Professional Documents
Culture Documents
Do quy luật này, hàng loạt những tiêu chí trong sản xuất đã thay đổi:
1) Thời gian đổi mới công nghệ sản xuất rút ngắn. Nếu trước đây một thế
hệ máy tồn tại từ 10-12 năm, thì nay còn 2-3 năm thậm chí còn ngắn hơn.
2) Sản phẩm hàng hóa thường xuyên cải tiến mẫu mã và chất lượng ngày
càng được nâng cao. Các sản phẩm mới xuất hiện liên tục trên thị trường.
3) Cơ cấu giá thành sản phẩm hàng hóa thay đổi, từ chỗ chủ yếu do
nguyên vật liệu và sức lao động giản đơn tạo ra thì đến nay, có những mặt
hàng tỉ trọng chất xám chiếm đến trên 60%.
4) Sản xuất hàng hóa chú trọng đến người tiêu dùng, đặc biệt phục vụ cho
nhu cầu thẩm mĩ cá nhân.
1.4. Phân loại khoa học
1.4.1.Mục đích
- Phân định rõ vị trí từng lĩnh vực, ngành, bộ môn khoa học.
- Xác định phương hướng phát triển các lĩnh vực khoa học trọng tâm,
mũi nhọn, chiến lược.
- Xây dựng quy hoạch đào tạo, bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ khoa
học kĩ thuật của quốc gia.
- Sắp xếp hệ thống các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học thuận lợi,
hợp lí cho việc nghiên cứu, ứng dụng và quản lí hoạt động đó.
1.4.2. Bản chất của phân loại khoa học là sắp xếp các bộ môn khoa học
thành một hệ thống thứ bậc theo những dấu hiệu đặc trưng, bản chất của
chúng.
1.4.3. Hai nguyên tắc cơ bản
Việc phân loại khoa học dựa vào hai nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc khách quan: Mỗi lĩnh vực khoa học phản ánh một hình
thức vận động của vật chất. Tất cả các khoa học phản ánh toàn bộ các hình
thức vận động của thế giới trong mối quan hệ biện chứng của chúng và tuân
theo một trình tự nhất định. Việc phân loại khoa học phải dựa vào đối tượng
mà nó nghiên cứu.
- Nguyên tắc phối thuộc:
Các khoa học được phân loại và sắp xếp liên tiếp theo một bậc thang
phù hợp với trật tự phát triển của thế giới vật chất, với nhận thức của loài
người. Tri thức có sau xuất phát từ tri thức có trước như một yếu tố tất yếu.
Theo nguyên tắc này, sự phân loại khoa học phải vừa chú ý tới quy luật
phát triển của vật chất, vừa chú ý tới tính kế thừa biện chứng của sự phát triển
khoa học.
1.4.4. Phân loại khoa học
Trong lịch sử phát triển khoa học, sự phân loại khoa học đã được đề cập
từ rất lâu. Arixtôt (384-322 trước CN) là người đầu tiên đề cập đến sự phân
loại khoa học. Ông chia khoa học thành khoa học lí thuyết (được tiến hành “vì
bản thân nó”), khoa học thực hành (hướng dẫn cách cư xử cho con người),
khoa học sáng tạo (tìm ra cái có ích, cái đẹp như nghệ thuật).
Êpiquya (341-270 trước CN) chia khoa học thành Vật lí học (học thuyết
về tự nhiên), Lôgic học (học thuyết về cách nhận thức), Đạo đức học (học
thuyết về cách đạt tới hạnh phúc con người).
Ở thời trung cổ, khoa học được phân thành Thần học, Lôgic học và Ngữ
pháp; còn khoa học tự nhiên chỉ đóng vai trò phụ thuộc vào chúng.
F.Bêcơn – nhà triết học Anh (1561-1620) chia khoa học theo hoạt động
tinh thần, thành Lịch sử, Thơ ca, Triết học.
