You are on page 1of 37

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

Câu 1: Trình bày khái niệm triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học.
- Khái niệm
Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò
của con người trong thế giới ấy, là khoa học nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản
của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết
nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ. Triết học được
phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên,
đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó
vào tính duy lý trong lập luận.
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi trong chu trình lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử, do
điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển của khoa học tự nhiên, đối tượng nghiên cứu của
triết học có những nội dung cụ thể khác nhau, nhưng vẫn xoay quanh vấn đề quan hệ giữa
con người và thế giới khách quan bên ngoài, giữa tư duy và tồn tại.
Đối tượng nghiên cứu của triết học là: Tiếp tục giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy
và tồn tại, giữa ý thức và vật chất; nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy, từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người.
Câu 2: Trình bày những điều kiện kinh tế-xã hội và tiền đề dẫn đến sự ra đời của Triết
học Mác?
ĐIỀU KIỆN KINH TẾ-XÃ HỘI
Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và đã đạt được sự
phát triển mạnh mẽ của nó ở các nước Tây Âu, đặc biệt là tại các nước Anh, Pháp. Sự phát
triển đó, một mặt đã tạo ra được những thành tựu to lớn về nhiều mặt kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, mặt trái của nó là đã tự tạo ra những mâu thuẫn không thể giải quyết được trong phạm
vi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trung tâm của những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã hội
là mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp: giai cấp tư sản (làm chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã
hội) và giai cấp vô sản (giai cấp công nhân làm thuê). Mâu thuẫn đó được bộc lộ thành những
cuộc đấu tranh ngày càng phát triển của giai cấp công nhân tại nhiều nước tư bản, đặc biệt là
những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân làm thuê tại các nước Anh, Pháp và Đức. Sự
phát triển của các cuộc đấu tranh đó làm phát sinh nhu cầu cần có một lý luận cách mạng và
khoa học của nó. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là nhằm đáp ứng nhu cầu này. Đồng thời chính
thực tiễn phát triển của nó lại là một trong những điều kiện thực tiễn cho sự ra đời và phát
triển của chủ nghĩa Mác.
Tiền đề dẫn đến sự ra đời của Triết học Mác:
+Về tiền đề lý luận:
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là kết
quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ
điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở các nước Pháp và
Anh.
Đối với triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của G.W.Ph. Hêghen và L. Phoiơbắc đã
ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ
nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong phép biện chứng
của G.W.Ph. Hêghen, chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc. Đồng thời, các ông cũng khắc phục
những hạn chế cơ bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm trong triết học
G.W.Ph. Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của L. Phoiơbắc. Trên cơ sở đó
các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới, đó là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các ông đã vận dụng nó vào việc nghiên
cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội, đặc biệt là nghiên
cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của
chủ nghĩa xã hội.
Với kinh tế chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại biểu lớn của
nó (A. Smit và Đ. Ricác đồ), C. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa những quan điểm hợp lý khoa
học của những học thuyết này, đó là quan điểm duy vật trong nghiên cửu lĩnh vực khoa học
kinh tế chính trị và học thuyết giá trị về lao động. Đồng thời các ông cũng phê phán và khắc
phục tính chất chưa triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình
trong nghiên cứu của các nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng
thành công học thuyết về giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư Với chủ nghĩa xã hội
không tưởng ở các nước Anh và Pháp, đặc biệt là với những đại biểu lớn của nó là H.
Xanhximông S. Phuriê và R. Ôoen, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân
đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế của chủ
nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết
của họ, đó là tính chất không tưởng trong các học thuyết ấy; từ đó xây dựng nên một lý luận
mới - lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội. + Về tiền đề khoa học tự nhiên: Cho đến những
năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những bước phát triển mới, đem lại một số
quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó. Tiêu biểu cho những quan niệm mới này
là: khẳng định tính chất bảo toàn năng lượng trong quá trình biến đổi của vật chất trong giới
tự nhiên; khẳng định tính thống nhất về cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào; khẳng định
tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển các loài sinh vật trên trái đất. Những quan
niệm mới này đóng vai trò là những bằng chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các quan
điểm duy vật biện chứng về giới tự nhiên
Câu 3: Trình bày quan điểm của triết học Mác Lê-nin về vận động. Tại sao nói vận
động là phương thức tồn tại của vật chất?
Trình bày quan điểm của triết học Mác Lê-nin về vận động
- Khái niệm vận động: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động
không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian( hình thức vận động thấp, giản đơn
của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Ăngghen viết:
“Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của
vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động. Trong vận động và thông qua vận
động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Những khi chúng ta nhận
thức được hình thức vận động của vật chất thì chúng ra nhận thức được bản thân của
vật chất.
- Các hình thức vận động cơ bản của vật chất đã được nghiên cứu, khám phá bởi
khoa học.
Quan điểm về sự tự thân vận động của vật chất đã được chứng minh bởi những thành tựu
khoa học tự nhiên và càng ngày những phát kiến mớii của khoa học tự nhiên hiện đại càng
khẳng định quan điểm đó. Định luật chuyển hóa năng lượng bảo toàn trong vật lí đã khẳng
định: “vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi và vận động là thuộc tính
không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo
ra” mà trong triết học Mác-Lê nin đã nêu.Tổng kết các thành tựu khoa học nghiên cứu vê tự
nhiên và xã hội, Ph. Ăngghen đã khái quát 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất:
+ Vận động cơ giới, đó là hình thức vận động đơn giản nhất, bao gồm những sự biến đổi về
vị trí của các vật thể trong không gian. Nó là đối tượng nghiên cứu của cơ học.
+ Vận động vật lý, đó là những sự biến đổi của nhiệt, điện, từ trường, các hạt cơ bản,... Nó là
đối tượng nghiên cứu của vật lý học.
+ Vận động hoá, đó là những sự biến đổi của các chất vô cơ, hữu cơ trong các quá trình phản
ứng hoá hợp và phân giải của chúng.
+ Vận động sinh vật, đó là các quá trình biến đổi của các chất đặc trưng cho sự sống: sự lớn
lên của các cơ thể sống nhờ quá trình không ngừng trao đổi chất của cơ thể sống và môi
trường, sự biến đổi của cấu trúc gen, sự phát sinh các giống loài mới trong quá trình phát
triển của chúng,... Nó là đối tượng nghiên cứu của sinh vật học.
+ Vận động xã hội, đó là tất thảy các quá trình biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
đạo đức,... của đời sống xã hội loài người. Nó là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa
học xã hội, như: kinh tế học, chính trị học, đạo đức học,...
- Mối quan hệ giữa các hình thức nói trên: các hình thức vận động nói trên khác
nhau về chất. Từ vận động cơ học dến vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ
của sự vận động, những trình độ này tương ứng vơi trình độ của các kết cấu vật chất.
+ Mối quan hệ biện chứng giữa các hình thức vận động cơ bản của vật chất:
•Hình thức vận động thấp là cơ sở của các hình thức vận động cao hơn; giữa các hình
thức vận động có mối liên hệ chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau và chuyển hoá, từ đó làm xuất
hiện các hình thức vận động trung gian - đó là cơ sở khách quan làm xuất hiện những sự
nghiên cứu có tính chất liên ngành khoa học; mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khách quan có
thể bao gồm trong nó nhiều hình thức vận động cùng tồn tại, chi phối ảnh hưởng lẫn nhau,
nhưng thường có hình thức vận động đặc trưng của nó.
+ Mối quan hệ giữa vật chất và vận động:
•Theo quan điểm duy vật biện chứng: vận động là một phương thức tồn tại của vật
chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất. Theo quan niệm đó, không thể có vật chất không
vận động cũng như không thể có sự vận động nào tồn tại trừu tượng ngoài mỗi tồn tại vật
chất xác định. Mỗi sự vận động bao giờ cũng là sự vận động của một tồn tại vật chất xác
định. Như vậy cũng có thể nói, vận động là một thuộc tính vốn có (cố hữu) của vật; nó là
thuộc tính khách quan và phổ biến của mọi tồn tại vật chất.
+ Mối quan hệ giữa vận động và đứng im:
•Vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật
biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; nhưng đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng
tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận
động.
•Đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ
nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một
hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động; đứng im không
phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ là xét trong một
hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi
nhất định. => Đứng im là trạng thái đặc biệt của
vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi cơ bản về
chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
Tại sao nói vận động là phương thức tồn tại của vật chất?
- Theo phương pháp biện chứng: vật chất không tồn tại theo cách cô lập, riêng biệt như
phương pháp siêu hình mà tồn tại trong sự liên hệ, tác động qua lại và trong quá trình
vận động phát triển từ thấp đến cao. Vậy giả sử một dạng vật chất cô lập, riêng biệt,
tĩnh tại và không có tương tác với mọi vật chất xung quanh và không có quá trình phát
triển từ thấp đến cao thì vật chất ấy không tồn tại theo phương pháp biện chứng.
- Theo triết học Mác- Lê-nin vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất.
+ Vận động gắn liền với vật chất, ở đâu có vận động thì ở đó có vật chất. Chỉ khi nào
vật chất mất đi thì vận động mới mất đi. Nhưng vật chất không tự nhiên sinh ra, không tự
nhiên mất đi, vì vậy vận động cũng không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi mà tồn tại
vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, điều này đã được định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
chứng minh.
+ Nguồn gốc của sự vận động nằm trong chính bản thân của sự vật, là sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập, vì vậy vận động là tự thân và tuyệt đối.
