Professional Documents
Culture Documents
T ôi đó đọc cuốn sách “Ba cơ chế Thị trường, Nhà nước và Cộng đồng, ứng
dụng cho Việt Nam” của Đặng Kim Sơn. Từ lõu, tụi vẫn nghĩ rằng, Đặng
Kim Sơn là một nhà nghiờn cứu khoa học cũn trẻ tuổi xứng đáng là một
người nghiờn cứu khoa học, điều đó rất đáng quý và khụng phải dễ thấy. Đặng
Kim Sơn nghiên cứu chủ yếu về kinh tế, nhưng không chỉ về kinh tế mà quan tâm
đến mọi chiều cạnh của cụng cuộc đổi mới và phỏt triển đất nước ta.
Đọc cuốn sỏch này, một lần nữa, ý nghĩ trờn đây của tôi được xỏc nhận và
củng cố. Qua từng trang sỏch, tụi cú niềm thớch thỳ của một người gặp điều bổ
ớch mà mỡnh cần, và cú niềm vui mừng của một người nhiều tuổi gặp một tư duy,
một trớ tuệ, một tấm lũng đáng trân trọng của một người cũn trẻ và nhiều triển
vọng.
Trong cuốn sỏch này, tỏc giả đó sử dụng một hệ thống khỏi niệm (cơ chế, cơ
chế thị trường, cơ chế nhà nước, cơ chế cộng đồng, sự kết hợp tối ưu giữa 3 cơ
chế, và nhiều khỏi niệm kinh tế, chớnh trị, xó hội khác...), đó là những cụng cụ
của nhận thức và thao tỏc khoa học và thực tiễn của tỏc giả. Những khỏi niệm
trong hệ thống khỏi niệm ấy núi chung là quen thuộc trong giới nghiờn cứu, giới
hoạch định chớnh sỏch và giới quản lý, song hiện nay, ở nước ta cũng như trên
thế giới, thường được hiểu theo nhiều cỏch khỏc nhau. Cỏch hiểu của tỏc giả
cuốn sỏch này là một cỏch hiểu, mà người đọc cú thể đồng ý, cũng cú thể cú chỗ
không đồng ý. Điều ấy thiết nghĩ không ngăn trở việc tỡm hiểu sự giói bày những
ý tưởng của tỏc giả trong cỏc phần của cuốn sỏch.
Qua nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu trước đây và qua cuốn sách này, Đặng Kim
Sơn tự thể hiện là một người rất coi trọng lý luận, luụn cố gắng vươn lên sự
chuẩn xỏc và rừ ràng trong tư duy, nhưng không sính học thuật. Khi phõn tớch về
từng vấn đề, Đặng Kim Sơn tỡm được và nờu ra, trong cỏc hộp của cuốn sỏch
này, nhiều thớ dụ sinh động, cú sức thuyết phục, của nhiều nước, ở nhiều thời, và
nhất là Đặng Kim Sơn có ý thức liờn hệ với thực tế Việt Nam ta một cỏch thiết
thực , như một người trong cuộc luụn luụn lo toan gúp phần, dự nhỏ bộ và khiờm
tốn, mang lại tiến bộ và thành cụng cho cụng cuộc lớn của đất nước mỡnh.
Điều rất đáng quý của cuốn sỏch này là tinh thần tỡm tũi, là khỏt vọng sỏng
tạo, hướng về phỏt hiện cỏi mới đúng đắn, mạnh dạn đề xuất và đảm nhận trỏch
nhiệm về chủ kiến riờng của bản thõn tỏc giả.
Người đọc, nhất là cỏc vị học giả, cỏc nhà nghiờn cứu, cú thể dễ thấy chỗ cũn
khiếm khuyết của cuốn sỏch này, và cú thể không đồng ý, nhiều hay ớt, với tỏc
giả, từ phương pháp luận chung đến nội dung chi tiết của chương này mục khác.
Đó là điều bỡnh thường. Hơn thế nữa, đó có thể là một dấu hiệu đáng hoan
nghênh về sự phong phỳ cú giỏ trị đặt vấn đề và mở tranh luận của một cụng
trỡnh.
Xin khụng giới thiệu gỡ thờm về nội dung cuốn sỏch, nội dung ấy được trỡnh
bày linh hoạt, cú sức hấp dẫn, như đang đón chờ người đọc. Chỉ xin được nờu
một ý nghĩ riờng rằng, vào lúc chúng ta đang tổng kết 20 năm đổi mới và bắt tay
soạn thảo kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, cuốn sỏch này là một đóng góp đáng trân
trọng vào việc nghiờn cứu, đề ra kiến nghị về phỏt triển kinh tế, xó hội ở nước ta/.
Ngày 4/5/2004
2
Lời nói đầu
Có lẽ bàn về vấn đề nhà nước, thị trường và cộng đồng là một
điều liều lĩnh và không cần thiết vì đã có hàng rừng tài liệu, hàng
núi công trình, đề cập đến các lĩnh vực này hàng trăm năm nay
nếu không nói là hàng ngàn năm nay. Cuốn sách này không lạm
bàn về lý luận mà chỉ đề cập một vài vấn đề rút ra từ thực tế để
tìm ứng dụng thiết thực.
Trong các nghiên cứu kinh tế xã hội xưa nay, người ta thường coi thị trường và
nhà nước là những lực lượng chính thúc đẩy và điều hành sự tiến hoá của xã hội
loài người. Các nghiên cứu trong vài thập kỷ gần đây thêm vào vai trò của thể chế
với tư cách là quan hệ giữa con người với nhau và làm công cụ của hai lực lượng
nhà nước và thị trường1. Câu chuyện của cuốn sách này thử nhìn theo một cách
khác, nâng mối quan hệ giữa người với nhau trong cộng đồng lên thành một lực
lượng ngang hàng với nhà nước và thị trường, nhìn nhận nó như một động lực
tham gia thúc đẩy và điều hành sự phát triển xã hội để có thể thêm một hướng suy
nghĩ cho vấn đề thú vị và phức tạp này. Nhà nước, thị trường và cộng đồng trong
sách này được nghiên cứu dưới khía cạnh như những phương cách điều chỉnh
quan hệ xã hội loài người mà không đi sâu vào các nội dung khác như tổ chức,
thiết chế,…
Khác với khái niệm thể chế khi nói về “thể chế nhà nước”, “thể
chế thị trường”, trong đó, các quan hệ xã hội giữa con người, các
quan hệ trong cộng đồng thường được gọi chung là hoạt động
của thể chế bao gồm cả khía cạnh tổ chức2, cuốn sách này chỉ
bàn đến khía cạnh “cơ chế” hoạt động của thị trường, nhà nước
và cộng đồng, với nghĩa cơ chế là cách thức hoạt động, là phương
thức xử lý đặc trưng của nhà nước, thị trường và cộng đồng nhằm
điều chỉnh quan hệ kinh tế xã hội của con người.
“Cơ chế” dường như một khái niệm trìu tượng, được người ta
đổ cho mọi tội lỗi khi xã hội vướng phải những sai phạm trầm
trọng và cũng được dùng để giải thích cho những thành công
trong xã hội mà nguyên nhân mang tính tổng hợp khó lý giải. ở
nước ta, rất nhiều sai lầm đã được qui cho cơ chế “tập trung -
quan liêu - bao cấp” của mô hình “kinh tế kế hoạch” trước kia.
1
Xem Thể chế-cải cách thể chế và phát triển lý luận và thực tiễn ở nước ngoài
và Việt Nam, CIEM, NXB Thống Kê, 2002;
2
Douglass C. North, Các thể chế, sự thay đổi thể chế và hoạt động kinh tế,
NXB Khoa học Xã hội, 1998.
3
Lại có nhiều tệ nạn xã hội, méo mó trong kinh tế ngày nay đang
bị coi là “mặt trái của cơ chế thị trường”. Khái niệm “cơ chế”
trong những lập luận trên, có lẽ đúng hơn là nói về “thể chế”
(theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới3).
Vì vậy, xin làm rõ rằng các từ ngữ được sử dụng trong sách này
như “cơ chế”, “cộng đồng”,… không mang ý nghĩa của các
khái niệm học thuật thông thường của các tài liệu kinh tế, xã
hội kinh điển. Tên gọi “cơ chế” ở đây chỉ nêu lên khía cạnh công
cụ, phương cách, giải pháp để đạt mục tiêu điều chỉnh quan hệ
xã hội của các tác nhân trong xã hội. Tên gọi “cộng đồng” trong
sách này để chỉ loại cơ chế quan hệ và xử thế giữa từng cá nhân
hoặc giữa các nhóm người với nhau trong xã hội theo một số qui
luật tự nhiên trong xã hội loài người. Cách gọi này tuy có thể
không hoàn toàn thỏa đáng, xin bạn đọc rộng lòng cho phép
trong khuôn khổ cuốn sách này.
Vậy “cơ chế” theo nghĩa này có mặt ngang mũi dọc ra sao ? và
quan trọng hơn là có thể điều khiển được cơ chế của nhà nước,
thị trường và cộng đồng phục vụ cho sự phát triển của xã hội
được hay không? cuốn sách này trong chừng mực nhất định, thử
bàn về hai câu hỏi trên, câu trả lời có thể đáp ứng phần nào hoặc
chưa thoả mãn người đọc cũng là điều đương nhiên, bởi vì câu
chuyện này nói về sự vận hành khó hiểu của ba“cơ chế”, của ba
“bàn tay” đầy uy lực tạo nên quan hệ xã hội loài người.
Tác giả xin chân thành cảm tạ học giả Trần Việt Phương, giáo sư
Đào Thế Tuấn, tiến Sỹ Lê Đăng Doanh, tiến sỹ Trử Văn Lâm, tiến
sỹ Lê Du Phong đã đọc bản thảo, chân thành góp ý và thẳng thắn
phê bình. Cảm thông với đề tài viết về một lĩnh vực phức tạp, cuốn
sách này có vinh dự được học giả Trần Việt Phương và giáo sư Đào
Thế Tuấn tận tình viết một số ý kiến giới thiệu khái quát kiến thức
tham khảo cho độc giả về các nội dung liên quan, xin trân trọng
giới thiệu với bạn đọc.
* *
3
Theo định nghĩa này, thể chế là “luật chơi” (chính thức và phi chính thức),
bao gồm cơ chế thực thi, và các tổ chức (gắn với hành vi của chúng). Xem WB.
2002
4
Giáo sư Đào Thế Tuấn giới thiệu một số khái
niệm liên quan
1. Về quan hệ giữa ba khu vực thể chế: Nhà nước, Thị trường
và Xã hội dân sự (hay Cộng đồng ?)
Trên thế giới từ giữa các năm 1970 có xu hướng chuyển từ kinh tế do các quy
tắc quản lý sang kinh tế thị trường do giá điều tiết. Sự chuyển đổi này do các tổ
chức kinh tế quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB)
hướng dẫn, gọi là Đồng thuận Washington (Washington concensus). Tuy vậy sau
15 năm thực hiện phương hướng này qua các chương trình ổn định và điều tiết ở
các nước đang phát triển, kết quả của việc tự do hoá rất mâu thuẫn. Bên cạnh các
trường hợp thất bại của Nhà nước, có rất nhiều thất bại của thị trường. Thị trường
không thể tự điều tiết được. Kinh nghiệm của các nước Đông á cho thấy cần phải
có một Nhà nước mạnh mới điều tiết được thị trường. Cần một Nhà nước kiểu
mới, không phải là Nhà nước ban ơn (Providential State) mà là một Nhà nước tác
nhân của thị trường (Market actor State). Để giải quyết vấn đề này không phải chỉ
cần có các cơ chế mới của Nhà nước và thị trường mà phải có các thể chế mới,
trong đó có cả các tổ chức mới.
Lý thuyết Kinh tế học thể chế mới ra đời chính là để xây dựng các thể chế có
thể giúp giải quyết đươc quan hệ giữa Nhà nước và Thị trường. Do đấy không
những nó được các nhà kinh tế học mà cả các nhà quản lý chào đón. Kinh tế học
thể chế mới là công trình nghiên cứu tập thể của nhiều nhà kinh tế học, chủ yếu có
R. Coase (giải thưởng Nobel 1991), O. Williamson và D. North (giải thưởng
Nobel năm 1993).
Trong quá trình phân công lại giữa Nhà nước và Thị trường người ta thấy có
một số việc Nhà nước không nên làm nữa, nhưng Thị trường cũng không làm
được, phải giao cho các thể chế mới: các tổ chức này được xây dựng trên cơ sở
của sự thương lượng, hợp tác, thuyết phục, đại diện cho hành động tập thể. Các tổ
chức này có mặt ở tất cả các cấp, thâm chí cả mức toàn cầu, vì vậy người ta gọi
khu vực này là xã hội dân sự (civil society) hay xã hội công dân (civic society).
Khái niệm xã hội dân sự chính do Marx dùng đầu tiên lúc phê phán học thuyết của
Hegel. Trước đây xã hội dân sự được hiểu chỉ bao gồm các tổ chức phi chính phủ
nay được hiểu rộng hơn nhiều gồm tất cả các tổ chức không thuộc Nhà nước và
thị trường. Gần đây vai trò của xã hội dân sự ngày càng được đề cao và nhiều thể
chế mới đã ra đời qua các Diễn đàn xã hội thế giới.
5
Khái niệm cộng đồng thường vẫn được dùng trong khoa học xã hội. Tuy vậy
thường người ta hiểu cộng đồng đã tồn tại lâu đời trong lịch sử, là một khái niệm
không có thời gian tính, còn xã hội dân sự là một hiện tượng hiện đại.
Vai trò của cộng đồng trong sự phát triển là một đề tài tranh luận trong khoa
học xã hội. Có người cho nó là tích cực nhưng cũng có người cho là tiêu cực. Thí
dụ trong sự phát triển của làng xã châu á, ý kiến của các nhà nghiên cứu về vai trò
của cộng đồng làng xã rất mâu thuẫn vì có nhiều nơi có những cộng đồng làng xã
chặt chẽ, như ở miền Bắc Việt Nam, nhưng có nơi, như ở miền Nam Việt Nam,
làng xã ít mang tính cộng đồng cộng đồng.
Gần đây người ta cho rằng cộng đồng chỉ có tác dụng tích cực lúc nó tích luỹ
được vốn xã hội (social capital), là các tiêu chuẩn và quan hệ xã hội cho phép nhân
dân có khả năng phối hợp các hành động tập thể. Chính vốn xã hội đã biến các
cộng đồng thành xã hội dân sự. Xã hội dân sự bao gồm các tổ chức công dân (civic)
và xã hội.
6
Nhiều nhà khoa học đã cố gắng nêu ra định nghĩa thể chế, tính chất, nội dung,
phạm vị, các loại hình, tầm quan trọng của thể chế. ở đây, xin nhắc lại vắn tắt như
sau:
Quan niệm thông thường về thể chế được vạch rõ trong các cuốn từ điển phổ
thông. Theo cuốn “Từ điển tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học, xuất bản năm
2000, thể chế là: “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người
phải tuân theo (nói tổng quát)”. Quan niệm thông thường như vậy, tuy không thật
đầy đủ, và do đó không hoàn toàn chuẩn xác, song rất có ích cho nhận thức và
hành động của mọi người.
Quan niệm học thuật về thể chế đương nhiên là phong phú hơn, tinh tể hơn, đa
dạng hơn (tức là có những quan niệm khác nhau). Quan niệm học thuật về thể chế
được số đông độc giả đồng ý hoặc chấp nhận gồm mấy điểm chính sau đây:
1. Thể chế là các luật lệ, quy tắc của một xã hội, từ cấp quốc gia (có khi
liên quốc gia) đến cấp cộng đồng nhỏ nhất, hướng dẫn, khuyến khích,
ca ngợi, khen thưởng (những điều gì đó), lên án, trừng phạt (những
điều gì đó), ngăn cấm, ràng buộc (những điều gì đó), nhờ vậy mà tác
động đến cách nghĩ, cách cảm, cách làm, cách sống (phương Tây
thường chỉ nói hẹp hơn, là tác động đến hành vi) của mọi con người
trong chế độ xã hội ấy.
2. Có nhiều loại thể chế và nhiều cách phân loại thể chế. Hai cách phân
loại thể chế quan trọng nhất là:
Một, có loại thể chế tự hình thành (phương Tây gọi là thể chế tự phát, từ “tự
phát” không có sắc thái biểu cảm xấu, mà có nghĩa là “tự thân phát triển”), thí dự
như thể chế thị trường “tự do”, không có sự can thiệp chính trị, kinh tế, xã hội nào
khác ngoài thị trường; lại còn có loại thể chế được quyết định và bảo đảm (kể cả
đòi hỏi) thực hiện bởi một quyền lực như Nhà nước, nhà thờ, cộng đồng làng xã,
cộng đồng dòng họ...
Hai, có loại thể chế Nhà nước, từ lập pháp (luật của Quốc hội), lâp quy (Nghị
định, quyết định của Chính phủ) đến luật lệ (của chính quyền cấp dưới, về từng
lĩnh vực, ở từng nơi, không có giá trị quốc gia, và phải phù hợp với lập pháp, lập
quy), loại thể chế Nhà nước này đến nay vẫn giữ vai trò lớn nhất, tác động sâu
rộng nhất; lại có loại thể chế phi Nhà nước (có khi được gọi là thể chế xã hội,
nhưng gọi thế không đúng, vì thể chế Nhà nước cũng là một loại thể chế xã hội),
thể chế phi Nhà nước rất nhiều và vài thập kỷ nay có tầm quan trọng ngày càng
tăng lên cả trong thực tiễn và trong lý luận.
3. Thể chế hiểu đầy đủ, theo nghĩa rộng, gồm 3 bộ phận:
7
Một, các luật lệ, các quy tắc (kể cả các phong tục, tập quán, chuẩn mực
xã hội). Theo nghĩa hẹp (hiện thông dụng ở nước ta), thì đây chính là thể
chế, là khái niệm đầy đủ về thể chế. Quả thật như vậy có lẽ là quá hẹp.
Hai, các tổ chức, mỗi tổ chức là một tập đoàn người được kết hợp với
nhau một cách nhất định, có chức năng xây dựng và bảo đảm thực hiện
một loại thể chế nhất định.
Ba, các phương tiện và phương pháp mà các tổ chức và các con người
vận dụng để thực hiện các thể chế, và rộng hơn nữa, là bản thân sự
thực hiện các thể chế, với kết quả đúng hay sai, nhiều hay ít, tốt hay
xấu. Như vậy, theo nghĩa rộng nhất, thì thể chế bao gồm cả sự thực
hiện và kết quả thực hiện thể chế.
Có những học giả cho rằng thể chế chỉ là các luật lệ và quy tắc; cũng có những
học giả cho rằng thể chế bao gồm cả ba phần vừa nêu trên đây. Một nhà khoa học
khá nổi tiếng ví một cách hình ảnh rằng nghiên cứu thể chế mà chỉ nghiên cứu các
luật lệ, quy tắc thì chẳng khác nào nghiên cứu màu người mà tách rời không liên
quan tới hệ tim mạch, và toàn bộ cơ thể của con người (chúng ta biết rằng chỉ một,
hai xăng-ti-mét khối máu cũng được quyết định bởi và cũng biểu hiện rõ ràng ra
hàng chục chỉ số về chỗ mạnh và chỗ yếu, chỗ lành và chỗ bệnh của hầu hết các
bộ phận trong cơ thể con người).
4. Trong các khoa học, cho đến nay duy chỉ có kinh tế học có một bộ môn
tự đặt tên là học thuyết kinh tế thể chế. Nhưng thể chế không chỉ là về
kinh tế (tuy thể chế kinh tế là loại rất quan trọng), mà thể chế bao quát
mọi hoạt động và đời sống xã hội. Từ lâu, nhiều khoa học khác nhau
đã nghiên cứu thể chế. Chính các học giả thuộc học thuyết kinh tế thể
chế (cũ và mới) đều công nhận rằng, dẫu chỉ nghiên cứu thể chế kinh
tế, thì đương nhiên chủ yếu là vận dụng kinh tế học, song cũng phải
vận dụng các thành tựu của chính trị học, luật học, hành chính học, xã
hội học, sử học, nhân học, văn hoá học, toán học, vật lý học, công nghệ
thông tin, cùng nhiều ngành khoa học khác. Một cái nhìn hẹp hòi, thiển
cận thì chỉ đạt được những kết quả thiển cận, hẹp hòi thôi.
5. Về tầm quan trọng của thể chế, đến nay các nhà nghiên cứu, các nhà
cầm quyền, các nhà quản lý và những người dân thường đều thấy thể
chế có tầm quan trọng to lớn, cơ bản, một số nhà khoa học cho rằng
tầm quan trọng của thể chế là cơ bản nhất, quyết định nhất đối với sự
phát triển của một đất nước, một chế độ xã hội, nhất là vào những bước
ngoặt, những thời kỳ thay đổi về chất (cả bản chất và chất lượng) của
một quốc gia.
8
Tiếp đây sẽ điểm lại vắn tắt sự phát triển của quan niệm về thể chế từ khoảng
250 năm nay, tức là từ giữa thế kỷ 18, trong các học thuyết kinh tế và trong đời
sống kinh tế của các dân tộc.
Kinh tế học cổ điển (trước đây thường gọi là kinh tế chính trị học cổ điển),
được gợi ý và báo trước bởi những nhà tư tưởng lín như Locke và Hume, đã ra đời
vào giữa thế kỷ 18, với những vị chủ tướng xuất sắc là Smith, Ricardo, Marshall...
Trên nền tảng lý luận và phương pháp luận của kinh tế học cổ điển, vào khoảng
thập kỷ thứ 2 và thứ 3 của thế kỷ 19, đã xuất hiện kinh tế học tân cổ điển, mà hai
đóng góp nổi bật nhất thời ấy là khái niệm kinh tế cận biên (đầu tư cận biên, giá
cận biên, lợi nhuận cận biên...) và việc sử dụng rộng rãi các công thức, các mô
hình toán vào kinh tế. Hai nhà kinh tế tân cổ điển hoạt động từ thời ấy, đến nay
vẫn hay được nhắc đến là Walras và Pareto. Từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 21
này, kinh tế học tân cổ điển từng thời gian vẫn có những bước tiến triển, và hiện
nay vẫn đang là lý luận và phương pháp luận giữ vị trí ưu trội trong kinh tế học,
đặc biệt là trong trào lưu được mang tên “trào lưu chính trị của kinh tế học”.
Cần nói ngay rằng các nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển đều có biết đến vấn
đề thể chế, nhiều người có nghiên cứu và viết về thể chế, thí dụ tiêu biểu là Adam
Smith đã có công trình rất hay và sâu về thể chế, chứ không phải là người chỉ đề
xướng bàn tay vô hình của thị trường. Tuy nhiên sự thật không ai chối cãi là kinh tế
học cổ điển và kinh tế học tân cố điển đã xem nhẹ vấn đề thể chế, không chú trọng
đúng mức đến thể chế, không dành cho thể chế vị trí và tầm quan trọng đích đáng.
Sở dĩ như vậy là vì kinh tế học cổ điển, và nhất là kinh tế học tân cổ điển, có ba
đặc điểm nổi bật sau đây:
1. Phương pháp luận là cá nhân, lấy tác nhân kinh tế cơ bản là từng con
người. Nói rõ hơn, đó là “con người kinh tế” vốn có trong mỗi con
người, “con người kinh tế” có bản chất là: dự báo giỏi, phản ứng
nhanh, điều chỉnh tốt, hợp lý hoá, và hướng tới tối ưu hoá. Do đó, việc
từng con người luôn luôn theo đuổi lợi ích của riêng mình, thông qua
“bàn tay vô hình” của thị trường, sẽ đưa đến sự hợp lý hoá xã hội. Một
phương pháp luận như vậy tất nhiên dành ưu tiên cho phương pháp
phân tích vi mô.
2. Điển hình của mô hình kinh tế tân cổ điển là mô hình thị trường cạnh
tranh thuần khiết và hoàn hảo (tuyệt đối không có độc quyền, cũng
không có yếu tố hạn chế cạnh tranh), trong các hoạt động kinh tế hoàn
toàn không có chi phí giao dịch (nói cách khác, chi phí giao dịch bằng
zê-rô).
9
3. Kinh tế học tân cố điển cường điệu đến mức nhiều khi gần như tuyệt
đối hoá các nhân tố vật chất (hoặc vật thể) của sản xuất, chung quy lại
là lao động (cơ bắp) và vốn (dưới các hình thức khác nhau, kể cả đất
đai và tài nguyên thiên nhiên khác cũng được coi là những loại vốn).
Đương nhiên, các nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phải không biết
đến các nhân tố như giáo dục, đào tạo, phân công lao động, tổ chức và quản lý,
khoa học và công nghệ... nhưng họ đã xem nhẹ những nhân tố ấy, mà họ cho là
nhân tố ngoại sinh, chứ không phải nhân tố nội sinh của kinh tế.
Theo sự tóm tắt thô thiển, nhưng không đến nỗi sai lạc trên đây, thì quả là khó
hiểu rằng một lý luận như vậy mà lại giữ được vị trí ưu trội trong kinh tế học hàng
thế kỷ, cho đến thời đương đại. Từ lâu, giới kinh tế học một mặt công nhận những
thành tựu hiển nhiên của kinh tế học tân cổ điển, song mặt khác đã vạch rõ rằng
nó quá xa thực tế đời sống và bất lực không giải thích được có sức thuyết phục
nguyên nhân của thành quả kinh tế khác nhau giữa các nước, nguyên nhân của sự
phát triển, sự chậm phát triển và sự thoái triển, đặc biệt là không giải thích được
những bước ngoặt, những thay đổi về chất của các nền kinh tế.
Quả thật các nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển đã có sự mù quáng, đó
không phải là sự mù quáng của người kém trình độ, không biết nhìn, không biết
phân tích, mà là sự mù quáng của hệ thống và chân trời lý luận. Đã theo (thậm chí
đã đề xướng) hệ thống ấy và ở trong chân trời ấy, thì người giỏi cũng không nhìn
thấy những gì ở ngoài hệ thống, ngoài chân trời của mình.
Từng có nhiều lý luận, nhiều học thuyết kinh tế ra đời và phát triển, khác nhiều
hoặc thậm chí đối lập hẳn với kinh tế học cổ điển và kinh tế học tân cổ điển. Nổi
tiếng nhất, có giá trị nhất là Kinh tế học Mác vào giữa và nửa cuối thế kỷ 19, tiếp
đó là Kinh tế học Keynes vào đầu thập kỷ 3 của thế kỷ 20. ở đây không phải là
chỗ nói về Mác và Keynes, chỉ xin nêu lên rằng: Có những công trình nghiên cứu
và cả những cuốn sách phổ cập đã kê ra hàng mấy chục vấn đề kinh tế lớn và vừa,
về mỗi vấn đề lại lần lượt trình bày quan điểm Kinh tế tân cổ điển, quan điểm
Kinh tế Mác, quan điểm Kinh tế Keynes, và phân tích so sánh 3 quan điểm ấy.
Liên quan đến học thuyết kinh tế thể chế, đáng giới thiệu là một số nhà kinh tế
thể chế và sử kinh tế đã khẳng định rất có căn cứ và lý lẽ rằng Mác là nhà kinh tế
đầu tiên đã nghiên cứu sâu và có phát hiện mới về các thể chế kinh tế và các thể
chế liên quan đến kinh tế, có người dứt khoát đặt vị trí lịch sử của Mác là nhà tiền
bối của Học thuyết kinh tế thể chế, cả cũ và mới. Căn cứ của họ là những thành
tựu khoa học của Mác về vai trò của lực lượng sản xuất và các nhân tố toàn diện
hợp thành lực lượng sản xuất; về vai trò của quan hệ sản xuất, đặc biệt là của chế
độ sở hữu và chế độ phân phối (tức là những thể chế kinh tế rất cơ bản); về quan
hệ (lúc phù hợp, lúc mâu thuẫn) giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về
10
mối tương tác giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (tức là những thể chế
chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội).
Đương nhiên, cần nhấn mạnh rằng phương pháp luận của Kinh tế học Mác
khác hẳn phương pháp luận của Kinh tế học thể chế, đó là hai hệ thống, hai chân
trời lý luận khác nhau, đưa đến những kết quả khác nhau.
Ngoài Kinh tế học Mác và Kinh tế học Keynes, cũng còn những học thuyết,
những trường phái kinh tế khác, đều có ý định vượt quá và thay thế, từng phần
hoặc toàn bộ Kinh tế học tân cổ điển, bổ khuyết những thiếu sót của kinh tế học
tân cổ điển. Đáng kể hơn cả, có lẽ là “lý thuyết tăng trưởng mới”, nội sinh hoá
tiến bộ khoa học công nghệ vào kinh tế, và học thuyết kinh tế thể chế, nêu bật vai
trò rất to lớn, nhiều khi quyết định của các thể chế và sự thay đổi thể chế trong
thành quả của các nền kinh tế.
Theo cách gọi thông dụng, học thuyết kinh tế thể chế cũ ra đời ở Mỹ vào thập
kỷ thứ 2 và thứ 3 của thế kỷ 20, với những nhà khoa học nổi tiếng là Veblen,
Mitchell và nhất là Commons. Học thuyết này được báo trước và gợi ý rất nhiều
bởi “trường phái lịch sử” trong kinh tế học ở Đức đầu thế kỷ 20. Người xuất sắc
nhất của trường phái lịch sử Đức là Gustav Schmoller, năm 1926 đã được
Schumpeter đánh giá là “cha đẻ” của học thuyết kinh tế thể chế Mỹ. Còn học
thuyết kinh tế thể chế mới thì ra đời vào thập kỷ thứ 7 của thế kỷ 20 ở Mỹ và một
số nước khác, từ đó phát triển đến nay. Những học giả nổi bật của học thuyết này
là North, Williamson, Thomas, Weingast... Về học thuyết kinh tế thể chế, nhất là
học thuyết kinh tế thể chế mới, xin nêu tóm tắt mấy điểm:
Phương pháp luận của học thuyết kinh tế thể chế mới là cố gắng thực hiện một
sự cân đối thích đáng giữa cá nhân (từng con người) với cộng đồng (các cấp, các
loại), giữa phân tích vi mô, trung mô và vĩ mô. Về cá nhân từng con người, do coi
trọng các thể chế kinh tế, xã hội, nên con người của học thuyết kinh tế thể chế mới
không phải là con người kinh tế (homo-economicus), mà là con người xã hội
(homo-sociologicus), phong phú hơn, toàn diện hơn con người kinh tế. Đó là chỗ
học thuyết kinh tế thể chế mới khác với kinh tế học tân cổ điển và chừng mực nào
gần hơn với kinh tế học Keynes và Kinh tế học Mác.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng phương pháp luận của học thuyết kinh tế thể
chế mới tuy cố gắng giữ cân đối giữa cá nhân và cộng đồng, song vẫn nặng về cơ
sở cá nhân hơn, đó là chỗ nó gần với kinh tế học tân cổ điển và xa với kinh tế học
Keynes và kinh tế học Mác.
Học thuyết kinh tế thể chế mới, như cái tên của nó, đi sâu nghiên cứu các thể
chế và có nhiều phát hiện, nổi bật là về năm phạm trù thực tế và lý luận sau đây:
11
1. Sở hữu và chế độ sở hữu (với cả hai tư cách là thể chế thuần tuý kinh tế
và thể chế pháp lý). Chế độ sở hữu có nhiều loại, song chủ yếu là sở
hữu tư nhân.
Chú trọng nghiên cứu sở hữu là một điểm khác biệt lớn giữa học thuyết
kinh tế thể chế mới với kinh tế học cổ điển và kinh tế học tân cổ điển,
những lý luận này mặc nhiên coi sở hữu kinh tế là sở hữu tư nhân và
không nghiên cứu gì sở hữu cả, ngay đến người nổi tiếng nhất của kinh
tế học cổ điển là Adam Smith cũng vậy.
Một thành tựu quan trọng của việc nghiên cứu về sở hữu là sự hiểu biết
mối quan hệ giữa người chủ sở hữu và người đại diện (gọi là “lý luận
về đại lý”), có những hệ quả thiết thực trong hoạt động kinh tế.
2. Do chú trọng đến sở hữu mà học thuyết kinh tế thể chế mới phát hiện
và nghiên cứu sâu về chi phí giao dịch các loại, điều trái ngược với
kinh tế học tân cổ điển coi chi phí giao dịch bằng zê-rô.
Nói vắn tắt, chi phí giao dịch là chi phí phát sinh khi những chủ sở hữu khác
nhau cung ứng cho nhau sản phẩm hoặc dịch vụ (qua mua bán, vay mượn, cầm
cố), hoặc chuyển nhượng, mua bán sở hữu với nhau. Những sự trao đổi như vậy
đòi hỏi các cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức phải có thông tin, tôt nhất là
thông tin cần và đủ, tức là không thiếu, không thừa; chi phí để có thông tin (cũng
là một loại chi phí giao dịch) có thể rất cao.
3. Chế độ sở hữu và chi phí giao dịch thúc đẩy sự nghiên cứu của học
thuyết kinh tế thể chế mới về các loại hợp đồng, bởi lẽ hợp đồng là thể
chế kinh tế rất phổ biến, gắn liền với sở hữu, giao dịch và chi phí giao
dịch.
4. Học thuyết kinh tế thể chế mới đã xem trọng nghiên cứu các tổ chức,
tức là mặt tổ chức của thể chế, đặc biệt trong vài thập kỷ gần đây, từ đó
có những thành quả nghiên cứu quan trọng về Nhà nước, tổ chức
Chính phủ, nền hành chính và cải cách hành chính, các tổ chức phi
Chính phủ, các tổ chức quốc tế...
5. Học thuyết kinh tế thể chế mới không nghiên cứu thể chế trong trạng
thái tĩnh, mà trong trạng thái động, đặc biệt nghiên cứu sự thay đổi thể
chế, nguyên nhân, tiến trình và hệ quả của sự thay đổi thể chế, nhất là
tác động của sự thay đổi thể chế đối với công cuộc phát triển các nền
kinh tế các quốc gia.
Cũng như đối với các học thuyết kinh tế khác, sự tóm tắt trên đây là thô thiển,
rất không đủ, chỉ là sự giới thiệu rất lướt qua.
12
Học thuyết kinh tế thể chế mới đã có những thành tựu lý luận và thực tiễn quan
trọng, song cũng có những giới hạn rõ rệt mà chính nhiều nhà khoa học nổi tiếng
của học thuyết ấy đã công nhận và phân tích. Cũng nên nêu lên nhận xét rằng cho
đến nay, trong tất cả các học thuyết kinh tế của loài người, chưa có học thuyết nào
thành công như hứa hẹn.
Nếu chỉ nói một điều về giới hạn của học thuyết kinh tế thể chế mới, mà tạm
gác những vấn đề về bản chất và nguyên tắc phương pháp luận, thì điều đó có lẽ
như sau: coi nhẹ thể chế là cái sai lớn, còn quá cường điệu thể chế là cái lầm to.
ở đây, một lần nữa chúng ta gặp vấn đề mức, thường liên hệ chặt với vấn đề
chất. Triết học, khoa học và thực tiễn của loài người cho chúng ta nhận thức rằng:
nhiều khi mức quan trọng không kém gì chất, mức và chất là một cặp sinh đôi
trong sự phát triển của thiên nhiên, xã hội, kinh tế và con người.
Một điều đáng chú ý cần được nhấn mạnh là: cải cách thể chế và phát triển
kinh tế, xã hội ở các loại nước khác nhau và ở nước ta đã không chỉ dựa vào học
thuyết kinh tế thể chế mới, mà đã cố gắng vận dụng các thành quả tích cực của
nhiều học thuyết kinh tế, ở nước ta thì đặc biệt chú trọng vận dụng kinh tế học
Mác, cũng như vận dụng nhiều khoa học có liên quan, như khoa học về Nhà nước,
hành chính học, xã hội học,...
13
- Nguyên tắc của quan hệ cộng đồng dựa trên trách nhiệm đối với cộng
đồng và uy tín cá nhân,
- Tôn ti trật tự dựa trên kế hoạch và mệnh lệnh, phát triển mạnh trong
những tổ chức quản lý theo chiều dọc, trong những xã hội thay thế giao
dịch tài chính bằng dịch vụ,
- Thị trường định đoạt bởi thương lượng giữa người mua người bán,
tính toán dựa trên thông tin tổng hợp của giá cả4.
Peter H Calkins, trong “Chiến lược chuyển đổi sang một Trật tự Thế giới mới
cho năm thế giới Nông thôn”, đã đưa ra quan điểm về nguyện vọng của loài người
hướng tới ba cực là mục tiêu của trật tư thế giới mới. Đó là trục phúc lợi vật chất
của thị trường, trục xã hội của Nhà nước và trục tinh thần, đạo đức của “quan hệ
có đi, có lại”. Ba trục này chụm lại với nhau tạo thành một không gian ba chiều,
và theo Calkins thì các cộng đồng, các quốc gia trên thế giới trong những thời
điểm nhất định, đều nằm đâu đó trong không gian này. Các nước công nghiệp
theo cơ chế thị trường nằm trên vị trí cao của trục vật chất. Các nước xã hội chủ
nghĩa theo kinh tế kế hoạch đã từng nằm ở mức cao của trục xã hội. Những cộng
đồng thổ dân và các nước “thế giới thứ ba” nằm ở điểm cao của trục đạo đức hình
thành trên “quà cáp và sự có đi, có lại”. Xuất phát từ giả định về “sự giới hạn của
tài nguyên sinh thái trên trục vật chất và xung đột tiềm năng giữa tự do cá nhân và
luật và trật tự trên trục xã hội” tác giả kết luận rằng: hầu hết các bối cảnh kinh tế
thế giới đều bị phát triển lệch lạc, thiên về thị trường và nhà nước5.
Nếu sự nhìn nhận của Root chủ yếu từ góc độ quản lý kinh tế, nhằm đánh giá
khả năng thông tin và ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia giao dịch để
đảm bảo cam kết và thực hiện các hợp đồng của mình trong tương lai, nếu cách
diễn giải của Calkins nhằm giải thích các định chế hoạt động và xu hướng phát
triển của các cộng đồng, các quốc gia, các nền kinh tế, thì trong cuốn sách này, ba
cơ chế được xem xét dưới một góc độ khác. Đó là những công cụ điều chỉnh các
quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội nói chung của con người, hoạt động chi phối của
chúng thể hiện qua việc điều hành trật tự, hoạt động xã hội; quản lý kinh tế, điều
phối tài nguyên; giải quyết mâu thuẫn, xung đột; định hướng phát triển, và nhiều
hoạt động kinh tế xã hội khác… Tác động điều chỉnh của các cơ chế được thực
hiện dựa trên 3 hoạt động là định danh, thông tin và thưởng phạt.
4
Xem Hilton Root Sách chưa xuất bản.
http://usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhirctavn.html
5
Fulbright Economic Teaching Program. 2001-2002.
14
Trong sách kinh điển về nghiên cứu thể chế6, Douglass C. North đã xem xét
một cách tỉ mỉ và khoa học các hình thức vận động của thể chế (với nghĩa là các
hình thức giới hạn mà con người tạo ra để hình thành nên quan hệ qua lại của
mình) trong hoạt động kinh doanh của thị trường và hoạt động của chính trị của
nhà nước. Trong khuôn khổ nghiên cứu cơ chế của cuốn sách này, không bàn đến
vấn đề tổ chức. Các hình thức tổ chức chỉ được xem xét dưới góc độ những tác
nhân tham gia các giao dịch xã hội. Ví dụ, cũng là các tổ chức nhà nước nhưng
khi tìm hiểu quan hệ kinh doanh giữa chúng với nhau thì chúng ta xem xét cơ chế
thị trường của chúng; khi xem xét khía cạnh tranh chấp quyền lực chính trị thì
chúng được nhìn nhận dưới khía cạnh cơ chế nhà nước; trong quan hệ ngoại giao,
hợp tác thì được nhìn bằng con mắt của cơ chế cộng đồng.
Năng lực của ba “bàn tay” điều chỉnh các quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị
xã hội, các mối quan hệ phân bố sử dụng tài nguyên, thông tin, công nghệ,… thể
hiện ở sức mạnh và cơ chế hoạt động của chúng. Sức mạnh của mỗi “bàn tay” thể
hiện ở thực lực và kỹ năng của chúng. Sức mạnh của nhà nước ngày xưa được đo
lường bằng số lượng dân cư, qui mô lãnh thổ, quân số binh sỹ... ngày nay được so
sánh bằng mức tăng và qui mô GDP, chỉ số phát triển con người HDI, chi tiêu
quân sự..; Sức mạnh của một thực thể về hoạt động thị trường được đo lường bằng
khả năng cạnh tranh, khả năng tích tụ tư bản, trình độ công nghệ, năng lực liên
thông buôn bán, hiệu quả đầu tư, khả năng lan truyền tín hiệu giá cả để điều phối
tài nguyên, mức độ tiết giảm chi phí giao dịch,...; Sức mạnh của cộng đồng thể
hiện ở khả năng phân cấp, giao quyền, mức độ tham gia ra quyết định và tự huy
động lực lượng của nhân dân, trình độ hoạt động tự giác và tự chủ của tổ chức cơ
sở,...
Hình thức hoạt động của cơ chế nhà nước là các khuôn khổ
cứng của luật pháp, qui định và hoạt động can thiệp vào hoạt
động kinh tế xã hội. Thị trường hoạt động theo hình thức tự do,
thông qua hoạt động buôn bán trao đổi, các bên tham gia đều có
lợi, cạnh tranh trong kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Cộng đồng
vừa dùng các khung luật lệ qui định, vừa phát huy vai trò tự chủ
để thoả thuận, xây dựng các cam kết về nghĩa vụ và quyền lợi.
Tóm lại, năng lực tác động xã hội của thế lực nhà nước là khả
năng ràng buộc, can thiệp và xây dựng, của thị trường là mức độ
liên thông, cạnh tranh và tự cân đối, của cộng đồng là năng lực
giao tiếp, đàm phán và tự điều chỉnh.
6
Xem North D. C. 1990, NXB Khoa học xã hội 1998.
15
Bản chất hoạt động của ba cơ chế.
Hoạt động của cơ chế thị trường :
Xét về khía cạnh thông tin, tín hiệu chính của thị trường là giá
cả, phản ánh “giá trị kinh tế”, thể hiện mức độ khan hiếm của
hàng hoá, dịch vụ được buôn bán. Môi trường lan truyền thông tin
kinh doanh là khu vực tham gia
hoạt động giao dịch thương mại. Để
mô hình hoá các hoạt động này,
người ta thường mô phỏng trên
máy tính các mô hình “cân bằng
cung cầu” trong đó thông tin giá cả
chuyền lan theo nguyên tắc “bình
thông nhau” hay trong phạm vi
toàn bộ không gian thông tin để
đạt tới cân bằng giữa sản xuất và
tiêu thụ. Ví dụ một cách trực quan, trong chừng mực nhất định,
mô hình này về nguyên tắc giống như những sa bàn được người
ta đắp nổi với qui mô nhỏ nhưng có cùng tỷ lệ địa hình, mô
phỏng lại địa thế sông ngòi để cho nước chảy vào nhằm xem xét
diễn biến phân bổ dòng chảy và mức độ ngập lụt trong các công
trình thủy lợi hoặc lưu vực sông.
Theo mô hình thị trường cổ điển của Walras7, các hàng hoá
phải giống nhau, trao đổi giao dịch diễn ra cùng thời điểm và địa
điểm, các bên tham gia nắm đủ thông tin và điều kiện trao đổi,
hay nói cách khác, chi phí giao dịch được coi như không đáng kể.
Do cả ba tác động (cạnh tranh cung, cạnh tranh cầu và thương
lượng mua bán) cùng diễn ra liên tục gần như trong cùng thời
gian nên có thể hình thành một điểm thống nhất cân bằng
chung, đó là giá cả tức thời trên thị trường. Tín hiệu giá do đó bao
hàm trong nó cả thông tin về người sản xuất (công nghệ, qui mô,
hiệu quả,...) cả thông tin về người mua (thu nhập, thị hiếu, sự cần
thiết,...) và thông tin về người bán (chi phí giao dịch, hệ thống
kinh doanh…). Do được hình thành một cách khách quan, nên
trong một thị trường thông thoáng, giá tại các địa điểm giao dịch
khác nhau về cơ bản sẽ phải tiến đến cân bằng, phản ánh giá trị
hàng hoá chung của xã hội. Giá cả là hình thức thông tin đặc biệt
hiệu quả của cơ chế thị trường. Joseph Stiglitz viết: “…đặc tính
7
Dẫn theo North D. C. 1990, NXB Khoa học xã hội 1998
16
quí báu của một xã hội thị trường là các thông tin rải rác được
tập trung lại và được phản ánh thông qua giá cả và những động
cơ khuyến khích mà giá cả tạo ra đối với hành vi của con người
không cần đến sự tập trung thông tin hay lập kế hoạch mang tính
tập trung hoá nào.8”
a b
A1 a2 b b2
1
Kết cấu hoạt động của cơ chế thị trường xét một cách đơn giản
gồm có hai khối tác nhân chính đối lập nhau: khối các tác nhân
phía cung (khối A) gồm các nhà sản xuất cùng tham gia làm ra
một mặt hàng và bên kia là khối các đối tác cầu (khối B) cùng
tham gia tiêu thụ chung một mặt hàng. Trong khối cung A, quan
hệ chính giữa các nhóm trong khối là cạnh tranh quyết liệt nhằm
giành thị trường, thị phần, kết quả là tại điểm cân bằng, lợi nhuận
chung giảm xuống mức thấp nhất cho phép, tương đương với trình
độ công nghệ và mức quản lý trung bình xã hội. Trong khối cầu B
diễn ra một quan hệ “hợp tác lỏng lẻo”. Ví dụ, người cùng mua
một sản phẩm thường tìm cách trao đổi thông tin với nhau về giá
cả, tham khảo nhau về chất lượng hàng hoá, độ tin cậy về nguồn
cung cấp, ở mức cao hơn thì hợp tác cùng nhau bảo vệ quyền lợi
người mua, nhằm mua được hàng hoá với giá thấp nhất để có
lượng hàng hoá cao nhất, với chất lượng tối đa trong phạm vi khả
năng chi tiêu bình quân của xã hội. Giữa hai khối cung A và cầu B
là quan hệ thoả thuận, mặc cả “thuận mua vừa bán”, tại điểm cân
bằng nhu cầu cân đối với cung cấp. Trong thực tế, trên thị trường,
có nhiều loại hàng hoá có mối quan hệ qua lại với nhau (thay thế,
phối hợp,…), cho nên bức tranh quan hệ chung của cơ chế thị
8
Dẫn theo Hilton Root Sách chưa xuất bản.
http://usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhirctavn.html
17
trường phức tạp hơn rất nhiều so với trường hợp đơn giản của thị
trường một hàng hóa.
a B
A a2 b b2
1 1
Ngoài ra, nếu như trên thị trường có khi chỉ mua bán trao đổi một loại hàng
hoá dịch vụ riêng biệt, thì việc trao đổi, mặc cả, tranh giành quyền lực và chính trị
19
thường bao gồm nhiều “hàng hoá và dịch vụ” khác nhau đi kèm (quyền lực chính
trị, xã hội, lãnh thổ, quyền sở hữu, quyền sử dụng, phân phối tài nguyên,...). Do
không có mặt hàng đồng nhất, không có thời gian giao dịch liên tục và đồng nhất
nên cơ chế nhà nước khác cơ chế thị trường là không tạo nên một giá trị chung có
thể làm thước đo cho mặt bằng quyền lực chung của các tác nhân tham gia giao
dịch giống như giá cả hàng hoá.
Ngoài quan hệ hai khối A và B thông thường như trong cơ chế thị trường, cơ
chế nhà nước còn có loại quan hệ xâm chiếm lãnh thổ, mở rộng quốc gia, trong
trường hợp này, cả khối A và B ban đầu (ví dụ gọi là A1, B1) sẽ tham gia với
quan hệ với một khối A2, B2 khác để hình thành khối mới là A3, B3. Thông
thường công cụ được dùng trong quá trình cạnh tranh dẫn đến đồng hóa, phối hợp
này là bạo lực chiến tranh, tuyên truyền, vận động, mua chuộc, bồi thường,... phức
tạp và quyết liệt. Ngược lại, quan hệ này cũng còn có dạng chia tách, ly khai của
các lãnh thổ, quốc gia độc lập hoặc đòi tự trị. Nhìn chung những yêu sách tranh
chấp lãnh thổ, quyền cai trị cũng thường là sự cạnh tranh quyền lực chính trị,
trong đó nhóm A cầm quyền (cả A1 và A2) đóng vai trò quan trọng trong việc ra
quyết định và chỉ đạo thực hiện. Mô hình quan hệ cơ chế nhà nước nêu trên với 2
khối tác nhân hơi khác mô hình “lý thuyết tân cổ điển về nhà nước” của Douglass
C. North9.
Trong cuốn sách "Cuộc chiến tranh Palopon", nói về cuộc nội chiến giữa người
Aten và người Xpac ở Hy Lạp cổ, sử gia Thukydides đã viết thay lời của một bên
trong cuộc tranh chấp: "giống như chúng tôi, các anh cũng hiểu rõ rằng trong mối
quan hệ con người với nhau, sự công bằng chỉ có hiệu lực khi lực lượng giữa các
bên cân bằng. Những kẻ mạnh sẽ thực hiện điều có thể, còn kẻ yếu sẽ chấp nhận
điều đó"10. Nhìn chung, tính chất cạnh tranh quyết liệt trong quan hệ trong nội bộ
nhóm A của cơ chế thị trường và cơ chế nhà nước khiến người ta thường coi
thương trường giống như chiến trường. Cũng vì tính cạnh tranh đối kháng ác liệt
một mất một còn khiến con người đổ nhiều công sức nghiên cứu, hình thành nhiều
học thuyết, tốn nhiều giấy mực để bàn về chiến lược, chiến thuật, đấu pháp trong
chiến tranh và thương mại.
Trong khi đó, ngay trong cơ chế thị trường và cơ chế nhà nước, các mối quan
hệ nội bộ trong nhóm B do tính chất tương đối hoà hợp nên ít được chú ýý nghiên
cứu. Càng về sau, người ta càng nhận thấy sự phức tạp và vai trò quan trọng của
9
Trong mô hình của North D. C. (1981, 2000), có kẻ cai trị và nhóm bị trị.
Người cai trị cung cấp sự bảo vệ và công lý một cách độc quyền cho thần dân
và thu thuế của họ. Trong khối bị trị, các nhóm khác nhau có chi phí cơ hội và
khả năng mặc cả khác nhau với kẻ cai trị. Giữa hai bên là những đại diện gồm
bộ máy quan liêu tham gia quản lý và những đại diện do các nhóm lợi ích khác
nhau bầu ra để tạo điều kiện trao đổi 2 bên.
10
Cuộc hành binh tới Bát Đa, Tuần báo Thời đại, CHLBĐ 13/2003.
20
chúng. Những mối quan hệ tưởng như êm dịu này thật ra đôi khi tác động mạnh
mẽ vào tiến trình phát triển. Một ví dụ là trường hợp ra đời và phát huy tác dụng
mạnh mẽ của lý thuyết kinh tế trọng cầu của Keynes vào nửa cuối thế kỷ 2011.
Trước đây, lý thuyết kinh tế cổ điển hướng vào tăng cung. Theo
đó, muốn kinh tế quốc gia tăng trưởng phải phát triển sản xuất
nhờ mở rộng sử dụng tài nguyên đất, lao động, tích lũy tư bản (và
công nghệ). Năm 1936, sau cuộc Đại khủng hoảng Thế giới, nhà
kinh tế Anh John Maynard Keynes phát triển lý thuyết kinh tế cho
rằng thu nhập thấp và thất nghiệp cao hạn chế tổng cầu mới là
nguyên nhân chính hạn chế tăng trưởng. Muốn khắc phục suy
thoái kinh tế, nhà nước phải sử dụng các công cụ tài chính và chi
tiêu chính phủ để tăng cầu, kích thích kinh tế phát triển.
Lý thuyết này công bố năm 1936 làm chấn động các giới kinh
tế và khi được áp dụng ngay sau đó một năm lập tức tỏ rõ kết quả
trong chương trình phục hồi nền kinh tế Mỹ đang trên đà suy sụp
nặng nề. Do tác dụng rõ rệt của nó, lý thuyết này tiếp tục ảnh
hưởng đến chính sách kinh tế Mỹ suốt giai đoạn từ thập niên 1940
đến tận thập niên 1970, thu hút sự chú ý của nhiều Tổng thống
Mỹ như Kennơđi đầu những năm 1960 và cả Bil Clintơn thập kỷ
1990 (Mankiw 1998). Điều kỳ lạ là ngay từ năm 1932 Chính phủ
Nhật tuy không hề biết đến lý thuyết Keynes đã áp dụng đúng đắn
các chính sách theo lý thuyết này khi quyết định tăng chi tiêu vũ
khí để kích cầu đưa nền kinh tế thoát khỏi suy thoái. Từ đó về sau,
tăng cầu, nhất là cầu của nông thôn luôn luôn là chính sách kinh
tế của Nhật.
Tương tự như vậy, quan hệ giữa các khối, các cá thể trong cơ chế cộng đồng có
vẻ “êm ả” hơn, nên dường như bị lãng quên một thời gian dài trong học thuật.
Nhưng càng ngày người ta càng ngạc nhiên khi nhận ra tầm quan trọng của chúng.
Không nghi ngờ gì, sự phát triển nhanh của kinh tế thể chế sẽ giúp hiểu sâu thêm
về các quan hệ cộng đồng và có thể tạo nên một bước ngoặt quan trọng về lý
thuyết cũng như ứng dụng phát triển.
11
Xem: Keynes, J.M. The General Theory of Employment, Interest and Money,
1936
21
Hoạt động của cơ chế cộng đồng :
Tín hiệu chính của cơ chế cộng đồng là “giá trị xã hội” biểu hiện uy tín xã hội
của mỗi con người hoặc từng tập
thể. Môi trường lan truyền thông
tin cơ chế cộng đồng là khu vực
chịu ảnh hưởng hoạt động xã hội
của các cá nhân và tập thể có quan
hệ. Thông tin truyền lan theo
nguyên tắc “tương tác tự nhiên”
giữa các tác nhân trong trường
thông tin để đạt tới một sự phối
hợp linh động.
Để mô hình hoá loại hoạt động này, có thể mô phỏng cung cách cư xử của từng
nhóm tác nhân xã hội khác nhau trong hoạt động kinh tế xã hội nhất định để đạt
đến một cân bằng quyền lợi chung. Về nguyên tắc, để điều chỉnh quan hệ cho
thích hợp với tương quan xã hội, giữa các thành viên trong cộng đồng thường
xuyên diễn ra sự quan sát, thăm dò thu thập thông tin liên tục theo kiểu "nhìn mặt
mà bắt hình dong". Sau khi phân tích thông tin, so sánh tương quan giữa mình và
và các tác nhân lân cận, mỗi cá nhân đưa ra cách ứng xử thích hợp với các đối tác
khác trong cộng đồng phù hợp với tương quan xã hội cho phép. Đôi khi sự điều
chỉnh này mang tính “thử-sai” và thuộc loại điều tiết tự thân. Ví dụ buổi sáng một
người rời nhà ra đường. Cách thức chào hỏi với những người gặp gỡ tuỳ theo
đánh giá của anh ta về mức độ thân sơ, thứ bậc xã hội, mức độ cần tranh thủ,... Có
người hôm qua chỉ gật đầu, nhưng hôm nay trở thành khách hàng quan trọng, phải
nói mấy câu lấy lòng. Có người trước đây vốn vui vẻ, hôm nay phải tỏ ra lạnh
nhạt, vì mới có chuyện mích lòng nhau...
Robert Axelrod trong cuốn “tiến triển của hợp tác” xuất bản năm 1984 chỉ ra
rằng: trong những quan hệ được lặp lại nhiều lần giữa con người, chiến lược giành
được thắng lợi là chiến lược “ăn miếng trả miếng” trong đó, mỗi người tham gia
hoạt động đáp trả lại theo cách đúng như cách cư xử của đối tác 12. Xem xét một
cách trực quan, cách nghiên cứu này giống như người nghiên cứu thả các rô bốt có
khả năng tương tác, nhận biết, phản ứng tự giác vào một sân chơi chung để cho
chúng tương tác ngẫu nhiên, từ đó tự học hỏi và hình thành luật chơi giữa chúng với
nhau.
a
12
Axelrod, R. 1984.
22
Xét về cơ cấu, trong trường hợp đơn giản nhất, nếu có hai cộng đồng quan hệ
với nhau thì hệ thống cũng được chia thành hai khối A và B, trong mỗi khối có
thể có nhiều cá thể được coi là bình đẳng với nhau về quan hệ. Hình thức quan hệ
giữa các cá thể trong một khối khá đặc biệt, có tính chất vừa phối hợp vừa cạnh
tranh, có thể gọi là mối quan hệ “tương tác”. Sự cạnh tranh và hợp tác này không
mạnh và diễn ra qua lại, tự điều chỉnh dần. Mối quan hệ giữa hai khối lớn cũng
giống quan hệ của các thành viên trong cộng đồng, là quan hệ “tương tác”, vừa
cạnh tranh yếu vừa hợp tác yếu.
Trong các quan hệ này, chi phí giao dịch là rất đáng kể để thực hiện các hoạt
động định danh, thông tin, thưởng phạt. Đồng thời do các hoạt động này cần có
thời gian thực hiện nên các giao dịch được coi một cách tương đối là diễn ra cùng
lúc nhưng trong một khoảng thời gian nhất định và chịu ảnh hưởng của thông tin
tích lũy từ trước về đối tác tham gia giao dịch.
Các cá thể trong cơ chế cộng đồng không mang ý nghĩa là các tổ chức mà là
các tác nhân (actors, stakeholders) khác nhau trong xã hội. Đó có thể là những cá
nhân con người, có thể là các cộng đồng địa phương, có thể là các cộng đồng
chuyên môn, cũng có thể là các quốc gia. Trong thực tế, quan hệ tương tác thường
có thể diễn ra giữa nhiều nhóm đồng đẳng với nhau tạo nên bức tranh phức tạp
hơn nhiều về cân bằng quyền lợi giữa các cộng đồng. Ngoài ra, bức tranh cộng
đồng còn ở mức phức tạp cao do trong mỗi khối có thể chia ra những nhóm nhỏ
không bình đẳng nhau trong quan hệ và hình thức quyền lợi của các cộng đồng
cũng rất đa dạng.
Tóm lại, trong cơ chế thị trường các tương tác diễn ra liên tục, nếu xét riêng
từng tương tác thì diễn ra coi như đồng thời về không gian và thời gian (cả A-A,
A-B). Trong cơ chế nhà nước, các tương tác tuy xảy ra liên tục nhưng cách quãng
theo thời gian hơn. Trong khối A-A tập trung thành từng thời kỳ ngắn quyết liệt
sau đó ổn định tương đối trong một chu kỳ để tích luỹ thay đổi lực lượng cho lần
thay đổi sau. Giữa hai khối A-B tương quan thay đổi diễn ra liên tục trong khoảng
thời gian “yên tĩnh” của A-A. Trong cơ chế cộng đồng, các quan hệ tương tác
cũng xảy ra liên tục và xét riêng từng giao dịch thì xảy ra trong thời gian nhất định
và còn chịu cả ảnh hưởng từ thông tin và kinh nghiệm của các giao dịch, quan hệ
diễn ra từ trước (kèm theo dư âm trễ của hoạt động cũ).
23
hội loài người. Ba mâu thuẫn chính về quyền lực, lợi nhuận, và quyền lợi, trong
xã hội loài người được cơ chế nhà nước, thị trường và cộng đồng điều chỉnh để
đạt đến điểm cân bằng có lợi nhất trong qui luật hoạt động xã hội. Đã là qui luật
khách quan thì sự hình thành và tồn tại của 3 “bàn tay” phải nằm ngoài sự dàn xếp
của con người. Chúng vận hành một cách khách quan nhờ những động lực tạo ra
chúng tồn tại một cách tự nhiên.
Sự khách quan của nhà nước.
Như mọi sinh vật khác, quyền đầu tiên và quan trọng nhất là quyền sinh tồn
của con người. Khó có lời lý giải về lý do của sự sống. Mọi người sinh ra đương
nhiên phải có quyền sống, muốn duy trì sự sống, muốn phát triển bình thường và
có điều kiện để tiến hoá và duy trì nòi giống, con người phải thỏa mãn được
những yêu cầu thiết yếu của mình. Lốccơ viết: "Luật của tự nhiên là bắt buộc vì
nó là tự do", theo ông, quyền tự nhiên của con người là tối cao và bất khả xâm
phạm. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền sở hữu...13 Đó là các quyền cơ
bản được thể hiện trong Hiến pháp của nhiều quốc gia như quyền có việc làm, có
nhà ở, có lương thực, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do ngôn luận, bất khả xâm phạm
về thân thể, bình đẳng nam nữ, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, … Những quyền tự
nhiên ấy hình thành một cách hoàn toàn khách quan vì sự tồn tại và phát triển của
bản thân loài người.
Khi Hồ Chí Minh viết:
“ Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”14.
Có lẽ là nhắc đến những luật tự nhiên tối cao do tạo hóa ban cho con người.
Với các quyền này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình
đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc15”.
Dân quyền thường nằm trong lời nói đầu của Hiến pháp của một số quốc gia
dưới dạng Tuyên ngôn Nhân quyền, thậm chí còn có giá trị pháp lý cao hơn Hiến
pháp. Hiến pháp Đệ ngũ Cộng hoà Pháp viết: “Nhân dân Pháp long trọng tuyên bố
trung thành với bản Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1789”16.
13
Thông, H. V. (và tập thể tác giả) NXB Chính trị Quốc gia 2000
14
Báo Nhân Dân, 30/1/1977
15
Tuyên ngôn Độc lập, 1945
16
Sơn, B. N., Cơ sở của chế độ bảo hiến, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng quốc
hội , 12/2003.
24
Vì các luật lệ này đảm bảo những nhu cầu cơ bản nhất về sự sinh tồn và lẽ sống
của con người nên được nhân dân thể hiện thành pháp luật căn bản của loài
người17 và sau đó mới là các pháp luật thứ phát do các nhà nước tạo nên. Từ các
luật lệ mang tính căn bản đến các luật lệ thứ phát theo sau, tạo thành hệ thống qui
tắc chính thức được nhà nước ban hành và giám sát thực hiện bằng các biện pháp
cưỡng chế và tuyên truyền giáo dục. Xã hội loài người tổ chức nên nhà nước
chính là vì cần có cơ chế để bảo vệ và thực hiện các quyền tự nhiên và thiết yếu
của con người. Thủa hình thành, tổ chức nhà nước gắn với hiện tượng phân chia
giai cấp trong xã hội nhưng suốt quá trình tiến hóa của loài người, thể chế nhà
nước tồn tại được vì nhu cầu khách quan của con người.
Động lực của cơ chế nhà nước là tối đa hoá quyền lực chính trị, từ mâu thuẫn
chính là “mỗi người đều dành quyền lực” sẽ tạo nên lợi ích chính trị chung của xã
hội. Trong phạm vi “khối A”, thông qua cạnh tranh chính trị hoà bình của chế độ
dân chủ, hoặc cạnh tranh vũ lực giữa các chế độ khác nhau, sẽ chọn lọc ra những
cá nhân đại diện tiêu biểu nhất, những lực lượng chính trị mạnh nhất, từ đó hình
thành tính hiệu quả và hợp lý của cương lĩnh chính trị chung cho xã hội. Giữa
“khối A” và “khối B”, sự đấu tranh và thoả thuận giữa thống trị và bị trị cũng dẫn
đến sự cân bằng lợi ích trong quan hệ quản lý. Kết quả là thống nhất hành động,
tối đa hoá tiện ích công cộng mà người dân được hưởng. Một khi chỉ có thể chế
mạnh mới tồn tại vững bền, chỉ có chính quyền có hiệu quả mới được nhân dân tín
nhiệm, chỉ có chính sách đúng mới được nhân dân tuân theo, thì cơ chế nhà nước
sẽ thể hiện được lýý do tồn tại khách quan của mình.
18
Hayek, Tính tự phụ chết người, NXB Đại học Chicago, 1988, Dẫn theo Hilton
Root.
26
Sự khách quan của cộng đồng
Con người là sinh vật xã hội, muốn cùng tồn tại và phát triển ổn định trong xã
hội, trước hết mọi người phải tìm ra và thống nhất cung cách cư xử với nhau. Bàn
tay bán vô hình của cộng đồng bao hàm các qui tắc ràng buộc quan hệ con người
mang tính phi chính thức như các giá trị, chuẩn mực, cung cách ứng xử của con
người trong tập thể cộng đồng hoặc giữa các cộng đồng với nhau. Chúng đã hình
thành từ khi quan hệ giữa người với người vượt lên trên các quan hệ bầy đàn của
các loài động vật có sinh hoạt xã hội khác.
Những câu như:"Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau"; "Đi hỏi già, về nhà hỏi
trẻ";"Lời chào cao hơn mâm cỗ"... là các qui tắc hình thành từ kinh nghiệm hàng
ngàn đời truyền lại hoặc được đúc kết thông qua nguyên tắc “thử-sai” trong thực
tế cuộc sống, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo, nhằm tiến đến quan hệ xã hội
ổn định, an toàn và mang lại quyền lợi cho mọi cá nhân, vì vậy mang tính khách
quan từ bản chất. Từ các kết luận trong đời sống khái quát lên thành các chuẩn
mực hành xử của phong tục, tập quán, truyền thống, đạo lý, các qui tắc này lại
thường xuyên được điều chỉnh, đánh giá lại qua hiệu quả thực tiễn, tuy có dạng
kinh nghiệm nhưng vẫn giữ tính thực dụng rõ nét, bảo đảm được sự gần gụi với
thực tế khách quan.
Động lực của cộng đồng là tối ưu hoá quyền lợi của mọi thành viên thông qua
thoả thuận và hợp tác phối hợp luật chơi chung. Mâu thuẫn nội bộ luôn hình thành
và thay đổi tuy không mạnh mẽ. Cũng giống như trong cơ chế thị trường, mâu
thuẫn "ai cũng muốn tạo ra ảnh hưởng có lợi cho mình" trong xã hội rút cục lại
đem lại lợi ích chung cho mọi người. Trong mỗi cộng đồng, các thành viên trong
quá trình cạnh tranh không gay gắt luôn có động lực hướng về hoàn thiện mình để
có uy thế xã hội mạnh hơn. Cố gắng này giúp xã hội trở nên hiệu quả, sự hợp tác
nhẹ nhàng giữa các tác nhân giúp đạt tới cân bằng quyền lợi tập thể, và sự cọ sát
giữa các cộng đồng hướng tới điểm đồng nhất về quyền lợi chung của xã hội. Kết
quả đạt đến là tối đa hóa sự ổn định của môi trường xã hội thông qua sự đồng
thuận về luật chơi và giải pháp.
Mâu thuẫn dẫn đến đấu tranh, nhờ đấu tranh hình thành động lực phát triển.
Cạnh tranh tạo ra cơ hội để chọn lọc, chọn lọc đem lại hiệu quả ngày càng cao.
Đây là qui luật chung trong sự vận động của thế giới tự nhiên và cũng là qui luật
của xã hội loài người. Trong ba bàn tay, cơ chế nhà nước và thị trường luôn tiềm
ẩn và sôi sục những mâu thuẫn và hoạt động cạnh tranh mạnh mẽ, một mất một
còn, có lẽ cũng chính vì vậy mà đời sống thương mại, hoạt động kinh tế, đời sống
chính trị luôn luôn sống động, muôn hình vạn trạng, thúc đẩy sự phát triển như vũ
bão của khoa học công nghệ và kinh tế quản lý. Mô hình mới, lý thuyết mới luôn
ra đời để giải thích, tổng hợp kiến thức mới của con người.
27
Trong khi đó, trong khuôn khổ cơ chế cộng đồng, mâu thuẫn “nhẹ nhàng”,
cạnh tranh cũng ở mức độ “vừa phải” nên quá trình tiến hoá, thay đổi không nổi
bật như hai cơ chế trên. So sánh với sinh giới, có lẽ nếu như nhà nước và thị
trường đóng vai trò tạo "biến dị" thì cộng đồng đóng vai trò "di truyền" trong xã
hội loài người. Nó cho phép con người thực hiện những điều chỉnh nhỏ giữa các
cá thể đủ để lưu giữ lại, chuyển giao các giá trị truyền thống giữa các thế hệ, vận
hành ổn thoả trong khuôn khổ những gì đã hình thành giữa những lần “đột biến”.
Ba cơ chế này khác biệt nhau về mức độ tự nhiên. Cộng đồng luôn luôn có mặt
khi con người giao tiếp, quan hệ với nhau nên mang tính phổ biến, bền vững một
cách tự nhiên nhất. Thị trường xuất hiện khi con người cần buôn bán, trao đổi
hàng hoá dịch vụ, có phạm vi và điều kiện giới hạn hơn nhưng vẫn mang tính
khách quan rõ nét. Nhà nước là quan hệ của con người mang tính tổ chức xã hội
rất cao nên có khung phạm vi hẹp hơn và mang tính chủ quan hơn cả.
19
Hilton Root Sách chưa xuất bản.
http://usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhirctavn.html
20
Xem phần “ Mệnh lệnh cứng và mệnh lệnh mềm” Trong “Mặt xấu của cơ
chế cộng đồng”.
28
Tương tự như vậy, thương lượng cũng không chỉ là công cụ của cơ chế thị
trường mà còn được áp dụng rộng rãi trong cơ chế cộng đồng. Sự khác biệt giữa
hai hình thức thương lượng là chúng được tiến hành dựa trên những căn cứ khác
nhau. Cơ chế thị trường tiến hành thương lượng dựa trên mặt bằng giá cả chung,
được hình thành một cách khách quan theo quan hệ cung cầu và các chi phí giao
dịch cần thiết, còn cơ chế cộng đồng thực hiện việc thương lượng dựa vào khả
năng thông tin giữa các đối tác, trên triển vọng làm ăn lâu dài, trên kỹ năng và lợi
thế đàm phán.
Ngoài ra, cơ chế cộng đồng không chỉ vận hành dựa trên trách nhiệm với cộng
đồng và uy tín cá nhân như những định đề cho trước theo cách H. Root21 mô tả,
mà cái chính là dựa trên các hoạt động về thông tin, đàm phán, thoả thuận, qui
định thống nhất,… để xây dựng nên sự tin cậy và ràng buộc giữa các thành viên
trong cộng đồng, hình thành nên luật chơi và trật tự của cộng đồng trong quá trình
phát triển theo kiểu “ăn miếng trả miếng”, “ông trao chân giò, bà thò nậm rượu”.
Các qui chế, kể cả chính thức và không chính thức là công cụ của cả ba cơ chế.
Cơ chế nhà nước có các qui chế chính trị, luật pháp… qui định trật tự thứ bậc,
trình tự hoạt động của tổ chức nhà nước,…; cơ chế thị trường có qui chế kinh tế,
hợp đồng… xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền phân chia lợi ích,…;
cơ chế cộng đồng có các qui chế luật tục địa phương, các qui định gia đình…
Đóng thuế
Bầu cử
Tóm lại, mỗi cơ chế được đặc trưng bởi một số hình thức hoạt động và vận
hành mang tính “chính thống”, đó là những phương thức hoạt động nổi trội, phù
hợp với bản chất và hình thức tổ chức của mỗi cơ chế. Ngoài ra còn có những
công cụ phụ trợ, thậm chí những công cụ “không chính thống” tuy cũng đặc trưng
cho cơ chế nhưng lại mang tính tiêu cực.
21
Hilton Root Sách chưa xuất bản.
http://usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhirctavn.html
29
Công cụ của cơ chế nhà nước
Trong mối quan hệ nhà nước, có hai khối chính là thế lực thống
trị (khối A) và thế lực bị trị (khối B), công cụ được sử dụng chính
của khối thống trị để quản lý nhà nước và lãnh đạo khối B là luật
pháp, thể chế, mệnh lệnh hành chính, bạo lực trấn áp, thông tin
tuyên truyền, cấp phát ngân sách hoặc chi tiêu của chính phủ,
thu thuế, huy động sức người...
Vua Hamurabi, quốc vương xứ Babilon vào thế kỷ 18 trước Công nguyên đã
ban hành bộ luật được ghi lại bằng văn tự đầu tiên của loài người còn lại đến ngày
nay, đánh dấu việc chuyển từ áp dụng cơ chế cộng đồng trong chế độ nô lệ sang cơ
chế nhà nước của chế độ phong kiến.
Bộ luật gồm 3 phần, trong đó vua thay trời ban hành luật lệ để bảo vệ giai cấp chủ
nô bằng 282 điều luật cụ thể về thủ tục tố tụng, quan hệ chủ và nô lệ, qui định bồi
thường thiệt hại, cho vay và trả nợ, hôn nhân, thừa kế, xử phạt. Bộ luật này được
khắc trên một cột đá, dựng ở nơi công cộng tại điện thờ Macđuc trong thành Xuxan.
Với việc qui định và thi hành pháp luật rõ ràng, vương quốc Babilon cổ từ một
quốc gia nhỏ yếu, sau 36 năm đã trở nên hùng mạnh, thống nhất toàn bộ vùng
Lưỡng Hà, trở thành một nhà nước tập quyền hùng mạnh. (Nguồn: 102 Sự kiện nổi
tiếng thế giới).
Ngược lại, khối B bị trị, dùng các công cụ như ý kiến công luận,
bầu cử, biểu tình, vận động hành lang... để giao tiếp và cân bằng
ảnh hưởng của mình với khối A.
Tùy theo gian đoạn phát triển của xã hội, cơ chế nhà nước có
thể thể hiện qua các biện pháp quản lý tập trung độc tài hoặc
dân chủ cộng hoà. Douglass C. North viết: “ở Beirut, các quyền
có giá trị nhất nằm trong lĩnh vực công cộng sẽ do những người
có thế lực nhất chiếm giữ, còn trong trường hợp ở Mỹ, cơ cấu luật
pháp sẽ xác định và bắt buộc thực hiện phần lớn các quyền”22.
Machiavelli tác giả của cuốn
sách The Prince được coi là tác
phẩm kinh điển của giới chính trị
phương Tây viết: "chỉ thu thuế
22
North D. C. 1990, NXB Khoa học xã hội 1998
30
mà không có quyền đại diện thì là độc tài", theo ông, đồng tiền
thuế và lá phiếu bầu là hai công cụ quan trọng và đối trọng nhau
để đảm bảo quan hệ giữa 2 khối A và B trong cơ chế nhà nước
vận hành êm ả. Nhưng cũng theo Machiavelli 23, công cụ chính
của quyền lực chính trị phải là lực lượng quân sự chứ không phải
là tôn giáo hay pháp luật. Có nhiều chính khách chia sẻ quan
điểm này. Với nhận xét nổi tiếng "súng đẻ ra chính quyền", trong
suốt cuộc đời chính trị của mình, Mao Trạch Đông không chỉ dùng
bạo lực vũ trang giành lấy nhà nước mà còn luôn dùng nó làm
hậu thuẫn cho các chính sách chính trị và quyền lực lãnh đạo của
mình.
Trong lịch sử, vũ lực thường vẫn được dùng như một giải pháp
chính trị khi các giải pháp chính trị hoà bình đã thất bại, ở Anh
thập kỷ 30 của thế kỷ 18 cũng như ở Bắc Mỹ những năm 30 của
thế kỷ 19, các cử tri đã dùng lá phiếu của mình xoá bỏ chế độ nô
lệ tàn bạo, nhưng ở phía Nam nước Mỹ, để làm được điều đó phải
dùng đến nội chiến đổ máu. Và những cuộc chiến tranh nhiều khi
cũng đem lại thất bại đau đớn mà chẳng thu được kết quả gì như
cuộc chiến của Bắc Triều Tiên tiến hành cuối thập kỷ 1950 không
đem lại thống nhất đất nước như mong đợi mà còn lôi vào vòng
chiến các cường quốc Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ,… sau khi tàn phá
đất nước lại trở lại nguyên trạng chia cắt hai miền như ban đầu.
23
Machiavelli, The Prince, 1527
31
Hộp 3: Thuế phải đi đôi với quyền đại diện - cuộc đấu tranh của nước
Mỹ thuộc địa
Thế kỷ 18, nước Mỹ bị thực dân Anh cai trị, nhân dân phải đóng thuế nặng nề
nhưng không có quyền bầu cử, quyền phát ngôn. Năm 1763, nghị sỹ James Otis
dương cao khẩu hiệu của Machiavelli:"chỉ thu thuế mà không có quyền đại diện là
độc tài", phát động nhân dân đứng lên chống chính quyền thực dân. Năm 1765,
Nghị viện Anh bắt dân thuộc địa chịu thêm sắc thuế con niêm đánh vào mọi văn
kiện công hoặc tư, với khẩu hiệu của Machiavelli, dân Mỹ ở New York, Boston và
nhiều thành phố nổi dậy đốt con niêm, phá tài sản công, tẩy chay hàng hoá Anh.
Năm 1773, Nghị viện Anh lại cho phép Công ty ấn Độ của Anh bán phá giá chè
xuất khẩu sang Mỹ còn tồn kho và bắt dân thuộc địa vẫn phải đóng thuế mua chè.
Với sự ủng hộ cao độ của nhân dân, các thành viên của tổ chức "Người con của tự
do" đã đột nhập cảng Boston, leo lên tàu buôn, vất xuống biển 342 thùng trà, nhen
nhóm lên cuộc cách mạng giành độc lập tự do của thuộc địa Mỹ. Từ những sắc
thuế vô lý, quan hệ giữa kẻ đi thống trị và người bị trị đã đổ vỡ dẫn đến cao trào
cách mạng lật đổ chế độ thực dân Anh trên đất Mỹ. (Nguồn: Kiến thức thời nay,
453; 3/2003, Nhất cú thoại cải biên thế giới" NXB Tiên Giác, Lâm Bác Văn, Đài
Bắc 12/2002).
Những nhà cách mạng như Găng Đi không tán thành sự lạm
dụng các công cụ bạo lực để giành và giữ chính quyền. Trong
hoàn cảnh dựng nước giữa thù trong giặc ngoài, Hồ Chí Minh luôn
chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhưng đã gọi tổ chức quân
sự đầu tiên là đội quân "Tuyên truyền giải phóng", đề cao nhiệm
vụ tuyên truyền vận động quần chúng. Trong hoàn cảnh gấp gáp
của thời cơ giành độc lập, Hồ Chí Minh vẫn kiên quyết tổ chức
Quốc dân Đại hội tại Tân Trào để tạo thế hợp pháp cho Chính phủ
Lâm Thời và lập tức sau khi cách mạng thành công, đã tiến hành
cuộc phổ thông đầu phiếu lần đầu tiên trong lịch sử để thành lập
Quốc Hội và Chính phủ cộng hoà đầu tiên của đất nước. Chính
những lá phiếu bầu tự nguyện của toàn dân đã giúp chính quyền
dân chủ nhân dân của Việt Nam ra đời và đứng vững với bản Hiến
pháp đầu tiên như Hồ Chí Minh thực sự tin tưởng.
Theo quan điểm của H. Zeigler và T. Dyc thì những người sáng lập nước Mỹ
không tin tưởng tuyệt đối vào cả quần chúng lẫn những quan chức được dân bầu.
Đông đảo dân chúng cũng có lúc bồng bột, đại biểu được bầu cũng có lúc mị dân.
Vì vậy, tư pháp phải trở thành công cụ quan trọng của cơ chế nhà nước Mỹ.
32
Thước đo cho đúng sai trong xã hội phải là hệ thống Luật pháp được phát triển
một cách khoa học và lâu dài. Toà án phải có tư cách độc lập cách ly cả với ảnh
hưởng nhất thời của quần chúng. Toà án Tối cao nắm quyền hành tối đa, nó có
quyền tuyên án bất kỳ một hành vi đối lập với Hiến pháp nào của Tổng thống hay
Nghị viện. Toà án Mỹ hàng năm giải quyết 10 triệu vụ việc và đã giải quyết thành
công cả nhiều vấn đề chính sách quan trọng như xoá bỏ nạn phân biệt chủng tộc,
cách ly ảnh hưởng hoạt động của nhà thờ, xác lập quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận, bảo vệ quyền nạo thai của phụ nữ,...24
24
Thông, H. V. (và tập thể tác giả) NXB Chính trị Quốc gia 2000
33
khác thay thế thì một bên với mục tiêu tăng tối đa lợi ích cho mình sẽ có xu
hướng áp dụng các biện pháp xấu này với đối phương 25. Khi nghiên cứu lý
thuyết trò chơi, nhiều tác giả đã cho rằng những quan hệ ngắn hạn, mang tính
qua đường giữa các đối tác ít biết về nhau và không phải chịu trách nhiệm ràng
buộc sau này thường dẫn đến xu hướng áp dụng các biện pháp xấu để thu lợi
ngay lập tức cho cá nhân mỗi bên. Nhưng có lẽ một cách giải thích rõ ràng hơn
là khi cái giá phải trả, bao gồm các rủi ro, các trừng phạt phải gánh chịu và cả
các ràng buộc về đạo đức cho việc phá vỡ ranh giới cân bằng này thấp hơn so
với lợi ích do hành động này đem lại thì khả năng các bên đối tác áp dụng
chúng càng tăng lên. Có nhiều tài liệu kinh điển của các công cụ loại này như
cuốn binh pháp của Tôn Tẫn với 36 "mưu kế" bao gồm mọi thủ đoạn như dùng
người đẹp mua chuộc, gây chia rẽ nội bộ đối phương,... để tiêu diệt sức mạnh
và chiếm cứ lãnh thổ địch. Các biện pháp tự nâng cao ưu thế nêu trên, trong
trường hợp vượt quá giới hạn nhất định cũng phá vỡ thế cân bằng tương quan
lực lượng, trực tiếp làm phương hại ưu thế của đối thủ cạnh tranh và trở thành
loại biện pháp loại bỏ đối thủ. Ví dụ, việc chạy đua vũ trang khi phát triển đến
mức tạo ra một thế hệ vũ khí mới có tính hủy diệt hàng loạt, việc đàn áp chính
trị dẫn đến đe dọa nền tảng dân chủ, việc phát triển công nghệ dẫn đến những
ứng dụng cho phép giành độc quyền trong kinh doanh một loại mặt hàng...
Công cụ của cơ chế cộng đồng
Trong mối quan hệ cộng đồng, giữa các nhóm
đối tác đồng đẳng (cả trong nhóm A, trong nhóm
B và giữa hai nhóm A&B), phương tiện được sử
dụng là thông tin, đàm phán, thoả thuận, thống
nhất qui định... Trong mối quan hệ cộng đồng, khi
yếu tố cạnh tranh lấn át khía cạnh hợp tác, các
biện pháp cạnh tranh có thể được áp dụng, tất
nhiên phải nằm trong phạm vi không đe doạ phá
hoại quan hệ "tương tác" giữa các thành viên trong
cộng đồng. Khi các biện pháp cạnh tranh vượt quá
giới hạn "cùng tồn tại hoà bình", quan hệ cộng
đồng sẽ đổ vỡ.
Hộp 4. Công cụ của cơ chế cộng đồng trong cộng đồng người Hoa ở
25
Akerlof G. A. 1970
34
Indônêxia
Cuối thế kỷ 20, tại Inđônêxia có một cộng đồng người Hoa đông đảo làm ăn
giỏi. Các thương nhân trong mạng lưới dựa vào đạo lý Khổng giáo và cơ chế cộng
đồng để quản lý hệ thống của mình và đạt kết quả tốt trong làm ăn kinh tế. Chỉ có 6
triệu người, chiếm 3,5% dân số Inđônêxia nhưng người Hoa kiểm soát tới hơn 70%
tài sản phi đất đai, quản lý 68% số tập đoàn kinh tế lớn nhất quốc gia, chiếm 80%
tổng giá trị tài sản của 300 tập đoàn lớn nhất nước. Đây là một cộng đồng hoạt
động thành công nhưng có tổ chức tương đối kín, được các thành viên bảo vệ sự
đồng nhất để đảm bảo chất lượng hoạt động và duy trì thế mạnh hiệu quả của hệ
thống. Do đó, cũng tạo nên sự ghen tỵ và cách biệt giữa cộng đồng doanh nghiệp
Hoa với đa số dân cư bản địa.
Do nhóm này có nền tảng kinh tế giàu có, từ lâu, họ đã được coi như một cộng
đồng dân tộc thiểu số không được người bản địa đa số ưa thích và đôi khi là nạn
nhân của của tệ phân biệt đối xử. Sống trong môi trường không được ủng hộ, người
Hoa ở đây chủ yếu dựa vào cơ chế cộng đồng để hoạt động kinh doanh và vẫn tiến
hành thành công các vụ làm ăn lớn. Trong hệ thống này, hình phạt nghiêm khắc
nhất đối với những kẻ vi phạm hợp đồng là tẩy chay hoặc bị khai trừ khỏi cộng
đồng. Đương nhiên khi bị loại ra thì các thành viên người Hoa sẽ không thể tìm
được chỗ dung thân để kiếm sống dễ dàng ngoài cộng đồng, vì vậy các cam kết và
luật lệ bất thành văn của cộng đồng luôn luôn được tôn trọng tuyệt đối bất chấp
hoàn cảnh không có luật đảm bảo hợp đồng của các cơ quan độc lập quản lý.
(Nguồn: Hilton Root, 2003).
Định danh
Mặc dù có 6 tỷ người sống trên hành tinh nhưng mỗi người
chúng ta là một cá thể được phân biệt một cách rõ rệt. Nếu từ hai
người trở lên có sự lẫn lộn thì xã hội sẽ xuất hiện hỗn loạn trong
giao dịch. Đó là những lầm lẫn oái oăm được mô tả trong phim
35
ảnh xảy ra với những cặp song sinh cùng trứng giống nhau như
lột, những bi kịch về thân phận những người máy được làm giống
như con người, những phiên bản người bị nhân bản đồng dạng.
