thuyết chuyên ngành hay từ những yêu cầu thực tế công tác của người nghiên
cứu.
2) Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu giúp định hướng các bước chủ yếu của việc thực
hiện đề tài để đạt tới mục đích cuối cùng. Nó thường là tìm tói, phát hiện, làm
rõ bản chất một sự kiện mới hay tìm giải pháp nâng cao chất lượng một hoạt
động thực tế nào đó.
3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do mỗi đề tài nghiên cứu vấn đề, nên đề tài nào cũng có một đối tượng
nghiên cứu. Xác định đối tượng nghiên cứu là xác định các trọng tâm cần
khám phá của đề tài.
Xác định phạm vi (giới hạn) nghiên cứu đề tài là xác định phạm vi
không gian, thời gian, những mặt, những chỉ số cần điều tra, quan sát, nghiên
cứu, phát hiện,…Nó giúp việc nghiên cứu đi đúng hướng, đúng trọng tâm.
4) Giả thuyết khoa học
Về thực chất, thực hiện một đề tài khoa học là chứng minh một giải
thuyết khoa học. Vì thế, đề ra giả thuyết khoa học là thao tác quan trọng. Giả
thuyết khoa học là một dự đoán về bản chất của đối tượng nghiên cứu, giúp
hoạch định con đường khám phá đối tượng.
Giả thuyết tuân theo yêu cầu: Có khả năng giải thích được sự kiện cần
nghiên cứu; Có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm.
Giả thuyết thường được diễn đạt bằng câu điều kiện “Nếu…thì…”.
5) Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích và giả thuyết, phải xác định các nhiệm vụ nghiên cứu đề
tài. Nhiệm vụ nghiên cứu mục tiêu cụ thể mà đề tài phải thực hiện.
Mỗi luận văn, luận án thường có ba nhiệm vụ chủ yếu: Xây dựng cơ sở
lí thuyết, cơ sở thực tiễn của đề tài; Đề xuất giải pháp cải tạo hiện thực; Tiến
hành thực nghiệm kiểm tra giả thuyết (đánh giá tính khả thi và hiệu quả của
những giải pháp đề ra).
6) Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài khoa học, phải sử dụng không chỉ một
mà phối hợp với một số phương pháp nghiên cứu cụ thể. Chúng được sử dụng
hợp lí, phù hợp với đề tài đảm bảo đề tài hoàn thành các nhiệm vụ, đạt được
mục đích nghiên cứu đã đề ra. Cho nên, cần trình bày các phương pháp dự
kiến sử dụng, ý đồ và kĩ thuật sử dụng từng phương pháp nghiên cứu.
7) Đóng góp (Cái mới) của đề tài
Cái mới của một công trình khoa học là những thông tin khoa học có
giá trị đối với lí luận và thực tiễn mà tác giả là người đầu tiên tìm ra là tiêu
chuẩn để đề tài được nghiệm thu hay khóa luận, luận văn, luận án được bảo
vệ thành công.
8) Dàn ý nội dung đề tài
Để trình bày dàn ý nội dung dự kiến của đề tài, tác giả phải nghiên cứu
nhiều tài liệu tham khảo, trao đổi với đồng nghiệp, các chuyên gia kết hợp với
óc tưởng tượng, khả năng sáng tạo. Luận văn, luận án có ít nhất ba chương
(Xem mục 2.2, chương 3). Dàn ý cần được trình bày cụ thể tới tiểu mục.
9) Tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo của công trình khoa học là sách báo, tạp chí, trang
web,… đã đọc và được trích dẫn nguyên văn hoặc sử dụng về ý tưởng. Việc
sử dụng chúng cần được chỉ rõ trong công trình.
Các tài liệu tham khảo phải được xếp riêng theo từng khối tiếng (Việt,
Nga, Anh, Pháp,…). Giữ nguyên văn không dịch, không phiên âm các tài liệu
bằng tiếng nước ngoài.
Việc sắp xếp các tài liệu tham khảo trong từng khối tiếng tuân theo
nguyên tắc:
- Xếp thứ tự ABC theo họ tác giả nước ngoài (kể cả tài liệu đã dịch ra
tiếng Việt xếp trong khối tiếng Việt).
- Xếp thứ tự ABC theo tên tác giả Việt Nam, không đảo lộn trật tự họ
tên tác giả.
- Xếp thứ tự ABC theo từ đầu tiên của tên tài liệu nếu tài liệu không có
tên tác giả hoặc có nhiều tài liệu do cùng tác giả.
Mỗi tài liệu tham khảo ghi trong danh mục theo thứ tự: Số thứ tự - Họ
và tên tác giả - Tên tài liệu - Nhà xuất bản - Nơi xuất bản - Năm xuất bản. Số
thứ tự được đánh liên tục từ đầu đến hết, qua tất cả các khối tiếng.