1. Vậy có thể nói vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Tức ở đâu có vật chất thì
ở đó có sự vận động và tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động biểu hiện
sự tồn tại của mình qua nhiều hình thức vận động khác nhau( cơ học, vật lí, hóa học,
sinh học, xã hội).
Câu 4:Trình bày những hình thức cơ bản của CNDV:
Cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, CNDV được hình thành và phát triển với 3
hình thức cơ bản là CNDV chất phác thời cổ đại, CNDVSH, CNDVBC.
CNDV chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại, CNDV thời
kì này mang nặng tính trực quan ngây thơ, chất phác vì trong khi nó thừa nhận tính thứ nhất
của vật chất, Chủ nghĩa này cũng đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể, như
trong quan điểm cỉa Talet thì vật chất chính là nước, hay quan điểm của Đê-mô-crit, vật chất
là nguyên tử... Sự đồng nhất vật chất này chính là hạn chế lớn của CNDV thời kì này, song
nó cũng có ưu điểm là lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến Thần linh
hay Thượng đế.
CNDVSH là hình thức cơ bản thứ hai của CNDV, phát triển đỉnh cao vào thế kỉ XVII-XVIII,
Đây là thời kì mà cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ khiến cho CNDV giai đoạn
này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, mây móc của cơ học cổ
điển. Các nhà triết học cho rằng thế giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ
phận tạo nên nó luôn ở trạng thái tĩnh tại, biệt lập, nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự tăng giảm
đơn thuần về số lượng do những nguyên nhân bên ngoài gây ra. Tuy vẫn còn hạn chế là
không phản ánh đúng hiện thwujc trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển song CNDVSH
đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại TGQ DT và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử
chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục Hưng ở các nước Tây Âu.
CNDVBC là hình thức cơ bản thứ 3 của CNDV do Mác và Ăng ghen xây dựng vào nhwu xg
năm 40 của TK XIX, sau đó được V.I.Lenin phát triển. CNDVBC ngay từ khi mới ra đời đã
khắc phục được hạn chê scuar CNDV chất phác thời cổ đại, CNSH và CNDVBC trở thành
đỉnh cao trong sự phát triển của CNDV. Nó là kết quả của quá trình đúc kết, khái quát hoá
những tri thức của nhân loại về nhiều lĩnh vực để xây dựng nên hệ thống quan điểm lí luận
cbung. Từ đó, CN này đã oharn ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại, là công cụ
hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
Dù cả 3 hình thức ấy có những mặt khác nhau nhưng tất cả đều thống nhất ở cùng 1 đặc
điểm: khi giải quyết các vấn đề cơ bản cửa triết học phải đều khẳng đinhh vật chất là cái có
trước và quyết định ý thức.
Câu 5: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc và bản
chất của ý thức?
Vấn đề nguồn gốc và bản chất của ý thức là vấn đề rất phức tạp của triết học, là nơi diễn ra
cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa khoa học và thần
học. Nếu chủ nghĩa duy tâm – tôn giáo đồng nhất ý thức con người với linh hồn cá nhân, rồi
đồng nhất linh hồn cá nhân với linh hồn thế giới, và tìm kiếm nguồn gốc, bản chất của chúng
trong cái siêu nhiên, phi lịch sử – xã hội, thì chủ nghĩa duy vật – khoa học coi ý thức con
người là đời sống tâm lý – tri thức – tinh thần của họ, và dựa vào các thành tựu khoa học
cùng cơ sở thực tiễn để tìm kiếm nguồn gốc, làm rõ bản chất của nó trong cái tự nhiên, cái
lịch sử – xã hội của chính con người
Cùng với phạm trù vật chất thì ý thức là một phạm trù cơ bản, nền tảng của triết học Mác-
Leenin. Trên cơ sở kế thừa các quan điểm trong lịch sử, triết học Mác-Leenin cho rằng: “Ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan hay ý thức chẳng qua là hình ảnh của thế
giới khách quan được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó “.
Triết học M.Leenin còn khẳng định: “ý thức được hình thành từ hai nguồn gốc là nguồn, là
nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội”
Về nguồn gốc tự nhiên của ý thức: đó là bộ óc con người và sự tác động của thế giới quan
Trước hết cần hiểu ý thức là sản phẩm, là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao
nhất là óc người. Ý thức chỉ diễn ra trong bộ óc của con người; phụ thuộc vào bộ óc của con
người ; bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Do đó, khi bộ óc bị tổn thương thì mọi
hoạt động của ý thức sẽ không diễn ra bình thường, sẽ rối loạn; với người chết ý thức cũng ko
còn.
Nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới khách quan lên bộ óc người thì
cũng không thể hình thành được ý thức. phải có thế giới khách quan tác động lên bộ óc con
người; bộ óc con người thu nhận. xử lý thông tin để tạo thành ý thức. nếu không có thế giới
khách quan thì ý thức không có gì để phản ánh. Trong quá trình tương tác đó, bộ óc con
người đóng vai trò là cái được phản ánh, TGKQ là đối tượng, là cái để phản ánh và ý thức
con người là kết quả của quá trình phản ánh của óc người về TGKQ.
Nguồn gốc tự nhiên chỉ mới là điều kiện cần, bởi nếu chỉ có nguồn gốc tự nhiên thì chưa thể
có được- ý thức. do vậy, điều kiện đủ để dẫn tới sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn
gốc của xã hội
Vài trò của lao động đối với việc hình thành ý thức của con người: Loài vật là sinh thể hoạt
động theo bản năng và sống chủ yếu thích nghi với môi trường tự nhiên để khai thác các sản
phẩm tự nhiên có sẵn cần thiết cho sự sống còn của mình. Nhưng loài người lại là sinh thể
hoạt động thực tiễn, sống chủ yếu cải tạo môi trường tự nhiên và hoàn cảnh xã hội để tạo ra
các sản phẩm và các quan hệ cần thiết cho sự sống còn của chính mình. Cốt lõi của hoạt động
thực tiễn là quá trình lao động. Thông qua lao động cải tạo thế giới khách quan có chủ đích
mà con người tác động vào các đối tượng hiện thực một cách năng động, bắt chúng phải bộc
lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động của mình ra thành những hiện tượng nhất
định. Những hiện tượng này tác động vào giác quan, và sau đó đi đến bộ óc người tạo thành
những hình tượng của ý thức phản ánh về chúng. Khi hoạt động thực tiễn này càng được mở
rộng và đào sâu thì ý thức con người càng phong phú và sâu sắc.
Cùng với lao động,ngôn ngữ cũng thể hiện vai trò ở những nội dung sau: Trong quá trình
sống cộng đồng, mọi cá thể trong giống loài đều cần phải giao tiếp với nhau và truyền những
hiểu biết cho nhau. Loài vật – sinh thể hoạt động theo bản năng giao tiếp và truyền những
kinh nghiệm, hiểu biết cho nhau chủ yếu bằng hệ thống tín hiệu thứ nhất được mã hóa (bẩm
sinh) trong bản năng loài vật. Nhưng loài người – sinh thể hoạt động thực tiễn giao tiếp và
truyền những kinh nghiệm, hiểu biết cho nhau chủ yếu bằng hệ thống tín hiệu thứ hai được
hình thành và phát triển trong hoạt động thực tiễn lao động của con người, xảy ra trong cộng
đồng xã hội. Đó là ngôn ngữ – hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nhờ vào
ngôn ngữ mà ý thức tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện
thực trực tiếp của tư tưởng. Nó vừa là phương tiện giao tiếp vừa là công cụ tư duy. Với tính
cách là công cụ tư duy, ngôn ngữ cho phép tách ra khỏi sự vật cảm tính để phản ánh thế giới
một cách trừu tượng, khái quát, đồng thời tiến hành các hoạt động suy nghĩ về thế giới một
cách gián tiếp để nắm bắt những cấp độ bản chất chi phối các lĩnh vực hiện tượng xảy ra
trong thế giới.
Ý thức con người tồn tại trong các con người cá nhân nhưng nó không phải là hiện tượng
thuần tuý cá nhân mà là hiện tượng mang tính lịch sử – xã hội, được hình thành và thể hiện
qua các quan hệ xã hội mà cá nhân luôn bị chi phối.
Tóm lại, không phải hễ thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người là trong con người
có ngay ý thức về thế giới, mà ý thức được hình thành từ trong quá trình hoạt động lao động
và giao tiếp cộng đồng của con người. Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo thế giới
khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và diễn ra trong các quan hệ
xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, phụ thuộc vào xã hội và mang tính chất
xã hội.
Bản chất của ý thức:
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người; là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt động
tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử
lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những
thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng
tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng,
giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật
khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về thế giới
khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về hình thức biểu
hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng
kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển
vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn
liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu
là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của
thực tiễn xã hội.
CÂU 6: Trình bày khái niệm và hình thức cơ bản của phép biện chứng; những đặc
trưng của phép biện chứng duy vật?
- Khái niệm và hình thức cơ bản của phép biện chứng:
+ Khái niệm: Phép biện chứng là học thuyết lý luận nghiên cứu khái quát biện chứng của thế
giới thành các nguyên lý quy luật khoa học nhằm xây dựng các phương pháp luận khoa học.
Phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan.
+ Hình thức cơ bản của phép biện chứng: Phép biện chứng đã có lịch sử phát triển trên
2.000 năm từ thời cổ đại phương Đông và phương Tây. Các hình thức lịch sử của phép biện
chứng gồm ba hình thức cơ bản (cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của phép biện
chứng trong lịch sử triết học):
1. Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng
trong lịch sử triết học, có cả ở phương Đông và Phương Tây. Nó là một nội dung cơ
bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu
biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận”
(học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và “ngũ hành
luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể
trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư
tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”,
“nhân duyên”… Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại là những
quan điểm biện chứng của Heraclit.
2. Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng
trong triết học của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph.
Hêghen đã nghiên cứu và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình
độ mới – trình độ lý luận sâu sắc và có tính hệ thông chặt chẽ, trong đó trung tâm là
học thuyết về sự phát triển. Tuy nhiên, phép biện chứng trong triết học của Ph.
Hêghen là phép biện chứng được xây dựng trên lập trường duy tâm (duy tâm khách
quan) nên hệ thống lý luận này chưa phản ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các
mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận
này, bản thân biện chứng của các quá trình trong giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha
hoá của bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.
3. Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển
cao nhất của phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp
lý trong lịch sử phép biện chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục
những hạn chế trong phép biện chứng của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện
chứng trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ
hoàn bị trên lập trường duy vật mới.
- Những đặc trưng của phép biện chứng duy vật:
+ Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin là phép biện chứng được xác
lập trên nền tảng của TGQ duy vật khoa học.Với đặc trưng này, phép biện chứng duy vật
không chỉ có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là với
phép biện chứng của Hêghen( là phép biện chứng được xây dựng trên nền tảng TGQ duy
tâm), mà còn có sự khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã
từng có trong lịch sử triết học từ thời cổ đai( là phép biện chứng căn bản được xây dựng
trên lập trường CNDV nhưng đó là CNDV còn ở trình độ trực quan, ngây thơ, chất phác).
+ Hai là, trong phép biện chứng duy vât của chủ nghĩa Mác- Lênin có sự thống nhất giữa nội
dungTGQ duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật, do đó nó không chỉ
dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cảu tạo thế giới.
Mỗi nguyên lí, quy luật trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin không chỉ
là sự giải thích đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa
học của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển, những qui luật phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của tất thảy mọi
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác- Lênin cung cấp những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận
thức và cải tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên tắc phương pháp luận khách quan mà còn là
phương pháp luận toàn diện, phát triển, lịch sử- cụ thể, phương pháp luận phân tích mâu
thuẫn nhằm tìm ra nguồn gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển... Với
tư cách đó, phép biện chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng
nhận thức và cải tạo thế giới.
Câu 7
*Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất:
-Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của
mình.
Ví dụ, không có con “động vật” chung tồn tại bên cạnh con trâu, con bò, con gà cụ thể.
Trong bất cứ con trâu, con bò, con gà riêng lẻ nào cũng đều bao hàm trong nó thuộc tính
chung của động vật, đó là quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường.
-Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng bao
hàm cái chung.
Cái riêng tồn tại độc lập, nhưng sự tồn tại độc lập đó không phải là hoàn toàn cô lập với cái
khác. Ngược lại, bất cứ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung và bất cứ
cái riêng nào cũng bao hàm trong nó cái chung.

-Cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn cái riêng là cái toàn bộ, nó không gia nhập
hết vào cái chung.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm, thuộc tính
chung được lặp lại ở các sự vật khác ra thì bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng
những cái đơn nhất, những đặc điểm riêng phong phú đó không gia nhập hết vào cái
chung. Cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ bản chất tất nhiên, lặp
lại ở nhiều sự vật, hiện tượng riêng lẻ, những thuộc tính chung ấy chỉ là bộ phận của cái
riêng nhưng lại sâu sắc hơn cái riêng, vì nó gắn liền với cái bản chất chung của cả một
tập hợp những cái riêng, nó quy định phương hướng tồn tại và phát triển của những cái
riêng đó.
-Cái riêng và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự
vật thông qua sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất, cái đặc thù,cái phổ biến.
Trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, ban đầu nó
xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất, cái cá biệt ở một cái riêng nhất định; về sau, theo quy
luật tất yếu, cái mới nhất định phát triển mạnh dần lên và mở rộng ra ở một số cái riêng
với tư cách là cái đặc thù; cuối cùng, cái mới hoàn thiện và hoàn toàn chiến thắng cái cũ
và trở thành cái chung – cái phổ biến. Ngược lại, cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ
biến, nhưng về sau cái cũ ngày càng mất dần thành cái đặc thù, rồi thành cái đơn nhất
trước khi hoàn toàn mất hẳn.
*Ý nghĩa pp luận
– Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng chứ
không thể ở ngoài cái riêng
– Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá.
Nếu đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ dẫn đến sai lầm tả khuynh
giáo điều.
Nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất dễ dẫn đến sai lầm hữu khuynh xét lại
– Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể
biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Trong hoạt động
thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển thành cái chung nếu cái đơn
nhất có lợi cho con người. Và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất nếu cái chung tồn
tại bất lợi cho con người.
Câu 7:Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn
nhất, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
*Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất:
-Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của
mình.
Cái chung tồn tại trong cái riêng, vì cái chung là một mặt, một thuộc tính của cái riêng, không
có cái chung tồn tại bên ngoài cái riêng và nó liên hệ không tách rời cái đơn nhất.
Ví dụ, không có con “động vật” chung tồn tại bên cạnh con trâu, con bò, con gà cụ thể.
Trong bất cứ con trâu, con bò, con gà riêng lẻ nào cũng đều bao hàm trong nó thuộc tính
chung của động vật, đó là quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường.
-Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng bao hàm
cái chung.
Cái riêng tồn tại độc lập, nhưng sự tồn tại độc lập đó không phải là hoàn toàn cô lập với cái
khác. Thông qua hàng ngàn các mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hoá, cái riêng của loại này
có liên hệ với cái riêng của.loại khác. Thậm chí, có những cái tưởng chừng như hết sức xa lạ,
hoàn toàn không dính dáng gì đến nhau, nhưng qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự
chuyển hóa, ta vẫn thấy chúng liên quan nhau. Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần,
gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên hệ qua lại khác, kết quả là tạo nên một mạng lưới các
mối liên hệ mới, trong đó có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một số “cái chung” nào đó.
-Cái chung là một bộ phận của cái riêng, còn cái riêng là cái toàn bộ, nó không gia nhập hết
vào cái chung.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm, thuộc tính chung
được lặp lại ở các sự vật khác ra thì bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái đơn
nhất, những đặc điểm riêng phong phú đó không gia nhập hết vào cái chung. Cái chung phản
ánh những thuộc tính, những mối liên hệ bản chất tất nhiên, lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng
riêng lẻ, những thuộc tính chung ấy chỉ là bộ phận của cái riêng nhưng lại sâu sắc hơn cái
riêng, vì nó gắn liền với cái bản chất chung của cả một tập hợp những cái riêng, nó quy định
phương hướng tồn tại và phát triển của những cái riêng đó.
-Cái riêng và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật thông
qua sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất, cái đặc thù,cái phổ biến.
Trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, ban đầu nó xuất hiện
dưới dạng cái đơn nhất, cái cá biệt ở một cái riêng nhất định; về sau, theo quy luật tất yếu, cái
mới nhất định phát triển mạnh dần lên và mở rộng ra ở một số cái riêng với tư cách là cái đặc
thù; cuối cùng, cái mới hoàn thiện và hoàn toàn chiến thắng cái cũ và trở thành cái chung –
cái phổ biến. Ngược lại, cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau cái cũ ngày
càng mất dần thành cái đặc thù, rồi thành cái đơn nhất trước khi hoàn toàn mất hẳn.
*Ý nghĩa pp luận
1. Phải xuất phát từ “cái riêng” để tìm “cái chung”.
Vì “cái chung” chỉ tồn tại trong và thông qua “cái riêng”, nên chỉ có thể tìm hiểu, nhận thức
về “cái chung” trong “cái riêng” chứ không thể ngoài “cái riêng”.
Để phát hiện, đào sâu nghiên cứu “cái chung”, ta phải bắt đầu nghiên cứu từ những sự vật,
hiện tượng riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.
2. Cần nghiên cứu cải biến “cái chung” khi áp dụng “cái chung” vào từng trường hợp “cái
riêng”.
– Vì “cái chung” tồn tại như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với
những bộ phận còn lại của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”, nên bất cứ “cái
chung” nào cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến.
Tức là, luôn có sự khác biệt một chút giữa “cái chung” nằm trong “cái riêng” này và “cái
chung” nằm trong “cái riêng” kia. Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi bản
chất của “cái chung”.
– Do đó, bất cứ “cái chung” nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần được cải
biến, cá biệt hóa. Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa, đem áp dụng nguyên xi “cái chung”,
tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những người giáo điều, tả khuynh.
Ngược lại, nếu xem thường “cái chung”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất”, thì lại rơi vào sai lầm
của việc chỉ bảo tồn cái vốn có mà không tiếp thu cái hay từ bên ngoài. Đó là sai lầm của
những người xét lại, bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh.
3. Không được lảng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải quyết những vấn đề riêng.
Vì “cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung”, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn tới
“cái chung”, nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì không thể bỏ
qua việc giải quyết những vấn đề chung.
Nếu không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề mang ý nghĩa lý luận – thì sẽ sa
vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng trước khi giải
quyết những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng mạch lạc
4. Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và ngược lại.
Vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, “cái đơn nhất” có
thể biến thành “cái chung” và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều
kiện thuận lợi cho “cái đơn nhất” phát triển, trở thành “cái chung” nếu điều này có lợi.
Ngược lại, phải tìm cách làm cho “cái chung” tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu “cái
chung” không còn phù hợp với lợi ích của số đông mọi người.
Câu 8:Trình bày mối quan biện chứng giữa phạm nguyên nhân và kết , từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp ?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ
qua lại, cụ thể:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
– Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả chỉ
xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động. Tuy nhiên, không phải sự nối
tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả.
– Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ
thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác
động riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
– Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên ảnh
hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác
nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các
tác dụng của nhau.
– Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân
loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
– Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ
động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả.
– Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một
hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết
quả và ngược lại.
– Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở
thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ
kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt
đầy hay cuối cùng.ghĩa phương ph
Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả.ương
hĩ– Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện
tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không phải con người có
thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khó học là phải tìm ra
nguyên
nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện
tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật,
hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc con
người, tách rời với thế giới hiện thực.
– Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào
đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác
nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại
các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân khách quan,… Đồng thời phải
nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều
kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến họt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên
nhân có tác động tiêu cực.
– Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải
khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thức đẩy nguyên nhân phát huy
tác dụng, nhằm đạt mục đích.
Như vậy, Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả đã được chúng tôi trình bày chi tiết
trong bài viết phía trên. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng trình bày một số nội dung liên quan đến
ý nghĩa mối quan hệ của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả.
Câu 9:Trình bày MQH biện chứng giữa nội dung và hình thức, từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận:
-Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức:
+Nội dung là những yếu tố, quá trình hình thành nên sự vật. Hình thức là hệ thống MQH
tương đối bền vững giữa yếu tố nội dung=> ko có hình thức nào tồn tại thuần túy mà ko có
nội dung và ko có nội dung nào tồn tại mà ko có hình thức xác định
+Nội dung ko phải lúc nào cũng thể hiện trong 1 hình thức nhất định, hình thức cũng ko luôn
chỉ chứa 1 nội dung mà 1 nội dung có thể có nhiều hình thức thể hiện và 1 hình thức có thể
thể hiện nhiều nội dung khác.
-Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động phát triển của sự
vật: Do khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi và của hình thức là tương đối bền
vững nên khi có những tác động lẫn nhau giữa các mặt sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau
thì các yếu tố của nội dung biến đổi trước còn hình thức( tức những mối liên kết các yếu tố
của nội dung) chưa biến đổi ngay dẫn sự lạc hậu và kìm hãm sự phát triển sự vật=> Trong
quá trình phát triển hình thức sẽ phải đổi mới cho phù hợp với nội dung mới để tránh sự kìm
hãm sự phát triển của nội dung.
-Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung:
+ Nếu hình thức phù hợp với nội dung sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung
+ Nếu hình thức ko phù hợp với nội dung thì sẽ kìm hãm sự phát triển nội dung
#Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Trong nhận thức ko được tách rời tuyệt đối hoá giữa nội dung và hình thức mà luôn gắn bó
với nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, chống chủ nghĩa hình thức
+ Trong hoạt động thực tiễn cần sử dụng nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng yêu cầu thực
tiễn khác nhau trong các giai đoạn khác nhau vì trong cùng nội dung trong quá trình phát
triển có thể có nhiều hình thức khác nhau và 1 hình thức có thể chứa nhiều nội dung khác
nhau
+ Để nhận thức và cải tạo được sự vật thì đầu tiên cần căn cứ vào nội dung trước vì nội dung
quyết định hình thức nhưng hình thức có sự tác động trở lại với nội dung nên cũng cần phải
đối chiếu giữa nội dung và hình thức và phù hợp hoá hình thức với nội dung để thúc đẩy nội
dung phát triển
Câu 10:Trình bày mối quan hệ biện chứng phạm trù bản chất và hiện tượng , từ đó rút
ra ý nghĩa phương pháp luận?
Mối quan hê biện chứng giữa phạm trù bản chất và hiện tượng:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phạm trù bản chất và hiện tượng có mối
quan hệ biện chứng như sau:
Sự thống nhất
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà người ta có thể
tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài. Biểu hiện là: Bản
chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của
bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng; đồng
thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất.
Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những
hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở
những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi
theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Tính mâu thuẫn
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự
mâu thuẫn nhau.
Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:
· Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự
vật trong khi hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.
· Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện tượng
là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn
toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.
· Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của
bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản
chất hoặc phản ánh không đúng bản chất (ví dụ: Hiện tượng khúc xạ, ảo ảnh).
Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi của
điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn
hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên
biến đổi.
Ý nghĩa phương pháp luận
– Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, ta không nên dừng lại ở hiện tượng
mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của nó.
Còn trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện tượng.
Vì bản chất và hiện tượng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ ràng buộc, không tách rời nhau,
bản chất thì ẩn dấu sâu kín bên trong sự vật còn hiện tượng thì lại là cái biểu hiện ra bên
ngoài của bản chất, cho nên, muốn nhận thức được bản chất của sự vật thì phải xuất phát từ
hiện tượng. Do một bản chất có thể biểu hiện ra bằng nhiều hiện tượng khác nhau và mỗi
hiện tượng chỉ phản ánh một khía cạnh của bản chất, cho nên muốn nhận thức bản chất sự vật
chúng ta không nên chỉ dừng lại ở một hoặc một số hiện tượng mà phải thông qua phân tích,
tổng hợp rất nhiều hiện tượng.
Vì bản chất là cái tất nhiên tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động phát
triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, cái không quyết định sự vận động và
phát triển của sự vật, hơn nữa hiện tượng nhiều khi còn xuyên tạc bản chất, cho nên, nhận
thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến tới nhận thức bản chất của sự vật. Nhận
thức bản chất của một sự vật là một quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản
chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Trong hoạt động thực tiễn, không được dựa vào hiện
tượng mà phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật.
– Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng khác nhau
từ nhiều góc độ khác nhau.
Sở dĩ như vậy vì hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải biến, nhiều khi
xuyên tạc bản chất.
Nhưng trong một hoàn cảnh và một phạm vi thời gian nhất định ta không bao giờ có thể xem
xét hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật. Do vậy, ta phải ưu tiên xem xét
trước hết các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
Dĩ nhiên, kết quả của một sự xem xét như vậy chưa thể phản ánh đầy đủ bản chất của sự vật.
Mà đó mới chỉ phản ánh một cấp độ nhất định của nó. Quá trình đi vào nắm bắt các cấp độ
tiếp theo, ngày càng sâu sắc hơn trong bản chất của sự vật là một quá trình hết sức khó khăn,
lâu dài, công phu, không có điểm dừng.
Cũng chính vì vậy, khi kết luận về bản chất của sự vật, chúng ta cần hết sức thận trọng.
Khái niệm về: Hình thái Kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ
nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với
một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện
chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội
· Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế-xã hội.
· Quan hệ sản xuất: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan
hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
· Kiến trúc thượng tầng: được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng,
nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
· Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế - xã hội còn có
quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Nó còn bao gồm các lĩnh vực
chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã
hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua lại, thống nhất với nhau gắn bó
với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất
Câu 11: Trình bày mối quan hệ biện chứng phạm trù khả năng và hiện thực, từ đó rút
ra ý nghĩa phương pháp luận
-Mối liên hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
+ Tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau, luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau.
Quá trình này diễn ra như sau : khả năng biến thành hiện thực, hiện thực này trong sự vận
động nội tại của nó lại sinh ra khả năng mới và khả năng mới này nếu có đủ điều kiện lại biến
thành hiện thực mới. Cứ như thế quá trình đó dc tiếp tục vận động và phát triển đến vô tận.
+ Trong cùng một sự vật, cùng một điều kiện nhất định, không phải chỉ tồn tại một mà là tồn
tại nhiều khả năng khác nhau.Ngoài những khả năng vốn có của sự vật, khi điều kiện mới
xuất hiện thì sự vật sẽ xuất hiện những khả năng mới và bản thân mỗi khả năng cũng sẽ thay
đổi theo sự thay đổi của điều kiện.
+ Hiện thực bao hàm trong mình số lớn các khả năng, nhưng không phải khả năng nào cũng
dc hiện thực hóa. Để khả năng biến thành hiện thực, thường không phải chỉ một điều kiện mà
là một tập hợp nhiều điều kiện.
-Ý nghĩa phương pháp luận:
· Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không
thể dựa vào khả năng. Tuy nhiên khi đề ra kế hoạch phải tính đến mọi khả năng để kế
hoạch đó sát với thực tiễn.
· Xác định được các khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng thì mố tiến hành lựa
chọn và thực hiện khả năng.
· Cần tính đến mọi khả năng để dự kiến các phương án thích hợp cho từng trường hợp
có thể xãy ra.
· Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiêna phải lựa chọn khả năng trong số
hiện có, trước hết phải chú ý đến khả năng gần, khả năng tất nhiên vì chúng dễ
chuyển hóa thành hiện thực hơn.
· Tránh sai lầm, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan , hoặc xem thường vai
trò ấy trong quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực.

Câu 12: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, từ
đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
Quan điểm của CN Mác-Lênin về cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên
Cặp phạm trù “tất nhiên” và “ngẫu nhiên” là một trong những cặp phạm trù cơ bản của Triết
học nói chung và cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng. Cùng với các cặp phạm
trù khác, “tất nhiên” và “ngẫu nhiên” đã xây dựng nên cho Triết học một nền tảng lý luận
vững chắc, cơ bản để từ đó Triết học giải quyết được nhiều vấn đề khác.
– Tất nhiên là cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định và
trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác.
Ví dụ: Khi quả trứng gà bị rơi từ độ cao 10 mét thì nó chắc chắn sẽ vỡ. Việc bị vỡ trong
trường hợp này là tất nhiên vì nó không thể khác được.
– Ngẫu nhiên là cái không phải do bản thân kết cấu của sự vật, mà do các nguyên nhân bên
ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định; do đó, nó có thể xuất hiện,
có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, cũng có thể xuất hiện như thế khác.