Thực ra trong đời thường chúng ta cũng thường xuyên lâm nạn về tình trạng
này. Khách đi xe đường dài bị chủ xe bắt chẹt tiền vé, sang bán khách dọc đường,
và lèn chặt cứng trên những “chuyến xe bão táp”. Những chiếc xe này thường
mang biển số giả, không đăng ký. Hành khách đi chùa Hương nhiều năm trước
hoảng sợ vì những chủ đò đầu gấu chém giá vô tội vạ, thậm chí còn vác mái chèo
đánh khách. Khách tắm biển Vũng Tàu thì sợ nạn “ca nô tặc” không lấy giá cao
mà còn đâm khách trọng thương. Khách đi chơi đò trên sông Hương thì sợ nạn nữ
tặc cho tắm sông. Nạn “cơm tù, xe dù, bến
cóc” diễn ra kéo dài trên suốt các tuyến giao
thông dọc các đường quôc lộ lớn vì những
xe, thuyền, tàu, đò này đều dấu tên, không
có bến đăng ký... những chủ dịch vụ này thả
sức hành hạ khách nhờ tình trạng vô hình
của mình.
Tình trạng vô hình cũng diễn ra với sản
xuất hàng hóa ở Việt Nam. Chẳng cứ khách
ngồi tàu hoả đã từng mua phải loại“bánh
trưng đất” trong thoáng chốc tàu đỗ qua ga,
mà hàng giả nhãn hiệu, hàng không xuất xứ lan tràn khắp nơi từ những chiếc điện
thoại di động đắt giá trong các cửa hàng sang trọng đến mớ rau, con cá bán tại chợ
quê. Điện thoại, máy tính, đồng hồ là hàng nhái, chúng tuy có nhãn nhưng là nhãn
giả, tuyệt nhiên không thể có số đăng ký hay địa chỉ sản xuất kinh doanh, rau
nhiễm thuốc sâu, cá tẩm phân đạm, bánh phở tưới phóc môn, tất nhiên lại càng vô
danh. “Khuất mắt trông coi”, không ai có thể làm gì được những kẻ vô hình.
Điều đáng nói là những kẻ này chỉ “vô hình” với khách qua đường, những
người chỉ sử dụng dịch vụ một ít lần với đối tượng phục vụ. Trong cuộc sống,
những người này có danh tính, hoàn toàn hữu hình với cộng đồng, với chính
quyền nơi họ cư trú và hành nghề nhưng lại thiếu một cơ chế để họ hữu hình với
thị trường và khách hàng.
Thiệt hại của họ gây ra không chỉ cho khách hàng mà còn tiêu diệt chính uy tín
ngành nghề của mình. Điều khốn khổ là nếu không có cơ chế xoá bỏ sự vô hình
này thì những người làm ăn chân chính không còn môi trường cạnh tranh lành
mạnh, họ buộc phải tham gia quá trình lừa đảo, khủng bố khách hàng để tồn tại.
Tình trạng tha hoá xã hội không phải tại cơ chế thị trường, ngược lại là do thiếu
vắng phối hợp cơ chế.
36
Hộp 5. Chương trình định danh "công dân điện tử" của
Thái Lan
Hiện nay, Thái Lan có 572 phòng đăng ký dân số rải đều cả nước. Thái Lan
đang tiến hành một chương trình mang tên "công dân điện tử", theo đó, trong 3
năm tới, các trung tâm dân số sẽ kết nối với nhau với Phòng quản lý đăng ký
(BORA). Tất cả sẽ có 15 loại đăng ký quản lý được thực hiện cho mỗi công dân
bao gồm đăng ký chứng minh thư, đăng ký thẻ cử tri, đăng ký vũ khí, đăng ký quĩ,
đăng ký hiệp hội, đăng ký hôn nhân,... Các trung tâm trong cả nước sẽ kết nối với
nhau qua Internet tạo thành cơ sở dữ liệu công dân toàn quốc làm cơ sở thực hiện
các dịch vụ hành chính công.
Tiếp theo đó, hệ cơ sở dữ liệu này sẽ bắt đầu phục vụ 10 dịch vụ thông dụng là
cấp bằng lái xe, cấp hộ chiếu, đăng ký kinh doanh, cấp giấy sở hữu đất đai... tất cả
đều làm qua mạng miễn phí. Tại các văn phòng, mọi dịch vụ được thực hiện chỉ
trong 15 phút. Người dân chỉ cần đăng ký một địa chỉ thư điện tử kèm một mã số
đăng ký như là chữ ký điện tử của mỗi cá nhân hoặc cơ quan, doanh nghiệp để thực
hiện các dịch vụ hành chính trực tuyến và tiến hành hoạt động thương mại điện tử.
Thông qua hệ thống thông tin này, mọi công dân còn có thể gửi kiến nghị, câu
hỏi đến cho các cơ quan chính phủ. Uỷ ban quản lý triển khai chương trình này do
Thủ tướng Thái trực tiếp điều hành với Bộ trưởng bộ Nội Vụ và Bộ Tài Chính là
thành viên. Nếu dự án này thành công, tuy là một nước đang phát triển, Thái Lan
có thể trở thành một trong những nước có công nghệ chính phủ điện tử cao nhất thế
giới. (Tầm nhìn e-Thái Lan, Nguyên Văn, PC World Việt Nam 11/2002).
Vậy làm thế nào để định danh con người ? Phải chăng việc đăng ký chứng
minh nhân dân, đăng ký hộ khẩu, điều tra dân số sẽ có thể mã hoá mọi công dân
và làm cho họ luôn luôn ở trạng thái “hữu hình” ? Trong quân đội, trong nhà tù
cách dễ nhất là gán cho mỗi người một con số định danh. Nhưng đó là những môi
trường sinh hoạt xã hội mang tính đồng nhất, giản lược và thuận tiện quản lý.
Xã hội phức tạp hơn nhiều, một người có thể “hiện hình” rõ rệt trong môi
trường hoạt động này nhưng lại hoàn toàn “vô hình” trong một môi trường hoạt
động xã hội khác và trong chừng mực nhất định, đó là quyền tự do của con người.
Có những hoạt động xã hội để bảo đảm tính khách quan, tính vô tư trong giao
dịch công cộng, cũng bắt buộc con người phải trở thành “không xác định danh
tính” ví dụ những trường hợp hiến tinh trùng, chấm thi kín, bỏ phiếu kín, điều tra
ý kiến quần chúng, cảnh sát đặc nhiệm một số quốc gia phải đeo mặt nạ khi thi
hành công vụ… Ngoài những trường hợp đặc biệt này, trong những môi trường
giao tiếp mà con người đóng vai trò cung cấp dịch vụ, hàng hoá, hoặc có thể làm
37
ảnh hưởng đến những người khác trong xã hội, phải hình thành cơ chế bắt buộc
mỗi người xác định danh tính của mình, và đôi khi định danh cả dụng cụ hoạt
động như biển số xe, tầu, đăng ký vũ khí...
Xem trong ví người dân Việt Nam, thường là có tiền mặt, một số người may ra
có mang chứng minh thư, một số ít hơn có
bằng lái xe và đăng ký xe máy, một số ít
hơn có thẻ bảo hiểm y tế, bảo hiểm giao
thông, số rất ít thượng lưu hơn còn có thêm
thẻ tín dụng, thẻ câu lạc bộ, bằng và đăng
ký ô tô, thẻ bảo hiểm nhân thọ, thẻ khách
thường xuyên của một hãng hàng không,...
Trong một xã hội chậm phát triển, nhiều
người không muốn mang giấy tờ trong
người vì ít khi dùng đến, dễ mất, hễ mất thì
khó xin. Người ta thường chỉ trình giấy tờ
ra trong các trường hợp xấu như khi vi
phạm luật lệ, nhưng trong tình huống đó có
khi vô danh lại là tốt hơn và có khi đưa tiền
lại thoát thân nhanh hơn. Chỉ những người
càng thuộc tầng lớp trung lưu, thượng lưu mới mang theo mình nhiều giấy tờ định
danh vì phải thường xuyên dùng đến trong các giao dịch.
Trong một xã hội hiện đại, người ta thường áp dụng nhiều loại đăng ký danh
tính khác nhau để xác định thân phận của cá nhân trong các môi trường xã hội cụ
thể. Tại nhiều nước công nghiệp, tất cả mọi người đều có thẻ An sinh Xã hội, số
thẻ này là thông tin quan trọng nhất trong xã hội (tương tự như tầm quan trọng
của hộ khẩu ở Việt Nam và Trung Quốc trước đây), bắt buộc mọi người phải đăng
ký để có quyền lợi và và chịu nghĩa vụ của công dân như được nhận bảo hiểm xã
hội, chịu nghĩa vụ quân sự, đóng thuế, ... Khi làm các thẻ khác như chứng minh
thư, hộ chiếu, thẻ tín dụng ... thường phải kê khai số thẻ An sinh Xã hội. Các thẻ
khác mọi người phải làm một cách tự giác để dễ dàng giao dịch. Ví dụ, đi xe bắt
buộc phải có bằng lái, thẻ bảo hiểm để xuất trình bất kỳ khi nào cảnh sát kiểm tra.
Giấy chứng minh phải mang theo để xuất trình nếu sống trong một quốc gia qui
định chỉ có người trưởng thành được mua bia, mua thuốc lá, vào quán bar, vào rạp
xem phim người lớn. Thẻ sinh viên phải xuất trình để mua vé với giá ưu tiên (giải
trí, mua sách, mượn sách, mua vé tàu, xe, máy bay,...). Thẻ tín dụng để rút tiền,
thanh toán mua bán,... Nhìn chung, để người dân quen dùng các loại thẻ, việc làm
thẻ phải thật nhanh chóng, thuận tiện, miễn là mất một khoản phí dịch vụ, mất thẻ
cũng chẳng sao, miễn là báo cho người có trách nhiệm huỷ tác dụng của thẻ vì
phần lớn ngày nay người ta dùng thẻ từ.
38
Tóm lại việc định danh này không chỉ do và không thể chỉ một mình nhà nước
đảm nhiệm. Các loại thẻ như tín dụng thanh toán, dịch vụ (điện thoại, bảo
hiểm,...) có thể thực hiện thông qua cơ chế thị trường. Các loại thẻ như hiệp hội
sản xuất kinh doanh, câu lạc bộ,... có thể thực hiện bằng cơ chế cộng đồng. Các
loại thẻ như chứng minh, bằng lái xe, lái tầu,... thực hiện bằng cơ chế nhà nước.
Cơ chế đăng ký phải giản đơn, việc sử dụng, kiểm soát phải gắn với quyền lợi và
nghĩa vụ của người có thẻ, thẻ nào không bao giờ trình ra sẽ không thể là loại thẻ
được quan tâm.
Việc định danh ngày nay trở thành nhu cầu thiết yếu của cả 3 cơ chế. Trong thị
trường, dứt khoát người cung cấp hàng hoá và dịch vụ phải đăng ký hành nghề để
được giám sát về chất lượng, bảo vệ môi trường, tình trạng vệ sinh an toàn, bảo hộ
lao động, đóng thuế,... hàng hoá phải có nhãn hiệu được đăng ký, phải ghi rõ xuất
xứ, số xê ri, ngày xuất xưởng, các tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật, tiến đến có mã
vạch, mã số thống nhất.
Trong hoạt động nhà nước, người đại diện cho công quyền như công chức, cán
bộ thuế, cán bộ kiểm lâm, kiểm tra viên, ... phải đeo bảng ghi rõ tên đơn vị, chức
vụ, tên tuổi cá nhân; thành viên các tổ chức vũ trang như quân đội, cảnh sát, quân
cảnh,... của nhiều nước phải thêu rõ tên khổ to trên áo, gắn rõ số hiệu, đeo đủ quân
hàm, quân hiệu để chịu trách nhiệm rõ ràng về hành phi thừa hành pháp luật của
mình. Ví dụ, tại Trung Quốc, mỗi nhân viên có trách nhiệm giao dịch với mọi
người dù là người bán vé trên đường giao thông hay nhân viên ngân hàng, cán bộ
hành chính, ngoài bảng tên trên ngực đều phải dán rõ ràng trước bàn làm việc:
ảnh, tên, chức vụ và các thông tin chính liên quan khác để người đến giao dịch
nắm rõ danh phận của đối tác.
Trong cơ chế cộng đồng, việc định danh mang tính tự giác nhưng có ý nghĩa
quan trọng trong việc tạo điều kiện tiếp cận hoạt động và dịch vụ xã hội, vì thế
thông qua danh bạ điện thoại, giới thiệu cá nhân, danh thiếp, trang web,… của cá
nhân, đoàn thể, hội đoàn, câu lạc bộ,... con người biết về nhau và liên kết với
nhau.
Với những ứng dụng mới của công nghệ tin học, việc định danh đang tiến tới
tự động hoá, rút ngắn thời gian, thủ tục và tăng độ chính xác. Nghị viện Hoa Kỳ
đã thông qua qui định từ cuối 2004, mọi giấy phép nhập cảnh cấp cho người nước
ngoài phải áp dụng kỹ thuật sinh trắc (biometrict) sử dụng các kỹ thuật định dạng
bằng đặc điểm sinh học của cơ thể người. Thiết bị lấy dấu tay áp dụng ở sân bay
Mỹ hiện nay cho phép lập tức liên hệ đối tượng với cơ sở dữ liệu thông tin. Tại
sân bay Iceland, đã áp dụng công nghệ so sánh khuôn mặt tự động. Khi một người
đi qua cửa kiểm soát, máy ảnh tự động chụp và so sánh tức thì 80 đặc điểm trên
khuôn mặt để xác định danh tính và gắn với thông tin lưu trữ trong cơ sở dữ liệu.
Tóc giả, râu giả hay các kiểu hoá trang thông thường lập tức bị phát hiện. Năm
39
2002, sân bay Luân Đôn, nước Anh bắt đầu thử hệ thống kiểm tra sơ đồ mống
mắt, hành khách chỉ cần nhìn vào một ống kính, máy sẽ soi đáy mắt, chụp và so
sánh với cơ sở dữ liệu lưu trữ để xác minh đối tượng. Chỉ sau 12 giây, thiết bị đã
làm xong thủ tục kiểm tra xuất nhập cảnh cho một khách, nhanh và chính xác hơn
nhiều thủ tục cũ.
Các tấm thẻ chứng minh sinh học đã được sử dụng thử ở sân bay Schiphol
Amstecdam và Aerports de Paris. Trong tương lai gần, các loại thẻ chứng nhận
bằng đặc điểm sinh trắc sẽ thay thế căn cước bằng ảnh và chữ và các hệ thống
thiết bị định danh tự động sẽ dần thay thế việc kiểm soát bằng người26. Tình trạng
giả mạo bằng cấp, hộ chiếu, giấy tờ sẽ không còn lan tràn, quá trình cấp phát giấy
tờ của chính quyền sẽ đơn giản và khác biệt hẳn lối “hành là chính” hiện nay.
“Danh chính, ngôn thuận”, quan hệ con người sẽ bước sang một giai đoạn mới
khác hẳn.
Thông tin
Đối với mỗi cá nhân, việc xác định danh tính cho phép tiếp cận những hàng
hoá, dịch vụ, thông tin,…giành riêng cho họ, nhưng đối với xã hội, xác định danh
tính của một người lại nhằm thu thập thông tin để cung cấp cho những người khác
nhằm xây dựng mối quan hệ đúng mức với đối tượng. Khi quan hệ con người ở
phạm vi cộng đồng nhỏ, thông tin về họ dễ dàng được thu thập và thông báo cho
mọi người quan tâm thông qua quan sát tiếp xúc trực tiếp, qua dư luận xã hội. Khi
quan hệ con người vươn ra ngoài cộng đồng, việc theo dõi, đánh giá cá nhân trở
nên rất khó khăn.
Ngày xưa, ở châu á người ta thích chữ lên mặt những người có tội để đánh dấu,
ở châu âu người ta cấp giấy thông hành mầu vàng, mầu của bệnh tật, cho tội nhân
để người khác biết mà đề phòng. Nếu đỗ đạt, phong quan tước, có thành tích thì
nhà nước thông báo, gọi loa, làng xóm đón rước, dán cáo thị, lập bia, làm đền
miếu ghi tên họ công trạng. Nhìn chung các hình thức thông tin này chỉ dùng với
các trường hợp đặc biệt xấu hoặc đặc biệt tốt. Ngoài ra, các qui định về trang
phục, nhà cửa, võng kiệu, ngựa xe,… để xác định thứ bậc giai tầng xã hội hơn là
phân định thân phận cá nhân.
Khi kinh tế phát triển hơn, con người thường
dùng các thẻ bài, sắc phong, bằng cấp, chứng
chỉ để minh chứng trình độ văn hoá, trình độ
chuyên môn, địa vị xã hội, thậm chí cả tiết hạnh
đức độ của con người. Song song với hệ thống
thông tin do bản thân cá nhân lưu trữ và xuất
26
Reuters số 59.11/12/2003
40
trình khi cần, còn có hệ thống sổ sách lưu trữ khách quan các thông tin cá nhân để
các tổ chức chức năng ghi chép, theo dõi như y bạ, học bạ, địa bạ, gia phả, lý lịch,
sổ thuế, sổ lương, sổ nợ… thông tin về con người bình thường đã được thu thập và
cung cấp cho xã hội, mọi người bắt đầu được đánh giá khách quan hơn để được cư
xử hợp lý hơn theo năng lực, và kết quả hành động của mình.
Tuy nhiên các thông tin kiểu này vẫn thường giới hạn trong một số giai đoạn
quan trọng của đời sống như thời gian học hành, ốm đau, làm việc…việc quản lý
thông tin không khách quan và an toàn, trong nhiều trường hợp do chính đương sự
đảm nhiệm nên có thể thất thoát méo mó, giả mạo. Nạn mua bằng, giả giấy tờ, che
dấu lý lịch, thay tên, đổi tuổi là khá phổ biến trong xã hội xưa nay. Vả lại, các
thông tin này ngoài những trường hợp như đăng ký sản xuất, kinh doanh, xin việc,
… ít được cung cấp cho xã hội để điều chỉnh cung cách xử sự với đối tượng.
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, con người thường xuyên là đối tượng theo dõi
đánh giá của một hệ thống thu thập thông tin hoàn chỉnh hơn nhiều. Các máy tính
nối mạng tự động cập nhật mọi lỗi lầm, thành công của cá nhân từ khi chào đời
đến khi từ trần, đồng thời thông qua các cơ sở dữ liệu liên thông cho phép các đối
tượng xã hội khác nhau tiếp cận tham khảo thông tin cá nhân theo từng chuyên đề
cần thiết. Mặc dù ở các quốc gia công nghiệp không có hộ khẩu theo dõi dân số
cư trú, không có đăng ký tạm trú, thường trú, theo dõi di chuyển, không có công
an hộ tịch theo dõi an ninh địa bàn nhưng thông tin từ các cuộc tổng điều tra dân
số, thông tin từ các ngân hàng dữ liệu làm thẻ An sinh xã hội, các loại thẻ chuyên
dụng khác, đánh thuế thu nhập, theo dõi nghĩa vụ quân sự, … về cơ bản luôn bao
trùm toàn bộ cư dân của một quốc gia. Người ta có thể dễ dàng theo dõi sự di
chuyển, cư trú của một con người thông qua phối hợp theo dõi việc sử dụng thẻ
tín dụng, giao dịch ngân hàng, điện thoại di động,…với các nguồn thông tin gốc
trên. Cũng nhờ phương pháp phối hợp thông tin này, “chân dung thông tin” về
mọi cá nhân được tập hợp, xây dựng thường xuyên và sử dụng hiệu quả cho xã
hội.
Ví dụ, trong trường học, thông tin của một sinh viên về điểm học, nộp học phí,
tình hình mượn sách thư viện, chăm sóc sức khoẻ, sử dụng phòng thí nghiệm, câu
lạc bộ giải trí, sử dụng điện thoại, internet, và mọi quan hệ xã hội khác được tự
động lưu trữ theo mã số sinh viên, tạo nên một sự đánh giá tổng hợp khách quan
cho nhà trường. Nhà trường thông qua hiệp hội sinh viên tiếp tục tìm cách liên
lạc, thông tin cập nhật về các địa chỉ làm việc, thăng tiến tiếp theo của họ trong
cuộc đời. Nhân viên các cơ quan, công ty, cũng thường xuyên được thu thập
thông tin và đánh giá theo cách trên trong suốt quãng đời công tác.
Tại các sân vận động, sân bay, nhà ga, cửa hàng, khách sạn, công sở,… hàng
ngàn máy quay phim tự động thường xuyên ghi lại, phân tích hình ảnh và liên kết
41
với thông tin tin từ vé, thẻ ra vào, hoá đơn thanh toán, đơn đặt hàng… để bảo vệ
an ninh, cảnh báo, truy tìm, thu thập chứng cứ tội phạm, nghiên cứu thị trường,
đánh giá khách hàng,…đó là những thông tin chuyên đề, cung cấp cho các cơ
quan quan tâm.
Thông qua báo, đài, truyền hình, Internet,… các phương tiện thông tin đại chúng
hiện đại nhanh chóng và hiệu quả thông tin cho công chúng về các hành vi đáng ca
ngợi, đáng chê trách, đáng đề phòng, đáng hỗ trợ của những cá nhân,…Chúng ta đã
thấy những hình ảnh những cậu ấm cô chiêu đua xe trên đường phố, lắc lư say
thuốc trong quán bar có thể ngổ ngáo chửi bới người can thiệp, chống đối cả công
an nhưng vẫn hoảng sợ che mặt trước ống kính truyền hình. Những tên trùm buôn
lậu, trùm tham nhũng, trùm xã hội đen gây tội ác không ghê tay nhưng vẫn lo lắng
tìm cách mua chuộc báo chí, trốn chạy phóng viên.
Thông tin khi nhiễu loạn, sai lạc, sẽ dẫn đến đổ vỡ các quan hệ vận hành của xã
hội. Trong cơ chế nhà nước, nếu vì một lý do chủ quan hay khách quan, thông tin
giữa hai khối A (lãnh đạo) và B (bị lãnh đạo) bị nhiễu loạn thì trước là đưa ra các
chủ trương sai lầm, sau là bất lực không điều hành được bộ máy theo kiểu “trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược” kết quả là quản lý bị vô hiệu. Đó là trường hợp của
một nhà nước Irắc, bị huyễn hoặc bởi những tuyên truyền sai lạc về sức mạnh
tuyệt đối của vũ lực bản thân, bị ru ngủ bởi vẻ trung thành giả tạo do sự đàn áp tạo
ra, đã đi đến những quyết định sai lầm, tạo ra những cuộc chiến hao người tốn của
với Iran, Côoet, rồi cuối cùng lâm vào trạng thái tê liệt “trên bảo, dưới không
nghe”, sụp đổ chính thể.
Trong cơ chế thị trường, một khi thông tin giữa nhóm A (Cung) và nhóm B (cầu)
bị nhiễu loạn, gián đoạn thì thị trường mất hiệu quả, giao dịch sụp đổ. Cuối thập kỷ
1990, sự quản lý yếu kém của các định chế tài chính và các sai sót khác làm sai lạc
thông tin về nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình kiến trúc ở Thái
Lan và nhiều nước Đông Nam á. Tín hiệu giá sai hút khối lượng vốn khổng lồ từ
các nhà đầu tư trong, ngoài nước và các ngân hàng vào thị trường bất động sản tạo
nên cơn sốt đầu tư giả tạo. Đầu tư tăng làm tăng GDP và tạo ra tỷ giá hối đoái cao
không an toàn cho đồng nội tệ. Khi quả bóng tăng trưởng được thông tin lạc quan
thổi lên đến mức nổ tung, thì thông tin bi quan lại lan truyền nhanh như gió, tạo ra
một cơn hoảng loạn của các nhà đầu tư. Mọi người đổ xô đến rút tiền toàn bộ lượng
tiền khổng lồ cùng một lúc. Lập tức một loạt nước Đông Nam á rơi vào khủng
hoảng. Sự đổ vỡ tài chính lan ra kinh tế rồi chính trị và môi trường.
Trong cơ chế cộng đồng, khi thông tin giữa các cá nhân và giữa các cộng đồng
bị sai lạc, trước hết mối quan hệ giữa họ bị đe doạ, sau đó, khả năng cộng tác của họ
bị phá hoại. ở Bắc Ailen, người theo Cơ đốc giáo và người theo đạo Tin Lành
chung sống từ nhiều đời nay nhưng có quyền lợi và ý nguyện khác nhau. Nhóm tin
Lành chiếm đa số trong chính phủ và huy động nền hành chính phục vụ nhu cầu của
42
mình. Nhóm Cơ đốc giáo cho rằng bị phân biệt đối xử trong việc làm, nhà ở và
quyền chính trị. người Cơ đốc đòi thống nhất đất nước với Cộng hoà Ailen trong
khi người theo đạo Tin Lành đòi giữ nguyên thống nhất với Anh. Việc học cách
sống chung nhau trên một mảnh đất trở nên hết sức khó khăn, mỗi hiện tượng được
các bên diễn dịch theo cách hiểu của mình làm thông tin giữa hai cộng đồng liền kề
rối loạn. Một cuộc diễu hành tôn giáo có thể bị phía bên kia coi là biểu dương lực
lượng, Khi Bộ trưởng Giáo dục Cơ đốc giáo đến thăm trường học Tin Lành thì bị
giáo viên và học sinh phản đối “kẻ khủng bố”, một bà công tước vì có quan hệ với
Hoàng gia Anh lại bị ngăn đến thăm trường học Cơ đốc giáo. Tương tự như vậy,
việc chọn cờ, bài hát chính thức, ... đều rất khó khăn vì sự đố kỵ tôn giáo. Mâu
thuẫn dẫn đến khác biệt thông tin, từ đó lại càng đẩy mâu thuẫn đi xa. Hơn 30 năm
trôi qua, hơn 3500 người chết, hàng chục nghìn người bị thương giữa một châu Âu
hiện đại chỉ vì con người không thể thông tin được để hiểu và tin nhau.
Quả thật, thông tin một khi liên tục giám sát hành vi cá nhân và sẵn sàng cung
cấp cho các đối tượng cần thiết, thực sự có sức mạnh làm cho con người phải có ý
thức về hành vi của mình khi hành động, một sức mạnh xưa nay chỉ có pháp luật
và tôn giáo mới có. Tất nhiên việc thu thập và cung cấp thông tin để điều chỉnh
quan hệ xã hội chỉ được phép dừng lại ở những hoạt động mang tính giao tiếp,
tương tác, thực thi nghĩa vụ xã hội và những thông tin bắt buộc cung cấp để kiểm
tra trình độ con người, ngoài ra, các thông tin về cá nhân khác chỉ được phép sử
dụng với sự đồng ý tự giác của đương sự. Đó cũng là quyền thiêng liêng và hợp
pháp của con người.
Thưởng phạt.
Con người chủ động thông tin về mình cho xã hội đôi khi để đề cao uy tín, tự
quảng cáo để tạo lợi thế làm ăn. Còn xã hội tự động thu thập thông tin của cá nhân
để đánh giá khách quan về họ, nhằm cung cấp cho những người có quan hệ liên
quan liệu đường “chọn mặt gửi vàng”. Chính sự đánh giá khác nhau về mỗi cá
nhân đã tạo nên thái độ cộng tác khác nhau và trở thành hình thức thưởng phạt
trong xã hội loài người. Cái sự “báo ứng nhãn tiền” này góp phần buộc đương sự
điều chỉnh mình cho phù hợp với tiêu chuẩn xã hội đặt ra.
Cơ chế thưởng phạt trong xã hội giai đoạn ban đầu mang tính tự động, tự
cưỡng chế với chi phí thấp. Đồng thời, hình thức thông tin này làm cho người dân
có xu hướng “tốt đẹp phơi ra, xấu xa đậy lại” chỉ thông tin cho cộng đồng khía
cạnh tốt của bản thân, của gia đình vì “xấu chàng thì hổ ai ?”.
Trong xã hội nông nghiệp sơ khai, hình thức
thưởng phạt do cộng đồng qui định, từ mức nhẹ
nhất như chê cười, bêu riếu đến phạt vạ bằng
tiền, bằng cỗ, tẩy chay, đến rất nặng như cắt tóc
43
bôi vôi, thả bè trôi sông, đuổi khỏi làng. Có nhiều dân tộc còn áp dụng đến các
biện pháp chặt tay, ném đá đến chết, thiêu sống để trừng trị các tội phạm gây
phương hại đến nếp sống cộng đồng. Hình thức khen thưởng cũng từ mức thấp là
thông báo ca ngợi, đón rước linh đình, đến trao đặc quyền, đặc lợi và cao hơn là
tạc tượng, khắc bia, thờ cúng muôn đời. Ngoài những hình thức khen thưởng rõ
rệt như vậy, những người được thông tin trong cộng đồng cho là tốt sẽ được trân
trọng, đề cao, tăng khả năng mặc cả, thương lượng trong các hoạt động giao dịch
như vay mượn, cưới gả, buôn bán, đầu tư,… có ưu thế trong các giao dịch mang
tính lựa chọn, bình bầu như thi cử, tuyển chức sắc,… có lợi thế về uy tín trong các
hoạt động mang tính thuyết phục như được giao làm trọng tài giải quyết tranh
chấp, giảng dạy khuyến nông, mối lái cưới xin, …
Trong nền kinh tế thị trường phát triển, giao lưu mậu dịch vươn rộng ra qui mô
quốc gia và quốc tế, quan hệ xã hội lan ra ngoài phạm vi làng xã, mọi người
không thể biết nhau thông qua thông tin trực tiếp. Hoạt động thương mại hàng hoá
và đầu tư diễn ra theo cả chiều rộng không gian và chiều dài thời gian. Khi đó
xuất hiện sự tiến thoái lưỡng nan của người tù trong “trò chơi một lần”,27 các chi
phí cho việc định danh, thông tin và thưởng phạt trở nên rất lớn, đe doạ khả năng
hợp tác của các tác nhân tham gia. Hai khó khăn chính cản trở sự hợp tác là thông
tin về các bên tham gia và khả năng lặp lại giao dịch trong tương lai.
Trong một thế giới đặc trưng bởi sự định danh không rõ ràng của các đối tác
tham gia (Douglass C. North gọi là tình trạng “trao đổi vô nhân xưng”28), có vô số
tác nhân tham gia giao dịch mà thông tin giữa họ rất mơ hồ và các giao dịch trong
nhiều trường hợp dứt khoát chỉ diễn ra một lần. Trong hoàn cảnh đó, North29 cho
rằng “rất khó có thể duy trì được lâu dài sự trao đổi phức tạp mà không cần phải có
bên thứ ba để cưỡng chế việc tuân thủ các thoả thuận.” Và “chừng nào mà còn phải
trả những món tiền lớn cho việc tác động lên các qui chế và việc cưỡng chế thực
hiện chúng, thì thường sẽ phải chi trả cho việc thành lập các tổ chức trung gian (các
hiệp hội thương mại, những nhóm người vận động hành lang, các ủy ban hành động
chính trị) giữa các tổ chức kinh tế và các cơ quan chính trị.” Nhà nước có thể đóng
vai trò của bên thứ ba mà cũng có thể gây thêm khó khăn cho giao dịch.
Khi đó, những người có bằng cấp cao, lý lịch tốt, có hình thể đẹp, sức khỏe tốt,
quan hệ xã hội rộng… sẽ có lợi thế trong tuyển chọn làm việc; những người tỏ ra
có tài sản, việc làm và thu nhập ổn định, có dự định làm ăn rõ ràng, rủi ro thấp…
sẽ có lợi trong việc giao dịch buôn bán, hùn vốn đầu tư, vay vốn sản xuất, hợp
đồng bảo hiểm,…; những người có tư chất thông minh, khả năng tiếp thu tốt, có
năng khiếu, say mê học hỏi…sẽ thuận lợi trong việc tuyển chọn đi học. Tóm lại,
27
Xem “Tình trạng tiến thoái lưỡng nan của người tù”, phần Sự thất bại của
các cơ chế, trang:.
2829
North D. C. 1990, NXB Khoa học xã hội 1998
44
trong các giao dịch giữa con người về cưới xin, kết bạn, làm ăn, buôn bán, xin
việc,…những người có thông tin tốt, có sức thuyết phục tin cậy sẽ có lợi thế giành
được thành công. Trong cơ chế nhà nước và cơ chế thị trường, các thông tin này
thường là gián tiếp thông qua chứng nhận, bằng cấp, thư giới thiệu, văn phòng
dịch vụ môi giới, cơ quan tuyển dụng,…quá trình tìm hiểu thường phải có thời
gian làm thử, thi loại, điều tra, bình tuyển…
Do mọi người đều muốn tìm người tốt, người có năng lực để giao dịch, làm ăn,
kết giao và loại ra hoặc buộc những người kém lợi thế phải chịu chi phí giao dịch
cao hơn, thời gian thử thách lâu hơn, thù lao thấp hơn nên trong xã hội tự động
hình thành một cơ chế thưởng phạt tự nhiên gắn với giá trị xã hội của con người.
Về lâu dài một mặt đây là cơ chế chọn lọc nhân tạo để nâng đỡ người tài, người
tốt, hình thành cơ sở vật chất của đạo đức xã hội, mặt khác sự lựa chọn lạnh lùng
này cũng tạo nên sự đối xử bất công với những người do điều kiện khách quan rơi
vào thế yếu như người nghèo, người dân tộc, người tàng tật, già cả neo đơn….
Từ đời Tần ở Trung Hoa, Thương Ưởng đã sáng chế ra những phiên bản đầu
tiên của sổ theo dõi hộ khẩu để gắn kết trách nhiệm của các nhóm hộ với nhau.
Sau này, các hình thức đăng ký hộ khẩu thường trú và đăng ký tạm trú để theo dõi
diễn biến dân cư được áp dụng rộng ở nhiều nước và dần trở thành một hình thức
quản lý an ninh, hạn chế di cư tự do.
Trong nhiều nước thời chiến tranh lạnh, mọi vấn đề đều được theo dõi bằng lý
lịch cá nhân, từ tình trạng sức khoẻ, năng lực và đóng góp, thành công và sai phạm
và nhất là biểu hiện chính trị không chỉ của đương sự mà còn của họ hàng, thân tộc.
Con đường tiến thân của cá nhân trong nhiều trường hợp phụ thuộc chặt vào tình
trạng lý lịch và những đặc điểm lịch sử của gia đình. “Chủ nghĩa lý lịch”, phương
thức đề bạt bổ nhiệm “một lần cơ cấu hơn phấn đấu cả đời” tạo nên một một kiểu
chọn lọc con người kỳ quái không dựa vào năng lực làm việc và hiệu quả đóng góp
mà lại dựa vào thân phận sẵn có như những định mệnh không thể thay đổi.
Trong xã hội hiện đại, sự phát triển của công nghệ thông tin khiến thông tin về
cá nhân trở thành đa dạng, khách quan và liên tục đang mở ra cơ hội để cơ chế
thưởng phạt lại có thể diễn ra một cách tự động, trực tiếp, thường xuyên và hiệu
quả, có khả năng giải quyết nguy cơ “trao đổi vô nhân xưng” và khó khăn của
việc tìm được bên thứ ba làm trọng tài không tốn kém và không thiên vị. ở các
quốc gia công nghiệp ngày nay, khi khách hàng vào một cửa hàng đăng ký thuê
nhà ở, các thông tin cá nhân được đưa vào máy tính, lập tức mạng liên thông của
hiệp hội khách sạn sẽ cho biết thông tin về “lịch sử thuê nhà” của cá nhân đó, căn
cứ vào đó nếu đây là một người khách đàng hoàng, anh ta sẽ được hưởng giá ưu
đãi, thủ tục đơn giản,… nếu anh ta đã có “tiền sự” về trả chậm tiền nhà, làm hư
hỏng tài sản, ăn trộm đồ… ở bất kỳ một của hàng nào vài năm trước, giá phải trả
45
sẽ cao hơn vì gồm chi phí bảo hiểm, và nhiều khi phải đặt tiền cọc mới được thuê
nhà,…Tương tự như vậy, nếu vi phạm luật lệ giao thông nặng ở Hà Nội, cảnh sát
bấm lỗ lên bằng lái xe của đương sự, lần phạt sau nặng hơn lần trước và quá tam
ba bận là thu bằng, chỉ cho thi lấy bằng mới sau 6 tháng… Thì cảnh sát ở New
York sẽ kiểm tra số đăng ký của người lái trên máy tính, thế là toàn bộ thông tin
vi phạm luật giao thông của cá nhân từ khi được phát bằng sẽ hiện lên trên màn
hình, dĩ nhiên mức phạt cũng lũy tiến theo mức độ vi phạm.
Sự thưởng phạt tự động như vậy sẽ diễn ra ở mọi chỗ trong xã hội hiện đại. Từ
mượn sách thư viện, trả tiền học phí, tiền điện thoại, tiền điện nước, đặt mua hàng,
vay tiền ngân hàng, đóng bảo hiểm, đi khám bệnh, đi xin việc… trong các trường
hợp trên, quan hệ “ngắn hạn, một lần” của người giao dịch đã được công nghệ
thông tin biến thành quan hệ “dài hạn, nhiều lần” của cả xã hội, làm thay đổi bản
chất của lý thuyết trò chơi. Sống trong xã hội tương lai, con người lại có thể “hiểu
biết về nhau”, chí ít là trong các giao dịch kinh tế và dân sự chặt chẽ chẳng kém gì
những tổ tiên xa xưa sống đời này qua đời khác với nhau trong một làng nhỏ. Con
người được theo dõi theo từng lĩnh vực khác nhau và đánh giá theo đúng cách
thức mà anh ta xử sự với xã hội trong lĩnh vực đó. Cũng sẽ không có chuyện vơ
đũa cả nắm, phân biệt con người theo lý lịch chính trị hay vì màu da, chủng tộc.
Một “công dân kiểu mẫu” có thể cảm thấy mình sống trong một xã hội tươi
đẹp, tử tế, các dịch vụ cung cấp đúng hẹn, đúng yêu cầu với giá rẻ, hàng hoá được
tự do lựa chọn, được mua ứng trước trả tiền sau, không thích có thể trả lại dễ
dàng, thiếu tiền thì nhiều ngân hàng sẵn sàng cho vay trả góp với lãi xuất dễ chịu,
các rủi ro có thể xảy ra đều được bảo hiểm với mức giá hợp lý… Ngược lại,
những công dân có thói xấu như ăn trộm vặt, trả tiền chậm, hay gây rắc rối,… sẽ
cảm thấy cuộc sống thật gay go trong một xã hội cứng rắn. Điện, nước, ga đun
nấu, khí sưởi, điện thoại, thư báo,… có thể thường xuyên bị cắt ngay khi trả tiền
chậm 1 ngày. Sách mượn thư viện chậm bị trả tiền phạt luỹ tiến tính theo giờ,
ngân hàng từ chối cho giao dịch hoặc phạt nặng vì phát hành séc khống, đi thuê
nhà, thuê ô tô, phải trả giá cao lại phải đóng tiền thế chân… Tất cả những phiền
toái này buộc con người phải cố mà tử tế để dần dần được hưởng “ân xá của xã
hội”.
46
Hộp 7. án Anh chém giám quân, giữ nghiêm quân kỷ
Trong khi ở phương Tây, đến thế kỷ XVI-XVII mới bắt đầu xuất hiện quân đội
thường trực thì tại Trung Quốc vào thế kỷ thứ IV đội quân chuyên nghiệp đầu tiên
đã ra đời ở nước Tề. án Anh là tể tướng, đề cử Điền Tương Như làm quan Tư Mã
chỉ huy quân đội. Quân thường trực được huấn luyện đi đứng theo hàng ngũ, luyện
tập vận động, sử dụng vũ khí thông thạo. Nhưng do Điền Tương Như không phải là
quí tộc nên khi quân đội đã sẵn sàng cho nhà vua duyệt, phải xin nhà Vua bổ nhiệm
một người có địa vị cao làm Giám quân. Vua bèn cử một sủng thần là quan quí tộc
đại phu Trang Giã đảm nhiệm vị trí này.
Theo kế hoạch, đúng giờ Ngọ quân đội sẽ sẵn sàng để vua
duyệt binh, nhưng quan Giám quân uống rượu say, đến trễ giờ, Tư
lệnh Tư Mã Tương Như chiếu quân lệnh hạ lệnh chém Giám quân.
Nghe tin, nhà vua vội cử quan mang cờ lệnh của vua, đi xe của
vua đến hạ lệnh không được giết Giám quân. Quá vội vã, người
truyền lệnh vua chạy xe vào giữa quân ngũ. án Anh hiểu rằng lần
đầu ra mắt, sống chết phải giữ được kỷ cương của đội quân
thường trực, nên bất chấp lệnh vua cứ chém Giám quan, lại phạt
chặt một góc xe của vua vì can tội làm rối loạn trật tự quân ngũ.
Cuối cùng chẳng những nhà vua đành chấp nhận quyết định
nghiêm khắc này mà từ đó quân Tề đánh đâu thắng đó vì vừa có
đội quân tinh nhuệ vừa có kỷ cương nghiêm khắc.
Do phương thức thông tin khác nhau, các hình thức thưởng
phạt trước đây vốn chỉ có lợi cho những nhóm người có ưu thế
trong xã hội: người giàu, người khỏe, người có địa vị, người có lý
lịch gia đình mạnh... thì trong xã hội hiện đại dần dần chuyển
thành những hình thức thưởng phạt hướng đến cổ vũ những
người có hành vi quan hệ xã hội đúng mức, những người “tử tế”,
đáng tin cậy, làm việc hiệu quả, chấp hành pháp luật.
Việc định danh và thông tin và thưởng phạt có thể áp dụng
công cụ của cả ba cơ chế nhưng phải theo nguyên tắc thưởng
phạt “cứng”, công bằng, không đàm phán, thương thảo “cò kè
bớt một thêm hai” thì hình phạt mới nghiêm, mới có tác dụng, do
đó các biện pháp của cơ chế thị trường và cơ chế nhà nước dễ
đem lại tác dụng rõ. Đã thưởng phạt thì phải công khai, có tác
dụng làm gương chung cho mọi người vì “một miếng giữa làng
còn hơn một sàng xó bếp”.
47
Xưa kia, có bài học luyện binh của Tôn Tẫn, chỉ bằng hình phạt
nghiêm minh mà có thể biến cung tần mỹ nữ của vua thành một
đội quân có ý thức kỷ luật cao. Ngày nay có bài học của thành
phố Hà Nội kiên quyết phạt giữ xe máy để lập lại kỷ cương trật tự
giao thông đô thị. Thành công của các trường hợp trên đều gắn
với hình phạt vật chất hoặc chế tài nghiêm khắc.
Sự loạn xạ về giao thông ở Hà Nội do mật độ xe máy cao và sự thiếu ý thức của
người tham gia giao thông đã trở thành “nổi tiếng thế giới” thông qua sự chứng
kiến của khách quốc tế có dịp ghé thăm. Với bình quân diện tích đường giao
thông/đầu người chỉ còn 6,2 m2/người, trở thành thành phố ít đường nhất thế giới.
Thế mà mỗi ngày lại có 4400 xe máy và 250 xe mô tô được cấp thêm giấy phép.
Hơn 40% chủ xe mô tô và nhiều lái xe ô tô không có bằng lái xe.
Đối với người Hà Nội đó là tai vạ khi người nhập viện mỗi ngày ở bệnh viện
Việt Đức do hàng trăm ca cấp cứu tai nạn giao thông, nằm đầy hành lang. Năm
2002, có 506 vụ tai nạn nghiêm trọng làm chết 539 người. Trung bình cứ 182 xe ô
tô thì có 1 xe gây tai nạn; cứ 852 xe mô tô thì có 1 xe gây tai nạn trong khi đến cuối
năm 2002, Hà Nội có hơn 111.000 xe ô tô và hơn 1.102.000 xe mô tô.
Trước tình hình khẩn cấp đó và chuẩn bị cho Seagame 2003, Giám đốc công an
Hà Nội ra lệnh 04:
- Chỉ cho người có hộ khẩu thường trú đăng ký phương tiện xe máy
- Tăng số đầu và tuyến xe buýt trong nội thành
- Cấm xe công nông, xe thồ, xích lô, cấm xe tải vào đường vành đai 3 ban
ngày
- Dọn chợ và các hình thức chiếm lòng lề đường,
- Phạt nghiêm (giữ xe, phạt tiền, thu bằng) người vi phạm giao thông.
Lực lượng quản lý giao thông được tăng thêm 100 cảnh sát cơ động và 200
cảnh sát hình sự để thực hiện lệnh trong cả năm 2003. Ngày đầu tiên 1300 xe
mô tô và 40 ô tô, sau 1 tuần hơn 5000 xe mô tô và hơn 100 ô tô bị giữ. Trật tự
giao thông ở Hà Nội thay đổi hẳn. Chẳng những giảm hẳn chuyện đi vào
đường cấm, vượt đèn đỏ mà các phương tiện còn đi đúng tuyến, dừng đúng
vạch. (Theo Nguyễn Như Phong. Báo An ninh Thế giới 316, 6/2/2003)
Có một điều hiển nhiên nhưng chưa được mọi người cùng nhìn
nhận là: hiệu quả của việc thưởng phạt, hiệu quả của việc giám
sát cưỡng chế thi hành các cam kết trong giao dịch kinh tế và
nhân sự chính là yếu tố quan trọng bậc nhất tạo ra môi trường
48
đầu tư hấp dẫn, là cơ sở căn bản tạo nên lợi thế cạnh tranh cho
các nền kinh tế, là sự khác biệt quan trọng giữa sự trưởng thành
của thể chế một quốc gia phát triển và một quốc gia chậm phát
triển. Trong một xã hội nơi mà người mua hàng, mua dịch vụ,
đầu tư vốn, luôn tin chắc vào kết quả của hoạt động giao dịch,
luôn yên tâm về khoản tiền mà họ bỏ ra, không phải là vì không
có rủi ro mà là tin cậy vào các biện pháp giải quyết tranh chấp
cần thiết sẽ được áp dụng thì các giao dịch sẽ diễn ra với chi phí
thấp theo hướng hiệu quả cao.
Trong cơ chế thị trường, thưởng phạt thể hiện ở lợi ích vật chất
thông qua giá cả hay cho phép tiếp cận thị trường. Bắt được một
tên tội phạm nguy hiểm hay sáng tác một tác phẩm hay người ta
có thể nhận được một khoản tiền đủ sống cả đời. Dù tên tuổi
được ca ngợi hay đôi khi phải dấu kín nhưng nhất thiết giải
thưởng phải đi với tiền bạc và quyền lợi. Lợi ích từ những phần
thưởng vật chất thật muôn vẻ: bước vào sống trong xã hội
thượng lưu, đi du lịch quốc tế, nhà lầu, xe hơi, người hầu, kẻ hạ...
kèm theo là sự bảo vệ chặt chẽ của vệ sỹ, sự ngăn ngừa của luật
sư,... Và đương nhiên hình phạt vật chất sẽ là bức tranh đối lập:
mất tìên, mất tài sản,... rơi vào điều kiện sống khó khăn, không
được đáp ứng ngay cả những nhu cầu thiết yếu.
Trong cơ chế nhà nước, sự thưởng phạt dựa vào quyền lực của
bộ máy quản lý thông qua hoạt động trọng tài, luật lệ. Phần
thưởng là chức vụ, phẩm cấp, danh hiệu chính thức,... quyền lợi
của các phần thưởng này thường thể hiện cả dưới dạng vật chất
như tiền lương, tiền thưởng, đất đai, bổng lộc hoặc thể hiện dưới
các dạng tôn tinh thần công khai như các lễ nghi đón rước, áo mũ
cân đai, quân hàm, bội tinh, huân chương, huy chương, danh
xưng, tước hiệu, bằng khen, giấy khen,... Hình phạt của cơ chế
nhà nước là cách chức, hạ cấp, tước đoạt danh hiệu, cảnh cáo,
phê bình,... từ hành chính đến hình sự.
Phần thưởng và hình phạt chính của cơ chế cộng đồng là sự
ngưỡng mộ hay ruồng bỏ của mọi con người thông qua hai giải
pháp là cho phép tiếp cận và trả đũa. Bởi vậy, bức tượng phần
thưởng Ôsca, một chiếc cúp bóng đá có giá trị vật chất hầu như
không đáng kể như có thể đem lại vinh quang suốt đời cho một
cá nhân, thậm chí cả một quốc gia. Các vinh dự đem lại từ sự
ngưỡng mộ là vô tận: từ việc quấy rầy xin chụp ảnh, xin chữ ký
cho đến được (?) đài báo săn tin, đưa hình suốt ngày đêm,... cuối
49
cùng là đám tăng đông nghịt những người mến mộ và tiếng thơm
cho đời sau. Hình phạt của cộng đồng cũng là vô tận và đa
dạng.29
Hộp 8. Thưởng phạt theo cơ chế cộng đồng-sức mạnh của Phong
trào Seamun Undong
Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo của Hàn Quốc, Tổng
thống Pắc Trung Hy hiểu sức mạnh của cơ chế cộng đồng trong
nông thôn không phải là tiền bạc mà là lòng tự tôn, sự tự tin ở
chính mình. Bởi vậy ông để nông dân tự bầu lấy lãnh đạo của
mình ở Làng xã, nhà nước không trợ cấp tiền cho lãnh đạo nông
dân (sợ biến họ thành viên chức của chính phủ, mất gốc tinh thần
trong dân). Ngược lại trao quyền cao cho họ: lãnh đạo nông dân
có quyền đến gặp lãnh đạo ở mọi cấp chính quyền vào bất kỳ lúc
nào. Con của các lãnh đạo cộng đồng được cấp học bổng học
trường cấp II. Địa phương chi phí cho chương trình đào tạo và tập
huấn lãnh đạo cộng đồng.
Tổng thống định kỳ mời hai lãnh đạo phong trào ở cấp làng đến
tham dự cuộc họp của Hội đồng Chính phủ để các Bộ trưởng trực
tiếp nghe dân và bàn với dân. Hàng năm Nhà nước tổ chức các
cuộc họp toàn quốc cho lãnh đạo cộng đồng làng xã tham dự.
Những người thực hiện dự án thành công được trao giải thưởng và
tuyên dương rộng rãi. Huân chương “Saemaul” được trao cho
những lãnh đạo cộng đồng xuất sắc hoặc những anh hùng của
phong trào và trở thành phần thưởng cao quí của quốc gia. Nhờ
phần thưởng tinh thần này các lãnh đạo nông thôn nhận được sự
kính trọng của toàn cộng đồng.
Trong suốt thời gian cầm quyền, trong những ngày nghỉ, lễ tết,
Tổng thống và các Bộ trưởng đã đi thăm không báo trước và
không nghi lễ tốn kém hầu hết mọi làng của đất nước để động
viên và tìm hiểu tình hình phát triển nông thôn … Một trung tâm
đào tạo đặc biệt được xây dựng cho các lãnh đạo làng xã. Tại đây,
các nhà lãnh đạo cao cấp của nhà nước, lãnh đạo địa phương, các
văn nghệ sỹ, các lãnh tụ tôn giáo cũng được mời đến học nội trú
ngắn hạn, ăn ở chan hoà với các lãnh đạo làng xã. Cộng đồng
nông thôn trở nên gần gũi với cộng đồng cả nước. Bài hát của
phong trào do Tổng thống sáng tác. Lá cờ biểu tượng Saemaul
Undong tung bay khắp nơi, đưa người nông dân từ thân phận thấp
29
(Xem phần “Xử lý nội bộ-sự khủng khiếp của cơ chế cộng đồng”)
50
kém lên vị trí trung tâm xã hội.
Các làng xã thường muốn nhận là mình nghèo để được nhận hỗ
trợ của nhà nước. Để đảo ngược tâm lý này, Hàn Quốc đề ra lệ:
năm đầu nhà nước giúp cho mọi làng như nhau theo nguyên tắc
nhà nước cho 1 thì dân làng phải đóng góp 3, sử dụng thế nào do
dân quyết định. Hàng năm các làng cử ra hội đồng đánh giá kết
quả, tốt xấu được công bố cho toàn dân khen chê. Làng nào làm
tốt nhà nước tiếp tục giúp, làng nào kém bị đuổi ra khỏi chương
trình. Thế là mọi làng đều ra sức làm tốt để vừa đẹp mặt, vừa có
hỗ trợ. Phong trào của chính phủ trở thành cuộc thi đua quần
chúng sâu rộng. Sau này lan ra cả thành phố, nhà máy tạo nên
niềm tự hào, tự tin ở tương lai của cộng đồng. (Nguồn: Park, J. H.
1999, Kang Moon Kyu, 1999).
Hiểu rõ tác dụng lâu bền của khen thưởng này, Hồ Chí Minh là
Chủ Tịch nước nhưng thường dùng hình thức khen thưởng của cơ
chế cộng đồng như tặng khăn, tặng áo, tặng thơ,... viết báo ca
ngợi và tạo ra một phần thưởng rất đặc biệt là “Huy hiệu Bác”
(mang tính chất khác hẳn các loại huân, huy chương, danh hiệu...
của cơ chế nhà nước) để khen tặng, khuyến khích những “người
tốt, việc tốt”. Trong chương trình Seamun Undong của Hàn Quốc
(xem hộp 8), các hình thức thưởng phạt của cơ chế cộng đồng đã
được áp dụng một cách khéo léo để dấy lên phong trào quần
chúng dùng sức mạnh cộng đồng để phát triển nông thôn của cả
một quốc gia liên tục trong hàng chục năm.
Để đạt hiệu quả cao nhất, người ta có thể phối hợp hai ba cơ
chế trong thưởng phạt. Giải thưởng quốc tế Nôbel là một danh
hiệu hết sức vinh quang và cũng là một phần thưởng vật chất có
giá trị rất cao. Người chịu phạt tù đôi khi còn phải nộp phạt một
khoản tiền lớn hoặc bị tịch biên tài sản.
Như vậy bằng cách thức khác nhau, ba cơ chế đã tác động đến các hoạt động
định danh, thông tin và thưởng phạt. Việc định danh cho phép xác định rõ đối
tượng quan hệ trong xã hội, nhờ đó tạo điều kiện cho quá trình thông tin về các
đối tượng, có đủ thông tin giúp con người thực hiện hiệu quả các hình thức
thưởng phạt trong quan hệ xã hội. Các hình thức thưởng phạt ngày nay là sự phối
hợp biện pháp của cả ba cơ chế. Cơ chế thị trường dùng lợi ích vật chất để
khuyến khích, cơ chế nhà nước lấy sức mạnh pháp luật để bắt buộc, cơ chế cộng
đồng dùng cam kết nội bộ để ràng buộc.
51
Dưới tác động thưởng phạt khác nhau, con người tự tích lũy kinh nghiệm để
dần dần thay đổi hành vi của mình cho phù hợp với hoàn cảnh. Khi mọi người đều
thay đổi cung cách ứng xử, quan hệ xã hội sẽ thay đổi. Đó là quá trình tác động
của ba cơ chế làm thay đổi quan hệ xã hội.
Nếu làm tốt việc định danh, thông tin và thưởng phạt sẽ hình thành môi trường
quan hệ xã hội trong sạch, bình đẳng, tạo nên nền tảng đạo đức xã hội lành mạnh
và ngược lại khi 3 hoạt động này bị sai lạc, cơ chế điều chỉnh hoạt động của xã
hội loài người lập tức bị tê liệt, rơi vào tình trạng hỗn loạn.
Điều mà người ta ca ngợi cơ chế thị trường và lý do làm cơ chế này trở thành
cơ chế thống trị trong quan hệ con người ngày nay có lẽ là sức mạnh tự nhiên
trong việc điều tiết tài nguyên tự nhiên và xã hội theo hướng sử dụng có hiệu quả
nhất. Như đã trình bày ở phần “Hoạt động của cơ chế thị trường”, giá cả được
hình thành từ sự thông thương giữa người mua và kẻ bán, giữa sản xuất và tiêu
dùng. Tuân theo tín hiệu giá, tài nguyên sẽ chảy từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi
sử dụng hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao. Các thị trường thông nối nhau
giống như nước chảy chỗ trũng trong hiệu ứng vật lý “bình thông nhau”. Sự vận
động tự động và linh hoạt này khiến cho cơ chế thị trường tạo nên hiệu quả tuyệt
vời trong việc điều tiết sử dụng tài nguyên một cách tự nhiên với chi phí thấp
nhất.
52
Cơ chế thị trường nhắm vào các tác nhân tự do hành động, độc lập quyết định,
gắn với mục đích thỏa mãn nhu cầu và đáp ứng quyền lợi cá nhân. Sự tương tác
giao dịch giữa các tác nhân đại diện cho hoạt động cung và cầu, mua và bán diễn ra
gần như đồng thời trên thị trường để tạo nên tín hiện cân bằng của giá cả. Sự đồng
bộ này tạo ra thế mạnh tuyệt đối của thị trường về thông tin thông qua giá cả, đây là
tín hiệu rẻ nhất, hiệu quả và đơn giản nhất để mọi đối tượng tự nhận biết lợi thế của
mình, ước tính lợi nhuận và chủ động ra quyết định trao đổi hàng hoá, dịch vụ.
Động lực của thị trường là lợi nhuận kinh doanh, đầu tư. Mỗi tác nhân trong
cuộc chơi đều cố gắng cao nhất để giành lợi ích cho mình. Điều kỳ diệu của cơ
chế này là mọi người đều có thể cùng có lợi trong quá trình giao dịch khi đạt tới
điểm cân bằng lợi ích chung. Mọi người vì mình và vì vậy, đều vì mọi người. Cơ
chế thị trường tạo nên các hiệu ứng lan tỏa. Lợi ích do những người trực tiếp tham
gia giao dịch thương mại sẽ được chuyền lan sang các tác nhân khác cùng tham
gia trong dây truyền sản xuất, kinh doanh, đầu tư, dịch vụ,... tạo ra sự giàu có
chung cho cả xã hội thông qua mối liên kết thị trường.
Cơ chế thị trường vận hành theo nguyên tắc cạnh tranh tự do. Tính quyết liệt
trong hoạt động cạnh tranh tự giác tạo ra sự chọn lọc của tiến hoá. Mạnh được,
yếu thua, ai hiệu quả cao, tổ chức nào hợp lý, quốc gia nào mạnh sẽ vươn lên giàu
có. Sự minh bạch lạnh lùng của tự nhiên được thể hiện trong cạnh tranh thị trường
buộc con người và các cộng đồng phải tự học hỏi, tự đổi mới, để sống sót và
thành công, nhờ đó thúc đẩy quá trình áp dụng công nghệ, cải tiến thể chế để tự
hoàn thiện. Cuộc thi đua giữa cá nhân trở thành cuộc chạy đua giữa quốc gia, loài
người tiến hoá dần theo hướng ấm no, thịnh vượng.
Tất cả vẻ đẹp, sự kỳ diệu của cơ chế thị trường đã được nhiều nhà nghiên cứu
phân tích, mô tả và được đa số các nhà chính trị ít nhiều công nhận và áp dụng.
Quyển sách này muốn nói nhiều hơn về mặt xấu của cơ chế thị trường, ở những
khía cạnh trực tiếp liên quan đến việc hoạch định chính sách phát triển
Thập kỷ 1960, như mọi nước châu á đất chật người đông khác trong quá trình
phát triển kinh tế, Singapore áp dụng chế độ kế hoạch hoá gia đình một cách đồng
đều giữa mọi tầng lớp dân cư. Tuy nhiên đàn ông Singapore không muốn lấy vợ có
trình độ bằng hoặc hơn mình, vì vậy phụ nữ giỏi không có gia đình. Mặt khác, 70%
sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp không lập gia đình và chỉ có 38% tốt nghiệp
đại học lấy vợ cùng trình độ. Cho đến cuộc điều tra dân số năm 1980, nghịch lý
giữa mức tăng dân số và trình độ dân cư ngày càng gay gắt. Tính trung bình, phụ
nữ có trình độ học vấn cao nhất có 1,6 con, phụ nữ tốt nghiệp trung học cũng có 1,6
con, phụ nữ chỉ tốt nghiệp tiểu học có 2,3 con và những phụ nữ không học hành có
tới 4,4 con. Nếu để có một thế hệ nối tiếp bình thường, các gia đình phải có trung
54
bình 2,1 con thì rõ ràng tỷ lệ các gia đình có vợ trình độ trung học trở nên đang tự
giảm đi thay vào bằng các gia đình có người vợ trình độ thấp.
Lý Quang Diệu nhận ra sai lầm của chính sách đồng đều khuyến cáo mỗi gia
đình dừng lại ở hai con. Ông viết: “phải chi chúng tôi nhìn nhận vấn đề một cách
sớm hơn, thì chúng tôi đã cải tiến hoặc điều chỉnh cuộc vận động khác đi, khuyến
khích những phụ nữ học cao nên có ba con trở lên.” Hoàn toàn tin rằng 80% bản
chất và năng lực của con cái phụ thuộc vào di truyền, Thủ tướng Lý Quang Diệu và
chính phủ Singapore đã đưa ra một loạt biện pháp khác nhau để tăng tỷ lệ sinh của
lớp người có học vấn. Cơ quan Phát triển xã hội được thành lập để tạo môi trường
làm mối cho các cặp nam nữ có cùng trình độ, những bà mẹ có trình độ cao nếu
sinh thêm được đứa con thứ 3 sẽ được ưu tiên chọn trường tốt nhất cho cả 3 con,
sửa lại luật lệ để phụ nữ cũng như đàn ông Singapore có thể lấy các nhân tài từ
nước ngoài nhập cư vào, miễn thuế thu nhập cho phụ nữ có trình độ đại học, cao
đẳng, trung học nếu sinh trên 3 con,…(Nguồn: Lý Quang Diệu 2001).
Cái vòng luẩn quẩn: khác biệt mức sống-khác biệt mức tăng dân số- mâu thuẫn
xã hội, ngày càng gia tốc nhanh hơn. Tình trạng này làm nảy sinh hai vấn đề, một
bên là các nhóm chính trị cánh hữu với xu hướng bài ngoại có xu hướng chiếm ưu
thế trên chính trường châu âu, bên kia là nạn khủng bố và nhập cư trái phép có xu
hướng lan rộng nhiều nơi ở âu Mỹ.
55
Thomas Fiedman trong cuốn Chiếc xe Luxus và cây Ôliu đã nói về hiện tượng
“người thắng được tất cả” trong quá trình toàn cầu hoá như sau: người giỏi nhất
trong mỗi ngành, vận động viên, ca sĩ, luật sư, bác sỹ, tác giả hay diễn viên đều
nhận được những khoản tiền thù lao khổng lồ. Những người chỉ kém hơn một chút
thôi cũng sẽ nhận được phần nhỏ hơn rất nhiều. Vì mọi người trên thế giới đều
muốn xem giải bóng rổ NBA, mua những cuốn phim hay nhất, thuê các chuyên gia
giỏi nhất, tất nhiên cái giá của những ngôi sao này càng ngày càng tăng. Như vậy sự
bất quân bình tăng lên trong từng nhóm ngành nghề hay trong từng công ty30.
Sự thua thiệt không chỉ giữa các cá nhân, các cộng đồng mà cả giữa các quốc
gia, giữa nhóm nước giàu và các nước chậm phát triển. Năm 1999, các nước giàu
có ở châu Âu, Bắc Mỹ và Đông á trợ cấp cho ngành nông nghiệp của họ 361 tỷ
USD, tạo nên thế lực cạnh tranh mạnh đối phó với sản xuất thủ công của nông dân
các nước nghèo. Viện Nghiên cứu Kinh tế Nông nghiệp úc (ABARE) ước lượng
rằng, nếu giá trị sản xuất nông sản của các nước nhóm OECD31 năm 1999 là 100%
thì mức bảo hộ của nhà nước cho nông sản chiếm đến 65% (mức tự ước lượng của
OEDC là 40%). Như vậy, nếu nông dân những nước nghèo sản xuất ra nông sản
có giá bằng mức giá của các nước giàu, thì muốn bán được hàng vào các thị
trường này, họ phải hạ giá bán của mình thấp hơn mức đó tới 65%. Đây thực sự là
một cuộc cạnh tranh không cân sức.
Hộp 10. Cừu ăn thịt người, bi kịch công nghiệp hoá ở Anh
Năm 1764 ở Anh, ông thợ mộc Giêm Hacgrivơ ngồi nhìn con gái chơi chiếc xa
kéo sợi thủ công bỗng nảy ra ý định chế tạo máy kéo sợi có 8 cọc suốt và đặt tên
con gái Genny cho chiếc máy mới. Từ đó, khởi đầu cách mạng cơ khí hoá ngành
dệt sợi cổ truyền ở nước Anh. Máy chuyển sang chạy bằng sức nước, rồi tự động
kéo được 2000 cọc sợi. Máy dệt sức nước ra đời theo, và sau đó là động cơ hơi
nước vào cuộc. Có thị trường tiêu thụ len sợi, nhà máy dệt mọc lên khắp nơi. Chiếc
máy dệt hiền lành bỗng trở thành con quỉ cướp việc làm vốn là miếng cơm manh áo
của bao công nhân thủ công. Tự vệ một cách tuyệt vọng, công nhân dệt ở Silêzi
đứng lên bạo động đập phá máy móc nhưng đã muộn, kỷ nguyên máy móc cơ khí
thay thế sức người đã bắt đầu.
Công nghiệp dệt khi cơ giới hoá phát triển mạnh, cần có nhiều lông cừu làm len
và kéo sợi. Giá lông cừu tăng vọt khiến các địa chủ thi nhau mua đất, rào vườn, đào
mương thành trại chăn nuôi, đuổi nông dân ra khỏi ruộng vườn. Bắt đầu từ giữa thế
kỷ 15, và kéo dài suốt 300 năm, 2000 điều lệnh của Nghị viện được ban hành cho
30
Friedman, T. 2000.
31
OECD gồm 15 nước EU, Mỹ, Nhật, úc, New Zealand, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Nauy,
Thụy Điển, Iceland.
56
phép cướp đất của nông dân để nuôi cừu đã chiếm hàng triệu mẫu ruộng và xoá
sạch giai cấp nông dân khỏi nông thôn nước Anh. Nghề nuôi cừu tiêu diệt ngành
trồng trọt, đồng cỏ thay thế ruộng lúa, nông dân mất đất tràn ra thành phố, Chính
phủ ban bố Luật chống người lang thang cho phép đánh dấu bằng sắt nung lên tai
để tử hình người tái phạm. Chính những kẻ khốn khổ này trở thành những lao động
đầu tiên của giai cấp công nhân công nghiệp ngày nay. (Nguồn: 102 Sự kiện nổi
tiếng thế giới. NXB Văn Hoá Thông Tin, 2002.)
Tình trạng "mạnh được yếu thua" trong nhiều trường hợp, khoét sâu khoảng
cách chênh lệch về mức sống kinh tế, về điều kiện sinh hoạt xã hội giữa các nhóm
người một cách bất công. Kết quả là những kẻ chịu bất công sẽ tìm cách phản
kháng, thậm chí tìm cách "tái lập lại trật tự" (tất nhiên không phải bằng cơ chế thị
trường), thế là đến lượt kẻ mạnh phải đối đầu với kẻ yếu không phải bằng luật
chơi thông thường của thị trường. Trong cuộc đối đầu này, "kẻ mạnh" trên thị
trường chưa chắc đã tiếp tục là kẻ mạnh. John F Kennedy đã từng lo lắng cảnh
báo: “Nếu một xã hội tự do không thể giúp số đông người nghèo thì cũng chẳng
có thể bảo vệ thiểu số người giàu”32. Nghịch lý này dẫn đến sự tích tụ mâu thuẫn
xã hội và tạo ra bất ổn về lâu dài.
“Có tiền mua tiên cũng được”.
Trong cơ chế thị trường, quan hệ giao dịch mua bán diễn ra một cách tự nhiên
với hàng hoá, dịch vụ, một phần với thị trường tài nguyên. Tuy nhiên, cơ chế thị
trường trong nhiều trường hợp cũng được áp dụng vượt qua những lĩnh vực quen
thuộc. Ví dụ, trên thế giới việc treo giải truy nã tội phạm bằng tiền, hay cho phép
nghi can đóng tiền thế chân để tại ngoại đã trở thành thông lệ. Theo lý mà nói,
dường như có một thị trường đặt giá để “mua” tội nhân hay rủi ro trốn chạy của
nghi can có thể được bảo đảm bằng giá trị tiền nhất định.
Một khi cơ chế thị trường lấn sang các lĩnh vực như lẽ phải,
công lý, giá trị văn hoá, tinh thần, quyền lực chính trị… một cách
chính thức thì câu nói “cái gì không thể mua bằng tiền sẽ phải
mua với giá rất cao” có khả năng trở thành sự chấp nhận của xã
hội. Không thiếu những ví dụ cho thực tế này. Nhà tỷ phú Nga
Roman Abramovich chính thức mua Câu lạc bộ bóng đá Tây Luân
Đôn Chelsea với giá 150 triệu bảng Anh và mua tiếp 13 cầu thủ
nổi tiếng với giá 174 triệu USD một cách chính thức thì cũng có
các cầu thủ ở Việt Nam “bị mua ngầm” bởi các trùm cá độ với giá
tương đương vài ngàn đô la. Nhà tỷ phú Silvio Berlusconi làm chủ
cả một mạng lưới truyền thông lớn trong cả nước hỗ trợ để giành
32
Dẫn theo Friedman, T. L., 2000.
57
chức Thủ tướng và bao che cho hành động tham nhũng trước khi
bị vạch mặt, thì trùm xã hội đen Năm Cam cũng hối lộ các phóng
viên, mua chuộc lãnh đạo cơ quan truyền thông để đăng tải các
bài gỡ tội cho y. Từ các hoạt động mua bán chính thức, trong
những điều kiện quản lý nhà nước chưa mạnh, có thể hình thành
các hoạt động mua bán không chính thức vượt qua khuôn khổ
được xã hội chấp nhận.
Nếu như ở các nước tư bản, một số nhà tài phiệt như trường hợp George Soros
bị cáo giác đã bỏ ra 5 tỷ USD tài trợ cho các hoạt động vận động chính trị ở Đông
âu và Liên Xô những năm 1990 hay đã dùng lượng tiền khổng lồ đánh thẳng vào
nền tài chính của một số quốc gia châu á góp phần gây nên cuộc khủng hoảng tài
chính cuối thập kỷ 90; gần đây lại lập ra các tổ chức phi chính phủ, hỗ trợ các vận
động chính trị tạo nên cuộc “cách mạng nhung” ở Gruzia năm 2003;… thì ở các
nước XHCN, cũng có nhiều trường hợp các tập đoàn kinh doanh lớn, nhất là
doanh nghiệp nhà nước nắm vị trí quan trọng trong nền kinh tế cũng có thể bỏ tiền
tiến hành các cuộc vận động tranh thủ chính sách, bảo vệ quyền lợi, chạy dự án,
chạy quota, thậm chí chạy chức, chạy danh hiệu, chạy tội.
Khi “nén bạc” không dùng để thanh toán mua bán mà lại để “đâm toạc tờ giấy”
thì tác hại là khó tránh khỏi, tờ giấy đó, nhỏ thì là tấm bằng, lớn có thể là chính
sách, luật pháp. Nhưng cũng như nghịch lý của mọi cơ chế khác, lỗi không phải
do bản thân cơ chế, mà là do người dùng nó theo hướng nào, ở phạm vi nào và
cách thức chế ngự, điều hành nó của nhà nước.
ở nhiều nước, việc vận động bầu cử trở nên cực kỳ tốn kém, “giá phải trả cho
phiếu bầu” thực sự trở thành gánh nặng cho các chính khách và đảng muốn lên cầm
quyền. Ngân sách tranh cử của riêng tổng thống Bush năm 2004 là 100 triệu USD.
Dù ít hơn, nhưng ở Đài Loan những năm 1990, mỗi ứng cử viên Quốc dân đảng
muốn thắng cử phải chi từ 10-20 triệu USD; tại Thái Lan năm 1996, 2000 ứng cử
viên đã chi hết 1,2 tỷ USD cho vận động bầu cử, năm 2001 phải chi cho bầu cử 60
tỷ bath; cuộc tuyển cử năm 1999 tại ấn Độ chi hết 10 tỷ rupee; tại Philipines mỗi
ứng cử viên phải có tối thiểu 2-3 tỷ peso; tại Indonesia mỗi ứng cử viên phải chi
đến 70 tỷ rupiah, đảng nào muốn tranh cử tổng thống phải có tới 140 tỷ rupiah; tại
Malaysia, riêng đảng cầm quyền UMNO phải chi hết khoảng 100 triệu ringit.
Các khoản tiền khổng lồ trên được chi cho các hoạt động vận động tranh cử như
quảng cáo, tuyên truyền trên báo chí, truyền thanh, truyền hình, phát hành truyền
đơn cổ động, tổ chức điều tra xã hội, tổ chức mít ting, tuần hành. ở Thái Lan các
58
đảng chi 30-40 triệu bath để thuê các nhân vật nổi tiếng đi diễn thuyết; ở Nhật các
chính trị gia còn ủng hộ tiền cho đám cưới, đám tang. Các cuộc vận động trở nên
rất tốn kém ở các quốc gia rộng lớn như Mỹ, Nga, Canađa,… hay các đảo quốc
gồm nhiều hòn đảo nhỏ phân tán như Indonesia, Philippines,… Chuyện các nhà
chính trị mua phiếu bầu của cử tri thường nghe đồn đại ở nhiều nước.
Do phải tiêu quá nhiều tiền, các nhà chính trị phải dựa vào hỗ trợ của mọi mguồn
khác nhau. Bầu cử ở Indonesia tốn hết 4000 tỷ rupiah thì ngân sách nhà nước đảm
bảo 3000 tỷ, còn lại 1000 tỷ là hỗ trợ nước ngoài. Vì các đảng chính kiểm soát gần
hết 160 doanh nghiệp chính ở Indonesia nên khối doanh nghiệp nhà nước đóng góp
rất quan trọng trong hoạt động kinh tế và chính trị, 15-30% ngân sách của các đảng
do doanh nghiệp nhà nước chi trả, trong đó hoạt động bầu cử đóng vai trò quan
trọng. ở Philippines, khoảng 80% đóng góp tương đương 30 tỷ peso lại là của cộng
đồng Hoa kiều chiếm vị trí lớn trong hoạt động kinh tế nước này. Sự hỗ trợ của giới
doanh thương và các cộng đồng dân cư nhiều khi trở thành gánh nặng nợ nần chính
trị và là cửa ngõ để nạn tham nhũng hoặc lũng đoạn chính sách thâm nhập vào
chính quyền. (Nguồn: Diệu , L. Q. 2001, Straits Times, 2003, NNVN 24/12/2003).
59
Hộp 12. Thị trường thế giới nhạy cảm với rủi ro toàn cầu
Sau một thời gian dài can thiệp trực tiếp để ấn định tỷ giá, ngày
2/7/1997, khi sức ép của thị trường vượt quá khả năng dự trữ
ngoại tệ của Chính phủ, Thái Lan đầu hàng, thả nổi tỷ giá, bắt đầu
cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế ở nước này, chỉ sau vài giờ,
hàng trăm triệu USD ào ạt chuyển qua đường giao dịch điện tử ra
khỏi quốc gia. Trong vòng một năm, cuộc khủng hoảng lan ra Hàn
Quốc, Indonesia, Malaysia... với dòng thác vốn chảy ra khỏi vùng
đến 100 tỷ. (Ngân hàng Thế giới, 1999), nền kinh tế toàn cầu
trong 2 năm 1998-2000 bị giảm khoảng 2 nghìn tỷ USD vì cuộc
khủng hoảng này
Ngày 11/9/2001, nước Mỹ bị khủng bố tàn bạo, Lầu Năm Góc và
Trung tâm Thương mại Thế giới bị tấn công. Trung tâm chứng
khoán New York nơi có lượng giao dịch hơn 1100 tỷ USD/ngày phải
đóng cửa, kéo theo sự sụt giá 2,3-3,5% tại hầu hết thị trường
chứng khoán thế giới. Ngày 12/9, thị trường chứng khoán Luân
Đôn giảm 5,7%, Frăngphuốc giảm 7,3%, Pari giảm 7,4%. Tokyô
giảm 6,6%, mức giảm kỷ lục trong 11 năm. Thị trường Hồng Kông
giảm gần 9%, Singapore giảm 7,4%, Sydney úc giảm 4%, thậm
chí nhiều nước phải đóng cửa thị trường chứng khoán. Kinh tế toàn
thế giới chịu ảnh hưởng gần như tức thì. (UNDP, 2000).
60
của Việt Nam. Người có sức lên tìm việc làm, người có tiền lên
mua trang trại, diện tích cà phê trong 5 năm sau đó liên tục tăng
với tốc độ kỷ lục, gần 21%/năm.
Sự nhạy cảm quá mức của thị trường trở nên đặc biệt nguy hiểm cho các quốc
gia đang phát triển chưa có đủ tiềm lực và cơ chế để ngăn chặn, giảm bớt tác động
của các cú sốc trên thị trường. Những cơn sốt giá cả, mọi cuộc khủng hoảng thừa
hay thiếu đều gây tác động xấu cho các nền kinh tế yếu kém, đặc biệt cho tầng lớp
người nghèo khổ. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Indonêxia năm 1997, sau vài tháng
đã xoá bỏ kết quả nỗ lực của hàng chục năm phấn đấu phát triển kinh tế, đẩy hàng
chục triệu người lùi xuống sống dưới mức nghèo khổ.
“Tiền trao cháo múc”.
Chính sự đồng thời của hoạt động giao dịch mua bán cũng tạo nên một giới hạn
của cơ chế thị trường là đặc tính ngắn hạn. Người ta có thể giao dịch, thoả thuận,
và thanh toán, chuyển nhượng ngay lập tức với một đối tác ở bên kia trái đất,
nhưng người ta không thể giao dịch với một đối tượng trong quá khứ hay tương
lai. Tiền có thể mua được nhiều thứ ngoại trừ thời gian. Joseph Stiglitz đã nói đùa
về giả định dài hạn của các nhà kinh tế: “xét về dài hạn, chúng ta đều đã chết”.
Trong khi hầu hết giao dịch mua bán diễn ra đồng thời, thì cũng có những hoạt
động kinh doanh nhằm vào thời gian tương lai tạo nên cái được gọi là “thị trường
tương lai” hay “thị trường hàng hoá giao sau”. Thực ra trong giao dịch này, giữa
bên mua và bên bán không phải là người môi giới kinh doanh như các giao dịch
mua bán bình thường mà là nhà “đầu cơ”, người kinh doanh cơ hội, người này
cũng có điểm giống như người kinh doanh rủi ro trong hoạt động bảo hiểm, là
không trông cậy vào lời lãi do dịch vụ buôn bán mà trông cậy vào cơ hội hàng hoá
tăng giá theo thời gian. Do vậy không thể coi đây như những hoạt động buôn bán
thông thường.
Ngoài ra cũng có những người đầu tư vào tương lai, ví dụ như những người
đầu tư trồng rừng phải bỏ vốn suốt hàng chục năm để thu lợi khi cây gỗ đã lớn
cho phép thu hoạch. Tuy vậy đây là hoạt động sản xuất đúng hơn là giao dịch
thương mại, trừ phi người trồng rừng đã ký được hợp đồng bán rừng ngay khi
trồng. Dẫu sao người đầu tư cũng phải tính chiết khấu vốn đầu tư của mình trong
suốt thời gian với chi phí cơ hội của đồng vốn chí ít cũng bằng tiền anh ta bỏ vào
lấy lãi từ ngân hàng trong cùng thời gian. Do vậy, người ta có thể trồng bạch đàn,
keo lá tràm cho thu hoạch sau 10-20 năm, thậm chí trồng tếch, sau 40- 50 năm
nhưng chắc ít người có thể trồng rừng lim, gụ để thu hoạch sau hàng trăm năm vì
mức vốn tính chiết khấu lùi dài hạn khiến giá bán cuối cùng phải cao khủng khiếp
nếu cộng thêm xác suất rủi ro trong suốt thời gian đó, vả lại mấy ai quan tâm đến
lợi nhuận sau khi mình đã chết từ tám đời ?
61
Tính chất “tiền trao cháo múc” còn được cộng thêm tính chất “trăm người bán,
vạn người mua” của cơ chế thị trường, nhiều khi tạo cho người mua và người bán
loại quan hệ một lần, trong đó lợi nhuận đem lại do lừa bịp lẫn nhau hấp dẫn hơn
chi phí để xây dựng lòng tin. Đây là điều kiện để những kiểu cư xử của “Nghịch
lý người tù” có đất phát triển. Tình trạng gian lận thương mại, tranh mua giành
bán, vi phạm đạo đức kinh doanh sẽ lan tràn nếu không có sự tham gia điều chỉnh
của cơ chế nhà nước và cộng đồng.
Sự ngắn hạn của cơ chế thị trường còn khiến cho cơ chế này không thể tham
gia điều chỉnh vào những vấn đề liên quan đến quyền lợi của các thế hệ mai sau
như việc quản lý các nguồn tài nguyên không thể tái tạo, việc duy trì các di sản
văn hoá, môi trường có ý nghĩa lịch sử,…
“Người đi ké xe”.
Mua xe, lái xe, bảo dưỡng xe là những chi phí đáng kể mà ai muốn sở hữu, sử
dụng xe đương nhiên phải chịu, tuy nhiên, cũng có những người được đi xe mà
chẳng phải chia sẻ chút gì những tốn kém trên, đó là những kẻ đi nhờ, đi ké xe.
Thói xấu về những kẻ lợi dụng sử dụng một dịch vụ, một lợi ích do người khác
phải chi trả được các nhà kinh tế gọi là nghịch lý của người đi ké xe (freerider
problem). Tệ nạn này khác với câu chuyện “cha chung không ai khóc” của cơ chế
cộng đồng ở chỗ trong trường hợp cơ chế cộng đồng, những khu vực tự do khai
thác là của chung, không ai phải bỏ chi phí chăm sóc, bảo vệ nên mọi người cùng
tranh nhau khai thác, trong trường hợp người đi ké xe của cơ chế thị trường, khu
vực bị lợi dụng do những người khác phải trả tiền chi phí, nên kẻ tranh thủ khai
thác chỉ là số ít được lợi miễn phí.
Một trong những ví dụ điển hình là các trường hợp gây ô nhiễm môi trường. Ví
dụ một công ty sản xuất hoá chất không đầu tư gì cho việc làm sạch chất thải
trong quá trình sản xuất. Nhờ tiết kiệm chi phí, công ty này cạnh tranh thắng lợi
với các doanh nghiệp khác phải tốn kém đầu tư bảo vệ môi trường và được hưởng
thêm phần đáng phải chi này như một phần lợi nhuận. Tuy công ty không phải trả
tiền, nhưng dân cư trong vùng công ty đặt nhà máy vẫn phải chịu thiệt hại về khói
bụi, nước bẩn, tiếng ồn và phải chi phí để trả tiền chữa bệnh, tiền trồng cây, lọc
nước,… tất cả những khoản tiền này lẽ ra công ty phải tính đủ vào chi phí sản
xuất của mình nhưng lại bắt người khác gánh hộ.
Nghịch lý “Người đi ké xe” tạo ra sự bất cân bằng trong xã hội, khi người này
phải chi cho người khác hưởng theo kiểu “thằng còng làm cho thằng ngay ăn”, tuy
nhiên, bản thân cơ chế thị trường không khắc phục được nghịch lý này vì tác hại
của các ảnh hưởng này diễn ra trên một qui mô rộng, gây tác động tổng hợp, khó
quan sát trực tiếp, nên khó thể lượng hoá một cách cụ thể, khó giám sát và qui các
62
khoản chi này thành trách nhiệm cho những cá nhân cụ thể, nhất là trong các
trường hợp xảy ra tại nhiều vùng lãnh thổ khác nhau, nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội
khác nhau, trong thời gian khác nhau, nghĩa là không thể qui thành hoạt động thị
trường được. Đương nhiên để khắc phục nó phải áp dụng các biện pháp của cơ
chế nhà nước và cơ chế cộng đồng.
63
Cũng như cơ chế thị trường, thế mạnh và nhiệm vụ quan trọng của cơ chế nhà
nước đã được nhiều tài liệu nghiên cứu mô tả và tìm hiểu kỹ. Cuốn sách này xin
tập trung bàn về những điểm yếu của cơ chế, liên quan nhiều đến những ứng dụng
cụ thể của thực tế.
66
hoặc không dứt khoát giữa hai giải pháp thì đành chịu sự khủng bố vô ơn của
chính đồng bào, đồng chí của mình. Sức ép tàn bạo của nghịch lý này làm nhiều
người có trí đổi mới nhưng không có gan hy sinh phải lùi bước, yên hưởng sự
bình yên của trật tự cũ. Nếu không phải đương đầu với những thách thức quyết
liệt, bộ máy nhà nước thường chấp nhận đường lối bảo thủ, viên chức thường
chọn cách xử sự trung dung, theo ý cấp trên và theo số đông.
Hộp 13. Cải cách vĩ đại và số phận thảm thương của Xôlông
Đầu thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, Xôlông là một nhà quí tộc,
là nhà thơ, nhà quân sự có tư tưởng cải cách đi trước thời đại tại
Hy Lạp cổ đại. Ông muốn xoá bỏ chế độ nô lệ tàn bạo của giai cấp
mình, muốn xây dựng chế độ cộng hoà đại nghị, lấy nguyên tắc
dân chủ quản lý nhà nước. Để thực hiện ước vọng vĩ đại của mình,
năm 30 tuổi, ông khích động nhân dân đòi hội đồng quí tộc Aten
phải giao quyền chỉ huy quân đội cho mình đánh quân xâm lược,
giành lại đảo Xaramit quê hương.
Thắng trận, trở thành chấp chính quan thứ nhất, ông thực hiện
cải cách, ban hành lệnh: “hủy bỏ mọi khoản nợ của người bình
dân, trả lại tự do cho mọi nô lệ bị gán nợ, nhà nước có trách nhiệm
chuộc lại những người bị gán làm nô lệ cho người nước ngoài, từ
nay cấm biến người Aten thành nô lệ”. Sau đó ông loại bỏ chế độ
thế tập quí tộc, chia dân thành 4 hạng tuỳ theo tài sản hiện có,
loại dân nào cũng phải có nghĩa vụ và quyền lợi chính trị rõ ràng.
Đại hội công dân với “Hội nghị 400 người”, một tổ chức như quốc
hội ngày nay được trao quyền lực tối cao của nhà nước,… Những
qui định mới về cải cách đều được khắc lên bảng gỗ để toàn dân
nắm biết và tuân theo.