Tài liệu nào được trích dẫn vào công trình thì đánh số thứ tự của tài
liệu, số thứ tự trang của tài liệu và số thứ tự ấy đặt trong dấu ngoặc vuông,
như [ 8tr.26], [19,tr.55-58],…
Với khoá luận tốt nghiệp, mức độ thấp của đề tài khoa học, có những
mục, và do vậy cả nội dung, không có trong luận văn thạc sĩ hay luận án tiến
sĩ. Như không có đóng góp về một lí luận trong mục 7, không đề ra nhiệm vụ
tiến hành kiểm tra giả thuyết khoa học của đề tài, nội dung khoá luận chỉ gồm
hai chương,…
Chương 5 SUY LUẬN
1. Khái niệm
1.1. Định nghĩa và kết cấu lôgic của khái niệm
1.1.1. Định nghĩa khái niệm
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình ý thức con
người phản ánh hiện thực khách quan tồn tại bên ngoài và không phụ thuộc
vào ý thức. Nhận thức được thực hiện qua hai giai đoạn: nhận thức cảm tính ,
nhận thức lí tính. Nhận thức cảm tính là sự phản ánh thế giới khách quan vào
đầu óc con người do tác động trực tiếp của thế giới đó vào các cơ quan thụ
cảm và được diễn ra dưới ba hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
Nhờ vậy, con người có được tri thức về các sự vật riêng lẻ và các thuộc tính
của chúng. Tuy nhiên, con người không giới hạn tri thức ở đó mà luôn muốn
khám phá bản chất của sự vật, hiện tượng và các quy luật của tự nhiên, xã hội.
Để thực hiện được điều này, con người phải dựa vào tư duy (tư duy trừu
tượng, nhận thức lí tính). Nhận thức lí tính có ba hình thức cơ bản: khái niệm,
phán đoán, suy luận.
Xét đến cùng, một lí thuyết khoa học về thực chất là một hệ thống các
khái niệm. Bởi vậy, nghiên cứu khoa học luôn là quá trình xây dựng khái
niệm.
Theo lôgic học, khái niệm là hình thức của tư duy phản ánh các dấu
hiệu bản chất của một sự vật đơn chất hay lớp các sự vật đồng nhất. Hay khái
niệm là sản phẩm của sự phản ánh bởi bộ óc những tính chất chung và bản
chất của các đối tượng sự vật, hiện tượng của hiện thực.
Các dấu hiệu (tính chất, thuộc tính, quan hệ, đặc điểm, trạng thái,…)
bản chất là những cái mà nhờ đó sự vật và hiện tượng thuộc loại này được
phân biệt với các sự vật, hiện tượng thuộc loại khác. Ví dụ, dấu hiệu bản chất
của kim loại là có cấu trúc tinh thể, có hạt mang điện tự do, của động cơ
không đồng bộ ba pha là biến điện năng của dòng điện xoay chiều thành cơ
năng,… Dấu hiệu không bản chất của khái niệm kim loại là hình dạng, kích
thước, màu sắc, … của khái niệm động cơ không đồng bộ ba pha là hình
dạng, kích thước, công suất,…
Trong thực tế, có khái niệm phản ánh đúng, có khái niệm phản ánh
không đúng hiện thực khách quan. Chúng tương ứng được gọi là khái niệm
chân thực, khái niệm giả dối. Các khái niệm giả dối phản ánh các sự vật, hiện
tượng do trí tưởng tượng của con người hay thần thánh hóa chúng, như chất
nhiệt, chất điện, động cở vĩnh cửu, con rồng, nàng tiên cá,…
1.1.2.Kết cấu lôgic của khái niệm
Khái niệm là kết quả khám phá các dấu hiệu bản chất của đối tượng, là
hình ảnh khách quan về đối tượng. Vì thế, cấu trúc lôgic của khái niệm gồm
hai bộ phận: nội hàm, ngoại diên.
Nội hàm của khái niệm là tập hợp các dấu hiệu bản chất (quy định bản
chất bên trong, đặc trưng chất lượng) của đối tượng hay lớp đối tượng được
phản ánh trong khái niệm đó.
Ngoại diên của khái niệm là đối tượng hay tập hợp đối tượng chứa
những dấu hiệu có trong nội hàm của khái niệm.