Xanh-Ximông ( 1760-1825) coi khoa học thành một chỉnh thể, chia khoa
học tự nhiên thành Vật lí hữu cơ, Vật lí vô cơ và coi khoa học xã hội là một bộ
phận của khoa học tự nhiên gọi là Vật lí xã hội.
Hêghen (1770-1831) trên lập trường của phép biện chứng duy tâm chia
khoa học tự nhiên thành Cơ học (nghiên cứu sự vận động của khối lượng),
Hóa học (nghiên cứu sự vận động của các nguyên tử, phân tử) và Cơ thể học
(nghiên cứu sự vận động thống nhất cao hơn, bao gồm và gắn liền cả Cơ học,
Hóa học).
Việc trình bày trên cho thấy các nhà khoa học xưa đã thấy cần thiết phải
phân loại khoa học, nhưng vẫn chưa tìm ra cách phân loại hợp lí. C.Mác
(1818-1883) và F.Angghen (1820-1895) là những người đầu tiên phân loại
khoa học dựa trên các cơ sở thực sự, cho rằng: Mỗi khoa học phản ánh một
hình thức vận động của vật chất. Phân loại khoa học là sự phân chia các hình
thức vận động của vật chất phù hợp với tính nhất quán, bản chất bên trong
của chúng. Mối liên hệ, chuyển hóa giữa các khoa học phản ánh sự chuyển
hóa, phát triển các hình thức vận động của thế giới.
Theo tinh thần ấy và dựa vào hai nguyên tắc (khách quan, phối thuộc), có
một số cách phân loại khoa học. Mỗi cách có đặc điểm riêng và được sử dụng
tùy theo mục đích tổ chức nghiên cứu, ứng dụng hay quản lí khoa học. Trong
số đó có cách phân loại của UNESCO (Tổ chức giáo dục, khoa học, và văn
hóa của Liên hợp quốc), chia khoa học thành 5 lĩnh vực:
1) Khoa học tự nhiên và khoa học chính xác.
2) Khoa học kĩ thuật.
3) Khoa học nông nghiệp.
4) Khoa học về sức khỏe.
5) Khoa học xã hội và nhân văn.
2. Công nghệ (công nghệ sản xuất)
2.1. Khái niệm kĩ thuật, công nghệ, công nghệ cao
Sự phát triển của khoa học kéo theo sự phát triển về kĩ thuật và công nghệ
sản xuất, làm tăng sức sản xuất lên gấp bội.
Thuật ngữ “Kĩ thuật”, trong ngày đầu công nghiệp hóa, được hiểu là các
giải pháp thực hiện một loại công việc hay công cụ được sử dụng trong sản
xuất làm tăng hiệu quả sản xuất.
Thuật ngữ “Công nghệ” ( hay “công nghệ sản xuất”) lúc đầu hiểu là quy
trình kĩ thuật dùng trong dây chuyền sản xuất, về sau được hiểu theo nghĩa
rộng hơn. Đến nay, theo định nghĩa của Trung tâm chuyển giao công nghệ
Châu Á và Thái Bình Dương, công nghệ là tất cả những gì liên quan đến việc
biến đổi tài nguyên ở đầu vào thành hàng hóa ở đầu ra của quá trình sản xuất,
gồm:
- Hệ thống máy móc, thiết bị của dây chuyền sản xuất (phần kĩ thuật,
phần cứng).
- Thông tin về quá trình sản xuất hay các bí quyết kĩ thuật cho một hệ
sản xuất (phần thông tin, phần mềm).
- Trình độ tay nghề của người trực tiếp sản xuất (phần con người).
- Trình độ tổ chức quản lí, điều hành sản xuất của Ban quản lí xí nghiệp,
công ty (phần tổ chức).
Về bản chất, công nghệ là kết quả của quá trình áp dụng các thành tựu
khoa học vào sản xuất, là sản phẩm lao động trí tuệ sáng tạo của con người
trong sản xuất.
Khái niệm công nghệ được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực của
cuộc sống con người, không chỉ trong sản xuất vật chất mà cả trong các hoạt
động xã hội (công nghệ thông tin, công nghệ giáo dục, công nghệ quản lí,…).