Bị mất quyền hành, giới quí tộc căm ghét Xôlôn, phe bình dân cũng oán ghét ông
vì không thoả mãn mọi nguyện vọng của họ. Trước hai sự lựa chọn: hoặc là phá huỷ
truyền thống dân chủ, đoạt lấy chính quyền trở thành nhà độc tài để tiếp tục tiến hành
cải cách bằng sức mạnh hoặc chần chừ để bị tiêu diệt, Xôlông đơn độc lên thuyền
trốn ra nước ngoài, 10 năm sau, khi mọi người đã lãng quên, ông mới lặng lẽ trở về
sống ẩn dật cho đến lúc mất. (Nguồn: 102 Sự kiện nổi tiếng Thế giới).
Chuyển từ chính phủ Dân chủ của Tổng thống Bill Clinton sang chính phủ Cộng
hoà của Bush, chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ thay đổi rõ rệt. Chỉ trong một
thời gian ngắn, các lý thuyết thiên hữu và bảo thủ chiếm ưu thế trong việc định hướng
chính sách của chính quyền Mỹ. Nghiên cứu về quá trình vận động hậu trường này,
Richard Perls thành viên của hội đồng Chính sách Quốc phòng Mỹ đã phác họa một
mạng lưới những nhà “quân sư” và cơ quan tham mưu góp phần tích cực hình thành
nên Chính sách của nội các Bush thông qua việc cung cấp, phân tích thông tin, đưa ra
các lập luận, lý luận làm căn cứ hình thành chính sách
Nhóm hậu thuẫn và gây ảnh hưởng này gồm các nhà “tân bảo thủ” là quan chức
chính phủ, nhà báo, nhà khoa học như Paul Wolfowitz thứ trưởng Quốc phòng; Giáo sư
William Kristol biên tập viên của tờ Weekly Standard, tác giả của khá nhiều tác phẩm
lý luận chính trị, kinh tế và luật; Phó tổng thống Dick Cheneys, Trưởng nhóm thư ký
quốc phòng Douglas Feith; thành viên Hội đồng Quốc phòng Richrd Perle; Giám đốc
Trung Đông của Hội đồng An ninh Quốc gia Elliot Abrams; và Robert Kagan nhà báo
quan trọng của Washington Post.
Bên cạnh các chuyên gia, ở Mỹ còn có một số cơ quan nghiên cứu và tạp chí gây
ảnh hưởng quan trọng đến chính sách “diều hâu” của chính quyền Bush như Viện
doanh nghiệp Hoa Kỳ, thành lập năm 1943 chuyên nghiên cứu về kinh tế tự do, các vấn
đề đối nội, đóng vai trò quan trọng trong vấn đề chống khủng bố theo lýý thuyết bảo
thủ; Đề án Nước Mỹ Thế kỷ mới, thành lập năm 1997, chủ trương phát huy vai trò
quốc tế của Mỹ để tự bảo vệ mình; Quĩ Thừa kế, thành lập năm 1973, từng là bộ tham
mưu có ảnh hưởng mạnh với chính quyền Reagan, là mạng lưới các nhà lý luận bảo thủ
đóng góp vào chính sách kinh tế, đối nội, đối ngoại, theo quan điểm kinh tế tự do, hạn
chế chính phủ, tự do cá nhân, phòng thủ mạnh,…; Viện nghiên cứu Hoover, thành lập
năm 1919 tại đại học Starnford, nghiên cứu an ninh, chính sách kinh tế, luật pháp, chủ
trương tăng cường an ninh để duy trì hoà bình; Trung tâm Nixon, thành lập năm 1994,
nghiên cứu trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh nhắm vào bảo vệ quyền lợi và an ninh
của Hoa Kỳ; Trung tâm Chính sách An ninh, thành lập 15 năm nay, chủ trương duy trì
hoà bình bằng sức mạnh; Tổ chức Lợi ích Quốc gia, thành lập 1995, nghiên cứu những
vấn đề ảnh hưởng đến ứng xử của các quốc gia về chính sách đối ngoại, đối nội, khác
biệt văn hoá, xã hội, công nghệ, lịch sử,…
Nhóm tham mưu tân bảo thủ bắt đầu gây ảnh hưởng mạnh ngay từ khi tổng thống
Bush cầm quyền nhưng đến khi sự kiện khủng bố ngày 11/9 xảy ra mới thực sự tạo cơ
hội rất thuận lợi cho họ khuyếch trương vai trò vào quá trình lập chính sách. Người Mỹ
tức giận vì cuộc thảm sát xảy ra trên đất nước mình, nhanh chóng ủng hộ cuộc tấn công
vào Aganishtăng. Tiếp theo đó, nhóm tân bảo thủ đứng đầu là Wolfowistz ở bên trong
chính phủ, và Kristol, Kagan, cựu giám đốc CIA James Woolsey… từ bên ngoài đã
thành công trong việc ngăn chặn các ý kiến trung lập như của Bộ trưởng Colin Powell
và biến Irắc thành mục tiêu tấn công tiếp theo của Mỹ. (Nguồn: Richard Perle, 2003).
71
Hộp 15. Cường quốc Tây ban Nha sụp đổ, những đề nghị cải
cách không được lắng nghe
Thế kỷ 17 diễn ra quá trình sụp đổ của cường quốc Tây Ban Nha. Từ một dân
tộc hùng mạnh nhất Phương tây từ thời Đế chế La Mã trở thành một nước kinh tế
suy thoái, buôn bán khủng hoảng, chính trị rối loạn, chiến tranh liên miên. Điều kỳ
lạ là Hội đồng cải cách đã trình cho nhà vua và triều đình toàn bộ tình hình và các
phương án cải cách nhưng bộ máy quan liêu vẫn bất lực bó tay. Năm 1976, Jan de
Vries đã kể lại những cố gắng vô vọng này như sau: “Toàn bộ trường phái các nhà
cải cách kinh tế… đã viết hàng núi những bài luận bàn biện hộ cho những biện
pháp mới…bao gồm cả thuế để khuyến khích kết hôn sớm hơn để tăng dân số, hạn
chế số lượng nô lệ, thành lập ngân hàng, cấm nhập khẩu hàng xa xỉ, đóng cửa các
nhà chức, cấm dạy tiếng Latinh ở phố nhỏ (để giảm nông dân có học vấn bỏ nghề).
Thế nhưng không thể tìm được một thủ lĩnh nào để thi hành những kiến nghị
này…” Có lẽ chỉ có một đề nghị được chấp nhận là thủ tiêu loại cổ áo xếp nhiều
nếp vì quá tốn kém cho chi phí giặt là.
Cùng trong giai đoạn này, nước Anh với vị thế thấp kém hơn đã kiên quyết tiến
hành các cải cách hợp lý và nhanh chóng vươn lên vị thế đứng đầu Châu Âu. Một
trong những nguyên nhân của sự bảo thủ ngu muội này là do cơ chế cộng đồng
đóng vai trò nổi trội trong xã hội Tây Ban Nha thời đó. North viết: “trong con
đường của Tây Ban Nha, những quan hệ cá nhân vẫn là chiếc chìa khóa cho phần
lớn những trao đổi kinh tế và chính trị. Chúng là kết quả của một khuôn khổ thể
chế đang tiến triển vừa không tạo được sự ổn định chính trị vừa không thực hiện
thích hợp được tiềm năng của công nghệ hiện đại”. (Nguồn: North D. C. 2000,
NXB Khoa học xã hội 1998).
Trong những quốc gia quản lý một cách tập trung, nơi các
nhóm đồng lợi ích hoàn toàn khống chế hoạt động tham mưu lý
luận bằng cơ chế cộng đồng thì các sáng kiến, ý kiến khác biệt,
đề án đổi mới khó có cơ hội lọt được đến tay người lãnh đạo hoặc
được lãnh đạo lắng nghe một cách trân trọng. Ví dụ như ở Việt
Nam dưới triều đại nhà Nguyễn, Cơ mật Viện là cơ quan đóng vai
trò tham mưu chính cho nhà vua về các quyết định chính sách,
chiến lược quan trọng. Kiến thức hạn hẹp, nền giáo dục hủ nho,
quan điểm bảo thủ, quyền lợi hẹp hòi, thái độ kỳ thị với nước
ngoài, nghi kỵ với tôn giáo của các quan chức làm việc trong cơ
quan quan trọng này không thể cho phép họ chấp nhận những đề
án cải cách táo bạo của những nhà cải cách nổi tiếng như
Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch.
72
Chỉ riêng nhà cải cách thiên tài Nguyễn Trường Tộ trong 10 năm
đã gửi lên triều đình 58 bản điều trần, phác hoạ nên cả một
chương trình cải cách rộng lớn cho phép Việt Nam mở cửa chuyển
sang phát triển công nghiệp hoá. Nguyễn tiên sinh trước khi mất
than: "Bài tế cấp luận của tôi, nếu đem ra thực hành 100 năm
cũng chưa hết, thế mà 7, 8 năm nay chưa được thực hành tý nào,
chả nhẽ đợi tới 100 năm sau mới thực hành được sao?". Đau đớn
thay, quả đúng là 100-130 năm sau, hôm nay, nội dung bản điều
trần của ông mới từng bước được đưa vào thực hành36.
Sự tham khảo của lãnh đạo với tham mưu và sự phục vụ của
tham mưu cho lãnh đạo là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu
được, nó đảm bảo tính khách quan, khoa học, cung cấp sáng kiến
và giải pháp hỗ trợ người cầm quyền ra quyết định. Miễn là, mối
quan hệ này phải đảm bảo quyết định được đưa ra đáp ứng
quyền lợi và nguyện vọng của đa số cử tri bàu ra người lãnh đạo
và dựa trên mục tiêu hiệu quả và hợp lý. Và được người lãnh đạo
trân trọng, tiếp thu.
36
Xem Nguyễn Trường Tộ Con người và Di Thảo, Trương Bá Cần, NXB TP. Hồ
Chí Minh, 2002. .
37
Hirshleifer, J, 1987.
73
Bên cạnh tính hợp lý của qui chế tranh cử, là mặt trái của hiện tượng “chu kỳ
chính trị”. Nếu nhà nước quản lý kém, thì nhiệm kỳ mới là cơ hội đổi mới nhưng
trong trường hợp quản lý nhà nước bình thường hoặc thành công thì đang phát
triển ổn định, các hoạt động của nhà nước có nguy cơ chững lại vì hoạt động tranh
cử theo từng chu kỳ thời gian.
Trong hoàn cảnh hợp pháp, các thủ lĩnh chính trị cũng phải chú ý hơn đến các
thủ pháp để lấy lòng cử tri. Các chính sách “mỵ dân” dễ được áp dụng trong giai
đoạn tranh cử, các chính sách cải cách đổi mới phải gây thiệt hại cho các nhóm
người nhất định hay dễ gây tranh cãi sẽ bị dừng lại. Nói cách khác, mục tiêu của
hoạt động nhà nước chuyển từ dài hạn, căn bản sang lấy lòng dân trước mắt, ví dụ
áp dụng các loại chính sách bảo vệ quyền lợi dân tộc hạn hẹp như kiểu: gây căng
thẳng biên giới, tăng hàng rào bảo vệ mậu dịch, đóng cửa thương mại… Trong
các đảng phái chính trị đây là lúc vang lên những tiếng nói bảo thủ, bám sát quan
điểm chính thống, kinh điển để chứng minh lòng trung thành của ứng cử viên,
tranh thủ sự ủng hộ và phiếu bầu trong đảng.
Trong tình huống bất hợp pháp, đây là lúc ngay trong nội bộ các tổ chức chính
trị nổi lên các cuộc vận động cá nhân, mua bán sự ủng hộ, mặc cả dàn xếp để chọn
ra ứng cử viên của tổ chức ra tranh cử. Giữa các các phe phái chính trị cuộc tranh
chấp còn quyết liệt hơn. Các biện pháp xấu như bôi nhọ, vu khống, khiêu khích,
theo dõi, thu thập thông tin trái phép, thậm chí ám hại các đối thủ có thể được đem
ra áp dụng. Các lực lượng đang cầm quyền thường huy động ngay bộ máy nhà
nước để tham gia tranh cử.
Như vậy, trong những chu kỳ tranh cử, tài nguyên, trí lực đáng phải giành cho
tăng trưởng và phát triển chung của cả đất nước bị chuyển sang phục vụ cho việc
tuyên truyền, ca ngợi phục vụ cho một số nhóm chính trị; các mục tiêu dài hạn và
khó khăn như đổi mới, cải tổ bị thay bằng các giải pháp ru ngủ, xoa dịu; các nỗ
lực hội nhập, đoàn kết bị thay bằng các khẩu hiệu chia rẽ, đóng cửa…Các nhà
lãnh đạo thay vì sáng tạo và kiên quyết hành động theo chức trách lại phải bên
ngoài khoác áo trung dung, lấy lòng mọi người, bên trong tỏ ra tuyệt đối trung
thành, tranh thủ sự che chở của tổ chức.
Chu kỳ thay đổi tổ chức, nhân sự càng ngắn, thời gian “phát triển bị đóng
băng” càng nhiều. Qui trình tranh cử, bầu bán càng phức tạp, chi phí sức người,
sức của cho hoạt động “biến dị chính trị” này càng cao. Tất nhiên, độ rủi ro trong
chọn lựa lãnh đạo và tính hiệu quả của hoạt động tranh cử, bầu cử dân chủ không
phụ thuộc vào mức độ dầy đặc của các quá trình chọn lọc liên miên hay chi phí
tốn kém của quá trình vận động.
74
“Ôm rơm rặm bụng”
Trong cơ chế nhà nước, hoạt động của người quản lý là phải giám sát, cưỡng
chế để đối tượng chịu sự quản lý chấp hành đúng mệnh lệnh, thi hành đúng chức
trách được giao đạt kết quả mong muốn. Càng quản lý nhiều đối tượng, nhiệm vụ
giao cho họ càng phức tạp và quan trọng thì gánh nặng của người quản lý trong
công tác giám sát, theo dõi, bắt buộc thực hiện lại càng nặng nề, tiêu tốn nhiều
thời gian, tiền của, công sức. Trách nhiệm vì vậy tăng theo tỷ lệ thuận với quyền
hạn. Tại đây xuất hiện mâu thuẫn giữa mong muốn thâu tóm quyền hành vô hạn
định của kẻ làm lãnh đạo và năng lực điều hành hạn chế của con người cụ thể.
Khi phạm vi quyền hạn tăng lên, hoặc mức độ phức tạp của nhiệm vụ tăng đến
một mức nhất định thì chi phí để giám sát, cưỡng chế phải bỏ ra để tiếp tục làm
chủ tình hình sẽ lớn hơn lợi ích thu được do đối tượng bị quản lý hoàn thành
nhiệm vụ đem lại. Tình trạng “bỏ thương, vương tội” sẽ không thể kéo dài, khiến
người lãnh đạo phải quyết định “thả con săn sắt, bắt con cá sặt”, tiến hành các
hoạt động phân cấp, phân quyền, cũng có nghĩa là chia bớt quyền lợi cho đối
tượng bị quản lý để tiếp tục khống chế được tình hình ở cấp độ lỏng hơn nhưng
vẫn thu được lợi ích cao hơn so với chi phí quản lý giám sát.
Brarzel38 trong “Phân tích kinh tế về nô lệ” đã kể về sự tiêu biến chế độ nô lệ
như một ví dụ của nghịch lý quản lý này. Thoạt tiên giới chủ nô có đủ năng lực
quản lý giai cấp nô lệ cả phần xác lẫn phần hồn và sử dụng họ thực sự như những
tài sản sống, đó là thời kỳ thịnh trị của chế độ nô lệ, nhưng rồi số nô lệ tăng lên, tính
chất phức tạp của công việc đồng áng cũng tăng, việc giám sát, xử phạt để họ hoàn
thành công việc chở nên quá tải, làm chủ vất vả chẳng kém làm tớ, các chủ nô bắt
đầu chuyển sang khoán dần từng khâu và cuối cùng là toàn bộ công việc đồng áng
cho nô nệ, chế độ nô lệ tiêu biến, hình thành cách quản lý địa chủ-tá điền.
Những ví dụ tương tự có thể kể ra trong các trường hợp cấp quản lý cấp trên
phải chịu trách nhiệm về hoạt động của hoạt động của cấp dưới như chuyển từ
quản lý toàn diện của hợp tác xã nông nghiệp sang khoán hộ rồi giao hẳn quyền
sử dụng đất cho nông dân trong quá trình đổi mới, việc chuyển từ chế độ chủ quản
doanh nghiệp của các bộ, địa phương sang phân quyền chủ động cho các doanh
nghiệp kinh doanh,…
Trong cơ chế nhà nước, hình thức “đại diện” đóng một vai trò đặc biệt quan
trọng. Đó là quan hệ giữa cử tri và đại biểu được bầu, giữa hội đồng quản trị với
giám đốc,… cũng giống như quan hệ giữa hai cấp quản lý, người chủ phải giám
sát, kiểm tra và cưỡng chế người đại diện làm tròn phận sự được giao. Mâu thuẫn
giữa mong muốn thâu tóm quyền hành và quyền lợi với năng lực quản lý mãi mãi
38
Brarzel, 1977
75
tồn tại trong cơ chế nhà nước vì sự phát triển liên tục của hoạt động của loài
người.
Ngoài giải pháp phân cấp, phân quyền, để đối phó với tình trạng phải đối đầu
với nhiệm vụ ngày càng phức tạp, khó đoán biết và qui mô lớn, các nhà quản lý
còn chuyển việc ra quyết định cụ thể thành các qui tắc, qui phạm khái quát.
Douglass C. North39 viết: “”Những hạn chế về khả năng tính toán của các cá nhân
do năng lực xử lý, tổ chức và sử dụng thông tin của bộ óc quyết định. Do năng lực
này được sử dụng cùng với sự không chắc chắn trong việc giải mã môi trường,
nên các qui chế và các thủ tục sẽ phải phát triển để đơn giản hoá các quá trình
này.” Theo xu hướng này, bước đầu, một phần quan trọng các qui tắc có thể được
chuyển thành các thông lệ không chính thức để tiết kiệm chi phí đo lường và
cưỡng chế. Milgrom Paul, North và Weingast40 đã đưa ra các ví dụ về các thể chế
không chính thức như bộ luật về đạo đức buôn bán của thương nhân được quảng
cáo ở châu âu từ thời trung cổ, các phương pháp kiểm toán và bài bản kế toán
thống nhất,… Tiếp sau đó, để đối phó với các mức độ quản lý phức tạp hơn, các
qui định được chính thức hoá thành các văn bản pháp luật. North viết: “Các qui
chế chính thức có thể bổ sung và làm tăng tính hiệu quả của các giới hạn không
chính thức. Chúng có thể hạ thấp các chi phí thông tin, giám sát, và tăng cường
hiệu lực. Do đó, tạo cho các giới hạn không chính thức trở thành giải pháp có hiệu
quả hơn cho những sự trao đổi phức tạp hơn.”41
Cơ chế cộng đồng là cơ chế tự nhiên, xuất phát từ bản tính xã hội của loài
người, thể hiện những điểm hợp lý quan trọng, tạo nên khả năng hoà hợp và liên
kết giữa con người với nhau. Nếu như những loài động vật có tính xã hội cao nhất
nhận ra nhau trong bầy đàn bằng các đặc điểm sinh lý như mùi vị, hình thể… và
phối hợp hoạt động với nhau bằng hành động bản năng thì loài người nhận biết và
phối hợp với nhau trước hết thông qua các hoạt động của cơ chế cộng đồng. Và
đây là một trong những điểm khác biệt làm nên sự tồn tại kỳ diệu của xã hội loài
người. Khác với cơ chế thị trường và cơ chế nhà nước, chưa có nhiều tài liệu nói
về cái hay, cái dở của cơ chế cộng đồng, nên cuốn sách này xin giành một phần
đáng kể để nhắc lại những điều mà có lẽ mọi người đều đã biết.
39
North 1998
40
Paul R. M., North, D. C., Weingast B. W. , 1990
41
North 1998
76
thời gian tham chiến, càng muốn xác định rõ địa bàn tác chiến,
càng muốn nhận diện rõ đối tượng chiến đấu và hình dung rõ
nhiệm vụ, quyết tâm chiến lược trong không gian, thời gian cụ
thể. Do đó, khi phải tham gia một cuộc chiến không có không
gian chiến sự, thời gian tác chiến liên miên và kéo dài vô tận, đối
đầu với kẻ thù vô hình, và quyết tâm chiến lược phải liên tục thay
đổi thì những đội quân dù mạnh đến đâu cũng ngán sợ và bị vô
hiệu. Khi đó chiến tranh trên chiến địa vướng vào cạnh tranh
chính trị tại quê nhà, tổn hại thương vong lẫn vào tổn hại kinh tế
và chính trị, ranh giới vai trò của quân đội bị xóa nhòa giữa chiến
đấu và chiếm đóng, sức cạnh tranh của chiến binh chuyển thành
khả năng chịu đựng của cả dân tộc. Đó là hình ảnh của chiến
tranh nhân dân vô địch. Dân tộc Việt nam là một trong những
dân tộc thành thạo trong việc sử dụng chiến tranh nhân dân để
đánh bại những kẻ thù mạnh hơn mình rất nhiều lần.
Điều bí hiểm của “chiến tranh nhân dân” được nhiều người tôn vinh và tìm
cách học hỏi. Sau chiến thắng lẫy lừng của cuộc chiến 90 năm kháng Pháp và 20
năm chống Mỹ, Việt Nam được coi là hình ảnh chàng David tí hon có sức mạnh
thần kỳ đánh bại mọi kẻ thù khổng lồ. Chẳng thế mà sau khi “chiến tranh lạnh”
kết thúc, thế giới chuyển sang bị khống chế bởi một cực của “siêu cường” Hoa
Kỳ, mỗi khi Mỹ gây chiến với một quốc gia khác thì hình ảnh Việt nam lại được
đem ra để răn đe với giả định rằng sự thần kỳ của cuộc chiến tranh nhân dân sẽ
một lần nữa diễn ra ở đâu đó, trên xa mạc Irắc,
trên đồi núi Apganistăng, hay trên cánh đồng Nam
Tư và gần đây là trong đô thị Bátđa,… ít nhất khả
dĩ đủ dạy cho nước Mỹ kiêu căng một bài học,
nhưng điều nhiều người tiên đoán và mong muốn
đã không xảy ra.
Vậy chiến tranh nhân dân là gì ? tại sao địa hình
hiểm trở, trang bị vũ khí cho toàn dân, vũ khí hủy
diệt, tinh thần tử vì đạo của tôn giáo,… chưa đủ sức
tạo ra hiệu ứng của một cuộc “chiến tranh nhân dân
thần thánh”? có nhiều cách lý giải khác nhau. Xét
về khía cạnh cơ chế thì dù cho quân đội của Sadam
Huxen, của Meloxêvic được tổ chức chính qui, lính
của Muzahedin tổ chức kiểu du kích thì họ vẫn tiến
hành chiến tranh theo cơ chế nhà nước. Bất chấp mọi lời tuyên bố rùm beng về tinh
thần của nhân dân, họ vẫn không thể thực hiện được khẩu hiệu “cả nước là chiến
trường, toàn dân tham gia đánh giặc”. Với người dân các nước này, chiến tranh vẫn
là chuyện của nhà cầm quyền, của quân đội chính qui. Nhân dân chỉ làm nghĩa vụ
77
đi lính, nghĩa vụ đóng thuế, đóng quân lương. Nhân dân ngay cả trong thời chiến
vẫn không chủ động tổ chức cộng đồng tự bảo vệ mình được như thành lập lực
lượng tự vệ chống tội phạm, tổ chức cứu thương, sản xuất tự túc lương thực, đào
hầm trú ẩn nơi công cộng và cho gia đình, tổ chức cho trẻ em người già tản cư khỏi
khu vực chiến sự, quản lý các dịch vụ công cộng … thì chưa thể nói đến tổ chức
đánh địch một cách tự giác, càng không thể chủ động phối hợp tác chiến với bộ đội
chính qui được. Nhân dân chẳng những không chủ động tham gia chiến đấu mà vẫn
ỷ lại nhà nước, vào trợ giúp quốc tế trong các dịch vụ công thường nhật như giữ gìn
an ninh, cung cấp điện, nước, cấp cứu thương vong, chăm sóc y tế, tiếp tế lương
ăn… thì làm sao có chiến tranh nhân dân ?.
Những quốc gia vừa đương đầu với Mỹ kể trên, tuy quan hệ cộng đồng đóng
vai trò nổi bật trong xã hội nhưng trong xã hội bị chia cắt, mâu thuẫn sâu sắc về
tôn giáo, sắc tộc, đẳng cấp, nhân quyền. Chính quyền các nước này không làm
tròn bổn phận của mình trước nhân dân, tuy giữ được quyền lực bằng bạo lực
chính trị, quân sự, nhưng không được nhân dân toàn tâm ủng hộ. Một cuộc chiến
tranh muốn huy động lực lượng toàn dân theo cơ chế cộng đồng, trước hết phải do
một nhà nước chính đáng tổ chức. Một khi đã có một nhà nước đại diện cho quyền
lợi của dân phát động và được toàn dân hăng hái tham gia thì cuộc chiến tranh
theo cơ chế cộng đồng sẽ được tổ chức và vận hành dưới muôn hình vạn trạng. Từ
hậu cần, chỉ huy, huy động lực lượng, thông tin liên lạc, trinh sát, đều được toàn
dân tham gia tiến hành đánh địch rất chủ động, sáng tạo. Mỗi người dân là một
người lính, mỗi làng quê, phố phường là một chiến lũy, nhân dân vừa phân tán
đánh địch khắp nơi, mọi lúc mà nhà nước vẫn tập trung tạo những quả đấm chủ
lực tiêu diệt sinh lực chính của địch trên chiến trường chính, tạo nên những thắng
lợi chiến lược.
Rõ ràng không phải hễ là quốc gia sản xuất lạc hậu, có cơ chế cộng đồng chiếm
ưu thế, chống lại kẻ thù hùng mạnh hơn bằng chiến tranh du kích là có thể tổ chức
được một cuộc “chiến tranh nhân dân”. Chiến tranh du kích là cuộc chiến trong đó
mọi lực lượng tác chiến lẩn vào dân, đánh bằng biện pháp của dân còn chiến tranh
nhân dân là cuộc chiến của toàn dân, cả nước cùng đánh giặc. Chiến tranh nhân
dân là cuộc chiến tranh điều hành bằng cơ chế cộng đồng kết hợp với cơ chế nhà
nước và cả với cơ chế thị trường. Nguồn gốc sâu xa hơn của một cuộc chiến tranh
nhân dân bắt nguồn chính từ một cơ chế nhà nước lành mạnh. Sức mạnh vô địch
của chiến tranh nhân dân là tinh thần chấp nhận hy sinh vô bờ bến của toàn dân từ
người lãnh tụ đến thứ dân, kết tinh trong câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh:
“chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc 20 năm, Hà Nội, Hải Phòng và và
một số thành phố có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ.
Không có gì quí hơn độc lập, tự do”.
78
Ngay ở Việt nam, cái nôi của chiến tranh nhân dân nhưng nếu như Trần Quốc
Tuấn trong “Hịch tướng sỹ văn” có thể dõng dạc tuyên bố với quân sỹ, tướng lĩnh
rằng chúng ta sinh ra cùng hoàn cảnh khó khăn, cùng chung hưởng thái bình, cùng
chia sẻ quyền lợi nên cùng phải kề vai sống chết với quân thù trên chiến trường,
và nhờ đó tổ chức thành công cuộc chiến tranh nhân dân 3 lần đánh bại quân
Nguyên Mông đời Trần, thì đến đời Nguyễn, trước họa xâm lăng của thực dân
Pháp, Lãnh Binh Trương Công Định trong hịch khởi binh chỉ còn cách kể tội
“quan lại bán nước, triều đình lừa dân” để đứng lên tổ chức một nhóm nông dân
đánh du kích hy sinh cản chân địch một cách đơn độc và vô vọng. Cũng non nước
này, cũng nhân dân này nhưng thực sự triều đình nhà Nguyễn đã không tổ chức
được một cuộc chiến tranh nhân dân chống giặc.
Ngay cả trong chúng ta, không phải ai cũng hiểu hết sức mạnh thực sự của
cuộc chiến tranh nhân dân. Quá nhấn mạnh vai trò cơ chế nhà nước, có người vẫn
nhận định: “không có hợp tác xã, không có kinh tế kế hoạch, không thể huy động
được sức người sức của cho chiến tranh chống Mỹ”. Thực ra trong sức mạnh tổng
hợp của chiến tranh nhân dân, đó chỉ là một trong các nguồn lực. Suốt chiều dài
lịch sử vẻ vang hàng nghìn năm kháng chiến chống ngoại xâm phương Bắc, trong
kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp, trên địa bàn Miền Nam suốt 20 năm
đánh Mỹ, dân tộc Việt nam đã huy động thành công sức mạnh toàn dân để đánh
thắng giặc mà không nhất thiết phải nhờ vào kinh tế tập thể và cơ chế kế hoạch.
Hộp 16. Sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân làm nên
chiến thắng Điện Biên Phủ
Trong 9 năm kháng chiến, để đương đầu với đội quân hiện đại của Pháp được
Mỹ tiếp tế, trang bị, bộ đội Việt Nam, ngoài một phần viện trợ sau này từ Trung
Quốc, chủ yếu trông vào sức dân, lấy súng địch đánh địch. Toàn bộ lương thực,
thực phẩm cho chiến dịch Điện Biên Phủ là do dân tự nguyện đóng góp và vận
chuyển đến trận địa. Dân Tây Bắc ở gần mặt trận dù nghèo đói nhưng đã đóng góp
7310 tấn gạo, 389 tấn thịt, chiếm gần 30% lương thực thực phẩm phục vụ chiến
dịch. Từ Ninh Bình, khi khẩn cấp, trong 24 giờ tập trung ngay được 600 tấn gạo.
Thanh Hoá vét cạn cả 11000 tấn lương thực dự trữ đưa ra trận.
Do phải huy động từ hậu phương Liên khu 3, Liên khu 4 xa mặt trận tới 600-
800 km, nếu chỉ chuyên chở bằng sức người, dọc đường dân công ăn phần lớn
lương thực, khi tới mặt trận chỉ còn 8%. Nhu cầu riêng lương thực cần tới 26 000
tấn, mức huy động phải lớn hơn rất nhiều. Dân công chiến dịch huy động hơn 30
vạn người, gồm 10 triệu ngày công, mở 4500 km đường để đưa vào hoạt động 20
000 xe đạp thồ, 534 xe ô tô, chưa kể xe bò, xe trâu, bè mảng,…dưới bom đạn ác
79
liệt của không quân Mỹ, Pháp.
Vũ khí một phần lớn dùng của địch đánh địch, ví dụ đạn pháo 105 mm của bộ
đội Việt Nam dùng chỉ bằng khoảng 15% số lượng quân Pháp bắn (chưa kể hoả lực
chiến xa và không quân của Pháp, Mỹ). Trong số 20 000 đạn pháo của Việt Nam
thì chỉ có 18% do Trung Quốc viện trợ còn lại phần lớn là cướp được của địch
trong nhiều trận đánh khác nhau giành dụm lại. Trong khi quân ngụy Sài Gòn phải
bắt tất cả thanh niên 21 đến 25 tuổi nhập ngũ và áp dụng các hình phạt nặng nề
chống nạn đào ngũ vẫn thiếu quân nghiêm trọng, thì từ mọi miền đất nước thanh
niên hăng hái tòng quân tạo nên sức mạnh áp đảo về quân số và tinh thần trên chiến
trường.
Tất cả chiến dịch huy động sức người, sức của của toàn dân suốt 9 năm chống
Pháp mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là chứng minh hùng hồn của sức
mạnh dân tộc theo phương châm “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, là “kháng
chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.”. (Nguồn: Võ
Nguyên Giáp, 2000).
80
Cùng chung hoàn cảnh, nông dân và lãnh đạo cơ sở ở Trung
Quốc cũng như Việt Nam đều chủ động đưa ra giải pháp của
mình thông qua hiện tượng “khoán chui”, về thực chất là tìm
cách giao quyền quyết định sản xuất, quyền sử dụng đất cho hộ
nông dân, gắn thu nhập của xã viên hợp tác xã với hiệu quả công
việc. Đầu thập kỷ 1960 nông dân An Huy đã bắt đầu áp dụng
khoán ruộng đem lại kết quả tốt trên phạm vi nhỏ và không
chính thức. Cuối thập kỷ 70 khi sản xuất khó khăn vì hạn hán, ở
Trung Quốc, các tỉnh lạc hậu khó khăn và kinh nghiệm quản lý
kém như An Huy, Tứ Xuyên, Cam Túc, Quý Châu, Nội Mông... đã
thực hiện khoán sản phẩm tới từng hộ sản xuất hoặc định mức
sản xuất, có nơi còn bí mật tiến hành “khoán sản phẩm tới từng
hộ gia đình”. Ví dụ như ở huyện Phương Dương, tỉnh An Huy có
một đội sản xuất nhỏ do 18 hộ nông dân hợp thành, núp dưới
danh nghĩa của một đội lớn và công xã để bí mật tiến hành
"khoán sản tới từng hộ". Hình thức khoán sản phẩm dần dần lan
ra trong toàn quốc. Nhưng mãi tới 9/1980, Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc mới ra văn kiện số 75, chính thức cho phép
khoán hộ.
Khi nông dân An Huy, Trung Quốc lén lút khoán hộ thì ở Việt
Nam phong trào khoán hộ lan ra từ một xã của huyện Lập thạch
đã được Bí thư Kim Ngọc Tỉnh ủy phát động bằng nghị quyết của
Tỉnh uỷ Vĩnh Phú. Các thử nghiệm này tiến hành bằng cơ chế
cộng đồng theo kiểu lệ làng “ngậm miệng ăn tiền”, vừa ở dưới
mang tính thử nghiệm không chính thức, vừa bên trên “nhắm
mắt làm ngơ”. Những kiểu “khoán chui” như vậy diễn ra kéo dài
hàng năm trời thường là ở những vùng gặp khó khăn về lương
thực. Câu chuyện chỉ trở nên phức tạp và đổ vỡ khi chuyển từ cơ
chế cộng đồng sang cơ chế nhà nước.
Các lãnh đạo địa phương có tinh thần sáng tạo và ý thức trách nhiệm muốn báo
cáo với cấp trên và nhân rộng điển hình thành chủ trương của địa phương bắt đầu
gặp nhiều rắc rối, đôi khi là tai họa. Các thử nghiệm bị dập tắt khi lãnh đạo địa
phương muốn chính thức hoá chính sách đổi mới mang tính “vượt rào”. Tất nhiên
sau nhiều va vấp, cuối cùng thực tiễn vẫn là thước đo chân lý vì đây là giải pháp
thiết thực và duy nhất cho phép giải quyết vấn đề sống còn của nền kinh tế trong
khủng hoảng, đó là đảm bảo an ninh lương thực.
Tương tự như vậy, ở Trung Quốc, khi cải cách kinh tế bước từ
giải quyết đủ cái ăn sang tăng thu nhập và tạo việc làm cho dân,
81
từ trong thực tế nông thôn, mô hình công nghiệp hương trấn xuất
hiện, mở ra một giải pháp tổng hợp cho việc phát triển công
nghiệp và doanh nghiệp nông thôn. Trong bước đầu trứng nước,
sở dĩ mô hình này sống sót nổi trước sự quản lý nghiêm ngặt của
cơ chế quan liêu bao cấp là nhờ áp dụng cơ chế cộng đồng. Xuất
thân từ các công xưởng thủ công của các công xã nhân dân, các
doanh nghiệp này tự ngụy trang mình bằng cách “đội mũ đỏ” tự
gọi mình là doanh nghiệp “tập thể” quản lý theo kiểu nửa công
nửa tư.
Nhờ cơ chế cộng đồng, doanh nghiệp hương trấn tận dụng
được cơ sở vật chất của kinh tế tập thể, huy động được lao động
nông thôn, khai thác được vốn của nhân dân, sử dụng được
phương thức quản lý có trách nhiệm và tận tâm của tư nhân, và
giữ quan hệ tốt, tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền địa phương
tránh được sự cản trở của cơ chế nhà nước. Trước cuộc “tập kích
bí mật” này của cơ chế cộng đồng, Đặng Tiểu Bình kể: "Điều làm
cho chúng tôi hoàn toàn bất ngờ là sự phát triển của các ngành
công nghiệp nông thôn. Sự đa dạng trong sản xuất và chủng loại
mặt hàng của các doanh nghiệp nhỏ mọc lên như nấm ở các
vùng nông thôn giống như thể sự xuất hiện bất thình lình của
một đạo quân. Đây không phải là thành tựu của chính phủ trung
ương. Đây là điều nằm ngoài dự đoán của tôi cũng như của các
đồng chí khác. Nó làm cho chúng tôi bị bất ngờ"42.
Ngày nay, những vấn đề thực tiễn khác cũng đang được đúc rút trở thành lý
luận, tạo nên sức sống của công cuộc đổi mới kinh tế như sản xuất trang trại, kinh
tế hợp đồng, đảng viên làm kinh tế,... đều bắt đầu từ cái nôi nhỏ bé nhưng an toàn
của cơ chế cộng đồng trước khi được thả ra sân rộng của cơ chế nhà nước. Làm
ngược lại, nhiều nước Đông âu và Liên Xô thực hiện “liệu pháp sốc” áp dụng
ngay những ý tưởng còn mơ hồ trong cải cách vào cơ chế nhà nước và cơ chế thị
trường nên đem lại những thất bại đau đớn.
Lá chắn bảo vệ quyền lợi - nhiệm vụ thiêng liêng của cơ
chế cộng đồng.
“Lá lành đùm lá rách”, cá nhân từng con người không đủ sức đương đầu với
những thảm hoạ khủng khiếp của chiến tranh, thiên tai, bệnh tật,… những rủi ro
của cá nhân và mỗi gia đình phải được cả cộng đồng tổ chức hỗ trợ. Đó là nguồn
gốc của các tổ chức nhân đạo quốc tế như Chữ thập đỏ, Lưỡi liềm đỏ,…
42
Nhân dân Nhật báo, ngày 13, tháng 6, 1987.
82
Hộp 18. Tổ chức chữ thập đỏ
Năm 1859 tại Sopherinô, diễn ra cuộc chiến tranh đẫm máu giữa áo và Pháp.
Như mọi cuộc chiến diễn ra thời đó, khi tiếng súng trận đã im trên chiến trường,
quân đội hai bên bình thản rút đi, bỏ lại trên chiến trường 40 ngàn xác chết và
thương binh của cả hai phía. Tiếng rên la thảm thiết của những người hấp hối tắt
dần trong đói khát và nhiễm trùng. Ruồi, muỗi, ròi, bọ, chuột, sói và diều hâu sẽ là
kẻ dọn dẹp cuối cùng. Ông Henry Dunant, một thương gia Thụy Sỹ trên đường đi
ngang chiến trường đã kinh hoàng chứng kiến cảnh tượng vô nhân đạo này. Sót
thương đồng loại, ông đi đến những xóm làng lân cận kêu gọi nông dân địa phương
tự nguyện tổ chức thành các đoàn cứu trợ đứng ra chôn cất người chết, cứu chữa
thương binh.
Sau khi trở về Giơnevơ, ông viết cuốn “Ký ức về Sopherinô” xuất bản năm
1862 kêu gọi thành lập một tổ chức trung lập của cộng đồng để cứu giúp nạn nhân
chiến tranh. Năm 1864, ước mơ của Dunant trở thành hiện thực khi đại diện của 12
nước Châu Âu cùng ký công ước Giơnevơ công nhận lấy chữ thập đỏ làm biểu
tượng cho tổ chức nhân đạo này. Một tổ chức giám sát quốc tế được thiết lập làm
nhiệm vụ nhân đạo, đến 1876 trở thành ICRC. Ngày nay, hiệp hội chữ thập đỏ quốc
tế có 150 chi nhánh tại các quốc gia (có 26 nước giàu đóng vai trò nhà tài trợ) với
250 triệu thành viên và là tổ chức cứu trợ nhân đạo lớn nhất thế giới đóng vai trò
quan trọng trong việc cứu trợ nhiều thảm hoạ của nhân loại thời gian qua. (Nguồn:
Microsoft Encarta Reference Library 2002).
Mục tiêu chính của tổ chức hợp tác xã khi mới thành lập
cũng là để sử dụng cơ chế cộng đồng bảo vệ quyền lợi của
thành viên trước cạnh tranh khốc liệt và không công bằng
của cơ chế thị trường. Hợp tác xã ở phần lớn các nền kinh tế
trên thế giới là hình thức phối hợp để tự giúp đỡ và bảo vệ
quyền lợi thành viên nhờ khắc phục tình trạng không tương
xứng về thông tin và tăng vị thế đàm phán, cạnh tranh. Trên
thế giới hợp tác xã có ba hướng hoạt động chính:
- Cùng nhau quản lý tài nguyên tự nhiên mà cá nhân không thể làm nổi
như các Hiệp hội Nước ở ấn Độ hay các Hội quản lý Đất ở Mỹ.
- Giúp nông dân tiếp thị lao động tại thị trường lao động hoặc giúp
nông dân bán sản phẩm trên thị trường như các Hợp tác xã Thủy sản ở
Indonesia hay Hợp tác xã Ngũ cốc ở Trung Phi, Rau quả ở Đài Loan,
chi phối sản xuất Sữa ở Phần Lan, Gạo ở Nhật Bản, Ngũ cốc ở
áchentina.
83
- Giúp nông dân mua hàng và tiếp nhận dịch vụ với giá rẻ, và phục vụ
tốt như Hợp tác xã Dịch vụ ở Thụy Điển, Hiệp hội Điện nông thôn ở
Mỹ, Hợp tác xã Tín dụng ở Canađa, Hợp tác xã Nhà ở tại Châu Âu,…
Các hợp tác xã kiểu này đều có 3 đặc điểm chung: tham gia
theo nguyên tắc tự nguyện, sở hữu và quản lý bởi thành viên
theo nguyên tắc dân chủ, mỗi người một phiếu bầu; và lợi ích của
hợp tác xã do những người tham gia hưởng dưới dạng tiền hoặc
dịch vụ.
Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế nông nghiệp ban đầu, chính phủ của
nhiều quốc gia ra sức hỗ trợ hợp tác xã để hình thành các tổ chức sản xuất nòng
cốt mạnh hoặc tổ chức làm nhiệm vụ quản lý phát triển nông thôn, thậm chí để
củng cố uy thế chính trị trên địa bàn nông thôn. Nhưng kết quả đạt thường ngược
lại, khi nhu cầu thành lập hợp tác xã không xuất phát từ nông dân, họ thờ ơ với
hợp tác xã. Chỉ đến khi thể chế thị trường phát triển đủ mạnh, trước sức ép các
hoạt động cạnh tranh kinh tế của cơ chế thị trường, nông dân thấy mình trở thành
kẻ thấp cổ bé họng, chịu đựng mọi rủi ro và thua thiệt thì mục tiêu bảo vệ quyền
lợi chính đáng của xã viên mới trở thành sức hút chính tạo nên tinh thần tự giác
tham gia và gắn bó với hợp tác xã của nông dân trên toàn thế giới.
Và cũng một phần, là khi kinh tế đã phát triển đáng kể, nhà nước mới có đủ sức
đầu tư hỗ trợ đáng kể cho các tổ chức hợp tác xã phát triển. Đó là lý do vì sao hợp
tác xã nông nghiệp lại phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển hơn là tại các
quốc gia đang phát triển. Tại các nền kinh tế phát triển ở châu á như Đài Loan,
Hàn Quốc, Nhật Bản… gần 100% nông dân tham gia các tổ chức hợp tác xã.
84
thôn, tôi tin tưởng rằng tất cả các làng, xã nông thôn sẽ trở thành nơi sinh sống
thịnh vượng...”.
Hộp 19. Chương trình Làng Mới (Seamun Undong) tại Hàn
Quốc
Mỗi làng bầu ra "Uỷ ban Phát triển Làng mới" gồm 5 đến 10 người. Có hai
người (một nam, một nữ) có uy tín nhất được bầu là đồng chủ tịch. Để đảm bảo
thực sự là “của dân”, cá nhân lãnh đạo nông dân không là thành viên đảng phái
chính trị, ủy ban phải độc lập với cơ quan hành chính. ủy ban tổ chức họp bàn nhân
dân để lập kế hoạch và quản lý dự án phát triển nông thôn, và mọi vấn đề liên quan
đến chương trình phát triển nông thôn. ở Trung ương, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đứng
đầu ủy ban với 12 điều phối viên là Thứ trưởng các Bộ Kế hoạch Kinh tế, Ngoại
giao, Giáo dục, Nông nghiệp và Thuỷ sản, Thương mại và Công nghiệp, Xây dựng,
Y tế và các vấn đề Xã hội, Thông tin và Văn hóa.
Tùy khả năng nhà nước đầu tư , tất cả các làng được chọn ngẫu nhiên và nhận
tiền hỗ trợ của nhà nước rót trực tiếp cho làng xã. Thông qua điều hành của ủy ban
phát triển làng, tiền hỗ trợ của nhà nước được phối hợp với đóng góp của dân do
dân quản và sử dụng. Sau từng năm, một chương trình đánh giá khách quan do đại
diện các làng cùng nhà nước tiến hành và công khai công bố danh sách các làng
thực hiện tốt cho cả nước biết. Làng làm tốt sẽ được được nhà nước tiếp tục hỗ trợ.
Quá trình đầu tư từng bước từ thấp đến cao tùy mức độ tham gia tích cực và hiệu
quả của mỗi làng, bởi vậy làng làng thi đua ai cũng muốn làm tốt hơn, cuối cùng cả
nước nông thôn phát triển. Bộ máy phát triển nông thôn hoạt động khá nhịp nhàng
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng thống, Nhà nước liên kết chặt với nhân dân cả
về đầu tư, phát triển kinh tế, cổ vũ tinh thần. Nguyện vọng, sáng kiến của dân được
phản ánh trực tiếp lên cấp cao nhất. Chương trình vừa là phong trào quần chúng,
vừa là kế hoạch của nhà nước.
Sau 20 năm, phong trào Saemaul xây dựng xong nền tảng nông thôn hiện đại
như kết cấu hạ tầng (đường làng, nhà xưởng, hệ thống cung cấp nước, điện);
chuyển giao công nghệ, tích lũy vốn, đào tạo nhân lực và bảo vệ môi trường (giống
cao sản, quỹ tiết kiệm trong gia đình, đào tạo cán bộ trong làng...). 84% cây rừng
của Hàn Quốc được trồng trong giai đoạn đó. Sau 30 năm, môi trường sống và
cuộc sống vật chất của người dân nông thôn đã cải thiện đáng kể, sản xuất thương
mại phát triển. Xã hội nông thôn năng động, có khả năng tự tích luỹ, tự đầu tư, và
có khả năng tự phát triển.
85
Chính phủ Hàn Quốc tổ chức các hội đồng phát triển ở làng xã do dân tự
quản. Nhà nước cấp cho các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn một khối
lượng xi măng và sắt thép nhất định. Nhân dân đóng góp công sức, các chi phí
khác và toàn quyền lựa chọn, quản lý thi công và sử dụng công trình. Chính phủ
tiếp tục hỗ trợ hàng năm dựa trên thành tích đạt được của từng làng xã. Những nơi
không làm tốt sẽ không được giúp đỡ. Hình thức đánh giá này tạo nên không khí
thi đua sôi nổi trong cả nước, cạnh tranh nhau làm tốt hơn giữa các làng.
Huy động cả bộ máy nhà nước phối hợp hoạt động với phong trào quần chúng
theo cơ chế cộng đồng, chương trình nông thôn mới ở Hàn quốc đã đạt kết quả rất
tốt. Kết cấu hạ tầng nghèo nàn ở nông thôn được cải thiện về căn bản, hợp tác hóa
lan nhanh và phát huy tác dụng tốt, đồi núi trọc được phủ lại rừng, thu nhập nông
thôn nâng lên bằng mức thành thị, cơ cấu sản xuất ở nông thôn chuyển nhanh sang
công nghiệp và dịch vụ... Tất cả những biến đổi đó diễn ra rất nhanh nhờ phát huy
sức mạnh cộng đồng.
Một mô hình phát triển xã hội thành công bằng cơ chế cộng
đồng là Singapore trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế. Tổng
thống Lý Quang Diệu nhận thấy các nhà chính trị phương Tây
thường dùng cơ chế nhà nước vận động quần chúng thông qua
các chiến dịch truyền thông rầm rộ, phát truyền đơn kêu gọi. Ông
không tin vào cách làm này. Học tập kinh nghiệm vận động quần
chúng của Đảng Cộng sản đối lập, ông nhận thấy giải pháp quyết
định để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân phải là tổ chức lực
lượng, xây dựng cơ sở ở địa bàn. Từ đó, Chính phủ chuyển sang
áp dụng cơ chế cộng đồng: xây dựng hiệp hội nhân dân, thu hút
vào hiệp hội mọi tầng lớp doanh gia, các hiệp hội chính trị, các
câu lạc bộ giải trí, các nhóm cùng sở thích văn nghệ, thể thao...
các tổ chức này triển khai dịch vụ của mình trên hầu hết các
cộng đồng dân cư và mở các lớp dạy tiếng Anh, tiếng Trung, dạy
nấu ăn, chữa máy,... dần dần chiếm lại địa bàn và giành hết
phiếu bầu của Đảng Cộng sản ở cơ sở.
Bước tiếp theo, Lý thu hút từ mọi làng xã trên đảo các nhà chính trị ủng hộ
mình. Họ vốn là những người được quần chúng tín nhiệm như các chủ tịch các
hiệp hội, các câu lạc bộ và các tổ chức quần chúng tự giác ở địa phương. Nắm lấy
lực lượng này, Lý cử cán bộ Nhà nước đến bàn bạc với họ về các chương trình
đầu tư phát triển cộng đồng như mở đường giao thông, lắp điện, nước, thông tin.
Và sau đó nhà nước cung cấp vốn cho cộng đồng quản lý đầu tư. Sức mạnh của
Chính quyền được dùng để xây dựng mối quan hệ mật thiết với dân cư thông qua
các tổ chức cộng đồng nhằm giành hậu thuẫn chính trị tuyệt đối của nhân dân.
86
Bằng cách làm này, Chính phủ của ông đã giành được sự ủng hộ tuyệt đối của
nhân dân và thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá ở Singapore43.
ở Việt Nam có trường hợp của thị trấn du lịch Hội An tỉnh Quảng Nam. Để
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh du lịch của địa phương diễn ra thuận lợi, đem
lại lợi nhuận cho mọi người dân, cộng đồng dân cư trong vùng thống nhất với
nhau thay đổi một số nếp sống của mình như những ngày nhất định trong tháng
cùng ngừng không dùng điện trong toàn thị xã, trở lại dùng đèn lồng và nến để tạo
không khí cổ truyền. Họ cũng thống nhất không dùng ăng ten TV ngoài trời để
giữ không gian thơ mộng của phố cổ,… sự thống nhất của cộng đồng ở Hội An đã
giúp thị xã này làm được những điều mà nhiều thành phố khác phải đổi bằng chi
phí lớn hơn nhiều của cơ chế thị trường mà vẫn không làm nổi.
Thừa kế di sản- khả năng liên kết thời gian của cộng
đồng
Khác với tình trạng “tiền trao, cháo múc” của cơ chế thị trường
hay “tân quan, tân chính sách” của cơ chế nhà nước, một trong
những thế mạnh quan trọng của cơ chế cộng đồng là khả năng
làm lợi cho con người trong tương lai lâu dài, chuyển giao lợi ích
cho từ thế hệ này cho các thế hệ sau. Các giá trị quan trọng của
cơ chế cộng đồng như uy tín, quan hệ, kinh nghiệm… đều được
tích lũy và chuyển tiếp theo thời gian.
Hộp 20. Chế độ làm việc suốt đời trong doanh nghiệp Nhật Bản
Các doanh nghiệp Nhật đầu tư vào đội ngũ nhân viên như tài sản quan trọng
nhất của doanh nghiệp, cũng vì vậy, mỗi doanh nghiệp trở thành một cộng đồng mà
người làm gắn bó hoàn toàn với nó. Trong thu nhập của công nhân viên Nhật, các
khoản trợ cấp, tiền làm thêm giờ, thửơng và quĩ phúc lợi của công ty cộng lại cao
hơn lương. Khi xảy ra suy thoái kinh tế, các doanh nghiệp có thể cắt giảm các
khoản phụ thu này để đối phó với tình hình khó khăn, công nhân chấp nhận thu
nhập thấp hơn nhưng không bị đuổi việc như ở các nước khác. Trong công ty Nhật,
ban giám đốc và công nhân cùng chia sẻ lợi nhuận khi ăn nên làm ra và chia sẻ thất
bát khi gặp khó khăn.
Công ty cung cấp bảo hiểm y tế, cho người chưa lập gia đình thuê
nhà, cho người có gia đình vay tiền với lãi suất bao cấp để mua nhà,
hỗ trợ tiện nghi giải trí gia đình, hỗ trợ việc học hành của con em
công nhân, bán cổ phiếu công ty cho người làm, trợ cấp khen thưởng
43
Yew L. Q. 2000.
87
cho người làm việc tốt, khen thưởng quà cáp cho những người có
thâm niên công tác, tổ chức đào tạo tay nghề cho cán bộ trong suốt
thời gian làm việc, những mối liên hệ như vậy khiến công nhân viên
coi công ty như gia đình và trung thành, đóng góp với nó suốt đời
theo cơ chế cộng đồng. (Nguồn: Diệu, L. Q. 2002)
Tại những thể chế tuân theo cơ chế này, “sống lâu lên lão làng” là một luật
chơi quan trọng. Các nhà cách mạng lão thành trong một số tổ chức chính trị, các
già làng ở bản làng miền núi… nhiều khi có tiếng nói quyết định trong những vấn
đề quan trọng về nhân sự, chính sách trong cộng đồng. ở Việt Nam, vua nhà Trần
đã triệu tập các bô lão để xin ý kiến khi tiến đánh giặc Nguyên, các doanh nghiệp
Nhật Bản cổ truyền rất nổi tiếng với chế độ làm việc suốt đời, học tập suốt đời của
đội ngũ công nhân lành nghề.
Dài hạn hơn trong cầu nối thời gian là ý thức và quan niệm tích tụ và thừa kế
quyền lợi cho các thế hệ tương lai. “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” là điều
răn quan trọng của nhiều cộng đồng. Người ta không chỉ tích lũy đất đai, tài sản,
tiền bạc mà còn chăm lo để lại lợi nhuận, kiến thức cho con cháu theo tinh thần
“vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Không những
thế, việc tu nhân, tích đức còn là mục tiêu quan trọng và nghiêm túc của nhiều thế
hệ người để bản thân kiếp sau được lên thiên đàng, lên cõi niết bàn,…và đồng thời
cũng để lại phúc đức cho các thế hệ con cháu tương lai.
Khả năng liên kết hành động của con người hiện tại với kết quả trong tương lai
trung hạn và dài hạn là một khả năng đặc biệt của cơ chế cộng đồng, nó tạo nên
sức mạnh kiềm chế, giám sát và định hướng hoạt động của loài người đạt đến ý
thức mình vì mọi người, cội nguồn của đạo đức nhân loại, nó cho phép con người
làm được điều kỳ diệu khác với mọi sinh vật khác là quyết tâm đầu tư cho tương
lai, hướng đến mục tiêu phát triển vững bền một cách tự giác.
88
lợi44. Theo North, nếu các chi phí để bày tỏ quan điểm, nhận thức cá nhân càng
thấp thì trong quá trình hành động của con người, những nhận thức độc lập phi vụ
lợi sẽ càng đóng vai trò nổi trội hơn, trở thành ưu tiên cao hơn trong các lựa chọn.
Ví dụ như việc bỏ phiếu trong các cơ quan lập pháp hay hình thức nhiệm kỳ suốt
đời giành cho các quan tòa là những giải pháp thể chế làm giảm chi phí, giúp phát
huy khả năng, khiến con người mạnh dạn và thẳng thắn làm theo nhận thức khách
quan của mình45.
Hộp 21. Lời thề của sinh viên Đại học Stanford
Stanford là một trường đại học nổi tiếng ở California, Mỹ về chất lượng đào tạo
và các công trình nghiên cứu khoa học. Khi nhập học, mọi học sinh tuyên thệ với
“lời thề của đại học Stanford” rất độc đáo. Nội dung lời thề đại ý là: trong suốt thời
gian đào tạo ở trường, vì danh dự, uy tín và chất lượng của sinh viên và nhà trường,
mọi kỳ thi sinh viên sẽ hoàn toàn tự giác làm bài, không chấp nhận mọi hình thức
quay cóp, hỏi bài, tranh thủ, lợi dụng nào... tất nhiên nếu vi phạm sẽ bị xử lý thẳng
cánh không chỉ bằng “cơ chế nhà nước” như kỷ luật, đuổi học mà còn chịu phạt
nặng về “cơ chế thị trường” vì tiền phạt và học phí đóng rất cao và phạt cả bằng
“cơ chế cộng đồng”, những trường hợp xấu bị nêu gương qua nhiều thế hệ sinh
viên và thông báo rộng rãi trong và ngoài trường.
Thực hiện lời thề đó, về phía nhà trường, trong mọi cuộc thi, kiểm tra chất
lượng, giáo viên chỉ giao đề bài cho lớp, qui định đúng thời gian, địa điểm, hình
thức nộp bài, rồi sau đó đến nhận bài về chấm và thông báo điểm cho sinh viên.
Giáo viên không được phép tỏ ý nghi ngờ, đến giám sát hoặc làm phiền sinh viên
đang làm bài thi. Về phía sinh viên sau khi nhận đề thi, tự giác làm bài, có thắc
mắc gì về nội dung câu hỏi mới liên lạc hỏi lại giáo viên, tuyệt đối không trao đổi,
thảo luận, hết thời gian tự giác nộp bài.
Với qui chế độc đáo này, các hình thức thi của trường rất đa dạng, thực dụng, và
cũng rất khó, có những môn thi viết sinh viên ngồi liên tục trong phòng hàng mấy
tiếng đồng hồ, cũng có môn, phải đến thư viện tham khảo hàng đống tài liệu, lên
Internet tìm thông tin, đến phòng thí nghiệm chạy máy tính, hay ở nhà để suy nghĩ
viết bài trong vài ngày. Nhưng dù cách gì, cái chính là phải tự lực làm bài.
Qui chế đã biến kỷ luật thi cử vốn là quan hệ học sinh và thày giáo sang thành
chuyện danh dự và quyền lợi của cả cộng đồng sinh viên. Nếu một sinh viên phạm
luật là phản bội và ăn gian với cả tập thể. Không có gì chặt chẽ bằng sinh viên tự
quản lý mình và giám sát lẫn nhau, không ai tán thành và cho phép mình cũng như
người khác vi phạm qui chế. Nhờ đó, luật chơi chung được tôn trọng năm này qua
năm khác, trở thành cơ chế tự bảo vệ vững vàng trong cộng đồng sinh viên và tiếng
tăm tốt đẹp của nhà trường và những người do trường đào tạo.
44
Margolis H. 1982
45
North, D. C. 1998
89
Sugden cho rằng sức mạnh đạo lý được hình thành khi một cộng đồng “cùng
công nhận và tôn trọng một thông lệ. Theo ông, khi mọi người anh tiếp xúc, vì lợi
ích của họ đều tỏ ra tôn trọng một qui chế thì đương nhiên anh cũng phải tôn
trọng nó, “đạo đức của sự hợp tác” là lẽ tự nhiên46. Rõ ràng một trong những sức
mạnh thách thức với thời gian của cơ chế cộng đồng là niềm tin vào đạo đức. Con
người luôn tin tưởng một cách tự nhiên ở sự tất thắng của lẽ phải, của các thế lực
tốt đẹp trong cuộc đấu tranh với các lực lượng đen tối. Niềm tin đó có thể xuất
phát từ nguồn gốc tôn giáo, có thể dựa trên nền tảng công bằng của pháp luật, có
thể dựa trên kiến thức của giáo dục, có thể hình thành thành từ kinh nghiệm lịch
sử. Điều quan trọng là niềm tin về đạo đức được duy trì một cách tự giác, trở
thành lương tâm bảo vệ con người, giám sát con người ở mọi lúc, mọi nơi.
Nếu như “hiệu ứng Suvantor”47 xảy ra khi một số công cụ xấu của các cơ chế
bị huy động, xô đẩy mọi người đua nhau làm theo cái xấu, phá vỡ cân bằng luật lệ
chung, thì niềm tin vào đạo đức ngăn cản sự phá hoại đó, nó ngăn chặn sự sai
phạm của từng người và ngược lại tạo nên làn sóng của tập thể cộng đồng đấu
tranh để bảo vệ trật tự, bảo vệ đạo lý. ở đâu người tốt chiếm ưu thế và kiên quyết
hành động để bảo vệ lẽ phải thì sức mạnh của đạo đức được duy trì, cái xấu không
có môi trường để tồn tại. Điều quan trọng là tư tưởng tốt phải trở thành sự đồng
lòng, thành nếp sống của cộng đồng. Mọi người hành động theo đạo đức trước hết
vì tin tưởng và trông đợi rằng người khác, toàn cộng đồng cũng đối xử với mình,
với các thành viên khác trong gia đình mình như vậy. Do đó, cơ chế tự vệ thường
thành công với những cộng đồng hiểu biết rõ về nhau, tương đối đóng hoặc phải
có biện pháp giám sát và thưởng phạt rõ ràng. Khi được hỏi làm thế nào gìn giữ
được các giá trị đạo đức cho nhân dân, Lý Quang Diệu trả lời: “củng cố những tài
sản văn hoá vốn có của người dân, những giá trị mà họ kế thừa và ý thức về
những điều thiện, ác. Những phẩm hạnh nho giáo như hiếu thảo với cha mẹ, lương
thiện và chính trực, cần kiệm, trung thực với bạn bè và trung thành với đất nước là
những hỗ trợ quan trọng cho hệ thống pháp lý. Chúng tôi củng cố cho những giá
trị truyền thống bằng cách tưởng thưởng cho những hành động cư xử phù hợp với
những giá trị này và trừng phạt cách cư xử ngược lại48”.
Việc xây dựng nên tâm lý đạo đức tập thể là một quá trình tạo phản xạ có điều
kiện lâu dài và nhất quán. Phải tách rời quan niệm hiệu quả thực dụng trước mắt
với ý thức xây dựng nền tảng đạo đức trên cơ sở pháp lý vững bền. Ví dụ, hiện
tượng đã trở nên khá quen thuộc ở Việt Nam là nộp tiền phạt vi phạm giao thông
cho công an viên ngay tại chỗ. Dường như đây cũng là việc làm có hiệu quả:
46
Sugden, 1986
47
Xem phần Mặt xấu của cơ chế cộng đồng, trang
48
Diệu, L. Q. NXB Trẻ, 2001.
90
người bị phạt có ý thức ngay về sự thiệt hại kinh tế khi phạm lỗi, công an có điều
kiện cải thiện mức thù lao thấp để có thể hăng hái làm nhiệm vụ, món tiền được
chi không phải để làm những việc phạm pháp nên có thể không coi là hối lộ.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, cơ chế nhà nước đã bị thay bằng cơ chế thị
trường. Bên cạnh bài học khi vi phạm luật giao thông sẽ bị phạt, cả người phạt và
người bị phạt lại chấp nhận ý thức có thể và nên xử lý cơ chế nhà nước bằng cơ
chế thị trường. Mọi sai phạm có thể bù đắp được bằng tiền, mọi hình phạt có thể
mặc cả được. Người công an mỗi ngày nhận tiền phạt của vài chục người, thì khi
con anh ta lớn lên, đã có hàng vạn người được anh ta “dạy dỗ” đón chặn nó để đòi
tiền trong muôn ngàn dịch vụ công cộng khác, cho dù ý thức về luật giao thông
của họ được cải thiện.
Nếu như cơ chế cộng đồng được phát huy đúng cách, có thể tạo nên sức mạnh
thần kỳ của chiến tranh nhân dân, mở ra đổi mới cải cách, phát triển kinh tế thành
công thì cơ chế này nếu áp dụng sai, cũng có những mặt trái xấu xa ghê gớm, đem
lại nhiều đau khổ cho nhân loại.
Hộp 22. Phạm Lãi hết lòng vì nước trong chiến tranh, rút lui
đúng lúc khi thắng lợi
Cuối đời Xuân Thu, Phạm Lãi làm quan đại phu ở nước Việt. Vua nước Việt là
Câu Tiễn do không nghe lời can gián của Phạm Lãi đã đem quân nghênh địch với
quân Ngô và bị thua trận. Nhờ mưu kế của quan đại thần Văn Chủng, Câu Tiễn
mới thoát chết nhưng bị bắt sang nước Ngô làm con tin, Phạm Lãi xung phong đi
theo hầu hạ. Trong 3 năm làm khổ sai ở nước Việt, Phạm Lãi chịu mọi khổ nhục,
động viên Câu Tiễn chịu đựng gian khổ và lập nhiều mưu kế khiến vua Ngô tin cậy
và trả lại tự do cho họ. Khi trở về nước Phạm Lãi và Văn Chủng dốc lòng giúp Câu
Tiễn xây dựng quân đội, khôi phục đất nước. Phạm Lãi còn hy sinh cả người yêu là
mỹ nhân Tây Thi để vua Việt cống cho vua Ngô nhằm xoá bỏ mọi nghi ngờ của
nước Ngô. Hai năm sau, quân đội đã đủ mạnh, nước Việt bất ngờ tấn công nước
Ngô. Sau hai lần quyết chiến, nước Việt toàn thắng, vua Ngô bị giết.
93
Hiểu rõ mặt xấu của cơ chế cộng đồng, sau khi thắng lợi, Phạm Lãi một hai xin
vua cho từ quan hoàn dân. Không được đồng ý, ông vẫn từ bỏ tất cả vinh hoa trốn
sang nước khác ở ẩn. Trước khi đi, ông gửi thư cho Văn Chủng viết “Sau khi cáo cầy
đã chết thì chó săn cũng bị giết theo. Khi nước địch đã bị đánh bại, thì mưu thần
cũng sẽ bị tiêu diệt…Nếu ngài không bỏ đi thì chắc chắn sẽ gặp tai hoạ”. Văn Chủng
không nghe, tiếp tục ở lại làm quan, về sau bị vua Việt Câu Tiễn buộc phải tự sát.
(Nguồn: Những mẩu chuyện Lịch sử nổi tiếng Trung Quốc. NXB Thanh Niên, 2002).
Sử Trung Quốc kể: Hán Cao Tổ sau khi cùng các tướng lĩnh hào mục khởi
nghĩa chống nhà Tần thành công lên làm vua, đánh dẹp xong các nước chư hầu thì
các đại tướng lại quay lại đòi chia quyền, đòi phong vương. Đầu tiên là Hạng Vũ
làm vua nước Sở, Bành Việt làm vua nước Lương, Hàn Tín làm vua nước Tề,
Kình Bố làm Hoài Nam vương, Lư Quán làm Yên vương… Sau này, Hán Cao Tổ
bèn chiếm lại binh quyền và lần lượt giết các tướng lĩnh có công từ Hạng Vũ đến
Hàn Tín, rồi Bành Việt, Kình Bố, đuổi đánh Lư Quán… Các nguyên soái của
Trung Quốc ngày nay như Bành đức Hoài, Chu Đức, Lâm Bưu, Hạ Long, Trần
Nghị, Lưu Bá Thừa, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn, Diệp Kiếm Anh từng nếm
mật nằm gai với Mao Trạch Đông trong chiến tranh cách mạng, hầu hết sau ngày
thắng lợi cũng bỏ mạng hoặc chịu sự hành hạ trong “Cách mạng Văn hoá”51.
51
Xem: Cách Mạng Văn hoá liệt truyện, Thiên Đảo Hồ, NXB Mũi Cà Mau 2003.
94
trào tạo nên sự phối hợp tự giác, khắc phục được năng lực hạn chế trong thông tin
liên lạc, trong liên kết hợp tác vốn yếu kém ở các nước chậm phát triển.
Hộp 23. Bành Đức Hoài chết vì "dội nước" vào ngọn lửa Đại
nhảy vọt
Năm 1958, cả nước Trung Quốc bừng bừng trong cơn sốt của
phong trào “Đại nhảy vọt”. Với khẩu hiệu “đuổi kịp Anh, vượt qua
Mỹ, thi đua với Liên Xô”, chỉ trong vài tháng, nông thôn cả nước
đã công xã hoá đi vào làm ăn tập thể với qui mô lớn. Gia đình bị
tiêu diệt, cả làng ăn tập thể, làm việc tập thể, năng suất lúa đạt
10 tấn/mẫu, năng suất khoai lang lên 60 tấn/mẫu. Cả nước tham
gia sản xuất gang thép, sản lượng gang thép trong một năm tăng
gấp đôi. Báo chí, đài phát thanh, loa truyền thanh vang trời dậy
đất những lời nói hào hùng. Chủ nghĩa xã hội đã ở trong tầm tay
nhân dân, chỉ cần cực khổ xông tới vài tháng, vài năm là có tất cả.
Đại nhảy vọt diễn ra một năm, đến năm 1959 thiên đường
không xuất hiện mà các biện pháp bất chấp qui luật kinh tế đem
lại đói khát, thiếu thốn. Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập Hội
nghị Bộ Chính trị mở rộng 2 lần ở Trịnh Châu, 1 lần ở Vũ Xương và
sau đó ở Lư Sơn để chỉnh đốn lại phong trào. Tại Hội nghị Lư Sơn,
nguyên soái Bành Đức Hoài, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, bức bách
trước tình hình đã viết bức “vạn ngôn thư” cho Mao Trạch Đông
chỉ ra khuyết điểm điểm của phong trào như thói khoe khoang
thành tích, nóng vội, lãng phí nhân vật lực,…
Nhận được thư, Mao đã nói “Người này dám nói thật” và “Dễ
đắc tội với người khác”. Tuy cho rằng Bành nói thật, nhưng giữa
lúc phong trào của 600 triệu dân đang hừng hực xông lên đem lại
hoàn cảnh kinh tế chính trị rất khó khăn, bên trong có bức “vạn
ngôn thư”, bên ngoài có ý kiến phản đối của Liên Xô, nếu nhận sai
có thể làm nhụt chí khí phong trào, để mất uy tín lãnh đạo, đe dọa
tính hợp pháp lãnh đạo của Đảng, Mao quyết định gán cho Phó
thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Bành Đức Hoài cùng một số
ủy viên trung ương, ủy viên Bộ Chính trị khác dám chỉ ra sai lầm
của Đại nhảy vọt thành tội danh một “tập đoàn chống Đảng” như
Tổng tham mưu trưởng Hoàng Khắc Thành, Thứ trưởng bộ Ngoại
95
Giao Trương Văn Thiên, Bí thư Tỉnh Hồ Nam Chu Tiểu Châu, …
Quyết định của Mao Trạch Đông được đa số lãnh đạo lúc đó
đồng ý, nhưng họ không ngờ rằng chính với kiểu phóng tay phát
động quần chúng tương tự, chỉ 5 năm sau Trung Quốc đã bùng lên
cơn điên loạn của phong trào Cách mạng Văn hoá, lần này số nạn
nhân do muốn dội nước vào phong trào là cả những người đã ủng
hộ kỷ luật Bành Đức Hoài ở Lư Sơn. (Nguồn: Thiên Đảo Hồ.2003)
Tuy nhiên một khi phong trào đã được phát động theo kiểu chiến dịch kích
động tư tưởng, khi đã hình thành "tâm lý quần chúng" trên qui mô rộng, việc điều
chỉnh, định hướng, thay đổi định hướng sẽ có nguy cơ "dội nước lạnh vào bể dầu
đang cháy", làm thất vọng, mất lòng tin, thậm chí khủng hoảng tâm lý đông đảo
nhân dân. Sự hình thành trễ và định hướng cố định kéo dài của tâm lý phong trào
tạo nên sự lệch pha trong quá trình điều khiển chủ trương, chính sách so với sự
biến đổi của nhận thức lãnh đạo và tình hình khách quan. Do đó trong rất nhiều
trường hợp, khi biết là định hướng đề ra đã sai hay tình hình khách quan đã thay
đổi, người cầm quyền vẫn đành nhắm mắt đi tiếp, thậm chí đành phải đưa ra thông
tin sai lạc để tiếp tục nuôi dưỡng lòng tin và sự nhất trí ủng hộ của quần chúng.
Tâm lý đám đông còn tự dẫn đến hiện tượng bóp méo thông tin để nuôi dưỡng
mộng tưởng của quần chúng. Trong men say của tập thể, hiện tượng xuất hiện các
thần tượng điển hình là khó tránh khỏi. Một sự việc xuất hiện đúng theo hướng
phong trào lập tức được chính quyền thổi lên, quần chúng ca ngợi, những nét sai,
nét không giống bị bỏ qua, nét chiều theo mong muốn được nhấn mạnh, được tô
vẽ đôi khi vượt xa thực tế đời thường. Đó là kiểu những khẩu hiệu như của Trung
Quốc trong Cách mạng Văn hóa: "công nghiệp học tập Đại Khánh, nông nghiệp
học tập Đại Trại, toàn dân noi gương chiến sỹ Lôi Phong". Các điển hình này
thường được tập trung đầu tư, bồi dưỡng tiếp sức ngầm nhưng kết quả đạt được
lại được diễn giải như những minh chứng cho tính đúng đắn của phong trào.
Trong phần lớn trường hợp, khi phong trào lắng xuống, các ngôi sao này cũng lặn
theo.
Một thái cực khác của tâm lý phong trào là xu hướng trừng phạt quá mức. Khi
nhà nước phát động các chiến dịch thanh trừng, cải tạo, thanh lọc, các nhóm đối
tượng kinh tế, xã hội khác nhau (sắc tộc, tôn giáo, tệ nạn xã hội, chính trị,...) sẽ có
các tập thể, cá nhân bị mang ra làm thí điểm, làm điển hình. Dưới sức ép của
không khí dư luận quần chúng sôi sục, chứng cứ kết tội, hình thức xử phạt ngay cả
96
của toà án công tâm nhất cũng khó giữ được sự công bằng và khách quan của luật
pháp. Chưa kể đến hiện tượng bất công trong "xử lý nội bộ" của cơ chế cộng
đồng52 còn đe doạ cả sự đảm bảo quyền con người, tính nhân đạo của xã hội.
Nếu “tân quan, tân chính sách” là sự thay đổi trong cơ chế nhà nước thông
thường thì ngay trong triều đại một “cựu quan” quản lý theo kiểu phong trào cũng
có biết bao lần “tân chính sách”. Sự thay đổi chính sách thường xuyên và không
dự báo được tạo nên tâm lý bất ổn và cơ hội trong xã hội. Các đơn vị chạy vạy xin
được tham gia vào các chương trình đầu tư “trọng điểm” làm vội, tiền nhiều, chất
lượng kém miễn là kịp thời hạn, kẻ làm ăn sai trái học cách nằm im che đậy “cho
qua chiến dịch”, người làm ăn chân chính không dám đầu tư, Mọi nhà kinh doanh,
đầu tư, sản xuất chủ trương lấy “nhỏ, ngắn, bí mật” thay cho “dài hạn, vững bền,
minh bạch”. Một khi dân đối phó với nhà nước thì chính sách trở nên vô hiệu.
Biến động ngắn hạn đã thay thế cho ổn định dài hạn thì cơ chế nhà nước và cơ chế
thị trường bị trói tay.
"Nguyên tắc đồng thuận".
Trong một cộng đồng đặt mục tiêu cân bằng lên đầu, người ta thường đề cao
nguyên tắc đồng thuận. Sự "đồng thuận" này thường là kết quả đạt được sau cả
một quá trình tranh giành, đấu tranh gay gắt nên mang nặng tính dung hoà, thoả
hiệp hơn là đồng tâm nhất trí. Một mặt, nguyên tắc này cho phép các bên khác
nhau ngồi cùng một chiếu, thống nhất với nhau về những vấn đề không gây tranh
chấp hoặc không làm phương
hại đến một thành viên nào, mặt
khác, sự đồng thuận duy trì tình
trạng “đồng sàng dị mộng”, trì
kéo cả cộng đồng xuống ngang
với mức độ chấp nhận của thành
viên bảo thủ nhất trong những
vấn đề mang tính nguyên tắc cần
tranh cãi.
Một ví dụ dễ thấy của sự đồng thuận tiêu cực là các nghị quyết của Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc với hàng trăm phiếu bầu của tất cả các nước thành viên tuy
không có ý nghĩa bắt buộc thi hành nhưng thường là thuận theo lẽ phải, trong khi
đó, nghị quyết của mấy nước thành viên Hội đồng Bảo An tuy có tác dụng bắt
buộc thi hành nhưng do vướng phải “quyền phủ quyết” của bất kỳ một thành viên
nào nên thường chỉ thông qua những nội dung vô thưởng vô phạt, thậm chí có tác
dụng tiêu cực.
52
Xem phần “xử lý nội bộ, sự khủng khiếp của cơ chế cộng đồng”
97
Tình trạng “đồng thuận” chính thức hay không chính thức trong cộng đồng
làng quê hay đô thị thường tạo ra hiệu ứng “Chí phèo”, làm xuất hiện một loại
những kẻ tuy tuân theo trật tự bao trùm nhưng lại phá phách những quan hệ xã hội
cộng đồng cơ sở. Đó là những nhân vật dưới đáy xã hội, một mặt gây rối trong
cộng đồng, bắt nạt, phá quấy các thành viên hiền lành, thấp cổ bé họng, mặt khác
làm tay sai cho những thế lực bảo thủ đàn áp những đổi mới tiến bộ, đầu têu kiện
cáo gây rối nội bộ. Sự phát triển của một cộng đồng, một cơ quan đành chịu trì
kéo của sự cản phá của một vài cá nhân “đầu gấu”.
Trong trường hợp nguyên tắc đồng thuận được kết hợp với nguyên tắc "không
đụng đến nhau” thì sự đồng thuận lại có dạng tiêu cực khác. Xuất phát từ mong
muốn không gây mất đoàn kết trong cộng đồng và lo ngại bị can thiệp vào công
việc nội bộ của bản thân, sự tránh né rắc rối dễ dẫn đến thái độ “mũ ni che tai”.
Trong thực tế, kẻ xấu, kẻ tham thường không mấy khi tôn trọng nguyên tắc này,
nên sự xâm phạm, can thiệp vẫn xảy ra đây đó. Nếu các thành viên khác trong
cộng đồng cùng thúc thủ “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”, thì sự lẩn tránh
này rất gần với sự tiếp tay cho tội ác và thực tế sức mạnh của cộng đồng đã không
còn tồn tại.
“Mình vì mọi người”.
Đã từ lâu, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội băn khoăn giải thích một hiện
tượng trong quan hệ cộng đồng. Trong một số trường hợp, con người chấp nhận hy
sinh quyền lợi bản thân, thậm chí hy sinh những giá trị tối quan trọng đối với con
người như tính mạng, tình cảm gia đình, các nguyên tắc đạo đức hay niềm tin tâm
linh... vì quyền lợi chung của một tập thể. Đó là trường hợp hiến máu nhân đạo,
xung phong vào các đội quân tình nguyện, các đội chiến đấu cảm tử, bảo vệ lẽ phải
khi đóng vai trò đại diện cho cộng đồng, chịu đựng sự khủng bố của quân thù,…
Có những tác giả giải thích sự hi sinh này là những đầu tư dài hạn hơn theo kiểu
“hy sinh đời bố, củng cố đời con”, giành sự chu cấp về vật chất, tinh thần của cộng
đồng cho gia đình, con cái; có khi là hy sinh trước mắt để đổi lấy sự bồi thường
khen thưởng lâu dài, lấy vinh dự tinh thần thay cho mất mát vật chất theo kiểu “một
là xanh cỏ, hai là đỏ ngực”. Tuy nhiên không thể dùng luận điểm này để diễn giải
cho những trường hợp chấp nhận hy sinh cả quyền lợi và tính mạng cả gia đình cho
sự nghiệp, những trường hợp đóng góp cho cộng đồng mà dấu tên,… Rõ ràng,
trong cơ chế cộng đồng có ẩn chứa một động lực vì cộng đồng một cách vị tha.
Tuy nhiên, lòng vị tha vì cộng đồng cũng có mặt trái của nó. Nếu con người
chấp nhận hy sinh cả những giá trị đạo lý, những nguyên tắc luật pháp vì các lý do
của cộng đồng thì đã tạo ra mâu thuẫn về quyền lợi giữa cộng đồng nọ trong cộng
đồng kia. Trong quan hệ xã hội, phải đảm bảo nguyên tắc thứ tự, không cho phép
vì lý do quyền lợi của cộng đồng nhỏ mà làm hại đến quyền lợi của cộng đồng lớn
98
hơn. Không thể vì giai cấp mà hy sinh dân tộc, vì dân tộc mà làm hại nhân loại,…
và thông thể vì bất kể lý do nào để đi ngược lại những nguyên tắc đạo lý căn bản
của con người, kết tinh trong “thần linh pháp quyền”.
Một khi “trường hấp dẫn” của cơ chế cộng đồng tạo nên sức mạnh đặc biệt của
quan hệ giữa người với người, có thể bóp méo vận hành bình thường của các cơ
chế khác. Nó có thể làm lệch cán cân công lý của toà án, tạo ra sự thiên vị trong
các cuộc đấu thầu, làm sai lạc tiếng còi trọng tài, bóp méo kết quả chính sách.
“Dao sắc không gọt được chuôi”, những chiến sỹ cách mạng kiên cường nhất,
từng vào sinh ra tử, bất chấp mọi kẻ thù, cũng khó dám chống lại sai lầm trong tập
thể đồng đội. Những người cách mạng Trung Quốc vốn nổi tiếng về lòng dũng
cảm trước quân thù. Súng đạn, tù đày không làm sờn lòng được những con người
này, thế nhưng những người ưu tú nhất trong số đó đã có lúc đành thúc thủ trước
quyền lực từ bên trong nội bộ (xem hộp 24).
Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 12 (Đại Hội VIII) họp
năm 1968 trong cao trào Cách mạng Văn hoá. Gọi là Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương nhưng chỉ có 40/97 uỷ viên trung ương có mặt, những kẻ là nhân viên
của “Tổ Cách mạng Văn hoá Trung ương”, “Tổ làm việc của Quân ủy Trung ương”
trà trộn vào Hội nghị tới 74 người, chiếm quá nửa số đại biểu. Trong không khí đàn
áp nặng nề, Hội nghị đã ra nghị quyết kết tội ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước
Lưu Thiếu Kỳ là “phản bội, nội gian, công tặc” và qui kết 53% trong tổng số 195
ủy viên và ủy viên dự khuyết Trung ương đảng là “phản bội, đặc vụ, thông đồng
với nước ngoài, phần tử chống đảng”. Trước một sự phá hoại trắng trợn như vậy,
mà tập thể những chiến sỹ cộng sản kiên cường nhất đã im lặng giơ tay biểu quyết
vì run sợ. Chỉ có một người dám chống lại, đó là nữ đảng viên già Trần Tiểu Mẫn
giả vờ bị đau tim, gục đầu xuống bàn trước lúc biểu quyết để không phải giơ tay
kết tội lãnh tụ của mình. Cho đến sau này, khi kể lại câu chuyện đau lòng ấy, ngay
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang vẫn không tha thứ được
cho sự hèn nhát của mình khi đó. (Văn trích tuần san, theo báo An ninh Thế giới
14/8/2003 và Thiên Đảo Hồ, 2003).
Khi con người chấp nhận hy sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích chính đáng của
tập thể thì đó là sự hy sinh cao cả, nhưng nếu phải hy sinh tất cả vì những mục
tiêu không minh bạch của cộng đồng thì đó lại là sự mù quáng. Trong cuộc chiến
tranh giữa Iran-Irắc trước đây, có những đoàn thiếu niên tình nguyện bị xua ra
99
trước chiến tuyến để hy sinh dọn mìn cho quân đội; trong Cách mạng Văn hoá
Trung Quốc, có các đoàn thiếu niên “vệ binh đỏ” tự nguyện đấu tố hành hạ thày
giáo, người thân gia đình mình; trong các cuộc xung đột sắc tộc giữa người
Palestin và người Israel hiện nay, nhiều thanh niên lấy mạng sống của mình đánh
bom cảm tử gây thiệt hại cho dân lành phía bên kia. Trong những tình huống này,
nghịch lý “mình vì mọi người” đã thể hiện mặt trái tệ hại của nó.
Hộp 25. Cả làng uống nước lã, các cháu ăn gạo hẩm
Cổ tích Việt Nam có truyện: ngày xưa một làng mở hội định mời mọi người đến
dự tiệc. Làng để một chum to trước đình và thông báo cho mọi người tự mang rượu
nhà đến đóng góp. Mọi người đều nấu rượu ngon tại gia đình, nhưng đều nghĩ rằng
dại gì mà góp rượu ngon, nếu các nhà khác nộp rượu tốt chi bằng ta cứ mang nước
lã đến nộp, một ít nước lã hoà trong cả chum rượu đâu có ảnh hưởng gì ? vả lại có
ai biết là mình đổ nước lã đâu mà sợ. Do mỗi người đều muốn ăn gian nên khi lễ
hội bắt đầu, đổ ra từ chum toàn là nước lã.
Trong thời kỳ bao cấp ở Việt Nam, nhà trẻ của một cơ quan có qui định mỗi gia
đình góp một ít gạo để các cô mẫu giáo nấu cho các cháu ăn bữa trưa. Thông
thường ở nhà, bố mẹ nào cũng nhịn miệng giành miếng ngon nhất cho con, nhưng
khi đem nộp gạo cho bếp chung, mọi người đều có ý nghĩ chắc gì người khác đã
nộp gạo ngon cho con mình ăn, nếu nộp gạo ngon là thiệt. Kết quả là nhà bếp nhận
được toàn gạo hẩm, các cháu ăn không nổi trong khi bố mẹ sẵn sàng hy sinh nhiều
hơn cho con mà đành làm ngược lại.
101
Ngoài ra, hiệu ứng này cũng có thể khắc phục nếu có biện pháp phát hiện và ngăn
chặn mọi trường hợp mưu toan phá rào bằng xử phạt nghiêm các vi phạm qui định
chung từ lớn đến nhỏ trước khi phản ứng dây truyền xảy ra khiến mọi người đua
nhau học theo cái sai.
102
tàn bạo trong nước trong nhiều năm, hình ảnh thế giới
được biết về cuộc “Cách mạng Văn hoá” dường như là
một ngày hội lớn, một cuộc biểu dương lực lượng của
thanh thiếu niên Trung Hoa.