Ví dụ nội hàm của khái niệm “hình chữ nhật” là hình bình hành có một
góc vuông, của “động năng” là năng lượng cơ học (cơ năng) do chuyển động,
của “ampe kế” là đo cường độ dòng điện. Có các khái niệm có ngoại diên rất
rộng (vô hạn) như đại lượng vật lí, nguyên tử, … Có các khái niệm có ngoại
diện hẹp (hữu hạn) như “Trường ĐHSP Hà Nội 2”, “Hệ số tỉ lệ không có thứ
nguyên (hư số)”, ”Véctơ cảm ứng từ”,… Thậm chí có khái niệm có ngoại diên
là rỗng (không có đối tượng nào) như rồng, nàng tiên cá, động cơ vĩnh cửu,…
Giữa nội hàm và ngoại diên có mối quan hệ ngược: Ngoại diên của
khái niệm càng rộng thì nội hàm của nó càng hẹp và ngược lại. Quy luật này
cho thấy, lượng thông tin về sự vật chứa trong khái niệm càng ít thì lớp sự vật
càng rộng và thành phần của nó càng khó xác định, và ngược lại, lượng thông
tin trong khái niệm càng nhiều thì phạm vi sự vật càng ít và cũng dễ xác định.
Quan hệ ngược nói trên là cơ sở của thao tác thu hẹp và mở rộng khái
niệm (thực chất là thu hẹp và mở rộng ngoại diên của khái niệm). Thu hẹp khái
niệm là thao tác chuyển khái niệm có ngoại diên rộng sang khái niệm có ngoại
diên hẹp, được thực hiện bằng cách thêm các dấu hiệu vào một hàm của khái
niệm ấy. Giới hạn của thao tác này là khái niệm đơn nhất (ngoại diên chỉ có
một đối tượng hay một phần tử). Mở rộng khái niệm là thao tác chuyển khái
niệm có ngoại diên hẹp với nội hàm phong phú sang khái niệm có ngoại diên
rộng với nội hàm nghèo hơn, được thực hiện bằng cách bỏ bớt dấu hiệu có
trong một hàm của khái niệm ấy. Ví dụ mở rộng khái niệm “chất rắn kết tinh
đơn tinh thể hay đa tinh thể”, ta có khái niệm chất rắn kết tinh; mở rộng khái
niệm “chất rắn kết tinh và chất rắn vô định hình”, ta được khái niệm chất
rắn;…Giới hạn của thao tác này là phạm trù (là khái niệm có ngoại diên rộng
nhất, do vậy mà có nội hàm hẹp nhất như đối tượng vật chất, quan hệ, thuộc
tính,…). Mỗi một khoa học có một hệ thống phạm trù riêng xác định.
1.2. Định nghĩa khái niệm
1.2.1. Bản chất của định nghĩa khái niệm
Định nghĩa khái niệm là thao tác logic kể ra nội hàm của khái niệm
hoặc xác lập ý nghĩa của các thuật ngữ (từ) biểu thị khái niệm.
Trong định nghĩa bao giờ cũng có hai thành phần: khái niệm cần phát
hiện nội hàm gọi là khái niệm được định nghĩa, khái niệm nhờ đó phát hiện
nội hàm của khái niệm được định nghĩa gọi là khái niệm để định nghĩa.
1.2.2. Các hình thức định nghĩa khái niệm phổ biến
1.2.2.1. Định nghĩa thông qua giống và khác biệt về loài
Một tập hợp đối tượng có dấu hiệu chung nào đó gọi là lớp (lớp cao
học, lớp nguyên tử, lớp đại lượng vật lí vô hướng,…). Đối tượng riêng biệt
nằm trong lớp gọi là phần tử của lớp. Có lớp hữu hạn (hệ Mặt Trời), lớp vô
hạn (nguyên tử) tùy thuộc vào lượng phần tử của lớp. Những nhóm khác
nhau tạo thành từ những phần tử của lớp theo các dấu hiệu riêng xác định gọi
là lớp con của lớp ấy (ví dụ lớp đại lượng vật lí véctơ, lớp đại lượng vật lí vô
hướng, hằng số vật lí là lớp con của lớp đại lượng vật lí; lớp lực hấp dẫn, lực
đàn hồi, lực hạt nhân, tương tác yếu là lớp con của lớp lực,…) Khái niệm có
ngoại diên được phân chia thành các lớp con gọi là khái niệm giống của các
khái niệm có ngoại diên là các lớp con đó.