Ví dụ: Việc quả trứng gà bị rơi là ngẫu nhiên. Nó có thể bị rơi hoặc không.
Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên luôn có một mối quan hệ với nhau. Và quan hệ đó được thể hiện
ở những điểm sau:
- Một là, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định đối với sự
vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng, trong đó cái tất nhiên đóng vai trò quyết định.
Tuy nhiên, trong quá trình vận động không phải chỉ có tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng
mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên cũng đóng góp một phần đáng kể. Nếu mà cái tất nhiên có tác
dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự vật diễn ra
nhanh hay chậm.
- Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất biện chứng với nhau. Không có
cái tất nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy. Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho
mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, là
cái bổ sung cho tất nhiên.

- Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thương xuyên
thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa cho nhau
* Tất nhiên và ngẫu nhiên cùng với mối quan hệ giữa chúng không chỉ góp phần xây dựng
lên phép biện chứng duy vật mà nó còn có ý nghĩa đưa lại cho chúng ta bài học trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn của đời sống hàng ngày:
- Một là, trong hoạt động tư duy và thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải
cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái gắn liền với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy
ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại
của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không.Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiên tách
rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên
và khi dựa vào cái tất nhiên thì ta cũng phải chú ý đến cái ngẫu nhiên
- Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Vì vậy, ta cần tạo ra những điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của
chúng theo mục đích nhất đinh, phù hợp với mong muốn của chúng ta.
Ví dụ: Để trở thành sinh viên của trường Đại học An ninh nhân dân thì điều“tất nhiên” là
chúng ta phải đỗ đại học còn “ngẫu nhiên” chúng ta được xếp học chung một lớp, một nhóm
của trường.
Câu 13:Trình bày khái niệm và các tính chất của Chân lý.
• Khái niệm "Chân lý"( theo Triết học Mác-Lênin): Chân lý là định nghĩa dùng để chỉ những
tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và
chứng minh bởi thực tiễn ( có thể hiểu, chân lý thực chất là thực tại được nhận thức một các
đúng đắn; chân lý là một sự thật của loài người luôn luôn đúng và tồn tại mãi mãi theo thời
gian).
• Tính chất của Chân lý (4 tính chất):
1. Tính khách quan:
Chân lý có tính phù hợp với tri thức và thực tại khách quan; chân lý không phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của con người.
2. Tính cụ thể:
Chân lý có tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản ánh sự vật trong các điều kiện xác định
(không gian, thời gian, góc độ phản ánh,…).
3. Tính tuyệt đối:
Chân lý tuyệt đối là chân lý phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan. Mỗi chân lý
chỉ tuyệt đối đúng trong một giới hạn nhất định, còn ngoài giới hạn đó thì nó có thể không
đúng
4. Tính tương đối:
Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan; mặt
khác, mỗi chân lý, trong điều kiện xác định, nó mới chỉ phản ánh được một phần thực tại
khách quan
16/ Trình bày nguồn gốc giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của
xã hội có đối kháng giai cấp?
* Nguồn gốc của giai cấp:
- Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
- Sản xuất ngày càng phát triển, dẫn đến của cải dư thừa xuất hiện. Những người có chức
quyền, địa vị chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng, chế độ tư hữu ra đời. Sự bất bình
đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
- Tù binh chiến tranh không bị giết mà bị biến thành nô lệ phục vụ cho những người giàu có
và có địa vị xã hội, chế độ giai cấp chính thức hình thành kể từ đó
=> Sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời của giai cấp. Sự
tồn tại chế độ giai cấp gắn liền với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư
bản chủ nghĩa.
* Vai trò của đấu tranh giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp:
- Khái niệm đấu tranh giai cấp:
+ Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu
tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền,
đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, là cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê
hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản. Thực chất của đấu
tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp
bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những
kẻ đi áp bức và bóc lột.
- Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp:
+ Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế
phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Cách mạng xã
hội như là đòn bẩy thay thế các hình thái kinh tế-xã hội.
+ Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo bản
thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ
lãnh đạo cách mạng.
+ Cuộc đấu tranh sau cùng trong xã hội có giai cấp chính là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản, mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu
xã hội. Đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản.
+ Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Đấu
tranh giai cấp có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà, góp phần
xây dựng một xã hội công bằng, cũng như bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành
một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Câu 17Câu hỏi: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người ?
Trả lời: - Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, có sự thống nhất biện
chứng giữa 2 phương diện tự nhiên và xã hội.
Giới tự nhiên là tiền đề đầu tiên quy định sự hình thành tồn tại và phát triển của con người.
Bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người.
Bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ các giác ngộ:
+ Con người là kết quả quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên.
+ Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là “thân thể vô
cơ của con người”.
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác ngộ sau:
+ Lao động làm xuất hiện con người và loài người, giúp con người vượt lên trên các loài
động vật khác và tiến hóa thành người.
+ Các nhân tố và quy luật luôn chi phối đến sự tồn tại và phát triển của con người cùng xã hội
loài người.
Câu 18 Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sủ về vai trò sáng tạo lich sử
của quần chúng nhân dân?
Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều không nhận thức đúng vai trò
sáng tạo lịch sử của quân chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ
quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội.
Theo quan điểm duy vật lịch sứử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch
sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch
sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng
nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản
xuất ra của cài vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội - đây
là nhu cẩu quan trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.
Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời cũng
là lực luợng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội; là lực lượng
trực tiếp hay gián tiếp "kiểm chứng" các giá trị tinh thần đã được các thế hệ và các cá nhân
sáng tạo ra trong lịch sử. Hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực có ý nghĩa
quyết định và là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội. Mọi giá trị
sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của
quần chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực một khi được vật chất hóa bởi hoạt dộng
thực tiễn của nhân dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và
các cuộc cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng không có một cuộc
cách mạng hay cuộc cải cách xã hội nào có thể thành công nếu nó không xuất phát từ lợi ích
và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Với ý nghĩa như vậy, có thề nói: cách
mạng là "ngày hội của quần chúng" và trong ngày hội đó, quần chúng nhân dân có thể sáng
tạo ra lịch sử "một ngày bằng hai mươi năm". Như vậy, những cuộc cách mạng và cải cách xã
hội cần đến lực lượng quần chúng nhân dân và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân cũng
cần có những cuộc cách mạng và cải cách xã hội. Đó chính là biện chứng của quá trình phát
triển xã hội.
Câu 19: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sữ về tính tất yếu của cách
mạng xã hội trong thời đại hiện nay.
Xã hội hiện nay bị chi phối bởi những đặc điểm của thời đại: cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại,nền kinh tế tri thức giữa các nước phát triển, toàn cầu hoá ,hội nhập quốc
tế, xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển, xu hướng đối thoại thay cho xu hướng đối đầu từ đó
đã phần nào làm diệu đi mâu thuẫn giai cấp . Sự xung đột giai cấp vẫn còn song không gay
gắt như trước nữa thay vào đó là sự xung đột sắc tộc, tôn giáo, về kinh tế của các quốc gia,
khu vực. Cùng với đó là sự ô nhiểm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nạn đói và
bệnh tật ở nhiều nước ... Cũng là những nguyên nhân tạo ra sự bất ỗn trong thế giới hiện nay.
Để giải quyết những mâu thuẩn bất ổn trên thì bất buộc xã hội phải phát triển theo hướng
thay đổi từng bộ phận , từng yếu tố, lĩnh vực trong đời sống xã hội . Thay đổi trước hết là lực
lượng sản xuẩt rồi đến quan hệ sản xuất, từ đó dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội, tức là
cơ sở hạ tầng và do đó thay đổi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội dẫn đến thay đổi
toàn bộ xã hội. Đó là cuộc cách mạng xã hội diễn ra dưới hình thức chuyển hóa thay đổi dần
dần từng yếu tố, bộ phận ,lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội sau sẽ phát triển tiến bộ hơn
xã hội trước. Việt Nam đang hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Câu 20:Vai trò của đấu tranh giai cấp và nội dung của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam
hiện nay
1. Vai trò của đấu tranh giai cấp
Ở Việt Nam, đấu tranh trong giai đoạn quá độ là tất yếu. Bởi lẽ, ở nước ta hiện nay còn có
những lực lượng đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân, của cách mạng, của Đảng.
Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái
cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ và cái bảo thủ, trì trệ, v.v. nên đấu tranh giai cấp là tất
yếu.
Đấu tranh ở đây không có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà chính là thông qua đấu
tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo thủ, thoái hóa, biến chất và chống đối nhằm
củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong nhân
dân.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách khá gay gắt và
phức tạp. Sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đang đứng trước nhiều thách thức,
khó khăn mới. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ ý đồ phá hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo loạn
lật đổ, với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra sức
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những yếu kém, sự suy thoái, biến
chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên tạc
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra
mâu thuẫn, xung đột trong xã hội để làm suy yếu và lật đổ chế độ ta. Vì vậy, hơn bao giờ hết,
chúng ta cần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc đồng thời tiếp tục nghiên cứu để thấy rõ
đặc điểm, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực
trong điều kiện mới.
2. Nội dung của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay
Nội dung chủ yếu cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo,
kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn,
khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hành động chống phá các thế lực thù địch; bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Câu 21 Phân tích nội dung và ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I.Lênin?
Định nghĩa vật chất của Lênin được diễn đạt như sau:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”.
I . Nội dung định nghĩa vật chất nêu trên gồm những khía cạnh cơ bản sau:
1. Vật chất là một phạm trù triết học.
“Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như là vật chất trong lĩnh vực vật lý, hóa học,
sinh học (nhôm, đồng, H2O, máu, nhiệt lượng, từ trường…) hay ngành khoa học thông
thường khác… Cũng không thể hiểu như vật chất trong cuộc sống hàng ngày (tiền bạc, cơm
ăn áo mặc, ô tô, xe máy…).