- Được thực hiện theo ý chỉ của bề trên tối cao trong cộng
đồng: trong cộng đồng, lẽ phải là ý chỉ của người đứng
đầu, đó có thể là quân vương, già làng, giáo chủ, chủ tịch
đảng phái,... khi kết tội nạn nhân, phán quyết tối cao của
cộng đồng thường xuất phát từ quyết định, ý đồ của một
vài cá nhân. Không có chuyện xét án công khai, lấy ý
kiến khách quan tập thể, càng không dựa trên chứng cớ
điều tra, luật pháp công minh. Việc kết tội kể cả ở mức
cao nhất cho cá nhân hay cho một tập thể diễn ra bất
chấp pháp luật, qua mặt toà án. Vì vậy chuyện oan sai là
dễ thấy. Người ta cũng có thể lập “ban chuyên án”, “hội
đồng xét xử”,... nhưng kết luận về tội trạng, phương
hướng xử lý đã được định sẵn với mục tiêu loại bỏ cá
nhân đó, ảnh hưởng của cá nhân đó ra khỏi cộng đồng.
Những kẻ có quyền thường lợi dụng chỗ hở này để loại
bỏ đối thủ, đàn áp cá nhân. Ví dụ trong mười năm Cách
mạng Văn hoá ở Trung Quốc “Tổ chuyên án Trung ương”
là bộ máy nắm quyền sinh quyền sát tối cao cả trong tư
pháp và chấp pháp.
- Được thi hành bằng đám đông vô danh, xuất hiện trong
thời điểm nhất định: thông thường việc xử phạt có thể
kéo dài nhanh hay chậm, bằng những lực lượng chuyên
trách hay đám đông bị kích động, nhưng nhìn chung, đó
là một “tập thể vô hình”. Trong các vụ hành hình kiểu
Luynsơ ở Mỹ, những kẻ phân biệt chủng tộc KKK còn
mang mũ trùm đầu, giết người ban đêm, còn trong
nhiều trường hợp tội ác diễn ra giữa thanh thiên bạch
nhật, như các chiến dịch “càn Do Thái” ở châu âu, các
cuộc tàn sát sắc tộc ở Ruanda năm 1994, 800 ngàn
người bị giết trước hàng triệu người nhưng không có kẻ
thủ ác bị nhận diện. Trong đám đông kích động, con
người trở thành mãnh thú vô hình. Sau những cuộc
khủng bố của Hồng vệ binh với 100 triệu nạn nhân ở
Trung Quốc, chỉ có 4 tên trong “tứ nhân bang” phải ra
toà chịu xét xử. Từ những “cánh đồng chết” của nạn diệt
chủng 3 triệu người Cămpuchia, chỉ tìm thấy vài kẻ tội
103
phạm Khơme đỏ sắp chết già vẫn nhùng nhằng mãi
không bị đưa ra toà. Trong lịch sử còn rất nhiều bi kịch
mãi không có lời minh giải do “xử lý nội bộ”.
Hoàng Cát là cán bộ có lý lịch chính trị tốt. Là công nhân kỹ thuật ở nhà máy cơ
khí Trần Hưng Đạo, thương binh chiến trường Miền nam: mất một chân, bị thương
tay và đầu. Cát lại có tài, anh đăng bài thơ đầu trên báo Lao Động năm 1961; sau
khi dự lớp viết văn trẻ, Hoàng Cát chuẩn bị chuyển về Ban Văn nghệ Đài Tiếng
Nói Việt Nam năm 1972. Không may, một "nghi án văn chương" đã xảy ra, đưa
cuộc đời ông vào ngõ cụt.
Câu chuyện như sau: cạnh căn hộ tập thể của Cát có một cây táo hoang đang
lớn, Cát chặt đi vì sợ để cây lớn lên, có quả nhiều sẽ khiến trẻ em kéo đến quấy
phá. Chặt xong, Cát hối hận vì thấy mình hơi ích kỷ, trạnh nhớ bài thơ của Tố Hữu
có câu: "xuân về táo rụng nhớ đàn em", Hoàng Cát thức trắng đêm viết chuyện
ngắn "cây táo ông Lành". Câu chuyện kể về một ông lão khó tính đã chặt cây táo
nhà mình không cho trẻ con tới leo trèo. Nhân ngày thiếu nhi 1/6/1974, Báo Văn
nghệ đăng chuyện này và lập tức dấy nên một làn sóng phê bình ầm ỹ.
Liên tưởng đến tên riêng "Lành" của nhà thơ và nhà lãnh đạo Tố Hữu, người ta
cho rằng tác giả mượn chuyện văn chương để chỉ trích lãnh đạo. Một nhà phê bình
quan trọng đăng bài trên báo Nhân Dân phê phán chuyện này và cả tình hình văn
nghệ chung. Tiếp theo, tháng 11/1974, tạp chí Học Tập đăng xã luận qui cho
Hoàng Cát nhiều tội danh nặng nề, Báo Văn Nghệ phải lên tiếng tự phê bình.
Nỗi khổ vật chất cộng với nỗi khổ tinh thần, khi lâm nạn của một "con chiên
ghẻ", bạn bè không dám tiếp xúc, gia đình cũng chịu vạ lây. Bốn bề tù mù, không
biết kêu ai, Cát chỉ còn cách xin gặp nhà thơ Tố Hữu, vừa là đương sự trong câu
chuyện này, vừa là lãnh đạo quan trọng trong lĩnh vực văn hoá, cũng đã từng biết
nhau từ trước. Đề nghị mãi, Cát cũng chỉ nhận được lời nhắn qua người thư ký:
"Anh Lành đã đọc kỹ cái chuyện ấy, không có vấn đề gì đâu, anh cứ yên tâm mà
làm việc, yên tâm sáng tác". Nói như vậy nhưng từ đó, Cát chẳng những hết đường
sáng tác mà cũng chẳng được quyền làm việc, và không có ai xoá được một cái án
vốn không được tuyên của nạn xử lýýý nội bộ khủng khiếp trong cộng đồng.
Quyết định chuyển công tác về Đài phát Thanh bị hủy bỏ, hai tập thơ đã chuẩn
bị đem in bị đình bản vì không còn một nhà xuất bản nào dám in bài của Cát, chẳng
những sự nghiệp văn chương kết thúc mà nguồn sống bình thường cũng không còn.
Trong cơ chế tem phiếu khó khăn thời bao cấp, không được làm việc không chỉ là
mất uy tín, quan hệ mà còn là mất luôn miếng cơm, manh áo. Mới 37 tuổi, tài giỏi
104
và khỏe khoắn, nhà máy cho Cát nghỉ "mất sức". Không có chế độ hưu trí, Cát
cũng chẳng được cả hưởng tiêu chuẩn thương binh. Lăn lộn làm tất cả những gì có
thể đóng góp vào xuất lương công nhân mỏng manh của vợ để nuôi sống gia đình
ba miệng ăn, nhà văn chuyển sang bán chè chén vỉa hè, nuôi lợn, nuôi gà công
nghiệp, cuốn thuốc lá, bỏ mối thuốc lào, nuôi chim cảnh, làm nem chạo,... Cho đển
tận hôm nay, tiền trợ cấp mất sức của Cát vẫn chỉ là 320 ngàn đồng/ tháng.
Sau 15 năm chịu án treo bút bất thành văn, năm 1989, Hoàng
Cát trở lại văn đàn với một chùm thơ trên báo Người Hà Nội, và
cuối cùng nhà phê bình đã mở đầu "nghi án" này 25 năm trước lại
ký quyết định chứng nhận Hoàng Cát là nhà thơ, hội viên hội Văn
học Nghệ thuật Hà Nội, hội Nhà văn Việt Nam và được nhận huy
chương Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Một kết thúc
theo kiểu cách "xử lý nội bộ"của “cơ chế cộng đồng.”. (Nguồn:
Báo An ninh Thế giới cuối tuần, 23/7/2003)
- Được thi hành bằng đám đông vô danh, xuất hiện trong
thời điểm nhất định: thông thường việc xử phạt có thể
kéo dài nhanh hay chậm, bằng những lực lượng chuyên
trách hay đám đông bị kích động, nhưng nhìn chung, đó
là một “tập thể vô hình”. Trong các vụ hành hình kiểu
Luynsơ ở Mỹ, những kẻ phân biệt chủng tộc KKK còn
mang mũ trùm đầu, giết người ban đêm, còn trong
nhiều trường hợp tội ác diễn ra giữa thanh thiên bạch
nhật, như các chiến dịch “càn Do Thái” ở châu âu, các
cuộc tàn sát sắc tộc ở Ruanda năm 1994, 800 ngàn
người bị giết trước hàng triệu người nhưng không có kẻ
thủ ác bị nhận diện. Trong đám đông kích động, con
người trở thành mãnh thú vô hình. Sau những cuộc
khủng bố của Hồng vệ binh với 100 triệu nạn nhân ở
Trung Quốc, chỉ có 4 tên trong “tứ nhân bang” phải ra
toà chịu xét xử. Từ những “cánh đồng chết” của nạn diệt
chủng 3 triệu người Cămpuchia, chỉ tìm thấy vài kẻ tội
phạm Khơme đỏ sắp chết già vẫn nhùng nhằng mãi
không bị đưa ra toà. Trong lịch sử còn rất nhiều bi kịch
mãi không có lời minh giải do “xử lý nội bộ”.
Trong một số trường hợp, tâm lý của cơ chế cộng đồng dễ có một khoảng trống
của sự bàng quan tội lỗi. Giữa các cộng đồng khác nhau, người ta không muốn
dính vào chuyện nội bộ của nhau. Có những người Việt Nam thấy chuyện bố đánh
con là thường trong nhà, có người Hàn Quốc thấy sếp bạt tay nhân viên là chuyện
105
nhỏ trong doanh nghiệp, có người ấn Độ thấy chồng đánh vợ là chuyện riêng của
gia đình. Những cái được coi là riêng đấy trong các cộng đồng tạo nên khoảng
cách về thước đo nhân phẩm, giá trị con người giữa các gia đình, giữa từng cộng
đồng mà nhiều người nhầm tưởng rằng là khác biệt văn hoá. Sự bàng quan với
thân phận con người giữa các cộng đồng khác nhau là môi trường dung dưỡng cái
xấu trong lòng loài người. Giữa các cộng đồng khác nhau, nguyên tắc "không can
thiệp vào công việc nội bộ" có mặt tốt của sự tôn trọng chủ quyền mà cũng có mặt
trái của thái độ "thấy nhà hàng xóm cháy bình chân như vại" dẫn đến vô hiệu hoá
giá trị của cộng đồng.
Hộp 27. Trung Quốc che dấu thông tin dịch SARS
Tương tự như vậy, dịch virus SARS đã bị phát hiện tại Trung Quốc giữa
tháng 11 năm 2002 nhưng các cấp thẩm quyền đã bưng bít thông tin với nhân
dân. Đến tháng 2/2003 Tổ chức y tế Thế giới WHO mới được thông báo và 2
tháng sau chuyên gia của họ mới tới Quảng Đông để kiểm tra. Số lượng bệnh
nhân ở Bắc Kinh bị dấu đi 90%. Do đó, khi Trung Quốc buộc phải công bố
thật tình hình thì bệnh đã lan ra 18 nước với 4000 người nhiễm và hơn 200
người chết. Người Bắc Kinh lâm vào hoảng loạn tinh thần và Trung Quốc
chiếm tới hơn một nửa số người nhiễm bệnh và người chết trên thế giới. Kết
quả của tình trạng ém nhẹm thông tin là nền kinh tế châu á theo tính toán của
ADB thiệt hại tới 60 tỷ USD trong năm 2003. Điều đáng tiếc là hình ảnh
Trung Quốc trong mắt cộng đồng quốc tế trở nên đáng ngờ trong những vấn
đề cung cấp thông tin khác. Sau bài học này Trung Quốc đã đưa trách nhiệm
cung cấp thông tin cảnh báo trung thực vào luật và xử lý rất nặng mọi người
vi phạm qui định này, trước hết là các quan chức cao cấp gây ra chuyện che
dấu dịch SARS vừa qua.
Những kinh nghiệm về coi thường pháp luật, không trừng phạt kẻ ác sẽ dạy
cho con người đừng tin vào sự phán xử của toà án, không trông mong ở công lý
khách quan, nên nhắm mắt tuân theo lý lẽ của bề trên, a dua theo tư tưởng của
đám đông, xuôi theo sức mạnh của bạo lực. Dần dần niềm tin về sự công bằng và
lẽ phải ở đời sẽ mất, lúc đó con người có nguy cơ đánh mất cái tâm cội nguồn của
loài người là đạo đức và quay lại tin vào sức mạnh của tội ác.
106
“Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại”, bóp méo thông tin về cộng
đồng.
Một trong những phương cách hoạt động trong quan hệ cộng
đồng là “nhìn mặt mà bắt hình dong”, để “ông trao chân giò, bà
thò nậm rượu”, nhìn xem người ta đối xử ra sao, thì hành động
đáp ứng như vậy. Trong các thành viên của cộng đồng hoặc giữa
các cộng đồng thường xuyên có sự quan sát, thu thập thông tin,
đánh giá thông tin về nhau. Do đó, tạo ra một hình ảnh tốt đẹp,
đáng tin cậy về cá nhân trước các thành viên trong cộng đồng,
giữa các cộng đồng khác nhau là điều quan trọng để duy trì lợi
thế trong quan hệ. Nhu cầu đó
đôi khi được thoả mãn bằng
thông tin giả nhằm tạo nên một
vỏ bọc hào nhoáng không có
thật.
Thứ nhất, là các thông tin xấu, có hại
đến uy tín của cộng đồng bị dấu nhẹm
theo kiểu “đóng cửa bảo nhau”. Trong
nhiều trường hợp, thông tin bị dấu diếm
trước hết là với thành viên của cộng
đồng, làm cho các cơ chế cảnh báo, báo
động nội bộ mất tác dụng. Cộng đồng
trở nên mất sức đề kháng trước các
nguy cơ xâm hại. Tập quán dấu diếm không để lọt những thông tin xấu về cộng
đồng ra ngoài đem lại hiểm hoạ cho chính bản thân cộng đồng.
Thảm hoạ xảy ra rò rỉ phóng xạ tại Chécnobyl Ucraina năm 1986 đã được báo
động từ 2 năm trước do KGB đã phát hiện ra tình trạng mua thiết bị kỹ thuật có
chất lượng yếu kém của Nam Tư, tuy nhiên thông tin này bị bưng bít ngay cả khi
thảm hoạ đã xảy ra. Nhân dân không được sơ tán kịp thời, các vùng ảnh hưởng
không được báo động, qui mô tai họa bị dấu bớt. Lò phản ứng tiếp tục hoạt động
cho đến tận hết năm 2000 mới đóng cửa hẳn, thiệt hại thực tế cho nhân dân trong
vùng là rất khủng khiếp vì mức phóng xạ thoát ra nhiều gấp 100 lần các quả bom
Mỹ đã ném xuống Hiroxima và Nagazaki53.
Thứ hai, là tạo nên tình trạng “đóng cửa thông tin” với “người ngoài”. Những
năm 1958-1961, ở Trung Quốc diễn ra một nạn đói vào loại khủng khiếp nhất
trong lịch sử loài người. Thiên tai và mất mùa và quản lý sản xuất tồi kéo dài suốt
3-4 năm trên qui mô rộng ở nông thôn làm trên 30 triệu người chết (Viện Hàn lâm
53
Theo BBC, dẫn theo Báo NNVN 23/4/2003
107
Khoa học Xã hội Trung Quốc, 1994). Để dấu kín thông tin, nông dân bị bỏ mặc,
không được kêu cứu, không được phép di cư đi kiếm ăn, ngược lại, vẫn tiếp tục
phải đóng góp cho trung ương vì các địa phương vẫn báo cáo được mùa. Ngay ở
thành thị, nhân dân vẫn không hay biết về nạn đói ở nông thôn, vì thậm chí đời
sống còn được cải thiện hơn. Tất nhiên thế giới xung quanh không hề hay biết và
viện trợ gì vì Trung Quốc thậm chí vẫn tiếp tục xuất khẩu lương thực. Ngay cả khi
nguyên soái Bành Đức Hoài báo cáo với Mao Trạch Đông về thực trạng thê thảm
của nông dân, ông còn bị kết tội và kỷ luật.
Trong qui mô gia đình, đây cũng là bệnh trạng thường gặp. Trong khi ở Âu Mỹ
người ta làm quen với số liệu thống kê to lớn về số người li hôn và sống độc thân,
thì ở nhiều quốc gia châu á, tình hình gia đình có vẻ tốt đẹp hơn. Trong thực tế,
tồn tại một tỷ lệ cao không ai biết về số gia đình sống “ly thân”, một kiểu gia đình
chấp nhận chung sống về mọi phương diện trừ sinh hoạt tình cảm vợ chồng. Một
trong những lý do quan trọng níu kéo họ lại với nhau về hình thức là uy tín gia
đình và ảnh hưởng với con cái. Điều đáng buồn là mâu thuẫn và thảm cảnh tình
cảm trong gia đình lại vì thế mà tiếp tục tăng lên dẫn đến những hậu quả khác như
nạn bạo hành và ngược đãi, tình trạng mua bán dâm, và kết cục cuối cùng nhiều
khi còn tồi tệ hơn.
“Một sự thất tín, vạn sự không tin”, hậu quả của nạn bóp méo và xuyên tạc
thông tin trước hết là đánh mất lòng tin. Cố gắng của việc tạo ra hình ảnh đẹp với
bên ngoài bị thất bại, và căn cứ để thiết lập quan hệ vững vàng giữa con người với
nhau, giữa các cộng đồng với nhau cũng mất luôn. Thông tin minh bạch và công
khai là nền tảng tạo nên chữ tín trong quan hệ cộng đồng. Ăngđecsen viết một
108
chuyện cổ về sự lừa dối cá nhân dẫn đến mù quáng xã hội: Một ông vua ngu ngốc
bị một bọn lừa đảo giả vờ may cho một bộ quần áo đặc biệt chỉ những người khôn
ngoan mới nhìn thấy. Nhà vua và quần thần, sau đó là toàn dân tự lừa dối nhau và
lừa chính mình về một bộ quần áo không có thực, cuối cùng chỉ một chú bé dám
nói lên sự thật: vua cởi truồng.
109
Hộp 28. Dùng người trung thành hay
dùng người tài giỏi?
Trong những triều đình phong kiến đầu tiên ở Trung Quốc như
nhà Ân (1800 năm TCN), nhà Chu (1000 năm TCN), khái niệm
nước và nhà gắn với nhau bằng quan hệ dòng tộc. Chỉ có người
cùng tộc với vua mới được coi là "tôn", là dân tự do, chủ nô, được
sống trong thành (quốc), còn lại các tộc người khác nếu có quan
hệ họ hàng nội ngoại với tôn tộc được gọi là "hoa, di" sống ở gần
kinh đô, những tộc người khác xa lạ hơn được coi là "địch, nhung".
Những chủng người khác là thấp kém bị coi là “tiểu nhân” phải
sống ở nông thôn (dã). Vua cử họ hàng làm vua các nước chư hầu,
quan lại trong triều đều có quan hệ họ tộc. Để duy trì sự trung
thành tuyệt đối. Về tổ chức, chế độ "thân thân" được áp dụng để
chọn người có năng lực trong dòng tộc đề bạt làm quan. Về tư
tưởng, quan điểm của Khổng Tử coi trọng "lễ, đức, hiếu" được đề
cao.
Trong các giai đoạn phát triển tiếp theo của nhà nước phong kiến ở Trung Quốc,
cùng với sự phát triển của kinh tế, chiến tranh liên tục diễn ra. Thiên tử và vua chư
hầu suy tàn, bồi thần và đại phu phong kiến hóa, địa chủ và thương nhân trưởng
thành, nô lệ trở thành nông dân tự do và thợ thủ công. Chế độ cống nạp chuyển
sang đánh thuế, pháp luật được đề cao thay thế cho sự xét sử của quí tộc, đất công
của nhà vua trở thành đất tư của nông dân. Lúc này, yêu cầu dùng người không còn
chỉ là trung thành mà còn phải có năng lực cai quản xã hội, điều hành chiến tranh,
tổ chức sản xuất. Do đó, về tổ chức, cách dùng người trong tôn tộc chuyển sang
dùng người tài trong thiên hạ. Đường lối "thân thân" đổi thành "thượng hiền": Dân
thường nếu tài giỏi cũng được làm quan. Mặc Tử chủ trương mở rộng phạm vi
chọn người tài đến tận hạng người làm ruộng, làm thợ, chủ yếu dựa vào trí tuệ và
tài năng. Ông đề ra phương pháp "chúng hiền" và "tiến hiền": giao cho người hiền
tài tước vị cao, bổng lộc hậu, quyền hành lớn, nhờ đó, công việc thì hoàn thành,
thiên hạ thấy người hiền được trọng dụng, lại tạo nên động cơ học hành rèn luyện.
ở các nước châu á, suốt hàng ngàn năm nay, vấn đề "thân thân" của Khổng Tử
hay "thượng hiền" của Mặc Tử vẫn là câu hỏi của nhiều chính quyền nối tiếp nhau,
cả phong kiến, tư sản, vô sản,... Nhưng nhìn chung, những con rồng Châu á cất
cánh được cũng nhờ dứt khoát trong việc sử dụng nhân tài. (Nguồn: Trần Đình
Hượu, 2001).
110
Hộp 29. Gia đình trị ở Irắc
Nhà độc tài Sadam Hutsen nắm giữ trong tay mình những chức
vụ quan trọng nhất của quốc gia như Tổng thống, Tư lệnh các lực
lượng vũ trang, Lãnh tụ đảng cầm quyền.
Chưa yên tâm, Sadam còn giao những vị trí sống còn khác cho các con trai
mình. Con thứ 2 của ông là Qusay, được coi là người sẽ kế nhiệm Tổng thống. Là
ủy viên trung ương đảng Baath khi mới 37 tuổi, Qusay đứng đầu ủy ban quân sự
của đảng, và đã trở thành người đứng đầu đảng từ năm 2001. Qusay chỉ huy đội vệ
binh cộng hoà-đơn vị quân sự tinh nhuệ và trang bị hiện đại nhất của quốc gia, nắm
quyền chỉ huy đội cận vệ của tổng thống, nắm giữ bộ máy an ninh. Khi cuộc chiến
tranh với liên quân Anh Mỹ nổ ra, Qusay nắm giữ nhiệm vụ tư lệnh quân khu trung
ương, chỉ huy phòng thủ Bátđa. Đây là một nhà quân phiệt nổi tiếng tàn bạo
chuyên chỉ đạo các chiến dịch đàn áp các lực lượng chống đối. Qusay được coi là
người nắm giữ ngân hàng của gia đình, khi chiến tranh nổ ra đã trực tiếp lấy từ
ngân hàng trung ương của quốc gia 1 tỷ đô la.
Con trai thứ nhất của Sadam là Uday nắm giữ mọi quyền lực trong lĩnh vực
thông tin tuyên truyền. Với cương vị một nghị sỹ quốc hội, Uday đứng đầu Liên
đoàn Phóng viên Irắc, nắm trong tay toàn bộ tập đoàn thông tin của Irắc, bao gồm
hai tờ báo lớn nhất nước “Độc Lập” và “Babilon”, và kênh truyền hình “Tuổi trẻ”
được trang bị tốt nhất nước. Đây là một nhà tài phiệt nổi tiếng về cách sống xa hoa
trác táng.
Giao cho các con mình vị trí quan trọng trong đảng, quốc hội,
quân đội, Sadam muốn nắm ba sức mạnh chính của nhà nước
trong gia đình mình: bộ máy an ninh, hệ thống truyền thông và tài
chính. Tuy nhiên sự khủng bố, tuyên truyền và tiền bạc không đổi
được lòng trung thành của con người. Khi đang cầm quyền cả bố
con Hutsen đã nhiều lần bị mưu sát bởi kẻ thù và các đồng chí
trong đảng Baath. Khi chiến tranh nổ ra, cả bộ máy quân sự chính
trị khổng lồ của Irắc tan như bọt xà phòng, chẳng những các lực
lượng quân đội quay lưng trở lại với bộ máy lãnh đạo mà cả các
lực lượng con cưng của chính quyền cũng bỏ mặc chỉ huy. Cuối
cùng Uday, Qusay và bản thân Hutsen bị chính thuộc hạ và người
thân của mình bán đứng ngay tại quê hương.
Đo lường con người theo khả năng trung thành sẽ tự giác hình thành thái độ
phân loại con người trong tổ chức bằng chủ nghĩa lý lịch và nảy sinh lòng nghi kỵ
111
khôn cùng. Vòng trong là gia đình họ hàng ruột thịt, vòng ngoài là bạn bè chiến
hữu, xa hơn nữa là đồng hương, rồi đến đồng đội cũ, xa hơn mới là các thứ bực tin
cậy theo mức độ quen thân. Chức tước bổng lộc cũng theo đó mà phân bổ. Người
xa phải theo dõi, giám sát. Người lạ phải loại bỏ, ngăn chặn.
Trong những chính thể độc tài như của Sađam Hutsen ở Irắc, Suháctô ở
Inđônêsia, bố và các con trai, con rể chia nhau nắm giữ các chức vụ quan trọng
nhất trong bộ máy nhà nước, cảnh sát, quân đội, quản lý các doanh nghiệp béo bở
và cả đảng cầm quyền. Trong chính quyền của Sadam Hutsen ở Irắc, các nhóm
người càng thân thiết, tin cậy càng được trao cho nhiều những đặc quyền và đặc
lợi, đầu tiên là đảng Baath cầm quyền tuyệt đối, rồi đến các nhóm vũ trang khác
nhau như Lực lượng Vệ binh Cộng hoà, lực lượng dân quân Rafayel, rồi các ưu
đãi giành cho tộc người Sunnite, giành cho thành phố quê hương Tikrit của
Sadam. Trong hệ thống của Khơme đỏ thì hơi khác, những người càng ở nhóm
ngoài càng bị nghi kỵ, đàn áp nặng nề hơn. Đối nghịch nhất là những người phục
vụ cho chế độ cũ bị xử tử không cần xét xử; thị dân, trí thức là tầng lớp xa lạ, phải
tập trung đày ải hành hạ, nông dân gần gũi hơn được làm lao động khổ sai trong
các Angka, ngay nội bộ quân đội cũng chia thành nhiều thứ bực theo mức độ tin
cậy và lần lượt thanh trừng lẫn nhau vì lo sợ.
Nếu như người trung thành với thủ lĩnh trước hết phải biết nghe lời, tuân theo
sự chỉ đạo, điều khiển của thủ lĩnh vô điều kiện, thì thông thường người đó phải
có năng lực kém hơn, tư thế thấp hơn người lãnh đạo mình. Biết cũng không được
nói, không biết càng tốt hơn. Người lãnh đạo kém năng lực nếu chỉ quản lý những
đơn vị không cần phải cạnh tranh về hiệu quả thường muốn có nhân viên không
được giỏi hơn mình. Khi “anh chột làm vua xứ mù” thì xã hội ngày càng mù hơn.
Xã hội của lòng trung thành không có chỗ tồn tại cho người giỏi, người có năng
lực, một xã hội ngày càng thui chột và bất lực.
112
thành đạt. Các tước phong, quyền lợi, đất đai, nô lệ, bổng lộc được phép thế tập,
truyền lại cho các đời con cháu của công thần.
Nhưng như vậy chưa đủ, xét về cá nhân người làm quan, vẫn phải có trách
nhiệm trả nghĩa cho cộng đồng, và trong nhiều trường hợp, phải trả bằng quyền
lực quản lý nhà nước mà người đó nắm giữ. Người ta thường trông đợi ở kẻ làm
quan những ưu tiên, ưu đãi sẽ giành cho làng xóm, quê hương trong việc đầu tư,
cấp phát sử dụng vốn nhà nước, giành cho họ hàng bạn bè chức tước, bổng lộc,
việc làm, cơ hội học hành, tiến thân,… Quan đã chủ động hỗ trợ, cấp dưới và các
quan đồng liêu cũng tìm cách làm mát lòng quan. Thế là cầu, đường về quê quan
khang trang, con cháu quan có việc làm ngon lành, đến liên doanh nước ngoài,
nhà máy quốc gia cũng ùn ùn kéo về đặt ở tỉnh nhà, huyện nhà.
Hộp 30. Câu chuyện Quản Trọng - Bão Thúc Nha, đặt việc
chung trên tình riêng
Thế kỷ VIII trước Công nguyên, ở Trung Quốc có hai người nổi tiếng tài giỏi
là Quản Trọng và Bão Thúc Nha kết bạn tâm giao. Thủa hàn vi, cùng đi buôn, Bão
Thúc Nha khi chia lời thường giành phần hơn cho Quản Trọng vì Quản Trọng phải
nuôi mẹ già. Khi trưởng thành, mỗi người chia nhau phò một chủ. Hai chủ đánh
nhau, Quản Trọng bắn bị thương chủ của Bão Thúc Nha là công tử Tiểu Bạch.
Nhưng sau đó, Tiểu Bạch lại chiến thắng, lên ngôi trở thành Tề Hoàn Công và
phong Bão Thúc Nha làm tướng. Bão Thúc Nha không e ngại khuyên Tề vương
nếu muốn hoàn thành nghiệp lớn thì nên dùng ông bạn thay vì dùng mình. Nghe
lời họ Bão, Tề vương đưa Quản Trọng về phong chức Tể tướng.
Ngược lại, khi được trọng dụng, Quản Trọng chiếu theo năng lực thực tế, chỉ
giao cho Bão Thúc Nha một chức quan phụ tá rất thấp. Bão Thúc Nha vẫn hoàn
toàn tâm phục bạn. Quản Trọng chủ trương đã giao ai việc gì, người đó hoàn toàn
phải chịu trách nhiệm, một người không được kiêm hai chức vụ. Khi Quản Trọng
ốm sắp chết, vua hỏi Quản Trọng muốn cử ai thay mình làm Tể tướng, trong triều
ai cũng ngỡ Quản Trọng sẽ tiến cử Thúc Nha, nhưng không ngờ ông cử Thấp
Bằng là một người có năng lực hơn bạn mình. Bão Thúc Nha một lần nữa hoàn
toàn ủng hộ quyết định của bạn. Quản Trọng đã thốt lên: “sinh ra ta là cha mẹ
nhưng hiểu ta chỉ có Bão Thúc Nha”. Nhờ có bạn bè giúp dập, vua hiền tin cậy,
trong 20-30 năm làm Tể tướng, Quản Trọng giúp nước Tề trở thành một quốc gia
quân sự hùng cường, thương nghiệp phát triển.
113
Trớ trêu thay, trong trường hợp quyền lực nhà nước và quyền lợi gia tộc trong
cơ chế cộng đồng đã bị đồng nhất như trong câu ca:
“Con vua rồi lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa”
Chẳng những cộng đồng được hưởng vinh mà còn phải gánh cả nhục khi nhân
vật chủ chốt rơi vào cảnh thất thế. Hình thức xử phạt tàn bạo kiểu “chu di tam
tộc” vốn thường được áp dụng trong lịch sử cả cổ lẫn kim ở các nước quản lý nhà
nước theo cơ chế cộng đồng. Khi Mao Trạch Đông dùng cơ chế cộng đồng để đàn
áp đồng chí, thì mồ mả thân phụ, từ đường tổ tông của Tổng bí thư đảng Đặng
Tiểu Bình bị đào bới, phá phách; hai vợ chồng Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và cả
9 người con, nhỏ nhất mới có 6 tuổi đều bị bắt bớ, hành hình, tù đày, đánh đập,
hãm hại, lăng nhục. Thậm chí họ hàng, và các cán bộ giúp việc, từ thư ký đến lái
xe cũng bị vạ lây.
Trong mặt xấu này, sự công minh mà nhân dân trông cậy ở người thay dân “ăn
cơm nhà vác tù và hàng tổng” bị chuyển thành việc chăm lo quyền lợi cục bộ của
nhóm theo kiểu “ăn cây nào rào cây ấy”. Hậu quả là người tài, người trung thực bị
gạt ra khỏi công việc tốt để giành chỗ cho “cậu ấm, cô chiêu”, các tổ chức, đoàn
thể chung bị biến thành hoạt động gia đình, bộ tộc. Nhân dân mất quyền đại diện
dân chủ, bộ máy công quyền mất năng lực và tính minh bạch. Một khi thể chế nhà
nước đánh mất uy tín đại diện thì cam kết của các ứng cử viên đưa ra không nhằm
hướng về cử tri toàn dân mà để giành được sự ủng hộ của một bộ phận cử tri trong
cộng đồng. Việc cạnh tranh chính trị chuyển thành cạnh tranh quyền lực và chia
sẻ quyền lợi giữa các cộng đồng, giữa các nhóm có quyền lợi khác biệt nhau. Hiện
tượng “trong nước có vùng, trong đảng có phái” sẽ phá hoại sức mạnh của cơ chế
nhà nước, cơ chế thị trường.
Nhận thức được nguy cơ này, ở nhiều quốc gia đã áp dụng các
chính sách để loại bỏ ảnh hưởng của cơ chế cộng đồng trong
hoạt động nhà nước. Ví dụ như không cho thủ trưởng được để
người trong gia đình được làm việc trong cơ quan, không để cán
bộ làm việc lâu dài trong một cơ quan, chính sách “di chuyển cán
bộ” đã được nhiều chính quyền áp dụng từ xưa tới nay. Nhiều
triều đại phong kiến Việt Nam như đời Lê, thời Minh Mạng,… buộc
quan lại sau khi thi cử đỗ đạt phải nhận bổ nhiệm làm việc ở nơi
khác quê nhà và có người chỉ được trở về khi hết quan hoàn dân.
Những qui định ngày nay của Việt Nam như cấm thủ trưởng cơ
114
quan sử dụng con cái họ hàng làm kế toán trưởng,… cũng nhằm
hạn chế tác động của nghịch lý này. Tuy nhiên việc xoá bỏ tận
gốc tâm lý và điều kiện buộc con người vào những ràng buộc
kiểu này đòi hỏi những nỗ lực nghiêm khắc và căn bản hơn về cải
cách thể chế.
Sùng bái cá nhân.
Xét về cơ chế thì cộng đồng phải gắn với vị thế bình đẳng, cân
bằng giữa các thành viên, nhưng xét về kết cấu tổ chức thì trong
một cộng đồng thường có thứ bậc, phân tầng rõ rệt. Điều này
càng đậm nét trong các nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
Tuổi tác, sắc tộc, học vấn, tài
sản, giới tính, tôn giáo, công
trạng ... đều có thể tạo ra sự
phân cấp trong cộng đồng. Kẻ
có lợi thế thường tìm cách
khuyếch trương giá trị xã hội
của mình trong quan hệ cộng
đồng, người phụ thuộc tìm cách
lấy lòng bề trên để tranh thủ lợi lộc. Cách cư xử hai phía này dần
dần vun đắp nên hình ảnh không có thực của nhóm lợi thế và nếu
tiếp tục phát triển thì cuối cùng sẽ tập trung đề cao cá nhân nắm
quyền lực chính trong cộng đồng. “Đất sét nặn nên bụt”, những
thông tin không có thực được tích lũy sẽ tạo nên hào quang giả
tạo cho cá nhân lãnh đạo.
Khởi đầu sự nghiệp cách mạng, Mao Trạch Đông không được Quốc tế cộng sản
tin cậy, không giành được uy tín tuyệt đối trong lãnh đạo. Bắt đầu từ khi ông tiến
hành hội nghị Tuân Nghĩa chính thức xác định vai trò lãnh đạo trong Đảng Cộng
sản Trung Quốc, từng bước một, ông đã trở thành người lãnh đạo số một của hơn
một tỷ dân Trung Quốc.
Hiểu rõ tâm lý nông dân, tài giỏi trong việc sử dụng cơ chế cộng đồng thay thế
cơ chế nhà nước, ông sử dụng các nhóm quan điểm khác nhau để khống chế tổ
115
chức của Đảng hoặc dùng các nhóm quần chúng như "Hồng vệ binh" để vô hiệu
hoá và thay thế các lực lượng nhà nước, kể cả quân đội và chính quyền. Để làm
được việc này, ông thành công một cách đặc biệt trong việc tạo cho mình một
không khí đề cao cá nhân tuyệt đối.
Để tạo khoảng cách thần bí với mọi người, ông sinh hoạt trong Tử Cấm Thành,
họp hành ở các hành cung riêng của vua chúa phong kiến, đi lại bằng đoàn tàu hoả
đặc biệt sang trọng, hiếm khi ra nước ngoài, ít đến với dân, cách li dần với vợ con,
khi cần cũng tránh gặp đồng chí. Mặt khác, ông bố trí gặp gỡ hàng chục vạn người
trên quảng trường khổng lồ với nhạc loa mở lớn, cờ đỏ như rừng, kích động đám
đông la hét khóc lóc. Tạo uy tín thể lực, ở tuổi 72, ông tổ chức cùng hàng ngàn
người bơi vượt sông Trường Giang để báo chí truyền thông tuyên truyền. Tạo vẻ
uyên bác, ông gặp gỡ khách quốc tế trong thư viện chất đầy sách. Nắm sự ủng hộ
của quân đội, ông mặc quân phục trong lễ lạt và gắn bó với tổng tư lệnh quân đội
như một nhân vật đi kèm (cặp Mao-Chu trong chiến tranh cách mạng và Mao-Lâm
trong Cách mạng Văn hoá).
Đỉnh cao của nạn sùng bái cá nhân Mao là cuộc “Đại Cách mạng Văn hoá”,
trong đó Mao được tôn xưng là lãnh tụ tuyệt đối của cả Đảng, nhà nước và quân
đội. Các tư tưởng của ông được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và điều lệ
Đảng và các chiến lược phát triển dài hạn của quốc gia.
So với mọi lãnh tụ, vua chúa, giáo chủ trong lịch sử loài người, ông chiếm nhiều
kỷ lục về số lượng tranh, ảnh, tượng, đài tưởng niệm được sản xuất và sử dụng, về
hình ảnh được trang trí trên đồ dùng, về khẩu hiệu và áp phích được trưng bày tại
các nơi công cộng, về khối lượng kim loại khổng lồ dùng làm huy hiệu chân dung,
về số bản dịch ngoại văn và số lượng phát hành các cuốn sách tuyển tập các bài
viết cá nhân, về khối lượng các tác phẩm văn học, nghệ thuật sáng tác để ca ngợi.
Trong Cách mạng Văn hoá, toàn dân buổi sáng “xin ý kiến”, buổi chiều “báo
cáo” (tụng niệm tuyển tập Mao), khi gọi điện thoại, khi đi mua hàng, viết bài, nói
chuyện đều phải trích dẫn lời Mao. Hàng ngày toàn quốc phải hát bài hát ca ngợi
(Đông phương hồng, Ra khơi nhờ tay lái vững,...), múa theo điệu chữ trung (trung
thành). Trong cuộc “cách mạng” kỳ quái kéo dài cả chục năm này, có một số thủ
tục toàn dân nhất nhất phải tuân theo như khi tung hô vạn tuế phải hô liên tiếp 3
lần, khi nhắc đến tên lãnh tụ phải xưng tụng cả 3 danh hiệu: “người thày vĩ đại,
người cầm lái vĩ đại, thống soái vĩ đại”, khi thấy ông xuất hiện trên phim, tất cả
người xem phải đứng lên vỗ tay kéo dài làm 3 đợt, mọi người phải đeo trên ngực
huy hiệu chân dung, khi đi đâu, làm gì phải cầm trên tay, nâng lên ngang ngực
quyển sổ đỏ trích lời lãnh tụ...
116
Thành công đặc biệt của hiện tượng Mao Trạch Đông là khi ông còn sống,
ngoài ông ra không có một nhân vật nào được coi là có thể thay thế ông kể cả Chủ
tịch nước, Thủ tướng, Tư lệnh quân đội,... Chấp hành theo lệnh ông, phần lớn các
nhà lãnh đạo cao cấp của nhà nước chấp nhận chịu tù đày hành hạ không dám
kháng cự. Khi ông đã chết, mặc dù phần lớn sai lầm nghiêm trọng của ông đã được
công bố, vị thế của ông vẫn được duy trì trong quan hệ nhà nước và trong quan hệ
cộng đồng.
Trong những cộng đồng thiếu dân chủ, nơi mà các hoạt động chính đáng của
cơ chế cộng đồng như thảo luận công khai công bằng, quan hệ có đi có lại, bị thay
thế bằng các công cụ “không chính thống” như bợ đỡ, đàn áp,... thì sự tôn trọng
cấp trên nhanh chóng trở thành nạn sùng bái cá nhân. Bệnh này dần dần tạo nên
sự thôi miên tập thể, từ sự kính mến về tình cảm chuyển sang qui phục tuyệt đối
về quan hệ khiến cho quan hệ con người với con người vượt qua các giới hạn hợp
lý về đạo đức, luật pháp, trở thành đức tin tôn giáo mù quáng và sự thần phục thần
quyền vô điều kiện. Khrutsốp mô tả sự sùng bái giành cho Stalin đã “biến ông
thành hình tượng của một siêu nhân, có những đặc tính siêu phàm, một kiểu chúa
trời. Con người này được coi như hiểu biết mọi việc, nhìn thấy mọi chuyện, suy
nghĩ cho mọi người, có thể làm nên mọi điều, và luôn luôn đúng đắn54.” Hiện
tượng “hiển thánh” như vậy có thể gặp ở nước Đức Quốc xã, nước Etiôpi quân
chủ, nước Triều tiên Cộng hoà Dân chủ,… những xã hội cơ chế cộng đồng chiếm
ưu thế.
Sự sùng bái cá nhân là công cụ quan trọng tạo nên uy quyền lớn hơn mức độ
giới hạn. Cơ chế nhà nước nếu cộng với cơ chế cộng đồng, có thể cho người ta
thêm những quyền lực về tinh thần cao hơn nhiều những gì luật pháp và đạo lý
cho phép. Do đó, người ta luôn muốn tận dụng nó, nhất là trong những xã hội nơi
cơ chế cộng đồng đóng vai trò quan trọng. Hãy xem cách thức cán bộ trong một
số công ty Châu á xếp hàng cúi đầu dàn chào lãnh đạo, cách thức một số doanh
nghiệp Âu Mỹ treo ảnh cấp trên,... có thể thấy sự tôn sùng cá nhân không chỉ là
đặc quyền của lãnh đạo nhà nước.
Trộn lẫn thứ bậc trong chính trị, kinh tế với xã hội là điều khó
tránh nhưng không phải luôn là điều có lợi. Vì cơ chế cộng đồng
chỉ lành mạnh khi thông tin về đối tác là chính xác nên trong
trường hợp xảy ra nạn “sùng bái cá nhân” làm sai lạc thông tin,
phá hoại điều kiện căn bản của quan hệ cộng đồng, thì công cụ
đã trở thành mục đích và thảm hoạ sẽ xảy ra cho tất cả mọi
người.
54
Khrushchev, N. S. 1962.
117
Tâm lý cộng đồng muốn các vị thần phải ở trên đỉnh Ôlempia
mây mù che phủ. Nạn sùng bái cá nhân chẳng những hủy hoại
quyền và tư thế chính đáng của mỗi con người ở cấp dưới, mà
còn đẩy cấp trên ra khỏi những thước đo, những tiêu chuẩn đánh
giá bình thường của mọi con người, buộc họ phải đóng giả những
nhân vật “nửa người nửa thánh” đầy bi kịch. Các nhà lãnh đạo
dường như được phép sai lầm, được sống truỵ lạc miễn là kín
đáo, nhưng không có quyền được yêu, được sinh hoạt bình
thường với gia đình như mọi người, không được sống với con
người thực của mình. Họ bị bao vây, theo dõi, ngăn chặn và cô
đơn trong tình trạng “tế sống” của lòng sùng kính.
Nhưng trong lịch sử, có lẽ không có một “vĩ nhân” nào nhờ tôn
sùng mà trở thành vĩ đại thực sự và lâu dài. Mọi “con trời”, “con
chúa”, “Người cầm lái vĩ đại, người thầy vĩ đại”, “Tổng thống
chế”, “Đại đế”, “Đại nguyên soái”,... đều có những kết cục đáng
buồn. Những kẻ càng có nhiều tượng đồng, bia đá, sách xưng
tụng càng hay bị nguyền rủa, chê cười. Chỉ khổ cho những kẻ mê
muội, bị lừa gạt, bị đè nén phải chịu hy sinh, chịu áp bức mà vẫn
phải ngợi ca, bào chữa cho những thần tượng giả tạo.
118
vẫn có thể “mặc cả”, có thể “thương lượng”, có thể “tranh thủ” cấp trên khi lệnh
đã ban dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng”.
Có vị bề trên xử sự theo cách “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”
thường trị người thân nghiêm hơn một chút để làm gương cho mọi người, tuy
nhiên không có ai “ném chuột làm vỡ bình quí”, tuy là nghiêm khắc nhưng không
bao giờ dùng những hình phạt loại bỏ người nhà, cho dù làm ăn có tồi tệ đến đâu.
Có vị lãnh đạo lại cai trị theo kiểu “lạt mềm buộc chặt” luôn chào hỏi, thăm nom,
xử việc nước như làm chuyện nhà, buông lỏng nhân viên, và bênh chằm chặp
những người cùng cánh.
Nhà kinh tế Hungari Kornai Janos phát hiện ra tình trạng áp dụng lệnh mềm
trong các nền kinh tế XHCN hiện thực, ông đưa ra khái niệm “mặc cả theo chiều
dọc” trong cơ quan nhà nước (khác với sự mặc cả theo chiều ngang giữa người
mua và người bán trên thị trường) là sự thương thảo giữa cơ sở cấp dưới với cấp
trên có quyền phân bổ kinh phí, tài nguyên và giao kế hoạch. Việc “mặc cả” diễn
ra theo đúng nghĩa một bên nài nỉ xin tăng thêm chỉ tiêu vật tư và giảm chỉ tiêu
đóng góp cho nhà nước, còn bên kia thì ngược lại, bắt cấp dưới nhận vốn ít nhất
và thu về nhiều nhất cho trung ương. Khả năng có thể mặc cả trong quản lý nhà
nước theo cơ chế kế hoạch diễn ra trong mọi lĩnh vực phân bổ tài nguyên và ràng
buộc trách nhiệm như trợ cấp, đánh thuế, cho vay tín dụng, định giá bán... hình
thành hiện tượng “ràng buộc ngân sách mềm”: doanh nghiệp hoặc đơn vị luôn
phải “nắn gân” xem cấp trên của nó hay nhà nước nói chung có thể lùi bước với
nó đến mức nào để dừng lại ở đúng ranh giới cho phép đó không để bị thiệt mà
cũng không “già néo đứt dây” (Janos, K. 2002).
Hộp 32. Tôn Tử giữ nghiêm quân lệnh, biến cung nữ thành binh
sỹ
Tôn Tử người nước Tề, nổi tiếng về tài dùng binh, đem binh pháp đến yết kiến
vua Ngô. Vua muốn thử tài, bèn hỏi liệu Tôn Tử có thể biến cung nữ thành binh sĩ
được không ? Tôn Tử chấp nhận thử thách, yêu cầu vua giao quân, đồng thời giao
quyền theo đúng thủ tục ra trận. Vua cho đưa 180 gái đẹp trong cung ra chia làm
hai đội và đề nghị để hai quí phi vốn được nuông chiều làm đội trưởng mỗi đội, rồi
Vua cùng các quan cùng ngồi quan sát tập trận như xem một trò giải trí lạ.
Sau khi chia quân xong, Tôn Tử luyện quân từ bước cơ bản nhất, tập quay sang
phải, sang trái, đằng trước, đằng sau. Đầu tiên ông giải thích động tác, sau đó chính
thức ra lệnh. Bọn con gái coi đây là trò vui, thi nhau cười đùa không tuân lệnh.
Theo đúng qui trình quân đội, Tôn Tử nhắc nhở lần thứ nhất bằng cách qui kết
119
trách nhiệm từ trên xuống:
- "Kỷ luật không rõ ràng, nhắc nhở hiệu lệnh không kỹ càng, đó là tội của
tướng. Và sửa sai bằng cách nhắc lại lệnh năm lần. Đây là cái bẫy ông dương lên
để từng bước qui kết trách nhiệm cho cấp dưới, không hiểu quyết tâm này, bọn con
gái tiếp tục cười đùa coi thường quân lệnh. Tôn Tử bèn sập bẫy bằng cách tuyên
bố:
- "Nay đã hiểu rõ kỷ luật mà cố tình không tuân theo là tội của đội trưởng". Và sửa
sai bằng cách cho chém đầu hai đội trưởng, đây là hình phạt theo đúng qui định của
quân đội nhưng không phải là cách vua áp dụng cho các ái phi của mình. Thấy trò
vui đi quá xa, vua bèn vội vã can thiệp:
- "Quả nhân đã biết cách dùng binh của tướng quân rồi, xin tha chết cho hai
nàng ái cơ, không có hai nàng ấy thì quả nhân ăn không ngon". Nhưng đời nào Tôn
Tẫn có thể nhường bước nhà vua được ? Đây là bài học nhớ đời ông phải dạy cho
nhà vua và quần thần về quyết tâm và sự hy sinh, khổ luyện cần thiết để xây dựng
một quân đội chính qui, đó là kỷ luật thép, đã nói là làm. Tôn Tẫn đáp:
- "Thần đã vâng mệnh lệnh làm tướng cho bệ hạ. Tướng ở trong quân thì có khi
không theo lệnh vua". Sự bất tuân này lại theo đúng qui định quân sự và tuân theo
lệnh cơ bản của vua nên ông cứ cho lôi hai bà vợ vua ra chém đầu thị uy. Hình phạt
nghiêm khắc, lý do rõ ràng, mệnh lệnh từ một chỉ huy thống nhất làm toàn thể cung
nữ và quan lại đứng xem hoảng sợ và hiểu rằng đây không còn là một trò đùa của
nhà vua mà là cuộc luyện binh thực sự của tướng quân Tôn Tẫn. Từ đó trở đi, đám
cung nữ răm rắp nghe lệnh, hành động như một đội quân có kỷ luật. Khi đã khép
mọi người vào quân kỷ, Tôn Tử báo với nhà vua đã hoàn thành việc luyện binh và
mời vua đến duyệt binh.
Giận dỗi mà không làm gì được, vua nói:
- "Tướng quân ra quán trọ mà nghỉ, quả nhân không muốn xuống xem". Thấy
vua tin mà không thích, Tôn Tử bèn khích: "Đại vương chỉ nói suông, không dùng
vào việc thực". Khi vua hiểu ra ý nghĩa lớn lao của việc áp dụng kỷ luật để có quân
đội mạnh, ông đã giao cho Tôn Tử làm tư lệnh thống lĩnh toàn quân. Bằng kỷ luật
nghiêm minh và thuật dùng binh tài giỏi của Tôn Tử, nước Ngô tuy ít quân, vẫn
phá tan được nước Sở hùng mạnh hơn ở phía Tây, tiến chiếm đất Sinh, uy hiếp
nước Tề, nước Tấn to lớn ở phía Bắc, lập nên sự nghiệp vẻ vang trong lịch sử
Trung Quốc. (Nguồn: Tư mã Thiên, Sử Ký 1999).
120
Một góc độ khác của câu chuyện lệnh mềm là hiện tượng song trùng lãnh đạo,
đan xen mệnh lệnh. Trong khi cơ chế nhà nước luôn phân rõ chế độ trách nhiệm,
khi phối hợp nhiều lực lượng càng phải phân công rõ người nắm quyền chỉ huy để
phân cấp hạ lệnh cho các đơn vị phối thuộc, thì cơ chế cộng đồng chấp nhận hình
thức kết hợp ngang, nhiều tổ chức, nhiều lực lượng có thể cùng làm một việc song
song trong khi vẫn chịu sự chỉ huy riêng của hệ thống mình. Trong hoàn cảnh đó,
đối tượng chấp hành mệnh lệnh phải tự cân nhắc, lựa chọn ưu tiên để chấp hành
các mệnh lệnh khác nhau đến từ nhiều cấp trên. Trong lịch sử, những câu chuyện
"Cung vua, phủ chúa" cùng cai trị đất nước, các vị Thái Thượng hoàng, Thái Hậu
buông rèm nhiếp chính đằng sau nhà vua thường gây nhiều hậu quả phức tạp. Mọi
lực lượng đều ra lệnh và cùng nhau thi hành mệnh lệnh thì người chấp hành phải
nhìn trước ngó sau, lựa thế mà nghe và lệnh không thể “cứng” nổi.
Trong câu chuyện trên, vì vua Ngô vốn không nghĩ đến quân luật, chỉ đơn
thuần cho rằng sự tài ba của Tôn Tử như một phép lạ về kiến thức quân sự nên đã
đưa Tôn Tử vào nguy cơ biến lệnh của ông trở thành lệnh mềm. Thứ nhất là tình
trạng song trùng ra lệnh, trong khi điều binh tập trận, bên cạnh ông còn có nhà
vua can thiệp thẳng vào lệnh chỉ huy; thứ hai, có tình trạng co giãn tuỳ tiện trong
việc diễn giải và chấp hành lệnh, các cung nữ cho rằng việc luyện binh là trò đùa
của vua; thứ ba, khung kỷ luật cứng rắn thông thường của quân đội bị vua thương
lượng co dãn theo kiểu trách phạt cung nữ. Nếu tất cả những chuyện trên diễn ra
thì công lao của Tôn Tẫn sẽ bị đổ xuống sông, sự nghiệp của vua Ngô cũng tiêu
tan theo. “Quân lệnh như sơn”, trong quân sự, hành chính, kinh tế,… đã là lệnh thì
phải cứng.
Mệnh lệnh mềm tạo ra môi trường tham nhũng và làm yếu hiệu lực của hoạt
động nhà nước. Đây là chỗ dựa của cơ chế xin cho, là đất sống cho việc móc
ngoặc của các nhóm lợi ích, đây cũng là môi trường vô hiệu hoá mọi cố gắng cải
cách hành chính, đổi mới tổ chức. Tình trạng lệnh mềm cuối cùng khiến nhà
nước, đơn vị rơi vào trạng thái bất lực với tình trạnh “trên bảo dưới không nghe”,
“quan cứ lệnh, lính cứ truyền” và kết cục là “quân hồi vô phèng” pháp luật bị toàn
dân coi thường.
Tại Singapore, sau khi giành độc lập, người ta vẫn giữ lại hình phạt bổ sung là
đánh bằng roi mây từ thời thực dân. Năm 1993, cậu bé người Mỹ Micheael Fay
sang Singapore chơi đã phá hỏng bảng hiệu giao thông và phun sơn lên 20 chiếc ô
tô. Toà Singapore xử tội phá phách công cộng rất nghiêm. Tuy mới 15 tuổi nhưng
cậu bé bị kết án 4 tháng tù và đánh 6 roi vào mông. Giới truyền thông Mỹ đồng
loạt phản đối, Tổng thống Mỹ Bill Clinton phải trực tiếp thỉnh cầu Tổng thống
Ong Teng Cheong ân xá cho cậu bé. Tuy là chuyện rất nhỏ nhưng đụng đến
nguyên tắc cứng rắn của quốc gia. Chính phủ Singapore phải họp và chỉ cho phép
121
giảm xuống đánh 4 roi ! Luật pháp nghiêm với mọi đối tượng khiến đất nước nhỏ
bé nhưng đa sắc tộc này luôn đứng đầu trong danh sách an ninh quốc tế.
122
quốc gia thật khó mà đối phó với sự rút ruột của cộng đồng nhỏ theo cơ chế cộng
đồng.
Về phương diện chính trị, các nhóm lợi ích một khi đã có cách
tác động vào việc hoạch định chính sách của nhà nước sẽ có một
sức mạnh khác thường, trong đó, cơ chế cộng đồng khống chế cơ
chế nhà nước. Đó không còn là một nhóm quyền lợi bình thường
mà đã là “nhóm lợi ích có thế lực”. Schatsneider, một nhà chính
trị học Mỹ mô tả về hoạt động này: “áp lực của các nhóm lợi ích
luôn nghiêng về quỵền lợi của giới kinh doanh lớn hoặc giới
thượng lưu… và nó luôn tồn tại dưới danh nghĩa đòi quyền lợi cho
tất cả.55”
Trong nền kinh tế tư bản ở nhiều nước Châu á, nhiều nhà nghiên cứu đề cập
đến tên gọi “chủ nghĩa tư bản móc ngoặc” để chỉ những mối quan hệ mang tính
quyền lợi nhóm giữa các tập đoàn kinh tế lớn, các ngân hàng lớn với chính phủ.
Các tập đoàn công ty quản lý kiểu gia đình trị, các hội đồng quản trị có thành viên
chính phủ và ngân hàng cùng với sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động ngân
hàng đã dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm và đổ tiền vay vào các dự án
kém hiệu quả. Kết quả không tránh khỏi là nạn tham nhũng lan tràn, các nhà đầu
tư mất lòng tin và khủng hoảng kinh tế tài chính.
Trung Quốc dùng từ “Quanxi” (quan hệ) để chỉ những quan hệ kiểu này của cơ
chế cộng đồng. ở Việt Nam quan hệ này gắn với kiểu làm việc “xin cho”, nó
không chỉ gắn với với sự gia trưởng, tập trung trong quản lý kinh tế, nó còn đi liền
với những mối quan hệ cá nhân giữa người đi xin và kẻ ban phát. Người ta cho
không phải chỉ vì cơ quan này đáng cho mà còn vì người đi xin đó đáng cho.
Người được nhận phải biết ơn người ra quyết định cho chứ không phải biết ơn cơ
quan cấp phát. Một hệ thống những quan hệ “biết điều” như vậy góp phần tạo nên
hiện tượng “quyền lợi nhóm”.
Để khắc phục mặt xấu này của cơ chế cộng đồng, một mặt phải ngăn chặn
những kênh “vận động hành lang”, cho phép chỉ một số nhóm quyền lợi trực tiếp
tác động được vào việc xây dựng chính sách, mặt khác phải mở ra những con
đường chính thức để mọi nhóm có quyền lợi khác nhau trong xã hội, kể cả những
nhóm yếu thế có thể có tiếng nói với bộ máy nhà nước về những vấn đề liên quan
đến quyền lợi của mình. Đối mặt trực diện với thực tế này, trong hệ thống chính
trị Âu Mỹ, nghị viện chính là cơ quan lập pháp được tổ chức để đại diện chính
thức và công khai cho các khu vực lợi ích riêng (theo ngành, theo lãnh thổ,…) để
cạnh tranh quản lý chính sách. Ví dụ ở Pháp, ngoài tổ chức chính thức này ra, nền
55
Học viện Chính trị Quốc gia, .2000
123
cộng hoà IV có Luật cấm việc “thành lập ở trong lòng quốc hội những nhóm để
bảo vệ các lợi ích đặc thù, địa phương hay nghề nghiệp”.
Khi “quyền lợi nhóm” xuất hiện, người ta tìm mọi cách tạo nguồn nuôi nó.
“nguồn chung” có thể là ngân sách cấp phát nhà nước, là quĩ đất của quốc gia, là
nguồn viện trợ quốc tế, là quĩ đóng góp của dân,... miễn là nguồn này do một số
người được thay mặt cộng đồng phân phối, ban phát. Có người cho, tất có người
xin, các người xin và các người cho sẵn sàng quên đi cái cộng đồng mà nhờ nó tạo
ra “túi tiền chung”, tuy nhiên người ban phát và người lại quả cho cá nhân họ thì
không bao giờ được phép quên. Đấy chính là một trong những phương thức cổ
truyền để hình thành và phát triển “quyền lợi nhóm”. Một trong những giải pháp
khả thi chống lại nhược điểm này của cơ chế cộng đồng là đừng bao giờ tạo ra
những “túi tiền chung” và đừng bao giờ trao quyền cho một số người thay mặt
cộng đồng lớn ban phát tài nguyên chung vô tội vạ.
“Cha chung không ai khóc”
Trong khi động lực của các cộng đồng luôn có xu thế hướng tâm thì ở khoảng
ranh giới giữa các cộng đồng, bên ngoài các cộng đồng, dễ hình thành các khoảng
trống của tình trạng “cha chung không ai khóc” về quyền lực, trách nhiệm và
quyền lợi.
Một trong những biểu hiện của tình trạng này là hiện tượng sở hữu không rõ
ràng về không gian, về phân cấp quản lý. Trong cộng đồng truyền thống, tồn tại
phổ biến quan niệm tài sản chung. Mỗi thành viên trong các bộ tộc, làng bản xưa
thường coi các cánh đồng, các quả núi, hồ nước là lãnh địa của cộng đồng mình.
Việc bảo vệ, quản lý và sử dụng các tài nguyên này do tổ chức của cộng đồng tiến
hành theo các qui định chung một cách chặt chẽ.
Các quốc gia phát triển lên, hình thức quản lý của thể chế cộng đồng cũ được
thay thế bằng các biện pháp nhà nước. Những lãnh địa tuy vẫn được gọi là “của
chung, của công, của tập thể” nhưng thực tế đã không còn được mỗi cá nhân trong
cộng đồng ý thức là “của mình” một cách tự nhiên như xưa nên không được ai
chăm nom bảo vệ và bị mọi người tìm cách khai thác tối đa.
ở nước Anh xưa có những cánh đồng cỏ công cộng, tại đó mọi người có quyền
tự do chăn thả gia súc. Để tận dụng nguồn lợi chung đó, ai cũng cố tìm cách tăng
gia súc của mình thả ra bãi chung, chẳng chóng thì chày, những bãi cỏ này bị tận
diệt. Đó cũng là tình cảnh của các cánh rừng giáp ranh các tỉnh bị chặt phá tàn
bạo, của các vùng biển quốc tế bị đánh bắt hải sản cạn kiệt, là nguồn nước ngầm
nối thông nhiều địa phương bị bơm hút vô tội vạ, là các con sông đi qua nhiều
quốc gia bị đắp đập, xẻ dòng bừa bãi,…
124
Ngay cả khi các nguồn tài nguyên được phân định rõ ràng về địa giới và thứ
bậc hành chính, thì trong quan hệ cộng đồng mới, tình trạng “cha chung không ai
khóc” vẫn có thể xảy ra theo chiều thời gian. Trong thể chế cộng đồng cổ truyền,
tài nguyên và các giá trị văn hoá tinh thần là tài sản được kế thừa từ thế hệ trước
cho các thế hệ sau. Khi các giá trị xã hội thay đổi, sự nối tiếp này bị đứt quãng.
Đây là tình trạng phổ biến trong hoàn cảnh của cộng đồng hiện đại, khi các giá
trị xã hội cũ có xu hướng chuyển sang ngắn hạn. Trong các doanh nghiệp, người
làm công không còn gắn bó với công ty suốt đời. Trong các gia đình, mỗi nghề
nghiệp không còn là sự nghiệp cha truyền con nối. Trong các trường học, thày
giáo không còn là sư phụ truyền dạy kiến thức cho một nhóm học trò đến khi
trưởng thành. Trong các làng xã, người ta không gắn bó vĩnh cửu với đất đai và
nghề nông…
Ví dụ, trong một doanh nghiệp nhà nước, xét về tổ chức thì là một thể chế thị
trường nhưng xem xét các mối quan hệ và cách thức điều chỉnh các mối quan hệ
con người bên trong doanh nghiệp thì mang đậm cơ chế cộng đồng. Trong các tổ
chức này, “mệnh lệnh mềm” chiếm ưu thế, nguyên tắc đồng thuận được áp dụng
cho các quyết định quan trọng, mục tiêu kinh doanh vì lợi nhuận không được đề
cao, chế độ trách nhiệm không rõ ràng, vai trò sở hữu mơ hồ. Danh nghĩa thì công
nhân, lãnh đạo đều là chủ nhân của tài sản công cộng được giao, xét về quyền hạn
thì cả ban giám đốc và hội đồng quản trị đều có quyền điều hành với tư cách chủ
nhân, xét về tổ chức thì cả bộ chủ quản và ban quản lý doanh nghiệp đều là đại
diện thay mặt cho nhà nước quản lý tài sản công.
Do cơ chế cộng đồng bao trùm hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trong
thực tế, tất cả những con người cụ thể này đều quan tâm đến quyền lợi tức thời
của mình mà không phải ai cũng chăm lo đến tương lai vững bền của doanh
nghiệp. Thế hệ công nhân, cán bộ mới trong tương lai không có sự gắn bó trực
tiếp đến quyền lợi của lớp người cũ. Với công chức, dù là công nhân hay bộ
trưởng, về hưu là xong, lương hưu đến từ ngân sách phúc lợi của nhà nước, độc
lập với lợi nhuận, mất còn của doanh nghiệp.
Có toàn quyền trong tay, lại không có lợi ích tương lai (ngoài ý thức đạo đức
chung), trách nhiệm thì chia sẻ cho nhiều người, cách ứng xử tự nhiên của con
người dễ là khai thác tối đa tài nguyên, không đầu tư lâu dài, chia hết lợi nhuận,
không mở rộng phát triển thị trường, không quan tâm đến uy tín,… đó là bi kịch
tất nhiên của hợp tác xã tập thể trước kia, doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Cách
xử sự này hoàn toàn thống nhất giữa mọi người trong hệ thống với cùng động cơ
“ăn xổi ở thì”.
Nhà quản lý trung ương có hai cái thích:
125
- Thích đầu tư cho nhiều công trình to lớn có tiếng vang vừa để lại tiếng
tăm cho hậu thế, vừa có uy tín chính trị tức thì.
- Thích đầu tư dàn trải, giao được vốn liếng, tài sản cho nhiều người “biết
điều” và tin cậy nắm giữ, vừa có “lại quả” trước mắt, vừa được ân nghĩa
lâu dài.
Người lãnh đạo đơn vị cơ sở cũng có hai cái thích:
- Thích đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị lớn dễ có tiền hoa hồng
kín đáo.
- Thích ký kết hợp qua trung gian, được “lại quả” nhanh gọn.
Cán bộ, công nhân cũng có hai cái thích:
- Thích cơ quan đầu tư ngay vào lương, vào thưởng, phát quần áo, ...
- Thích được phân chia phúc lợi như nhà đất, đi nghỉ mát, chữa bệnh…
Do sự thống nhất về quyền lợi ngắn hạn trên, vốn đầu tư của nhà nước, vốn vay
của ngân hàng, viện trợ quốc tế,… không hướng vào các mục tiêu hiệu quả và lợi
ích vững bền lâu dài như đào tạo cán bộ, đổi mới công nghệ cao, phát triển thị
trường, mà cứ vùn vụt tiêu xài theo đà tăng trưởng theo chiều rộng, giải quyết
quyền lợi ngay trước mắt.
Trong bối cảnh của cơ chế cộng đồng mới, tính mềm của sợi dây trìu tượng
như tâm lý, tư tưởng đạo đức, danh dự, uy tín,… được dùng để ràng buộc con
người tạo nên nguy cơ buông lỏng trách nhiệm, mơ hồ về quyền lợi trong quan hệ
xã hội. Để tránh khỏi tình trạng “đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”, trong nền
kinh tế liên kết cao của xã hội phát triển, phải dùng các công cụ của cơ chế nhà
nước gắn chặt con người với trách nhiệm và nghĩa vụ, và cơ chế thị trường lôi
cuốn con người bằng lợi ích và quyền lợi bổ sung cho cơ chế cộng đồng.
128
mọi người phải tự nhìn nhau, phát tín hiệu cho nhau, đoán hướng đi của nhau và
nhường nhau, tóm lại là áp dụng cung cách của cơ chế cộng đồng.
Mặc dù rẻ tiền và dễ quản lý nhưng các vòng xoay này không đáp ứng nổi nhu
cầu xử lý các nút giao thông quá đông đúc. Khi đó, người ta phải đầu tư tốn kém
hơn và chi phí nhiều hơn để hình thành hệ thống đèn tín hiệu xanh đỏ phân luồng
giao thông. Tuy nhiên, dù có đèn báo hiệu, người tham gia giao thông vẫn thường
xuyên vi phạm, thế là tại ngã tư phải có công an đứng kiểm soát và xử phạt để
đảm bảo tín hiệu được mọi người chấp hành. Cơ chế nhà nước đã được áp dụng.
Đến khi mật độ giao thông trở
nên quá dày đặc, khi đèn đỏ bật
lên, đường lại tắc nghẽn cộng vào
đó là chi phí tốn kém và những
tiêu cực phiền toái của công an
giao thông, người ta phải mất
nhiều thời gian và chi phí tốn kém
để xây dựng một hệ thống cầu
vượt xử lý giao lộ. Sự tốn kém này
đã được bù đắp, chi phí quản lý và
sự can thiệp của con người vào
hoạt động giao thông được giảm đến tối thiểu, các loại phương tiện tùy theo
hướng lưu thông, tuỳ theo tốc độ, có sẵn tuyến giành riêng, chủ động vận hành
một cách liên tục. Cơ chế hoạt động lúc này giống như sự chủ động và độc lập của
cơ chế thị trường.
Cả ba giải pháp trên được áp dụng cùng đạt đến mục tiêu điều hành giao thông
với mức độ phức tạp khác nhau với chi phí khác nhau, yêu cầu can thiệp quản lý
cũng khác nhau, cần có mức độ chủ động và tự giác của các nhân tham gia khác
nhau. Tất nhiên không thể ở đâu và lúc nào cũng có thể áp dụng các giải pháp tốn
kém để giải quyết vấn đề. Tùy theo mức độ phức tạp và giai đoạn phát triển của
xã hội mà lựa chọn giải pháp đầu tư vừa khả năng và giải pháp quản lý vừa trình
độ. Tóm lại các cơ chế sẽ được lựa chọn để áp dụng phối hợp nhau một cách hợp
lý để đạt mục tiêu với chi phí kinh tế nhất.
Sự gắn bó giữa 3 cơ chế có tính ràng buộc tự thân. Cơ chế cộng đồng ra đời
sớm nhất, tạo nên hoạt động xã hội của loài người, một hiện tượng kỳ diệu của vũ
trụ. Tuy nhiên cơ chế cộng đồng trì trệ vì thiếu men say của quyền lợi kinh tế vật
chất mà sau đó phải được cơ chế thị trường thêm vào để thổi lên động lực phát
triển cuộc cách mạng kinh doanh và công nghệ của loài người. Sự mê cuồng của
cơ chế thị trường khi đi quá đà đến lượt nó lại phải điều chỉnh bằng tay lái chủ
động của cơ chế nhà nước để nằm trong quĩ đạo điều chỉnh được. Tuy vậy, quyền
129
lực tự thân của cơ chế nhà nước đến khi trở thành tuyệt đối lại tự dẫn đến nguy cơ
bị lạm dụng và phải được ngăn chặn bằng các hoạt động giám sát, phân quyền của
cơ chế cộng đồng. Cứ như vậy, 3 góc của bánh xe cộng đồng- thị trường- nhà
nước thúc đẩy nhau lăn đi, đưa xã hội loài người vượt lên ngày càng nhanh và
đồng thời đóng vai trò phanh cản, ràng buộc, nhau trong phạm vi đủ để con người
có thề khống chế, làm chủ được tiến trình phát triển của mình.
Vậy là quá trình tiến hoá xã hội không chỉ là quá trình đấu tranh và chuyển
tiếp thay thế nhau giữa các cơ chế chủ đạo, đổi mới kết cấu phối hợp giữa các cơ
chế, mà còn là quá trình tự đổi mới nội dung trong nội tại từng cơ chế. Trong xã
hội hiện đại, vai trò của cơ chế chủ đạo ngày càng mờ đi trong sự hoạt động tích
cực và hài hoà của cả 3 cơ chế, do đó, sự tự phát triển và cùng phát triển của các
cơ chế trở thành hiện tượng chính làm thay đổi bộ mặt xã hội. Để có thể liên tục
tiến hoá, cả 3 bàn tay phải có điều kiện thuận lợi để cùng phát huy tác dụng, đều
có thể tích lũy nội lực đủ để chấp nhận liên tục đầu tư tự đổi mới, liên tục đủ sức
tự lột xác vươn lên. Sự can thiệp, lấn sân, lạm dụng tài nguyên của cơ chế này với
cơ chế khác, sẽ làm mất năng lực tự vận động hài hoà của cơ thể xã hội.
131
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước không minh bạch, không theo luật lệ.
- Cán bộ và bộ máy nhà nước kém năng lực và hoạt động không hiệu quả.
- Quyền lực của hệ thống tranh lấn nhau và chồng chéo trách nhiệm.
- Bộ máy nhà nước không đại diện cho quyền lợi của cử tri
Cơ chế cộng đồng cũng đành thất bại khi các điều kiện vận hành sau đây không
được thoả mãn:
- Các quan hệ diễn ra ngắn hạn, không gắn bó lâu dài về quyền lợi.
- Thiếu thông tin về hành vi và ưu tiên của các thành viên, phí thông tin cao.
- Không có điều kiện tiếp xúc, giao tiếp, thỏa thuận giữa các thành viên.
- Các thành viên không tìm thấy quyền lợi chung hay mối quan tâm chung.
Hộp 33. Thất bại khi dùng cơ chế thị trường để giám sát tài chính
của cơ chế cộng đồng
Sau vụ tấn công của nhóm Al Queda vào nước Mỹ ngày 11/9/2001. Chính
quyền Mỹ với cách suy nghĩ theo cơ chế thị trường đã xây dựng một cơ quan tác
chiến đặc biệt gọi là “Phòng chiến tranh” tại Bộ Tài Chính Mỹ. Bộ phận này được
trang bị bằng một hệ thống máy tính rất hiện đại và các phần mềm kiểm toán nhạy
bén làm nhiệm vụ giám sát toàn bộ hoạt động chuyển ngân của các ngân hàng lớn
trên thế giới nhằm phát hiện bất kỳ một hoạt động chuyển tiền khả nghi nào cho tổ
chức khủng bố Al Queda, từ đó lần ra dấu vết nơi cấp vốn và nơi nhận tiền để xác
định sào huyệt và chi nhánh của tổ chức khủng bố này ở mọi nơi trên thế giới, đồng
thời cắt nguồn tài chính làm tê liệt hoạt động của mạng lưới này. Trong chiến dịch
này, các nước theo đạo Hồi và nhất là Pakistăng, nơi giáp ranh và có quan hệ đặc
biệt với Afganishtang được đặc biệt chú ý.
Ngược với các tính toán của Mỹ, nhiều tổ chức của thế giới đạo Hồi lại không
dùng hệ thống chuyển ngân chính thức qua ngân hàng. Họ dùng cơ chế cộng đồng
hoạt động hàng trăm năm nay sử dụng hệ thống có tên gọi là “Hawala” kết nối
những người chuyển tiền ở các nước với nhau và chuyển những khoản tiền khổng
lồ chỉ thông qua “một cái bắt tay”. Chỉ tính riêng ở Pakistăng, hệ thống Hawala có
tới hơn 1000 người tham gia, có những giao dịch trị giá tới 10 triệu USD, và khoản
tiền chảy vào hàng năm qua hệ thống này đã lên đến 2,5-3 tỷ USD/năm, so với 1 tỷ
USD qua chuyển qua hệ thống ngân hàng chính thức. Điều ngộ nghĩnh là chính Bộ
trưởng bộ Tài chính Pakistăng khi sang Mỹ thông báo cho Bộ Tài chính Mỹ ở
Washington về hệ thống Hawala đã đến New York để dùng hệ thống này chuyển
132
tiền về nước cho gia đình.
Sau một năm hoạt động tốn kém, tờ báo Washington Post đã đăng bài cho biết
“các quan chức ở Đức, Pháp, ý và Liechtenstein- là những nước có hệ thống ngân
hàng phát triển – càng ngày càng phải thừa nhận với nhau rằng nguồn tài chính của
tổ chức Ossma Bin Laden vẫn chưa bị đụng tới. Còn rất nhiều tiền chưa tìm ra
được.”. (Nguồn: Hilton Root, 2003).
Trong thực tế, khi xã hội chưa hình thành đủ điều kiện bình
thường phải có cho một cơ chế vận hành hoặc vì lý do này hay
khác, điều kiện biến đổi trở nên bất lợi cho một cơ chế thì hoạt
động của cơ chế đó trở nên yếu kém thậm chí thất bại.
Cơ chế bất lực do vượt ra ngoài khả năng phạm vi hoạt
động.
Hiện tượng bất lực còn do các nguyên nhân chủ quan gây ra. Mỗi cơ chế chỉ có
phạm vi hoạt động trong giới hạn nhất định, vượt ra ngoài giới hạn tác dụng của
mình, cơ chế không phát huy được tác dụng nữa.
Cơ chế thị trường trở nên bất lực khi phải đối đầu với những lĩnh vực như:
- Hoạt động công ích không có lợi nhuận, rủi ro cao.
- Những trường hợp xảy ra hiệu ứng “tràn ra ngoài”58 về môi trường.
- Một số vấn đề phúc lợi xã hội.
- Những giao dịch không thông qua thị trường.
Cơ chế cộng đồng trở nên kém hiệu quả khi đối phó với những:
- Hoạt động theo qui định, tổ chức nghiêm ngặt
- Hoạt động theo tiêu chuẩn kỹ thuật đồng bộ hài hoà
- Hoạt động có tổ chức cao, có giám sát và trọng tài khách quan
- Giữa các nhóm không có quan hệ chung
Cơ chế nhà nước cũng khó khăn khi phải đối đầu với những vấn đề như:
- Hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
58
Xem Nghịch lý “người đi ké xe” phần Nghịch lý của các cơ chế.
133
- Hoạt động cần phát huy dân chủ, sáng tạo, độc lập, khách quan.
- Hoạt động cần phản ứng linh hoạt, uyển chuyển đáp ứng hoàn cảnh.
- Hoạt động theo động lực tình cảm, theo sức mạnh tinh thần.
Những trường hợp bất lực trên xảy ra với cơ chế mà không nhất thiết xảy ra
với tổ chức. Ví dụ các cơ quan nhà nước, hệ thống luật pháp của nhà nước vẫn
hoạt động rất linh hoạt uyển chuyển thích ứng với các hoàn cảnh quản lý xã hội
cần thiết nhưng các công cụ của cơ chế nhà nước như thuế, chi tiêu ngân sách,
mệnh lệnh cứng,… lại không phải phương tiện thích hợp để sử dụng trong những
trường hợp này.
Ví dụ kinh điển của lý thuyết trò chơi về tình trạng tiến thoái lưỡng nan của
người tù được Merrill Flood và Melvin Dresher giới thiệu lần đầu tiên năm 1950
như sau: Có hai tay cướp ngân hàng bị bắt và giam vào hai xà lim cách biệt nhau.
Cả hai chỉ nghĩ cách làm sao thoát khỏi tù mà không hề lo cho tình cảnh của đồng
phạm. Người điều tra viên khôn ngoan đề xuất riêng với từng tên: “anh có thể chọn
giữa nhận tội hoặc giữ im lặng. Nếu anh thú nhận mà đồng phạm của anh không
khai thì tôi sẽ tha thứ hết tội trạng cho anh và dùng lời khai ấy kết tội nặng cho tên
kia, và cũng như vậy, nếu anh không chịu thú nhận mà tên kia khai ra thì hắn sẽ
được tha trong khi anh sẽ ngồi tù mọt gông. Nếu cả hai anh cùng khai nhận, cả hai
đều bị kết tội cướp ngân hàng (tội nặng) nhưng tôi sẽ giảm nhẹ thời gian phạt cho
cả hai, nhưng nếu cả hai không khai, tôi sẽ kết án cả hai về tội sở hữu vũ khí trái
phép (tội nhẹ), thế đấy, tuỳ anh suy nghĩ, nếu muốn khai thì viết ra giấy trước khi
tôi quay lại sáng mai”.
Sự lưỡng nan của người tù ở đây là trong bất kỳ tình huống nào xảy ra thì khai
nhận vẫn tốt hơn là im lặng. Nhưng kết quả khi cả hai cùng khai lại tệ hơn là nếu cả
hai cùng không khai. Ví dụ này đã chỉ ra mâu thuẫn giữa quyền lợi của mỗi cá nhân
với quyền lợi cộng đồng. Một cộng đồng có các thành viên biết hy sinh quyền lợi
riêng sẽ có thể đạt được kết quả tốt hơn một cộng đồng mà thành viên chỉ biết đến
quyền lợi của riêng mình. Điều đáng nói ở đây là sự phối hợp giữa hai người tù sẽ
không thể diễn ra khi:
- Hai người bị giam riêng không liên lạc được với nhau
- Khi hai người có hiểu biết đủ để tin cậy về nhau
- Khi hai người không nghĩ rằng có dịp gặp lại nhau
- Khi việc hợp tác không đem lại lợi ích gì cho hai người
134
(Nguồn: Bách khoa Toàn thư Triết học của Stanford, 2003)
Cơ chế bất lực khi hoàn cảnh xã hội thay đổi quá lớn.
Trong hoàn cảnh kinh tế xã hội biến đổi quá nhanh, nảy sinh và
phát triển nhiều mâu thuẫn mới, nhiều vấn đề vướng mắc mà cơ
chế hiện có không giải quyết nổi, các cơ chế cũng trở nên bất lực.
Nếu các vướng mắc trong xã hội không được giải quyết bằng cơ
chế chiếm ưu thế và khả năng tự điều chỉnh, bổ sung giữa các cơ
chế bị giới hạn thì sớm muộn mâu thuẫn sẽ tích lũy dần, đưa xã
hội vào trạng thái khủng hoảng. Cân bằng trong mỗi cơ chế bị
phá vỡ mà các công cụ vốn có và năng lực của mỗi cơ chế không
đủ khả năng tái lập lại cân bằng mới trong một số trường hợp
như:
- Trong cơ chế nhà nước, tương quan lực lượng, cân
bằng quyền lực giữa các quốc gia, các liên minh liên kết
bị phá vỡ, thỏa thuận chính trị chung bị xâm phạm.
- Trong cơ chế thị trường, cân bằng cung cầu về hàng
hóa, tiền tệ, dịch vụ bị phá vỡ đến mức không phục hồi
nổi bằng cơ chế vận hành thông thường, thỏa thuận về
giá trị chung bị đổ vỡ.
- Trong cơ chế cộng đồng, cân bằng lợi ích, quyền lợi
của các nhóm, các cá nhân bị phá vỡ, thông tin bị gián
đoạn, niềm tin chung bị hủy hoại.
Như vậy, nếu không thích ứng, phát triển kịp thời, một cơ chế
có thể bất lực dần trước khi đi đến thất bại hoàn toàn trước
khủng hoảng xã hội. Việc thay thế, bổ sung của cơ chế mới hoặc
các công cụ của nó vì vậy có thể diễn ra từ từ trước khi diễn ra sự
cải tổ đồng bộ.
135
Cơ chế thất bại khi kết cấu lực lượng xã hội thay đổi.
Một trường hợp khác là cơ chế thất bại không phải do điều kiện
bên ngoài thay đổi mà do chính kết cấu bên trong của mỗi cơ chế
thay đổi59. Trong cơ chế thị trường và cơ chế nhà nước, có hai
khối A và B rõ rệt. Trong nội bộ khối A quan hệ chi phối là cạnh
tranh. Trong khi quan hệ nổi bật trong nội bộ nhóm B là hợp tác
lỏng lẻo. Trong cơ chế cộng đồng, quan hệ trong nội bộ nhóm và
giữa các nhóm có những điểm chung là tương tác (hợp tác nhẹ,
cạnh tranh nhẹ). Nếu các kết cấu trên thay đổi thì bản chất của
cơ chế cũng thay đổi. Lúc đó, cơ chế đang phát huy tác dụng trở
nên lỗi thời và bất lực.
Tình hình này diễn ra ác liệt trong các thời kỳ kết cấu xã hội,
tương quan lực lượng trong xã hội thay đổi. Ví dụ, khi trào lưu độc
lập dân tộc thắng thế sau chiến tranh thế giới thứ II. Một loạt
chính quyền thực dân ở các nước á, Phi phải rút lui trả quyền độc
lập cho đại diện của nhân dân ở các nước thuộc địa. Câu hỏi đặt
ra là: ai là đại diện chính đáng của lực lượng đấu tranh giành độc
lập dân tộc? Trong các nước thuộc địa thường có nhiều nhóm
chính trị, cách mạng, cùng liên kết với nhau giành độc lập. Họ
được coi như thuộc nhóm B, nhóm bị thống trị. Nay chính quyền
thực dân (nhóm A) rút đi, trong nhóm B sẽ xảy ra sự phân rã và
cạnh tranh để tự tách ra nhóm A mới. Cộng với âm mưu "chia để
trị" của chính quyền thực dân trước khi rút lui làm phát sinh mầm
mống của họa "nồi da nấu thịt" giữa những người anh em. Những
cuộc nội chiến giữa ấn độ với Pakistăng, giữa các quốc gia Châu
Phi, trong nội bộ Indonesia, nội bộ Trung Quốc diễn ra dai dẳng
và đau đớn. Trong hoàn cảnh đó, khi mà các nhu cầu và yêu sách
về lãnh thổ và quyền lực đột nhiên xuất hiện giữa các nhóm đồng
minh có quan hệ cộng đồng thì cơ chế cộng đồng bị buộc phải
chuyển sang cơ chế nhà nước một cách thiếu chuẩn bị.
Hiện tượng này cũng xảy ra khi kết cấu cơ chế cộng đồng đột
nhiên bị chuyển thành kết cấu của cơ chế thị trường. Ví dụ, trong
một làng đang sống yên ổn ngàn đời. Những người ở lại làng làm
nghề nông, cử người thân ra thành phố làm các nghề phi nông
nghiệp, tuy khác nhau về môi trường làm ăn nhưng cả hai nhóm
vẫn coi nhau như chung một cộng đồng. Họ chuyển giao vốn
liếng, công nghệ, lao động, giúp nhau về mua bán, việc làm,...
59
Xem phần "bản chất hoạt động của ba cơ chế."
136
Một khi làng được qui hoạch để trở thành đất xây dựng đô thị thì
cộng đồng này tách thành hai nhóm A và B của cơ chế thị trường.
Một số người ở thành phố về mua đất, hoặc môi giới mua bán
đất. Những người ở nông thôn trở thành người bán hoặc đại lý
bán đất đai. Ngay trong thôn làng, những người cùng quan hệ họ
hàng, ngay trong một gia đình xưa nay vốn thương yêu giúp đỡ
nhau nay trở nên cạnh tranh, dấu diếm, lừa dối nhau vì lợi nhuận.