Tuy vậy, công nghệ luôn gắn liền với công nghiệp. Chúng là hai mặt của một
thực thể thống nhất: Công nghệ là nền tảng của công nghiệp; Công nghiệp là
phương thức chuyển tải công nghệ vào cuộc sống. Trong nền công nghiệp hiện
đại, một phần lao động cơ bắp và trí tuệ do máy móc đảm nhiệm, do vậy xuất
hiện thuật ngữ công nghệ cao.
Khái niệm công nghệ cao nói về một nền sản xuất ở trình độ tinh xảo
nhất với các đặc điểm:
- Hệ thống thiết bị được thiết kế tự động hóa hoàn toàn, máy móc có kết
cấu phức tạp nhưng vận hành đơn giản.
- Bí quyết của quy trình sản xuất được bảo mật hết sức tinh vi.
- Thiết bị sản xuất tiêu thụ rất ít năng lượng, nguyên vật liệu sản xuất sử
dụng rất tiết kiệm và nguyên liệu tái tạo được sử dụng nhiều lần.
- Năng suất lao động cao, chất lượng hàng hóa tốt.
- Nhà máy được thiết kế khép kín, phế thải được tinh lọc, không gây ô
nhiễm môi trường.
- Hàm lượng trí tuệ chất xám trong giá thành sản phẩm công nghệ ngày
càng cao. Nếu trước đây, hiệu quả kinh tế dựa chủ yếu vào vốn đầu tư, sức lao
động nặng nhọc chiếm tới 60-70% cơ cấu giá thành, thì ngày nay chất xám
chiếm tới 70-75% cơ cấu ấy.
2.2. Chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, thông qua
dịch vụ thương mại có tổ chức.
Chuyển giao công nghệ chú trọng đến hai phần kĩ thuật, thông tin một
cách đồng bộ. Phần đầu được chuyển giao bằng dịch vụ thương mại thông
thường, phần sau được chuyển giao bằng những thỏa thuận của cả hai bên
chuyển giao và tiếp nhận.
Chuyển giao công nghệ được thực hiện bởi hai nguồn:
- Chuyển giao dọc là chuyển giao từ nơi phát minh (nội dung công nghệ
hoàn toàn mới) đến các xí nghiệp ứng dụng sản xuất. Đây là con đường ngắn
nhất của chu trình nghiên cứu - ứng dụng, nhưng chứa nhiều yếu tố mạo hiểm
vì công nghệ mới chưa được thử thách.
- Chuyển giao ngang là chuyển giao từ cơ sở sản xuất có trình độ công
nghệ cao đến cơ sở sản xuất còn yếu kém. Con đường này ít mạo hiểm nhưng
bên mua thường bị thua thiệt, vì trong thị trường cạnh tranh không một xí
nghiệp nào lại bán bí quyết mới nhất cho đối thủ cạnh tranh.
3. Nghiên cứu khoa học
3.1. Khái niệm nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm
nhận thức thế giới, tạo ra một hệ thống tri thức có giá trị nhằm cải tạo thế
giới.
Quá trình nghiên cứu khoa học diễn ra rất phức tạp, luôn phải giải quyết
những mâu thuẫn xuất hiện liên tục giữa các xu hướng, trường phái, giả
thuyết, dự đoán lí thuyết khác nhau. Bởi vậy khoa học là cuộc cách mạng hiểu
theo ý nghĩa cái nào mang lại lợi ích cho con người là cái chiến thắng. Đồng
thời, nghiên cứu khoa học chứa đựng những yếu tố mạo hiểm, vì nó không
phải lúc nào cũng thành công. Nó là hoạt động khó hạch toán kinh tế (như về
chi phí vật tư, công sức và chi phí vô hình do trang thiết bị kĩ thuật lạc hậu,
…).
3.2. Các loại hình nghiên cứu khoa học
Việc phân chia các loại hình nghiên cứu khoa học dựa vào các trình độ
nhận thức. Lịch sử phát triển cho thấy loài người đã trải qua ba trình độ nhận
thức: mô tả, giải thích, phát hiện.