“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức là phạm trù rộng nhất,
khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.
Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa hình dung được
cái gì rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể quy vật chất này trong một khoảng không
gian nhất định, vì không có gì rộng hơn nó.
2. Vật chất là thực tại khách quan.
Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩn để
phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Dù con người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay không thì vật
chất luôn tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.
3. Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác.
Vật chất, tức là thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là ý thức). Như thế,
vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức) “sinh ra sau”, là tính thứ hai.
Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào
vật chất.
Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý thức vì chưa
có con người. Đây ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào ý thức.
Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên giác
quan (mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy ý thức lệ thuộc vào vật chất.
Như thế, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách
năng động, sáng tạo.
4. Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh.
Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện qua các dạng
cụ thể (sắt, nhôm, ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…) mà các giác quan của con
người (tai, mắt, mũi…) có thể cảm nhận được.
Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại, chụp lại, phản ánh sự
tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại, chụp lại, phản ánh của giác
quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận thức của con người về vật chất càng sâu
sắc, toàn diện.
Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh,
là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người.
Ý nghĩa
1) Chống lại tất cả các loại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về phạm trù vật chất.
2) Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực quan, siêu hình, máy móc và những biến tướng
của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư sản hiện đại. Do đó, định nghĩa
này cũng đã giải quyết được sự khủng hoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà triết
học và khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình
3) Khẳng định thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, luôn vận động và phát triển
không ngừng, nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi sau nghiên cứu thế
giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính. mới và những quy luật vận động
của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
22. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong
đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a) Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước. Ý thức chỉ là
hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau.
+ Phải có sự vận động của thế giới vật chất thì mới có sự ra đời của cái vật chất có tư duy
là bộ óc con người.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
+ Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý
thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
+ Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong
phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
+ Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới
vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất
là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
+ Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất
thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo.
+ Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể
chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng,
không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh
vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó
có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý
thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về
hiện tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác
động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát
triển.
+ Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật
chất.
- Thứ tư: Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Nhất là trong thời
đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Câu 23PHÂN TÍCH NỘI DUNG CỦA MLH PHỔ BIẾN + Ý NGHĨA PPL?
*Quan điểm biện chứng: Các SV, HT, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy
định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
*Người theo quan điểm DVBC khẳng định các SV, HT tạo thành thế giới dù có đa dạng,
phong phú bao nhiêu cũng chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới thống nhất là THẾ
GIỚI VẬT CHẤT
=> TRIẾT HỌC DVBC khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy
định, tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các SV, HT hay giữa các mặt của cùng
một SV, HT trong thế giới.
Có 3 tính chất cơ bản của mlh phổ biến:
- Tính khách quan: các mlh là vốn có của mọi SV, HT; nó không phụ thuộc vào ý thức của
con người
- Tính phổ biến: bất kỳ một SV, HT nào; ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào
cũng có mlh với SV, HT khác. Kể cả tròn cùng một SV, HT thì bất kỳ một thành phần nào,
một yếu tố nào cũng có mlh với những thành phần, những yếu tố khác
- Tính đa dạng, phong phú: SV, HT khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau
=> mlh biểu hiện khác nhau (mlh chung- riêng, mlh trực tiếp- gián tiếp, mlh tất nhiên- ngẫu
nhiên, mlh chủ yếu- thứ yếu, mlh bên trong- bên ngoài)
☆ Ý nghĩa PPL:
- Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau giữa các SV, HT và
các mlh mang tính khách quan, phổ biến trong hoạt động nhânh thức và hoạt động thực tiễn
con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện
=> Mỗi mlh đều có vai trò khác nhau trong SV do đó để thúc đẩy SV phát triển phải phân
loại được các mlh, nhận thức được mlh cơ bản, quy định bản chất SV từ đó giải quyết mlh đó
(Quan điểm toàn diện)
- Vì các mlh có tính đa dạng, phong phú - SV, HT khác nhau, không gian, thời gian khác
nhau nên trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng
quan điểm lịch sử - cụ thể.
Câu 25:Phân tích nội dung và ý nghĩa PPL của quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại?
Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong
những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ tính chất và cách
thức của sự phát triển.
Khái niệm về chất: Chất là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan, vốn có của SV,
HT; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho SV là nó, phân biệt với SV, HT khác
Đặc trưng của chất:
- Chất của SVHT được bộc lộ thông qua thuộc tính nhưng chất không đồng nhất với
thuộc tính
- Tồn tại mang tính khách quan
- Sự vật có vô vàn chất khác nhau tùy thuộc vào các bối cảnh lịch sử khác nhau mà nó
tồn tại
- Chất bị quy định bởi cấu trúc của chính SVHT đó
- Tính ổn định tương đối của nó
Khái niệm về lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan của
SVHT về số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển cũng như các
thuộc tính của SV, HT
Đặc trưng về lượng:
- Tồn tại mang tính khách quan
- Biểu hiện rất đa dạng, phong phú: có thể lượng hóa dựa trên con số hoặc chỉ biểu hiện
bằng tư duy trừu tượng
- 1 SVHT có vô vàng lượng khác nhau
- Lượng là yếu tố thường xuyên biến đổi
Nội dung quy luật:
- Độ, điểm nút, bước nhảy
· Độ - giới hạn mà trong đó sự thay đổi về Lượng chưa làm Chất thay đổi căn bản
· Điểm nút – mốc(giới hạn) mà sự thay đổi về Lượng vượt qua nó sẽ làm Chất thay đổi
căn bản
· Bước nhảy – sự chuyển hóa về Chất do những thay đổi về Lượng trước đó gây ra;
Bước nhảy là giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của sự vật, nó tồn tại khách
quan, phổ biến, đa dạng
- Phân tích
· Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa Chất và Lượng
· Trong quá trình vận động và phát triển, Chất và Lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự
thay đổi của Lượng và của Chất không diễn ra độc lập với nhau, mà chúng có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của Lượng cũng ngay lập
tức làm thay đổi căn bản Chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một
giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản của Chất của sự vật đó. Khi vượt
qua giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời
( bước nhảy xảy ra ).
· Sự thay về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút. Sau khi ra
đời, chất mới có tác động trở lại trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm
thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật đó
· Sự thay đổi về Lượng gây ra sự thay đổi về Chất; sự thay đổi về Chất gây ra sự thay
đổi về Lượng là phương thức vận động , phát triển của mọi sự vật trong thế giới; phát
triển vừa mang tính liên tục vừa mang tính gián đoạn
o Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
· Phát hiện chính xác các quy định về chất và lượng của sự vật; thấy ssuocwj sự thống
nhất giữa chúng để xác định đúng độ điểm nút của sự vật
· Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của SV để xác định đúng nhất tính chất, quy mô,
tiến độ của bước nhảy có thể xảy ra
· Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá độ, quá điểm nút; còn nếu
lượng chưa thay đổi qua độ , chưa qua điểm nút thì bước chưa thể xảy ra, chất chưa
thay đổi căn bản được
· Xác định được chất mới (sau khi sự vật thực hiện bước nhảy), qua đó xác định lượng
độ, điểm nút và bước nhảy, tức định hình được sự vật mới phải ra đời thay thế sự vật
cũ như thế nào.
- Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
· Hiểu rõ phương thức vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng các đối sách
thích hợp
· Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh hoạt các công cụ, phương tiện vật chất
can thiệp đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triển của
sự vật, lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta
Câu26: Phân tích nội dung và ý nghĩa PPL của quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập.
Nội dung:
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành
những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn
gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời.
Các yếu tố
- Sự thống nhất: Sự thống nhất của các mặt đối lập: Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn
nhau, đòi hỏi có nhau, nương tựa vào nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền
đề tồn tại cho mình. Là sự đồng nhất của các mặt đối lập; là sự tác động ngang nhau của các
mặt đối lập.
- Đấu tranh: Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ và phủ định lẫn
nhau của các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập có thể được biểu hiện ở sự ảnh
hưởng lẫn nhau hoặc dùng bạo lực để thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đối lập,
Ý nghĩa PPL:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập làm sáng tỏ nguồn gốc của sự vận động,
phát triển của các sự vật và có ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
1. Để nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt
động thực tiễn, ta phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật.
Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh
hướng trái ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động
qua lại lẫn nhau giữa những mặt đối lập đó.
2. Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn.
Khi phân tích mâu thuẫn, ta phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn.
Ta phải xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn. Phải xem xét quá
trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa
chúng.
Chỉ có như vậy ta mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động,
phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
3. Để thúc đẩy sự vật phát triển, ta phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được
điều hòa mâu thuẫn.
Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải
tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải
quyết khi điều kiện đã chín muồi.
Một mặt, ta phải chống thái độ chủ quan, nóng vội. Mặt khác, ta phải cực kỳ thúc đẩy các
điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi
Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Do đó, ta phải tìm ra các
hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa
phù hợp với điều kiện cụ thể.
Câu 27:Phân tích nội dung và ý nghĩa PPL của qui luật phủ định của phủ định?
*Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định
Là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định chỉ
ra khuynh hướng, hình thức, kết quả của sự phát triển của chúng thông qua sự thống nhất
giữa tính thay đổi với tính kế thừa trong sự phát triển.
Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự
phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện
tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới. Phủ định
biện chứng có tính khách quan và tính kế thừa.