Trong cuộc sống cũng không ít lần quan hệ của cơ chế thị
trường hoặc nhà nước lại chuyển đổi kết cấu thành cơ chế cộng
đồng. Trong tất cả những trường hợp lột xác như vậy, tất nhiên,
cơ chế cũ đều không thể tiếp tục vận hành theo kiểu cũ được.
137
mọi tổ chức kinh tế trong xã hội. Ông Thủ tướng sau khi giao kế
hoạch cho các Bộ ngành và địa phương phải áp dụng mọi biện
pháp để giám sát kết quả thực hiện kế hoạch. Đây cũng là việc
mọi Bộ trưởng phải thi hành với các doanh nghiệp và giám đốc
các doanh nghiệp nhà nước phải làm với các các bộ phận trong
cơ quan. Tuy nhiên, từ cấp trên đến cấp dưới đều rất khó khăn
khi muốn thực sự đánh giá hiệu quả công việc và theo sát tình
hình. Nếu mỗi công nhân không chủ động cố gắng trong hoạt
động sản xuất thì giám đốc phải tổ chức một bộ máy giám sát
theo dõi quản lý khổng lồ với chi phí có khi vượt quá lợi ích do
giám sát tốt đem lại. Đó là cũng là tình trạng nan giải của ông
Thủ tướng hay ông Bộ trưởng. Hệ thống HTX nông nghiệp trước
khi chuyển sang khoán sản phẩm cũng đành thả nổi việc kiểm
soát giờ giấc và chất lượng lao động của xã viên, dẫn đến tình
cảnh “rong công phóng điểm”, lạm phát về chấm công làm sụp
đổ cả hệ thống tổ chức này.
Cơ chế thị trường cũng trở nên vô hiệu khi quá tải. Nhà kinh tế
từng đoạt giải Nobel Joseph Stiglitz đã nhận xét: “Rõ ràng là trớ
trêu khi chúng ta vừa khen ngợi nền kinh tế thị trường vì việc phi
tập trung hoá thông tin, đồng thời lại vừa phàn nàn về việc thiếu
những dữ liệu tổng hợp cần cho việc đánh giá rủi ro hệ thống. 60”
Mọi cố gắng để mô phỏng hoạt động dường như “tự phát” của cơ
chế thị trường thường là vô vọng. Từ các thị trường chứng khóan
chịu nhiều biến động nhạy cảm đến những thị trường hàng hoá bị
nhiều chính sách can thiệp đều khó cho phép các nhà kinh tế tin
một cách tuyệt đối vào một mô hình toán kinh tế có khả năng dự
báo xu thế thay đổi hoặc biến động của thị trường. Và thế là kinh
doanh trong phần lớn trường hợp là một trò đánh bạc với biến
động tự nhiên, chính trị, kinh tế,…dẫn đến các cuộc khủng hoảng
tài chính, khủng hoảng kinh tế gây thiệt hại cho nhiều nước.
Một biểu hiện quá tải khác của cơ chế thị trường là tình trạng
bất lực trước các vi phạm hợp đồng kinh tế. Hoạt động thị trường
dựa trên nền tảng trách nhiệm cá nhân giữa những con người có
thể không hề quen biết và bản thân nó đôi khi không khắc phục
được thái độ cơ hội của các thành viên tham gia giao dịch. Ví dụ
khi một doanh nghiệp ký kết họp đồng mua bán tiêu thụ nông
60
Dẫn theo North D. C. 1990, NXB Khoa học xã hội 1998
138
sản cho nông dân. Nếu đó là hàng hoá bắt buộc phải qua chế
biến lại khó bảo quản như mía để làm đường, sữa để đóng hộp,
dầu thực vật để ép dầu ăn,… và giá thị trường thấp thì khả năng
nông dân thực hiện hợp đồng với nhà máy là gần như chắc chắn.
Nhưng với những mặt hàng nông dân bán đâu cũng được, dễ
dàng tồn trữ, tiêu thụ như lúa gạo, ngũ cốc,… và giá thị trường lại
cao, có nhiều nhà buôn sẵn sàng mua với giá cao hơn thì cầm
chắc là nhiều nông dân sẽ tìm cách phá hợp đồng với doanh
nghiệp. Tình trạng bắt chẹt hoặc chạy làng của doanh nghiệp với
nông dân cũng thường xảy ra. Khi hiện tượng vi phạm xảy ra trên
qui mô rộng thì thị trường khó có thể tự xử lý nổi nếu không kết
hợp với các cơ chế khác.
Trong cơ chế cộng đồng, H. Root đã mô tả “sự tăng trưởng kinh
tế trong hệ thống trách nhiệm cộng đồng dẫn đến việc chính bản
thân cộng đồng trở nên yếu kém bởi nó làm tăng những cơ hội
cho những người kinh doanh thành công có thể gia nhập một
cộng đồng khác và bởi vì những thành viên mới rất khó đồng
hoá”61 (với cộng đồng). Khi những cộng đồng lỗi thời ôm đồm
những trách nhiệm nặng nề vượt quá năng lực vốn có, thì sự có
giới hạn của cộng đồng khiến những người có năng lực vượt ra
khỏi mức độ trung bình của cộng đồng dễ vượt ra khỏi ranh giới
ràng buộc của cộng đồng, tách ra khỏi cộng đồng cũ, phá vỡ trật
tự và kết cấu của nó, để tham gia cộng đồng mới có đủ năng lực
thực hiện nhiệm vụ mới.
Một ví dụ điển hình là tình trạng chảy máu xám của những
nước nghèo, vùng nghèo. Tại các cộng đồng lao động thủ công
vả thu nhập thấp ở đây, những phần tử ưu tú được hưởng thụ
trình độ học vấn cao, có ngoại ngữ và kỹ năng kỹ thuật tương
đương với trình độ quốc tế đương nhiên không muốn sống với
mức lương thấp kém và chịu đựng sự thiếu thốn thông tin và xói
mòn năng lực trong cộng đồng cũ, ngược lại, những người trong
cộng đồng cũng không thể chấp nhận lối làm việc, lối sống “Tây
hoá” hay mức lương quá cao giành cho những kẻ trẻ tuổi may
mắn này. Thế là sức đẩy bên trong và sức hút bên ngoài sẽ đưa
nhóm người có năng lực này ra khỏi cộng đồng đang thiếu trí tuệ
và tài năng của họ để đi làm ở các thị trường lao động ở đô thị,
liên doanh nước ngoài hoặc xuất khẩu lao động chất lượng cao ở
61
Hilton Root Sách chưa xuất bản.
http://usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhirctavn.html
139
các nước phát triển, để lại cho cộng đồng gánh nặng nợ nần vì
đầu tư cho họ học hành, để lại toàn lao động thủ công và người
già yếu.
Cách đây hơn mười năm, Nguyễn Khắc Viện đã cảnh báo về
nguy cơ tách khỏi cộng đồng trước sức hút của mức đãi ngộ cao ở
thị trường lao động cao cấp bên ngoài của lớp thanh niên học vấn
cao. Ông hình dung họ là những chuyên gia sử dụng tiếng Anh,
tay xách vali Samsonai và máy tính xách tay, đi lại bằng máy
bay... May mắn thì họ sẽ ở đô thị để giải quyết những vấn đề
phát triển của nông thôn, làm kinh tế cho các doanh nghiệp nước
ngoài trên đất Việt Nam, nghiên cứu các vấn đề phát triển của
Việt Nam ở nước ngoài, nếu không họ sẽ bỏ lại vấn đề của Việt
Nam để đi làm bất kỳ việc gì cho thế giới, miễn là có thu nhập
tốt. Trong những nghiên cứu gần đây, David Dapice cũng đưa ra
cảnh báo tương tự về nạn chảy chất xám của lớp nhân tài trẻ Việt
Nam trước sức đẩy của mức thuế thu nhập trong nước đánh
mạnh vào lớp người có lương cao, cũng chính là lớp người có
trình độ quản lý hoặc chuyên môn đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Năm trường hợp trên (khi không có điều kiện vận hành, khi vượt
ra ngoài phạm vi ảnh hưởng, khi hoàn cảnh kinh tế xã hội thay đổi
quá lớn, khi kết cấu bên trong của cơ chế cũ đột nhiên biến đổi,
khi hoạt động quá tải...) và có thể một số trường hợp khác nữa có
thể làm cơ chế hiện hành trở nên suy yếu, thất bại và bất lực. Khi
rơi vào trạng thái này, các cơ chế vốn có không thể làm tròn được
bổn phận điều chỉnh quan hệ xã hội của mình, con người phải tìm
cách thay thế hoặc dịch chuyển giữa các cơ chế để giao nhiệm vụ
chính cho cơ chế mới nhằm tái lập khả năng quản lý xã hội bằng
một trạng thái cân bằng thị trường, quyền lực và quyền lợi mới.
140
Dùng các hình thức xấu để duy trì cơ chế cũ.
Bên cạnh các công cụ “chính thống”, mỗi cơ chế trong nhiều trường hợp lại sử
dụng những công cụ “không chính thống” là hệ thống các hoạt động và công cụ
tuy cũng đại diện cho mỗi cơ chế nhưng mang tính phản diện, méo mó. Ví dụ, cơ
chế nhà nước giữa hai nhóm chính (thống trị A và bị trị B) có các công cụ xấu có
thể được áp dụng như mua chuộc phiếu bầu, thu thập thông tin trái phép, bôi nhọ,
vu khống, đàn áp, vi phạm quyền dân chủ, khủng bố đối tượng chính trị,...; trong
cơ chế thị trường, giữa hai nhóm cung A và cầu B có thể xuất hiện các công cụ
“bẩn” như gian lận thương mại, đo lường
sai, bán sai giá, chất lượng thấp, thông
tin hàng hoá sai lạc, không thực hiện
cam kết giao hàng, thanh toán, bảo hành,
… phá hoại điều kiện sản xuất, kinh
doanh của đối thủ, gây tổn hại cho môi
trường và xã hội để trục lợi,...; trong cơ
chế cộng đồng cũng có các biện pháp
cạnh tranh không công bằng như che
dấu, làm giả thông tin cá nhân, lừa đảo,
đe dọa, mua chuộc trong đàm phán, bội
tín thỏa thuận,...
Trong quan hệ cạnh tranh giữa các thành viên trong khối A của cơ chế thị
trường, cơ chế nhà nước và đôi khi giữa các thành viên trong cơ chế cộng đồng
(khi cạnh tranh "nhẹ nhàng" trở nên "mạnh mẽ"), có 2 kiểu: tự nâng cao mình và
hạ thấp đối thủ, các công cụ không chính thống thường thuộc về loại sau. Chúng
hay được dùng khi cơ chế vận hành yếu ớt, suy yếu hay thất bại do các điều kiện
hoạt động cơ bản của mỗi cơ chế không được đảm bảo, hoặc thách thức của cuộc
sống đặt ra cho cơ chế điều hành vượt quá khả năng đáp ứng của nó. Khi đó, hình
thức hoạt động chính thống mang tính “vương đạo” bị triệt tiêu, không có điều
kiện phát huy tác dụng và bị thay thế bằng các hình thức mang tính “bá đạo”, tuy
cũng là hình thức công cụ đặc thù của từng cơ chế nhưng không vững bền và làm
phát sinh những tác dụng xấu.
Ví dụ, do những sai sót về mô hình tổ chức, lựa chọn con người
nên cơ chế nhà nước thiếu những điều kiện hoạt động cần thiết
khiến chính sách và hoạt động không minh bạch, cán bộ và bộ
máy không có đủ năng lực làm việc, không thực sự đại diện
quyền lợi của cử tri,… Lúc này hoạt động của nhà nước sẽ thất
bại, không có đủ năng lực và điều kiện dùng các biện pháp sở
trường như dùng mệnh lệnh hành chính, qui tắc công vụ, ngân
sách cấp phát,… để điều hành xã hội mà phải dùng đến các thủ
141
đoạn chính trị như đấu đá, bè phái, vận động hậu trường, đàn
áp...
Tương tự như vậy, cơ chế thị trường khi thiếu điều kiện hoạt
động cơ bản như thị trường không thông thoáng, cạnh tranh mất
công bằng, hàng hoá không đồng nhất,... sẽ mất đi khả năng vận
hành lành mạnh vốn có mà phải thoái hoá chuyển sang dùng
những thủ đoạn gian lận
như cân điêu, nói thách,
ăn trộm thương hiệu,... để
vận hành và tồn tại.
Cơ chế cộng đồng cũng
có tình trạng tương tự, khi
những điều kiện hoạt
động chính thức của thể
chế như việc thiết lập các
quan hệ dài hạn, nhu cầu
được thông tin đầy đủ về
đối tác,... bị vi phạm, các
thể chế phải vận hành
bằng những thủ đoạn xấu như : hại người trước khi bị hại, co cụm
tránh hợp tác, che dấu thông tin, hối lộ, mua chuộc, khủng bố...
Chính những biện pháp mang tính “bá đạo” này làm cho các cơ
chế điều hành không đáp ứng có hiệu quả nhiệm vụ của xã hội
giao và dần trở nên bất lực.
Ngày 25 tháng 2 năm 2002, Hà Nội tiến hành thử nghiệm "dịch vụ hành chính
công" tại ba phòng công chứng, Trung tâm Dịch vụ hành chính quận Tây Hồ,
Trung tâm Thông tin lưu trữ và Dịch vụ nhà đất và Trung tâm Dịch vụ hành chính
công huyện Từ Liêm.
Các đơn vị này được giao hai chức năng: tư vấn cho công dân về thủ tục hành
chính và làm dịch vụ cho công dân trong việc chuẩn bị, hoàn thiện giải quyết công
việc liên quan đến thủ tục hành chính như công chứng giấy tờ (tại nhà, tại cơ quan,
lấy nhanh), cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cửa, quyền sử dụng đất,... Các
dịch vụ này được công chức thực hiện bằng địa điểm và phương tiện công với giá
khá cao nhưng với thái độ phục vụ nhiệt tình hơn hẳn khi thừa hành nhiệm vụ công
142
trước đây. Trong thử nghiệm này, hoạt động quản lý nhà nước, thực thi công quyền
đã lẫn lộn với dịch vụ công, tạo tiền lệ cho việc trả giá, mua bán quyền lực và dịch
vụ của nhà nước. Mặt khác, việc thu tiền theo cơ chế riêng và giá cả khác biệt đã vi
phạm nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và công quyền, vốn
xuất phát từ của bản chất xã hội của nhà nước.
Tuy vậy, nhu cầu của xã hội và kết quả phục vụ tốt hơn khi tiến hành dịch vụ
này đã chứng tỏ sự nhiêu khê, bất hợp lý trong qui trình thực hiện giao dịch hành
chính, dịch vụ công ở nước ta, cho thấy chế độ lương bổng thấp kém và cơ chế đãi
ngộ bất hợp lý đối với công chức nhà nước. Trong tình trạng bất lực này, cơ chế
nhà nước đã "mượn tạm" công cụ của cơ chế thị trường một cách khiên cưỡng. Cho
đến cuối năm 2003, kết quả thử nghiệm cho thấy, dịch vụ “hành chính công” đã
thất bại, và phải tiến hành cải cách hành chính triệt để hơn. (Nguồn: Thọ, N. P.
2003)
Việc sử dụng và lan nhanh của các biện pháp "bá đạo" này
không đơn thuần chỉ do những nguyên tắc đạo đức xã hội điều
chỉnh. Chúng cũng tuân theo qui luật khách quan chung (ví dụ
"nghịch lý của người tù"62: thà hại người chứ không để người hại
mình, hay “hiệu ứng Suvantơ”63: cùng đua nhau phá vỡ cân bằng
để cùng chịu thiệt) khiến cho cả xã hội cùng phải nhanh chóng
theo nhau chuyển sang dùng các công cụ xấu để duy trì thế cân
bằng mới. Kết quả là quan hệ cạnh tranh chuyển thành đối địch,
rủi ro tăng cho mọi đối tượng xã hội, chi phí giao dịch tăng, hiệu
quả và khả năng vững bền giảm.
Mượn biện pháp mới để duy trì cơ chế cũ.
Mỗi giai đoạn tiến hoá, ứng với hoàn cảnh xã hội đương thời, thường có một
cơ chế chiếm ưu thế chủ đạo. Nếu còn áp dụng các cơ chế khác trong một số hoạt
động cụ thể thì năng lực điều chỉnh của các cơ chế khác sẽ thường xuyên bị thách
thức, chúng chỉ tiếp tục tồn tại nếu chứng tỏ được năng lực thực sự của mình,
ngược lại, nếu bất lực hoặc kém hiệu lực thì rất dễ bị cơ chế chủ đạo lấn át. Mặt
khác, cơ chế chủ đạo không nhất thiết chỉ sử dụng những công cụ đại diện của
mình. Công cụ của các cơ chế khác nhau vẫn thường được vay mượn, sử dụng
phối hợp nhau.
62
Xem thế tiến thoái lưỡng nan của người tù, phần Sự thất bại của các cơ chế
63
Xem Hiệu ứng Suvantơ, phần Nghịch lý của các cơ chế
143
Khi một cơ chế rơi vào tình trạng bất lực, các hình thức hoạt động chính thống
trở nên kém hiệu quả và các công cụ không chính thống phát huy tác dụng xấu thì
ngay lập tức, xuất hiện sự tự điều chỉnh bằng cách “vay mượn” các công cụ của
các cơ chế khác để thay thế, hỗ trợ cho “cơ chế chủ đạo”. Như vậy là tuy cơ chế
chủ đạo còn tồn tại, chiếm vị trí điều chỉnh hoạt động xã hội một cách chính thức
nhưng ngay bên trong lòng nó, hình thức hoạt động đại diện của cơ chế cũ đã bị
thay thế bằng hình thức vận động khác, đại diện cho cơ chế khác. Mức độ xen kẽ,
lấn át này tùy thuộc vào năng lực thực tế và hiệu quả hoạt động của công cụ chính
thống của mỗi cơ chế. Đáng tiếc công cụ hoạt động của cơ chế này khi vận hành
trong lĩnh vực điều chỉnh của cơ chế khác thường có dạng thức méo mó, ốm yếu
đôi khi tiêu cực.
Ví dụ: Khi bộ máy nhà nước yếu kém, ở một số khâu, công cụ
của cơ chế khác được vay mượn thay cho công cụ chính thức của
cơ chế nhà nước. Trước đây, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch, theo
cơ chế nhà nước, xã viên làm việc theo chỉ đạo của hợp tác xã và
trả được trả công theo đóng góp. ở nhiều nơi nông dân thường
xuyên đói trong khi ruộng hợp tác không ai chăm lo. Mượn tạm
giải pháp của cơ chế cộng đồng theo kiểu nhà nước quay mặt đi
để mọi người nhìn nhau mà hành động, người ta giành lại cho
mỗi hộ 5% đất, trên danh nghĩa là để các hộ tự túc thức ăn chăn
nuôi. Trong thực tế mảnh đất nhỏ này đảm nhiệm tới 50-70% nhu
cầu lương thực cho gia đình nông dân. Khi tình cảnh trở nên khó
khăn hơn, ở một số làng xã chuyển sang khoán đất hợp tác xã
cho hộ xã viên theo cung cách sau khi nộp phần nghĩa vụ bắt
buộc, phần còn lại do dân tự định đoạt, tất nhiên là “làm chui” để
giải quyết nhu cầu cấp bách của cuộc sống khi mà cơ chế nhà
nước bằng cả biện pháp chính thống lẫn phi chính thống đã
không đáp ứng được.
Trong hoạt động nhà nước của nhiều quốc gia đang phát triển
ngày nay, các công cụ của cơ chế thị trường và cộng đồng cũng
thường được vay mượn để bù đắp cho yếu kém của công cụ nhà
nước. Do lương thấp, cách thức đánh giá và thưởng phạt không
đúng đắn, công chức không muốn áp dụng cơ chế nhà nước mà
vay mượn công cụ của cơ chế thị trường trong công vụ. Dân
muốn được việc phải lót tay. Có khi sự vay mượn này được hợp
thức hoá như trường hợp một số thành phố ở Việt nam đã thử
nghiệm “dịch vụ công”. Việc cung cấp số liệu chuyển thành mua
bán thông tin giữa các cơ quan nhà nước, hoặc hoạt động hành
chính nhà nước chuyển sang áp dụng các biện pháp vốn thuộc về
144
cơ chế cộng đồng như hình thành các đường dây, các hệ thống
thân quen, phối hợp xin, trình dự án, hình thành các ekip công
tác trong các cơ quan để điều hành công việc chung theo hệ
thống riêng, cùng chia sẻ quyền lợi. Trong các trường hợp này,
tuy các công việc về bề ngoài vẫn do cơ chế nhà nước đảm
nhiệm (không phải cơ chế thị trường hoặc cơ chế cộng đồng xử
lý) nhưng hoạt động trong lòng bộ máy nhà nước về thực chất lại
không dùng công cụ và động lực vốn có của nhà nước (lương
bổng, ngân sách từ thuế, mệnh lệnh và qui tắc hành chính) mà
lại dùng các hình thức của cơ chế thị trường và cộng đồng (mặc
cả, mua bán, trả công, thân quen, thoả thuận,...) để vận hành.
Sự thay thế này khiến cơ chế đương quyền tuy duy trì được sự
tồn tại hình thức của mình nhưng hoạt động một cách kém hiệu
quả và thoái hoá dần, từ để mất công cụ chuyển sang đánh mất
mục tiêu của mình. Hình ảnh ví von mỉa mai của thời bao cấp khi
công chức phải tự xoay xở kiếm sống bằng các hoạt động tăng
gia sản xuất là chuyện gọi con lợn là "thủ trưởng" ở nhà. Thực
chất khi chăn nuôi lợn đem lại nguồn thu nhập thay cho lương
nhà nước thì đúng là công chức lo chăm sóc lợn hơn là thi hành
lệnh cấp trên và tất nhiên không thể thực hiện tốt được công vụ.
Tình trạng sử dụng lẫn công cụ còn làm lẫn lộn tín hiệu, lệch lạc thông tin
trong quá trình điều chỉnh quan hệ xã hội. Ví dụ, khi người dân đến cơ quan nhà
nước giao dịch, nếu theo đúng cơ chế nhà nước, qui trình giao dịch phải rất cụ thể,
được thông báo công khai cho mọi người biết và công chức mong hoàn thành giao
dịch cho dân theo đúng bài bản, trong thời gian ngắn nhất. Khi mượn công cụ của
cơ chế thị trường, thông tin trở thành lợi thế kinh doanh, thời gian hoàn thành
công việc trở thành biện pháp mặc cả, mức độ phức tạp của qui trình trở thành giá
trị hàng hoá. Quan hệ cung cấp dịch vụ công giữa nhà nước và nhân dân trở thành
hoạt động dịch vụ giữa cá nhân công chức và người dân cần giải quyết. Hành
chính chuyển thành “hành là chính”. Người dân bị hành vì hiểu sai tín hiệu. Công
việc không khó, khó vì không đưa đủ tiền, đưa đúng người. Mọi giao dịch trong
một xã hội như vậy luôn có tín hiệu thật và tín hiệu giả lẫn lộn nhau, làm tăng chi
phí hoạt động, chậm thời gian thi hành. Một xã hội không thể tiếp tục tồn tại lâu
dài trong tình trạng vô lý như vậy và sẽ dẫn đến hai trường hợp:
- Một là xuất hiện sự “tự ổn định, tự thích nghi” chuyển từ
đánh tráo phương tiện sang điều chỉnh lại tương quan
giữa ba cơ chế cho phù hợp với tiến trình phát triển xã
hội, cơ chế mới dần phát triển và thay thế cơ chế cũ.
145
- Hai là, trong lòng cơ chế sẽ xuất hiện “phản ứng tự vệ”
nhằm chống lại những đổi mới cải lương để tái lập tính
“nhất thể” của cơ chế. Sự tự vệ này với mục tiêu bảo vệ
cơ chế cũ sẽ làm tích lũy mâu thuẫn dẫn đến những cải
cách triệt để công nhận lấy cơ chế mới thay cơ chế cũ.
146
doanh đã tự lo chủ động cân đối cả đầu vào lẫn đầu ra của sản xuất lương thực,
chẳng những an ninh lương thực đảm bảo mà lúa gạo còn dư thừa để xuất khẩu.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, lại có những sai lầm ngược lại, ở nhiều
quốc gia thuộc Liên Xô trước đây, các dịch vụ công ích cho toàn dân một sớm
một chiều bị phó mặc cho cơ chế thị trường tự giải quyết. Trong hoàn cảnh không
có sự chuẩn bị cần thiết, hàng loạt dịch vụ quan trọng không có lợi nhuận như
giáo dục phổ thông, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, bảo vệ an ninh công cộng,…
bị nhà nước buông ra, trong khi các doanh nghiệp tư nhân không muốn hoặc
chẳng thể nào đảm đương được, những khoảng trống không thể thay thế xuất hiện
đã hạ điều kiện sống của con người ở các nước này xuống một mức thấp đáng sợ,
khiến xã hội chẳng những không phát triển vững bền mà tăng trưởng kinh tế trì trệ
và lâm vào khủng hoảng xã hội trầm trọng.
Tuy có sự thay thế về mức độ ảnh hưởng nhưng không thể có
tình trạng cơ chế mới hoàn toàn thay thế cơ chế cũ. Có cơ chế sẽ
chiếm ưu thế nhưng các cơ chế khác vẫn tiếp tục tồn tại và phát
triển các công cụ của chúng song song với nhau. Nói cách khác,
trong một xã hội lành mạnh, tỷ lệ phạm vi hoạt động của các cơ
chế có thể thường xuyên thay đổi, chúng có thể thay thế nhau,
lấn vào và lùi ra khỏi những lãnh vực xã hội khác nhau trong
những điều kiện, những thời điểm khác nhau nhưng luôn tồn tại
và phối hợp nhau phát huy tác dụng.
Một cách so sánh thô thiển của quan hệ thống nhất này là các cơ chế điều hành
hoạt động trong cơ thể con người. Là sản phẩm đặc biệt của tạo hóa, con người là
tổng hợp kỳ diệu những thành công suốt quá trình tiến hoá hàng chục triệu năm
của sinh giới. Trong cơ thể con người có hàng loạt bộ phận hoạt động bằng loại cơ
chế điều khiển tập trung và chủ động (tương tự như cơ chế nhà nước) như các vận
động chân tay, suy nghĩ tư duy,…; cũng có nhiều hệ thống hoạt động theo các
phản xạ, điều tiết theo loại cơ chế đảm bảo cân bằng tự động (như cách hoạt động
của cơ chế thị trường) như hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu hoá, hệ nội tiết,…; lại
có những bộ phận hoạt động tự giác nhờ tương tác trực tiếp giữa các bào quan
hoặc tế bào (giống cơ chế cộng đồng) như hoạt động của các hạch bạch huyết
trong máu, sự thay thế, phân chia của các tế bào,… Tuy khác biệt nhau về cơ chế
hoạt động nhưng các bộ phận trong cơ thể người hoạt động một cách thống nhất,
mỗi loại cơ chế phát huy thế mạnh của mình phù hợp với trách nhiệm điều hành
hoạt động của các bộ
phận chuyên trách.
Khi cần thiết, và đối
với một số hoạt động cần
thiết có lúc phải can
147
thiệp, thì các cơ chế có khả năng can thiệp và điều khiển nhau, ví dụ, hoạt động hô
hấp bình thường diễn ra một cách tự động theo cơ chế cân bằng dưỡng khí, nhưng
nếu cần, cơ chế điều khiển chủ động của thần kinh trung ương vẫn có thể tăng
giảm nhịp thở, thậm chí tạm ngừng thở để lặn, để tránh khói bụi. Với những loại
hoạt động hoàn toàn không cần phải can thiệp thì cơ quan thần kinh trung ương dù
muốn cũng không thể trực tiếp can thiệp được như điều khiển nhịp tim, nhịp co
bóp của dạ dày… Điều này cũng giống như một số cơ chế thị trường khi cần, có
thể được can thiệp, điều chỉnh bằng các chính sách thương mại của nhà nước
nhưng cũng có hàng loạt hoạt động sản xuất kinh doanh được ăn lỗ chịu, nhà nước
không cần và cũng không được can thiệp trong mọi tình huống.
Mặt khác, tất cả các hoạt động theo cơ chế tự động, tự điều chỉnh vẫn thống
nhất phục tùng sự điều khiển chung của thần kinh trung ương khi cần thiết một
cách đồng bộ và tự giác, ví dụ khi cơ thể cần tham gia các vận động nhanh mạnh,
thần kinh ở trạng thái tập trung hưng phần, kích thích thì đồng thời nhịp thở, nhịp
mạch, huyết áp, nồng độ đường, chất kích thích trong máu… đều tăng. Hiện
tượng này chẳng khác một quốc gia khi tham chiến hoặc tập trung trong một chiến
dịch phát triển, khi các chủ trương chính sách quan trọng được ban hành thì các
hoạt động của thị trường, của toàn hệ thống xã hội cũng tăng tốc làm toàn bộ nền
kinh tế sôi động lên. Do đó, có nhiều hiện tượng xã hội thật khó mà tách bạch
được tác động nào là do nguyên nhân kinh tế, chính trị hay xã hội gây ra.
Trong một xã hội hiện đại, 3 cơ chế sẽ phối hợp một cách hài hoà như các cơ
chế chức năng khác nhau trong cơ thể con người, trở thành ba động lực quan trọng
chính giúp loài người đạt tới ba mục tiêu chính: ổn định, phát triển và công bằng.
Một xã hội hoàn chỉnh trong ước mơ của con người, dù được gọi dưới cái tên gì
cũng bao gồm những yếu tố này và có lẽ cũng phải được tạo nên nhờ huy động
hợp lý cả ba cơ chế này.
149
Cơ chế thị trường có thế mạnh chính là tạo nên động lực tự giác để điều hành
hoạt động kinh tế của xã hội theo hướng ngày càng có hiệu quả cao hơn, trong đó
mọi người đều có lợi mà không ai bị thiệt thòi. Trong một thị trường lành mạnh,
mọi nguồn tài nguyên đều được điều chuyển một cách tự giác theo hướng sử dụng
có lợi nhất, mọi người, mọi ngành đều có điều kiện phát huy sở trường, khai thác
thế mạnh của mình để đem lại lợi ích cho mình và góp phần làm của cải xã hội
chung tăng dần. Nhờ đó kinh tế và mọi mặt đời sống của xã hội ngày một phát
triển, khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm người, giữa các quốc gia có điều
kiện để thu hẹp. Nhưng nếu chỉ hoạt động một mình, cơ chế này lại tạo nên một
mô hình xã hội ích kỷ, chia rẽ, mất công bằng xã hội, mất cân bằng sinh thái, đầy
mâu thuẫn và phát triển không ổn định.
Cơ chế cộng đồng nổi trội về khả năng bảo vệ lợi ích cho mọi
thành viên và mọi cộng đồng. Nó hình thành một sức mạnh chủ
động cho phép mọi thành viên trong xã hội có quyền lực ngang
bằng nhau trong các hoạt động kinh tế xã hội. Thông qua việc
hình thành các tổ chức đại diện cho mọi từng lớp, mọi nhóm hoạt
động có quyền lợi khác biệt nhau, thông qua đấu tranh và xây
dựng quan hệ cùng có lợi mà công bằng, dân chủ và bình đẳng
xã hội được hình thành, xã hội trở nên tốt đẹp cho mọi thành
viên, mọi nhóm người. Nhưng nếu chỉ để cơ chế cộng đồng chiếm
địa vị độc tôn sẽ hình thành một xã hội lạc hậu, hạn chế sáng tạo
và phát triển, kinh tế trì trệ, và xã hội cũng không bình đẳng.
Do yêu cầu tiến hoá của xã hội, có khi vai trò chủ đạo chuyển
từ một cơ chế này sang một cơ chế khác, nhưng sự phối hợp và
phát triển đồng thời của cả ba cơ chế là tất yếu. Quá trình
chuyển đổi vai trò chủ đạo thường diễn ra không dễ dàng mặc dù
trong phần lớn trường hợp đây là quá trình phát triển khách
quan. Song song với quá trình đó là sự thay đổi ngay trong mỗi
cơ chế. Các nội dung, các biện pháp trong từng cơ chế cũng liên
tục thay đổi để phối hợp hoạt động với nhau một cách hoà hợp
trong quá trình cùng tiến hoá của cả ba cơ chế.
Trong xã hội hiện đại, hiện tượng “chủ đạo” của một cơ chế đang bị xoá mờ
dần. H. Root đã viết: “Những tổ chức hiệu quả thường trộn tất cả ba hệ thống này
sao cho chúng trở thành những khía cạnh bổ sung cho nhau của một thể thống
nhất được liên kết chặt chẽ64”. Cả ba cơ chế luôn có điều kiện và được yêu cầu
phát huy vai trò của mình trong sự phối hợp và phân công nhau một cách tự nhiên.
Có lẽ một cơ cấu cân đối của ba cơ chế sẽ là bức tranh của xã hội tương lai.
64
Hilton Root Sách chưa xuất bản.
http://usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhirctavn.html
150
Nhận thức xu hướng này, tại Đại Hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc, khi mô
tả con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc, Giang Trạch
Dân Giang đã liên kết vấn đề thị trường với vấn đề cộng đồng và nhà nước trong
lý luận của mình bằng quan điểm kết hợp đức trị với pháp trị: “phát triển kinh tế
thị trường, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, trị nước bằng đạo đức, cần
kết hợp xây dựng pháp chế và xây dựng đạo đức, kết hợp trị nước bằng pháp luật
và trị nước bằng đạo đức” 65.
Người dân nhanh chóng thích ứng bổ sung bằng cơ chế khác. Ví dụ, thay thế
bằng cơ chế thị trường. Nền “văn hoá phong bì” ở Việt Nam hiện nay được dùng
để kéo người ta đi dự họp; để thu hút lãnh đạo trung ương về làm việc với cơ sở;
để thu thập những thông tin, tài liệu phải mất công tìm kiếm; để nhờ đọc, duyệt,
kiểm tra tài liệu, đóng góp ý kiến; … như một hình thức “trả công” cho những
việc công vốn chưa được trả thù lao xứng đáng. Khi “công khai hoá” ra, nó trở
thành trường hợp “dịch vụ công” được áp dụng ở Hà Nội: một nhóm công chức
được tổ chức chính thức sẽ nhận tiền của dân để tiến hành một dịch vụ như làm
giấy tờ hợp thức hoá nhà đất, đăng ký kinh doanh, … Những hình thức “dịch vụ”
như vậy có thể thấy qua hình thức các khoa chuyên làm dịch vụ y tế trong bệnh
viện công, tổ chức dạy thêm, dạy kèm trong trường công,…
Một dạng khác của cơ chế thị trường là hiện tượng “cò”, những
người chuyên làm dịch vụ liên quan đến thủ tục giấy tờ và thông
tin. Thôi thì đủ loại cò: cò những công việc chính đáng như đăng
ký xe, cò nhà đất, cò thương binh xã hội, cò khai tử, khai sinh, cò
xin việc làm; đến cò những việc không chính đáng như cò chạy
xin vốn dự án, cò chạy tội ở toà án, cò nạo thai chui… được việc
thì ít mà “rách việc” thì nhiều, chỉ khổ cho những người ít học,
thật thà, không có thông tin.
65
Giang Trạch dân, nói tại Hội nghị Bộ Tuyên truyền. Dẫn theo Tống Hải
Khánh-Từ Quí Tường, Tân văn hoa trích TQ, số 9/2003.
151
Sự thay thế cũng có thể là
cơ chế cộng đồng. Khi có việc
phải đụng chạm đến giấy tờ
phải đến “cửa quan”, khác
với người phương Tây nghĩ
ngay tới luật sư, công ty tư
vấn, người Việt Nam nghĩ
ngay tới người quen. Người
nhà, người quen là cách tốt
nhất để được giải thích cặn
kẽ, chân tình mọi thông tin
về qui trình hành chính, được tư vấn cẩn thận trong quá trình
thực hiện, được làm sớm, làm nhanh, làm cẩn thận trong các dịch
vụ… Đương nhiên thật khó mà có người quen ở tất cả mọi hoạt
động xã hội. Không quen thì phải làm quen, theo kiểu:
“Qua sông thì phải lụy đò
Tắt đèn nên phải lụy cô bán dầu”
Bước đầu là tìm người giới thiệu, sau đó là thăm hỏi quà cáp,
đầu tư thời gian và tiền bạc, đôi khi lại giúp đỡ lẫn nhau có đi có
lại,… tất nhiên trong nhiều trường hợp, mối quan hệ cần thiết
được hình thành trước khi dịch vụ được thực hiện. Tuy nhiên, chi
phí giao dịch và phí tổn thời gian để chuyển lạ thành quen trong
những trường hợp này là quá lớn.
Hộp 35. Sự bổ sung của cơ chế cộng đồng và nhà nước vận hành thị
trường gạo Nhật Bản
152
các thị trường trong nước với nhau, xuất hiện nhu cầu tiêu chuẩn
hoá chất lượng gạo. Cơ chế thị trường khiến các thương nhân nhỏ
cạnh tranh quyết liệt tranh mua, tranh bán không thể thống nhất
về chất lượng đành phải nhờ đến cơ chế cộng đồng. Một số nhóm
nông dân và thương nhân phối hợp với nhau gắn nhãn hiệu sản
xuất cho một số vùng. Tới năm 1900, các nhãn hiệu tự nguyện trở
thành qui định chính thức của chính quyền, cơ chế nhà nước vào
cuộc, định hình tiêu chuẩn buôn bán vận chuyển lúa gạo cho tất
cả các vùng. Tới năm 1910 đã hình thành 33 cơ sở đánh giá chất
lượng gạo. Các cơ sở này vận hành theo cơ chế cộng đồng do các
công ty tư nhân hay hợp tác xã làm dịch vụ thẩm định, đánh giá,
đóng gói, cất trữ gạo. Các cơ sở này còn cấp giấy chứng nhận tín
dụng gọi là “tín phiếu gạo” dùng cho nông dân và thương nhân để
thế chấp vay vốn ngân hàng. (Nguồn: Ngân hàng Thế giới 2002).
Nhà nước kiên quyết ban hành lệnh cấm đốt pháo và xử phạt
gắt gao các trường hợp vi phạm bằng pháp luật, chỉ khi đó mới
đem lại bình yên cho các ngày tết cổ truyền ở Việt Nam.
Trong những trường hợp khác, người dân phải nhờ đến cơ chế
thị trường. Trước đây, mỗi khi trong làng có ma chay, họ hàng
làng nước thường xúm nhau lại mỗi người một tay, lo khâm liệm,
chôn cất, lo dựng rạp, giết lợn, mổ gà làm cỗ cúng và tiếp khách
đến chia buồn. Chủ nhà tiếp khách và lo than khóc suốt đêm
ngày cho đến khi chôn cất. Ngày nay, do công việc bận rộn,
người ta áp dụng cơ chế thị trường rộng rãi trong ma chay cúng
giỗ ở cả nông thôn và thành thị. Việc tổ chức ăn uống giao cho
nhà hàng, mọi việc từ nấu nướng, bát chén đến dựng rạp, bàn
ghế, chụp ảnh quay phim sẽ có người chuẩn bị chu tất. Ngay cả
tục khóc lóc kể lể của người trong gia đình nhiều nơi cũng đã
thuê người chuyên nghiệp lo hộ, chỉ phải giao tiền và đặt hàng
nội dung cho họ khóc thay.
153
lượng thuốc kháng sinh trong mật ong, trong thủy sản… vượt quá
mức qui định, bị khách hàng tẩy chay không mua hàng. Khi đó,
để bảo vệ quyền lợi của mình, chính người xuất khẩu phải tìm cơ
quan thú y và kiểm tra chất lượng yêu cầu tiến hành kiểm tra cấp
phép chất lượng trước khi xuất khẩu cho mỗi lô hàng. Đây là việc
làm gây chậm trễ và tốn kém cho doanh nghiệp xuất khẩu nhưng
nhà nước phải tham gia để bảo vệ công bằng cho chính doanh
nhân.
Nói về những trường hợp cơ chế thị trường vấp phải những chi
phí giao dịch lớn và người tham gia phải dùng các công cụ khác
để tìm kiếm thông tin, Douglass C.North viết: “trong một thế giới
có chi phí giao dịch bằng 0, thì sức mạnh mặc cả sẽ không tác
động đến hiệu quả của các kết quả, nhưng trong một thế giới mà
các chi phí giao dịch là dương thì sức mạnh mặc cả sẽ có ảnh
hưởng”66. Trong nhiều cuộc công du của các nguyên thủ quốc
gia, đi tháp tùng là cả một đoàn hùng hậu các thương gia. Trong
chương trình đàm phán giữa các nhà lãnh đạo, việc gợi ý, gây sức
ép, thương thảo để các doanh nghiệp của nước mình ký được các
hợp đồng quan trọng, mở mang được thị trường không phải là
chuyện hiếm gặp.
Trong những trường hợp khi cơ chế vốn có tỏ ra thất bại hoặc
kém hiệu quả, con người sẽ chủ động điều chỉnh “kết cấu” điều
hành quan hệ xã hội, thay đổi tỷ lệ tham gia điều hành của 3 cơ
chế, phá vỡ cân bằng cơ chế cũ, thay bằng một cơ cấu tỷ lệ mới.
Sự thay thế cục bộ xuất hiện chủ yếu khi cơ chế cũ bắt đầu trở
nên bất lực trước sự tiến hoá, phát triển hoặc thay đổi của đời
sống kinh tế xã hội. Khởi đầu từ những thay đổi trong phạm vi
cục bộ từng hoạt động xã hội. Đến một giai đoạn phát triển nhất
định, khi biến động xã hội đã diễn ra trên qui mô lớn hơn, thì
không chỉ người dân, cộng đồng mà cả nhà nước và quốc tế đều
tham gia thay đổi cơ chế, lúc đó diễn ra sự chuyển giao tự nhiên
giữa cơ chế chủ đạo cũ và cơ chế chủ đạo mới.
66
North D. C. 1990, NXB Khoa học xã hội 1998
154
phối hợp nhau tạo nên sức sống ổn định và vững bền trong một xã hội lành mạnh.
Nhìn chung, khi một hoặc hai trong ba cơ chế này yếu đi thì một hoặc hai cơ chế
kia sẽ “tự giác” phát huy tác dụng bổ sung và thay thế một cách tự nhiên. Sự “tự
giác” này là do con người luôn phải chọn giải pháp để đương đầu với muôn ngàn
vấn đề mới do cuộc sống đặt ra. Lần lượt các công cụ phát huy hiệu quả rồi lại
mất tác dụng trước hoàn cảnh và vấn đề mới phức tạp hơn, để giải quyết chúng,
người ta lại phải mày mò thay thế các công cụ mới khác nhau, cái nào phát huy
tác dụng tốt sẽ được giữ lại. Công cụ đổi, dẫn đến cơ chế đổi. Xã hội loài người
phát triển không ngừng và có nhiều cách giải thích sự tiến hoá của xã hội (xem
hộp).
Hộp 36. North viết về cách giải thích sự phát triển xã hội theo lý thuyết
Mácxit và theo lý thuyết thể chế
“Sự xem xét tỉ mỉ từ rất sớm của Marx về các lực lượng sản xuất (mà ông
thường gọi là tình trạng công nghệ) cùng với các quan hệ sản xuất (mà ông gọi là
khía cạnh tổ chức của con người…) là một cố gắng có tính tiên phong nhằm gắn
những hạn chế và giới hạn của công nghệ với những hạn chế và giới hạn của tổ
chức của con người,... Thực ra câu chuyện về cuộc cách mạng công nghệ như là
một ranh giới quan trọng trong lịch sử loài người đã được xây dựng trên một tốc độ
thay đổi công nghệ không liên tục xảy ra vào thế kỷ 18… Sự tập trung của của các
nhà sử học truyền thống vào cuộc cách mạng công nghiệp và sự thay đổi công nghệ
như là chiếc chìa khoá dẫn đến xã hội không tưởng cũng là không đầy đủ vì phần
lớn các nước trên thế giới vẫn chưa thực hiện được những lợi ích tiềm tàng của
công nghệ…
Tôi nghĩ rằng còn có một câu chuyện khác hay hơn, câu chuyện này liên quan
đến cuộc đấu tranh liên tục của con người nhằm giải quyết các vấn đề hợp tác để họ
có thể tận dụng được những ưu việt không chỉ của công nghệ, mà còn của tất cả các
khía cạnh khác của sự nỗ lực của con người, vốn là cơ sở của nền văn minh.”
Và North đã dùng chi phí giao dịch để giải thích sự biến đổi thể chế. Ông mô tả
rằng, khi giao dịch của con người ngày càng mở rộng và trở nên phức tạp thì các
chi phí cho các hoạt động giám sát, thông tin cưỡng chế thi hành cam kết trở nên
ngày càng tốn kém, đến mức vượt cả lợi nhuận do các giao dịch đem lại, hoặc
khiến giao dịch trở nên rủi ro, thất bại. Trong hoàn cảnh đó, con người sáng tạo ra
các thể chế để giảm bớt chi phí giao dịch và đưa các hoạt động này trở lại tầm kiểm
soát của mình. Các thể chế có thể chuyển từ tự phát, không chính thức lên tự giác,
chính thức; có thể song hành cùng phát huy tác dụng nhưng nhìn chung chính sự
phát triển của thể chế đã làm nên biến đổi trong xã hội. (Nguồn: North D. C. 1990,
NXB Khoa học xã hội 1998)
155
Trong câu chuyện của chúng ta, sự phát triển của xã hội được nhìn nhận dưới
góc độ của khả năng điều chỉnh giữa các cơ chế nhằm đương đầu một cách thích
ứng với mức độ của các vấn đề nảy sinh ngày càng phức tạp. Đúng là lịch sử loài
người càng đi lên, các mối quan hệ kinh tế xã hội của loài người càng mở rộng và
phức tạp. Mức độ phức tạp ngày càng tăng dẫn đến sự giảm sút hiệu quả và làm
thất bại các cơ chế đang điều hành các hoạt động xã hội.
Nguyên nhân trực tiếp của các thất bại cơ chế đã được đề cập đến ở phần trên
là do cơ chế mất đi điều kiện vận hành, khi cơ chế bị áp dụng vượt ra ngoài phạm
vi ảnh hưởng vốn có, khi hoàn cảnh kinh tế xã hội thay đổi quá lớn, khi kết cấu
bên trong của cơ chế cũ đột nhiên biến đổi,... (các nguyên nhân này có thể từ bên
trong, tương tự như trường hợp lực lượng sản xuất của kinh tế học cổ điển, cũng
có khi xuất phát từ bên ngoài tương tự như chi phí giao dịch của nghiên cứu thể
chế…). Khi cơ chế thất bại, việc định danh, thông tin, thưởng phạt không đáp ứng
được nhu cầu hoạt động bình thường của xã hội, khi đó, mọi đối tác tham gia giao
dịch phải chủ động tìm cách điều chỉnh cơ chế. Trước hết là các công cụ của cơ
chế được thay đổi, sau đó các công cụ của các cơ chế khác được vay mượn và
cuối cùng là bản thân các cơ chế bị thay đổi, kết quả là kết cấu giữa 3 cơ chế trong
xã hội thay đổi và cả cơ chế đóng vai trò chủ đạo cũng thay đổi.
Quá trình thay đổi nói trên có thể diễn ra theo kiểu “điều chỉnh mù”, hoàn toàn
“cứ thử, sai đâu sửa đấy”, tự phát của mọi tác nhân, cũng có thể nhờ định hướng
nhiều ít của các nhà lý luận, nhà khoa học, nhà quản lý. Bởi vậy, nền kinh tế sẽ
thu được các kết quả khác nhau như sau:
1. “Cộng hưởng cơ chế”: khi các cơ chế phối hợp nhau nhịp nhàng trong
một kết cấu hợp lý. Cơ chế này tạo ra môi trường và điều kiện thuận
lợi để phát huy cơ chế kia, các cơ chế cùng tạo ra cân bằng dài hạn và
cùng đạt đến các mục tiêu chung một cách cơ bản như hiệu quả kinh tế,
ổn định chính trị và công bằng xã hội. Ví dụ trường hợp tăng trưởng
kinh tế và phát triển xã hội liên tục ở Bắc Mỹ thế kỷ 19, quá trình duy
tân thành công của Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật Bản,…
2. Phát triển lệch: các cơ chế phân vai nhau phát huy tác dụng riêng rẽ
trong từng lĩnh vực. Có những cơ chế phát huy được, có cơ chế chỉ
phát triển ở mức độ thấp, thậm chí chịu thất bại ở mức độ nhất định. Ví
dụ, trường hợp Trung Quốc 25 năm đổi mới vừa qua, kinh tế tăng
trưởng nhanh, thu nhập chung tăng, nhưng xã hội không công bằng,
tham nhũng và ô nhiễm môi trường nặng.
3. Tình trạng nhùng nhằng: trong việc điều chỉnh từng hoạt động xã hội,
vai trò giữa các cơ chế phân chia không rõ ràng, có chỗ giẫm chân
nhau, có chỗ bỏ trống sân. Nhiều vấn đề không có giải pháp điều chỉnh
156
rõ ràng, cơ chế trở nên bất lực trong một số lĩnh vực, toàn cảnh kinh tế
xã hội dậm chân tại chỗ. Đó là tình trạng của một số nền kinh tế châu
Phi, Nam á, Mỹ La Tinh thời gian qua.
4. Tình trạng khủng hoảng: các cơ chế được bố trí sai khiến cho các mục
tiêu và động lực của chúng mâu thuẫn và triệt tiêu tác dụng của nhau,
các cơ chế bất lực và thất bại, kinh tế xã hội xa sút. Đó là tình trạng của
nước Nga và một số quốc gia thuộc Liên Xô cũ hơn mười năm sau khi
Liên bang Xô viết sụp đổ.
Khi có các vấn đề xã hội mới đặt ra cần giải quyết, sẽ xuất hiện yêu cầu điều
chỉnh kết cấu và thay đổi cơ chế. Chính kiểu cách huy động các cơ chế khác nhau
để cố gắng điều chỉnh quá trình hoạt động kinh tế xã hội đã tạo nên bức tranh đa
dạng về tốc độ phát triển không đều của các nền kinh tế trên thế giới.
157
Như vậy, nguyên nhân của cách mạng xã hội còn có thể giải thích do mâu
thuẫn nảy sinh trong quá trình điều chỉnh tỷ lệ giữa ba cơ chế điều hành quan hệ
xã hội và nội dung chứa đựng bên trong mỗi cơ chế (giữa công cụ chính thống và
công cụ không chính thống, giữa biện pháp vốn có và biện pháp vay mượn, gĩưa
công cụ cũ lỗi thời và công cụ mới ra đời) với độ phát triển và sự phức tạp của
tình trạng kinh tế xã hội mà nó phải giải quyết.
Mâu thuẫn trong xã hội không chỉ nảy sinh khi lực lượng sản xuất phát triển
quá cao, quan hệ sản xuất không theo kịp mà ngay cả khi lực lượng sản xuất mới
phát triển ở mức thấp nhưng quan hệ sản xuất quá bất hợp lý (như trường hợp xảy
ra ở các nước đang phát triển theo XHCN hiện thực) hoặc khi xuất hiện các mâu
thuẫn xã hội gay gắt khác như mâu thuẫn độc lập dân tộc,... mà kết cấu và nội
dung của 3 cơ chế cũ không giải quyết nổi (như trường hợp hàng loạt nước làm
cách mạng dân chủ nhân dân sau chiến tranh thế giới thứ 2). Trong những trường
hợp đó, cách mạng xã hội sẽ nổ ra. Có lẽ đó là lý do tại sao cách mạng XHCN
không xảy ra ở các quốc gia có lực lượng sản xuất phát triển nhất trong thế giới tư
bản (Đức, Anh...) như Mác tiên đoán mà lại xảy ra ở Nga, một nước tư bản chậm
phát triển hơn.
Theo các tài liệu công bố tại kho hồ sơ lưu trữ Mascơva và Beclin gần đây do
Otto Wenzel phát hiện, một số nhà lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, dẫn đầu là Chủ tịch
Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản Grigori Dinôviep và một thành viên khác của Bộ
Chính trị đảng Cộng sản Nga là Lev Trotkit đã lập luận cứng nhắc theo Thuyết Duy
vật Lịch sử rằng: xét về lực lượng sản xuất thì nước Đức, với trình độ phát triển
công nghệ và kinh tế đứng đầu thế giới đầu thế kỷ 20, lại nằm ở trung tâm Châu Âu
và là quê hương nhà lý luận vô sản Các Mác, phải là nơi hợp lý nhất để nổ ra cuộc
cách mạng vô sản chứ không phải nước Nga có nền kinh tế lạc hậu lại bị cô lập.
Nhận xét này dẫn đến kết luận một cách lôgic là cần tiến hành khởi nghĩa giành
chính quyền ở Đức tháng 11 năm 1923 nhằm khởi động một phản ứng dây truyền
cho cách mạng vô sản thế giới “theo đúng qui luật”. Trong khi một số nhà lãnh đạo
cộng sản Nga mong muốn sự việc diễn như vậy thì các nhà lãnh đạo cộng sản Đức
lại không nghĩ như vậy, và may mắn thay lịch sử cũng không diễn ra như thế. (An
ninh Thế giới số 300,10/10/2002)
158
Khi các cơ chế phát triển từ thấp đến cao, các công cụ bên trong mỗi cơ chế
cũng thay đổi dần, ngày càng hoàn chỉnh và phức tạp tùy thuộc mức độ phát triển
của hoạt động kinh tế xã hội. Các công cụ của các cơ chế trong cùng một giai
đoạn phát triển phải có trình độ tương đồng với nhau thì quan hệ phối hợp giữa
các cơ chế mới diễn ra lành mạnh.
Cuộc chiến đấu giữa các cơ chế.
Quá trình tiến hoá của xã hội loài người tất nhiên dẫn đến sự đa dạng và phát
triển không đều giữa các mô hình kinh tế xã hội được sáng tạo ra. Cuộc đấu tranh
giữa các mô hình là quá trình chọn lọc không tránh khỏi để mở đường cho những
nhánh tiến hoá chiếm ưu thế. Một trong những biểu hiện của quá trình chọn lọc
này là cuộc đấu tranh giữa các cơ chế.
Cuối thế kỷ thứ 19, đầu 20, thế giới công nghiệp / cơ khí đang phát triển nhanh
với mâu thuẫn công nhân – tư bản giao hoà với thế giới nông nghiệp / lương thực
đang trì trệ trong mâu thuẫn
nông dân- địa chủ. Trong bối
cảnh đó, các cuộc chiến tranh
xâm chiếm thuộc địa diễn ra
không cân sức. Súng máy
chiến thắng kỵ binh, đại bác
phá vỡ thành lũy, máy hơi
nước vượt qua tàu buồm. Sự
khác biệt giữa hai thế giới
không chỉ về vũ khí, công
nghệ mà sau tất cả còn là sự khác biệt về hai cơ chế điều khiển xã hội. Mặc dù lực
lượng nhà nước ở cả hai phía đối đầu nhau, nhưng cơ chế thực sự điều hành trận
đấu này lại là thị trường và cộng đồng.
Bên phía các nước công nghiệp, cơ chế thị trường cho phép huy động nhanh
chóng và hiệu quả các lực lượng xã hội tham gia cuộc viễn chinh xâm lược. Từ
nhà quí tộc muốn có quyền, nhà tư bản muốn bán hàng và đầu tư, các giáo sỹ
muốn truyền giáo, các nhà khoa học muốn nghiên cứu, người lao động muốn đi
lính kiếm tiền, người nông dân muốn chiếm đất… Có sự phối hợp liên quốc gia
giữa thế giới công nghiệp đi xâm lược với các lực lượng mới xuất hiện và đang
trỗi dậy ở từng quốc gia nông nghiệp bị xâm lăng. Bên phía nước bị xâm lược,
không phải chỉ những kẻ mong bán nước cầu vinh là sẵn sàng “rước voi về giày
mả tổ” mà còn có các nhà tư bản đang hình thành muốn có công nghệ, tiền vốn và
thị trường; công nhân cần có nhà máy và việc làm, trí thức muốn mở mang trí tuệ
và công việc lương cao, tiểu thương muốn kinh doanh tự do, con chiên muốn tự
do tôn giáo… Tất cả đều chung nỗ lực giành lợi nhuận kinh tế và lợi ích xã hội.
159
Do đó, cho phép tạo nên sức mạnh tổng hợp vượt qua cả tinh thần trung quân của
các nhà nước phong kiến và lòng ái quốc các cộng đồng nông dân.
Trong khi đó, cơ chế cộng đồng chỉ cho phép huy động và tổ chức các thế lực
địa phương, thậm chí từng cộng đồng riêng lẻ trong nội bộ từng quốc gia bị xâm
lược, trong từng thời kỳ, dưới ngọn cờ yêu nước của một số anh hùng hào kiệt,
một số nhà nho trung thành với chính quyền, hoặc bảo vệ quyền lợi cộng đồng
nông thôn. Sự kháng cự này tuy cao cả về mục tiêu nhưng kém vững bền về động
lực và tổ chức so với cơ chế thị trường nên sớm muộn cũng rơi vào thất bại.
Chỉ ở một số ít quốc gia khôn ngoan như Nhật Bản, Thái Lan, có các đấng
quân vương nhìn xa trông rộng, mạnh dạn mở cửa du nhập cơ chế thị trường để
cộng thêm sức mạnh lợi ích cá nhân vào quyền lợi dân tộc của cơ chế cộng đồng.
Sự phối hợp hợp lý này chẳng những cho phép các nước nhỏ bé này giữ vững độc
lập trước nanh vuốt thực dân quốc tế, mà thậm chí còn mở ra cơ hội để công
nghiệp hoá, phát triển quốc gia.
Sau khi lần lượt trở thành thuộc địa, cùng với tiến hoá của lịch sử trong quá
trình khai thác của thực dân, hoạt động thị trường ở các quốc gia thuộc địa cũng
lớn mạnh dần. Đồng thời, quá trình du nhập văn hoá tư tưởng cũng đưa dần tư
tưởng cơ chế thị trường từ thế giới công nghiệp sang thế giới nông nghiệp. Hình
thức của các tổ chức ủng hộ cơ chế thị trường khi đó rất khác nhau, đó là hoạt
động của các đảng cộng sản và công nhân theo quan điểm đấu tranh giai cấp,
trang bị bằng tư tưởng của giai cấp vô sản du nhập từ các nước công nghiệp; đó có
thể là hoạt động của các đảng dân chủ, xã hội mang tư tưởng của giai cấp tư sản
và mong muốn cải cách dân chủ cũng du nhập từ phương Tây,… Nhìn chung đây
là những hoạt động của những đại diện cho tương lai nhưng chưa có đủ cơ sở hình
thành lực lượng hoàn chỉnh.
Lúc này mâu thuẫn trong xã hội các quốc gia thuộc địa dần trở thành cuộc đấu
tranh quyết liệt giữa một bên là đại diện của cơ chế thị trường tiên tiến (với sự hợp
lực của lực lượng cộng sản và lực lượng dân chủ) phối hợp với lực lượng đại diện
cho giai cấp nông dân với bên kia là chế độ thực dân, đế quốc. Một khi cơ chế thị
trường đã tham chiến trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thì tương quan lực
lượng thực sự đã thay đổi, cơ chế cộng đồng đã liên kết với cơ chế thị trường, các
phong trào yêu nước đã từ qui mô làng xã lan sang phong trào quốc gia và có sự
phối hợp quốc tế rộng rãi. Thắng lợi của cuộc đấu tranh này là tất yếu.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới xuất hiện một hệ thống các nước có
nền kinh tế XHCN hiện thực. Tại các nước này, cơ chế nhà nước chiếm vị trí độc
tôn, cơ chế thị trường bị xoá bỏ và thể chế cộng đồng cũng bị coi nhẹ. Nhà kinh tế
Hungary K. Janos viết: “Kinh tế hộ gia đình đóng một vai trò rất quan trọng trước
160
khi có cuộc cách mạng... Sau này, sự hình thành của hệ thống (XHCN) cổ điển đã
loại bỏ hầu như hoàn toàn hoạt động của gia đình67”.
Sau khi cách mạng giành thắng lợi, quá trình công nghiệp hoá thu hút lao động
từ nông thôn ra thành phố, để lại gia đình ở làng quê, làm kết cấu và quan hệ gia
đình lung lay. Lao động nữ tăng nhanh chóng, vừa đảm nhiệm công việc cơ quan,
vừa phải hoàn tất việc nhà, làm cho hoạt động gia đình càng yếu đi. Các hoạt động
của cộng đồng và gia đình trước đây như chăm sóc trẻ em, người già, hiếu hỷ…
chuyển sang cho các tổ chức nhà nước thực hiện. Nông thôn Trung Quốc nấu ăn
chung, Cuba xây dựng các nhà nuôi trẻ tập trung, nhiều nước sinh hoạt văn hoá,
thể thao nghỉ ngơi cũng gắn với cơ quan, tại thành phố mọi người sống trong
chung cư của nhà nước. Nhà kinh tế Hungari K. Janos mô tả đó là “sự tàn lụi của
các hình thức tự quản, sự teo lại của lòng nhiệt tình đối với các công việc tự
nguyện cho cộng đồng, và việc chuyển cuộc sống cộng đồng và gia đình sang một
vai trò thấp hơn”68.
Trong khi vai trò của thể chế cộng đồng mất dần đi, thì cơ chế
cộng đồng lại được áp dụng ngày càng rộng trong hoạt động xã
hội với những công cụ cổ điển và nhiều hình thái tiêu cực. Sự
trung thành với chế độ và lãnh đạo trở thành thước đo lựa chọn
con người, từ đó nảy sinh nạn sùng bái cá nhân và các nhóm lợi
ích tranh giành quyền lực. Qui hoạch, kế hoạch bị vô hiệu bởi cơ
chế vận hành kinh tế “mệnh lệnh mềm”, và tạo nên tập quán xin
cho. Các chính sách và qui hoạch biến đổi không dự báo được và
thay bằng các phong trào quần chúng và chiến dịch phát động
nối tiếp nhau. Quản lý tập trung bị nguyên tắc ra quyết định
“đồng thuận” tập thể vô hiệu hoá. Pháp luật giảm tác dụng vì bị
các “hình thức xử lý nội bộ” lấn át. Cuối cùng, vì thông tin bị
ngăn chặn và bóp méo, và năng lực của con người bị thoái hoá
thì bản thân các vận động của cơ chế cộng đồng cũng bị hủy
hoại69 khi hệ thống các nước theo chủ nghĩa xã hội hiện thực tan
vỡ nhường vai trò chủ đạo cho cơ chế thị trường.
Tại các nước công nghiệp theo cơ chế thị trường, các cuộc khủng hoảng kinh tế
theo chu kỳ, các cuộc tranh giành thị trường bằng vũ lực dẫn đến chiến tranh thế
giới và các cuộc cách mạng xã hội cũng bằng bạo lực đã chứng tỏ sự hạn chế của
cơ chế thị trường. Sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1930 và hai cuộc đại
chiến thế giới, diễn ra quá trình tổng điều chỉnh về lý thuyết và chiến lược kinh tế
67
Xem Hệ thống Chủ nghĩa Xã hội. K. János NXB Văn Hoá-Thông Tin 2002.
68
K. János NXB Văn Hoá-Thông Tin 2002
69
Xem Hệ thống Chủ nghĩa Xã hội. K. János NXB Văn Hoá-Thông Tin 2002.
161
ở hầu hết các quốc gia, trong đó, vai trò của nhà nước và xã hội dân sự (Civil
society) ngày càng tăng nhằm khắc phục những bất cập của cơ chế thị trường.
Thực tế thúc đẩy các quốc gia tư bản phương Tây tiến hành các điều chỉnh cần
thiết theo hướng coi trọng hơn vai trò của cơ chế nhà nước và cộng đồng để bổ sung
cho những yếu điểm của cơ chế thị trường. Các mô hình cụ thể có “liều lượng” thay
đổi khác nhau. Các nước Bắc Âu trong khối Scandinavi như Hà Lan, Đan Mạch,
Thụy Điển,...và Anh tạo nên mô hình nhà nước “XHCN xã hội” đánh thuế cao để
tăng ngân sách nhà nước đầu tư cho các hoạt động phúc lợi xã hội, tập trung phát
triển các dịch vụ công cho toàn dân. Các nền kinh tế Đông á như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore, Đài Loan,... đề cao vai trò nhà nước trong hỗ trợ kinh tế, thậm chí
trong từng thời kỳ tham gia trực tiếp định hướng phát triển. Mỹ và các nước Tây âu
khác có mức độ tham gia của nhà nước thấp hơn nhưng sự điều chỉnh cũng diễn ra
mạnh mẽ làm xuất hiện các công cụ mới của cơ chế thị trường và nhà nước.
Cuộc đấu tranh “ai thắng ai” thể hiện ở hình thức chạy đua vũ trang trong cuộc
“chiến tranh lạnh”, trong thi đua kinh tế, chinh phục vũ trụ, trong các cuộc chiến
tranh cục bộ,... phải chăng còn có thể nhìn dưới góc độ đấu tranh giữa các cơ chế.
Và kết cục là cơ chế cộng đồng và công cụ cơ chế nhà nước lạc hậu lại nhường
chỗ cho cơ chế nhà nước thể hiện đại và cơ chế thị trường dạng sống động hơn.
Đi tìm cơ chế chủ đạo phù hợp
Con người trong quá trình tiến hoá của mình đã biết bao lần tìm tòi, thay đổi cơ
chế để tự tạo cho mình một cuộc sống tốt đẹp hơn. Việc thay đổi vai trò chủ đạo
từ cơ chế này sang cơ chế khác đã diễn ra nhiều lần và có những hiệu quả khác
nhau. Khi trở thành chủ đạo, mỗi cơ chế có thế mạnh riêng: nhà nước hướng tới
ổn định, thị trường tạo cơ hội phát triển, cộng đồng đấu tranh cho công bằng. Vì
vậy, khi chuyển đổi cơ chế, xã hội cũng chuyển hướng theo.
Trong trường hợp chuyển từ cơ chế chủ đạo là cơ chế cộng đồng sang lấy cơ
chế nhà nước làm chủ đạo như một số nước Trung á khi tham gia Liên bang Xô
Viết sau cách mạng tháng Mười, tình hình chính trị xã hội trở nên ổn định, kinh tế
được cải thiện nhờ sự trợ giúp của Liên Bang, tuy nhiên kinh tế vẫn mang đậm
tính phụ thuộc và mang đặc trưng chung của nền kinh tế kế hoạch là tăng trưởng
kém hiệu quả. Trong trường hợp chuyển từ cơ chế nhà nước là chủ đạo trở lại thể
chế cộng đồng là chính sau khi Liên Xô sụp đổ, ảnh hưởng đầu tiên của các quốc
gia loại này là dễ rơi vào tình trạng bất ổn chính trị. Các cuộc xung đột sắc tộc và
tôn giáo cộng với những cố gắng đa nguyên chính trị tạo nên tình trạng vô chính
phủ và xáo trộn trong đời sống xã hội. Nền kinh tế cũng tăng trưởng một cách khó
khăn với sự thụt lùi từ sản xuất thương mại về sản xuất tự cấp.
Trong trường hợp chuyển từ cơ chế chủ đạo là thị trường sang cơ chế nhà nước
như trường hợp một số quốc gia Đông Âu sau chiến tranh thế giới 2 gia nhập phe
162
XHCN, xã hội trở nên công bằng và ổn định hơn nhưng mức tăng trưởng kinh tế
chậm lại so với các nước khác có cùng hoàn cảnh. Cũng các nước này, vào những
năm cuối thế kỷ 20, khi chuyển cơ chế chủ đạo từ nhà nước sang thị trường lại
xảy ra những hiệu ứng ngược lại. Sau thời kỳ khủng hoảng, kinh tế dần phục hồi
và tăng trưởng dần, kèm theo đó, các biến động chính trị xã hội diễn ra thường
xuyên hơn trong nhịp sống chính trị đa nguyên, đồng thời bất bình đẳng xã hội
cũng tăng theo đà kinh tế tăng trưởng.
Hơn 350 năm trước, các chúa Nguyễn đã xây dựng ở thị xã Hội An, Tỉnh Quảng
Nam một “khu kinh tế mở”. Năm 1613, các thương gia Hà Lan được chúa Nguyễn
Phúc Nguyên cho mở thương điếm tại Hội An. Các Chúa Nguyễn viết thư mời
thương nhân quốc tế đến làm ăn, tổ chức hội chợ hàng năm từ tháng 2 đến tháng 5
thu hút thương gia hàng chục quốc gia đến tham dự. Người Việt từ khắp nước được
khuyến khích mang vốn liếng và công nghệ đến Hội An đầu tư hình thành các làng
nghề khác nhau. Nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, gốm sứ, đồ mộc, thủ công mỹ
nghệ phát triển cực thịnh. Người Nhật, người Hoa cũng đến định cư hình thành các
khu phố riêng có tổ chức hành chính tự quản, tự do đầu tư, buôn bán và xuất khẩu
hàng hóa.
Các hàng hoá nổi tiếng trong nước như tơ lụa, nhiễu, lãnh đoạn, gốm sứ Bát
Tràng, Chu Đậu, Thanh Hà, đồ mộc Kim Bồng được xuất khẩu sang các nước
Đông Nam á, Tây Tạng, Nhật,…Tàu buôn các nước Nhật Bản, Trung Hoa, Mã Lai,
Hà Lan, Bồ Đào Nha, Anh , Pháp,… đến Hội An tấp nập trong suốt 200 năm. Lợi
tức nhờ giao thương buôn bán với quốc tế trở thành nguồn thu nhập quan trọng cho
các chúa Nguyễn mua sắm quân lương trong cuộc giao tranh hàng trăm năm với
chúa Trịnh ở miền Bắc.
Đến thế kỷ thứ 19, sau khi thống nhất đất nước, triều đình nhà Nguyễn tiến hành
chính sách “bế quan tỏa cảng”, cánh cửa Hội An mở ra thế giới bị đóng dần. Năm
1864 nhà cải cách kinh tế Đặng Huy Trứ được bổ nhiệm làm Bố chánh Quảng Nam
đã chủ trương phát triển ngoại thương, thành lập trung tâm thương mại lớn nhất
Việt Nam là Ty Bình Chuẩn hoạt động rất hiệu quả nhưng vua Tự Đức đã ra lệnh
bãi bỏ, chính thức đóng lại hẳn cánh cửa giàu có này. Nền kinh tế Việt Nam từ đó
quay lại tình trạng sản xuất tự cung tự cấp và kinh tế suốt giải miền Trung hàng
trăm năm qua vẫn dậm chân tại chỗ trong sản xuất nông nghiệp nghèo nàn.
(Nguồn: Ngô Minh Khôi, Báo Lao Động Xã Hội xuân 2004.)
Trong trường hợp chuyển từ cơ chế cộng đồng là chính sang cơ chế thị trường
làm chủ đạo như một số quốc gia thuộc địa ở châu á, châu Phi sau khi được trao
trả độc lập, bên cạnh cơ hội tăng trưởng kinh tế là nguy cơ phân chia trong xã hội,
163
tình trạng nghèo đói và mất công bằng kinh tế xảy ra giữa các nhóm người có địa
vị khác nhau trong xã hội. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính và cả khủng
hoảng chính trị xã hội cũng tạo ra tình trạng bất ổn, cản bước tiến của các quốc
gia này. Trong lịch sử có lẽ ít có trường hợp chuyển lại từ cơ chế chủ đạo là thị
trường về cơ chế cộng đồng làm chính, nhưng từ một số ví dụ về chính sách "bế
quan toả cảng" của triều đình nhà Nguyễn đã khiến kinh tế Việt Nam thủa đó trở
nên đình đốn, dập tắt hoạt động nhộn nhịp của các trung tâm thương mại như Phố
Hiến ở Miền Bắc và Hội An ở Miền Nam, có thể thấy tác dụng tiêu cực của xu thế
này với quá trình phát triển kinh tế.
Rõ ràng, cùng với sự phát triển của loài nguời, con người luôn tìm cách tìm tòi,
khắc phục các nhược điểm trong xã hội, luôn tìm cách áp dụng những biện pháp
mới để vươn tới những mô hình phát triển mới. Đấy là qui luật khách quan, tuy
nhiên trong quá trình vận động đó, đáng tiếc là xuất hiện lặp đi lặp lại hai xu
hướng: một là khư khư bám giữ cơ chế chủ đạo cũ, bất chấp tình hình thay đổi,
hai là phủ định sạch trơn với cơ chế cũ khi chuyển sang áp dụng cơ chế chủ đạo
mới. Hai thái cực này đi liền với nhau và là kết quả của nhau.
Nguy cơ "chạy quá đà".
Sau một thời gian dài bị kìm hãm bởi một loại cơ chế đã trở nên lỗi thời, khi có
cơ hội đổi sang một hệ thống cơ chế mới, tâm lý quần chúng dễ tạo nên một tình
trạng lạm dụng cơ chế mới và ghét bỏ quá mức cơ chế cũ. Người cầm quyền trước
càng cố bảo thủ níu kéo, dùng các giải pháp cải lương để duy trì cơ chế cũ, rồi đến
lúc nó trở nên vô hiệu, bất lực hoàn toàn thì người cầm quyền mới thay thế lại
càng có xu hướng xoá bỏ hoàn toàn cơ chế cũ, lạm dụng vai trò chủ đạo của cơ
chế mới, muốn sử dụng nó một cách độc tôn để nhanh chóng thay đổi tình thế,
đoạn tuyệt với quá khứ .
Sai lầm “chạy quá đà” (over shooting) là hiện tượng mang tính
tâm lý dễ gặp. Hiện tượng này cũng tạo nên một kết cấu cơ chế
bất hợp lý, kém hiệu quả và cần có thời gian để khắc phục. Ví dụ,
sau khi chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, ở
nhiều nước XHCN hiện thực trước đây, có hiện tượng nhà nước
nhanh chóng rút hẳn ra khỏi các lĩnh vực dịch vụ công ích và
phúc lợi xã hội như y tế và giáo dục cơ sở, giao thông công cộng,
khuyến nông và dịch vụ kỹ thuật cho nông dân,…, trong khi cơ
chế thị trường và cộng đồng chưa đủ năng lực hoặc chưa hình
thành động cơ để tham gia thay thế tạo nên những “khoảng
trống quyền lực” dẫn đến xuống cấp về xã hội và giảm hiệu quả
về kinh tế.
164
Khi chuyển từ cơ chế chủ đạo này sang áp dụng cơ chế chủ
đạo khác một cách đột ngột, dễ dàng xuất hiện rủi ro của quá
trình giao thời, đó là sự xuất hiện hiện tượng "khoảng trống cơ
chế" giữa một bên là tập hợp của cơ chế cũ đã bị loại bỏ và bên
kia là tập hợp cơ chế mới chưa hình thành, thậm chí có nhiều lĩnh
vực cả hai cơ chế chủ đạo cũ và mới không quản lý nổi. Kết quả
là những cơ chế “không chính thống” tràn vào lấp đầy khoảng
trống trong nhu cầu xã hội gây ra hình ảnh tiêu cực và méo mó
của xã hội với các hiện tượng tôn giáo lạ, tệ nạn xã hội lan tràn,
căng thẳng sắc tộc,…Nếu sự méo mó này đạt đến một giới hạn
nhất định thì bản thân cơ chế mới cũng bị phá hoại, trở thành
những phiên bản méo mó, đôi khi còn tồi tệ hơn cơ chế cũ.
Đó là hình ảnh nền “kinh tế thị trường man rợ” mà Nga, Mông
Cổ và một số nước thuộc khối Liên Xô cũ, … phải nếm trải khi áp
dụng “liệu pháp sốc” với ước muốn sau một đêm rũ bỏ mọi vết
tích của nền kinh tế quan liêu kế hoạch, thay đổi tất cả bằng sự
diệu kỳ của “bàn tay vô hình” thị trường. Việc Tổng thống Nga
Putin lấy lại giai điệu quốc ca của Liên Xô, hay ngôi sao đỏ làm
biểu tượng cho quân đội, không phải là những cố gắng phục hồi
các giá trị cũ. Đó chỉ là vài trong nhiều điều chỉnh phải làm để
khắc phục tác hại của hiện tượng “quá đà” trong hành vi xã hội.
Hiện tượng "quá đà" khác xảy ra với một cơ chế bất lực kéo dài, khi một cơ
chế mới xuất hiện phát huy tác dụng mạnh, người ta dễ ỷ lại vào sức mạnh của nó,
lạm dụng trong cả những lĩnh vực nó không có lợi thế, dẫn đến những thất bại
khác. Thế kỷ 19, đầu 20, Châu âu tiến mạnh vào quá trình công nghiệp hoá. Cơ
chế thị trường phát huy tác dụng mạnh đưa các nền kinh tế nông nghiệp chuyển
nhanh sang cơ khí hoá, công nghiệp hóa. Việc lạm dụng vai trò cơ chế thị trường
ở nông thôn nước Anh dẫn đến hình thành hàng loạt nông trại công nghiệp sản
xuất hàng hoá và thuê mướn công nhân, các nông trại này nhanh chóng bần cùng
hoá và làm phá sản tầng lớp nông dân tiểu nông. Tương tự như vậy, cơ chế thị
trường bùng nổ trong giai đoạn công nghiệp hoá ở các nước Bắc âu cũng tàn phá
gần như hoàn toàn diện tích rừng tự nhiên trù phú ở đây để phục vụ nhu cầu sản
xuất nông nghiệp và xây dựng công nghiệp. Những cân bằng về xã hội, môi
trường bị phá vỡ này sau đó phải tái lập một cách vất vả bằng các cơ chế nhà nước
và cộng đồng với chi phí to lớn.
Để có một sự tiến hoá lành mạnh, cần có thời gian cho các quá trình chuyển tiếp.
Các quá trình chuyển đổi tốt nhất, nên được định hướng có chủ định. Và quan trọng
hơn cả là phải hình thành được một cơ cấu phối hợp mới, trong đó cả ba cơ chế đều
có điều kiện phát huy tác dụng. Đây là yếu tố quyết định của sự thành công.
165
Khủng hoảng giá trị khi thay đổi cơ chế chủ đạo.
Con người trong mỗi thời đại hình dung nên hình mẫu người hùng của mình,
đại diện cho kiểu sống và cư xử mong đợi phù hợp với yêu cầu của cơ chế chủ
đạo. Trong cơ chế cộng đồng, khi lòng trung thành là giá trị đáng ca ngợi nhất thì
“chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”(Chuyện Kiều, Nguyễn Du), người ta ca ngợi,
thờ phụng những nhân vật như Quan Công (“Tam Quốc Chí” của La Quán Trung)
mặt đỏ râu dài, trọng nghĩa khinh tài, lấy ân oán làm thước đo xử thế. Bước sang
cơ chế nhà nước, tài kinh bang tế thế và tinh thần chấp hành pháp luật được đề
cao, việc “trị quốc bình thiên hạ” trở thành giá trị cuộc đời người quân tử thì một
mặt, nhân dân yêu chuộng thờ phụng tấm gương những người công minh, tài ba
như Bao Công mặt sắt vô tư, đặt lẽ phải lên trên tất cả, mặt khác cũng lên án
những kẻ biến mình thành bộ phận vô hồn của bộ máy quan liêu như thanh tra
Jave (“Những người khốn khổ” của Víchto Huygô). Trong cơ chế thị trường, khi
những kẻ đặt đồng tiền lên trên tất cả như Grăngđê keo kiệt (Ơgiêni Grăngđê của
L.D. Banzắc) bị lên án thì người anh hùng mới được tôn vinh là những nhân vật
tay không làm nổi cơ đồ, dựng nên sự nghiệp kinh doanh làm giàu cho nhà, vinh
cho nước. Đó là những hình ảnh được đề cao trong một số bộ phim Trung Quốc
gần đây như Đường gia lẫy lừng trong “Câu chuyện Thượng hải”.
Quá trình thay thế cơ chế chủ đạo và hệ thống cơ chế đi kèm là quá trình thay
đổi phương cách định danh, thông tin và thưởng phạt. Khi thưởng phạt thay đổi
cũng có nghĩa là thước đo các giá trị đúng sai, phải trái, chân thiện, hay dở trong xã
hội được xác lập lại. Thước đo giá trị thay đổi, trật tự xã hội cũng thay đổi. Sự đổi
thay giá trị xã hội có thể diễn ra kéo dài hàng trăm năm theo quá trình tiến hoá lịch
sử nhưng cũng có thể diễn ra tức thì trong các giai đoạn khủng hoảng và đổi mới
cơ chế chủ đạo đột ngột. Khi tình hình kinh tế xã hội thay đổi mạnh, dẫn đến cơ
chế điều hành bất lực và khủng hoảng một cách toàn diện thì cơ chế chủ đạo sẽ thay
đổi. Lúc đó xuất hiện nguy cơ khủng hoảng lòng tin. Người ta nhìn đời, nhìn nhau,
nhìn sự vật bằng con mắt mới. Cái trước kia là đúng, là đáng ca ngợi, là phải nể
trọng thì hôm nay có khi là sai, là lỗi thời, là bị coi thường và ngược lại. Những
người hùng xưa bỗng chốc trở nên bị quên lãng nhường chỗ cho các thần tượng
mới.
Trong cơ chế thị trường, tuổi già được trọng vọng vì gắn với kinh nghiệm và
kiến thức, chuyển sang cơ chế nhà nước và thị trường, việc học tập do nhà trường
và các nhà chuyên môn đảm nhiệm, bỗng chốc lớp người già thấy mình bị coi là
cổ hủ, lạc hậu. Chuyển từ cơ chế cộng đồng coi trọng sự bình quân, đề cao sự
thanh bạch với thước đo “nghèo là tốt” sang cơ chế thị trường chấp nhận phân
phối theo đóng góp, tôn vinh người làm ăn giỏi với con mắt mới “giàu là thành
đạt”, thoáng chốc tầng lớp dân nghèo cảm thấy bị phân biệt đối xử, bị coi thường.
Từ cơ chế cộng đồng coi trọng lao động chân tay, đề cao thành phần công nông
166
chuyển sang cơ chế nhà nước và thị trường trọng dụng trí thức chuyên môn, đề
cao người có vốn đầu tư, người lao động chân lấm tay bùn cảm thấy mình bị bóc
lột, bị coi nhẹ. Từ cơ chế cộng đồng và cơ chế nhà nước tưởng thưởng theo công
trạng và đóng góp sang cơ chế thị trường trả công theo năng lực, những cựu chiến
binh, các đối tượng xã hội đã hy sinh đóng góp công lao sức lực trong chiến đấu
và xây dựng cảm thấy bị bỏ rơi, bị xem thường…
Tất cả những sự đảo lộn trên tuy diễn ra tất yếu theo qui luật xã hội, nhưng
đương nhiên dẫn đến hậu quả tâm lý tư tưởng ở mức độ khác nhau. Nếu quá trình
thay đổi thước đo giá trị không diễn ra một cách hoà hợp sẽ dẫn đến khủng hoảng
lòng tin. Biểu hiện của nó ở mỗi lớp người một khác.
Lịch sử phát triển ở nhiều quốc gia trong giai đoạn công nghiệp hoá nhanh và
bùng nổ lớp dân cư trẻ sau các cuộc chiến tranh, đã từng chứng kiến nhiều đột
biến mang tính “phá phách” của lớp người trẻ. Lối sống hiện sinh, sống gấp,
phong trào Hípy, là hiện tượng xã hội đã từng lan tràn ở Âu Mỹ, và dưới những
dạng khác nhau ở Nhật Bản, Hàn Quốc… trong những giai đoạn phát triển nhất
định. Lớp trẻ xưa ở Trung Hoa cắt búi tóc, mặc áo ngắn, chống lại chế độ quân
chủ. Lớp trẻ ở Việt Nam nay để tóc dài, mặc quần rách, đua xe hon đa... Trong
các hình thức phá phách, thách đố, ngày xưa có cả thuốc lá, thuốc phiện, rượu
mạnh, bài bạc, bỏ đi hoang,... ngày nay có cả chát trên Internet, quan hệ tình dục,
ma tuý, bỏ học,...
Lớp người già có nhiều công trạng, khi sụp đổ niềm tin dễ cảm thấy bất mãn.
Khía cạnh “phá phách, thách đố” của lớp già thường không ồn ào nhưng rất quyết
liệt. Lớp già xưa ở Việt Nam sống chết giữ búi tó, để răng đen, dùng chữ Nôm.
Lớp già ở nước Nga nay đeo huy chương, mặc quân phục, cầm cờ búa liềm đi
biểu tình. Các lão thành cách mạng ở Trung Quốc viết vạn ngôn thư tranh luận lý
luận chiến lược, vận động hành lang, trực tiếp can gián công tác tổ chức cán bộ, ...
Người nghèo khổ, lao động thủ công khi mất lòng tin thường dễ bạo động. ở âu
Mỹ, khủng hoảng lòng tin từng dẫn đến những cuộc bạo động phá phách máy móc
trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Tại Trung Quốc thời gian qua liên tục diễn ra
các cuộc biểu tình của công nhân thất nghiệp và nông dân mất đất. Ngay cả nạn
khủng bố quốc tế đang lan tràn trên thế giới hôm nay cũng là một biểu hiện của
tinh thần phản kháng tuyệt vọng của những niềm tin sụp đổ ở những khu vực có
đời sống kinh tế, chính trị khó khăn.
Tầng lớp quan chức khi mất lòng tin thường có xu hướng thoái hoá, lấy vật
chất và thoả mãn quyền lực làm mục tiêu, xa vào tham nhũng, quan liêu cửa
quyền, dễ liên kết với các tập đoàn xã hội đen hoạt động theo kiểu Maphia, hợp
tác với giới doanh nhân tạo thành các nhóm lợi ích trong bộ máy nhà nước hoặc
độc chiếm quyền hành chuyên chế phi dân chủ.
167
Đông đảo người dân khi đánh mất lòng tin vừa trốn vào tín ngưỡng, tôn giáo,
hủ tục vừa tự xoa dịu bằng các phương tiện giải trí thông tục như ma tuý, cờ bạc,
rượu trè, tình dục,… Đồng thời có xu hướng đề cao tuyệt đối các giá trị vật chất
thực dụng, tranh thủ hưởng lạc, tiêu sài. Nếu để cả xã hội xảy ra mất lòng tin thì
vô cùng nguy hiểm. Khi đó mọi ràng buộc tự giác về đạo đức, tự trọng, tôn trọng,
…sẽ mất tác dụng, loài người trở thành một đám xe chạy hỗn độn không phanh,
sẽ đâm vào nhau mà tự hủy diệt.