Định nghĩa thông qua giống và khác biệt về loài là hình thức định
nghĩa dung phổ biến trong logic học, trong đó chỉ ra khái niệm giống gần gũi
chứa khái niệm được định nghĩa là loài của nó và dấu hiệu khác biệt để phân
biệt khái niệm loài cần định nghĩa với các khái niệm loài khác của khái niệm
giống ấy. Nó có thể được diễn tả bởi sơ đồ:

Khái niệm được Khái niệm giống


định nghĩa (Khái gần gũi Dấu hiệu về loài
niệm loài)
Cần lưu ý một loài có thể có giống gần gũi và giống xa. Như hình
vuông có giống gần gũi là hình chữ nhật và giống xa là hình bình hành, trọng
lực có giống gần gũi là lực và giống xa là lực đàn hồi, lực ma sát,…
Ví dụ về khái niệm được định nghĩa theo hình thức trên: Hình vuông là
hình chữ nhật có các cạnh bằng nhau; Trọng lực là lực hút vật của Trái
Đất;…
1.2.2.2. Định nghĩa bằng cách nêu toàn bộ nội hàm của khái niệm
Có khái niệm không cùng giống với bất kì một khái niệm nào tuy vẫn
có quan hệ với một số khái niệm khác. Do vậy, không thể phân chia chúng
theo giống và loài. Và để nhận biết nó, phải nêu toàn bộ nội hàm của khái
niệm. Ví dụ: “Cường độ điện trường E giữa hai bản tụ điện có quan hệ với
hiệu điện thế U và khoảng cách d giữa hai bản bởi biểu thức E = U/d”, “Gia
tốc a có quan hệ với độ biến thiên vận tốc ∆v và khoảng thời gian ∆t xảy ra
sự biến thiên ấy bởi biểu thức: a=∆v/ ∆t”,…
1.2.2.3. Định nghĩa duy danh
Định nghĩa duy danh là định nghĩa xác định thuật ngữ biểu thị đối
tượng, là định nghĩa trả lời cho câu hỏi: “Thuật ngữ ấy có nghĩa là gì?”. Ví
dụ: “Thói quen là hành động trong đó các thao tác riêng lẻ trở thành các thao
tác tự động do tập luyện thường xuyên”, “Trong hệ thức Anhxtanh giữa năng
lượng và khối lượng : E = mc² thì c là vận tốc ánh sang trong chân không”,…
1.2.2.4. Định nghĩa mô tả
Định nghĩa mô tả là hình thức định nghĩa làm rõ đối tượng bằng cách
liệt kê các ngoại diên của khái niệm. Ví dụ: “Người thừa kế là những người
có quan hệ hôn nhân hay huyết thống với chủ tài sản”, “Chất điểm là những
vật có kích thước rất nhỏ so với đoạn đường cần nghiên cứu hay so với
khoảng cách giữa nó với những vật xung quanh cần nghiên cứu”,…
1.2.3. Các quy tắc định nghĩa
Quy tắc 1. Định nghĩa phải cân đối, nghĩa là ngoại diên của khái niệm
được định nghĩa trùng với ngoại diên của khái niệm để định nghĩa.
Vi phạm quy tắc này sẽ dẫn đến sai lầm là định nghĩa quá rộng (Ngoại
diên của khái niệm được định nghĩa nhỏ hơn ngoại diên của khái niệm để
định nghĩa. Ví dụ: “Hình vuông là hình bình hành có các cạnh bằng nhau”,
“Mạch LC là mạch điện gồm cuộn dây có điện trở nhỏ không đáng kể và tụ
điện”) hoặc định nghĩa quá hẹp (Ngoại diên của khái niệm được định nghĩa
lớn hơn ngoại diên của khái niệm để định nghĩa. Ví dụ: “Hình bình hành là tứ
giác phẳng có các cạnh bằng nhau”, “Gương cầu là một phần của mặt cầu
phản xạ được ánh sáng và mặt phản xạ quay về phía tâm của mặt cầu”).
Quy tắc 2. Định nghĩa không được luẩn quẩn, nghĩa là khái niệm để
định nghĩa lại được giải thích qua các khái niệm được định nghĩa.
Vi phạm quy tắc này dẫn đến sự trùng lặp trong định nghĩa: Ví dụ:
Quang học là “phần vật lí học nghiên cứu bản chất của ánh sáng”, còn “phần
vật lí học nghiên cứu bản chất của ánh sáng” là Quang học; lực hướng tâm là
“lực gây ra gia tốc hướng tâm”, còn “gia tốc hướng tâm” được hiểu là gia
tốc do lực hướng tâm gây ra.
Quy tắc 3. Định nghĩa không được phủ định, vì nó không vạch ra nội
hàm của khái niệm nên không thể phát hiện bản chất của đối tượng. Ví dụ:
Gương cầu là gương có mặt phản xạ không phải là mặt phẳng; Dao động tắt
dần là dao động không được diễn tả bởi hàm sin hay cosin;…
Quy tắc 4. Định nghĩa phải rõ ràng, chính xác, ngắn gọn.