3.2.1. Trình độ nhận thức khoa học
3.2.1.1. Trình độ mô tả
Mô tả khoa học là trình bày lại những kết quả nghiên cứu một đối tượng
sao cho đối tượng ấy được thể hiện ở mức nguyên bản.
Tri thức mô tả là những tri thức thu nhận được qua quan sát, điều tra
được trình bày bằng hệ thống kí hiệu và là tài liệu cho việc giải thích khoa
học.
Tuy mô tả có thể cho hình ảnh đầy đủ về đối tượng nghiên cứu, nhưng
chưa xác lập được các mối liên hệ quy luật, bản chất của đối tượng.
3.2.1.2. Trình độ giải thích
Giải thích khoa học là trình bày tường minh bản chất của đối tượng
nghiên cứu, bằng cách chỉ ra đối tượng ấy tuân theo một phần hay toàn bộ các
quy luật phát triển chung của hiện thực.
Trình độ giải thích khoa học đã đi sâu vào bản chất sự kiện, bắt đầu tham
gia vào việc khám phá các quy luật vận động và phát triển của đối tượng nhận
thức. Tuy vậy, việc giải thích chính xác đến đâu còn phụ thuộc vào khả năng
người nghiên cứu, mức độ bộc lộ của đối tượng, tính khái quát và chân thực
của các quy luật chung của hiện thực đã biết từ trước, …
3.2.1.3. Trình độ phát hiện
Phát hiện khoa học đồng nghĩa với phát minh, sáng tạo ra chân lí mới
làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Trình độ phát hiện khoa học là trình độ chủ động khám phá bản chất các
quy luật vận động và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Tri thức phát hiện gồm các khái niệm, phạm trù, quy luật, thuyết, phương
pháp, quy trình công nghệ mới. Đó là những tri thức có giá trị đối với cả lí
luận và thực tiễn.
3.2.2. Các loại hình nghiên cứu khoa học
3.2.2.1. Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu cơ bản là các loại hình nghiên cứu có mục tiêu là khám phá
bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan. Đấy là loại
hình nghiên cứu phức tạp nhất vì phải do đội ngũ các nhà khoa học có năng
lực sáng tạo tiến hành, yêu cầu cao về trang thiết bị, chương trình nghiên cứu
lâu dài, chi phí lớn, mạo hiểm. Do vậy, chỉ có các quốc gia có tiềm lực khoa
học, kinh tế mạnh mới đủ khả năng để tổ chức loại hình này một cách rộng
rãi.
Cố hai loại hình nghiên cứu cơ bản:
- Nghiên cứu cơ bản thuần túy có mục tiêu khám phá những quy luật, lí
thuyết khoa học mới dù chưa có địa chỉ ứng dụng.
- Nghiên cứu cơ bản định hướng có mục tiêu tìm ra những kiến thức, giải
pháp mới theo yêu cầu của thực tiễn, đã có sẵn địa chỉ ứng dụng.
3.2.2.2. Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu ứng dụng là loại hình có mục tiêu tìm ra cách ứng dụng các
tri thức cơ bản để tạo ra những quy trình công nghệ, nguyên lí mới trong quản
lí kinh tế và xã hội. Nó làm cho khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của khoa học, sản xuất. Đây là con
đường giúp các nước phát triển nhanh chóng, bỏ qua giai đoạn nghiên cứu cơ
bản tốn kém, tiến kịp các nước có khoa học phát triển (điển hình là Nhật
Bản).
3.2.2.3. Nghiên cứu triển khai
Nghiên cứu triển khai là loại hình có mục tiêu tìm ra khả năng áp dụng
đại trà các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn, tạo ra các mô hình chế
biến thông tin khoa học thành các sản phẩm tinh thần hay vật chất. Nó làm
cho ý tưởng khoa học trở thành hiện thực, nối liền khoa học với đời sống, làm
tăng chất lượng đời sống con người.