Người ta khủng hoảng niềm tin khi rơi vào đám sương mù giữa quá khứ và
tương lai. Khi đứng giữa hai sự lựa chọn, khi bước ngang ranh giới của những giá
trị xã hội khác nhau, cách duy nhất đem lại bình an trong tâm hồn mỗi cá nhân và
tạo nên sự chuyển tiếp êm đềm của hai thế hệ không phải là phủ nhận hay khẳng
định một trong hai, mà là sòng phẳng định rõ mốc giá trị của hai đầu chuyển tiếp.
Hộp 38. Khủng hoảng cơ chế thời Xuân Thu-Chiến Quốc, vấn đề
chính danh và các cải cách tiếp theo
Nhà nước ở Trung Quốc đã manh nha từ hơn 2000 năm trước
Công nguyên (TCN), trên nền tảng xã hội vẫn là thị tộc, công hữu
nguyên thủy. Đến đời nhà Chu (1222-221 TCN) chế độ phong kiến
bắt đầu hình thành và phát triển, cuối đời Đông Chu, đặc biệt là từ
thời Xuân Thu sang thời Chiến Quốc (453-221 TCN), xã hội phong
kiến thay thế cho xã hội nô lệ, bên cạnh cơ chế cộng đồng, cơ chế
nhà nước dần đóng vai trò quan trọng, cơ chế thị trường hình
thành.
Nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng cơ chế, đối phó những
đổi thay giá trị xã hội như trong gia đình con không nghe cha,
trong triều đình, quan lại và chư hầu đòi phân chia quyền lực của
vua, công nhận vai trò tầng lớp nho sỹ, tách rời ruộng công ruộng
tư, tách rời giàu có khỏi quí tộc, tiến tới xác lập trật tự xã hội,
thống nhất quản lý nhà nước, Khổng Tử đề ra thuyết “chính danh”
coi danh chính là giải pháp hàng đầu để trị nước, khắc phục khác
biệt giữa "danh cũ" và "thực mới". Cho rằng gốc của vấn đề là xác
lập thước đo giá trị phù hợp với hoàn cảnh xã hội mới, Khổng Tử
viết trong Luận Ngữ: "nếu danh không chính thì ngôn không
thuận; ngôn không thuận thì việc không thành."
Sang thời Chiến Quốc, nhà nước phong kiến phát triển lên giai đoạn tập quyền
chuyên chế. Trên nền tảng các giá trị mới trong xã hội đã hình thành, với nhu cầu xây
dựng quốc gia thống nhất, kinh tế phát triển, binh lực hùng mạnh, xuất hiện nhiều
nhà cải cách đề ra những biến pháp thực dụng để thúc đẩy quá trình biến đổi cơ chế.
Lý Khôi chủ trương phát triển sản xuất nông nghiệp, khai hoang, áp dụng kỹ thuật
thâm canh, thu thuế theo mức thu hoạch. Thương Ưởng khuyến khích sản xuất nông
168
nghiệp và thủ công, khuyến khích lập công trong chiến đấu, quản lý dân theo hộ,
thưởng phạt nặng, thống nhất đo lường. Hàng loạt nhân tài xuất hiện trong quản lý
nhà nước, cầm quân đánh trận, thương thuyết ngoại giao như Tô Tần, Trương Nghi,
Lạn Tương Như, Tôn Vũ, Tôn Tẫn, Ngô Khởi,… (Nguồn Nguyễn Hiến Lê, 1996;
Trần Đình Hượu, 2001).
Muốn triệt tiêu hiện tượng khủng hoảng lòng tin phải tôn vinh vẻ đẹp và đóng
góp vinh quang của thần tượng cũ đã hoàn thành sứ mạng lịch sử và chỉ ra vai trò
vẻ vang, nét đẹp tiên phong của những anh hùng thời đại mới. Thánh Gióng đánh
xong ngoại xâm nên cất cánh bay lên trời, Lê Lợi diệt xong giặc, rùa thần phải nổi
lên đòi kiếm. Sòng phẳng với quá khứ và minh bạch với hiện tại là cách cư xử
đúng đắn nhất để tiếp nối và phát huy được vẻ đẹp của giá trị quá khứ trong tương
lai.
Lịch sử Trung Quốc hiện đại chứng kiến hai bài học về xử thế giữa quá khứ và
tương lai của hai nhân vật đối lập: Mao Trạch Đông thất bại và Đặng Tiểu Bình
thành công.
Mao sau khi giành được quyền lực, một mặt tìm cách bôi nhọ quá khứ, phủ
nhận công trạng của tiền bối, kết tội cộng sự, đập phá cả văn hoá lịch sử vĩ đại của
tổ quốc. Đồng thời, định hướng tương lai vào hình tượng sai lạc. Anh lính trẻ Lôi
Phong được đề cao thành điển hình là một mẫu người học vấn thấp, “suốt đời
nguyện làm chiếc đinh ốc nhỏ trong guồng máy chung”, không quyền lợi cá nhân,
không suy nghĩ độc lập, sẵn sàng hy sinh tình cảm gia đình và cả tính mạng theo
lệnh Chủ tịch. Định hướng này đã biến lớp trẻ thành “Hồng vệ binh” xả thân để
duy trì vai trò độc tôn lãnh đạo của Mao.
169
Hộp 39. Treo giải thưởng để dân tin chính quyền
Nước Tần ở Trung Hoa thời Chiến Quốc xưa, sau nhiều năm
sống dưới một triều đình bạc nhược, người dân không tuân theo
luật lệ, mất lòng tin ở chính quyền. Nhà cải cách Thương Ưởng khi
nhận nhiệm vụ thay đổi lại cục diện đất nước đã quyết định đưa
ra thi hành chính sách mới gọi là Biến Pháp, lấy luật lệ quản lý
quốc gia. Nhưng muốn dân tin và tuân theo luật, trước hết phải
chuyển đổi giá trị tinh thần cho toàn dân.
Để tạo ra một mốc, đề cao giá trị mới là kể từ nay, nhà nước sẽ
quản lý bằng pháp luật, chính quyền hứa điều gì, ban bố lệnh gì
sẽ thực hiện bằng được điều đó, ai tuân lệnh sẽ được thưởng, trái
lệnh sẽ bị trừng phạt. Ông đã tiến hành một nghi lễ tượng trưng
gây ấn tượng tâm lý cho nhân dân.
Nhà nước treo thưởng một khoản tiền rất lớn cho người nào đầu tiên vác được
cây cột gỗ đi một quãng đường ở quảng trường. Vì là việc quá dễ, nên mọi người
đều ngạc nhiên và không tin sự nghiêm túc của lời hứa đó. Đấy chính là sự bất
ngờ để Thương ưởng tạo ấn tượng giá trị mới cho nhân dân. Phần thưởng chỉ trao
một lần cho một người liều mạng thử, nhưng lời nhắn của nhà cải cách gửi đi đã
nằm lại vĩnh viễn trong lòng dân, tạo nên sự hùng cường của nước Tần thống nhất
toàn Trung Hoa hàng trăm năm sau.
Đặng sau khi có thực quyền, lần lượt minh oan và sửa sai cho các đồng chí,
đánh giá rõ công tội của những cá nhân liên quan, rút ra bài học kinh nghiệm của
sai lầm lịch sử. Đồng thời nêu ra kiểu mẫu mới thiết thực cho con người đương
đại. Ông ca ngợi nhân tài có học vấn, đề cao quân nhân chuyên nghiệp, nêu gương
những người đi trước làm giàu, đưa nhân dân vào sự nghiệp hiện đại hoá đất nước
và từng bước chủ động rút khỏi vũ đài chính trị.
Sự rành mạch với lịch sử, với cuộc sống chính là giá trị quan trọng nhất trong
tư tưởng của Khổng Tử trong thuyết Chính Danh. Theo ông, danh với thực phải
thống nhất với nhau. Khi đã thực đã đổi thì danh phải đổi. Ông ví dụ cái bình rượu
có góc cạnh, đời trước gọi là “cô”, đến đời ông, người ta bỏ cạnh góc đi thì không
thể gọi là “cô” được, muốn giữ tên ấy phải giữ các góc cạnh cũ, nếu thay đổi hình
dạng rồi, phải đặt cho nó cái tên mới. Đây không phải là chuyện tên gọi, mà cách
thức định danh sẽ thay đổi thông tin và thưởng phạt, nghĩa là thay đổi giá trị khi
cơ chế đã đổi.
Khổng Tử nói: “Nếu danh không chính thì lời nói không thuận lý,
lời nói không thuận thì sự việc không thành, sự việc không thành thì
170
lễ nhạc, chế độ không kiến lập được, lễ nhạc, chế độ không kiến lập
được thì hình phạt không trúng, hình phạt không chúng thì dân
không biết đặt tay chân vào đâu” (không biết làm thế nào cho
phải)70 Bởi vậy, theo ông, muốn khắc phục sự khủng hoảng xã hội
thì phải xác lập trật tự tuân theo danh phận. Danh phải đúng với
phận, thống nhất giữa tên gọi với thứ bậc xã hội, chức vụ hành
chính, với nhiệm vụ được giao, gắn lời nói với việc làm. Nói cách
khác là tiến hành tiêu chuẩn hoá vị trí, thể chế hoá các nhiệm vụ xã
hội.
Dẫu rằng Khổng Tử thường dùng thước cũ đo sự vật mới nhưng
điều thú vị là cách đặt vấn đề của ông hết sức phù hợp với quan
điểm quản lý theo chất lượng hiện đại. Theo cung cách quản lý
của tiêu chuẩn ISO ngày nay, mọi chức danh trong hệ thống phải
được gọi tên rõ ràng, nhiệm vụ và chức danh của các vị trí phải
được định nghĩa và tiêu chuẩn hoá thống nhất, mọi qui trình của
các bước tác nghiệp phải được mô tả rành mạch, nhờ đó việc
phối hợp và thay thế trong quá trình vận hành hệ thống quản lý
có thể diễn ra ổn định và hiệu quả. Có lẽ việc nêu lên vấn đề định
danh, thông tin và thưởng phạt làm giải pháp cho những thời kỳ
khủng hoảng cơ chế hoặc chuyển đổi cơ chế chủ đạo đã tạo nên
sức sống lâu dài của tư tưởng Khổng giáo ngay cả trong thời đại
hôm nay. Mặt khác, tư tưởng này thường dựa vào các tiêu chí của
cơ chế cộng đồng cũ nên tỏ ra rất quen thuộc với một xã hội
“trộn lẫn” các hình thức cơ chế ở Châu á.
172
Sự phát triển hài hoà giữa các cơ chế trong quá trình
tiến hoá xã hội.
Việc điều chỉnh các quan hệ trong đời sống kinh tế xã hội giữa con người với
nhau luôn luôn được thực hiện bởi các cơ chế. Dường như trong xã hội loài người
không có khoảng trống của các cơ chế điều hành xã hội. Các cơ chế này hoạt động
vừa tách bạch vừa phối hợp theo những qui luật riêng trong tổng thể chung của xã
hội loài người. Sơ đồ dưới đây là một minh họa thô thiển cho sự phối hợp đồng bộ
giữa các công cụ của từng cơ chế trong quá trình phát triển của cả 3 cơ chế cùng
với sự tiến hoá quan hệ xã hội. Những nội dung ở đây có thể sẽ thay đổi tuỳ theo
hoàn cảnh cụ thể, điều đáng nói là trong khi cả ba cơ chế cùng song hành tham gia
điều chỉnh quan hệ xã hội thì các công cụ bên trong mỗi cơ chế cũng liên tục đổi
mới phù hợp với mức độ phát triển xã hội.
75
Bách Khoa toàn thư tri thức phổ thông 2001.
175
thế kỷ thứ 18 trước công nguyên đã ban hành bộ Luật Hamurabi với 282 điều, bảo
vệ nền thống trị của giai cấp chủ nô76.
Kinh tế thị trường manh nha từ rất sớm. Người Hy Lạp Mycenae đã giao
thương buôn bán với Ai Cập và Địa Trung Hải 1200-1200 năm trước Công
nguyên và 600 năm trước Công nguyên người Hy Lạp đã dùng tiền đúc trong giao
thương. Người Trung Quốc còn dùng tiền từ trước đấy rất lâu. Trong cơ chế nhà
nước nô lệ và phong kiến ban đầu, tương ứng với cơ chế thị trường sơ khai, việc
buôn bán phát triển trong phạm vi địa phương và giữa các địa phương lân cận.
Những người có họ với nhau, sống cùng địa phương, … có điều kiện để hiểu biết
thông tin rõ ràng về nhau, dễ hình thành cách thức ràng buộc để có thể thưởng
phạt lẫn nhau tuỳ theo hiệu quả của quan hệ. Tương ứng với trình độ cộng đồng
này, những hoạt động thương mại ban đầu cũng dựa trên thông tin trực tiếp về
mỗi cá nhân được lan truyền nhanh chóng và thường xuyên trong cộng đồng địa
phương, trong trường hợp Việt Nam là trong lũy tre làng.
“Sống lâu mới biết đêm dài
ở lâu mới biết con người có nhân”
Lời khen, tiếng chê của xóm làng không những là phần thưởng, là hình phạt về
mặt tinh thần đối với mỗi cá nhân mà đó còn là điều kiện sinh sống, là bảo đảm an
ninh cho cá nhân và từng gia đình.
76
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001
77
Hượu, T. Đ. 2001.
176
trường học từ các phủ quan tách ra thành trường tư mà Khổng Tử là người đi đầu.
Chế độ thi cử để làm quan được áp dụng nhằm tuyển chọn người có năng lực vào
các vị trí lãnh đạo.
Chế độ phong kiến châu á có sự thoả hiệp giữa chính quyền nhà vua và chính
quyền thôn xã: trên toàn quốc, đất đai vẫn thuộc sở hữu của nhà vua, toàn dân là
thần dân dưới quyền vua. Quan hệ thống trị của nhà nước phong kiến vẫn đóng
vai trò tuyệt đối về chính trị, kinh tế và kể cả tôn giáo. Nhưng ở các làng xã, địa
chủ hào tộc nắm quyền cai trị theo chế độ gia trưởng với một mức độ quyền tự trị
nhất định. Các làng xã nắm quyền thu thuế, giữ an ninh, cung cấp lao dịch cho
nhà vua và thi hành các luật tục của địa phương một cách tương đối độc lập.
Trong nhiều trường hợp quyền lực của hào tộc địa phương thậm chí còn mang
tính cát cứ nhỏ ở châu quận.
ở châu Âu, vua giao đất cho nông dân quản lý hoặc giao cho quan lại phong
kiến và đổi lại, nông dân, quan lại có trách nhiệm đóng thuế và phụng sự tận tình
cho nhà vua. Nông nô không có đất và bị ràng buộc với chủ nô.
Đến lúc này xuất hiện các hệ tư tưởng mới phù hợp với sự vươn lên của cơ chế
nhà nước. Tại Trung Hoa, Mặc Tử phản đối quan niệm về mệnh trời giao cho một
họ tộc nhất định, chống việc phân biệt con người theo tôn tộc, thân phận, chủ
trương lựa chọn người lãnh đạo hiền tài không phân biệt tôn tộc, lấy hình chính
thay cho cách cảm hoá bằng đức độ, đề cao thưởng phạt bằng pháp luật.
Khi họ hàng không còn là tiêu chuẩn cho cộng đồng, bộ máy nhà nước cũng
không thễ dùng “lễ” để cai trị được. Trong những nhà nước giai đoạn này, pháp
luật được đề cao, luật lệ dần mang tính khách quan và công bằng, “Pháp trị” trở
thành công cụ chính của nhà nước để quản lý xã hội. Tiêu chuẩn phân sử đúng sai
phải trái lúc này không còn là ý kiến của bề trên, không phải là đạo đức gia đình
mà phải so sánh với chuẩn mực pháp luật đã ban hành. Pháp trị đặc biệt được đề
cao dưới thời Tần Thủy Hoàng trên một đế chế Trung Hoa thống nhất
Cơ chế thị trường bắt đầu khởi động, phương thức xuất phát của hoạt động thị
trường là quan hệ kinh doanh trực tiếp giữa từng cá nhân cùng sống trong một địa
phương. Thật đơn giản và an toàn khi buôn bán trong phạm vi làng xã, nơi mọi
người đều biết nhau, nơi dễ dàng thu thập thông tin và một đối tượng cần giao
dịch, và dễ dàng áp dụng các hình thức hình thức thưởng phạt khi giao dịch thành
công hay thất bại.
177
Khi thị trường lan rộng ra ngoài lũy tre làng, “một giọt máu đào hơn một ao
nước lã”, những người được tin cậy gửi gắm tiền bạc, cử đi giao dịch trước hết là
người trong gia đình, rồi đến người trong họ tộc và bạn bè thân quen, những
người đồng hương, là những người được biết rõ, dễ dàng tìm hiểu thông tin và ít
nhiều còn “nắm được đằng chuôi” trong mọi tình huống rủi ro. Đây là cơ chế đã
được áp dụng rộng rãi ở châu Âu vào thế kỷ XII, khi thương mại phát triển dùng
cơ chế cộng đồng làm công cụ. Trong cơ chế này, một cộng đồng này sẽ bảo lãnh
tư cách cho thành viên của mình trước cộng đồng khác. Khi thành viên bội ước
với cộng đồng khác, mỗi cộng đồng sẽ xử phạt thành viên của mình để bảo vệ uy
tín giữa hai cộng đồng.
Ví dụ, khi một thương nhân ở Giơnoa quịt nợ một thương nhân ở Luân Đôn,
nhận được khiếu kiện của các thương nhân Luân Đôn, người lãnh đạo cộng đồng
Giơnoa sẽ trừng phạt người mắc nợ tại đây78. Đáp ứng với trình độ mở rộng của
quan hệ cộng đồng, trong cơ chế thị trường, hình thức buôn bán trực tiếp giữa
những người trong cùng địa phương, cùng dòng tộc, chuyển sang hình thức buôn
bán thông qua những người ủy quyền. Hình thức giao dịch trực tiếp được thay thế
bằng hình thức ủy nhiệm để xác định danh tính, thông tin về đối tượng và thực
hiện thưởng phạt trong giao dịch.
78
Ngân hàng Thế giới 2000.
178
bán lớn, giữa người mua với người bán,…). Để bảo vệ quyền lợi của mình, các
hình thức liên kết ngành nghề như hiệp hội, hợp tác xã,… các tổ chức bảo vệ giai
tầng như các nghiệp đoàn, công đoàn, các đảng phái chính trị… xuất hiện và trở
thành những sinh hoạt cộng đồng có tổ chức rõ ràng và năng động nhất trong hoạt
động xã hội. Trong bối cảnh đó, học thuyết của Mác ra đời coi đấu tranh giai cấp
là động lực phát triển xã hội.
Khái niệm cộng đồng đã mở rộng ra qui mô giai cấp cũng là lúc thương trường
ngày càng lan rộng, đối tượng giao dịch lan ra liên vùng, liên quốc gia, hoạt động
buôn bán diễn ra trên phạm vi rộng lớn hơn và trở nên khó quản lý, khiến cho các
công cụ của một cơ chế cộng đồng hẹp ngày càng mất tác dụng. Kinh doanh thông
qua uỷ quyền giao dịch trung gian trở thành phương thức hoạt động phổ biến của
cơ chế thị trường.
Hộp 40. Hệ thống tiếp thị của người Maghribi, chuyển tiếp từ buôn
bán trực tiếp sang đại lý thương mại
Thế kỷ XI những nhà buôn vùng Maghribi ở Bắc Phi đã kinh doanh rất hiệu
quả trong vùng Địa Trung Hải bằng cách mang hàng đi bán và xây dựng hệ thống
tiếp thị đáng tin cậy trong cộng đồng thông qua các trung tâm thương mại để mở
rộng và duy trì thị trường. Việc ngã giá tiến hành tự do và trực tiếp giữa người mua
và người bán, thông qua giao dịch trực tiếp, trung gian đại lý, và đấu giá. Hệ thống
này áp dụng các biện pháp trừng phạt tập thể khi hợp đồng bị vi phạm.
Khi muốn mở rộng phạm vi kinh doanh ra các nước khác ngoài vùng Địa Trung
Hải, họ phải đương đầu với các qui định và hạn chế chính thức, khó khăn trong
thoả thuận giá bán, chất lượng hàng, và rủi ro trộm cướp. Để đối phó lại, người
Maghribi thành lập những đại lý nước ngoài tại các trung tâm thương mại xung
quanh vùng để trao đổi thông tin và làm đại diện giao dịch thương mại. Những đại
lý này do những người trong cộng đồng cử đi điều hành nên vẫn đáng tin cậy. Nhờ
đó, tuy thương gia không phải trực tiếp mang hàng đi bán nhưng vẫn nắm chắc
thông tin về kinh doanh thông qua hệ thống quan hệ cộng đồng. Mạng lưới tổ chức
cộng đồng này áp dụng những điều luật không thành văn để giữ hoạt động kinh
doanh đạt hiệu quả ở cả trong nước và nước ngoài. (Nguồn; Ngân hàng Thế giới
2002)
Những người môi giới trung gian (broker), các công ty bảo hiểm, các ngân
hàng thương mại, các của hàng đại lý... làm dịch vụ xác định danh tính, thu thập
thông tin và trong chừng mực nhất định, làm công việc thưởng phạt. Hình thức
thưởng chính của cơ chế thị trường là bán rẻ, ứng trước hàng, thanh toán thuận lợi
179
cho khách có uy tín tốt và hình thức phạt là bán đắt, ngừng giao dịch, đòi hỏi thủ
tục phức tạp,... với khách lạ hoặc kém uy tín.
Để bảo vệ trật tự các hoạt động giao dịch kinh doanh của cơ chế thị trường hoạt
động thông qua nhiều đầu mối trung gian, các chế tài của cơ chế nhà nước tham
gia hỗ trợ và thay thế cho cơ chế cộng đồng. Tại nước Anh năm 1275, vua
Edward I ban hành đạo luật nghiêm cấm các cộng đồng đứng ra chịu trách nhiệm
cho các món nợ79.
Douglass North viết: “ở buổi đầu của châu âu hiện đại, các thể chế này đã làm
cho vai trò của nhà nước tăng lên trong việc bảo vệ các thương nhân và trong việc
áp dụng các bộ lụât thương mại khi tiềm năng thu nhập của các hoạt động tài
chính như thế tăng lên. Tuy nhiên, trong môi trường này, vai trò của nhà nước vẫn
chưa rõ ràng vì nhà nước vừa như một kẻ gây bất an ngày càng lớn lại vừa là
người bảo vệ và người thực thi các quyền sở hữu”80.
Để đảm bảo tính khách quan của luật pháp khi giải quyết mâu thuẫn giữa các
giai cấp khác nhau trong xã hội, những giải pháp thể chế nhà nước khác nhau
được sáng tạo và thử thách, hướng đến kết quả phân quyền, nhằm tạo ra các đối
trọng quyền lực. Mô hình "Tam quyền
phân lập"được Aristốt, J. Lốccơ nêu
lên ý tưởng và Môngtexkiơ chủ trương
tỏ ra hiệu quả nổi bật. Môngtexkiơ
viết: "tự do chỉ có ở những thể chế
chính trị mà trong đó pháp luật thống
trị, pháp luật đó được bảo đảm khỏi sự
phá vỡ nó bằng cách phân chia quyền
lực tối cao thành quyền lập pháp,
quyền hành pháp và tư pháp. Sao cho các quyền này kiềm chế lẫn nhau 81". Nhờ cơ
chế hoạt động và bộ máy tổ chức độc lập, ba bộ phận quan trọng này vận hành
trong sự kiểm soát, ràng buộc lẫn nhau, tạo nên năng lực điều hành khách quan và
công bằng của luật pháp bên trong bộ máy nhà nước, mở đường cho các thể chế
lập hiến 1791 ở Pháp và 1787 ở Mỹ.
Kinh tế phát triển, tính chất của các cộng đồng xã hội tại các quốc gia công
nghiệp tiếp tục thay đổi. Khi sản xuất chuyển sang giai đoạn chuyên môn hoá,
phân công lao động mạnh, thì sản phẩm hàng hoá không còn được sản xuất bởi
từng hộ gia đình nông dân, từng doanh nghiệp công nghiệp. Sản phẩm đầu ra của
cơ sở sản xuất này lại là nguyên liệu đầu vào của một cơ sở sản xuất kinh doanh
79
Ngân hàng Thế giới 2002.
80
North D. C.,1990, NXB Khoa học xã hội 1998.
81
Thông, H. V. (và tập thể tác giả) 2000.
180
khác. Quyền lợi gắn con người với nhau theo chuỗi dọc của dây truyền sản xuất
và kinh doanh hàng hoá.
Ngày nay, những nông dân trồng mía sản xuất nhỏ liên hệ mật thiết với các
công nhân và chủ doanh nghiệp của nhà máy đường trong vùng nhiều hơn quan hệ
của họ với người nông dân trồng lúa ở vùng bên cạnh. Các hiệp hội ngành nghề
liên kết quyền lợi của người sản xuất kinh doanh, liên kết mọi người theo từng
ngành hàng nhờ chia sẻ thông tin, cung cấp tín dụng, thống nhất công nghệ, liên
kết tiếp thị và thậm chí cả đấu tranh cho các chính sách thuận lợi với từng ngành.
Cộng đồng trong xã hội hiện đại là cộng đồng ngành hàng, và các cộng đồng
cùng quyền lợi sản xuất, kinh doanh, sinh sống như cộng đồng nông thôn, cộng
đồng thị dân,… Một ví dụ điển hình về sự thay đổi chất lượng của cộng đồng là ở
các nước công nghiệp, đóng góp của ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ không đáng
kể (2-5%) trong cơ cấu kinh tế, tỷ lệ lao động nông nghiệp và dân cư nông thôn
rất nhỏ nhưng vai trò chính trị xã hội của ngành nông nghiệp và nông dân lại rất
mạnh. Chính sách nông nghiệp là loại chính sách nhạy cảm nhất mà các nguyên
thủ quốc gia đều nể sợ.
Thập kỷ 1870, sau khi chiếm đóng 6 tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp đẩy mạnh
phát triển sản xuất lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, hình thành vùng sản xuất lúa
hàng hoá xuất khẩu. Lúc này hệ thống kinh doanh gạo Nam Bộ do hai cộng đồng
doanh nhân hoàn toàn khác nhau về văn hoá, công nghệ, tổ chức nắm giữ. Cộng
đồng người Hoa nắm khâu thu mua từ nông dân, vận chuyển về các kho vựa tại Sài
Gòn- Chợ Lớn. Cộng đồng các doanh nhân người Âu nắm việc vận chuyển gạo lên
tầu buôn và xuất khẩu đi các thị trường quốc tế. Hệ thống đại lý không giúp hai
cộng đồng kinh doanh hoạt động ăn khớp khiến chất lượng gạo kém, không đồng
đều và làm giảm khả năng cạnh tranh.
Để khắc phục, ngày 12/9/1874, tại một nhà hàng trên đường Catinat, các thương
nhân thuộc hai cộng đồng đã họp lại ký một biên bản có nội dung như sau: “…Lo
lắng về tình trạng lúa gạo của chúng ta bị mất giá trên mọi thị trường tiêu thụ do
chất lượng kém, mà nguyên nhân là vì người bản xứ cũng như chính những tiểu
thương người Hoa ở Chợ Lớn đã không làm sạch hạt gạo và pha trộn gạo… Tất cả
những thương nhân người Hoa ký tên dưới đây hứa danh dự với người Âu và với
chính bản thân họ rằng: …Hai loại gạo ngon sẽ được bán cho thương nhân người
181
Âu là gạo Gò Công hay gạo tròn, và gạo Vĩnh Long hay gạo dài, đúng theo hạt gạo
làm mẫu. Các loại gạo này không có bất cứ sự pha trộn nào và không được vượt
quá 3%-5% thóc… Gạo bán ra không phù hợp với các hợp đồng đã ký sẽ phải bồi
thường theo ấn định của các trọng tài. Gạo làm mẫu sẽ đặt tại Phòng Thương Mại,
được sử dụng để đối chiếu trong trường hợp có tranh chấp”.
Không rõ biên bản trên có tác dụng đến mức nào, nhưng sau đó hệ thống kinh
doanh lúa gạo ở Nam Bộ ngày càng trở nên hoàn thiện và đã biến vùng này trở
thành vùng chuyên canh xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. (Nguồn: tài liệu lưu trữ
Trung tâm Lưu trữ TW II, dẫn theo Xưa và Nay 3/1997).
Với sự gắn kết mới của cơ chế cộng đồng, cơ chế thị trường cũng vận hành
theo những công cụ mới. Hàng hoá từ nông trại từ nhà máy được chuyển đến các
thị trường trong và ngoài nước thông qua một chuỗi tiếp thị phức tạp và chuyên
môn hoá cao. Ngày nay người sản xuất, kinh doanh không thể chỉ bán hàng thông
qua các đại lý ủy quyền riêng của mình. Các doanh nghiệp làm dịch vụ phân phối
lưu thông cùng một lúc buôn bán hàng loạt mặt hàng có thương hiệu và nguồn gốc
khác nhau. Người mua hàng chỉ cần bước vào một trung tâm thương mại hoặc
siêu thị là có thể mua được đủ loại mặt hàng trong và ngoài nước.
Trong một hệ thống thị trường linh động như vậy, con người chuyển sự tin cậy
vào địa chỉ cửa hàng, vào uy tín đại lý uỷ quyền sang đặt niềm tin vào chất lượng,
tiêu chuẩn kỹ thuật của hàng hoá dựa trên thương hiệu, nhãn mác,… Hình thức
kinh doanh thông qua ủy quyền đã chuyển sang kinh doanh gián tiếp. Việc đăng
kýýý, bảo hộ nhãn hiệu tiêu chuẩn được thực hiện bởi các cộng đồng hiệp hội
ngành hàng, có sự trợ lực tích cực hoặc tham gia trực tiếp của nhà nước.
Cơ chế nhà nước đáp ứng với hình thức hoạt động mới, coi trách nhiệm của
mình là bảo vệ các hoạt động, các nhãn mác, thương hiệu đã đăng ký và cung cấp
dịch vụ công phục vụ công dân. Dân bầu ra bộ máy nhà nước, nộp thuế cho nhà
nước để được hưởng các dịch vụ công cộng do bộ máy này cung cấp. Nhà nước
đảm bảo an ninh, cung cấp phúc lợi xã hội, tạo môi trường bình ổn vĩ mô, đảm
bảo điều kiện pháp lý cho hoạt động kinh tế của mọi công dân. Trong thể chế nhà
nước kiểu này, vai trò của các cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ trong việc
tham gia xây dựng chính sách, giám sát vận hành của nhà nước diễn ra một cách
tích cực và chủ động.
Xuất phát từ những tư tưởng tiên phong của I. J. Lốccơ, trong "Sự luận giải về
chính quyền" (1690), 250 năm sau, các “khế ước xã hội” ra đời, chia sẻ quyền lực
của nhà nước với sự tham gia quản lý xã hội của các đảng phái, hội đoàn trong bộ
182
ba nhà nước-xã hội chính trị-xã hội công dân. Xã hội thần dân trở thành “xã hội
công dân” . Quan hệ cai trị của nhà nước với nhân dân chuyển sang vai trò nhà
nước phục vụ công dân. Trong xã hội công dân, xã hội được tổ chức thành các
đảng phái, đoàn thể quần chúng như các nghiệp đoàn, hiệp hội, đảng chính trị,...
mỗi tổ chức đại diện cho một tầng lớp, cộng đồng nhất định trong xã hội. Các tổ
chức này hình thành một cách độc lập và đa nguyên trong khuôn khổ pháp luật
nhằm thể hiện ý chí, bảo vệ quyền lợi và tạo ra sức mạnh cho mỗi cộng đồng đa
dạng của toàn xã hội.
Với sự hình thành xã hội công dân, yêu cầu bình đẳng pháp lý của mọi con
người từ mức phân quyền đối trọng trong bản thân bộ máy nhà nước được nâng
lên bảo đảm ở mức cao hơn nhờ xuất hiện mối quan hệ giám sát độc lập giữa xã
hội công dân và nhà nước. Thông qua các hình thức biểu tình, tuần hành, bãi
công, lấy
Hộp 42. Thể chế cộng đồng mạnh mẽ ở Đức-hiện tượng “hoà bình
xã hội”
Người lao động ở Đức tập hợp lại trong thể chế cộng đồng vững mạnh và có thế
lực để đấu tranh với giới chủ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Nhà nước
công nhận và bảo vệ thể chế này thông qua luật pháp, hệ thống toà án và những
hiệp định tập thể giữa công nhân và chủ doanh nghiệp.
Luật “Tham Quyết” qui định: trong mọi công ty có trên 2000 công nhân, thì đại
diện của công đoàn và người lao động phải chiếm 50% Ban giám sát công ty, trong
ban giám đốc công ty phải có 1 “giám đốc công nhân” do công nhân bầu ra, đại
diện cho quyền lợi của họ. Có 800 công ty với 5 triệu lao động áp dụng Luật này.
Trong các công ty có Hội đồng công nhân để thay mặt người lao động đàm phán
những vấn đề không có trong Hiệp Định tập thể.
Theo Luật “Hợp đồng lương”, công đoàn và hiệp hội chủ doanh nghiệp tiến
hành hàng trăm cuộc đàm phán Hiệp định Tập thể hàng năm, thoả thuận về lương
và điều kiện lao động. Mặc dù chỉ có 30% lao động tham gia công đoàn, nhưng
90% lao động được trả lương theo Hiệp định. Hiện có 5 vạn Hiệp định đã được ký
kết. Lương của Đức vào loại cao nhất thế giới. Ngoài ra, người lao động còn 58%
thu nhập từ các khoản bảo vệ xã hội ngoài lương.
Khoảng 50 vạn công ty, hiệp hội ngành nghề, và cơ quan nhà nước cùng hợp
tác điều hành hệ thống vừa học vừa làm đào tạo 400 ngành nghề. Mỗi năm 70%
thanh thiếu niên sau khi tốt nghiệp lớp 10 tham gia học nghề trong 3 năm. Sau khi
tốt nghiệp trung học, 80% người Đức có giấy chứng nhận học nghề. Kể cả các sinh
viên đại học cũng đăng ký tham gia học nghề. Riêng năm 1990, các doanh nghiệp
183
đã chi 15 tỷ USD đào tạo nghề cho nhân viên.
Do những cơ chế cộng đồng chặt chẽ vừa bảo vệ người lao động vừa nâng cao
phúc lợi và tay nghề cho họ nên ở Đức duy trì được tình trạng “hoà bình xã hội”:
không có bãi công lớn, các hãng yên tâm đầu tư, công nhân yên tâm sản xuất (trung
bình ở Đức một công nhân làm việc 10,4 năm mới phải đổi việc, trong khi ở Nhật
là 10,9 năm và Mỹ là 6,7 năm). Kết quả năng suất lao động và kỹ năng lao động
của công nhân Đức đều đứng đầu thế giới. (Nguồn: ân Đ. V., Thành , V. T. (chủ
biên) Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, NXB Thống kê, Hà Nội-2002.)
chữ ký... gây "áp lực đường phố"; thông qua báo chí, dư luận, điều tra xã hội,
nghiên cứu môi trường, thăm dò dư luận,... tạo "áp lực công luận"; thông qua ủng
hộ tranh cử, cung cấp thông tin, đóng góp ngân sách... tạo tác động "vận động
hành lang",... các giai tầng, các nhóm xã hội có phương thức tác động thẳng đến
hoạt động nhà nước để bảo đảm sự tương xứng cân đối về lợi ích cho nhóm mình
và nhờ đó tạo thế công bằng, hài hoà chung trong toàn xã hội82. Mối quan hệ trong
cơ chế nhà nước có sự thay đổi từ đối trọng sang giám sát. Tạo ra sự công bằng và
hiệu quả không phải chỉ nhờ phân quyền mà là còn nhờ giám sát khách quan.
Trong hình thái nhà nước mới, người chủ là nhân dân không chia quyền với tổ
chức phục vụ mình là nhà nước mà tăng năng lực giám sát nó, buộc nó thực sự
phục vụ tốt cho mình.
Trong một xã hội có nhiều cộng đồng phân chia thành các nhóm lợi ích thì thể
chế nhà nước của một nền dân chủ hiện đại chuyển sang chế độ đại diện phân tán
trong hoạt động lập pháp. North ví dụ: “trong tổ chức nhà nước Mỹ có những
người cao tuổi ở Florida và Arizona, có những người thợ mỏ ở Pensivania và Tây
Virginia, những người trồng cây atisô ở Caliphonia, những người chế tạo ô tô ở
Michigan vv…Vì có rất nhiều nhóm lợi ích, nên không hề có một nhóm lợi ích
nào mà một nhà lập pháp có thể đại diện có khả năng hình thành được một đa số.
Do đó các nhà lập pháp không thể thành công được nếu hành động đơn độc, mà
phải đạt được những thỏa thuận với các nhà lập pháp khác đại diện cho các nhóm
quyền lợi khác nhau.”83 Để thoả thuận với nhau, các nhà lập pháp đã áp dụng cả
cơ chế thị trường như việc mua bán phiếu bầu, cơ chế cộng đồng như các hoạt
động thông đồng với nhau84 và cơ chế nhà nước như hình thành các thể chế chính
trị để xác lập một cam kết ổn định cho tương lai85.
82
Thư, V. 2003
83
North D. C.,1990, NXB Khoa học xã hội 1998.
84
Buchana J. M. và Tullocck, G., 1962
85
Weingast và Marshall, 1988.
184
Cơ chế thời kinh tế tri thức
Trong tương lai, quá trình “toàn cầu hoá” thông qua hội nhập sản xuất, kinh
doanh, trao đổi văn hoá, khoa học,... trên toàn thế giới một lần nữa đang thay đổi
bản chất của cả 3 cơ chế. Hàng hoá ngày nay được sản xuất phân tán tùy theo lợi
thế so sánh của mỗi địa phương, tạo nên phân công sản xuất toàn cầu. Khó mà có
thể gắn nhãn sản xuất tại một nước nào cho chiếc máy tính ngày nay vì nó được
lắp bằng các bộ phận làm ra từ nhiều nơi trên thế giới: con chíp vi mạch sản xuất
ở Nhật, đĩa cứng bộ nhớ ở Mỹ, màn hình và các bộ phận điện ở Đài Loan, con
chuột và các bộ phận phụ trợ ở Malaysia, vỏ máy và các bộ phận cơ ở Trung
Quốc, lắp ráp ở Việt Nam, và phần mềm điều hành của Mỹ. Nếu tính đến cấp
doanh nghiệp thì mức độ phân tán và phối hợp còn cao hơn nhiều. Một chiếc máy
bay Boing 747-400 được tạo nên bởi trên 6 triệu chi tiết, do 6000 hãng sản xuất
lớn trên thế giới làm ra, chỉ riêng khâu lắp ráp đã do hơn 1000 người thực hiện.
Trong bối cảnh đó, khái niệm cộng đồng lại tiếp tục thay đổi. Quan hệ giữa cá
nhân con người trở nên rất ngắn hạn, người ta kết bạn nhanh, chia tay nhanh, sự
ràng buộc bên trong gia đình, cơ quan trở thành lỏng lẻo hơn xưa. Tỷ lệ người
sống độc thân, tỷ lệ li dị, li thân tăng, mỗi doanh nghiệp không còn là một pháo
đài nơi người ta làm việc cả đời, và công nghệ, thông tin được bảo vệ vĩnh viễn 86.
Mỗi sản phẩm tạo ra có sự tham gia của một tập thể đông đảo người lao động,
người quản lý, người góp vốn, người nghiên cứu từ nhiều đơn vị, nhiều quốc
gia… mỗi sản phẩm lại được đem bán trên nhiều thị trường với sự phối hợp của
nhiều người kinh doanh, tiếp thị, từ nhiều quốc gia, nhiều giai tầng xã hội, đem lại
sắc thái mới của quan niệm cộng đồng. Trong tương lai, những nhóm người có
chung quyền lợi, chung sở thích sẽ liên kết nhau về quyền lợi kinh tế, tinh thần
vượt qua giới hạn biên giới quốc gia, thậm chí ra ngoài ranh giới ngành hàng.
Xưa nay, các doanh nghiệp liên kết hệ thống theo chiều dọc từ doanh nghiệp
con chuyên cung cấp nguyên liệu và lắp ráp đến doanh nghiệp mẹ chuyên nghiên
cứu công nghệ,… quản lý bằng mệnh lệnh tập trung, bí quyết công nghệ, và vốn
đầu tư khép kín.
Hệ thống quản lý của Thung lũng Silicon ở California Hoa Kỳ là kiểu tổ chức
của nền kinh tế trí thức, trong đó quan hệ cộng đồng trải rộng cả ngành hàng, vượt
qua ranh giới từng công ty. Các công ty trong Thung lũng, trong khi vẫn cạnh tranh
nhau gay gắt, lại khuyến khích nhân viên học hỏi, chia sẻ kiến thức, qui trình công
nghệ liên quan. Công nhân thường xuyên chuyển chỗ làm, các công ty có đủ mọi
86
Xem Cú sốc tương lai, Alvin Toffler, NXB Thanh Niên 2002.
185
thông tin về đối thủ của mình. Họ trao đổi giám đốc, cổ đông và chủ nợ, nhân công
và thiết bị, cùng làm việc trong các khu nhà liên cơ. Cả kiến trúc công ty cũng
không khép kín trong bốn bức tường của các khu công sở riêng rẽ như trước.
Nguyên tắc cạnh tranh của một cộng đồng kinh doanh mới không còn là bảo
mật thông tin và trung thành của thành viên, ngược lại, là rút ngắn con đường tiếp
cận thông tin, chọn đúng thông tin, phát huy sáng tạo thông qua phi tập trung hoá
quản lý. Do đó, cả vùng công nghệ phải là một cộng đồng phối hợp và gắn bó với
nhau về thông tin, công nghệ và văn hoá.
Khu công nghệ điện tử cao cấp nhất thế giới này qui tụ về đây không chỉ cán bộ
lập trình hay kỹ sư tin học mà đủ mọi chuyên ngành chuyên môn, từ vật lý hạt
nhân, ngôn ngữ học đến phê bình văn học... Nước Mỹ là một quốc gia hợp chủng,
nhưng Thung lũng Silicon còn pha tạp hơn nhiều. Cư dân ở đây có đủ mọi loại văn
hoá khắp thế giới, không hạn chế về ngôn ngữ, tôn giáo, sắc tộc, tài chính,…mọi
người có rất ít quan hệ họ hàng ở nước Mỹ. Chính liên kết xã hội lỏng lẻo khiến
thông tin được trao đổi với tốc độ rất nhanh, tư duy sáng tạo không bị một rào cản
kinh tế xã hội nào.
Các nhà khoa học thường đến Thung lũng với cái túi rỗng, không có vốn liếng
để thế chấp vay vốn ngân hàng, lại không có sự bảo lãnh của chính phủ, nếu ở một
nơi khác trên thế giới thì các nhân tài của Thung lũng đã chết đói. Tuy nhiên, trong
một nền tài chính hiện đại, cơ chế lạ lùng gọi là “Quĩ đầu tư kinh doanh” cho phép
những người hoàn toàn xa lạ sống ở khắp nước và cả ngoài nước Mỹ giao những
món tiền họ giành dụm cả đời cho những người hoàn toàn xa lạ khác thông qua một
bên trung gian mà cả bên cấp vốn lẫn bên nhận vốn chưa bao giờ gặp. Tại Mỹ, hoạt
động đầu tư môi giới này năm 1987 mới lẻ tẻ nhưng đến năm 2000 đã thu hút 103
tỷ USD, cao hơn toàn bộ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc.
Khác với các khu công nghệ cao ở ấn Độ, Trung Quốc, Singapore, Thung lũng
Silicon không nhận được đầu tư ưu đãi, hỗ trợ chính sách và pháp lý đặc biệt nào
của chính phủ Mỹ. Khi Chính quyền Bush cử người đứng đầu ủy ban công nghệ
cao của Chính phủ, ông Floyd Kvamme đến để liên hệ và hỗ trợ cho Thung lũng thì
cộng đồng này đã giữ khoảng cách độc lập với chính quyền. Thung lũng cần tự do
sáng tạo và cạnh tranh chứ không muốn được ưu đãi và trợ cấp.
Cái mà nước Mỹ đem lại cho Thung Lũng là một cơ chế cấp vốn dựa vào triển
vọng hiệu quả và những thể chế bảo vệ sức sáng tạo khỏi sự lợi dụng của chính phủ
cũng như cá nhân. Một cơ chế cho phép kết hợp giữa các nhân tài đến từ khắp nơi
trên thế giới tràn đầy tư tưởng tự do và năng lực sáng tạo với một nguồn vốn khổng
lồ từ tiết kiệm của hàng triệu người khác, đã tạo nên thành công thần kỳ của cộng
đồng công nghệ cao ở Thung lũng Silicon. Từ 1975 đến 2000, Thung lũng đã tạo ra
150 nghìn việc làm mới trong lĩnh vực công nghệ cao, đến 1990, đã xuất khẩu hơn
11 tỷ USD hàng, chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu điện tử của Hoa Kỳ
(Nguồn Hilton Root, 2003).
186
Khi bệnh viêm đường hô hấp cấp (SART) hay dịch cúm gà bùng nổ ở Châu á,
sự thành bại của các nông trại chăn nuôi, cán bộ thú y, các bác sỹ trong các bệnh
viện chống lây nhiễm và hệ thống kiểm soát vệ sinh dịch tễ bỗng trở thành mối
quan tâm hàng đầu của những các hãng hàng không, các doanh nghiệp du lịch, hệ
thống khách sạn và trở thành mối quan ngại của cả những người làm việc ở các
ngành tiểu thủ công nghiệp, ngân hàng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông...
Tương tự như vậy, nạn khủng bố quốc tế chỉ ra cho chúng ta thấy mối dây liên
hệ chặt chẽ giữa một chuỗi hoạt động và ngành hàng: an ninh-quốc phòng-hàng
không-du lịch-đầu tư-ngân hàng-thông tin liên lạc… Quan hệ cộng đồng mới
đang dần trở nên quan trọng, dưới hình thức sự ràng buộc về lợi ích giữa các
nhóm người có thể làm việc ở các lĩnh vực và sinh sống ở những địa phương rất
xa nhau, thậm chí giữa các quốc gia, các lục địa khác nhau. Đó là những cộng
đồng quyền lợi.
§ ång lî i Ých
C«ng d©
n
Giai cÊp
§ Þa ph ¬ng
HuyÕt thèng
LÔtrÞ Ph¸p trÞ § èi träng Gi¸m s¸t
Trùc tiÕp
ñ y quyÒn
Gi¸n tiÕp
KÕt nèi
Một thị trường toàn cầu cũng tạo ra những công cụ mới cho cơ chế thị
trường. Hàng hoá được sản xuất và phân phối theo mạng toàn cầu. Internet và
hệ thống chuyển ngân điện tử cho phép các hoạt động thương mại điện tử phát
triển: người ta có thể quảng cáo, giao dịch, thương thảo, thiết kế theo yêu cầu,
ký kết hợp đồng, thanh toán, tư vấn thông qua mạng điện tử. Các hoạt động
khác như vận chuyển, giao nhận hàng hoá, bảo hành, bảo dưỡng được làm theo
các hoạt động ủy quyền từ các đại lý, chi nhánh đại lý đặt phân tán khắp nơi
trên thế giới. Hàng hoá được lắp ráp, thiết kế, cắt may theo sát yêu cầu thị
187
hiếu, phù hợp khả năng thanh toán của khách hàng tại các cơ sở sản xuất, chế
biến đặt sẵn ở các khu vực, các quốc gia gần với khách hàng nhất và có chi phí
rẻ nhất. Thị trường mạng liên kết hình thành và phát triển kết nối thẳng người
bán với người mua, người chăm sóc khách hàng, người sản xuất hàng hoá.
Một chiếc xe Ford hiệu "Escape" ở Việt Nam có chất lượng, giá cả, kiểu
dáng, và đặc tính kỹ thuật khác hẳn một chiếc xe Ford hiệu "Explorer" lắp ráp
tại Mỹ, điều quan trọng là người tiêu dùng ở cả hai nước đều hài lòng với sự
lựa chọn của mình và chế độ chăm sóc hậu mãi của đại lý của hãng đặt tại mỗi
nước.
Cơ chế cộng đồng mới, cơ chế thị trường mới cũng đi kèm với cơ chế nhà
nước mới. Các công cụ của cơ chế nhà nước mới khi thoả mãn nhu cầu của các
công dân nước mình cũng phải tính đến lợi ích của những thành viên cộng
đồng liên quan nhưng sống ở các nước khác. Quá trình toàn cầu hoá trong thể
chế nhà nước có thể dẫn đến những hình thức rất cao như Chính phủ của Cộng
đồng chung Châu âu với quốc hội chung, đồng tiền chung, lực lượng vũ trang
chung, có thể ở dạng lỏng hơn như các Cam kết quốc tế của Liên Hiệp Quốc,
của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, các thoả thuận trong phạm vi một số
nước trong từng vùng, từng khu vực.
Hộp 44. Diễn đàn Xã hội Thế giới đối đầu với Diễn đàn
Kinh tế Thế giới
Năm 2003, Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) họp cuối
tháng 1 tại Davos, Thụy Sỹ với sự tham dự của 29 nguyên thủ quốc gia và thủ
tướng chính phủ, khoảng 2000 nhà chính trị quản lý kinh tế, lãnh đạo doanh
nghiệp, hoạt động khoa học, đại diện các tổ chức phi chính phủ, đại diện tôn giáo.
Các đại biểu tham dự 260 phiên họp theo các chủ đề khác nhau. Có thể coi đây là
họat động của cơ chế thị trường về các vấn đề thế giới đang phải đối đầu trong quá
trình toàn cầu hoá, như thị trường tài chính thế giới, kinh tế thế giới, cuộc đấu tranh
chống đói nghèo, chống khủng bố,... .
Song song với Diễn đàn WEF, tại Porto Alegre, Barazin đã diễn ra Diễn đàn Xã
hội Thế giới với sự tham gia của 100.000 đại biểu đến từ 157 nước và đại diện của
5000 tổ chức quần chúng trên thế giới. Đây là Đại hội quốc tế hàng năm được tổ
chức đồng thời với WEF, nhằm chống Diễn đàn Davos. Có thể coi đây là hoạt động
của cơ chế cộng đồng với nội dung phản đối mặt trái của quá trình toàn cầu hóa.
(Thời báo Kinh tế Việt Nam 10/2/2003.)
188
Ngày nay khi nguyên thủ quốc gia các nước tụ tập đến một nơi để tham dự các
cuộc họp thượng đỉnh toàn cầu hoặc hội nghị khu vực thì cảnh sát tại các nước
này cũng tất bật chuẩn bị để đối phó với các cuộc biểu tình tuần hành và các cuộc
hội thảo rộng lớn của các tổ chức quần chúng,
các NGO, cũng đến từ nhiều quốc gia trong
vùng hoặc trên toàn cầu. Các cuộc họp song
hành giữa các hội nghị kinh tế thượng đỉnh và
diễn đàn xã hội rộng rãi, sự trùng hợp giữa
các cuộc hội đàm căng thẳng giữa các chính
khách và không khí biểu tình sôi sục của quần
chúng bên ngoài tạo nên bầu không khí "xã
hội dân sự quốc tế".
Tất nhiên, sự méo mó, bất bình đẳng ghê
gớm của kinh tế toàn cầu, của xã hội loài
người ngày nay còn làm cho khái niệm "xã
hội dân sự toàn cầu" giống như một chuyện khoa học viễn tưởng hoang đường,
nhưng điều đáng nói là người ta đã nghe đến và hiểu về nó.
191
Trong xã hội hiện đại, các quan hệ giữa con người chuyển từ rất cố định và dài
hạn sang rất uyển chuyển và ngắn hạn. Quan hệ gia đình và cộng đồng cũng ngày
càng biến đổi linh động trong thời gian ngắn. Điều kiện để khu xử giữa các cá
nhân trong xã hội chuyển dần từ quan hệ ràng buộc chặt chẽ sang dựa trên các
phản ứng giao tiếp linh hoạt để tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới thông tin và tự
do sáng tạo. Phải tạo điều kiện thông tin đầy đủ và thực sự phân quyền để toàn
dân chủ động sáng tạo trong khoa học, trong nghệ thuật, chủ động ra quyết định
trong sản xuất, kinh doanh, phù hợp với lợi thế và nhu cầu khách quan của thị
trường.
Ngược lại, trong các cộng đồng lớn, trong cả xã hội nói chung, quan hệ số
đông lại trở nên lâu dài hơn, tin cậy ổn định hơn. Hình thành các đồng minh chính
trcơ chế, phối hợp với liên minh kinh tế và cộng đồng xã hội. Cơ chế cộng đồng
chuyển dần từ căn cứ về lòng tin cậy cá nhân sang sự gắn bó và phối hợp chung
về quyền lợi trong quá trình hội nhập.
Trong cộng đồng truyền thống, mọi người luôn dựa nhau theo kiểu “tắt lửa tối
đèn có nhau”, luôn luôn sẵn sàng và buộc phải liên đới trách nhiệm lẫn nhau về
tín dụng, an ninh, tư vấn, bảo hiểm,… nhưng lại khá là mơ hồ với những vấn đề
mang tính vĩ mô của cộng đồng lớn hơn, của quốc gia, quốc tế. Trần Đình Hượu
viết về người dân quê cổ xưa rằng họ“… chỉ biết làng thôi, dân giỏi nhất là biết
đến huyện, chứ làm sao mà biết nước được?”. Trong khi người ta ca ngợi nhiều về
lòng yêu nước quật khởi của nông dân xưa qua các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến,
ông chỉ ra rằng các phong trào nông dân đó hầu hết phải có sự dẫn đầu của giới
nho sỹ89.
Trong cộng đồng hiện đại, người ta ít biết hàng xóm nhà mình là ai, thừa tiền
không ai mua vàng dấu dưới chiếu, thiếu tiền không ai chạy đi vay anh chị em ruột.
Ngân hàng, thị trường chứng khoán, công ty bảo hiểm, luật sư riêng,…là những
định chế để con người trút gánh lo đời thường. Tuy nhiên, họ tự hào cuồng nhiệt
với các thành tích thể thao quốc gia, thường xuyên quan tâm đến cương lĩnh hành
động của các đảng phái cầm quyền, họ sẵn sàng bày tỏ chính kiến và quyền hạn của
mình bằng phiếu bầu, đơn thư, khi cần thiết là tham gia tuần hành, phản ánh với báo
chí về những vấn đề quốc gia, quốc tế. Khẩu hiệu “suy nghĩ toàn cầu, hành động địa
phương” là cách sống và việc của con người trong cộng đồng hiện đại.
Dòng đời mãi cuộn chảy, tốc độ tiến hoá của xã hội nhanh gấp hàng triệu lần
tốc độ tiến hoá của loài người. Sự phát triển của các cơ chế để theo kịp, để điều
chỉnh sự tiến hoá đó là rất nhanh. Do bản chất tự nhiên, bên trong mỗi cơ chế
chứa đựng những nghịch lý không thể tự bổ khuyết. Vì vậy, trong quá trình tiến
hoá, các cơ chế phải luôn đổi mới cùng với nhau để bổ sung hỗ trợ cho nhau.
89
Xem Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Trần đình Hượu, NXB Văn Hoá
2001.
192
Đúng như H. Root viết: “ở hầu hết các xã hội, cộng đồng, thị trường và tôn ti trật
tự tất cả đều được pha trộn với nhau và tương tác lẫn nhau như những cơ chế bổ
sung cho nhau”90. Sự tồn tại đồng thời và phát triển song song của các cơ chế là
đương nhiên vì các cơ chế không thể tồn tại một mình. Do hoàn cảnh lịch sử đặc
thù, ở châu á đã tồn tại tình trạng “chồng lấn cơ chế”. Sự phối hợp ngay từ ban
đầu này, một mặt, tạo trở ngại cho quá trình biến đổi xã hội, các cuộc đổi mới dễ
mang hình thức cải lương hơn các cuộc cách mạng thực sự, mặt khác lại mở ra lợi
thế của việc phát triển hài hoà xã hội, đi thẳng vào xu thế tiến hoá hiện đại. Có hai
việc cần làm để huy động được thế mạnh này một cách lành mạnh là:
- Loại bỏ sự bao trùm, khống chế của cơ chế cộng đồng cổ hủ lên hoạt
động của các cơ chế khác.
- Đổi mới nội dung hoạt động của các cơ chế cho phù hợp với tính chất
và yêu cầu của thời đại.
Lựa chọn cơ chế thích hợp
Sai lầm trong lựa chọn cơ chế điều chỉnh xã hội
“Tụt hậu”:
Do duy trì định kiến cứng nhắc trong tư duy, do lo ngại mắc sai
lầm, mất ổn định, do lo lắng về năng lực đổi mới, …nhiều quốc
gia không dám tính đến chuyện chủ động điều chỉnh cơ chế để
quản lý xã hội. Tất nhiên mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển
không ngừng của xã hội với khung quản lý cố định là không thể
tránh khỏi. Khi đó, sự duy trì trật tự xã hội cho hợp với khả năng
và hình thức quản lý cũ chẳng khác nào chuyện “chặt chân cho
vừa giày”, sẽ cản trở tiến trình vận động của xã hội và mâu
thuẫn chỉ tích tụ để dẫn đến bùng nổ lớn hơn. Từ thực tế châu Âu
công nghiệp hoá thế kỷ thứ 19, Mark đã rút ra qui luật về tính
thống nhất và đối lập giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất để chỉ ra sự bùng nổ tất yếu của cách mạng vô sản, nếu cơ
chế đó giữ nguyên không thay đổi.
Hình thức “tụt hậu” không chỉ có một dạng cứng nhắc. Nhiều nền kinh tế đã
chủ động điều chỉnh cơ chế quản lý xã hội nhưng thay vì thay đổi cơ chế quản lý,
hay điều chỉnh tỷ lệ điều hành của các cơ chế thì người ta chỉ tính đến chuyện
thay đổi các công cụ, giải pháp khác nhau của cơ chế cũ, cho đến khi không thể
khắc phục được mới chuyển sang dùng “bình cũ rượu mới”, vay mượn các công
cụ của các cơ chế khác vào khuôn khổ và danh nghĩa của cơ chế cũ. Chuyện
90
Hilton Root Sách chưa xuất bản.
http://usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhirctavn.html
193
“không chính danh” này không thể kéo dài và đảm bảo ổn định, nếu áp dụng trong
một thời gian ngắn, đây là cách hay để làm cho quá trình chuyển đổi êm đềm, nếu
kéo dài sẽ gây tác dụng đối nghịch, “rượu mới” bị biến chất, “bình cũ” bị nghi
ngờ, mong yên dân trở thành đánh mất lòng tin của dân, mất cả chì lẫn chài.
“Chệch hướng”:
Hiện tượng này không mang ý nghĩa chính trị như vẫn thường được dùng, ở
đây nhằm chỉ sự lựa chọn sai cơ chế thích hợp để điều hành xã hội. Ví dụ, các
nước theo chủ nghĩa xã hội hiện thực sau khi giành chính quyền thường bắt tay
vào quá trình tập thể hoá nông nghiệp. Xét về nguyên tắc, quá trình này phải được
điều chỉnh bằng cơ chế cộng đồng, dựa trên nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi,
ngoài ra cơ chế thị trường cũng đóng vai trò quan trọng vì hợp tác xã là tổ chức do
dân bầu ra nhằm bảo vệ quyền lợi của người nông dân sản xuất nhỏ và phục vụ
dịch vụ cho hộ nông dân để tăng khả năng cạnh tranh và ưu thế mặc cả trên
thương trường. Nhưng hầu hết các quốc gia theo mô hình XHCN hiện thực đều sử
dụng cơ chế nhà nước thay vì cơ chế cộng đồng hoặc thị trường để hình thành và
vận hành hợp tác xã, nông trang tập thể hay công xã nhân dân. Việc chọn nhầm cơ
chế điều hành tất yếu dẫn đến việc chọn nhầm mục tiêu và phương tiện.
Cuộc vận động nông dân bị chuyển thành quá trình cải tạo nông hộ cá thể, việc
hợp tác hoá kinh tế hộ trở thành công cuộc tập thể hoá tư liệu sản xuất. Khi đã
chọn sai cơ chế, hoạt động kinh tế xã hội không được điều chỉnh theo đúng qui
luật, sự trì trệ, đổ vỡ là không tránh khỏi. Ngoài nguy cơ “chệch hướng” do chọn
nhầm cơ chế, trong phần lớn trường hợp sai lầm, thường là chọn sai tỷ lệ phối hợp
giữa các cơ chế. Đáng lẽ sự vật, hiện tượng này nên được điều chỉnh bằng một sự
phối hợp giữa các cơ chế như thế này, nhưng một tổ hợp cơ chế khác lại được
đem áp dụng, tuy có thể sự chệch hướng không phải là 180o nhưng cũng đủ để quá
trình phát triển xã hội sai lệch khỏi khả năng tối ưu.
M î n c«ng cô cña c¬
chÕB,C
195
là câu nói ngu muội của Hoa Quốc Phong khi trở thành người
đứng đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc và được coi là đại diện của
phái “phàm là”: “Phàm là quyết sách của Mao chủ tịch đưa ra
thì chúng ta phải cương quyết ủng hộ; phàm là chỉ thị của Mao
chủ tịch chúng ta phải kiên quyết thi hành.91”.
Những cách lý sự đơn giản như vậy may thay, đang ít đi dần.
Trải qua quá trình phát triển xã hội, biết bao lý thuyết, tôn giáo
đã ra đời và được loài người tin theo và đương nhiên con người
ngoài những nhu cầu sinh tồn thiết yếu, luôn sống với những
niềm tin. Nhưng định hướng lý tưởng không phải là bản đồ chỉ
dẫn cụ thể cho con người đối phó với sự biến đổi hàng ngày của
thực tiễn đa dạng mà ngược lại, mọi luận thuyết, giáo lý cũng sẽ
luôn phát triển theo nhận thức của loài người.
Quyền của người lãnh đạo:
Mọi người tuy sinh ra đều có quyền nhưng không phải tự nhiên
đã bình đẳng. Sinh lý cơ thể, lý lịch chính trị, hoàn cảnh kinh tế, vị
trí địa lý, thời điểm lịch sử khi con người ra đời khác nhau một
cách ngẫu nhiên, tất dẫn đến có kẻ hơn người kém, người mạnh,
kẻ yếu. Theo quan niệm xưa “được làm vua, thua làm giặc”. Nếu
vua là người chiến thắng nhờ mạnh hơn, nhờ có được “thiên thời,
địa lợi, nhân hoà” thì lẽ phải thuộc về kẻ mạnh, không ai phê phán
người chiến thắng. Người tin ở “lý của kẻ mạnh”, thường ủng hộ
quyền lãnh đạo của kẻ mạnh với kẻ yếu.
Khổng Tử chia xã hội thành hai hạng là người “quân tử” quí tộc
quan liêu, trí thức và tiểu nhân lao động chân tay, nô lệ. Luận
Ngữ viết: “người quân tử có thể bất nhân chăng? điều đó có thể
có, nhưng tiểu nhân mà có nhân là điều không thể có được”. Triết
gia Hy Lạp cổ đại Platon chia xã hội thành 3 nhóm: pháp quan là
những người có lý trí để cai trị, từng lớp chiến binh là lớp người có
sức mạnh chiến đấu và tầng lớp nông dân, thợ thủ công làm
nhiệm vụ sản xuất của cải vật chất. Việc chọn lựa và đào tạo đội
ngũ lãnh đạo phải tiến hành có ý thức từ bé đến trưởng thành.
91
Hải P. T. 2000.
196
Sau này, từ Aristốt ở Hy
Lạp đến Pôlibe, Sixêrôn ở La Mã cổ đại đều quan niệm rằng xã
hội vốn không bình đẳng, và chủ trương giao quyền lãnh đạo cho
những người thông thái. Quyền lực tối cao do người có tài, có đức
nhất nắm giữ. Nhà tư tưởng Pháp thời cận đại Rútxô viết: “khi
những nhà thông thái nhất cai trị số đông, thì trật tự sẽ tốt hơn
và tự nhiên hơn. Đương nhiên, việc lựa chọn được thực hiện bởi
nhân dân và tất yếu là sự lựa chọn khôn ngoan”92. Như vậy, việc
cần làm là có được người lãnh đạo giỏi, còn lại, việc cầm lái là
của họ.
Câu hỏi lại là làm thế nào có cơ chế lựa chọn được những người
ưu tú, thông thái nhất, mạnh mẽ nhất trong cộng đồng ? Một khi
có những người xứng đáng, làm sao họ nắm được quyền lực, có
đủ phương tiện để thực thi ý chí, nắm được thông tin, có lý luận
đúng, để có năng lực và trách nhiệm hiểu rõ tương lai và ứng phó
với thực tại tốt hơn người bình thường và đưa ra những quyết
định, đề ra đường lối đúng đắn nhất, có sự lựa chọn hợp lý nhất
về kết cấu các cơ chế ? Herbert Simon chỉ ra rằng dù người ra
quyết định là ai, thì cả nhận thức lẫn năng lực của con người đều
là hạn chế93. Vì vậy, chất lượng mỗi quyết định của người lãnh
đạo còn tuỳ tác động của hai yếu tố là động cơ vị lợi chủ quan
của cá nhân và năng lực trí thức, khả năng tính toán khách quan
của người đó.
Phân theo đúng danh phận:
Cũng có cách phân chia rõ ràng là tuỳ tình hình cụ thể, nếu cơ chế nào đang
đóng vai trò chủ đạo thì huy động tối đa cơ chế đó. Giải pháp thật rõ ràng, một đất
nước đang ở trong giai đoạn sản xuất nhỏ kinh tế nông nghiệp lạc hậu thì mọi việc
trước hết cứ xử bằng cơ chế cộng đồng. Bảo vệ an ninh cũng phải huy động, vận
động cộng đồng, lập lại trật tự giao thông cũng huy động mọi lực lượng xã hội,
phát triển kinh tế cũng bằng mọi thành phần kinh tế,…
Một dạng khác của lập luận này là hễ cơ chế nào sẽ đóng vai trò chủ đạo tương
lai thì phải áp dụng tối đa cơ chế đó. Nếu một nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị
trường thì ắt cơ chế thị trường là lời giải thích hợp cho mọi thách đố của cuộc
sống. Vậy thì, mọi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chỉ việc tư nhân hoá, mọi ngành
dịch vụ phát triển khó khăn chỉ việc xã hội hoá, mọi khâu cải cách hành chính
vướng mắc chỉ việc dịch vụ hoá,…
92
Thông, H. V. (và tập thể tác giả) NXB Chính trị Quốc gia 2000.
93
Simon, H. 1986
197
Một cách lập luận khác xem ra hài hoà hơn là dựa vào thế mạnh và phạm vi
điều chỉnh của các cơ chế để lựa chọn. Nếu giải quyết các vấn đề xã hội thì dùng
cơ chế cộng đồng là chính và cơ chế nhà nước để bổ sung; khi đương đầu với các
vấn đề chính trị thì dùng cơ chế nhà nước là chính và cơ chế cộng đồng để bổ
sung; và khi gặp phải các vấn đề kinh tế thì dùng cơ chế thị trường là chính và các
cơ chế khác bổ sung. Những chỉ dẫn này thật rõ ràng mà cũng thật cứng nhắc.
198
đây là con đường khó khăn nhưng duy nhất vì lẽ phải cho hôm nay là đảm bảo
thực sự vững bền cho thành công tương lai.
94
“Tiền lệ pháp” là hình thức pháp luật được áp dụng rộng trong các quốc gia
theo hệ thống thông luật như Anh, Mỹ, hầu hết các nước ASEAN,…
199
thì nguy cơ tái phạm gần như là chắc chắn. Năm 1956, tại Đại hội đảng Cộng sản
Liên Xô 20, Khơrútxốp đã công bố một bản báo cáo về sai phạm của Stalin trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô làm rất nhiều cán bộ, đảng viên thiệt
mạng. Báo cáo cho biết: tại Đại Hội 17 Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1934, có 1966
người tham dự, 60% xuất thân là công nhân và 80% gia nhập đảng từ trước Cách
mạng hay đã tham gia nội chiến. Thé nhưng sau đó, 1108 người trong số đó đã bị bắt
và xử lý vì tội “phản cách mạng”. Tới 70% trong tổng số 139 ủy viên và ủy viên dự
khuyết Ban chấp hành Trung ương được bầu đã bị bắt và giết chết, chủ yếu trong 2
năm 1937-1938. Các tài liệu khác cho biết có hơn 20 triệu người bị trấn áp vô cớ.
Báo cáo trên và việc đưa thi hài Stalin ra khỏi lăng gây nên sự bất bình trong nhiều
đảng Cộng sản, nhưng kể từ đó, ở Liên Xô, nhiều thăng trầm đã diễn ra, sai lầm mới
đã xuất hiện, nhưng những tội lỗi tương tự không còn lặp lại.
ở Trung Quốc, từ những năm 1940, các hình thức đấu tố, nhục hình đã được áp
dụng trong nội bộ ở căn cứ Diên An trong “phong trào cấp cứu” mà không bị phê
phán. Theo nếp đó, cuộc cải cách ruộng đất năm 1952, bên cạnh thành công to lớn,
khoảng 5 triệu người không được xét xử đúng pháp luật đã bị giết, chuyện này một
lần nữa được bỏ qua. Năm 1958, Mao Trạch Đông lại phát động phong trào “Đại
nhảy vọt” làm 30 triệu người chết đói. Không cho phép xem xét lại lỗi lầm, năm
1966, Mao phát động “Cách mạng Văn hóa”. Lần này sự coi thường các giá trị
thiêng liêng của con người đã được dung dưỡng đến đỉnh cao. Theo thống kê chưa
đầy đủ, có hai triệu vụ án oan, hàng chục triệu người bị xử lý sai, kể cả người bị
liên lụy là hơn 100 triệu người. Số người chết lên đến hàng chục triệu. Sự tàn bạo
này còn lan ra các nước khác mà điển hình là nạn diệt chủng hàng triệu người Căm
Pu Chia của Khơme đỏ.
ý thức được trách nhiệm với tương lai, Đặng Tiểu Bình phát biểu: “tổng kết lịch
sử không tập trung vào công tội cá nhân mà nên mở ra tương lai. Thành công của
quá khứ cũng là tài sản của chúng ta, sai lầm của quá khứ cũng là tài sản của chúng
ta. Chúng tôi hoàn toàn phủ nhận “Đại cách mạng văn hoá” song nói rằng “Đại
cách mạng văn hoá” cũng có công là đã cung cấp được một bài học phản diện”.
Với quyết tâm đó, trong khi giữ nguyên thi hài Mao trong nhà tưởng niệm, Đặng
Tiểu Bình chỉ đạo, Hồ Diệu Bang chủ trì chuẩn bị “Nghị quyết về một số vấn đề
lịch sử của Đảng từ ngày thành lập nước đến nay” trong 15 tháng và thông qua Hội
nghị trung ương 6 khoá 11 năm 1981, minh oan, làm rõ tội lỗi cũ, tái lập niềm tin
của nhân dân vào lẽ phải, công lý và quan trọng hơn là chấm dứt nguy cơ tái phạm
tội ác tương tự trong tương lai. (Nguồn: Khrushchev, N. K. 1962. Phan Thế Hải,
2001, Trịnh Di Phàm 2003).
Lãng quên quá khứ là bịt mắt tương lai. ở Trung Hoa xưa, có Thôi Trữ là Tể
tướng nước Tề giết Tề Trang Công. Quan Thái sử chép “Thôi Trữ giết vua”, bị
chém đầu. Người em làm quan Thái sử thay anh lại viết như vậy và bị chém. Một
người khác ở nước láng giềng bèn xung phong sang làm sử quan để được chết vì
200
sự thật95. Thôi Trữ đành đầu hàng. Khi Khổng tử viết Xuân Thu cũng khen chê
chặt chẽ và trung thực. Hơn bốn trăm năm sau, đến Tư Mã Thiên viết Sử Ký, cũng
một tấm lòng trung vằng vặc như vậy với lịch sử96.
Nhờ thông tin về lịch sử rõ ràng qua sách vở, giáo khoa, phim ảnh,…, ngày
nay mỗi người dân Trung Hoa đều hiểu rõ vai trò đúng, sai của Quốc tế Cộng sản
với cách mạng và những công trạng và
sai lầm của các nhà lãnh đạo tối cao từ
ngày thành lập Đảng Cộng sản như
Trần Độc Tú, Lý Lập Tam, Cù Thu
Bạch, Vương Minh, Bác Cổ, Trương
Văn Thiên,… cũng như Mao Trạch
Đông sau này. Vì vậy, nhân dân tin
vào Đảng, vào lãnh tụ một cách biện
chứng.
Đối với họ, lịch sử không phải là
đền thờ để tôn vinh mà là trường học
để chiêm nghiệm. Lẽ phải của lịch sử
đồng nhất với công lý của pháp luật công minh hiện tại. Các nhà nghiên cứu
không vướng víu bởi bất cứ rào cản nào trong quá khứ, có thể tự do tư tưởng sáng
tạo lý luận mới. Với khoa học, thực tiễn cách mạng là đối tượng nghiên cứu,
không phải là giáo lý để tuân theo. Các nhà lãnh đạo thế hệ mới hiểu rõ sự nghiêm
khắc và sòng phẳng của lịch sử, chấp nhận gánh trách nhiệm trước lịch sử và
quyền hạn trước pháp luật, không bước vào vòng hào quang hiển thánh bí ẩn và
tuyệt đối. Tất cả những điều sáng sủa này hứa hẹn một sự phối hợp giữa đức trị và
pháp trị, gắn bó truyền thống Khổng giáo với nhà nước pháp quyền.
“Tầm sư học đạo”.
Tìm đường đi vào tương lai từ thực tế đầy biến động là vô cùng khó khăn. Với
các vấn đề đã có người đi trước, một cách hiệu quả là “tầm sư học đạo”, tiến hành
học hỏi một cách hệ thống kinh nghiệm trước để rút ra qui luật, từ đó dự báo
chặng đường sẽ đi, lường trước khó khăn sẽ gặp và chuẩn bị những giải pháp cơ
chế, và cách thức điều chỉnh thích hợp. Làm tốt công tác nghiên cứu kinh nghiệm,
có thể hình thành chiến lược và lý luận phát triển cho đất nước.
Có rất nhiều vấn đề mang tính qui luật thường lặp lại ở cùng giai đoạn phát
triển của các nước. Người đi sau có thể rút ngắn đường nếu biết học tập. Malaysia
học Hàn Quốc việc tranh thủ giành quĩ đất làm đường cao tốc trước khi đất lên
95
Thiên, T. M. Sử Ký. 1999 viết người thứ ba cũng là em thứ ba trong cùng gia
đình đó.
96
Lê, N. H. 1996
201
giá, Lý Quang Diệu ước gì có thể có thể quay lại sửa chính sách sinh đẻ kế hoạch
từ đầu để cho tăng mức dân số của lớp người ưu tú. Đặng Tiểu Bình rút kinh
nghiệm tự quản của các tiểu bang Hoa Kỳ để hình thành mô hình một đất nước
hai chế độ.
Nước Mỹ thế kỷ thứ 19 trong quá trình công nghiệp hoá, đã từng diễn ra những
cơ hội sinh lợi nhuận từ đất do dân số tăng và bố trí lại dân cư, đường xá và giao
thông phát triển, công nghệ và tài nguyên được huy động mạnh, quá trình đô thị
hoá nhanh, tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp … tương tự tình trạng Việt Nam hiện
nay khi rất nhiều tổ chức và cá nhân tranh thủ nguồn lợi từ việc khai thác và phân
bố lại đất đai. ở Mỹ ngày đó, các công ty kinh doanh đất đai, các công ty khai thác
rừng, các công ty khai thác mỏ, những người quản lý đất công,… đã tìm mọi cách
né tránh và tranh thủ kẽ hở của luật pháp để làm giàu và phản ứng lại chính sách
của liên bang. Cuộc đấu tranh gay gắt giữa các đối tượng này với với chính phủ
trong việc nắm quyền dàn xếp đất đai bằng cơ chế nhà nước thông qua các chính
sách khác nhau và hoàn chỉnh Luật đã kéo dài 40-50 năm97.
Một ví dụ khác là nước Nhật bị tàn phá sau thế chiến thứ hai cũng đứng trước
những thử thách như Việt Nam sau khi thống nhất và tiến hành đổi mới. Từ đống
tro tàn của những hố bom Mỹ và chịu ảnh hưởng sâu nặng của cơ chế cộng đồng,
người Nhật bất lực trước sự bùng phát của cơ chế thị trường đã bỏ lỡ cơ hội dùng
cơ chế nhà nước để xây dựng lại thành phố Tôkyô và các đô thị chính khác một
cách qui củ bằng những giải pháp qui hoạch khoa học. Cho đến nay, khi đã trở
thành một đất nước công nghiệp hiện đại, ai đến các thành phố Nhật cũng thất
vọng trước hệ thống đường xá chật chội, các khu phố không phân lô qui củ, tình
trạng kẹt xe và nhà cửa nhỏ bé chen
chúc98. Những sai lầm không thể sửa của
Nhật cũng đang là vấn đề Việt Nam đang
mắc phải hôm nay.
Ngoài việc những nhà lãnh đạo tự
mình bôn ba năm châu bốn biển để tự tìm
hiểu học hành như Vua Konglalongkooc
của Thái Lan, chủ tịch Hồ Chí Minh của
Việt Nam, Tổng thống Lý Quang Diệu
của Singapore,… là cách tổ chức những
đoàn chuyên gia chính thức đi học hỏi để
cải tổ đất nước. Pie Đại Đế, năm 1697,
dắt một phái đoàn đông đảo từ nước Nga mông muội sang Tây Âu 18 tháng, học
quân sự, kỹ thuật công nghiệp, kinh nghiệm phát triển, hệ tư tưởng cải tổ, trở về
97
North D. C. 1990, NXB Khoa học xã hội 1998
98
Diệu L. Q. 2000. NXB Trẻ 2001.
202
thay đổi hệ thống giáo dục, đổi mới hoạt động nhà thờ, phát triển công nghệ làm
nên sự nghiệp biến cải nước Nga thành cường quốc. Năm 1871, Nhật Hoàng tổ
chức một phái đoàn qui mô gồm 50 chuyên gia là các đại thần đủ các lĩnh vực
(kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao, giáo dục) đi công du học tập kinh
nghiệm phát triển 12 nước Âu Mỹ suốt 1 năm 10 tháng, trở về làm cơ sở của công
cuộc Duy Tân, tiến hành thành công công nghiệp hoá Nhật Bản.
Thật đáng tiếc là các triều đình nhà Thanh ở Trung Quốc cũng cử nhiều đoàn
đại thần và thương buôn đi khắp thế giới, nhưng cái họ mang về không phải kiến
thức và tư tưởng mà là những đồ chơi tinh xảo, hàng hoá đắt tiền cho vua quan
hưởng lạc, triều đình nhà Nguyễn ở Việt Nam cũng đã bỏ xó hàng núi các đề án
cải tổ của các học giả như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện,.. đúc kết từ nhiều nơi
trên thế giới.
Đây là cách làm rất tốt nhưng đòi hỏi người lãnh đạo đứng đầu quốc gia phải
thực sự phục thiện, có quyết tâm học tập và tổ chức tiếp thu cải tổ một cách qui
củ, nhà nước phải lựa chọn được đội ngũ nhân tài, đội ngũ này phải được tổ chức
để nghiên cứu chiến lược một cách độc lập, khách quan xác định hướng đi, không
bị ảnh hưởng và gián đoạn bởi các xu thế tư tưởng, định kiến chính trị hay các
cuộc thay đổi quyền lực nhà nước thường xuyên vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn
giữa các thời kỳ.
“Qua sông dò gậy”.
Đối với những con đường chưa từng có ai đi, không thể cử người học hỏi
người đi trước thì có thể áp dụng phương cách làm cải cách của Đặng Tiểu Bình
là “qua sông, dò gậy”, cứ đi, cứ thử, tiến từng bước ngắn, lấy bước trước làm chỗ
đứng dò tiếp bước sau. Làm thử cơ chế mới trên qui mô nhỏ có bảo hiểm an toàn,
có bao vây ngăn chặn, nếu thất bại thì xoá bỏ, nếu thành công thì tổng kết áp dụng
rộng, khi gặp trở ngại lại dừng lại, thử áp dụng cơ chế khác tiếp tục tiến lên.
Bắt đầu công tác nghiên cứu chiến lược để xây dựng học thuyết bằng các thử
nghiệm, nghiên cứu trường hợp, tổng kết điển hình. Muốn làm được việc này phải
liên tục tạo ra các mô hình độc lập với đội ngũ cán bộ cơ sở đáng tin cậy, dám
nghĩ dám làm, cho phép họ mạnh dạn thử nghiệm. Phải tổ chức được một hệ
thống thu thập thông tin và các cơ quan nghiên cứu, tham mưu có cơ chế và năng
lực tổng kết kinh nghiệm một cách nhanh nhậy, khách quan, sử dụng chúng như
những “cây gậy dò đường” đáng tin cậy. Phải tuyệt đối xoá bỏ mọi định kiến ràng
buộc, chỉ dựa vào thực tiễn để xác định hướng đi, không mất thời gian tranh luận
học thuật. Khi đã rõ hướng mới thì mạnh dạn nhân điển hình thành toàn cục, kiên
quyết tổng kết thực tiễn thành lý luận, đẩy quá trình phát triển lên một bước mới.
Hộp 46. CCAP, “cây gậy dò đường” đổi mới chính sách nông
203
nghiệp Trung Quốc
Để làm tai mắt và tham mưu cho công tác nghiên cứu chính sách nông nghiệp
trong quá trình đổi mới, Trung Quốc thành lập Trung tâm Nghiên cứu Chính sách
Nông nghiệp (CCAP) nằm trong Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc. Đây là cơ
quan nghiên cứu đặc biệt dẫn đầu bởi hai tiến sỹ trẻ tốt nghiệp tại Philippines và
Anh, thành viên chủ chốt của viện là 10 tiến sỹ tốt nghiệp từ các nước khác nhau
trở về. Họ được hưởng những chế độ ưu đãi với mức lương khoảng 2000 USD/
tháng, chưa kể trợ cấp nhà cửa, tiền thưởng công trình, điều kiện làm việc thuận
lợi, được các chuyên gia hàng đầu thế giới đào tạo cập nhật. Quân số cố định của
trung tâm chỉ có 20 người, còn lại là đội ngũ đông đảo các cộng tác viên, nghiên
cứu sinh đến học tập, nghiên cứu và làm việc theo dự án.
Trung tâm hoàn toàn chủ động về ngân sách, một nửa kinh phí là các dự án
quốc tế và hợp đồng với các địa phương đơn vị, một nửa là các đề tài đấu thầu cạnh
tranh của nhà nước, tuy ít người nhưng hàng năm tổng kinh phí hoạt động lên đến
hàng triệu USD. Ngoài việc nộp các khoản thuế được ưu đãi, chịu sự kiểm soát của
ngành tài chính và các cơ quan kiểm toán độc lập, Trung tâm không phải quyết
toán với ngành chủ quản, công tác tổ chức cán bộ và hợp tác quốc tế hoàn toàn tự
chủ, tuy bộ máy hành chính rất gọn nhưng hoạt động rất hiệu quả và đơn vị giữ
được vị thế độc lập trong các nghiên cứu chiến lược và chính sách.
Để nắm tình hình cơ sở, Trung tâm tổ chức mạng lưới cộng tác viên tại các
vùng nông thôn toàn quốc, tiến hành định kỳ chương trình điều tra hàng năm theo
dõi biến chuyển kinh tế xã hội ở các hộ nông dân và đánh giá ảnh hưởng các chính
sách nông nghiệp. Một hệ thống cơ sở dữ liệu to lớn kết nối với các cơ quan thống
kê và các ngành, thường xuyên cung cấp bức tranh trung thực về tình hình nông
thôn cho cán bộ nghiên cứu của Trung tâm. Trong nhiều năm, với sự giúp đỡ của
các chuyên gia kinh tế quốc tế, mô hình phân tích mô phỏng chính sách phức tạp đã
được xây dựng, có nhiều nhánh phụ chuyên ngành giúp cán bộ nghiên cứu một
công cụ hiện đại mô phỏng ứng xử của các nhóm nông dân ở địa bàn khác nhau, và
các ngành hàng trước biến đổi của chính sách và thị trường. Có cán bộ giỏi, thông
tin tốt, công cụ hiện đại, Trung tâm nắm chắc quan hệ với các cơ quan xây dựng
chính sách của trung ương và địa phương, phối hợp và tiếp thu các kết quả nghiên
cứu của các tổ chức quốc tế, thường xuyên trả lời các câu hỏi của Đảng và chính
phủ về các vấn đề chiến lược và chính sách của nhà nước. CCAP thực sự làm tốt
vai trò một cây gậy dò đường nhạy bén và đáng tin cậy của con đường đổi mới
nông nghiệp nông thôn Trung Quốc đầy khó khăn và sáng tạo. (Nguồn : Báo cáo
khảo sát Trung Quốc, ICARD 2003).
204
Đặng Tiểu Bình luôn thực hiện phương châm chỉ hành động khi đã đúc rút
xong lý luận. Năm 1979, sau 10 năm phát triển kinh tế đầy mộng tưởng của Hoa
Quốc Phong, khi đã có đủ căn cứ thực tế, Đặng mới công bố và phát động phong
trào “Bốn hiện đại hoá”. Đầu năm 1992, khi công cuộc cải cách của Trung Quốc
lại bế tắc trước những cản trở từ bên trong, Đặng lúc này đã về hưu, tiến hành
cuộc đi thăm phía Nam và chính thức đưa ra một loạt các bài phát biểu đã được
chuẩn bị cẩn thận về lý luận đổi mới kinh tế, mở đường đột phá cho các chiến
lược phát triển của Đảng Cộng sản Trung Quốc công bố một năm sau đó, quyết
định tiến trình không thể đảo ngược của sự nghiệp cải tổ99.
“Trăm hoa đua nở”.