Để định nghĩa giúp hiểu khái niệm cần định nghĩa, phải diễn đạt định
nghĩa bằng các từ (thuật ngữ) rõ ràng, chính xác. Trong định nghĩa, không
được dùng các hình tượng nghệ thuật, hình ảnh văn học, như “Có ai định
nghĩa được chữ yêu? Có khó gì đâu một buổi chiều. Gặp người con gái ngây
thơ ấy. Rồi mến, rồi thương, thế rồi yêu”, “Tuổi trẻ là mùa xuân của cuộc
đời”,…
Yêu cầu “ngắn gọn” khi định nghĩa không có nghĩa là nói đến số lượng
từ ngữ mà nói đến hình thức diễn đạt. Trong định nghĩa không chứa các dấu
hiệu suy ra từ dấu hiệu khác. Như trong định nghĩa “Động năng là năng
lượng của vật do chuyển động mà có và có khả năng sinh công” thì dấu hiệu
“có khả năng sinh công” đã được suy ra từ dấu hiệu “năng lượng”. Hay định
nghĩa “Lực là đại lượng vật lí véctơ đặc trưng cho tác dụng của vật này vào
vật khác, được đo bằng tích số giữa khối lượng của vật và gia tốc mà vật
nhận được dưới tác dụng của lực ấy, có đơn vị trong hệ SI là Niu-tơn (N)” thì
dấu hiệu sau cùng suy ra từ biểu thức của lực: F = ma.
2. Suy luận
2.1. Định nghĩa và các loại suy luận
Khi nhận thức thế giới khách quan, con người phát hiện các mối liên hệ
giữa các đối tượng và các thuộc tính của chúng, thiết lập quan hệ giữa các đối
tượng. Các mối liên hệ, quan hệ ấy được phản ánh vào tư duy dưới hình thức
phán đoán. Phán đoán là hình thức của tư duy nhờ kết hợp các khái niệm mà
có thể khẳng định hay phủ định về sự tồn tại của đối tượng nào đó, về mối liên
hệ giữa các đối tượng với dấu hiệu của nó hay về mối quan hệ giữa các đối
tượng. Phán đoán, cũng giống
như khái niệm, có thể chân thực hoặc giả dối tùy theo sự phản ánh đúng hay sai
hiện thực khách quan.
Con người không những biết kết hợp các khái niệm để xây dựng phán
đoán, mà còn sử dụng các phán đoán để rút ra phán đoán mới. Hình thức này
của tư duy được gọi là suy luận, được sử dụng để phát hiện hầu hết các luận
điểm khoa học. Suy luận là hình thức của tư duy, nhờ đó rút ra phán đoán
mới từ một hay nhiều phán đoán theo các quy tắc logic xác định.
Mỗi suy luận bao gồm tiền đề, kết luận và lập luận. Tiền đề (phán đoán
xuất phát) là phán đoán từ đó rút ra phán đoán mới; Kết luận là phán đoán
mới rút ra bằng con đường logic từ các tiền đề; Lập luận là cách thức logic rút
ra kết luận từ các tiền đề.
Trong tiếng Việt, phán đoán đứng trước các từ “nên”, “cho nên”, “do
đó”, “vì vậy”, “suy ra”,… và đứng sau các từ “vì”, “bởi vì”,… là tiền đề;
Ngược lại, phán đoán đứng sau các từ “nên”, “cho nên”, “do đó”, “vì vậy”,
“suy ra”,… và đứng trước các từ “vì”, “bởi vì”,… là kết luận.
Căn cứ vào cách thức lập luận, suy luận được chia thành suy luận suy
diễn (suy diễn, diễn dịch), suy luận quy nạp (quy nạp).
Suy diễn là suy luận trong đó lập luận đi từ cái chung đến cái riêng. Nó
bao gồm suy diễn trực tiếp và suy diễn gián tiếp.
Suy diễn trực tiếp là suy diễn mà kết luận được suy ra từ hai hoặc nhiều
phán đoán có mối liên hệ logic với nhau. Nó gồm luận ba đoạn (trường hợp
riêng là luận ba đoạn rút gọn hay luận hai đoạn), luận ba đoạn phức (luận
nhiều đoạn).
Quy nạp là suy luận trong đó lập luận đi từ cái riêng đến cái chung hay
kết luận là tri thức chung được khái quát từ các tri thức ít chung hơn. Nó bao
gồm quy nạp hoàn toàn, quy nạp không hoàn toàn (lại chia làm quy nạp phổ
thông, quy nạp khoa học).
Quy nạp hoàn toàn là quy nạp trong đó kết luận chung về lớp đối tượng
nào đó được rút ra trên cơ sở nghiên cứu tất cả các đối tượng của lớp đó.
Quy nạp không hoàn toàn là quy nạp trong đó kết luận chung về lớp đối
tượng nào đó được rút ra trên cơ sở nghiên cứu một số đối tượng của lớp ấy.
Quy nạp phổ thông (quy nạp thông qua liệt kê đơn giản) là sự khái
quát, trong đó nhờ liệt kê dấu hiệu lặp lại ở một số đối tượng của một lớp nào
đó đi đến kết luận dấu hiệu ấy có trong toàn bộ các đối tượng của lớp đó.