Ở Việt Nam, loại hình này đang được tiến hành từng bước thận trọng:
Đầu tiên là thực nghiệm trong các phòng thí nghiệm, sau đó thí điểm ở các địa
bàn điển hình để thăm dò mọi khả năng ứng dụng vào thực tế.
3.2.2.4. Nghiên cứu dự báo
Nghiên cứu dự báo là loại hình có mục tiêu phát hiện những triển vọng,
khả năng, xu hướng mới của sự phát triển của khoa học và nhu cầu đời sống
xã hội. Cơ sở của nó là quy luật phát triển và tốc độ phát triển của khoa học
hiện đại, tiềm lực khoa học quốc gia và thế giới, nhu cầu và khả năng phát
triển của xã hội hiện đại.
Các dự báo gồm:
- Những thành tựu của khoa học kĩ thuật có thể đạt được trong tương lai
và những triển vọng của chúng.
- Những xu hướng, trường phái, chương trình khoa học mới và khả năng
phát triển của chúng.
- Những khả năng hình thành các tổ chức khoa học mới và triển vọng
của sự phát triển tiềm lực khoa học quốc gia, quốc tế.
Có ba cấp nghiên cứu dự báo:
- Cấp 1: Dự báo cho 15-20 năm.
- Cấp 2: Dự báo cho 40-50 năm.
- Cấp 3: Dự báo cho 100 năm (1 thế kỉ).
Sự chính xác của dự báo phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội và những
bí mật của thiên nhiên được phát hiện.
4. Cơ chế và kĩ năng sáng tạo khoa học
4.1. Cơ chế sáng tạo khoa học
Nghiên cứu là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, thường bắt đầu
từ việc xuất hiện ý tưởng, tiếp đến là tư duy và cuối cùng là phát minh. Vấn
đề là cơ chế sáng tạo khoa học trong hoạt động tư duy của các nhà khoa học
được nảy sinh và phát triển như thế nào? Việc phân tích quá trình phát minh
của các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới và tổng kết quá trình nghiên cứu
sáng tạo trong thực tế cho thấy có ba loại cơ chế sáng tạo khoa học sau:
4.1.1.Cơ chế trực giác
Việc bất ngờ xuất hiện một ý tưởng khoa học, một cách giải quyết vấn đề
mà phải mất nhiều thời gian chưa ra được gọi là trực giác (trực cảm).
Nhờ trực giác, con người khám phá nhiều phát minh vĩ đại. Như I.Niutơn
phát hiện định luật vạn vật hấp dẫn nhờ quan sát quả táo rơi, Ácsimét trong
bồn tắm khám phá công thức tính lực đẩy của nước đối với những vật nhúng
chìm trong đó,…Có nhiều cách giải thích hiện tượng này. Những người theo
chủ nghĩa duy tâm cho rằng tri giác là sự thành công của cảm hứng, là món
quà của “Thượng đế” và tất cả các phát minh khoa học đều do trực giác. Các
nhà khoa học duy vật cho rằng, món quà này là kết quả lao động không mệt
mỏi của con người, là bước nhảy vọt của tư duy đã giải phóng sự kìm hãm
của phương pháp cũ, xuất hiện năng lực trí tuệ đặc biệt và dẫn đến phát minh.
Trực giác là sản phảm của tài năng, là kết quả của sự tích lũy kiến thức,
sự say mê và kiên trì lao động. Không một phát minh nào nằm ngoài hoạt
động không mệt mỏi với một định hướng khoa học nghiêm túc.
4.1.2. Cơ chế algôrit
Algôrit sáng tạo (thuật toán) là bản ghi trật tự các bước tạo thành một
chuỗi thao tác lôgic hợp lí để giải quyết thành công bài toán sáng tạo, một loại
công việc.
Việc giải bài toán sáng tạo không thể được tiến hành bằng phép thử -sai
mà phải có kế hoạch. Việc sử dụng algôrit sáng tỏ để phá vỡ sức ì tâm lí với
lối tư duy truyền thống và tạo nên quá trình tưởng tượng mới có tính sáng tạo.