Mẹ tự nhiên thường dùng cặp phạm trù “biến dị, di truyền” để trả lời câu hỏi về
khả năng thích nghi và phát triển. Người cho cơ hội đưa ra mọi hình thức biến đổi
dù là kỳ quái nhất rồi thông qua sự chọn lọc lạnh lùng nhất để lọc ra những kẻ
chiến thắng, những con đường thoát tốt nhất, đó cũng là cách điều chỉnh mù, lãng
phí và đau đớn. Nhưng có một điều có thể học được từ mô hình này là cách tận
dụng mọi tín hiệu sẵn có trên đường để định hướng, không bị định kiến theo một
hướng sẵn nào.
Muốn vậy, phải tạo mọi điều kiện để xuất hiện các tín hiệu chỉ báo ở khắp nơi.
Armen Alchian đã chỉ ra rằng, trong một thế giới ngày càng biến động với muôn
vàn thách thức và bất ổn, khó ai có thể biết hết mọi câu trả lời cho những vấn đề
mới đặt ra. Phương án tốt nhất là thích ứng nhanh, và muốn vậy, phải tiến hành
phi tập trung hoá quá trình ra quyết định để có thể huy động sức mạnh của toàn xã
hội cùng tham gia vào quá trình thử nghiệm cần thiết nhằm tìm ra con đường phù
hợp nhất giải quyết các vấn đề mới100. Với Alchian, thuyết tiến hoá của Charles
Darwin có tác động rõ rệt đến sự hiểu biết về xã hội.
Theo cách làm này, người ta tạo điều kiện cho mọi thành phần trong xã hội tự do
phát triển theo nhiều cách khác nhau, tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu hiệu quả của
mọi định hướng giải pháp, từ đó tìm ra và tập trung hỗ trợ cho những định hướng tỏ
ra hiệu quả nhất, ngăn chặn và loại bỏ các hướng đi kém hiệu quả hoặc gây thiệt
hại. Đương nhiên muốn lắng nghe được ý kiến của trăm nhà, muốn cho phép trăm
nhà cùng ra tay thử sức thì người lãnh đạo phải có tấm lòng và trí tuệ rộng mở, chấp
nhận mọi mô hình, mọi thử nghiệm; có hệ thống nghiên cứu, tham mưu đủ mạnh để
đúc rút mô hình, phát triển lý luận một cách khách quan, khoa học; có nhà nước
mạnh có thể làm chủ tình hình trong mọi tình huống, có thể chủ động khuyến khích
hướng đi này, ngăn chặn hướng đi kia khi đã rõ hiệu quả. Đúng như Nguyễn Du
viết : “… gạn đục khơi trong, nhờ ơn quân tử khác lòng người ta”.
99
Evans R. 2003.
100
Alchian A. 1950
205
“Thăng bằng tự động”
Trong hoàn cảnh chưa hình thành được đội ngũ tham mưu có năng lực và đáng
tin cậy, chưa có bộ máy nhà nước đủ mạnh để lái nền kinh tế và hoạt động xã hội
theo hướng hiệu quả nhất thì có lẽ phải xây dựng một hệ thống cân bằng tự động.
Một cơ chế còn tác dụng thì nó có thể tái lập cân bằng cũng giống như hệ thống
lái tự động trên các máy bay hiện đại, cho đến khi kết cấu cơ chế tỏ ra thất bại vì
không còn khả năng tự giữ thăng bằng, thì cũng có nghĩa là phải thay cả hệ thống
bằng một kết cấu cơ chế mới.
Sau khi đã định ra mục tiêu và phương pháp phát triển, một quốc gia, một nền
kinh tế phải lường trước cho mình những rủi ro đáng ngại nhất, những cân bằng
kinh tế xã hội môi trường cần thiết phải đảm bảo duy trì. Với những vấn đề sống
còn đó, định thành những chỉ tiêu tối thiểu cho phép làm thước đo báo động. Ví
dụ, bình quân lương thực đầu người phải là 400 kg, tỷ lệ che phủ của rừng toàn
lãnh thổ phải tối thiểu là 30%, mức độ chênh lệch thu nhập giữa nhóm nghèo nhất
và nhóm giàu nhất phải tối đa là 5 lần; cứ như thế, các chỉ tiêu an toàn cho kế
hoạch hoá gia đình, phát triển con người, chi tiêu chính phủ, nợ nước ngoài, cán
cân xuất nhập, tỷ lệ thất nghiệp, múc độ lạm phát, ... hầu như đã được công nhận
rộng rãi trên thế giới, chỉ cần lựa chọn đúng, bố trí theo dõi cảnh báo định kỳ. Khi
một chỉ tiêu nào xuống quá ngưỡng báo động phải nghĩ ngay đến việc thay đổi cơ
chế điều chỉnh, đừng khư khư dùng giải pháp cũ trong tình trạng mới, cho đến khi
đảm bảo tái lập cân bằng an toàn thì không được ngừng thay thế tìm tòi áp dụng
các cơ chế điều chỉnh khác nhau. Phải nghiên cứu, chuẩn bị sẵn một hệ thống các
giải pháp kỹ thuật của cả ba cơ chế để điều chỉnh cho các mất thăng bằng thường
xảy ra.
Tóm lại muốn tránh được tình trạng “điều chỉnh mù” đầy lãng
phí và nguy hiểm, muốn tương đối hoặc hoàn toàn chủ động tìm
đường thì người lãnh đạo luôn luôn phải có trí tuệ cởi mở, hoàn
toàn khách quan không định kiến, có hệ thống thông tin nhanh
nhậy, tổ chức nghiên cứu khách quan, và hệ thống đáp ứng hoàn
cảnh kịp thời và hiệu quả. Không thể đợi tình hình bế tắc mới tìm
cách xử lý mà phải nhanh chóng phát hiện vấn đề từ khi chưa
nghiêm trọng (phát hiện ngay khi trong lòng cơ chế chủ đạo từ
khi có hiện tượng bất lực, phải bắt đầu sử dụng các công cụ
không chính thống hoặc vay mượn công cụ của cơ chế khác). Thứ
hai, nếu thấy trên đường phát triển xuất hiện các vướng mắc trở
ngại, chớ bỏ mặc cho các cơ chế khác thay nhau ngẫu nhiên tìm
lời giải mà phải khôn khéo xem xét để tìm lời giải đáp từ các cơ
chế khác và chủ động điều chỉnh tỷ lệ thích hợp giữa các cơ chế.
206
Muốn vậy, phải luôn tỉnh táo trong phản ứng, thông tin nhanh
nhậy và có hệ thống nghiên cứu hiệu quả.
ứng dụng lý thuyết cơ chế trong hoạt động thực
tiễn.
ở tình huống xấu hơn, trong một nền kinh tế lạc hậu, chẳng những thị trường
không phát triển hoặc thậm chí chưa hình thành, ngay cả cơ chế nhà nước cũng
yếu kém hoặc thất bại trong việc thay thế thị trường. Khi đó, cơ chế cộng đồng
phải vươn lên thay thế vai trò của cả nhà nước và thị trường để quản lý, điều chỉnh
mọi mối quan hệ xã hội. Đây là tình cảnh một nền kinh tế ở trạng thái sơ khai, tuy
xã hội vẫn tồn tại thậm chí thanh bình nhưng trì trệ, chậm tiến.
Bên cạnh sự nổi trội của các cơ chế khác nhau, tuỳ thuộc khách quan vào tình
trạng phát triển kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng, mỗi lực lượng
207
chính trị cầm quyền, với lý thuyết phát triển của mình cũng có thiên hướng vận
dụng một cơ chế nhất định làm công cụ chính để quản lý xã hội. Các nhà nước
Hồi giáo Trung Đông, nhiều quốc gia Châu á rất coi trọng cơ chế cộng đồng trong
công việc điều hành đất nước. ở Thái Lan, có khi xảy ra khủng hoảng chính trị,
thủ lĩnh cả hai phe đối lập đều quì trước mặt vua để hoà giải. Tại Trung Quốc hay
Việt Nam, các vị lão thành cách mạng có tiếng nói quan trọng trong việc định
hướng cán bộ lãnh đạo kế vị, hay khi cần tham gia bàn bạc những vấn đề quan
trọng. Tại Mỹ và nhiều nước công nghiệp phát triển, cơ chế thị trường đóng vai
trò nổi bật. Các thiết bị quân sự hiện đại mang tính sống còn với an ninh quốc gia
cũng được đặt hàng với các công ty tư nhân, việc truy nã các tội phạm nguy hiểm
được qui thành tiền thưởng như mua một món hàng quí hiếm…
Nhìn chung, cho dù khác nhau về hoàn cảnh kinh tế hay xu hướng chính trị,
hầu như phần lớn các nước trên thế giới đều đề cao cơ chế nhà nước trong hầu hết
các hoạt động phục vụ lợi ích chung như an ninh quốc phòng, tài chính tiền tệ,
ngoại giao; nhấn mạnh cơ chế thị trường trong các hoạt động kinh tế lợi nhuận
riêng như kinh doanh thương mại, đầu tư, …; phát huy cơ chế cộng đồng trong
các hoạt động bảo vệ lợi ích cộng đồng như phát triển xã hội dân sự,…
Thực trạng nhấn mạnh đến khả năng sử dụng một hoặc vài cơ chế như trên dẫn
đến khả năng lãng phí cơ hội, lãng phí khả năng của các cơ chế khác mà nếu khéo
huy động sẽ đem lại kết quả tốt hơn. Không có giải pháp duy nhất cho mỗi vấn đề.
Điều quan trọng nhất là cần nắm cơ hội phối hợp các cơ chế khác nhau để điều
hành xã hội, đây mới là cách quản lý hiệu quả nhất. Sau đây là một số cách làm
khác nhau, bằng công cụ của các cơ chế khác nhau giải quyết một số vấn đề trong
quá trình phát triển của loài người:
208
triển của nhà nước phong kiến, cơ chế nhà nước và cơ chế cộng đồng vẫn gắn chặt
với nhau.
Sau khi giành được độc lập năm 1783, Mỹ áp dụng giải pháp nhà nước để ký
"Điều ứơc Pari" với Anh, tăng gấp đôi diện tích nước Mỹ nhờ chiếm lãnh thổ rộng
lớn giữa dãy núi Appalachian và sông Mixisipi. Năm 1846, công cụ nhà nước lại
được dùng để tiến hành cuộc chiến tranh Mỹ-Mecxicô chiếm thêm 50% lãnh thổ
nước này nhập vào Mỹ. Giải pháp thị trường cũng được áp dụng rất có hiệu quả
trong một số trường hợp. Năm 1803, Hoa Kỳ lại tăng diện tích lên gần gấp đôi
bằng cách dùng tiền mua lãnh thổ Lusiana rộng lớn của Pháp với giá rẻ chỉ có 15
triệu USD. Năm 1957, nước này lại mua rẻ thêm vùng lãnh thổ Alaska rộng 1,5
triệu km2 từ tay Nga Hoàng chỉ với 7,2 triệu USD.
Sau khi đã làm chủ về pháp lý những vùng đất mênh mông, hầu hết các vùng
này còn trong tình trạng hoang dã, chủ yếu chỉ có thổ dân da đỏ định cư thưa thớt.
Để hoàn tất quá trình bành trướng đất đai, đưa tài nguyên vào sử dụng, nước Mỹ sử
dụng rất hiệu quả cơ chế thị trường để chuyển vốn và nhân lực đến khai phá đất
hoang. Chủ trương khai thác vàng ở Caliphonia với chính sách cấp quyền khai thác
cho người đăng ký phát hiện mỏ đã tạo ra “cơn sốt vàng” đẩy dân số trong vùng
tăng vọt từ 15 nghìn lên 300 nghìn trong 7 năm. Từ 1869-1893, nhà nước tạo điều
kiện cho các công ty đường sắt mở 5 trục đường chính nối thông miền Đông hiện
đại với Miền Tây hoang dã. Các Công ty Đường sắt được chính phủ chia đất đã
quảng cáo rầm rộ về miền đất hứa cho nhân dân trong nước và châu Âu đến định
cư rồi bán lại đất cho di dân. Dân Miền Tây tăng vọt. Trong 20 năm cuối thế kỷ 19,
dân số Tây sông Mixisipi tăng từ 6,9 triệu lên 16,8 triệu người.
Trong khi cơ chế nhà nước và cơ chế thị trường tạo không gian pháp lý và định
hướng thu hút dân di cư đến miền Tây, thì chính phủ Mỹ tạo điều kiện cho người di
cư dùng mọi biện pháp cộng đồng "xử lý nội bộ" tàn bạo cướp đất của người da đỏ.
Thổ dân tại các vùng miền Tây bị chém giết, cướp phá xua đuổi ra khỏi quê cha đất
tổ. Đất đai của họ bị hàng triệu người di cư gốc Âu, á, trang bị vũ khí, có sự hỗ trợ
của quân đội đến chiếm đóng, chia ranh giới và đăng ký sở hữu với chính quyền.
Người da đỏ lũ lượt bị xua đuổi trên "con đường nước mắt" đầy chết chóc, lùi dần
về phía Tây. Di dân Mỹ đến định cư tại Mecxico cũng dùng giải pháp cộng đồng,
ly khai đòi quyền độc lập, tạo cớ cho chính quyền Mỹ gây chiến chiếm đất.
(Nguồn: 102 Sự kiện nổi tiếng thế giới, NXB Văn hoá Thông tin 2001).
209
Cơ chế nhà nước thông qua công cụ của mình là các trận chiến tranh và các
cuộc thương thảo, định ra biên giới. Nhà vua cũng dùng các biện pháp cộng đồng
như cử hoàng thân quốc thích, thuộc hạ đi làm quan, trấn thủ các quốc gia phiên
thuộc. Vua chúa còn gả con gái cho các nước lân bang, chư hầu hay ngược lại, bắt
họ gửi con cho mình làm con tin, để dùng quan hệ gia đình ràng buộc quan hệ nhà
nước. Đến một ngày nào đó, quan hệ cộng đồng không còn (con tin chết hay trốn
về nước, các cuộc hôn nhân đổ vỡ, thuộc hạ phản bội, họ hàng ly khai,...), quản lý
nhà nước lại quay lại với các công cụ nhà nước, chiến tranh và các cuộc thương
lượng lại bắt đầu một chu kỳ mới, với những đường biên giới mới.
Bước vào lịch sử cận đại, bên cạnh binh đao, hiệp định và những cuộc tình,
những lời ủy nhiệm, xuất hiện thêm các cuộc mua bán và những hợp đồng. Cơ chế
thị trường tham gia vào việc vẽ lại biên giới các quốc gia.
Lịch sử Hoa Kỳ là một ví dụ thú vị về sự đa dạng và uyển chuyển trong việc sử
dụng các cơ chế và công cụ khác nhau để mở rộng lãnh thổ. Cơ chế nhà nước
thường đi trước để xác định lãnh thổ về mặt pháp lý, sau đó cơ chế cộng đồng và
thị trường được sử dụng để giải quyết nốt những vấn đề giữa các cá nhân và các
cộng đồng trong phạm vi địa phương.
210
lập. Điển hình cho giải pháp này là trường hợp ấn Độ (xem hộp
49). Để chống lại mục tiêu của thực dân Anh biến đất nước mình
thành thị trường cho hàng hóa chính quốc, nhà cách mạng
Găngđi chủ trương dùng cơ chế thị trường, vận động nhân dân
tẩy chay hàng của Anh, thay thế bằng những mặt hàng cổ truyền
tự túc sản xuất trong nước như muối, vải sợi,… giành lại thị
trường nội địa, làm thiệt hại cho thực dân.
Haiti là một đảo nhỏ trên biển Caribê. Năm 1502 đảo trở thành thuộc địa của
Tây Ban Nha, rồi thuộc địa của Pháp. Thực dân biến hòn đảo tươi đẹp này thành
địa ngục. Chúng tiêu diệt thổ dân da đỏ, 90% dân cư là người da đen bị bắt từ Châu
Phi về làm nô lệ cho các chủ trang trại da trắng. Không chịu nổi cảnh bóc lột tàn
bạo, năm 1791, nô lệ da đen nổi dậy đốt cháy 180 đồn điền mía, 900 đồn điền cà
phê, giết chết 2000 tên thực dân, giải phóng nô lệ. Với khẩu hiệu “đấu tranh cho tự
do” đội quân 4000 người của thủ lĩnh Tuxăng chiến đấu kiên cường với cả liên
quân Pháp, Tây Ban Nha và 10000 quân Anh trang bị hùng hậu. Sau 10 năm kháng
chiến, quân khởi nghĩa chiếm thủ phủ Xanh Đômingo, giải phóng hoàn toàn Haiti
và thông qua hiến pháp đầu tiên trên thế giới giành cho người da đen khẳng định:
“vĩnh viễn loại bỏ chế độ nô lệ, con người với các màu da đều bình đẳng”.
Danh tướng Napoleong cử 55 chiến hạm và 3 vạn quân viễn chinh đến tái chiếm
đảo. Dũng cảm nhận lời một mình đến trại giặc, Tuxăng bị quân thù phản trắc bắt
đem về Pháp giết. Mất thủ lĩnh, nhân dân Haiti không nao núng, họ rút vào rừng
đánh du kích, từng bước kiên cường đánh lùi quân xâm lược, tiêu diệt chỉ huy giặc,
giải phóng đất nước. Cuối cùng, quân Pháp tàn bạo phải bỏ súng đầu hàng. Ngày
1/1/1804 nước Cộng hoà Haiti tuyên bố độc lập, viết nên trang sử vinh quang của
quốc gia độc lập đầu tiên của người da đen trên trái đất. (Nguồn: 102 Sự kiện nổi
tiếng thế giới, NXB Văn Hoá Thộng Tin 2001)
211
Hộp 49. ấn Độ đấu tranh bất bạo động
Nước Anh chiếm ấn Độ, bóc lột tàn tệ tài nguyên và lao động. Hầu hết ngành
cà phê, cao su, khai mỏ, cơ khí, dệt, đường sắt,…nằm trong tay thực dân. Mỗi năm
có 1 triệu người ấn chết đói, tuổi thọ trung bình của dân chỉ còn 24 tuổi.
Mặt khác, Anh biến vùng đất đông dân này thành thị trường tiêu thụ hàng hoá.
“Công ty Đông ấn Độ” làm thương mại nhưng nắm cả quân sự và lãnh thổ. Hàng từ
ấn sang Anh đóng thuế gấp 10 lần hàng từ Anh sang ấn. Hàng hoá Anh tràn ngập
thị trường, giết chết các ngành thủ công và công nghiệp của đất nước trong đó
trọng tâm là ngành dệt.
Chống lại mục tiêu bị biến thành thị trường bằng cơ chế thị trường, đầu thế kỷ
20, các lực lượng cách mạng ấn Độ nêu khẩu hiệu bất hợp tác, tẩy chay hàng hoá
Anh, phát triển sản xuất nội địa. Các cuộc bãi công trong các xưởng máy, đồn điền
của Anh, kết hợp với chiến dịch thành lập hợp tác xã, công ty của người ấn tạo
thành phong trào quần chúng rộng khắp, lãnh đạo bởi Mohandas Gandhi. Trẻ em
rời khỏi các trường của Anh về các trường dân lập của ấn, luật sư bỏ toà án của nhà
nước thực dân mở toà bản xứ, viên chức và công nhân bỏ đi khỏi các công sở và
nhà máy của Anh, người ấn tẩy chay không quan hệ, không buôn bán với Anh.
Gandhi và gia đình tự dệt vải mặc và kêu gọi nhân dân không mua vải nhập, làm
muối tự túc thay thế muối nhập,... vận động toàn dân tiêu dùng hàng hoá ấn. Bất bạo
động không phải là sợ hy sinh. Trên đường đoàn người ra biển mở công trường tự túc
sản xuất muối, chính quyền thực dân tổ chức đàn áp dã man. Lãnh tụ Gandhi dẫn
đoàn đấu tranh tay không dũng cảm đi tới, người trước ngã, người sau tiến lên, máu
đổ thành sông khiến binh lính run sợ lùi bước, thế giới đồng tình phản đối.
Năm 1946, phong trào quần chúng rộng khắp và thế chiến II kết thúc đem lại
độc lập cho ấn Độ. Gandhi chân đất áo vải tiếp quản phủ toàn quyền Anh và trao
ngay chức Thủ tướng đất nước độc lập lại cho học trò Nêru, trở về làng quê làm
thường dân dệt vải, nuôi dê. (Nguồn: Nguyễn ái Quốc, 1921; Học viện Chính trị
QG Hồ Chí Minh, 2001).
Chủ nghĩa thực dân có sức mạnh hơn các dân tộc thuộc địa
một phần là do phát huy được thế mạnh của cơ chế thị trường
kết hợp với cơ chế nhà nước, phát triển kinh tế thị trường, tiến
212
hành công nghiệp hoá, áp dụng công nghệ hiện đại, tổ chức quản
lý hiệu quả nhà nước kiểu mới. Một số quốc vương ở các nước
phong kiến hiểu rõ mối đe dọa đó đã mạnh dạn chủ trương đi tắt
đón đầu, tự làm cải cách kinh tế, chính trị, giành lấy sức mạnh
của phương Tây để bảo vệ độc lập dân tộc. Để làm được sự
nghiệp khó khăn này, trước hết các bậc quân vương sáng suốt
này phải áp dụng cơ chế cộng đồng, tự cải biến chính vương triều
của mình. Đó là trường hợp thành công của Nhật Bản, Thái Lan
(xem hộp 50).
Hộp 50. Thái Lan giữ độc lập bằng ngoại giao và cải cách
Giai đoạn 1855-1865, vận mệnh Thái Lan như ngàn cân treo sợi tóc. Anh chiếm
xong Miến Điện, ấn Độ, Malaya, Pháp chiếm Đông Dương, Hà Lan chiếm
Inđônesia, Tây Ban Nha chiếm Philippines. Trong khi các quốc gia phong kiến
hùng mạnh như Trung Quốc, ấn Độ khư khư đóng cửa để lần lượt bị thôn tính,
đường lối ngoại giao khôn khéo của triều đại Mongkút và quá trình đổi mới kinh tế
vững vàng của triều đại Konglalongkooc tiếp theo đã giúp Thái Lan đứng vững
giữa làn sóng thực dân thèm khát thuộc địa châu á.
Chủ trương ngoại giao đa dạng để tạo cân bằng, năm 1857, vua Thái Rama IV
thiết lập quan hệ ngoại giao với nữ hoàng Anh Victoria, năm 1861, thiết lập quan
hệ với vua Pháp Napoleong 3, đảm bảo với hai đế quốc hùng mạnh rằng Thái quyết
tâm trở thành bạn của phương Tây. Vua Thái cũng tuyên thệ với Giáo hoàng
Vatican Pius IX cho phép tự do truyền đạo và sẽ bảo vệ đạo thiên chúa như đạo
Phật ở Thái Lan. Sau những đòn chính trị và ngoại giao hết sức khôn khéo này,
Thái mở cửa thu hút đầu tư thương mại của các nước tư bản lớn như Anh, Đức,
Nhật, Pháp,…và ký hiệp ước với Pháp, Anh, tuyên bố trung lập trong thế chiến I,
sớm gia nhập Hội Quốc Liên và các tổ chức quốc tế sau này.
Vua Rama V của Thái Lan, cầm quyền năm 1868 khi mới 15 tuổi. Giao cho
một quan nhiếp chính trị vì đất nước, ông mở đầu sự nghiệp lãnh đạo của mình
bằng việc sang châu Âu học tập, 5 năm sau, ông trở về trị vì quốc gia, đúng vào lúc
làn sóng xâm chiếm thuộc địa của các nước tư bản Châu Âu đang tràn ngập thế
giới. Rama V tiến hành một cuộc cải cách rộng lớn nhằm chuyển đất nước phật
giáo phong kiến lạc hậu thành một đất nước quân chủ lập hiến mới. Khác với các
thế hệ vua trước đây, mỗi năm chỉ ra ngoài hành lễ một lần và dân phải đóng kín
cửa khi vua ra ngoài, Rama V thường xuyên tiếp xúc, trò chuyện bàn bạc với thần
dân nên được dân gọi là “Ông vua dân biết mặt”.
Sử dụng cơ chế cộng đồng cho cải cách, ông tập trung đào tạo con cái quý tộc,
cử họ sang châu Âu học, trở thành đội ngũ trí thức ủng hộ đổi mới. Ông thành lập
chính phủ với hội đồng bộ trưởng, dân chủ hoá hoạt động triều đình, cải cách giáo
213
dục. Nhà nước xây dựng hệ thống giao thông, xe lửa, bưu điện, hình thành hệ thống
tài chính thuế khóa. Để phát triển sản xuất nông nghiệp, vua bãi bỏ chế độ nô lệ, bỏ
việc làm lao dịch công cộng, tập trung xuất khẩu lúa gạo và gỗ để thu ngoại tệ. Ông
mạnh dạn mời chuyên gia Anh, Pháp làm cố vấn kể cả trong quân sự và ngoại giao,
cải tổ toà án, quân đội, trường học theo kiểu châu Âu.
Ngoại giao mở cửa, tranh thủ mọi đối thủ kết hợp với cải tổ nhà nước và đổi
mới kinh tế khiến cho Thái Lan nhỏ bé duy trì độc lập, bảo vệ được hoà bình, đồng
thời thu lợi từ các xung đột quốc tế và khu vực.
215
từ 10 nước tăng lên 25 nước, khối quân sự Bắc Đại Tây Dương tiến dần sang phía
Đông.
Trong xu thế toàn cầu hoá, để hợp tác buôn bán, các nước có xu hướng dùng
cơ chế cộng đồng và cơ chế thị trường hình thành và phát triển các khối mậu dịch
tự do giữa các nước, giữa các vùng. Chỉ nhìn riêng vào sự đan chéo của các khối
thương mại kinh tế xung quanh Việt Nam cũng thấy xu thế đáng chú ý đó:
ASEAN từ 7 tiến lên 10 và nay là 11, tiếp theo là ASEM (ASEAN+ một số nước
Thái Bình Dương), rồi APEC (ASEAN + một số nước Châu á + một số nước Thái
Bình Dương) rồi (ASEAN + một số nước châu á)...
Nhìn chung trên toàn thế giới, cơ chế thị trường đang phát triển mạnh mẽ,
chiếm thế thượng phong trong việc chi phối mối quan hệ quốc tế trong quá trình
toàn cầu hoá, cơ chế cộng đồng cũng lớn mạnh đáng kể. Hình ảnh điển hình của
cặp song sinh ngộ nghĩnh này là ngày nay, hầu như mỗi sự kiện quốc tế gắn với
toàn cầu hoá như các hội nghị tự do hoá thương mại của WTO, hội nghị tự do hoá
tài chính của các thể chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới, Quĩ tiền tệ
Quốc tế, các Hội nghị Thượng đỉnh về môi trường, Diễn đàn Kinh tế Thế giới ...
đều đi kèm theo là các hội nghị, các cuộc biểu tình phản kháng của các tổ chức tư
nhân, đoàn thể quần chúng, NGO, Diễn đàn Xã hội Thế giới diễn ra cùng địa
điểm, cùng thời gian với nội dung đối lập.
Tại các nước đang phát triển, trong mối quan hệ giữa các quốc gia cũng diễn ra
xu hướng giảm bớt vai trò của cơ chế nhà nước trong quản lý kinh tế, điều hành
xã hội và thay thế bằng sự lớn mạnh nhanh chóng của cơ chế thị trường và trưởng
thành ở mức độ thấp hơn của các cơ chế cộng đồng.
217
Với con mắt nhìn từ phía bên ngoài vào thì có lẽ là do quan điểm đầu tư thiên
vị, nhà nước kém năng lực điều hành, tham nhũng, lãng phí, quản lý kém hiệu
quả, chính sách sai lầm, đầu tư sai định hướng, quản lý đầu tư kém. Các nước
thường tập trung đầu tư vào những vùng kinh tế trọng điểm đem lại hiệu quả cao,
vùng có nhiều tiềm năng, nhiều lợi thế, vùng có nhiều dân cư sinh sống, có vị trí
chiến lược. Chẳng những các quốc gia có đất đai rộng như úc, Mông Cổ, Nga,
Trung Quốc, Mỹ thường tập trung dân cư và phát triển kinh tế ở các vùng duyên
hải ven biển, các khu vực đô thị, các đồng bằng châu thổ,… mà ngay các nước có
diện tích trung bình như Nhật Bản, Phillipines, Thái Lan,…dân số cũng tập trung
nhiều quanh đô thị và đồng bằng. Các khu vực còn lại đương nhiên có mức đầu tư
thấp hơn và phát triển chậm hơn.
Với cái nhìn từ trên xuống, nghèo đói
có lẽ do năng lực cán bộ và tổ chức cộng
đồng ở cơ sở quá yếu, cấp vốn không biết
tiêu, giao công trình không biết sử dụng,
nếu muốn tăng cường năng lực phải đầu tư
rất nhiều thời gian và tiền của. Cộng đồng
người nghèo thiếu khả năng phối hợp, kém
khả năng tự chủ, người nghèo không chỉ
thiếu kiến thức mà thiếu cả tinh thần, quá
tự ty, ỷ lại, phó mặc số phận cho trời, cho
nhà nước.
Với con mắt nhìn từ dưới lên thì dường như đói nghèo có nguyên nhân từ tình
trạng kém dân chủ trong quản lý, không có sự đại diện đầy đủ và công bằng giữa
các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế trong quá trình quản lý và điều hành
xã hội; mọi chương trình đầu tư phát triển do cấp trên quyết định, do nhà nước
triển khai thực hiện, dân, nhất là dân nghèo không có cơ hội tham gia, cho gì thì
được nấy. Do thiếu thông tin, thiếu quyền lực, nên ngay cả các chính sách ưu tiên
giành cho mình, người nghèo cũng không biết cách để yêu cầu và tiếp nhận.
Xuất phát từ nhiều các xem xét như trên, ở Việt nam cũng như nhiều quốc gia
khác, nhiều loại giải pháp theo cách tiếp cận khác nhau được áp dụng để xoá đói
giảm nghèo. Có quốc gia như Mỹ áp dụng cơ chế thị trường, xây dựng chính sách
lấy lợi nhuận về kinh tế thu hút mọi người về sống, kinh doanh, đầu tư phát triển
các vùng hoang vắng, xa xôi, nhờ đó biến những khu vực vô cùng khó khăn như
Xa mạc Chết ở California thành các khu kinh tế phát triển có thành phố Latvegas
là khu vui chơi giải trí nổi tiếng thế giới.
Có nước như Trung Quốc áp dụng cơ chế nhà nước đổ tiền của đầu tư chính
phủ vào xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở công nghiệp lớn ở vùng
nghèo trong chương trình Phát triển Miền Tây vĩ đại. Việt Nam cũng dùng tài lực
218
của cơ chế nhà nước để sửa chữa một số sai lệch của cơ chế thị trường như tiến
hành trợ giá cước vận chuyển cho một số hàng hoá, vật tư thiết yếu như phân bón,
dầu hỏa, sách vở; cung cấp tín dụng cho người nghèo; xây dựng các công trình
phúc lợi căn bản để tạo điều kiện cho họ tiếp cận với tài nguyên và thị trường.
Có quốc gia như Hàn Quốc trong chương trình Làng mới, dùng phần nhỏ vật tư
của nhà nước để khơi dậy tinh thần đoàn kết tập thể, tinh thần tự hào của cộng
đồng, khuyến khích nông dân áp dụng cơ chế cộng đồng để xoá đói nghèo, xây
dựng nông thôn. Mỗi cách làm có mặt mạnh và mặt yếu của mình, và mỗi giải
pháp đem lại thành công cho từng hoàn cảnh, từng giai đoạn phát triển cụ thể.
Vấn đề chậm phát triển.
Có biết bao nhà học giả, nhà lý luận đã bàn về vấn đề phát
triển, giải thích câu hỏi muôn đời là tại sao nước này giàu, nước
khác nghèo, tại sao quốc gia này phát triển nhanh, quốc gia khác
trì trệ, suy sụp. Tùy theo con mắt của nhà kinh tế, chính trị, nhân
chủng, địa lý, đạo đức,…người ta có cách trả lời khác nhau cho
những câu hỏi này. Có thể coi sự phát triển không đều của công
nghệ, của lực lượng sản xuất, của năng suất lao động là nguyên
nhân; cũng có thể nói về sự phân bố không đều về tài nguyên tự
nhiên, điều kiện tự nhiên ban đầu giữa các quốc gia; cũng từng
có ý kiến về sự khác biệt chủng tộc, lợi thế di truyền; có nhiều lời
kết tội về tội ác bóc lột, đàn áp của nhóm người này với nhóm
người khác; người ta qui kết cả cho thể chế, cho văn hoá, và
ngày nay cho cả thị trường,…Nếu chỉ xem xét về câu chuyện cơ
chế của chúng ta, rõ ràng cũng có sự lý giải thú vị về phát triển
chậm của một số quốc gia.
Theo góc độ cơ chế nhà nước, lý do có thể được nêu ra là sự
lựa chọn, giám sát đội ngũ lãnh đạo kém hiệu quả, hệ thống
pháp luật kém phát triển; sai lạc hoặc mơ hồ trong lý luận, chiến
lược phát triển; chậm trễ, lạc hậu trong cải cách hệ thống hành
chính; cơ chế tài chính yếu kém; không có cơ chế phát huy nhân
tài, phát triển tài nguyên con người kém hiệu quả; mô hình tổ
chức quản lý bất hợp lý, cơ cấu đầu tư công cộng lãng phí, chính
sách vĩ mô sai lầm, không ổn định,...
Theo cơ chế thị trường, nguyên nhân nêu ra lại là chính sách cản trở hoạt động
kinh doanh, thị trường hàng hoá dịch vụ không thông thoáng; các thị trường vốn,
lao động, đất đai chưa hình thành và vận hành hoàn chỉnh, cạnh tranh giữa các
thành viên tham gia kinh doanh mất công bằng; kết cấu hạ tầng và dịch vụ kém
làm chi phí giao dịch của các thị trường hàng hoá cao; hoạt động trọng tài giải
219
quyết tranh chấp và gian lận thương mại kém làm tăng rủi ro trong kinh doanh;
công tác kiểm soát tiêu chuẩn chất lượng yếu, khả năng đầu tư kém nên khả năng
cạnh tranh hàng hoá và dịch vụ thấp…
Theo cơ chế cộng đồng, thái độ kỳ thị doanh nhân, năng lực
phối hợp giữa các cơ quan chính phủ kém, việc kết nối giữa chính
phủ và nhân dân kém, khả năng hợp tác liên kết giữa dân với
nhau và giữa các tác nhân tham gia hoạt động kém; chia rẽ sắc
tộc, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ chính trị, chia rẽ giai tầng trong xã
hội; năng lực đàm phán và đối ngoại với cộng đồng quốc tế yếu,
vị thế quốc tế bị cô lập, hoặc không được tin cậy, không được ưu
tiên, hoặc phải chịu đối xử bất công, bị cô lập, cấm vận, …
Nếu cả ba cơ chế vận hành có hiệu quả thì nền văn minh, quốc
gia, cộng đồng sẽ phát triển nhanh và vững bền.
Hộp 51. Sự đời vật đổi sao dời, bao nền văn minh, bao đế
quốc từng sáng lên rồi tàn lụi
Từ khi loài người bước đi những bước chân đầu tiên trên trái đất ở lục địa châu
Phi hàng triệu năm trước cho đến hôm nay, biết bao nền văn minh đã từng rực
sáng. 5000 năm trước Công nguyên (TCN), nền văn minh Sumer ra đời trên lãnh
thổ Irắc ngày nay; 3.100 TCN, vương quốc Ai Cập ra đời; từ 3000 TCN, kéo dài
gần 1500 năm là nền văn minh Minoan trên đảo Crete Địa Trung Hải; 2500 TCN,
văn minh ấn Độ phát triển ở Pakistăng; những năm 1500 TCN, các nền văn minh
lớn nhà Thương xuất hiện ở Trung Quốc; 1200 TCN, hai nền văn minh phát triển
rực rỡ ở Nam Mỹ là Chavin miền Trung Andes và văn minh Olmec ở Mecxicô;
700-800 TCN, miền Trung nước ý nổi lên nền văn minh thành phố mở đầu cho đế
quốc La Mã thống trị cả Châu âu và Bắc Phi suốt 700 năm sau; 500-600 TCN,
chứng kiến sự phát triển của các thành phố và đô thị Trung á và đế quốc Ba Tư ra
đời trên đất Iran ngày nay kéo dài suốt 1000 năm, trong khi Hy lạp hình thành các
liên hiệp thành phố-quốc gia lớn mạnh cho tới thế kỷ thứ 4; 221 TCN, Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Quốc; năm 600, đế quốc Arập ra đời trải rộng từ châu âu
sang châu á, Bắc Phi; 300 TCN đến 1500 là thời kỳ của Đế quốc Maya hùng mạnh
chiếm cứ Nam Mỹ từ Mexico đến Guatemala; 300-1400, Đế quốc Byzantine trải
dài từ Bắc Phi sang Tây Ban Nha tới Ba Tư; 1167-1405, Đế quốc Mông Nguyên
chiếm Trung Quốc, Trung á, Nam Nga và Đông âu. Những năm 1400, Đế quốc
Inca từ Andes lan rộng đến Bolivia và Chilê; 1300-1600, Đế quốc ốtôman ra đời
220
trên tro tàn của đế quốc Bizantine ở Thổ Nhĩ Kỳ rồi lan rộng ra Tây á, Đông Nam
âu, Bắc Phi, Irắc; 1400-1600 ở Châu Phi, Đế quốc Songhai chiếm cứ Mali, Sahara,
và nhiều xứ khác; 1804, Napoleon đăng quang Hoàng đế Pháp và tiến đánh áo,
Phổ, Nga, xây dựng đế quốc chiếm hết Tây âu trong 15 năm. Nửa sau thế kỷ 19, đế
quốc Anh, Pháp chiếm cứ thuộc địa rộng lớn ở châu Phi, châu á; sau đó là Phát xít
Đức từng chiếm đóng Châu âu, Bắc Phi; Pháp xít Nhật chiếm Trung Quốc, Đông
Nam á. Sau năm 1945, phe XHCN từng hình thành một khối các quốc gia hùng
mạnh liên kết kinh tế và quân sự gồm cả Đông Âu, Liên Xô và Cu Ba, Việt Nam.
Cuối thế kỷ 20, chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ trở thành cường quốc chính về kinh
tế và quân sự đóng vai trò “sen đầm quốc tế”. (Nguồn: Lịch sử Thế giới, NXB Văn
Hoá, 1996)
Hộp 52. Thụy Điển dùng cơ chế nhà nước để cung cấp phúc lợi
xã hội
Thụy Điển dùng thuế để điều tiết công bằng thu nhập thông qua hệ thống an
sinh xã hội phục vụ cho toàn dân bất kể thu nhập và nghề nghiệp. Ngoài phần trợ
cấp bắt buộc, có thêm phần tự nguyện bổ sung để nâng cao chất lượng dịch vụ. Hệ
thống này cung cấp bảo hiểm và trợ cấp chăm sóc sức khỏe y tế; trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ cấp tai nạn lao động cho mọi người. Các khoản trợ cấp
độc lập với tiền lương để đảm bảo chất lượng dịch vụ. Để chăm lo cho phúc lợi của
nhân dân, nhà nước đầu tư cho phúc lợi xã hội và y tế công cộng tới 38% GDP đất
nước, đúng đầu thế giới.
Chính sách xã hội của nhà nước đảm nhiệm nhiều lĩnh vực như về chăm sóc y
tế, khi ốm đau mọi người chỉ phải trả một khoản chi nhất định, chi phí vượt mức sẽ
do bảo hiểm công cộng trả, những căn bệnh chi phí quá tốn kém được miễn phí,
người lao động ốm được nghỉ hưởng nguyên lương, 13 ngày nghỉ đầu do chủ sử
221
dụng lao động trả, sau đó do bảo hiểm nhà nước trả.
Về chăm sóc trẻ em và giáo dục, cha mẹ được trợ cấp 15 tháng lương và được
nghỉ một phần thời gian để trông con đến khi con lên 12 tuổi với số ngày nghỉ tối
đa 120 ngày/năm. Mẹ được kiểm tra và tư vấn sức khỏe miễn phí trước và sau khi
sinh. Con được gửi và chăm sóc miễn phí tại nhà trẻ cộng đồng. Gia đình có con
nhỏ có thể xin trợ cấp nhà ở. Giáo dục phổ cập và miễn phí ở cấp phổ thông. Người
lao động được trợ cấp và nghỉ việc để tham dự tập huấn nâng cao tay nghề. Giáo
dục đại học cũng miễn phí cho toàn dân, người lao động được hưởng trợ cấp trong
thời gian học đại học và trên đại học.
Về hưu và thất nghiệp, người lao động được chọn thời gian về hưu trong khoảng
60-70 tuổi. Mức lương hưu do quĩ phúc lợi trả bằng 60-70% thu nhập trung bình
của 15 năm có mức lương cao nhất trong đời lao động. Trợ cấp thất nghiệp tương
đương 75% lương định kỳ trong 3000 ngày. Với người trong độ tuổi 55-64 là 450
ngày. Những người mất việc do thiếu việc làm và có hoàn cảnh khó khăn sẽ được
chính phủ trợ cấp để nhận toàn bộ tiền lương trong thời kỳ quá độ. (Nguồn: ân Đ.
V., Thành , V. T. (chủ biên) và tập thể tác giả. NXB Thống kê, Hà Nội-2002.)
Công cụ để Singapore thực hiện chính sách khuyến khích nhân dân tự để giành
cho tương lai gia đình mình là Quĩ Tiết kiệm Trung ương. Đây là hệ thống tiết
kiệm an sinh xã hội do nhà nước, nhân dân và doanh nghiệp cùng đóng góp. Chính
phủ thu thêm tỷ lệ nhất định từ lương để đóng vào quĩ nhà ở và một phần cho dịch
vụ chăm sóc y tế và lương hưu.
Về nhà ở, người lao động được mua trả trước 20% và dùng quỹ này trả góp nhà
trong thời gian 20 năm. Về y tế, quĩ cho phép chăm sóc sức khỏe cho cả già trẻ lớn
bé trong gia đình. Doanh nghiệp trả phần trợ cấp ốm đau và bảo hiểm mất khả năng
làm việc cho người lao động. Qũi do người lao động để giành càng nhiều càng
được sử dụng dịch vụ chăm sóc y tế có chất lượng cao hơn. Quỹ được điều chỉnh
năm sau cao hơn năm trước nhưng vẫn đảm bảo để mức lương còn lại của công
nhân vẫn tăng dần. Đến 1985, mức thu lên cao nhất đến 25% cho nhà ở và 6% cho
y tế.
Năm 1996, Singapore có 125 nghìn nhà thuộc Quĩ nhà ở, trong đó 9% còn thuê,
hơn 91% đã được chủ mua đứt. Mọi người lao động đều có vốn tiết kiệm hưu trí,
sau khi chết, quĩ được chi trả theo di chúc. Đây là công cụ quan trọng thu hút nội
lực của nhân dân tham gia phúc lợi xã hội và duy trì ổn định xã hội giúp kinh tế
Singapore tăng trưởng đều đặn suốt 30 năm, trở thành một quốc gia công nghiệp
trong thời gian ngắn với mức công bằng xã hội vào loại cao nhất trên thế giới.
Những người không thắng thế trong xã hội thị trường vẫn có thể yên tâm tận hưởng
222
cuộc sống yên bình không sợ rủi ro trong cạnh tranh. Những người muốn tiêu sài
có thể bán tài sản của mình để đáp ứng nhu cầu. Những người thành đạt yên tâm
sống đầy đủ bằng tiền lương và tiếp tục đầu tư mở rộng tài sản của mình để lại cho
con cháu. (Nguồn: Diệu L. Q. NXB Trẻ, 2001)
223
Trong hoạt động xã hội.
Vấn đề khủng bố quốc tế.
Hoạt động khủng bố là những hành động bạo lực nhắm vào thường dân vô tội
không vũ trang nhằm đạt được những mục tiêu khác nhau:
- Khủng bố nhằm mục đích đe doạ, buộc nhân dân khuất phục tuân theo
thế lực nắm bạo lực: đây là loại
khủng bố thường được các nhà
nước độc tài và các tổ chức khủng
bố, tội phạm quốc tế cũng áp dụng.
Các hoạt động khủng bố kiểu này
thường nhằm thi hành những loại
luật và nhục hình vô nhân đạo như
luật đàn áp dân chủ của các chính quyền phát xít, chính thể độc tài, đàn
áp tôn giáo của một số chính quyền phong kiến,… Các tổ chức tội phạm
cũng dùng biện pháp này để áp đặt các loại “luật rừng” như luật Omerta
của Mafia.
- Khủng bố kèm theo và nhằm ép buộc thực hiện yêu sách: là loại khủng bố
thường được các tổ chức tội phạm thực hiện và một số nhà nước cũng đôi
khi sử dụng. Các hình thức bắt, hành hình con tin, đánh vào dân lành ở
hậu phương quân địch,… để đòi hỏi đáp ứng các yêu sách kinh tế, chính
trị. Nếu xét theo hình thức thực hiện thì việc Mỹ ném bom nguyên tử
xuống Nagasaky và Hirosima buộc Nhật đầu hàng, cũng có dáng dấp loại
này.
- Khủng bố nhằm gây tiếng vang, truyền đạt một tuyên bố: thường được
các tổ chức khủng bố chính trị thực hiện trong hoàn cảnh tuyệt vọng
hoặc khủng hoảng, đôi khi một số chính quyền cũng áp dụng. Đó là
trường hợp Binladen và tổ chức Elqueda tấn công tòa nhà thương mại
quốc tế ở Mỹ, chính quyền Taliban phá hoại các pho tượng Phật cổ
khổng lồ ở Afganistan, các vụ đánh bom của các lực lượng cực đoan
Palestin nhắm vào thường dân Israel.
Xét từ cách nhìn về 3 cơ chế thì khủng bố xảy ra do nguyên nhân nào?
- Khi coi khủng bố có nguyên nhân nhà nước, một số chính khách cho
rằng chính sách sai lầm, tình trạng chính trị bất ổn, cơ chế quản lý không
dân chủ, lý thuyết phát triển sai lạc của một số nhà nước và tổ chức là
nguyên nhân của nguy cơ khủng bố. Một ví dụ cho cách nhìn nhận này
là tuyên bố của Mỹ về một số nhà nước như Irắc, Iran, Bắc Triều tiên và
ápganistăng bị coi là “trục ác quỉ”. Hiện nay trong quan hệ quốc tế và
224
nhiều quốc gia đang áp dụng các giải pháp theo cơ chế nhà nước để giải
quyết vấn đề khủng bố.
- Nếu tìm nguyên nhân từ cơ chế cộng đồng thì khủng bố là
một cách “thương lượng cứng rắn”, gây sức ép buộc đối
phương trong điều kiện không tương đương về thế lực với
đối phương, là cách bày tỏ sự phản kháng một cách tiêu
cực, trong hoàn cảnh không tồn tại một cơ chế đối thoại
chính thức và hợp lý. Giải thích theo hướng này cho
những mâu thuẫn quốc tế là Lý thuyết về “Sự va chạm
của các nền văn minh” của Huntington, theo đó, các cuộc
chiến tranh, các xung đột lớn trên thế giới xuất hiện do
mâu thuẫn, sự khác biệt, sự tranh chấp ảnh hưởng của
các “nền văn hoá”, các “nền văn minh” khác nhau: Âu
Mỹ- Thiên chúa giáo, á Đông -Phật giáo và Trung Đông -
Hồi giáo. Một lý thuyết khác là thuyết dân số mô tả sự
xung đột tất yếu giữa những xã hội ở các nước công
nghiệp phát triển nhanh hơn, văn minh hơn, có mức sống
cao hơn nhưng lại có tỷ lệ sinh thấp, thiếu lao động, tuổi
trung bình ngày càng già cỗi, dân số ngừng tăng trưởng
với bên kia là các xã hội phát triển chậm hơn ở các nền
kinh tế nông nghiệp, nghèo khổ hơn nhưng lại sinh đẻ
nhiều, tăng trưởng dân số nhanh, thừa lao động, tuổi
trung bình trẻ. Các nhà lý luận theo chủ nghĩa Mác kinh
điển lý giải nguyên nhân là những mâu thuẫn mang tính
đối kháng từ giác độ đấu tranh giai cấp. Ví dụ, sự đàn áp,
bóc lột của tư bản công nghiệp với giai cấp lao động ở cả
các nước công nghiệp và các nước chậm phát triển như
một kiểu “thuộc địa” của “chủ nghĩa thực dân mới”.
- Nếu tìm nguyên nhân từ cơ chế thị trường, người ta thường giải thích
những mâu thuẫn và tình trạng bạo lực là do tình trạng chênh lệch thu
nhập kinh tế, bất công và các mất công bằng trong thương mại giữa các
khu vực, các quốc gia trên thế giới.
Mỗi cách nhìn nhận nguyên nhân khác nhau sẽ đề ra các phương thức giải quyết
vấn đề một cách khác nhau. Khi khói bụi chưa tan từ toà tháp đôi sụp đổ của Trung
Tâm Thương mại New York thì các chính khách Mỹ đã nhanh chóng vạch ra những
mục tiêu tiến công cụ thể tại một số quốc gia khác trên thế giới với mục tiêu không
chỉ là tìm bắt và tiêu diệt lực lượng khủng bố mà còn là thay đổi hẳn chính thể đối
địch, cơ chế nhà nước được khẳng định là giải pháp chính giải quyết vấn đề.
225
Hộp 54. Dùng cơ chế cộng đồng để chống lại Luật cộng
đồng của Mafia
Một trong những trở ngại lớn trong quá trình chống lại các tổ chức mafia là Luật
Im lặng (Ômerta), xử lý những kẻ khai báo một cách tàn bạo. Tên trim Toto Riina
tuyên bố trừng trị gia đình của những kẻ vi phạm “đến 20 đời, bắt đầu tư” những
đứa trẻ lên 6 tuổi”. Chúng không nói suông. Khi thẩm phán Falcone tấn công trực
diện các băng đảng ở Panlecmô, tên trùm Brusca đã trực tiếp điểm hoả trái bom cài
trên đường giết chế hai vợ chồng thẩm phán và 3 cận vệ. Sau khi bị bắt, Brusca vẫn
trực tiếp điều hành mạng lưới từ trong tù. Khi bị một tên đồng bọn khai báo tội giết
ông thẩm phán, Brusca đã chỉ đạo đồng bọn bắt con trai mới 11 tuổi của kẻ phản
bội và giết chết cháu sau 2 năm tra tấn để gây sức ép bắt tên này rút lại lời khai.
Chỉ áp dụng các biện pháp theo cơ chế nhà nước như bắt giữ, xét xử các thành
viên Mafia là rất khó khăn vì không có chứng cơ buộc tội. Muốn phá vỡ Luật
Ômerta, người em gái của thẩm phán Falcone đã thành lập một tổ chức làm công tác
giáo dục, tuyên truyền tinh thần chống lại Mafia trong giới thiếu niên sinh trưởng
trong các khu phố nghèo của hai thành phố hậu phương của Mafia là Palecmô và
Catane. Chính phủ ý cũng thay đổi luật, áp dụng chính sách tha thứ cho mọi tên
Mafia nếu khai báo thành khẩn. Luật mới ra đời vấp phải sự chống đối của đông đảo
nhân dân đòi hỏi phán xử công bằng với những tên tội phạm gây nhiều tội ác.
Tuy nhiên, giải pháp mang tính cộng đồng này đã phá vỡ sự im lặng đáng sợ
của Luật Ômeta. Gần 2000 tên Mafia quan trọng đã ra khai báo và nhận được trợ
cấp tiền bạc và sự bảo vệ tính mạng tuyệt đối của chính phủ. Cảnh sát phải bảo vệ
đến 3000 người gồm những kẻ hối cải và gia đình. Thẩm phán mới tuyên bố: “Trả
lại tự do trước thời hạn cho những tên Mafia nguy hiểm thường gây sốc cho dư
luận. Thế nhưng chúng ta không thể chiến thắng được Mafia nếu không có sự khai
báo của những kẻ hối cải.” (Nguồn: An ninh Thế giới 10/6/2004).
Trong khi đó, đương đầu với hàng loạt vụ phá hoại bằng chất nổ và các đợt
biểu tình phản kháng của nông dân ở một số vùng nông thôn, chính phủ Trung
Quốc kiên quyết vạch ra chương trình “phát triển Miền Tây” to lớn, tập trung mở
mang kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ, đẩy
mạnh thương mại, nhằm thu hút đầu tư về các vùng chậm phát triển của đất nước,
dùng cơ chế nhà nước và cơ chế thị trường giải quyết mâu thuẫn giữa nông thôn
và thành thị, giữa Miền Đông hiện đại và Miền Tây lạc hậu.
ở Việt Nam, khi xảy ra những cuộc biểu tình của nhân dân và phá phách của các
phần tử quá khích tại một số địa phương Tây Nguyên, cơ chế cộng đồng là biện
pháp chính để giải quyết mâu thuẫn một cách mềm dẻo. Các tổ công tác do cán bộ
dân tộc tham gia về từng bản làng giải thích, động viên nhân dân trở về ổn định
làm ăn. Những khó khăn yêu cầu cấp thiết của dân như tham nhũng, tranh chấp
226
đất đai, thiếu lương thực, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu nhà ở từng bước được giải
quyết. Cơ bản hơn, việc phân chia lại đất đai được thực hiện. Bước tiếp theo là các
đầu tư kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất.
Cũng giống như mọi vấn đề kinh tế xã hội khác, vấn đề khủng bố và bất ổn
chính trị có thể được giải quyết theo nhiều cách khác nhau, và tốt nhất vẫn là phối
hợp các cơ chế để có thể đạt kết quả một cách vững bền.
227
Và cũng giống như các nhà chính trị, cơ chế nhà nước thường được tôn giáo sử
dụng một cách phổ biến. Khoảng những năm 620, Thánh Môhamét, người sáng
lập đạo Islam vừa là lãnh tụ tôn giáo, thống soái quân sự, thủ lĩnh chính trị, vừa là
pháp quan tối cao của nhà nước “Công xã Muslim” đã lãnh đạo 1 vạn quân Hồi
giáo đánh chiếm thánh địa Meca và thống nhất Bán đảo Arập. Các Haripha kế vị
ông sau này tiếp tục sự nghiệp vừa truyền đạo vừa bành trướng thế lực đã xây
dựng một đế quốc rộng lớn bao trùm cả ba châu lục Âu, á, Phi. Lịch sử phát triển
của Thiên chúa giáo cũng thấm đầy máu và khói lửa của bao cuộc chiến tranh
giữa giáo hội phương Đông (ở Côngstăngtinốp) và giáo hội phương Tây (ở La
Mã), của các cuộc “thánh chiến” kéo dài 200 năm giữa giáo hội Thiên chúa giáo
và Hồi giáo…Cách thức tổ chức và phạm vi hoạt động của Giáo hội Cơ đốc trong
thời gian dài Trung cổ sử dụng cơ chế nhà nước bao trùm cả quyền lực của các
nhà nước phong kiến Âu châu. Ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã xác định
rõ trên luật pháp về ranh giới không được tham gia của tôn giáo trong hoạt động
chính trị, giáo dục,… nhưng không vì thế mà cơ chế nhà nước không còn là công
cụ quan trọng của hoạt động tâm linh.
228
mình, xây dựng đền chùa duy trì lễ tết cổ truyền, chỉ cho con trai lấy vợ khác dân
tộc, không cho con gái lấy người bản địa,…
Các biện pháp trên chủ yếu dùng cơ chế cộng đồng, nhưng cơ chế nhà nước
được dùng mạnh mẽ để làm nền tảng cho các hoạt động cộng đồng. Mã Viện lập
các ấp trại cho binh lính ra làm ruộng gọi là “Mã lưu dân”, giết hại hàng vạn dân,
bắt đày sang Trung Quốc hơn 300 thủ lĩnh quí tộc Việt. Nhà Ngô bắt đưa hàng
nghìn, hàng vạn trai tráng sang Trung Quốc làm nô lệ, đưa hàng ngàn thợ thủ
công Việt Nam sang xây dựng kinh đô Kiến nghiệp của Trung Quốc, tiến hành
phá huỷ trống đồng-biểu tượng của văn hoá Lạc Việt, chôn cột đồng để răn đe
người Việt.
Ngay từ thời xa xưa ấy, cơ chế thị trường đã được sử dụng để khống chế, bóc
lột dân tộc thuộc địa. Ngoài việc thu cống phẩm, tô thuế và lao dịch theo cơ chế
nhà nước, chính quyền đô hộ thời nhà Đường nắm giữ độc quyền sản xuất và bán
muối và sắt, bán ra với giá cắt cổ hai mặt hàng không thể thiếu được cho cuộc
sống. Đường xá cầu cống được cải tạo thuận lợi cho hoạt động giao thương buôn
bán, lái buôn Trung Quốc là những người hưởng lợi chính trong hoạt động thị
trường mở mang102.
Chính nguy cơ đồng hoá dân tộc đã thúc đẩy tinh thần yêu nước của dân tộc
Việt Nam. Lời hịch truyền của Vua Quang Trung năm Mậu Thân hàng ngàn năm
sau thời kỳ “Bắc thuộc” vẫn sôi sục một nỗi quyết tâm bảo vệ bản sắc dân tộc:
“Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng
…
Đánh cho Nam quốc sơn hà chi hữu chủ”
Đánh thắng quân xâm lược, vua Quang Trung lập tức cho dùng tiếng Việt, chữ
Nôm trong hoạt động chính thức của nhà nước và giáo dục, chủ trương khôi phục
và phát triển văn hoá dân tộc. Chiến thắng của dân tộc Việt trước nạn đồng hoá
Phương Bắc không chỉ gắn liền với những chiến công Chi Lăng, Bạch Đằng,
Đống Đa,… mà còn bắt nguồn từ những “chiến công” của cơ chế cộng đồng, cơ
chế thị trường: suốt hơn một nghìn năm đô hộ, không một triều đại phương Bắc
nào có thể thiết lập được hệ thống cai trị đến cấp làng xã người Việt, nhiều vùng
lãnh thổ rộng lớn và toàn bộ cộng đồng cơ sở do người Việt với nền văn hoá dân
tộc mạnh mẽ của mình làm chủ, đẩy lùi ảnh hưởng văn hoá ngoại lai. Chẳng
những thế các cộng đồng di cư từ phương Bắc xuống lại từng bước hội nhập trở
102
Quýnh, T. H.; Doãn, P. Đ.; Minh, N. C. 2000
229
thành thành viên dân tộc, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam với các họ tộc
mới như họ Lý, họ Lại, họ Nguyễn, họ Đỗ, họ Võ... 103.
Hộp 55. Hàn Quốc xây dựng hệ thống đường cao tốc
Trong chiến tranh, Pác Chung Hy được cử sang Mỹ học sỹ quan lần đầu tiên
nhìn thấy lợi ích to lớn của hệ thống đường cao tốc. Năm 1964 trở thành Tổng
thống, ông sang thăm Tây Đức và rất kính phục sự thành công của hệ thống đường
232
cao tốc giúp nước Đức hồi phục sau chiến tranh. Trên tuyến đường 20 km từ Bonn
đến Koln, xe chạy 160 km/giờ, Pắc hỏi han tỷ mỷ về cách thức xây dựng và đề nghị
dừng xe hai lần để xuống xem xét kỹ mặt đường và dải phân cách.
Năm 1967, Pắc đề nghị triển khai xây dựng hệ thống đường cao tốc ở Hàn
Quốc và bị mọi người, từ chuyên gia, chính phủ, đến quốc tế phản đối. Bị Ngân
hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế từ chối cho vay, việc xây dựng đường chỉ trông
vào ngân sách quốc gia rất èo uột khi đó. Công trình làm đường cao tốc 6 làn xe rất
tốn kém, nhất là tiền bồi hoàn ở các khu gần thành phố vì đường đi qua những khu
vực có tới 63% dân số cả nước sinh sống. Chỉ tính riêng cho tuyến đường Seoul-
Pusan, nếu chi phí tương tự như tuyến đường ở Nhật sẽ cần 214 tỷ Won, cao hơn
30% toàn bộ ngân sách cả nước năm 1967. Đây là lượng vốn khổng lồ không thể
có. Bộ Tài chính vơ vét tất cả các khoản đã chỉ cân đối nổi 33 tỷ Won, và công
trình phải bó gọn trong khoản tiền đó.
Để giảm khoản chi lớn cho mua và bồi hoàn đất đai, Tổng thống Pắc trực tiếp
nghiên cứu bản đồ và vạch tuyến ngắn nhất cho con đường. Sau đó ông mời giám
đốc hai ngân hàng thương mại lớn nhất đến để ước lượng giá đất trên tuyến đường
đã qui hoạch. Khi biết giá đất, ông mời Bộ trưởng Bộ Xây Dựng, thị trưởng thành
phố Seoul và một thành phố khác (là nơi có giá đất cao nhất) mà con đường sẽ đi
qua đến thông báo giá và giao nhiệm vụ bí mật tiến hành mua đất dọc theo tuyến
đường trong thời gian 1 tuần để cho đất không kịp lên giá. Để làm việc này, các
lãnh đạo địa phương có quyền điều chỉnh chuyển đổi quỹ đất hiện có như đất nông
nghiệp, đất kết cấu hạ tầng khác. Sau khi 2 thành phố trên tiến hành mua đất xong,
Tổng thống mời một loạt các tỉnh trưởng trên toàn tuyến đường dự kiến đến và giao
cho họ tiếp tục tiến hành mua đất theo giá đã biết. Đến cuối năm 1967, toàn bộ đất
cần thiết để xây dựng đường đã được mua với giá gốc thị trường, khi giá chưa kịp
lên. Khi đã có đủ đất trong tay, đầu năm 1968, tuyến đường cao tốc này được chính
thức động thổ xây dựng.
Nhờ hàng loạt biện pháp tiết kiệm nghiêm ngặt trong đó một phần quan trọng
là đảm bảo cơ chế thị trường, tiết kiệm tiền mua đất mà vẫn giải phóng mặt bằng
nhanh chóng, tổng chi thực của đường cao tốc sau khi hoàn thành chỉ là 43 tỷ Won,
(kể cả phát sinh do lạm phát mạnh lúc đó), bằng 1/5 chi phí của Nhật Bản, tuyến
đường này đã chiếm kỷ lục thế giới về tiết kiệm chi phí, tốc độ xây dựng và chất
lượng công trình. Sau khi đánh tan mọi hiềm nghi của mọi người, tại Hàn Quốc, lần
lượt 8 tuyến đường cao tốc khác được hoàn thành trong 10 năm 1967-1977, nâng
hệ thống giao thông của nước này lên mức của các quốc gia công nghiệp tiên tiến.
Tác dụng của tuyến đường này với sự nghiệp hiện đại hoá và công nghiệp hoá của
Hàn Quốc đã được chứng minh. Nguồn: Chung Yum Kim 1999)
Cả hai hình thức cải cách ruộng đất trên đều đem lại chung kết quả là tái lập
công bằng xã hội, tạo điều kiện cho tầng lớp tá điền chuyển thành tiểu nông và
chủ trang trại trong quá trình phát triển nông nghiệp thành công sau này. Tuy
nhiên cách dùng bạo lực làm đổ nhiều máu và cách dùng thị trường làm tốn nhiều
tiền.
233
Khi quá trình công nghiệp hoá đã phát triển, một nhu cầu mới về điều phối tài
nguyên lại xuất hiện mạnh mẽ, đó là sự cần thiết phải huy động và điều phối lại
đất đai để sử dụng vào xây dựng các công trình công cộng như hệ thống giao
thông hiện đại, qui hoạch và mở mang thành phố, xây dựng các khu công nghiệp
hiện đại... Mỗi nền kinh tế lại có thể áp dụng các cơ chế khác nhau để thực hiện
mục đích này. Trong khi các nước áp dụng kinh tế thị trường sử dụng thị trường
đất đai bất động sản sẵn có để xác định giá cả, tiến hành thoả thuận và giải quyết
mọi vấn đề nảy sinh bằng công cụ thị trường thì cũng có các nước dùng các cơ
chế khác. Hàn Quốc là một ví dụ tiêu biểu cho việc dùng cơ chế thị trường vào
những năm bắt đầu tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ quá trình công
nghiệp hoá. Toàn bộ quĩ đất được dùng để xây dựng hệ thống đường cao tốc đều
được nhà nước mua lại của nhân dân theo giá thị trường vào thời điểm xây dựng.
Để tránh đất lên giá, Tổng thống đã tiến hành bí mật mua đất, trước khi chính thức
công bố kế hoạch xây dựng.
Tại Singapore, trong khi áp dụng cơ chế thị trường để mua các vùng đất của
dân xây dựng công trình phúc lợi công cộng, Thủ tướng Lý Quang Diệu nhận thấy
rằng “không có lý gì để cho những chủ đất tư nhân có thể kiếm lợi từ sự tăng giá
đất do sự phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng mang lại” nên xây dựng Luật cho
phép chính phủ mua đất với giá được định ra cho từng thời kỳ và sau đó cố định
giá vào ngày 30/11/1973, các mốc thời gian sau này là 1/1986, 1/1992 và 1/1995,
như vậy một mặt, về dài hạn giá đất thu hồi vẫn được điều chỉnh từng thời gian
cho sát với giá thị trường, mặt khác về ngắn hạn, khi chính phủ bồi hoàn, không bị
đội giá ngay lên theo mức tăng giá đất sau khi đầu tư kết cấu hạ tầng. Trong
trường hợp này, cơ chế thị trường đã được cân chỉnh theo cơ chế nhà nước (Diệu
L. Q. 2001).
Những năm qua, tại Trung Quốc cũng đang diễn ra quá trình xây dựng đường
xá, và các công trình xây dựng mạnh mẽ phục vụ cho tốc độ phát triển nhanh của
quá trình công nghiệp hoá. Khối lượng xây dựng đường của Trung Quốc những
năm gần đây thậm chí cao hơn cả tốc độ phát triển đường của Mỹ những năm
1950 là thời kỳ bùng nổ của hệ thống đường cao tốc nổi tiếng của Mỹ. Để có quĩ
đất khổng lồ cho các công trình xây dựng, Trung Quốc lại chủ yếu áp dụng cơ chế
nhà nước. Trong suốt thập kỷ 1980-1990, là thời gian triển khai hàng loạt công
trình xây dựng đường xá, kết cấu hạ tầng ở Trung Quốc, Luật Đất đai cũ của
Trung Quốc vẫn chưa giao cho nông dân quyền được chuyển giao quyền sử dụng,
thừa kế, và sử dụng quyền sử dụng để thế chấp cho ngân hàng như Luật Đất đai
năm 1993 ở Việt Nam.
Trong vài năm gần đây, Trung Quốc đã ban hành những cải tiến trong Luật Đất
đai theo hướng tăng thêm nhiều quyền cho người sử dụng đất. Nhà nước cũng
không trực tiếp làm mà giao quyền cho các công ty (chủ yếu của nhà nước) thực
234
hiện việc bồi hoàn đất đai, giải phóng mặt bằng và thực hiện các công trình xây
dựng. Tuy nhiên, cơ chế chính được áp dụng vẫn mang tính nhà nước. Nhân dân
bị thu hồi đất chỉ được bồi hoàn một khoản tiền nhỏ, tính theo giá trị của đất khi
chưa xây dựng công trình, hoặc được bồi hoàn trực tiếp bằng chỗ ở khác, thường
là tương đương diện tích ở cũ nhưng ở xa trung tâm đô thị hơn. Nhà nước cũng
không cho phép cá nhân mua bán, sở hữu hoặc tiến hành xây dựng nhà riêng ở
thành phố. Chủ yếu nhà ở đô thị là các khu chung cư lớn do các công ty xây dựng
trên đất công và bán hoặc cho tư nhân thuê.
Do đó, khi cần có đất giành cho các công trình xây dựng công cộng, nhà nước
chỉ cần thu lại đất của dân nằm trong qui hoạch và bồi hoàn một khoản tiền nhỏ
cho các công trình xây dựng đã có trên đất đai. Tuy cũng có hiện tượng ở một số
nơi, người bị lấy đất bất bình, phản kháng, nhưng nhìn chung, nhờ hoàn toàn làm
chủ quỹ đất công, kinh phí đầu tư chủ yếu giành cho công tác xây dựng, giá thành
các công trình rẻ, qui hoạch được thực hiện đồng bộ, thời gian thi công nhanh, qui
mô các công trình rộng. Điều quan trọng là qui hoạch đô thị rất hoàn chỉnh, diện
tích để mở đường giao thông, trồng cây xanh, xây dựng các công trình công cộng
rất rộng rãi, bộ mặt đô thị văn minh và hoàn chỉnh, vấn đề nhà ở của nhân dân
được giải quyết từng bước ổn định và tương đối công bằng. Bộ mặt đô thị, hệ
thống đường cao tốc và kết cấu hạ tầng Trung Quốc thay đổi rất nhanh chóng.
Cũng trong thời gian trên, Việt Nam mở rộng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
và kiến trúc đô thị. Tuy cũng sử dụng cả công cụ thị trường (bồi hoàn, góp vốn,
liên doanh...) và công cụ của cơ chế nhà nước (qui hoạch, giải tỏa, cưỡng chế,...)
nhưng cơ chế chính được áp dụng vẫn mang tính chất của cơ chế cộng đồng: giải
thích, tuyên truyền, vận động, thương lượng, hoà giải,... Một mặt, thị trường chính
thức không được công nhận nên mặt bằng giá cả không rõ ràng, chi phí giao dịch
cao. Mặt khác, quyền sở hữu và quyền sử dụng nhập nhằng, đất đai về tiếng là của
toàn dân, thực chất do các tập thể, cá nhân, địa phương cụ thể quản lý. Do đó, nhà
nước thực chất không nắm được quĩ đất trong tay. Kết quả là qui hoạch không đi
trước hoàn chỉnh đồng bộ, không thông báo minh bạch cho toàn dân, giá cả bồi
hoàn không thống nhất, không có căn cứ rõ ràng, giải pháp thu hồi co giãn, không
dứt điểm,... Bởi vậy, có nơi, chủ yếu là ở nông thôn, nông dân chỉ được bồi hoàn
rất thấp, có khi phải di cư đến những vùng xa, hoàn toàn mới, để tổ chức cuộc
sống từ đầu trong hoàn cảnh rất khó khăn. Trong khi đó, nhiều nơi ở đô thị, các hộ
được bồi hoàn theo giá tương lai, khi công trình đã hoàn chỉnh. Có nhiều người
vừa được bồi hoàn chỗ ở mới, vừa được bồi hoàn tiền giá cao. Những người ở lại
được hưởng toàn bộ giá trị đất đai tăng lên do nhà nước đầu tư xây dựng công
trình mới. Nhiều tổ chức, cá nhân nghiễm nhiên được cấp đất, được hoá giá đất
công, nhà công, trở thành tỷ phú "qua một đêm".
235
Kết quả là nhà nước tiêu tốn những khoản tiền khổng lồ chủ yếu cho bồi hoàn,
nhưng công tác giải phóng mắt bằng vẫn nan giải, thời gian xây dựng kéo dài,
nhiều công trình ích nước lợi nhà không thể thực hiện nổi vì quá đắt đỏ, tình trạng
tranh chấp, khiếu kiện kéo dài diễn ra phức tạp, nạn tham nhũng trong công tác
xây dựng cơ bản trầm trọng từ khâu đầu đến khâu cuối, diện tích xây dựng eo hẹp,
đô thị qui hoạch lộn xộn, giao thông và các công trình công cộng chắp vá, manh
mún, chất lượng các công trình xây dựng thấp kém, đất công bị lấn chiếm khắp
nơi, vấn đề nhà ở cho người lao động, người nghèo trở nên nan giải, nông dân nơi
được bồi hoàn cao cũng lo lắng vì tiền nhiều đổi lấy mất việc làm, chênh lệch thu
nhập trong xã hội tăng rõ rệt. Rõ ràng cơ chế cộng đồng không phải là giải pháp
đúng để giải quyết vấn đề đất xây dựng công trình công cộng.
236
chính sách lấy nông nghiệp là động lực công nghiệp hóa suốt từ thời Minh Trị thế
kỷ 19 đến năm 1960, khi kinh tế Nhật đạt đến điểm chuyển căn bản trong cơ cấu:
lĩnh vực nông nghiệp bắt đầu thu hẹp, chuyển tài nguyên nhanh sang các ngành
khác.
Điểm đặc biệt quan trọng trong chính sách của Nhật là tập
trung làm giàu cho nông thôn. Chính sách giá cả, chính sách bảo
vệ nông sản, và các chính sách đầu tư khác cho nông nghiệp
khiến thu nhập bình quân hộ nông dân từ 1955 đến 1965 tương
đương thu nhập hộ công nghiệp ở thành phố. Nông thôn giàu
giúp điều tiết vốn cho đô thị công nghiệp hoá. Ngoài các chính
sách của nhà nước trực thu từ nông nghiệp như thuế đất, có
nhiều kênh thu hút vốn cùng hoạt động thông qua cơ chế thị
trường như chi phí tiếp thị và lãi suất tín dụng; thu hút tầng lớp
nông dân có vốn dự trữ đầu tư qua thị trường tài chính phát triển
công nghiệp. Nhờ đó, suốt một thời gian dài cất cánh kinh tế từ
1908 cho đến thập kỷ 1930, lĩnh vực nông nghiệp đóng góp cho
nền kinh tế bằng 9-10% GDP để đầu tư phát triển công nghiệp
(tương đương với tỷ lệ ở Việt Nam năm 1991 khi các chính sách
đổi mới đang phát huy tác dụng cao nhất làm nông nghiệp phát
triển vượt bậc).
Nông thôn có thu nhập cao lại trở thành thị trường lớn cho hàng hoá công
nghiệp. Trái với suy nghĩ của nhiều người, trong giai đoạn phát triển ban đầu, trừ
ngành dệt may là hoàn toàn phục vụ xuất khẩu, hầu hết công nghiệp Nhật là để
phục vụ thị trường trong nước. Máy móc trước năm 1950 chủ yếu tiêu thụ trong
nước, từ đó đến năm 1970 tiêu thụ trong nước bằng mức xuất khẩu, chỉ sau đó
mới thiên về xuất khẩu. Hàng công nghiệp nặng và hoá chất chủ yếu phục vụ
trong nước cho đến 1950 chuyển dần sang xuất khẩu. Hàng công nghiệp nhẹ
ngược lại, trước năm 1950 xuất khẩu là chính, đến 1960 cân bằng xuất khẩu và
trong nước, từ đó về sau chuyển sang phục vụ thị trường trong nước. Hàng hóa
Nhật như ô tô, dụng cụ điện gia dụng, đồ điện tử... đều bắt nguồn từ thị trường
trong nước. Mở ra thị trường nông thôn cho công nghiệp đô thị là cách lấy nông
nghiệp nuôi công nghiệp theo cơ chế thị trường của Nhật bản.
Sử dụng cơ chế nhà nước để tích lũy đầu tư cũng là hướng được nhiều nước áp
dụng. Nếu như các nền kinh tế theo mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực tiến hành
công hữu hoá và trực tiếp điều hành nền kinh tế và tài chính để có thể rút ra vốn
tích lũy đầu tư phát triển theo kế hoạch thì các nền kinh tế áp dụng kinh tế thị
trường cũng có nhiều giải pháp để nhà nước huy động vốn theo cơ chế nhà nước.
Đánh thuế từ nhân dân cao hơn mức tiêu dùng chính phủ; tạo cánh kéo giá, tạo
chênh lệch giá có lợi cho hàng hoá của doanh nghiệp nhà nước; áp dụng các biện
237
pháp cạnh tranh không công bằng, tạo nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước;
huy động lao động công ích của nhân dân; mua công trái và trả tiền với lãi suất
âm (thấp hơn mức độ mất giá) ... là những biện pháp để nhà nước tích lũy vốn đầu
tư vào các công trình quan trọng, các ngành mũi nhọn bằng cơ chế nhà nước.
Một ví dụ áp dụng cơ chế nhà nước tạo tích lũy là trường hợp
Đài Loan dùng giải pháp "đánh thuế ngầm" để huy động tài
nguyên nông nghiệp phục vụ quá trình công nghiệp hóa. Chính
phủ Đài Loan một mặt thu mua lúa với giá thấp chỉ bằng 1/2 đến
3/4 giá thị trường, mặt khác đổi phân hoá học với giá phân cao
(do chính phủ độc quyền phân phối) lấy lúa được tính giá thấp.
Tất cả các nguồn thu: thuế, địa tô, và trả nợ tín dụng đều được
tính bằng lúa (với giá rẻ). Dựa trên lợi thế thương mại trên, Chính
phủ thu hút được lượng vốn đáng kể và làm chủ tình hình an ninh
lương thực, phục vụ công nghiệp hóa. Điều đáng nhấn mạnh là
trong khi lấy đi của nông nghiệp, chính phủ giám sát chặt thực
trạng nông thôn để chỉ lấy đi một phần giá trị dư thừa của sản
xuất nông nghiệp và vẫn đảm bảo thu nhập của nông dân tăng
lên đều đặn, đảm bảo tái sản xuất trong nông nghiệp.
Cùng với sự lớn mạnh của lĩnh vực công nghiệp, mức “thuế
ngầm” trong nông nghiệp ngày càng giảm dần và được loại bỏ
vào năm 1972. Tác dụng của việc điều tiết này rất to lớn, từ 1952
- 1963 thu nhập tài chính từ “thuế ngầm” của nông nghiệp cho
nhà nước vượt hơn mức thu của toàn bộ thuế thu nhập của nền
kinh tế. Trong “thuế ngầm” phần thu từ chênh lệch giá thu mua
bằng phần thu do chênh lệch phân lúa. Sự cân đối hợp lý giữa
điều tiết từ nông nghiệp sang công nghiệp và đầu tư phát triển
nông nghiệp cho phép nông nghiệp tăng trưởng, ổn định giá
lương thực và có tích luỹ rất lớn cho công nghiệp.
238
Khi so sánh trong cùng một lãnh vực, người ta vẫn áp dụng cả 3 cơ chế điều
hành và khuyến khích nghiên cứu và áp dụng công nghệ. Lấy ví dụ trong nghiên
cứu chế tạo vũ khí, một lĩnh vực bao gồm cả các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu
ứng dụng. Có rất nhiều nước coi lĩnh vực nghiên cứu này là độc quyền của nhà
nước và cơ chế nhà nước được áp dụng rộng rãi từ đầu tư, định hướng, đến thực
hiện, sử dụng kết quả,… nhưng cũng có những quốc gia như Hoa Kỳ áp dụng
rộng rãi cơ chế thị trường trong lĩnh vực này, các nhà nghiên cứu chế tạo có thể
làm việc độc lập với nhà nước hoặc theo đơn đặt hàng của nhà nước theo cung
cách cạnh tranh hoàn toàn, tất nhiên họ bị giới hạn và giám sát khi chuyển giao,
buôn bán công nghệ với nước ngoài.
Trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, cơ chế cộng đồng không
mấy khi được áp dụng trong đầu tư, sở hữu, quản lý, sử dụng… nhưng thực sự
đây là một động lực quan trọng để thúc đẩy công nghệ phát triển. Danh tiếng và
sự công nhận là phần thưởng rất quan trọng đối với các nhà khoa học. Trong
những hoàn cảnh lý tưởng, người ta tạo điều kiện để nhiều nhà khoa học phát triển
các trường phái học thuật riêng của mình, tạo thành những quan hệ cộng đồng
nghiên cứu riêng biệt, thi đua nhau về thành tích và năng lực sáng tạo. Một trong
những ví dụ điển hình là hiện tượng các nhà khoa học lỗi lạc làm nên ngành khoa
học hàng không nổi tiếng của Liên Xô. Đất nước này khuyến khích và tạo điều
kiện cho nhiều nhà khoa học có năng lực cùng song song phát triển các “phòng
thiết kế chế tạo máy bay” (OKB) riêng của mình với đầy đủ trang bị, kinh phí, kết
cấu hạ tầng, đội ngũ cán bộ phục vụ mặc dù khi sản xuất máy bay đều được làm
tại hệ thống nhà máy quốc gia (GAZ). Có điều kiện làm việc thuận lợi, mỗi công
trình sư với đội ngũ học trò và phương pháp nghiên cứu, lý thuyết khoa học riêng
đã sáng tạo ra một thế hệ máy bay mang sắc thái độc đáo, tạo nên sự thành công
đa dạng của ngành hàng không và quân chủng không quân Liên Xô. Đó là tên tuổi
của Antonov (chế tạo loại máy bay mang tên AN), Iliusin (IL), Mikoyan (Mig),
Sukhoi (Su), Tupolev (Tu), Yakoplev (Yak)104,…
105
Diệu, L. Q. 2001
240
Sử dụng các vùng nhượng địa cũ như Hồng Kông, Ma Cao, làm cầu nối với thế
giới bên ngoài thông qua cộng đồng người Hoa, Trung Quốc chuyển dần sang áp
dụng chính sách "một đất nước hai chế độ" tiếp tục phát triển kinh tế tư bản ở các
vùng lãnh thổ này để nối tài chính với kinh tế thế giới. Vòng đệm bên trong tiếp
nối với lục địa là hệ thống 6 "đặc khu kinh tế" và 14 thành phố cảng mở cửa với
chính sách kinh tế cởi mở thu hút công nghệ và tư bản quốc tế. Năm 1998, tổng
diện tích 5 đặc khu lên tới 35 ngàn km2 với dân số trên 10 triệu người, tạo giá trị
sản lượng hàng năm trên 200 tỷ USD, xuất khẩu 30 tỷ USD. Đến 1977, các đặc
khu và thành phố mở đã thu hút 50 tỷ USD đầu tư hình thành 4 vạn xí nghiệp vốn
nước ngoài mà phần quan trọng là của Hoa kiều đầu tư106.
Thu hút đầu tư và mở mang thị trường rõ ràng là thế mạnh của cơ chế thị
trường. Bản thân việc tạo ra điều kiện thuận lợi cho quan hệ thị trường phát triển
đã là một lợi thế cạnh tranh đáng nể cho một quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài
và phát triển thị trường cho hàng hoá của mình. Điều kiện phát triển thị trường
không chỉ là kết cấu hạ tầng, năng lực nhân viên, dịch vụ phục vụ, chính sách cởi
mở… Hilton Root107 còn coi đó là một môi trường kinh doanh an toàn, trong đó,
người ta bỏ tiền đầu tư chỉ lo đến chuyện làm ăn mà không sợ các “anh chị xã hội
đen” đến đòi bảo kê, không sợ các nhân viên công lực đến xin tiền hỗ trợ, không
sợ các tổ chức xã hội đến đề nghị đóng góp, một thế giới ai lo việc nấy và làm
tròn phận sự của mình, một xã hội tử tế và minh bạch.
Hộp 56. Câu chuyện con người của ba cơ chế làm việc
- Người thủ trưởng Cơ chế rất vất vả chạy vạy cho một người họ hàng vào
làm việc. Người được chọn và thủ trưởng của anh ta đều cảm thấy đây là ơn
huệ lâu dài. Là nhân viên mới, trong suốt những năm đầu anh chỉ được pha
chè, quét dọn cơ quan, đối với anh được giao công việc nào cũng được. Việc
quan trọng nhất là làm quen, xây dựng quan hệ tốt với mọi người vì anh ta sẽ
gắn bó cả đời mình với cơ quan. Muốn tăng thu nhập phải tìm cách xoay sở
trong công việc và không quên lễ tết trả ơn thủ trưởng. Sau khi thủ trưởng đã
về hưu, người nhân viên cũ lại tìm cách thu nhận con của xếp cũ vào cơ quan
làm việc.
- Người thủ trưởng Thị trường rất nhiệt tình tổ chức thi tuyển cạnh tranh
chọn một người giỏi về chuyên môn vào cơ quan làm việc. Thủ trưởng mừng
vì tìm và thuê được người giải quyết tốt công việc. Ngay khi nhận việc nhân
viên mới đã được giao những nhiệm vụ chuyên môn nặng nề vì người ta tuyển
anh cho nhiệm vụ khó khăn và trả lương xứng đáng cho việc đó. Anh cảm
thấy việc được chọn và đóng góp của mình cho cơ quan là sòng phẳng và dồn
tâm trí làm việc cho đem lợi nhuận cao cho cơ quan. Ưu tiên chính của anh ta
là nắm bắt công việc, và sẵn sàng thay đổi nơi làm việc nếu cảm thấy công
việc không phù hợp.
- Người thủ trưởng Nhà nước tỏ ra rất khó khăn giành chỗ trong biên chế
hạn hẹp để chọn một nhân viên đúng với tiêu chuẩn công việc cần. Người
242
được chọn được trả mức lương tượng trưng nhưng hài lòng với cuộc sống ổn
định và tranh thủ làm thêm ngoài giờ để tăng mức sống. Trong nhiều năm đầu
công tác, anh bắt đầu từ những công việc thực tập và trợ giúp đơn giản nhất và
leo dần từng bước trên bậc thang cấp bậc hành chính. Anh phải tập trung học
hỏi các qui tắc, thi các bằng yêu cầu trong cơ quan, cố tuân lệnh trên và hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao để được thăng chức, có nhiều quyền lợi hơn.
Anh không nghĩ tới việc chuyển cơ quan vì tốn rất nhiều thời gian nắm bắt
được kinh nghiệm và quan hệ làm việc.
Cách thức cư xử giữa người với người, cung cách xử lý giữa nhà nước với dân
bởi vậy, chịu ảnh hưởng đáng kể từ cơ chế chủ đạo trong xã hội. Muốn xây dựng
một hệ thống thể chế mới phải tính đến thực trạng cơ chế của xã hội để có bước đi
và biện pháp thích hợp. Rõ ràng xã hội cơ chế nhà nước làm chủ đạo như trên, các
hình thức tổ chức của dân giám sát và quản lý chất lượng làm việc của nhà nước
như toà án hành chính, các ủy ban giám sát kiểm soát trong quốc hội,… đóng vai
trò quan trọng trong đời sống xã hội. Hệ thống tài chính quản lý thu thuế cũng
phải rất chặt chẽ và hiệu quả để nhà nước có đủ tiền trang bị và trả lương thích
đáng cho viên chức.
Không thể tiến hành tổ chức một xã hội nửa vời “hữu danh, vô thực”, cái gì
cũng có một cách hình thức mà không hoàn chỉnh theo một cơ chế chủ đạo nào,
đồng thời cũng phải tiến dần đến một xã hội phát triển trong đó cả ba cơ chế đều
tham gia điều chỉnh các mối quan hệ một cách hiệu quả.
Cải thiện kết cấu cơ chế ở Việt nam.