Quy nạp khoa học là quy nạp trong đó kết luận về toàn bộ lớp đối
tượng được rút ra trên cơ sở dấu hiệu bản chất tất yếu hay mối liên hệ tất yếu
là các dấu hiệu chung, vốn có quy định sự tồn tại của tất cả các đối tượng
trong một lớp xác định.
2.2. Luận ba đoạn (luận ba đoạn nhất quyết đơn)
2.2.1. Định nghĩa và cấu trúc
Luận ba đoạn là suy diễn trong đó kết luận được rút ra từ hai tiền đề.
Hai tiền đề và kết luận đều là phán đoán nhất quyết hay phán đoán đặc tính (là
phán đoán biểu thị dấu hiệu thuộc hay không thuộc về đối tượng).
Xét ví dụ về luận ba đoạn:
Kim loại dẫn điện (1)
Đồng là kim loại (2)
Do đó, đồng dẫn điện (3)
Hai phán đoán (1),(2) - tiền đề, phán đoán (3) – kết luận. Các khái
niệm nằm trong các tiền đề và kết luận gọi là các thuật ngữ. Khái niệm là
chủ ngữ của kết luận gọi là thuật ngữ nhỏ, kí hiệu S (Nguyên âm đầu của
từ Latinh: Subjectum – chủ thể). Khái niệm là vị ngữ của kết luận gọi là
thuật ngữ lớn, kí hiệu P (Nguyên âm đầu của từ Latinh: Praedicatum – sự
hiểu biết về cái gì đó). Cả S, P được gọi chung là thuật ngữ bên. Mỗi thuật
ngữ bên không những nằm trong kết luận, còn nằm trong mỗi tiền đề. (1)
chứa P – tiền đề lớn, (2) chứa S – tiền đề nhỏ.
Ngoài hai thuật ngữ bên, còn có thuật ngữ thứ ba có trong hai tiền đề,
nhưng không có trong kết luận gọi là thuật ngữ giữa, kí hiệu M (Nguyên âm
đầu của từ Latinh: Medium – giữa). M là hạt nhân liên kết các thuật ngữ bên.
Sử dụng các kí hiệu, luận ba đoạn được biểu thị bằng sơ đồ:
M–P S-M
S–M hay M-P
---------- ----------
S–P S–P
Trong tiếng Việt, luận ba đoạn có thể được diễn đạt theo ba dạng: Tiền
đề -Tiền đề - Kết luận; Tiền đề - Kết luận - Tiền đề; Kết luận - Tiền đề - Tiền
đề. Dạng thông dụng là Tiền đề lớn - Tiền đề nhỏ - Kết luận.

2.2.2. Các quy tắc chung của luận ba đoạn


Để rút ra kết luận đúng từ luận ba đoạn, không chỉ các tiền đề phải chân
thực mà suy luận phải tuân theo các quy tắc của nó. Các quy tắc của luận ba
đoạn gồm ba quy tắc của các thuật ngữ, bốn quy tắc của tiền đề.
2.2.2.1. Ba quy tắc của thuật ngữ
Quy tắc 1. Trong mỗi luận ba đoạn chỉ cần có ba thuật ngữ.
Suy luận trong luận ba đoạn dựa vào quan hệ giữa hai thuật ngữ bên và
thuật ngữ giữa. Do vậy, luận ba đoạn không thể có ít hơn hoặc nhiều hơn ba
thuật ngữ. Nếu chỉ có hai thuật ngữ thì đó là một phán đoán. Còn nếu có tới
bốn thuật ngữ thì phạm sai lầm gọi là “gấp bốn thuật ngữ”, do đồng nhất hai
khái niệm khác nhau làm thuật ngữ giữa. Ví dụ:
Lực mà vật do bị Trái Đất hút ép lên giá đỡ hoặc kéo căng dây treo
được gọi là trọng lượng.
Tiếng nói có trọng lượng .
Vậy, tiếng nói là lực…
Quy tắc 2. Thuật ngữ giữa phải chu diên ít nhất ở một trong hai tiền đề.
Thuật ngữ là chu diên nếu nó nói tới toàn bộ ngoại diên. Và là không
chu diên, nếu nói đến một phần ngoại diên. Nếu thuật ngữ giữa không chu
diên trong cả hai tiền đề thì nó không thể là hạt nhân liên kết hai thuật ngữ
bên với nhau và kết luận không thể chính xác. Ví dụ:
Có loại sóng cơ là sóng nước.
Sóng âm thuộc loại sóng cơ.