4.1.3. Cơ chế ơrixtic
Sáng tạo theo cơ chế ơrixtic là quá trình nghiên cứu khoa học được thực
hiện bằng việc đề xuất và chứng minh một giả thuyết khoa học về một sự
kiện, hiện tượng mới.
Giả thuyết khoa học là một dự đoán về bản chất đối tượng nghiên cứu, có
hai chức năng:
- Là một phương pháp nhận thức, là gợi ý chỉ dẫn con đường sáng tạo
giúp hiểu đúng bản chất và quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.
- Nếu giả thuyết được khẳng định là chân thực, nó trở thành một bộ phận
cấu thành của lí thuyết khoa học.
4.2. Kĩ năng nghiên cứu khoa học
Kĩ năng nghiên cứu khoa học là khả năng thực hiện thành công các đề tài
khoa học trên cơ sở nắm vững các quan điểm phương pháp luận, sử dụng
thành thạo phương pháp và kĩ thuật nghiên cứu.
Kĩ năng nghiên cứu khoa học bao gồm một hệ thống phức tạp các con
đường, cách thức nghiên cứu mà nhà khoa học phải thực hiện ở mức thành
thạo, có thể phân thành ba nhóm:
- Nắm vững lí luận khoa học và phương pháp nghiên cứu thể hiện bắt
đầu từ phát hiện đề tài, xây dựng giả thuyết, lập đề cương.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để tìm kiếm những thông
tin về đối tượng nghiên cứu.
- Sử dụng kĩ thuật nghiên cứu để thu thập, xử lí và trình bày thông tin khoa
học.
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tùy theo mục đích và đặc điểm từng chuyên ngành, từng đề tài khoa học
người ta sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nhằm khẳng định các kết quả
nghiên cứu. Sau đây, ta chỉ nghiên cứu các phương pháp chung nhất theo
trình độ nhận thức khoa học.
3. Hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học chung nhất
Theo trình độ nhận thức chung của loài người, phương pháp nghiên
cứu khoa học được chia làm ba nhóm: nghiên cứu thực tiễn, nghiên cứu lí
thuyết, phương pháp toán học. Trong hai nhóm đầu, lại có thể chia chúng
thành các phương pháp cụ thể. Cách phân chia ấy được diễn tả bởi sơ đồ sau:
Vậy, 21084Po α + 20682Pb không phải là phản ứng hạt nhân thu năng lượng.
- Loại hình III (M là chủ ngữ trong cả hai tiền đề): Tiền đề nhỏ là phán
đoán khẳng định, kết luận là phán đoán riêng. Ví dụ:
Kẽm là kim loại.
Kẽm là chất dẫn điện.
Vậy, có chất dẫn điện là kim loại.
- Loại hình IV (M là vị ngữ trong tiền đề lớn và là chủ ngữ trong tiền đề
nhỏ): Nếu một tiền đề là phán đoán phủ định thì tiền đề lớn là phán đoán
chung.
Nếu tiền đề lớn là phán đoán khẳng định thì tiền đề nhỏ là phán đoán chung.
Nếu tiền đề nhỏ là phán đoán khẳng định thì kết luận là phán đoán riêng. Ví
dụ:
Kẽm là kim loại
Tất cả kim loại đều dẫn điện.
Do đó, có chất dẫn điện là kẽm.
Lưu ý rằng trong thực tế, loại hình III và IV ít được sử dụng. Người ta
thường đưa loại hình IV về loại hình I bằng cách biến đổi tiền đề theo suy
luận trực tiếp. Ví dụ đưa luận ba đoạn trên về loại hình I:
Một trong số kim loại là kẽm.
Có chất dẫn điện là kẽm.
Bởi vậy, tất cả kim loại đều dẫn điện.