Tính khách quan: Phủ định biện chứng có tính khách quan bởi vì nguyên nhân của sự phủ
định chính ở ngay bên trong bản thân của sự vật. Nguyên nhân này chính là kết quả việc giải
quyết các mâu thuẫn xảy ra bên trong sự vật. Thông qua việc giải quyết mâu thuẫn mà sự vật
sẽ luôn luôn phát triển. Phủ định biện chứng không hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn hay ý
chí chủ quan của con người.
Tính kế thừa: Phủ định biện chứng chính là kết quả của quá trình phát triển tự thân của sự
vật nên trong quá trình phủ định biện chứng thì sự vật sẽ khẳng định các mặt tích cực, mặt tốt
và chỉ phủ định những cái gì tiêu cực, lạc hậu. Phủ định biện chứng không chỉ là khắc phục
cái cũ, sự vật cũ mà nó còn là mối liên kết giữa cái cũ với cái mới, giữa sự vật cũ cùng sự vật
mới, giữa quá khứ với hiện tại do vậy sự phát triển của các sự vật, hiện tượng có quỹ đạo tiến
lên như đường xoáy ốc.
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định phản ánh mội liên hệ, sự kế thừa thông qua
khâu trung gian giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do có kế thừa nên phủ định biện chứng
không phải là sự phủ định sạch trơn mà là điều kiện cho sự phát triển, nó lưu giữ nội dung
tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm chủ yếu của cái ban đầu trên cơ sở
mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không hẳn theo đường thẳng, mà
theo đường xoáy
*Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật, hiện tượng;
sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển.
Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là quá trình diễn
ra quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không có những bước thụt
lùi.
Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới, ra đời phù hợp
với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Trong tự nhiên, sự
xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới diễn ra tự phát; nhưng trong xã hội, sự xuất hiện mới đó
gắn với việc nhận thức và hành động có ý thức của con người.
Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời gian
nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hiện tượng mới, tạo
điều kiện cho nó phát triển hợp quy luật; biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và
hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng
Câu 28 Phân tích Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và ý nghĩa PPL của vấn đề?
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, cụ thể gồm:
_Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
+ Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những
thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con
người được hình thành và phát triển.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh vực gì đi
chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng
dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào
thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
+ Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức:
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng lượng
nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc về thế
giới.
_ Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý một cách biện chứng. Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương
đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm
chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà luôn
biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không
tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm
thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu: – Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn. – Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn; học phải đi đôi với
hành.
Câu 29 Phân tích hai giai đoạn của quá trình nhận thức?
Nhận thức cảm tính: Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức dc tạo nên do sự tiếp xúc
trực tiếp của các cơ quan cảm giác vs sự vật hiện tượng đem lại cho con người hiểu bt về đặc
điểm bên ngoài, phản ánh trực tiếp khách thể thông qua 3 hình thức: cảm giác, tri giác, biểu
tg.
Nhận thức lý tính:. Là giai đoạn nhận thức tiếp theo do nhận thức cảm tính mang lại, bắt
nguồn từ trực quan sinh động, thông qua các thao tác tư duy phân tích so sánh khái quát ,con
ng tìm ra bản chất sâu bên trong svht, bên cạnh đó con ng phản ánh svht 1 cách gián tiếp,
khái quát, đầy đủ hơn bằng các hình thức: khái niệm , phán đoán, suy lý
Câu30: Phân tích nội dung của qui về sự phù hợp của quan hệ sản với trình độ của lực
lượng sản xuất?
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của
phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản xuất lên
quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương
đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là
bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp quy luật
khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối
quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự lạm dụng này biểu hiện ở “Nhà nước chuyên chính vô sản có khả năng chủ động tạo ra
quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất”.
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ động” không đồng nghĩa với sự chủ quan
tuỳ tiện, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình
muốn có. Ngược lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị quy định một cách nghiêm ngặt bởi trạng
thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi
mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: lực lượng sản
xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao
động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra
công cụ lao động mới. Lực lượng lao động quy định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản
xuất ki quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó
kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng
sản xuất và ngược lại.
+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất khi
đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành những cơ sở và
những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường
lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính
chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì
nó quy định mục đích của sản xuất quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã
hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được
hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện
hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
Câu 31: Phân tích mqh BC giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, từ đó rút ra ý
nghĩa pp luận.
•K/n cơ sở hạ tầng:
Là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế xã
hội nhất định.Dựa vào khái niệm đó, nó đã phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ xã
hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội.
•Đặc điểm và tính chất:
Kết cấu của cơ sở hạ tầng bao gồm:
QHSX tàn dư của xã hội cũ ( nô lệ)
QHSX thống trị ( XH thời Phong kiến)
QHSX mầm mống của xã hội tương lai ( tư bản)
Trong đó, QHSX thống trị luôn giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các
quan hệ sản xuất khác. QHSX quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của đời
sống KT-XH.
Cơ sở hạ tầng mang tính chất đối kháng tồn tại trong xã hội mà dựa trên cơ sở chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng được bắt nguồn từ những mâu
thuẫn nội tại không thể điều hoà được trong cơ sở hạ tầng đó và do bản chất của kiểu quan hệ
sản xuất thống trị quy định. Đó là sự biểu hiện của sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập
đoàn người trong xã hội.
Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng thể và mâu thuẫn rất phức tạp, là quan hệ vật chất tồn tại
khách quan độc lập với ý thức con người. Nó được hình thành trong quá trình sản xuất vật
chất và trực tiếp biến đổi theo sự tác động và phát triển của lực lượng sản xuất.
•K/n kiến trúc thượng tầng:
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học,
tôn giáo, nghệ thuật với những thể chế tương ứng: nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn
thể được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Bởi vậy, kiến trúc thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập trung đời sống tinh
thần của xã hội, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái kinh tế -xã hội. Nó đóng vai trò
quan trọng cùng các bộ phận khác trong xã hội hợp thành cơ cấu hoàn chỉnh của hình thái
kinh tế-xã hội.
•Đặc điểm và tính chất:
Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều ra đời và có vai trò nhất định trong việc
tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, là phản
ánh cơ sở hạ tầng.
Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên quan như nhau với cơ sở
hạ tầng của nó. Mà trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền cùng
những tổ chức tương ứng như chính đảng, nhà nước là những bộ phận quan trọng nhất, mạnh
mẽ nhất và là thành phần chính của kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho chế độ chính trị, xã
hội ấy.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp mang tính giai cấp sâu sắc. Tính giai
cấp của kiến trúc thượng tầng biểu hiện ở sự đối địch về quan điểm, tư tưởng và các cuộc đấu
tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng.
Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng của xã hội có tính chất đối kháng
giai cấp là nhà nước. Đây là công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho xã hội về mặt pháp lý
chính trị.
Câu 33 phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lý luận cấu trúc hình thái
kinh tế – xã hội, C.Mác đã cho rằng: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã
hội là một quá trình lịch sử – tư nhiên“.
Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các
mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất
với nhau. Các hình thái kinh tế – xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã
hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến
đổi của quan hệ sản xuất.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động qua lại
lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên?
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ
sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết
luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên.
Nguyên nhân của sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tư
nhiên vì:
+ Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà
tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái
kinh tế – xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
khoa học,… Trong đó quan trọng và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở
hạ tầng.
+ Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội
+ Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử xã hội
loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết
định chính là sự tác động của các quy luật khách quan.
Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ
của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội: hình thái kinh tế – xã
hội nguyên thủy đến hình thái kinh tế – xã hội nô lệ, phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư
bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con
đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một
hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định
Câu 34 vận dụng nguyên tắc khách vào trong công tác công an?
Nguyên tắc khách quan xuất phát từ quan điểm duy vật triệt để của triết học Mác - Lê-nin về
thế giới. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nguyên tắc khách quan yêu cầu con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phản
ánh trung thực sự vật với tất cả những bản chất vốn có của nó, tôn trọng những quy luật
khách quan của hiện thực. Nguyên tắc khách quan cũng đòi hỏi con người không được lấy ý
chí áp đặt cho thực tế; không được lấy ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân bất
chấp điều kiện thực tế làm xuất phát điểm cho chiến lược và sách lược cách mạng; không rơi
vào chủ quan duy ý chí. Nếu thực hiện không đúng hoặc đi ngược lại những yêu cầu này, sẽ
rơi vào sai lầm khác nhau, mà điển hình là chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong nhận thức và
hành động, gây ra những hậu quả to lớn cho dù hoạt động ở bất cứ lĩnh vực nào.
Thực tiễn đã chứng minh, sự lựa chọn chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố quyết định cho mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bước sang giai đoạn cách mạng mới, với những
thời cơ, vận hội to lớn nhưng cũng không ít thách thức, trở ngại; kiên định chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng ta luôn quan tâm đến việc học tập,
nghiên cứu, quán triệt và vận dụng chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực
tiễn; Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về lý luận chính trị với nền tảng là chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước và chỉ đạo, giám sát tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, đạt được nhiều kết
quả quan trọng.
Nhận thức của cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và quần chúng nhân dân về ý nghĩa, vai trò, giá trị
bền vững của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không ngừng được nâng cao.
Công tác học tập, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được quan tâm thường xuyên, trở thành một trong những
nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, và của cả hệ thống
chính trị.