Không thể kết luận sóng âm là sóng nước. Ở đây thuật ngữ giữa “sóng
cơ” không chu diên trong cả hai tiền đề, nên mối liên hệ giữa các thuật ngữ
bên “sóng nước” và “sóng âm” trở thành không xác định và kết luận cũng
vậy.
Ngoài kết luận trên, còn có thể kết luận: Một số sóng âm là sóng nước;
Không có sóng âm nào là sóng nước.
Quy tắc 3. Thuật ngữ không chu diên trong tiền đề thì không thể chu diên
trong kết luận.
Ví dụ:
Một số hạt cơ bản mang điện.
Nơ-trôn không mang điện.
Nên, nơ-trôn không phải là hạt cơ bản.
Thuật ngữ lớn là “hạt cơ bản” không chu diên trong tiền đề, nhưng lại chu
diên trong kết luận, vì vậy, kết luận không chân thực. Cũng cần lưu ý rằng, nếu
thuật ngữ chu diên trong tiền đề thì ở kết luận nó có thể chu diên hoặc không chu
diên.
2.2.2.2. Bốn quy tắc của tiền đề
Quy tắc 4. Từ hai tiền đề phủ định không thể rút ra kết luận.
Ví dụ:
Một số dao động không phải là dao động điều hòa.
Không dao động nào trong môi trường có sức cản là dao động điều hòa.
Vậy,…
Không thể rút ra kết luận. Vì cả ba thuật ngữ loại trừ hoàn toàn nhau về
mặt ngoại diên, nên thuật ngữ giữa “dao động điều hòa” không thiết lập được
mối liên hệ giữa các thuật ngữ bên.
Quy tắc 5. Từ hai phán đoán riêng ở tiền đề không thể rút ra kết luận.
Ví dụ:
Vận tốc không phải là đại lượng đặc trưng cho chuyển động về mặt động
lực học.
Động lượng là đại lượng đặc trưng cho chuyển động về mặt động lực
học.
Do đó,…
Quy tắc 6. Nếu một tiền đề là phán đoán phủ định thì kết luận phải là phán
đoán phủ định.
Ví dụ:
Lực không phải là đại lượng vô hướng.
Lực ma sát là một loại lực.
Cho nên, lực ma sát không phải là đại lượng vô hướng.
Quy tắc 7. Nếu một tiền đề là phán đoán riêng thì kết luận phải là phán đoán
riêng.
Ví dụ:
Sóng điện từ là sóng ngang.
Sóng ánh sáng thuộc loại sóng điện từ.
Bởi vậy, sóng ánh sáng là sóng ngang.
2.2.3. Các loại hình của luận ba đoạn và các quy tắc tương ứng
Dựa vào vị trí của thuật ngữ giữa M là chủ ngữ hay vị ngữ trong các
tiền đề, luận ba đoạn được chia thành bốn dạng khác nhau, gọi là các loại
hình:

(I) (II) (III) (IV)


Mỗi loại hình lại tuân theo các quy tắc riêng:
- Loại hình I (M là chủ ngữ trong tiền đề lớn và vị ngữ trong tiền đề
nhỏ): Tiền đề lớn là phán đoán chung, tiền đề nhỏ là phán đoán khẳng định.
Ví dụ:
Động cơ điện là thiết bị biến đổi điện năng thành cơ năng.
Động cơ không đồng bộ ba pha là động cơ điện.
.Vì thế, động cơ không đồng bộ bap ha là thiết bị biến đổi điện năng thành cơ
năng.
- Loại hình II (M là vị ngữ trong cả hai tiền đề): Tiền đề lớn là phán
đoán chung, một trong hai tiền đề là phán đoán phủ định. Ví dụ:
Chất rắn đa tinh thể có tính đẳng hướng
Thạch anh là chất rắn không có tính đẳng hướng.
Nên, thạch anh là chất rắn đa tinh thể.
Phóng xạ không phải là phản ứng hạt nhân thu năng lượng.
84Po α + 20682Pb là phóng xạ.
210

Vậy, 21084Po α + 20682Pb không phải là phản ứng hạt nhân thu năng lượng.
- Loại hình III (M là chủ ngữ trong cả hai tiền đề): Tiền đề nhỏ là phán
đoán khẳng định, kết luận là phán đoán riêng. Ví dụ:
Kẽm là kim loại.
Kẽm là chất dẫn điện.
Vậy, có chất dẫn điện là kim loại.
- Loại hình IV (M là vị ngữ trong tiền đề lớn và là chủ ngữ trong tiền đề
nhỏ): Nếu một tiền đề là phán đoán phủ định thì tiền đề lớn là phán đoán
chung.
Nếu tiền đề lớn là phán đoán khẳng định thì tiền đề nhỏ là phán đoán chung.