3. Các quy luật cơ bản của lôgic hình thức
Quy luật của lôgic học là phán đoán phản ánh khái quát mối liên hệ có
tính quy luật giữa các thành phần tư tưởng hay giữa các tư tưởng với nhau. Vì
thế, để đạt tới chân lí, con người buộc phải tuân theo các quy luật logic trong
quá trình tư duy.
3.1. Quy luật đồng nhất
Trong quá trình lập luận, mọi tư tưởng phải đồng nhất với chính nó.
Hay trong suốt quá trình tư duy, không được thay đổi nội hàm và ngoại diên
của khái niệm, không được thay đổi đối tượng tư duy.
Trong một đề tài khoa học, đối tượng nghiên cứu phải được giữ vững
trong suốt quá trình. Có vậy mới đạt được mục đích đã đề ra. Tuy nhiên, cần
lưu ý là luật này chỉ mới phản ánh tính ổn định tương đối về chất mà chưa
phản ánh sự vận động, phát triển của sự vật.
3.2. Quy luật mâu thuẫn (không mâu thuẫn)
Nếu có hai phán đoán mâu thuẫn nhau thì chúng không thể cùng chân
thực, một trong hai phán đoán là giả dối.
Cần lưu ý luật này không chỉ rõ phán đoán nào là giả dối, phán đoán
nào là chân thực. Để làm rõ việc đó, phải nghiên cứu cụ thể và dùng thực tiễn
kiểm tra. Có hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan
trong bản thân sự vật (như mầm/ vỏ hạt, khả năng/ nguyện vọng, đổi mới/ bảo
thủ,…) và được phản ánh trong tư duy, nhận thức; Mâu thuẫn lôgic là hậu quả
của sai lầm trong từ duy làm cho tư duy phản ánh sai lệch hiện thực, làm cho
nhận thức khó tiến dần đến chân lí.
3.3. Quy luật bài trung (loại trừ cái thứ ba)
Hai phán đoán mâu thuẫn nhau thì chúng không thể cùng giả dối, một
trong hai phán đoán phải chân thực.
Luật này được xem như làm rõ hơn yêu cầu về tính xác định, không
mâu thuẫn, tính liên tục, nhất quán của tư duy hay làm rõ hơn luật mâu thuẫn.
Nó nêu ra cách lựa chọn một trong hai phán đoán mâu thuẫn là chân thực một
cách chắc chắn. Song nó lại không chỉ rõ và không có khả năng chỉ rõ phán
đoán nào trong hai phán đoán là chân thực.
Tất cả các cặp phán đoán mâu thuẫn nhau tuân theo luật bài trung thì
cũng tuân theo luật mâu thuẫn, nhưng nếu chúng tuân theo luật mâu thuẫn thì
không nhất thiết tuân theo luật bài trung. Ví dụ cặp phán đoán mâu thuẫn
nhau: “Tất cả các hành tinh đều có vệ tinh/ Không một hành tinh có vệ tinh”
đều cùng giả dối, tuân theo quy luật mâu thuẫn (không cùng chân thực) nhưng
không tuân theo luật bài trung (cùng giả dối chứ không phải một trong hai
phán đoán là chân thực).
3.4. Quy luật lí do đầy đủ
Mỗi tư tưởng được thừa nhận là chân thực, nếu nó có lí do đầy đủ từ
các tư tưởng chân thực khác. Hay để rút ra một kết luận khoa học, thì quá
trình suy luận phải dựa vào các căn cứ cần và đủ một cách xác đáng.
Khi chứng minh tính chân thực của tư tưởng về đối tượng nào đó nhờ
các tư tưởng chân thực khác, cần dựa vào mối liên hệ tất yếu, bên trong bản
chất giữa các đối tượng.
Việc tuân theo các yêu cầu của bốn quy luật cơ bản của tư duy logic nói
trên là điều kiện cần để nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan. Không một
tư tưởng nào là đúng đắn, nếu vi phạm dù chỉ một trong các yêu cầu của các
quy luật ấy. Đồng thời, bất kể một lập luận nào vi phạm một trong các yêu
cầu của chúng đều bị bác bỏ.