Thời gian qua, lực lượng Công an nhân dân luôn gương mẫu, đi đầu trong học tập, quán triệt,
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công tác, chiến
đấu; đã chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch; từng bước khẳng định bản lĩnh chính trị, kiên trung, tuyệt đối trung thành
với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, việc học tập, quán triệt vận dụng chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nói chung, sự nghiệp bảo đảm
an ninh, trật tự nói riêng ở nước ta cũng còn những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thay
đổi của tình hình. Một số đảng viên, cán bộ, chiến sĩ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Công tác đấu tranh phản bác các luận
điệu tuyên truyền, xuyên tạc, quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Hiện nay, bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó
dự báo, đã có tác động trực tiếp, tiêu cực đến công tác bảo vệ an ninh, quốc phòng, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội; đặc biệt từ sau sự kiện sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và các nước Đông âu sụp đổ, các thế lực thù địch phản động, chống đối trong và ngoài nước
ráo riết đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phá hoại tư tưởng, chống Đảng, Nhà nước ta
với trọng tâm là xóa bỏ nền tư tưởng chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
gây ra không ít hệ lụy, hậu quả trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Điều này đặt ra yêu cầu phải tăng cường giáo dục
nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời quán triệt,
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là trách nhiệm của hệ thống chính
trị, trong đó có lực lượng Công an nhân dân.
Câu 35: ptich câc yếu tố ảnh hưởng quy mô tích lũy
Có 4 yếu tố:
1. Nâng cao trình độ bóc lột công nhân bằng cách kéo dài thời gian lao động và nâng cao
cường độ lao động, hoặc cắt xén tiền công
Ta giả định sức lao động bán thei đúng giá trị, nhưng tring thực tế, khi đội quân thất nghiệp
đông đảo thì nhà tư bản tìm mọi cách để hạ tiền công thấp hơn giá trị lao động (cắt xén)=>
quỹ tiêu dùng thiết yếu của công nhân chuyển thành quỹ tích lũy tư bản
2. Nâng cao sức sản xuất lao động từ đó tăng năng suất lao động xã hội
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội, trừu tượng của ng sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Do đó khi tăng năng suất lao động xã hội sẽ hạ thấp giá trị tư liệu sinh hoạt dẫn
đến hạ thấp giá trị sức lao động dẫn đến tạo ra giá trị thặng dư tương đối, từ đó với cùng
một lượng tư bản khả biến, có thể mua nhiều sức lao động hơn, đồng thời có thể dành phần
giá trị thặng dư cho tích lũy nhiều hơn. Mặt khác, nhờ hoàn thiện và hạ thấp giá trị tư liệu
sản xuất, nên cùng một lượng giá trị thặng dư đã dc tích lũy có thể chuyển thành khối lượng
tư liệu sản xuất lớn hơn để mở rộng quy mô sản xuất
3. Chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà quy mô hiện vật của chúng
đều hoạt động trong quá trình sản xuất. Còn tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu
lao động chuyển vào sản phẩm theo từng chu kì sản xuất dưới dạng khấu hao. Nếu máy móc
càng hiện đại thì sau khi khấu hao hết, chúng coi như phục vụ kh công cho nhà tư bản=> tạo
ra nhiều giá trị thặng dư=> tăng quy mô tích lũy tư bản
4. Quy mô tư bản ứng trước
Tư bản ứng trước là tư bản chi ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Với mức độ bóc
lột nhất định thì khối lượng giá trị thặng dư là do số công nhân quyết định, tư bản tăng sẽ
thuê dc nhiều công nhân hơn=>thu dc nhiều giá trị thặng dư=> tích lũy tư bản
Câu 37 ý nghĩa PPL của qui luật quan hệ sản phù hợp với trình độ sản đối sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã ở Việt Nam hiện nay?
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay Quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa
phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ
phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động.
Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là két quả của mệnh lệnh hành chính,
của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy
luật kinh tế, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí. Nhận thức đúng đắn quy luật này
có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ
sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước
hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận
dụng đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh
tế ở Việt Nam hiện nay.
Câu 38 Vận dụng mối quan hệ biện chứng với cơ sở hạ tầng và kiến thượng tầng ở Đảng
trong sự nghiệp đổi mới đất nước?
Để giải quyết mối quan hệ then chốt các cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Đảng và nhà nước ta đã không ngừng tìm hiểu, phân tích từng mặt cụ thể và
đã nhận thức được bản chất, khunh hướng vận động và sự phát triển của sự vật
hiện tượng vào thực tiễn tình hình đất nước. Từ đó đã đề ra những biện pháp cụ
thể khác nhau để giải quyết các mối quan hệ đó. Trên những nguên tắc nhất định
cụ thể là:
Việc xây dựng đất nước phải đi từ đầu, từ gốc đến ngọn cả cơ sở hạ tầng
đến kiến trúc thượng tầng. Việc xây dựng kiến trúc thượng tầng phải xuất phát từ
yêu cầu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn và mỗi nước phát triển kinh tế là
góp phần củng có và hoàn thiện các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, đối với
kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính tri và các mặt khác của đời sống xã hội,
hai kỳ đại hội Đảng VI Và VII đã khảng định:
* Về cơ sở hạ tầng: Khảng định sự tồn tại của nhiều phương thức sản xuất (thành phần kinh
tế), nhiều quan hệ sản xuất trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất theo định hớng XHCN.
Sử dụng các thành phần kinh tế trong sự liên kết chặt chẽ và chủ đạo trong
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc bảo đảm phát triển sớm nhất, năng
xuất, hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho người lao động, đồng thời hướng
dẫn các thành phần khác đi đúng quỹ đạo của đinh hướng xã hội chủ nghĩa.
Không được nóng vội, làm trái với quy luật phát triển khách quan của xã hội,
từng bước khai hoá nền sản xuất theo định hướng mới.
Về kiến trúc thiện tầng lấy chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm ‘’kim chỉ nam “ cho công cuộc đổi mới, cho hoạt động xây dựng hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản đắc chất giải cấp công nhân, do đảng
cộng sản(đội tiên phong) lãnh đạo. Toàn bộ xã hội thuộc về nhân dân, dân làm
chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát triển, củng
cố vững vai trò to lớn của Đảng và Nhà Nước đối với toàn xã hội, đặc
biệt là chức năng kinh tế của nhà nứơc. Đồng thời, nhà nước cũng đề ra đường
nối chính sách để phát huy tính năng động của cơ sở hạ tầng, phát huy mọi khả
năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội phục
vụ lợi ích của toàn đảng, toàn dân.
Tóm lại, giải quyết được mối quan hệ, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thiện tầng, đang tồn tại trong xã hội, là một quá trình phức tạp, khó khăn, lâu dài.
Khi giải quyết được mối quan hệ cũ thì lại nảy sinh mối quan hệ mới, đó là một
quá trình biện trứng, diễn ra không ngừng, chính điều đó đã tạo động lực thúc đẩy
sự phát triển đất nước, nên trong xã hội bao giờ cũng tồn tại mối quan hệ biện
trứng, do đó chúng ta phải chấp nhận mối quan hệ đó.
Câu 39: Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong sự nghiệp xây dựng
CNXH ở Việt Nam .
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã được C.Mác vận dụng vào phân tích xã hội tư bản,
vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của
hình thái kinh tế – xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn
kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều
kiện cụ thể của nước ta.
Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính lànền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa“.
Theo quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với
xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng
sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ
công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính
trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển
giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết
tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
CÂU40: VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỚI VIỆC PHÁT
HUY NHÂN TỐ CỦA CON NGƯỜI TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY?
Tuần hoàn của tư bản
Tư bản công nghiệp (với nghĩa là tư bản trong các ngành sản xuất vật chất) trong quá trình
tuần hoàn đều vận động qua ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức và thực hiện ba chức
năng:
a) Giai đoạn thứ nhất
Nhà tư bản dùng tiền để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Quá trình lưu thông đó được
biểu thị như sau:

Chức năng giai đoạn này là biến tư bản tiền tệ thành hàng hóa dưới dạng tư liệu sản xuất và
sức lao động để đưa vào sản xuất, gọi là tư bản sản xuất.
b) Giai đoạn thứ hai
Nhà tư bản tiêu dùng những hàng hóa đã mua, tức là tiến hành sản xuất. Trong quá trình sản
xuất, công nhân hao phí sức lao động, tạo ra giá trị mới, còn nguyên liệu được chế biến, máy
móc hao mòn thì giá trị của chúng được bảo tồn và chuyển dịch vào sản phẩm mới. Quá trình
sản xuất kết thúc, lao động của công nhân làm thuê đã tạo ra những hàng hóa mới mà giá trị
của nó lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất mà nhà tư bản đã mua lúc ban đầu, vì trong đó có
giá trị thặng dư do công nhân tạo ra.
Sự vận động của tư bản ở giai đoạn này biểu thị như sau:

Trong công thức này H’ chỉ tư bản dưới hình thái hàng hóa mà giá trị của nó bằng giá trị của
tư bản đã hao phí để sản xuất ra nó cộng với giá trị thặng dư.
Kết thúc của giai đoạn thứ hai: tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.
c) Giai đoạn thứ ba:
Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. Hàng hóa của nhà tư bản được
chuyển hóa thành tiền. Công thức vận động của tư bản ở giai đoạn thứ ba biểu thị như sau:
H’ – T’
Kết thúc giai đoạn ba, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản tiền tệ. Đến đây mục đích
của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó,
nhưng với số lượng lớn hơn trước.
Số tiền bán hàng hóa đó, nhà tư bản lại đem dùng vào việc mua tư liệu sản xuất và sức lao
động cần thiết để tiếp tục sản xuất và toàn bộ quá trình trên được lặp lại.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản công nghiệp trong cả ba giai đoạn ta có sơ đồ sau
đây:

Trong sơ đồ này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi biến hoá hình thái có
quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau. Trong các giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực
lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất.

You might also like