Nếu tiền đề nhỏ là phán đoán khẳng định thì kết luận là phán đoán riêng. Ví
dụ:
Kẽm là kim loại
Tất cả kim loại đều dẫn điện.
Do đó, có chất dẫn điện là kẽm.
Lưu ý rằng trong thực tế, loại hình III và IV ít được sử dụng. Người ta
thường đưa loại hình IV về loại hình I bằng cách biến đổi tiền đề theo suy
luận trực tiếp. Ví dụ đưa luận ba đoạn trên về loại hình I:
Một trong số kim loại là kẽm.
Có chất dẫn điện là kẽm.
Bởi vậy, tất cả kim loại đều dẫn điện.
3. Các quy luật cơ bản của lôgic hình thức
Quy luật của lôgic học là phán đoán phản ánh khái quát mối liên hệ có
tính quy luật giữa các thành phần tư tưởng hay giữa các tư tưởng với nhau. Vì
thế, để đạt tới chân lí, con người buộc phải tuân theo các quy luật logic trong
quá trình tư duy.
3.1. Quy luật đồng nhất
Trong quá trình lập luận, mọi tư tưởng phải đồng nhất với chính nó.
Hay trong suốt quá trình tư duy, không được thay đổi nội hàm và ngoại diên
của khái niệm, không được thay đổi đối tượng tư duy.
Trong một đề tài khoa học, đối tượng nghiên cứu phải được giữ vững
trong suốt quá trình. Có vậy mới đạt được mục đích đã đề ra. Tuy nhiên, cần
lưu ý là luật này chỉ mới phản ánh tính ổn định tương đối về chất mà chưa
phản ánh sự vận động, phát triển của sự vật.
3.2. Quy luật mâu thuẫn (không mâu thuẫn)
Nếu có hai phán đoán mâu thuẫn nhau thì chúng không thể cùng chân
thực, một trong hai phán đoán là giả dối.
Cần lưu ý luật này không chỉ rõ phán đoán nào là giả dối, phán đoán
nào là chân thực. Để làm rõ việc đó, phải nghiên cứu cụ thể và dùng thực tiễn
kiểm tra. Có hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan
trong bản thân sự vật (như mầm/ vỏ hạt, khả năng/ nguyện vọng, đổi mới/ bảo
thủ,…) và được phản ánh trong tư duy, nhận thức; Mâu thuẫn lôgic là hậu quả
của sai lầm trong từ duy làm cho tư duy phản ánh sai lệch hiện thực, làm cho
nhận thức khó tiến dần đến chân lí.
3.3. Quy luật bài trung (loại trừ cái thứ ba)
Hai phán đoán mâu thuẫn nhau thì chúng không thể cùng giả dối, một
trong hai phán đoán phải chân thực.
Luật này được xem như làm rõ hơn yêu cầu về tính xác định, không
mâu thuẫn, tính liên tục, nhất quán của tư duy hay làm rõ hơn luật mâu thuẫn.
Nó nêu ra cách lựa chọn một trong hai phán đoán mâu thuẫn là chân thực một
cách chắc chắn. Song nó lại không chỉ rõ và không có khả năng chỉ rõ phán
đoán nào trong hai phán đoán là chân thực.
Tất cả các cặp phán đoán mâu thuẫn nhau tuân theo luật bài trung thì
cũng tuân theo luật mâu thuẫn, nhưng nếu chúng tuân theo luật mâu thuẫn thì
không nhất thiết tuân theo luật bài trung. Ví dụ cặp phán đoán mâu thuẫn
nhau: “Tất cả các hành tinh đều có vệ tinh/ Không một hành tinh có vệ tinh”
đều cùng giả dối, tuân theo quy luật mâu thuẫn (không cùng chân thực) nhưng
không tuân theo luật bài trung (cùng giả dối chứ không phải một trong hai
phán đoán là chân thực).
3.4. Quy luật lí do đầy đủ
Mỗi tư tưởng được thừa nhận là chân thực, nếu nó có lí do đầy đủ từ
các tư tưởng chân thực khác. Hay để rút ra một kết luận khoa học, thì quá
trình suy luận phải dựa vào các căn cứ cần và đủ một cách xác đáng.
Khi chứng minh tính chân thực của tư tưởng về đối tượng nào đó nhờ
các tư tưởng chân thực khác, cần dựa vào mối liên hệ tất yếu, bên trong bản
chất giữa các đối tượng.
Việc tuân theo các yêu cầu của bốn quy luật cơ bản của tư duy logic nói
trên là điều kiện cần để nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan. Không một
tư tưởng nào là đúng đắn, nếu vi phạm dù chỉ một trong các yêu cầu của các
quy luật ấy. Đồng thời, bất kể một lập luận nào vi phạm một trong các yêu
cầu của chúng đều bị bác bỏ.

You might also like