Đại hội 9 của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:"Nhà nước
ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế bằng pháp
luật, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế
thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý
của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản
xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của
toàn thể nhân dân". Theo chiến lược này, hai cơ chế chính chủ
đạo đang được chú ý phát huy bổ sung cho nhau và hỗ trợ nhau
là cơ chế thị trường và cơ chế nhà nước. Trong đó, cơ chế thị
trường được dùng để kích thích sản xuất và cơ chế nhà nước
dùng để bổ sung cho chỗ yếu của cơ chế thị trường, nhằm đảm
bảo công bằng xã hội, bảo vệ người lao động.
243
Một số nhà phân tích nước ngoài phân định rằng nền kinh tế
Việt Nam là một nền kinh tế đang chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch
sang kinh tế thị trường, như vậy Việt Nam dường như đang từ cơ
chế chủ đạo nhà nước chuyển sang cơ chế chủ đạo là thị trường.
Mặt khác, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, dù
muốn hay không, cơ chế cộng đồng đã và đang đóng vai trò nổi
bật chi phối đời sống kinh tế xã hội Việt Nam, kể cả trong thể chế
nhà nước và thể chế thị trường. Như vậy dường như một nhiệm
vụ nữa của xã hội Việt Nam đang là chuyển giao vai trò chủ đạo
của cơ chế cộng đồng cho cơ chế thị trường.
Thực tế cho thấy, không những cơ chế cộng đồng đang đóng
vai trò chủ đạo điều chỉnh hoạt động xã hội Việt Nam mà các
công cụ của cơ chế cộng đồng đang được sử dụng cũng vẫn ở
mức độ phát triển thấp. Việt Nam đi sau trong một thế giới tiến
nhanh. Một xã hội hiện đại phải là một xã hội được điều chỉnh hài
hoà bằng cả ba cơ chế với những công cụ hiện đại108. Không thể
chỉ chú trọng một hai cơ chế dù là thị trường, nhà nước hay cộng
đồng.
108
Xem phần Sự thống nhất và hợp tác giữa các cơ chế trong quá trình phát
triển xã hội, trang
109
Hượu, T. Đ., 2001
244
Cơ chế nhà nước với di sản của cơ chế cộng
đồng.
Chính quyền dân chủ nhân dân, chính thể nhà nước cộng hoà đã được thiết lập
gần 60 năm trên đất nước ta, nhưng cơ chế cộng đồng vẫn in đậm nét trên hoạt
động của thể chế nhà nước.
Cơ chế cộng đồng trong tổ chức cán bộ
Ngoài việc lựa chọn đại diện vào các cơ quan quyền lực và các tổ chức chính
trị đương nhiên phải đảm bảo tính đại diện của nhân dân theo dân số, dân tộc, giới
tính, cân bằng quyền lực giữa các cộng đồng xã hội, lãnh thổ; dường như ngay cả
việc hình thành bộ máy lãnh đạo của các cơ quan mang tính chuyên môn vẫn phải
cân nhắc đến các yếu tố cộng đồng trên.
Do tổ chức cán bộ lo thoả mãn cân bằng cộng đồng theo “cơ cấu” nên trong
việc ra nhiều quyết định quan trọng, quản lý theo nguyên tắc đồng thuận đã thay
thế cho tập trung dân chủ. Trong những hoạt động cần xử lý thông tin quyết đoán,
nhanh chóng và có rủi ro như trong các quyết định kinh doanh, ngăn chặn thiên
tai, bảo vệ an ninh,.. tình trạng bàn bạc “bộ tam”, “bộ tứ” chẳng những làm trì trệ
hoạt động, lỡ thời cơ hành động mà còn tạo ra tình trạng “cha chung không ai
khóc”, chế độ trách nhiệm không rõ ràng.
Để được lòng mọi đối tượng, cán bộ đành khuyên nhau cư xử một cách tròn trịa:
“Đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên
Việc khó bỏ lại, đừng kiên quyết làm”110
Mỗi khi chia tách, sát nhập một đơn vị hành chính, một cơ quan kinh tế, mỗi
khi bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, thì bệnh “địa phương chủ nghĩa” lại nổi lên
rõ nét, thậm chí đôi khi trở thành tiêu chí xếp loại, định mức phân bổ cụ thể.
Những ê kíp, nhóm công tác nhiều khi không được lựa chọn theo năng lực công
việc và kết cấu chuyên môn mà mang mầu sắc địa phương, dòng họ. Chuyện “chi
bộ họ mình” hay “cơ quan quê ta” không chỉ là chuyện đùa. Trong các cơ quan,
việc tuyển chọn, đề bạt cán bộ chưa theo một cơ chế lựa chọn nhân tài. Với nhiều
thủ trưởng, sự trung thành, tin cậy của cán bộ vẫn là tiêu chuẩn quan trọng để xây
dựng đội ngũ kế cận. Quan hệ theo kiểu cộng đồng dẫn đến nguy cơ hình thành
các nhóm lợi ích trong hoạt động của bộ máy nhà nước và đoàn thể.
Việc tuyển chọn cán bộ nếu theo cơ chế nhà nước sẽ áp dụng các tiêu chuẩn
qui định và theo trình tự thống nhất, nhìn việc chọn người, nên có thể lặp lại theo
không gian và thời gian. Ngược lại, nếu sử dụng cơ chế cộng đồng để lựa chọn và
đào tạo cán bộ, sẽ nhìn người giao việc, nên kết quả công việc, kiểu cách quản lý
110
Tục ngữ mới
245
sẽ không thống nhất mọi chỗ, mọi nơi mà tuỳ theo con người và các mối quan hệ
cụ thể. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “nhân trị”.
Hộp 57. Tình trạng hình sự hoá các tranh chấp kinh tế
246
Đến hết năm 2003, ở Việt Nam đang tồn tại khoảng 36000 văn bản chồng chéo
nhau giữa các cấp các ngành, khiến cho người chấp hành luật và người thi hành
luật áp dụng thế nào cũng được. Tuy bộ Luật Hình sự đã qua 5 lần sửa nhưng vẫn
có thể vận dụng để hình sự hoá tranh chấp dân sự.
Ví dụ trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc công dân có quyền tự do kinh
doanh, nhưng vì lợi ích công cộng, nhà nước yêu cầu cấp phép trong một số lĩnh
vực đặc biệt, và nếu có người vi phạm các qui định này thì chỉ xử phạt nhằm chấm
dứt hành vi vi phạm, nhưng trong Luật lại có “tội kinh doanh trái phép” cho phép
kết tội và xử lý hình sự những sai phạm loại này. Cũng trong hoạt động thị trường,
đầu cơ không phải là một tội mà là một phương pháp kinh doanh của doanh nghiệp
để giành lợi nhuận cao đổi lấy chấp nhận rủi ro. Nhưng trong bộ Luật Hình sự, đầu
cơ bị coi là một tội xử lý hình sự. Một vấn đề gây nhiều tranh cãi nữa là bất kỳ
doanh nhân tài ba nào làm ăn cũng có lúc được lúc mất, nhưng một khi trong Luật
đã qui định tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” là tội hình sự thì các
doanh nhân tốt nhất là chuyển mục tiêu kinh doanh từ tối đa lợi nhuận sang tối đa
an toàn. (Nguồn: Báo Lao Động 14/1/2004)
Khi xảy ra tình trạng sai khác, trong một số trường hợp, cung cách trừng phạt
lại là kiểu xử lý nội bộ “đóng cửa bảo nhau” thay cho luật pháp nhà nước, không
tuân theo trình tự tố tục hợp pháp. Các xử lý này có thái cực là quá nặng, áp dụng
các hình phạt tàn tệ của cơ chế cộng đồng, hình sự hoá tranh chấp kinh tế, dân sự
dẫn đến tình trạng oan sai kéo dài. Có thái cực khác lại bao che, xử lý quá nhẹ,
hành chính hoá các sai phạm hình sự, “tắm từ vai trở xuống” chỉ xử lý tội lỗi ở các
cán bộ cấp thấp, không truy cứu trách nhiệm hình sự của các cấp quản lý cao. Khi
xảy ra oan sai lại có xu hướng đậy điệm che dấu, không dám đụng chạm đến
những vấn đề lịch sử. Cách thức xử sự trên đã làm sứt mẻ lòng tin vào sự công
bằng của công lý, đe dọa tinh thần tôn trọng luật pháp trong tương lai.
Nghi ngại hệ thống luật pháp dẫn đến thói quen tự xử của nhân dân trong cuộc
sống hàng ngày. Một ví dụ thường gặp là khi xảy ra vi phạm luật lệ giao thông,
thay vì đưa ra công an xử lý bằng Luật, các bên phạm lỗi và bị hại thường chủ
động tự xử bằng nhiều “lệ làng” kỳ quặc có lẽ bắt nguồn từ quan niệm “bảo vệ kẻ
yếu” xa xưa như “xe to đền xe bé, đi xe đền đi bộ”, những lệ bất thành văn này
được áp dụng ngay cả khi xảy ra sai phạm nghiêm trọng như tai nạn chết người.
Người nhà nạn nhân có thể đánh đập lái xe gây tai nạn, vì vậy lái xe cũng “có
quyền” chạy trốn ngay khi gây án…
247
Một biểu hiện khác của cơ chế cộng đồng là tình trạng nhiều hoạt động kinh tế
và hành chính nhà nước thay vì tiến hành theo qui hoạch, chiến lược, kế hoạch
một cách bài bản, dài hạn và thống nhất thì lại tổ chức thành chiến dịch, phong
trào, chương trình có thời hạn và liên tục thay đổi khiến cho hoạt động điều hành,
phối hợp của nhà nước, sự tham gia của nhân dân khó minh bạch, chính sách trở
nên bất trắc, tạo thái độ cơ hội, thủ đoạn tiêu cực trong các đối tượng triển khai
thực hiện. Tình trạng bóp méo thông tin cũng là biểu hiện dễ thấy của cơ chế cộng
đồng. Nhiều đơn vị địa phương khuyếch trương thành tích, che dấu khuyết điểm
hay ngược lại, báo tăng số liệu thiệt hại do thiên tai để xin hỗ trợ, dấu bớt lợi
nhuận sản xuất kinh doanh để khỏi nộp ngân sách.
248
gia đình, lao động trước hết là huy động trong nhà, trong địa phương, tiếp thị dựa
vào thân quen, người tin cậy, như một hai thế kỷ trước ở các nước Âu Mỹ .
Một sự thiếu vắng quan trọng nữa là những tổ chức, pháp lý và chính sách xác
lập môi trường thuận lợi cho cơ chế thị trường. Nền kinh tế đã hoạt động theo
quan hệ thị trường nhưng tổ chức cộng đồng làng xã, phố phường vẫn là của xã
hội cộng đồng. Những tổ chức xã
hội đen ở thành phố, cao bồi vườn
ở nông thôn vẫn hoành hành đây
đó bắt nạt người kinh doanh, người
lao động. Các cơ quan công quyền,
tổ chức đoàn thể vẫn nghiễm nhiên
Nhá, đòi hỏi các doanh nghiệp có trách
ng¾ n nhiệm đóng góp, bảo trợ cho các
hoạt động cộng đồng, hoặc gây
BÝmËt khó khăn cho doanh nghiệp trong
các thủ tục giám sát hành nghề.
Các cá nhân thi hành công vụ vẫn vòi vĩnh gây khó dễ để kiếm phụ thu từ doanh
nghiệp. Người dân khi giao đất đai cho doanh nghiệp cũng có khi ăn vạ đòi bồi
hoàn cao. Các tổ chức, quốc gia nước ngoài cũng kiện cáo, bắt bí doanh nghiệp
Việt Nam. Khi xảy ra tranh chấp quyền lợi giữa doanh nghiệp với nhau, với người
lao động, người cung cấp nguyên liệu, người giao lại đất đai,…cơ chế cộng đồng
(thương lượng, hoà giải, vận động…) vẫn là giải pháp phân xử chính.
Không khí cộng đồng bao trùm lên cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân tất
yếu hướng các nhà đầu tư, người kinh doanh vào thực hiện nguyên tắc: “nhỏ,
nhanh, bí mật” của cơ chế cộng đồng. Trong hoạt động thị trường, đây lại là
phương châm tối kỵ. Quan hệ ngắn hạn tất sẽ dẫn đến “Tình trạng tiến thoái lưỡng
nan của người tù”111 và tạo ra xu hướng tranh mua tranh bán, gian lận thương mại.
Người sản xuất sử dụng mọi công nghệ, nguyên liệu rẻ để có năng suất cao bất kể
chất lượng, người kinh doanh giả nhãn mác, cân điêu, nói thách, tất cả đều tìm
cách trốn thuế nhà nước, đánh lừa người tiêu dùng. Người tiêu dùng không tin
tưởng chất lượng ắt sẽ dìm giá hàng hoá hoặc tự sản tự tiêu và nếu có tiền sẽ
chuyển sang dùng hàng ngoại nhập. Kết quả là hoạt động thị trường tàn lụi.
Hộp 58. Hình ảnh cơ chế cộng đồng khống chế hoạt động kinh doanh
ở Mexicô thế kỷ 19
111
Xem phần Sự thất bại của các cơ chế
249
“Bản chất chủ nghĩa can thiệp và chuyên chế bao trùm môi trường thể chế đã
buộc mỗi xí nghiệp thành thị hoặc nông thôn phải hoạt động theo cách được chính
trị hoá cao bằng việc sử dụng các mạng lưới quan hệ họ hàng, ảnh hưởng chính trị,
và uy tín gia đình để có được ưu tiên tiếp cận với các khoản trợ cấp tín dụng, để tạo
điều kiện cho các thủ đoạn tuyển mộ lao động khác nhau, để thu thập các khoản nợ
hoặc cưỡng chế thực hiện các hợp đồng, để né tránh các khoản thuế hoặc lung lạc
giới luật pháp, để bảo vệ hay thừa nhận quyền sở hữu đối với đất đai.
Thành công hay thất bại trên vũ đài kinh tế thường phụ thuộc vào mối quan hệ
giữa người sản xuất với các giới có thẩm quyền chính trị – các quan chức địa
phương, để dàn xếp các vấn đề trong tầm tay và với các Chính phủ trung ương của
thuộc địa để tận dụng ưu ái của luật pháp và can thiệp ở địa phương khi tình hình
đòi hỏi. Xí nghiệp nhỏ bị loại khỏi hệ thống những ưu đãi và sự ủng hộ về chính trị
buộc phải hành động theo phương thức bí mật, luôn ở dưới tầm của các quan chức
tầm thấp, không bao giờ được an toàn trước các luật lệ tuỳ tiện và không bao giờ
được bảo vệ trước quyền lực của những kẻ có thế lực hơn”.
Trên đây là tình trạng của các doanh nghiệp hoạt động không trong cơ chế thị
trường mà dưới sự điều hành của cơ chế cộng đồng tại Mexicô thế kỷ 19, chịu ảnh
hưởng di sản của các thể chế tập trung quan liêu Tây BanNha/ Bồ Đào Nha. Thực
tiễn hơn 100 năm qua cho thấy, các doanh nghiệp ở các nước Mỹ La Tinh phát
triển trong khuôn khổ méo mó đó đã không tiến nổi lên một nền kinh tế hàng hoá
lành mạnh. Hình bóng của tình trạng kinh doanh thị trường dưới cơ chế cộng đồng
này có nhiều nét đáng để Việt Nam suy ngẫm. (Nguồn: John Coatsworth, 1978.)
Khi các kênh giao dịch thị trường trở nên kém hiệu quả, giao dịch cộng đồng
hoặc nhà nước sẽ đóng vai trò thay thế. Còn có nhiều hàng hoá Việt Nam không
được mua bán công khai, cạnh tranh thẳng thắn trên thị trường. Thay vào đó là
các hiệp định mua bán chính phủ, trả nợ, đổi hàng,… Nhiều hàng hoá khác chịu
thiệt thòi phải mua qua thương lái, bán qua trung gian, cả trong và ngoài nước.
Một số hàng hoá lại trao đổi qua đường tiểu ngạch theo kiểu trao tay, thanh toán
tiền mặt và chịu biến động hàng ngày… Trong hình thức quan hệ này, quan hệ
cung cầu xen kẽ và chịu sự chi phối sâu sắc của các quan hệ chính trị, xã hội,…
tạo nên hoạt động thị trường không hoàn hảo.
Trong khi cơ chế thị trường chưa trưởng thành đủ để hình thành các hình thức
liên kết tổ chức theo ngành hàng chiều dọc, kết nối người sản xuất-chế biến-kinh
doanh như các hình thức hiệp hội ở các nền kinh tế thị trường phát triển, thì những
quan hệ cộng đồng xấu lại xuất hiện, đe dọa bóp méo hoạt động lành mạnh của cơ
chế thị trường. Ví dụ, những trường hợp như “nạn cơm tù”: một số lái xe khách
đường dài câu kết với những chủ quán ở các chặng đường vắng dọc các hành trình
250
liên tỉnh cưỡng bức khách phải ăn cơm với giá đắt và chất lượng tồi ở những quán
trong cùng đường dây. Rõ ràng, cơ chế thị trường muốn vươn lên phát triển lành
mạnh, phải thoát khỏi cái bóng đè nặng nề của cơ chế cộng đồng xưa.
113
Luân T. D. (chủ biên) 2002
114
Luân T. D. (chủ biên) 2002
253
có khả năng kết nối, hoà nhập được với ngoài cộng đồng (sống trong làng nhưng
làm việc được ở thị xã, làm việc trong cơ quan nhưng có khả năng kiếm sống
trong xã hội, công tác trong doanh nghiệp nhà nước nhưng có năng lực kinh
doanh ngoài thị trường, sống trong nước nhưng năng động hợp tác quốc tế,…).
Các cộng đồng này đứng trước sự lựa chọn: hoặc là bị “chảy máu chất xám”,
để những lực lượng trẻ, có năng lực ra đi, chấp nhận mất dần sức cạnh tranh, hoặc
là phải thay đổi cung cách làm việc, kết cấu tổ chức, đổi mới thể chế cộng đồng.
Hiện tượng tách ra của các thành viên năng động dẫn đến cải tổ thay đổi cộng
đồng đã được H. Root115 tổng kết từ thực tế nhiều nơi trên thế giới cũng đang diễn
ra ở Việt Nam.
Tự nhìn lại mình, người ta thường tự hào với những đổi thay to lớn trong xã
hội thời gian qua. Các cộng đồng ở Việt Nam đã rất mở, rất đổi mới so với trước,
nhưng so với thế giới và cuộc sống đang đổi thay hàng ngày hàng giờ, chúng ta
vẫn tụt hậu, cộng đồng của chúng ta vẫn còn kín một cách tương đối. Sự giới hạn
của năng lực và thông tin, sự nghèo nàn của cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng, giá
cả và chất lượng phục vụ kém cạnh tranh của các dịch vụ phục vụ, sự cồng kềnh
trong cải cách hành chính khiến cho các cộng đồng (gia đình, địa phương, đơn vị,
…) vẫn bị ngăn cách với bên ngoài vì chi phí giao dịch cao, thời gian hoạt động
chậm, thủ tục rườm rà, rủi ro cao, thiếu hiểu biết, ít thông tin, quan niệm sống bó
buộc. Trong những cộng đồng khép kín như vậy, cơ chế quản lý, ra quyết định
được tổ chức theo chiều dọc, từ trên xuống, tiêu chuẩn chọn lựa và tưởng thưởng
vẫn là sự trung thành, vì vậy, lớp trẻ, người tài, năng động, độc lập, sáng tạo dễ bị
đẩy ra ngoài, thiết lập các quan hệ hướng ngoại, tạo nên chảy chất xám ở địa
phương, đổ vỡ trong gia đình.
Một cộng đồng đóng kín và tĩnh tại (dù là tương đối) thì năng lực cạnh tranh,
khả năng thích nghi với biến đổi ngoại cảnh sẽ yếu kém, thiên về các giải pháp
ngắn hạn, chịu rủi ro đổ vỡ và thất bại cao. Bên cạnh yêu cầu đổi mới quan hệ
cộng đồng và các công cụ cộng đồng lạc hậu cũng cần sửa chữa những yếu kém
trong phối hợp ba cơ chế.
Những biến động và khủng hoảng trong cơ chế cộng đồng làm xuất hiện những
vấn đề mới trong xã hội như tôn giáo, li dị, tình dục, thất nghiệp, HIV, đua xe, ma
tuý, cờ bạc, trẻ lang thang, người di cư, … Cách nhìn đơn giản và sai lạc coi tất cả
những điểm bất thường này là “tệ nạn xã hội”, là “mặt trái của cơ chế thị trường”,
thậm chí là “mặt trái của toàn cầu hóa” và sử dụng cơ chế nhà nước để xử lý
chúng như những vấn đề hình sự, chẳng những không giải quyết được mà còn làm
tình hình phức tạp và trầm trọng hơn.
115
Hilton Root, sách chưa xuất bản.
http://usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhirctavn.html
254
Trong khi phải kiên quyết xử lý bằng cơ chế nhà nước những đối tượng kinh
doanh, vận chuyển ma tuý, tổ chức mãi dâm, tổ chức đua xe trái phép gây nguy
hiểm cho cộng đồng, thì nên chăng cần xem xét và xử lý một cách toàn diện và
vững bền các vấn đề và nhu cầu về phát triển tôn giáo, tâm linh, xu thế tự do tình
dục, nhu cầu thử thách mạo hiểm, nhu cầu kiếm sống và có việc làm, nhu cầu
hướng đến điều kiện sống cao hơn… của xã hội bằng quan điểm dân sự, xã hội và
kinh tế của cơ chế cộng đồng, cơ chế thị trường.
Trong khi tăng cường quan tâm đến các nhóm đối tượng yếu thế, có công trong
xã hội, phải thẳng thắn chống lại lối tôn vinh hình thức. Không thể tặng họ hoa
quanh năm, không thể biếu nhà tình nghĩa cho mọi đối tượng xứng đáng, những
danh hiệu vẻ vang không giúp được họ những lúc trái nắng trở trời. Cách tốt nhất
là thể chế hoá việc đền ơn đáp nghĩa và hoạt động nhân đạo. Cần tổ chức họ lại
bằng đoàn thể quần chúng để có thể thường xuyên theo dõi, động viên, trợ giúp
theo yêu cầu. Có chính sách tạo điều kiện cho các đối tượng cần giúp đỡ tiếp cận
với mọi nguồn tài nguyên và cơ hội để có việc làm thích hợp và thu nhập ổn định.
255
luận chưa coi trọng nguyên tắc khoa học thực sự cầu thị, tình trạng giáo điều,
khuôn sáo trong giảng dạy, tuyên truyền vẫn diễn ra nhiều.
Tất cả những điều tưởng như rời rạc nêu trên: một số vấn đề lịch sử chưa công
khai khép lại, ranh giới bí mật thông tin không rành mạch, qui định về thống kê
không hoàn chỉnh, tuyên truyền khuôn sáo, và một số luật lệ (về tài chính, về hành
chính, tổ chức…) không hợp lý,… lại đang dẫn đến một nguy cơ to lớn cho cơ
chế nhà nước nói riêng và cho xã hội nói chung, đó là tình trạng lòng tin mơ hồ,
và hậu quả nguy hiểm hơn là các mối nối cộng đồng trở nên lỏng lẻo.
“Nói một đằng làm một nẻo”, lời nói không đi đôi với việc làm, việc làm
không theo đúng những qui định thành
văn đang trở thành chuyện bình thường
trong cuộc sống. Khi phát biểu trước
hội nghị, nơi đông người, trên bục
giảng thì dùng ngôn từ, nội dung khuôn
sáo, khẩu hiệu to tát, ở chỗ thân tình,
trong gia đình mới nói thật suy nghĩ,
nói đúng chính kiến; khi đương chức
thì nói theo ý trên, khi về hưu mới phát
biểu ý kiến độc lập; khi báo cáo thì thổi
phồng thành tích, khi xin hỗ trợ khó
khăn thì khai tăng thiệt hại; lên kế
hoạch, trình quyết toán thì tiêu nhiều,
làm lớn, khi thực chi thì tiết kiệm,
giành dụm, tránh né chính sách; khi
khai thuế, khai báo thu nhập thì trình ra
mức thu chính thức ít ỏi, trong sinh
hoạt, làm ăn thì xoay xở mọi cách làm
giàu… Hiện tượng hai cách nói, hai
cách viết, hai cách làm, hai nguồn thu nhập,… tạo cho con người, tổ chức, địa
phương hai cách sống thật và giả.
Trung ương và địa phương không thật với nhau, cán bộ và quần chúng không
thật với nhau, thủ trưởng và nhân viên không thật với nhau, thày giáo và học trò
không thật với nhau, bố mẹ với con cái không thật với nhau, cơ quan quản lý và
cơ quan chịu quản lý cũng lừa dối và ru ngủ nhau. Tuy nói dối nhau nhưng cùng
biết nhau dối và cùng chấp nhận. Thật giả lẫn lộn, lừa lẫn nhau sẽ dẫn đến lừa cả
mình. Sống quen với dối trá sẽ đánh mất lòng tin. Nếu khủng hoảng cơ chế thời
Khổng Tử tạo nên nguy cơ “không chính danh”, thì tình trạng nguy hiểm nhất
hiện nay ở Việt Nam là hiện tượng “không thành thật”. Dối trá thông tin đồng
nghĩa với hậu quả bất hợp tác trong cộng đồng, đổ vỡ thể chế.
256
Trong lý thuyết thể chế, trong cơ chế cộng đồng, sự hợp tác chỉ có thể xuất
hiện khi thông tin thông suốt, tin cậy và chi phí thấp. Tình trạng thông tin bị bóp
méo một cách hệ thống tạo nên “gót chân Asin” của xã hội Việt Nam hôm nay là
khả năng hợp tác yếu, chia rẽ mạnh. Những câu “qua cầu rút ván”, “ăn cháo đá
bát”, “gắp lửa bỏ tay người”, “đâm bị thóc chọc bị gạo”… vốn rất nhiều trong tục
ngữ của mọi dân tộc. Nhưng câu chuyện đùa dân giã rằng: nếu thi đấu với nhau
thì một người Việt có thể hơn một người Nhật nhưng hai người Việt sẽ chỉ bằng
hai người Nhật và ba người Việt thì thua đứt ba người Nhật do chỉ lo đấu đá, đối
phó lẫn nhau, đã diễn tả đúng sự thật đau đớn đang diễn ra trong nhiều cơ quan,
nhiềuđịa phương, nhiều tổ chức, và nhiều gia đình Việt Nam hôm nay. Chia rẽ
không phải là điểm yếu vốn có của dân tộc Việt Nam, đó là hiện tượng khủng
hoảng thể chế trong giai đoạn tái điều chỉnh cơ chế xã hội.
Thông tin sai lạc sẽ làm sai việc định danh và thưởng phạt. Từ đó đánh mất
năng lực hợp tác giữa các cá nhân và cộng đồng. Không biết cách hợp tác, không
thể chuyên môn hoá, tiến hành công nghiệp hoá thắng lợi. Không biết cách phối
hợp, không thể có sức cạnh tranh, không giành nổi ưu thế trong toàn cầu hoá.
Không biết cách tham gia, không thể phát huy dân chủ, và không có nhà nước
pháp quyền. Và trong thế giới vươn lên quyết liệt hôm nay, đứng lại không chỉ là
thua thiệt mà còn là bị loại thải, đổ vỡ, và tan rã.
Dân tộc Việt Nam muốn có chỗ đứng xứng đáng trong thế giới tương lai thì
phải cùng hát được bài ca của Hồ Chí Minh luôn dạy: “Kết đoàn, chúng ta là sức
mạnh”. Nhưng có được sức mạnh ấy, trước tiên phải bắt đầu từ sự thành thực từ
trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, điều đó đòi hỏi sự dũng cảm phi thường, sự
dũng cảm mà dân tộc ta đã từng chứng tỏ trong quá khứ vẻ vang.
2. Khiếm khuyết của sự phối hợp nhà nước, thị
trường và cộng đồng ở Việt Nam
258
Thủ tục hành chính trong việc đăng ký, sang nhượng quyền sử dụng đất, thủ
tục xin phép sửa chữa, xây dựng quá phức tạp và không rõ ràng khiến cho người
dân có xu hướng chuyển sang áp dụng cơ chế cộng đồng, phối hợp nhịp nhàng với
hoạt động mua bán của cơ chế thị trường. Một số địa phương cấp đất bừa cho dân
xây dựng, hay lẳng lặng “phạt” và thu phí “đóng góp”, nhắm mắt trước tình trạng
xây dựng bừa bãi, một số “quan phường” còn ngang nhiên chiếm đất công xây
nhà riêng. ở Hà Nội thì khỏi phân lô, cứ mua đất, nộp phạt xây dựng trái phép rồi
xây nhà. ở thành phố Hồ Chí Minh, tư nhân mua đất ruộng, tự qui hoạch, làm
đường phân lô, bán nhà cho dân. “Phép vua” yếu thì “lệ làng” làm thay.
ở mọi quốc gia trên thế giới, việc qui hoạch, tái bố trí sử dụng đất đai để xây
dựng các công trình dân dụng chung là nhu cầu thiết yếu trong giai đoạn phát triển
kinh tế để công nghiệp hóa. Hoạt động này được điều chỉnh bằng cơ chế thị
trường hoặc cơ chế nhà nước một cách có kết quả. Trong trường hợp Việt Nam,
thị trường đất đai không được công nhận và vận hành một cách rõ ràng nhưng
quyền quản lý và sử dụng của nhà nước lại cũng không được thi hành một cách
đúng mức, vì vậy, cơ chế cộng đồng đang đứng ra điều hành một cách sai lạc hoạt
động quan trọng này, gây thiệt hại nghiêm trọng và kéo dài cho nền kinh tế (xem
hộp 59).
Hộp 59. Dùng cơ chế cộng đồng giải quyết vấn đề giải phóng
mặt bàng - một sai lầm kéo dài
Năm 2000 triển khai dự án đường cao tốc Nội Bài-Bắc Ninh có tổng kinh phí
hàng nghìn tỷ đồng. Việc thực hiện công trình bị ách tắc bởi “nút chặn” tại hồ
Thanh Xuân. Tại đây, nhiều nông dân sống trong những căn nhà và đất đai chiếm
dụng trái phép của dự án đã tấn công công nhân, bắt giữ thiết bị thi công. Nhà thầu
sau khi trình Bộ Giao Thông Vận tải, và Chủ đầu tư (Ban quản lý các dự án 18),
báo cáo chính quyền địa phương không dám đề nghị xử lý kẻ làm sai mà chỉ mong
được có phương án đền bù cũng không xong. Họp lên họp xuống, công văn đi về,
cuối cùng nhà thầu đành “bỏ của chạy lấy người” vứt lại công trình dang dở với
259
hàng tỷ tiền thiết bị dãi nắng dầm sương suốt 2 năm sau.
Năm 2004, nhà thầu dự án đường vành đai 3 Hà Nội đoạn đi qua địa bàn quận
Thanh Xuân cũng một lần nữa phải bỏ chạy vì 150 hộ khu vực mai Dịch chưa
thống nhất phương án bồi hoàn không cho chủ đầu tư vào đo đạc khảo sát. Dự án
quốc lộ 5 đã kéo dài từ năm 2002 đến quá thời hạn 4/2004 nhưng chưa hoàn thành
vì không giải phóng được mặt bằng 4 km đi qua huyện Phú Lương, Thái Nguyên…
Tình trạng chính quyền chỉ biết thương lượng, thuyết phục dân rồi lại bàn bạc với
doanh nghiệp nâng mức đền bù diễn ra ở hàng loạt công trình xây dựng khiến nhiều
nhà doanh nghiệp chịu cảnh “tiền mất tật mang”.
Đứng trước sự bất lực của cơ chế nhà nước, sự bơ vơ của các nhà đầu tư, nhiều
người dân phát huy cơ chế cộng đồng, mở rộng qui mô chây ỳ và lạm dụng. Trước
khi Ban quản lý các dự án quận Ba Đình xuống khảo sát giải phóng mặt bằng phố
Liễu Giai, chỉ qua một đêm, các hộ dân đã lát gạch hàng trăm m 2 đất sau nhà để đòi
đền bù với mức cao hơn mức đất nông nghiệp hàng trăm lần. Trước khi đền bù giải
phóng mặt bằng công trình sân vận động QG Mỹ Đình, nhiều hộ dân đã thi nhau
trồng chi chít hoa huệ, trồng chuối trên sân, trên đất trống để sau đó đếm cây cây
lấy tiền đền bù. Người ta còn dựng lên hàng loạt bia mộ giả đòi tiền bồi hoàn di dời
nghĩa trang. Các nhà đầu tư vào khu công nghiệp An Khánh, Hà Tây cũng điêu
đứng vì nạn nông dân rào cổng nhốt máy móc thiết bị, không cho công nhân vào
làm việc tại khu công nghiệp đã có qui hoạch, đã tiến hành giải toả, đền bù theo
đúng chính sách. Thậm chí có doanh nghiệp hoạt động đã 3 năm còn bị nông dân
đến bao vây đòi trả thêm tiền vì “trước đây bồi hoàn rẻ quá”. (Nguồn: An Ninh Thế
giới 10/6/2004).
Nhà cửa san sát mọc lên trên phố cổ cấm xây dựng, lấn chiếm các di tích lịch
sử đã xếp hạng, trên bờ đê, trong hành lang bảo vệ thủy lợi, lấn không gian bảo vệ
đường điện cao thế, vượt khoảng không lên xuống của sân bay, chiếm cả đất quân
sự, ăn hết đất nông nghiệp, lấp hết cả ao hồ,… Nhiều cơ quan được cấp đất thì để
lãng phí, chia nhau xây nhà, cho thuê, bán đất công, góp vốn liên doanh, cổ phần
hoá với giá qui định bừa bãi.
260
Các cơ quan nhà nước
bất lực trong qui hoạch,
giám sát, đành chạy theo
sau khắc phục hậu quả:
phá nhà leo lên bờ đê, đập
nhà chọc vào đường cao
thế, cấm nhà vươn ra
chiếm đất nông nghiệp, kè
hồ chặn nhà bò xuống nước. Nhà nước đuổi dân lấy lại lòng lề đường, đuổi dân
ngụ cư ra khỏi các khu “xóm liều”, cấp sổ đỏ hợp pháp cho dân đã định cư, xây
dựng chắp vá hàng loạt nhà máy cấp nước và trạm bơm thoát nước, tiếp tục hội
thảo và nghiên cứu về việc duy trì các khu phố cổ đã biến mất gần hết và mở rộng
các khu cấp cứu ở bệnh viện để cứu chữa hàng trăm ca tai nạn giao thông hàng
ngày. Cái tình trạng:
Nhà ống san sát
Ngàn ngạt mô tô
Phản ánh việc cơ chế nhà nước để mất sân, không hoàn thành nhiệm vụ điều
hành phát triển xã hội trong quản lý qui hoạch đô thị ở nước ta.
263
Cơ chế thị trường
Cơ chế nhà nước Cơ chế cộng đồng mới
Khi chuyển sang áp dụng cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế khác nhau
cùng tham gia tích cực vào hoạt động kinh tế xã hội. Những vấn đề mới về cạnh
tranh hoạt động, chênh lệch thu nhập, tranh chấp quyền lợi tất yếu đặt ra, đòi hỏi
các tổ chức đoàn thể quần chúng phải thực sự trở thành đại diện đấu tranh bảo vệ
quyền lợi cho cộng đồng của mình. Sức sống và uy tín của các đoàn thể vừa nằm
trong sự thống nhất hành động cho những mục tiêu chung của đất nước, vừa gắn
với cơ chế đối trọng của những cộng đồng người cụ thể trong xã hội.
Trong bối cảnh đó, hình thức tổ chức, bầu cử và nuôi dưỡng đội ngũ cán bộ
phải thoát ra khỏi cơ chế nhà nước cũ. Hệ thống thông tin cũng phải đổi mới, đảm
bảo mọi nguyện vọng, các vấn đề của các cộng đồng được phản ánh ở mọi cấp
của tổ chức. Mục tiêu và hình thức hoạt động của các đoàn thể quần chúng trước
hết phải nhằm bảo vệ được quyền lợi của thành viên trong bối cảnh cạnh tranh của
thị trường và phát huy dân chủ của nhà nước, tạo môi trường phát triển thuận lợi
và cất lên tiếng nói của các cộng đồng trong sinh hoạt chính trị xã hội. Có lẽ đây
là những bước tiến đầu tiên trên con đường xây dựng một xã hội dân sự lành
mạnh.
Kinh tế hợp tác mạnh nhờ thị trường phát triển và nhà
nước hỗ trợ.
Một ví dụ rõ ràng là nhu cầu hình thành các tổ chức hợp tác của nông dân trong
bối cảnh cạnh tranh gay gắt của thị trường. Chính quyền ở nhiều quốc gia đang
phát triển luôn chú trọng hỗ trợ phong trào hợp tác xã. Điều đáng nói là hợp tác
thường được coi trọng về khía cạnh chính trị và kinh tế mà không được chú ý về
mặt cộng đồng. Về chính trị, nhà nước thường coi hợp tác xã nông nghiệp là
những tổ chức có kết cấu chặt chẽ, đại diện cho đông đảo nông dân ở nông thôn
có thành viên đông và uy tín cao, là đơn vị để tổ chức các hoạt động phát triển
nông thôn. Nắm được hợp tác xã là nắm được nền tảng chính trị trong nông dân.
264
Về kinh tế, các ngân hàng, doanh nghiệp,… và cả nhà nước coi hợp tác xã là
đơn vị sản xuất kinh doanh đầu mối ở nông thôn, qua hợp tác xã có thể tiến hành
đàm phán, giám sát đông đảo nông dân nhỏ. Hợp tác xã là cổng vào đáng tin cậy
cho hoạt động cho vay tín dụng, cung ứng vật tư, là đầu ra tập trung thu mua hàng
hoá nông sản, là nơi dễ thu thuế, huy động các khoản đóng góp,… Từ cách nhìn
nhận này, các hợp tác xã được tổ chức theo phong trào, bằng công cụ của cơ chế
nhà nước, việc khuyến khích, quản lý hợp tác xã cũng áp dụng các công cụ của cơ
chế thị trường và nhà nước là chính.
Trong thực tế hiện nay của nước ta, có một số hợp tác xã hình thành và tồn tại
nhờ các điều kiện lịch sử xã hội nhất định như các vùng từ xưa đã có ruộng công,
những nơi vẫn còn duy trì tư liệu sản xuất, kết cấu hạ tầng, và cả nợ nần của hợp
tác xã từ thời kinh tế kế hoạch như ở miền Bắc, miền Trung, có một số vùng điều
kiện canh tác sản xuất luôn yêu cầu có các hoạt động liên kết phối hợp như các “tổ
đường nước” chung nhau kênh dẫn nước, nguồn nước ở An Giang, các tổ “bơm
dề, xạ dề” có chung nhau đê bao ngăn lũ cục bộ ở Tiền Giang và một số các loại
hình sản xuất vần công, đổi công phối hợp nhau những khâu cần nhiều lao động
như gặt lúa, làm đất,… Nhìn chung, các hình thức sản xuất của hộ tiểu nông sản
xuất nhỏ ít có nhu cầu và khả năng tổ chức các hợp tác xã theo đúng nghĩa.
Mặc dù trên thế giới, lịch sử hợp tác xã nông nghiệp có từ lâu đời nhưng ở hầu
hết các nước, kinh tế hợp tác chỉ thực sự phát triển mạnh, trở thành nhu cầu bức
xúc và được đông đảo nông dân tham gia khi kinh tế hàng hoá đã phát triển, thể
chế thị trường chiếm ưu thế trong nền kinh tế và nhà nước thực sự hỗ trợ tích cực.
Người nông dân khi tham gia những thị trường xa xôi và phức tạp, phải đương
đầu với các đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ và được tổ chức tốt, họ sẽ học được rằng
muốn tồn tại phải liên kết, muốn thắng lợi phải tổ chức lại. Khi đó, động lực hình
thành kinh tế hợp tác mới đủ mạnh để gắn những người nông dân cá thể vốn
không có thói quen và năng lực hợp tác lại với nhau.
Quan hệ cộng đồng kiểu cũ ở làng xã tiểu nông trước đây gắn bó về tình cảm,
văn hoá, an ninh, trước sức ép của thị trường sẽ chuyển sang quan hệ mới về liên
kết trong sản xuất và phối hợp về kinh tế. Đây là bước chuyển về chất lượng, đánh
dấu sự thay đổi từ sản xuất nhỏ tự cấp sang hàng hoá lớn kinh doanh. Từ sự
đương đầu với thiên nhiên và kẻ thù, nông dân chuyển sang đối phó với thị trường
và xã hội. Đây cũng chính là lúc giai cấp nông dân đấu tranh quyết liệt với thị
dân, với công nghiệp để duy trì sự sống còn của mình trước khi bị thu hẹp về cơ
bản.
Xưa kia có nhiều địa phương, dân cư ở nhiều làng chuyên đi các nơi làm các
nghề giống nhau như may quần áo, đúc đồng, điêu khắc gỗ, đào đất thuê. Khi
người lao động tìm ra một ngành nghề, và nói lại cho bà con, bạn bè trong làng,
265
người ta đã cung cấp cho nhau thông tin về thị trường, cung cách tiếp thị, đối
tượng phục vụ, thủ tục hành chính, công nghệ của nghề,…, khi họ rủ nhau đi đã
tạo được sự dựa dẫm, bảo vệ, tăng khả năng cạnh tranh, đấu tranh nơi xa xôi, tạo
được mạng lưới bảo trợ trong các tình huống rủi ro. “buôn có bạn, bán có
phường” đây là những mầm mống, những tín hiệu của nhu cầu thành lập các hiệp
hội ngành nghề thực sự bắt nguồn từ nhu cầu thiết thực của người lao động nông
thôn.
ở trình độ cao hơn, khi gắn sản xuất với kinh doanh hàng hoá qui mô lớn, họ
phải đương đầu với những đối thủ không cân sức về thông tin, tiền vốn, công
nghệ, năng lực, quan hệ chính trị bao gồm cả đội ngũ tiểu thương, các công ty lớn
ở đô thị, nhiều khi cả các doanh nghiệp nhà nước và công ty đa quốc gia. Để
chống lại tình trạng bị che dấu thông tin, ép cấp, ép giá, lợi dụng chính sách, tận
dụng tiền vốn… những người tiểu nông còn “sống sót” trong trận đấu ác liệt của
thị trường sẽ phải đấu lưng lại với nhau, dồn tiền thuê luật sư, thuê kỹ sư, trang bị
máy móc, bước vào thương trường xây dựng thương hiệu của mình, tổ chức kênh
tiếp thị của mình và đấu tranh đòi hỏi nhà nước bảo vệ quyền lợi chính đáng cho
mình. Chỉ đến khi đó, hợp tác xã thực sự với hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ trung
ương tới địa phương mới được hình thành và hoạt động có hiệu quả. Đó sẽ không
phải là tổ chức của nhà nước hay của các công ty lập ra mà thực sự là tổ chức
cộng đồng kiểu mới của nông dân. Nó hình thành không vì lợi nhuận, không
nhằm mục tiêu chính trị mà trước hết, để bảo vệ lợi ích sống còn của các hộ nông
dân.
Tương tự như vậy, thể chế của các cộng đồng ở thành phố, ở các cơ quan, các
đơn vị sản xuất, kinh doanh khác nhau cũng đang thay đổi. Trong quá trình lột xác
này, cùng với sự phát triển kinh tế và xã hội, cơ chế cộng đồng dần nhường bước
chia sẻ trách nhiệm với cơ chế nhà nước và cơ chế thị trường. Nhà nước phải nắm
được nhu cầu thực tế này và tiếp sức đúng cách mới có thể phát triển được thành
công các tổ chức kinh tế hợp tác mới của nhân dân.
266
tăng trưởng sang đầu tư theo chiều sâu, phát triển vững bền. Khó khăn là thế,
nhưng con đường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không có tiền lệ. Bởi vậy, sự
quanh co, thậm chí vấp váp là khó tránh khỏi. Nhìn tới tương lai một cách tỉnh
táo, xin giới thiệu 3 kịch bản có thể xảy ra với sự áp dụng các cơ chế khác nhau:
dại dột áp dụng sai các cơ chế dẫn đến kết quả xấu, biết áp dụng khôn khéo nhất
các cơ chế đạt kết quả phát triển rực rỡ, và trường hợp trung gian, “điều chỉnh
mù” chịu vấp ngã học hỏi để đi lên đạt những kết quả khả quan với nhiều giá phải
trả và đánh mất khá nhiều cơ hội thời gian.
Liên Xô là một cường quốc với 146 triệu dân, có diện tích 17
triệu km2 rộng nhất thế giới, có nền công nghiệp phát triển, tiềm
lực khoa học và quân sự hùng mạnh, tài nguyên thiên nhiên giàu
có. Chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, sau 70
năm kinh tế kế hoạch thất bại trong việc sử dụng đơn độc cơ chế
nhà nước để quản lý xã hội, “liệu pháp sốc”được áp dụng những
mong lấy cơ chế thị trường thay thế hoàn toàn cơ chế nhà nước.
Cơ chế nhà nước đang bao trùm mọi quan hệ xã hội bỗng chốc rút
lui, để lại một khoảng trống nguy hiểm mà cơ chế thị trường
không thể đảm đương nổi. Các cơ chế “không chính thống” đã
chiếm lĩnh khoảng trống cơ chế này.
Các tổ chức dân tộc cực đoan, các tập đoàn xã hội đen, các tổ
chức chính trị không rõ cương lĩnh khống chế quan hệ xã hội ở địa
phương và cơ sở. Các nhóm tội phạm có tổ chức hoành hành
khống chế hoạt động tài chính ngân hàng. Kết quả là kinh tế tuột
ra khỏi phạm vi kiểm soát của nhà nước, kinh tế tội phạm chiếm
đến 45% GDP. Đầu tư nước ngoài đóng băng, ngược lại, tiền vốn
làm ăn phi pháp trong nước liên tục chảy ra nước ngoài. Từ 1993
đến 1998, 135 tỷ USD tiền vốn bị chuyển trái phép ra ngoài. An
ninh đất nước không đảm bảo. Cuộc sống của đa số nhân dân trở
nên tồi tệ. Trong khi đó những kẻ làm ăn phi pháp và có quyền lực
giàu lên nhanh chóng, tạo thành tầng lớp có mức sống vượt hẳn
so với toàn dân.
Cơ chế thị trường không huy động được những công cụ chính
thống đã chuyển sang áp dụng các biện pháp xấu, tạo nên hình
ảnh của"chủ nghĩa tư bản hoang dã". "Chủ trương tư nhân hoá
kinh tế đã tạo cơ hội cho lớp người mang danh lãnh đạo đất nước
tiến hành một đợt cướp phá tài sản quốc gia vô tội vạ và chia sẻ
268
quyền lực giữa các vùng trong nước". Nhà nước hoạt động kém
hiệu quả, tham nhũng lan rộng. Hoạt động phúc lợi xã hội từ bao
cấp chuyển sang bỏ bễ. Lương thấp và thường trả chậm, nhà cửa
tồi tàn, giá sinh hoạt đắt đỏ, các dịch vụ phúc lợi xã hội bị cắt
giảm, từ năm 1984 đến 2000, dân số Nga giảm mất 8 triệu người,
chủ yếu trẻ sơ sinh (6 triệu trẻ em chết), tuổi thọ trung bình của
nam giảm xuống chỉ còn 59 và nữ còn ở mức 72 tuổi. Kinh tế liên
tục sút giảm, sau 10 năm, GDP của các nước trong Cộng đồng các
quốc gia độc lập SNG chỉ còn bằng 60% so với năm 1990. Lạm
phát phi mã. Các nước trong cộng đồng lún sâu vào mâu thuẫn
sắc tộc, tôn giáo. Một số cuộc chiến và khủng bố gây đổ máu kéo
dài. Chủ quyền quốc gia bị đe doạ. (Nguồn: Báo Nhân Đạo Chủ
Nhật, 2001).
Trong bối cảnh của “chủ nghĩa tư bản man rợ”, cùng với sự bất lực và bàng
quan của nhà nước, cộng đồng đánh mất khả năng đề kháng, mất khả năng làm
chủ. Trước tình trạng áp bức, bóc lột người lao động, các công đoàn chỉ đứng ra
hoà giải chủ thợ, không dám đấu tranh bảo vệ quyền lợi công nhân, liên minh hợp
tác xã không bảo vệ được nông dân. Ngược lại các tổ chức xã hội đen kiên quyết
thi hành luật rừng, trật tự của Mafia được xác lập, bảo vệ cho giới làm ăn giàu
chịu khuất phục và đè nén dân lành không có tổ chức. Thất bại trong cuộc sống, bị
thiên tai, kẻ xấu đe doạ, con người chạy trốn vào rượu, ma tuý, cờ bạc, mãi dâm.
Các tập tục, hủ tục tự phát lan tràn, thay chế chính luật điều chỉnh quan hệ xã hội.
Đường cùng, dân nghèo và những đối tượng bị thua thiệt tiêu cực phản kháng
bằng các hình thức bạo lực, phá vỡ ổn định xã hội.
269
với các cơ quan nhà nước có hệ thống thống tin thông suốt, qua đó người dân
giám sát được hoạt động của chính phủ và tham gia được tích cực và quá trình xây
dựng chính sách, ngược lại, mọi chủ trương, đường lối của nhà nước nhanh chóng
đến được với dân và được kiểm tra thực hiện triệt để. Nhờ các điều kiện trên, bộ
máy quản lý nhà nước được tổ chức gọn gàng, hoàn toàn trong sạch, hoạt động
tiết kiệm và đạt hiệu quả cao, pháp luật được toàn dân nghiêm túc tuân thủ.
Trong một đất nước có bộ máy chính quyền hoạt động hiệu quả như vậy, cơ
chế thị trường sẽ có điều kiện vận hành thuận lợi và thông thoáng. Việc sản xuất
và kinh doanh hàng hoá và dịch vụ cơ bản sẽ tuân theo tín hiệu của quan hệ cung
cầu dưới sự hỗ trợ hiệu quả của nhà nước. Nhờ có chính sách thông thoáng và
minh bạch, đầu tư công hiệu quả, giúp chi phí giao dịch và lưu thông thấp, tăng
khả năng cạnh tranh cho các hàng hoá trong nước, thu hút mạnh đầu tư và liên
doanh nước ngoài từ các tập đoàn làm ăn nghiêm túc. Môi trường tổ chức và pháp
lý này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia
cạnh tranh lành mạnh và công bằng, tạo nên cơ chế thị trường hoạt động hoàn
hảo. Thị trường hiệu quả sẽ khiến hoạt động sản xuất kinh doanh sôi động, thu hút
mọi nguồn đầu tư trong xã hội và quốc tế tạo ra nhiều việc làm và thu nhập nhất là
từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhờ vậy, tình trạng thất nghiệp trong xã hội
được giải quyết về cơ bản, đói nghèo được xoá bỏ, giúp tháo gỡ các mâu thuẫn
chính trong xã hội. Trong hoàn cảnh đó, các cộng đồng có điều kiện phát triển
toàn diện và đóng góp tích cực cho quá trình công nghiệp hoá.
Hộp 61. Cải cách cả gói thành công tạo nên “cộng
hưởng cơ chế” đầu thập kỷ 1990
Đầu năm 1989, Việt Nam tiến hành một chương trình cải cách đồng bộ tạo nên
một hiệu ứng “cộng hưởng cơ chế” mở ra một giai đoạn phát triển nhanh thành
công nhất kéo dài 4-5 năm và tạo đà cho kinh tế sau đó tiếp tục đi tới. Sau đây là
một số cải cách xét theo góc độ cơ chế giai đoạn này:
1. Phát huy vai trò chủ đạo của cơ chế thị trường: cơ chế thị trường được
tạo điều kiện phát triển nhanh, thực sự điều chỉnh hàng loạt hoạt động kinh tế
xã hội trước đây do cơ chế nhà nước quản lý. Giải thể bớt doanh nghiệp nhà
nước (12000 giảm còn 6300 trong 5 năm); bỏ trợ giá cho chi tiêu gia đình,
chuyển sang mua bán trên thị trường; bỏ kiểm soát giá hàng hoá và dịch vụ;
bỏ độc quyền của doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích tư nhân tham gia
kinh doanh, chấp nhận cạnh tranh thị trường; cho phép nông dân mua bán vật
tư, nông sản tự do, công nhận thị trường lao động; tiếp nhận đầu tư nước
ngoài; tách biệt hoạt động quản lý và kinh doanh của hai cấp ngân hàng; loại
bỏ độc quyền ngân hàng…
270
2. Giảm bớt sự bao trùm của cơ chế cộng đồng lên hoạt động của các cơ chế
khác: đất đai và tư liệu sản xuất của các hợp tác xã được giao cho hộ nông
dân sử dụng lâu dài, chấm dứt tình trạng “cha chung không ai khóc” trong
sản xuất nông nghiệp; trao quyền tự chủ lớn hơn, quyền tự tổ chức và quản
lý cho doanh nghiệp nhà nước; chính qui hoá hoạt động hành chính (đề cao
trách nhiệm thủ trưởng, công chức đeo bảng tên, ăn mặc chỉnh tề, tiêu chuẩn
hoá thi viên chức, chức danh, học vị,…); cắt giảm bao cấp cho doanh nghiệp
nhà nước; các phương tiện truyền thông và văn nghệ sỹ được khuyến khích
nói thẳng, nói thật, tình trạng tô hồng, che dấu thông tin của cơ chế cộng
đồng từng bước được khắc phục;
3. Thay đổi hoạt động của các cơ chế bằng những nội dung mới.
Trong cơ chế nhà nước việc in tiền bù đắp thâm hụt ngân sách được thay
bằng vay nợ nước ngoài và vay dân (phát hành trái phiếu); cân đối chi tiêu
chính phủ được thực hiện nhờ giảm chi cho quân đội và chi tiêu công cộng; Bộ
cấp vốn chuyển sang ngành tài chính quản lý và vay vốn qua ngân hàng; áp
dụng các công cụ tiền tệ như phá giá đồng nội tệ và thống nhất tỷ giá hối đoái;
cơ chế thị trường mở rộng cạnh tranh bằng cách phát triển doanh nghiệp tư
nhân và đầu tư kinh doanh nước ngoài nhờ đó tiếp thu công nghệ mới và mở
mang thị trường mới (quan hệ buôn bán với 150 nước); tham gia vào các hiệp
định thương mại khu vực và quốc tế; trong cơ chế cộng đồng, nguyên tắc tự
nguyện trong kinh tế hợp tác được tôn trọng; các hoạt động lễ hội, tôn vinh bảo
tồn các giá trị tâm linh, văn hoá được đề cao; hoạt động đối ngoại chuyển hẳn
từ đối đầu sang hợp tác với các nước ASEAN, từ chiến tranh biên giới phía
Bắc và phía Nam chuyển sang bình thường hoá quan hệ với các nước láng
giềng, mở cửa giao thương quốc tế; …
Hiện tượng cộng hưởng cơ chế tạo ra bước nhảy vọt về kinh tế chính trị và xã
hội ở Việt Nam. Tốc độ GDP tăng trung bình 1991-1997 8,5%/năm, nhanh nhất thế
giới, lạm phát giảm từ 775% năm 1986 xuống 5% năm 1993, nông nghiệp tăng
trưởng 5,6%/năm, Việt Nam năm 1988 có 3,6 triệu người thiếu đói nặng trở thành
nước xuất khẩu gạo liên tục thứ hai đứng thế giới suốt thập kỷ 1990, xuất khẩu
mạnh nông sản, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 70% cuối thập kỷ 1980 giảm xuống 37%
năm 1998. Xoá bỏ tình trạng bị cấm vận kinh tế, chấm dứt căng thẳng biên giới.
Đời sống xã hội hoàn toàn thay đổi. (Nguồn: Shenggen Fan, Phạm Lan Hương và
Trịnh Quang Long 2003; Hiển, H. V. và Thảo, N. V. 1998)
271
Các tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội thực sự đóng vai trò đại diện cho
quyền lợi của các cộng đồng khác nhau. Các vấn đề lịch sử được minh xét, thông
tin xã hội thông suốt, phương pháp giáo dục khoa học tạo nên một xã hội trung
thực và có lòng tin, là cơ sở cho năng lực phối hợp giữa các cá nhân và các cộng
đồng. Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ những người lao động nhỏ, yếu như hộ
nông dân tiểu nông, người sản xuất nhỏ, buôn bán nhỏ, người lao động vô sản tổ
chức thành các hợp tác xã, nghiệp đoàn để đoàn kết bảo vệ quyền lợi của mình.
Các đối tượng sản xuất kinh doanh khác trong xã hội cũng xây dựng các hiệp hội,
tổ nhóm liên hiệp, để giúp họ tổ chức các dịch vụ phục vụ như bảo hiểm, thông
tin, bảo vệ pháp lý, đào tạo tay nghề,… nâng cao vị thế đàm phán, cạnh tranh và
tiếp thị. Các địa phương cũng có các hình thức tổ chức cộng đồng khác nhau để
thực hiện chương trình phát triển nông thôn, bảo vệ tài nguyên tự nhiên, thực hiện
công tác xã hội, trọng tài giải quyết tranh chấp,… Một xã hội dân sự sẽ được hình
thành để cơ chế cộng đồng chia sẻ trách nhiệm và tham gia cùng cơ chế nhà nước
và cơ chế thị trường.
Triển vọng khả năng thực hiện
Hai bức tranh rất ảm đạm và thật sáng sủa trên có lẽ chỉ là những gợi ý để minh
họa cho những thách thức và triển vọng sẽ phải đương đầu trong tương lai. Như
thực tế từng chứng tỏ, quá trình phát triển có thể đi nhanh, đi chậm, thậm chí
xuống dốc nhưng vẫn mãi chảy, khả năng thiết thực có thể xảy ra cao nhất nằm
đâu đó ở khoảng giữa những thái cực của thất vọng và ước mơ.
Chúng ta tin rằng nhà nước chúng ta mãi là của nhân dân, nhiệm vụ quan trọng
nhất không thể sao nhãng là bảo vệ quyền lợi dân tộc và đáp ứng nhu cầu, nguyện
vọng của dân. Vì vậy, nhà nước sẽ từng bước hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và
tăng khả năng thi hành luật lệ. Tuy sẽ rất khó khăn nhưng công tác quản lý nhà
nước sẽ được tăng cường, định hướng quản lý sẽ chuyển từ “cầm tay chỉ việc”,
hướng dẫn sang tạo môi trường hỗ trợ, cung cấp dịch vụ công. Từ đốc thúc, sản
xuất kinh doanh chuyển dần sang khuyến khích tiếp thị, tăng cường khả năng
cạnh tranh. Cải cách hành chính sẽ có thể diễn ra chậm và vất vả nhưng năng lực
của đội ngũ cán bộ và tổ chức bộ máy sẽ được tăng cường.
Cùng với thời gian, hoạt động thị trường sẽ từng bước được hoàn thiện, trước
hết là với các hàng hoá, sau đó với dịch vụ, ở mức độ chậm hơn, thị trường tài
nguyên cũng từng bước hoàn thiện. Tuy không hoàn toàn hoàn hảo và hiệu quả
nhưng môi trường cạnh tranh giữa các loại hình doanh nghiệp và các thành phần
kinh tế sẽ dần dần trở nên công bằng hơn.
Đối với cơ chế cộng đồng, thông tin đầy đủ dần cho mọi đối tượng cùng với
quá trình phát huy dân chủ, nhà nước sẽ tạo điều kiện trong tương lai để các tổ
chức quần chúng rồi sẽ đại diện nguyện vọng và lợi ích thiết thực của người dân.
272
Xã hội dân sự sẽ thành hình một mai. Viễn cảnh nêu trên là những việc có thể làm
được, phù hợp với điều kiện, trình độ xã hội và bản chất chế độ chính trị của Việt
Nam. Miễn là biết cách sắp xếp, tổ chức sử dụng một cách tương đối hợp lý hoạt
động của cả 3 cơ chế trong quá trình vận động của xã hội.
Điều đáng lo ngại là chậm chân, tụt hậu, bỏ lỡ cơ hội không còn là nguy cơ mà
đã trở thành thực tế. Thời gian của Việt Nam đã và đang bị lãng phí nghiêm trọng.
Trong thời đại ngày nay, thời gian là tài sản quí giá nhất cho phát triển. Việt Nam
là nước có trình độ phát triển thấp nằm trong khu vực phát triển năng động nhất
thế giới, lại là một nước nhỏ kề bên một quốc gia đang vươn nhanh trở thành nền
kinh tế lớn nhất nhì thế giới. Trong một thế giới “người được sẽ có tất cả”, tiến
nhanh với chính mình nhưng chậm với thiên hạ sẽ vẫn là thất bại.
Bước sang thiên niên kỷ mới, dường như trừ sự hãnh tiến của một cực thế giới,
hầu như tất cả các quốc gia, các dân tộc trên địa cầu đều đang nhìn lại mình, đang
tự điều chỉnh, đang dấu mình lại để tìm cách vượt lên nhanh nhất, hiệu quả nhất,
chiếm lấy một thế đứng có lợi nhất trong tương quan kinh tế, chính trị toàn cầu
tương lai. Hình dáng mới của xã hội nhân loại đang hình thành hàng ngày, hàng
giờ không đợi chờ ai. Muốn tăng tốc, đón đầu đòi hỏi một cố gắng đặc biệt trong
việc kiên quyết xoá bỏ nhanh những nếp hằn của cơ chế cộng đồng lên mọi hoạt
động xã hội, áp dụng các công cụ mới thích hợp của cả ba cơ chế tổ chức trong
một kết cấu hợp lý mới của các cơ chế.
Cải thiện xã hội Việt nam với kết cấu hợp lý của nhà nước, thị trường và
cộng đồng
Nhà nước Thị trường Cộng đồng
Hiện - Quản lý nhà nước - Thị trường nhìn - Vai trò cộng đồng
trạng đang chuyển từ quản lý chung thông thoáng yếu kém
cung sang quản lý cầu - Một số thị trường tài - Các tổ chức quần
- Hệ thống chính sách nguyên (đất, nước, lao chúng hoạt động hình
chưa hoàn thiện, giám động, tiền vốn, công thức, thiếu quyền lực,
sát thi hành pháp luật nghệ,...) chưa hoàn thiếu thông tin
kém thiện - Các hủ tục, quan hệ
- Năng lực quản lý - Luật lệ, luật chơi hình thành, phát triển
kém, cơ chế quản lý chưa rõ ràng, cạnh để tự điều chỉnh hành
kém hiệu quả, tham tranh chưa công bằng, vi xã hội thay thế luật
nhũng, bất lực - Thị trường méo mó. lệ chính thức và thị
trường lành mạnh
- Chưa có xã hội dân
sự
273
Nhà nước Thị trường Cộng đồng
Tình - Chính quyền bất lực, - Cạnh tranh khốc liệt, - Xã hội đen, luật rừng
huống không điều hoà và khắc phá sản SME, SOE, lan tràn, an ninh cuộc
xấu phục được mặt trái của thất nghiệp tăng sống kém
thị trường - Người nghèo thiệt -Cộng đồng mất khả
- Tách khỏi dân, đại thòi, thu nhập chênh năng đề kháng, mất
diện cho nhóm quyền lệch tăng khả năng làm chủ
lợi nhỏ - Môi trường, xã hội bị - Tập tục, hủ tục
- Viên chức ứng phó xuống cấp, tăng tự phát lan tràn,
bằng tăng cường tham trưởng kém bền vững. thay chế chính
nhũng, Maphia hoá -Các tác nhân tìm cách luật điều chỉnh
chính quyền, hy sinh làm hỏng thị trường để quan hệ xã hội
quyền lợi dân tộc. khắc phục: lừa lọc, - Dân phản kháng
trốn thuế, gian lận,... chống đối để tự vệ
bằng các hình thức
bạo lực, phá vỡ ổn
định xã hội
Định - Thể hiện và đại diện
- Có đủ các thị trường - Thông tin đầy đủ
hướng cho quyền lợi của đông
cơ bản - Tổ chức quần
tốt nhất đảo nhân dân - Thị trường thông chúng thực sự đại
- Minh bạch hóa thôngthoáng diện cho dân
tin - Cạnh tranh lành - Hình thành tổ chức
- Năng lực quản lý mạnh và công xã hội dân sự
nhà nước tốt bằng
- Bộ máy quản lý nhà - Hình thành cơ chế
nước có hiệu quả thị trường hoàn
chỉnh
Mức độ - Hoàn chỉnh hệ thống - Doanh nghiệp cạnh - Nối cộng đồng với tổ
khả thi pháp luật, tăng khả tranh công bằng chức quần chúng,
năng thi hành luật lệ - Hoàn thiện thị trường - Biến tổ chức quần
- Đáp ứng nhu cầu tài nguyên chúng thành đại diện
nguyện vọng của dân thực tế của nhân dân
- Bảo vệ quyền lợi dân - Tăng vai trò hoạt
tộc động của cộng đồng,
- Tăng năng lực quản lý của tổ chức quần
nhà nước, định hướng chúng.
sang quản lý tiêu thụ,
kinh doanh
274
Một số đề xuất về vận hành các cơ chế trong
giai đoạn phát triển mới.
Nhìn từ khía cạnh phát huy vai trò của các cơ chế, bước phát triển mới của xã
hội Việt Nam không đơn thuần chỉ là sự phát triển kinh tế bằng động lực của cơ
chế thị trường có sự chỉ đạo, trấn chỉnh của cơ chế nhà nước để đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa và sửa chữa những sai sót của thị trường.
Việc thứ nhất cần làm là loại bỏ ảnh hưởng của cơ chế cộng đồng kiểu cũ đang
bao trùm, làm cản trở và méo mó hoạt động của cơ chế nhà nước và cơ chế thị
trường mới. Cơ chế nhà nước và thị trường phải kiên quyết thoát khỏi cung cách
của cơ chế cộng đồng trong một loạt công việc.
Việc thứ hai cần làm là điều chỉnh lại kết cấu giữa các cơ chế để có thể phát
huy được thế mạnh, khắc phục điểm yếu của từng loại cơ chế trong quá trình xây
dựng một kết cấu phối hợp 3 cơ chế hợp lý nhất. Một số việc hiện đang được điều
hành bằng loại cơ chế này cần phải chuyển sang điều chỉnh bằng loại cơ chế khác
hiệu quả hơn.
Việc thứ ba cần làm là đổi mới hệ thống các công cụ của từng cơ chế cho phù
hợp với mức độ phát triển kinh tế xã hội. Nhiều công cụ cũ đang áp dụng phải
được đổi bằng các công cụ mới phù hợp hơn.
1. Loại bỏ ảnh hưởng cơ chế cộng đồng cũ lên
hoạt động của cơ chế nhà nước và cơ chế thị
trường.
Loại bỏ các công cụ và hoạt động của cơ chế cộng đồng trong
hoạt động của cơ chế nhà nước:
Trong thời đại ngày nay, con người là tài nguyên quan trọng nhất. Cán bộ nhà
nước cần được chọn lọc, đề bạt, sử dụng căn cứ vào hiệu quả công việc và theo
tiêu chuẩn đòi hỏi của nhiệm vụ. Tổ chức cán bộ cần áp dụng cơ chế tự động và rõ
ràng theo nguyên tắc chọn vào, loại ra, đưa lên, hạ xuống, chuyển đi định kỳ theo
kết quả làm việc để đưa người tài vào công tác lãnh đạo. Cần thay đổi những tiêu
chí không đo đếm được như lòng trung thành, quan điểm, lập trường và những
tiêu chí mang tính hình thức như bằng cấp, cơ cấu, lý lịch… áp dụng chính sách
trả lương và chế độ đãi ngộ theo nguyên tắc hiệu quả để thu hút và sử dụng được
mọi nguồn nhân tài của dân tộc. Cán bộ các cơ quan nhà nước chia rõ thành hai
loại:
275
- Các nhà chính trị là đại biểu đại diện cho quyền lợi của cử tri và đặt
dưới sự kiểm soát, bầu cử, bãi miễn của cử tri nhằm đảm bảo cân bằng
quyền lực giữa các cộng đồng
- Các nhà chuyên gia thực hiện chức trách chuyên môn trong hoạt
động quản lý nhà nước được đề bạt, bãi miễn, kiểm soát bởi hiệu quả
công việc.
Có qui chế luật lệ rõ ràng để ngăn chặn tình trạng “cờ ngoài bài trong”, can dự
vào công tác điều hành nhà nước bằng các quan hệ cộng đồng kiểu như uy tín,
công lao… Quá trình xây dựng chính sách, pháp luật vừa tiến hành một cách
chính qui, bằng đội ngũ chuyên gia chuyên nghiệp, dựa trên các căn cứ khoa học
vững chắc, vừa minh bạch có sự tham gia đóng góp từ thực tiễn của đông đảo
quần chúng nhân dân. Ngăn chặn sự can dự của các thế lực xã hội đen, tập đoàn
xuyên quốc gia, doanh nghiệp có thế lực vào hoạt động nhà nước.
Hình thành các tổ chức tham mưu có năng lực, hoạt động khách quan cung cấp
thông tin và xây dựng cơ sở lý luận cho công tác quản lý. Lãnh đạo phải dựa trên
lý luận phát triển rõ ràng, khoa học. Tham mưu độc lập với lãnh đạo, ngăn chặn
tình trạng tham mưu chiều theo mệnh lệnh và ngược lại, tránh tình trạng vận động
hậu trường của các nhóm lợi ích, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng chính sách làm
lợi cho quyền lợi nhóm.
Trật tự trong đời sống pháp luật và cơ chế hành chính phải được xác lập. Việc
lập hiến trong đó các quyền hiến định căn bản nhất của con người phải do nhân
dân nắm, thông qua xây dựng Hiến pháp. Dưới đó, Quốc hội được dân giao quyền
lập pháp. Không nên để tình trạng không tách biệt giữa lập hiến và lập pháp của
Quốc hội hiện nay116. Các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm thi hành ngay và
vô điều kiện các luật pháp đã được ban hành, chấm dứt tình trạng Luật của Quốc
hội và Nghị định của Chính phủ ban hành phải đợi Bộ ra thông tư hướng dẫn mới
có tác dụng thi hành117. Chuyên môn hoá và đảm bảo tính đại diện của hoạt động
lập pháp. Hình thành cơ chế độc lập giám sát, đối trọng quản lý để đảm bảo
nguyên tắc công bằng và hoàn toàn vô tư của hệ thống tư pháp. Để tuyệt đối đảm
bảo kỷ cương phép nước, hình thành tâm lý tin pháp, tuân pháp của toàn xã hội.
Mọi oan sai trong lịch sử phải xử lý minh bạch, từ đó vận hành bộ máy công
quyền dưới sự kiểm soát và cưỡng chế của pháp luật. Đầu tư đáng kể cho hệ thống
tư pháp để có đủ số lượng, chất lượng thẩm phán, luật sư, và các cán bộ chuyên
môn. Chấm dứt ứ đọng án và chậm thi hành án.
116
Sơn, B. N. Cơ sở của chế độ bảo hiến, Nghiên cứu lập pháp, văn phòng
Quốc Hội 12/2003.
117
Thọ, N. P. Thực trạng và giải pháp nâng cao kỷ luật hành chính. Nghiên cứu
lập pháp, văn phòng Quốc Hội 12/2003.
276
Trong hoạt động lãnh đạo điều hành phải tuyệt đối chấp hành nguyên tắc tập
trung dân chủ, xác lập rõ chế độ nhất thể chế. Mỗi việc một cơ quan quản lý, mỗi
tài sản, mỗi nhiệm vụ một người chịu trách nhiệm. Loại bỏ mọi hệ thống tổ chức
tạo nguy cơ lấn quyền và trồng lấn trách nhiệm. Loại bỏ chế độ ra quyết định
bằng nguyên tắc đồng thuận, nhùng nhằng không ai chịu trách nhiệm. Xác lập
trách nhiệm của thủ trưởng, gắn quyền hạn-quyền lợi-trách nhiệm làm một. Lãnh
đạo công việc phải nắm và chịu trách nhiệm về người, về tiền. Xoá bỏ mọi cơ chế
và nguyên tắc hoạt động có thể dẫn đến tình trạng “mệnh lệnh mềm”.
Hoạt động của nhà nước phải tuân theo tính thống nhất về chiến lược, qui
hoạch, kế hoạch từ dài hạn đến ngắn hạn. Chấm dứt hình thức tổ chức công việc
theo phong trào ngắn hạn, chạy theo những vấn đề trước mắt. Chuyển các chương
trình mục tiêu liên ngành thành nhiệm vụ cụ thể của ngành chịu trách nhiệm chủ
trì và các ngành phối hợp. Các hoạt động phải theo kế hoạch, ít thay đổi, đáng tin
cậy trong tương lai dài hạn, các chính sách căn bản của nhà nước phải được luật
hoá, lấy chính sách làm công cụ điều hành quan trọng của công tác quản lý nhà
nước. Chuyển các hình thức giao ước thi đua, ký kết hợp tác hình thức theo cơ chế
cộng đồng ở cấp quản lý sang quan hệ hợp đồng, liên doanh cụ thể ở cơ sở theo cơ
chế thị trường.
Loại bỏ ảnh hưởng của cơ chế cộng đồng cũ trong hoạt
động của cơ chế thị trường:
Trong hoạt động của cơ quan nhà nước, phải phân chia rõ giữa
bộ máy quyền lực công cộng và cơ quan đóng vai trò đại diện sở
hữu nhà nước như các công ty quản lý vốn (hoặc ủy ban quản lý
tài sản quốc hữu của Trung Quốc). Xoá bỏ chế độ chủ quản của
Bộ hay địa phương, phân chia rõ hoạt động quản lý nhà nước với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và tránh nguy
cơ tham nhũng của bộ máy công quyền. Các doanh nghiệp nhà
nước phải tổ chức theo mục tiêu lợi nhuận, vận hành theo cơ chế
thị trường để đảm bảo kinh doanh hiệu quả, đảm bảo cạnh tranh
công bằng. Nhiệm vụ công ích phải giao cho các cơ quan chuyên
trách không hoạt động theo cơ chế thị trường.
Trong doanh nghiệp nhà nước phải phân chia rành mạch chức năng ra quyết
định và chịu hoàn toàn trách nhiệm về quản lý của giám đốc, chức năng đại diện
chủ sở hữu của chủ tịch hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị phải trực thuộc cơ
quan quản lý vốn, giám đốc và bộ máy điều hành phải là nhà chuyên môn được
thuê quản lý. Thực hiện chế độ một thủ trưởng, thực hiện mệnh lệnh cứng trong
quản lý kinh doanh, áp dụng các tiêu chuẩn quản lý, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế
cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
277
Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
để các doanh nghiệp này có thể vay vốn, thuê đất,… và sử dụng các dịch vụ phục
vụ khác, thoát khỏi tình trạng tự túc về vốn, lao động và các tài nguyên khác như
hiện nay. Hình thành khuôn khổ pháp luật đáng tin cậy có đủ năng lực giám sát và
thi hành luật để đảm bảo môi trường hành nghề an toàn, thuận tiện cho doanh
nghiệp, triệt để xoá bỏ tình trạng nhũng nhiễu, vòi vĩnh, bắt nạt doanh nhân của
các tổ chức xã hội đen, của các cơ quan quản lý nhà nước và các nhân viên công
lực, của cộng đồng địa phương.
Hình thành các thể chế minh bạch, rõ ràng làm nhiệm vụ kiểm tra, hỗ trợ giải
quyết khó khăn và làm trọng tài cho các tranh chấp dân sự và kinh tế giữa các
doanh nghiệp với các đối tượng khác nhau trong xã hội. Ký kết các hiệp định
thương mại, các cam kết tiêu chuẩn kỹ thuật để giảm dần việc buôn bán tiểu
ngạch, việc kinh doanh thông qua trung gian quốc tế, trực tiếp kết nối người sản
xuất, chế biến với thị trường.
Xây dựng thị trường cho mọi hàng hoá, nhất là những hàng hoá chưa có thị
trường lành mạnh như lâm sản, muối,… các thị trường tài nguyên như vốn, lao
động, đất đai, bất động sản, công nghệ, các dịch vụ chưa được quản lý rõ ràng như
cá cược, đánh bạc, môi giới hôn nhân, môi giới con nuôi, giải trí mạo hiểm, tâm
linh, khai thác khoảng không,...
2. Hình thành một kết cấu thể chế hợp lý:
Thể chế nhà nước cần nắm lại và làm tốt vai trò xây dựng, quản lý, giám sát
chính sách, pháp luật, đảm bảo đủ năng lực và uy tín đóng vai trò trọng tài, điều
hành các hoạt động phục vụ công ích và nhu cầu công cộng,
Cả 3 thể chế, với thế mạnh khác nhau đều nên được huy động
tham gia quản lý các dịch vụ công, các hoạt động công ích tuỳ
theo tính chất của từng loại dịch vụ:
- Thể chế nhà nước cung cấp các dịch vụ công phi lợi
nhuận (ví dụ, giáo dục, y tế, khuyến nông, với chất
lượng đảm bảo cho các vùng khó khăn, nơi nhân dân
không có khả năng tự thanh toán chi phí);
- Thể chế thị trường tham gia các dịch vụ công có lợi
nhuận (ví dụ, giáo dục ở một số trường đại học có nhu
cầu, đào tạo phổ thông chất lượng cao, y tế cao cấp,
dịch vụ khuyến nông và chuyển giao công nghệ… ở một
số đô thị, vùng có thu nhập cao);
278
- Thể chế cộng đồng tham gia các dịch vụ công lợi
nhuận thấp nhưng trực tiếp phục vụ lợi ích cộng đồng (ví
dụ, y tế cộng đồng, giáo dục cộng đồng, nhập khẩu vật
tư nông nghiệp, xuất khẩu nông sản, thông tin thị
trường).
Trong khi thể chế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong hoạt
động xây dựng chính sách, cả 3 thể chế cần được huy động tích
cực để tham gia xây dựng, đánh giá, giám sát thực hiện chính
sách, pháp luật.
Cả ba thể chế cần áp dụng công cụ thích hợp của mình để chia
sẻ việc quản lý tài nguyên tự nhiên, nhất là tài nguyên đất một
cách hợp lý và rõ ràng. Chấm dứt tình trạng cơ chế nhà nước điều
chỉnh hoạt động quản lý tài nguyên một cách danh nghĩa và hình
thức, trong khi các cơ chế thị trường và cộng đồng quản lý tài
nguyên một cách không chính thức và sử dụng những công cụ
không chính thống để khai thác tài nguyên một cách kém hiệu
quả và mất công bằng. Giao một phần công tác quản lý tài
nguyên tự nhiên (đất, nước, rừng,…) cho tư nhân và cộng đồng.
Giao một phần các hoạt động dịch vụ phục vụ lợi ích công cộng
(giáo dục cộng đồng, y tế cộng đồng, khuyến nông cộng đồng,
quản lý kết cấu hạ tầng trong cộng đồng,…) cho cộng đồng quản
lý.
Các chương trình phát triển xã hội đang do thể chế nhà nước
nắm giữ và điều hành cần giao cho thể chế cộng đồng điều hành,
giám sát hoạt động tiếp nhận và tổ chức sử dụng để huy động
đóng góp nội lực của toàn dân và xác định rõ vai trò chủ thể của
người trực tiếp hưởng lợi. Các tổ chức đoàn thể phải hoạt động
theo cơ chế cộng đồng, tổ chức đang nằm trong hệ thống bộ máy
nhà nước, các viên chức làm công tác đoàn thể cần được trả lại
cho thể chế cộng đồng điều hành để đảm bảo nguyên tắc độc lập
đại diện và thực sự tự nguyện, tự lực vận động của lực lượng
cộng đồng.
Hoạt động của tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội phải nhằm mục đích phục vụ
các lợi ích của cộng đồng và bảo vệ quyền lợi của các thành viên trong cộng đồng.
Cán bộ làm công tác đoàn thể, hoạt động xã hội phải là đại biểu của cộng đồng, do
các thành viên của cộng đồng bầu ra, cộng đồng trả công và giám sát hoạt động để
thực sự gắn bó với quyền lợi và hết lòng phục vụ cộng đồng. Các tổ chức đại biểu
của dân như Quốc Hội, Hội đồng Nhân dân phải đảm bảo tính đại diện của mình
279
thông qua kết cấu của đại biểu được bầu và kết cấu số phiếu bầu. Trong khi đó,
qui định rõ các cơ quan nhà nước khác phải lựa chọn và bố trí cán bộ lãnh đạo
hoàn toàn theo yêu cầu công việc và năng lực thực sự của cán bộ, không cân nhắc
đến một loại kết cấu địa phương, cộng đồng nào.
Nhà nước cần hỗ trợ hình thành hệ thống thông tin kết nối giữa nhân dân và
chính quyền thông qua các tổ chức quần chúng, thông tin giữa các cộng đồng với
nhau và thông tin về cộng đồng cho toàn xã hội. Các hệ thống thu thập, cung cấp
số liệu thống kê về tình hình sinh sống, làm ăn của mọi tầng lớp nhân dân, các hệ
thống thông tin thị trường, thông tin chính sách, thông tin khoa học công nghệ,...
cần sẵn có để toàn dân sử dụng. Các thông tin cảnh báo về dịch bệnh, thiên tai, tai
nạn, kể cả những số liệu thiệt hại, các nguy cơ cần được thông báo nhanh, rộng rãi
và công khai để nhân dân tự chủ động tham gia phòng tránh.
Không nên đề ra các chính sách riêng biệt cho nhiều nhóm đối tượng dân cư, ví
dụ, chính sách cho các loại hình doanh nghiệp (nhà nước, tư nhân, ...), cho các
loại hình nông dân (trang trại, diêm dân, nông dân nghèo,...) thậm chí cho từng
ngành hàng như mía đường, muối ăn, lúa gạo,... mà nên xây dựng các Luật chung
cho các nhóm đối tượng lớn để đảm bảo công bằng đối xử, tránh sa đà tranh luận
vô bổ về tiêu chí, định nghĩa, tránh hiện tượng vận động của các nhóm quyền lợi
và lợi dụng chính sách của người thi hành.
Tổ chức hệ thống đăng ký an sinh xã hội để giám sát và bảo vệ toàn dân. Đối
với các đối tượng cần giúp đỡ thì đưa họ vào tham gia các tổ chức quần chúng
riêng để quản lý, hỗ trợ và tạo điều kiện có việc làm, có nguồn thu nhập ổn định
tham gia. Chấm dứt việc trợ cấp trục tiếp cho nhiều nhóm đối tượng qua kênh nhà
nước, vừa buông lỏng quản lý, tạo điều kiện tham nhũng, chạy chọt, vừa bỏ bễ
chăm sóc thiết thực cho đối tượng.
Các đoàn thể quần chúng cần được tổ chức lại để thực sự đảm
đương nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi và đảm bảo môi trường phát
triển của các cộng đồng thành viên đúng với vai trò của cơ chế
cộng đồng giao phó. Đặc biệt hỗ trợ cho các tổ chức kinh tế hợp
tác "nối kết theo chiều ngang" của nông dân, của doanh nghiệp
vừa và nhỏ, hình thành các hiệp hội ngành hàng "nối kết theo
chiều dọc" liên kết người sản xuất với người chế biến và kinh
doanh,... Tạo nên sức mạnh, sức cạnh tranh cho người sản xuất
kinh doanh nhỏ trên thị trường, tạo điều kiện để nhân dân thông
qua các tổ chức của mình tham gia vào công việc quản lý nhà
nước.
Các hoạt động đầu tư phát triển có lợi nhuận đang do thể chế
nhà nước trực tiếp nắm giữ và điều hành nên được giao trả cho
280
các tổ chức đầu tư trực tiếp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận theo
cơ chế thị trường để giảm rủi ro, tăng hiệu quả và chống tiêu cực.
Ngoài ra, phải xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc và cơ chế
giám sát thực hiện để đảm bảo ngoài ba cơ chế chính nhà nước,
thị trường và cộng đồng, tránh tình trạng để các cơ chế không
chính thống tham gia điều chỉnh các hoạt động xã hội118
118
Xem phần Sự thay thế tạm thời của các cơ chế không chính thống, trang
119
Xem phần Công cụ, biện pháp đặc trưng cho từng cơ chế, trang.
281
Các cơ chế được phối hợp tốt sẽ cho phép huy động và khai thác mọi nguồn
tiềm năng hiện nay. Trước hết là tài nguyên con người, đội ngũ nhân tài đang lãng
phí vào những công việc không xứng đáng, chưa trực tiếp phục vụ cho lợi ích
quốc gia sẽ được huy động tài năng và trí lực phát triển đất nước. Sau đó là một
khối lượng vốn khổng lồ còn nằm dưới dạng ngoại tệ, vàng, đất đai thổ cư để cất
trữ, dự phòng và đầu cơ không lưu thông, không sinh lời hay bị đưa ra ngoài lãnh
thổ Việt Nam sẽ được chuyển thành tư bản để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh của
đất nước. Tiền chết chuyển sang đầu tư sẽ tạo nên một qui mô kết cấu hạ tầng
hùng vĩ, mua sắm nhiều hệ thống máy móc thiết bị hiện đại, đào tạo được một
lượng lớn lao động có tay nghề cao, trình độ chuyên môn giỏi,… Tiếp theo là việc
huy động các nguồn tài nguyên to lớn còn bỏ phí hay chưa sử dụng đúng hiệu quả.
Một qui mô lớn đất hoang hoá, đất đồi núi trọc, nhiều khu thắng cảnh, di tích văn
hoá, nguồn nước mặt bỏ hoang, vùng ven biển chưa khai thác,… sẽ được huy
động vào các mục tiêu sản xuất nông nghiệp, trồng rừng, làm muối, nuôi trồng
thuỷ sản, kinh doanh du lịch,… tạo nên khối lượng tài sản và việc làm vĩ đại cho
xã hội lao động. Có tư liệu sản xuất và trí tuệ, có việc làm, tài nguyên sức lực và
chất xám của con người sẽ làm nên những điều diệu kỳ rạng danh cho đất Việt .
*
* *
Để đạt được những mục tiêu sống còn về lợi ích và hướng tới
những ước muốn cao cả, trong lịch sử tiến hoá, con người đã thử
nghiệm nhiều hình thức tổ chức, cơ chế điều hành xã hội. Mỗi mô
hình, cách thức đều là những đóng góp xương máu cho kho tàng
nhận thức của loài người và những mày mò thử nghiệm mới vẫn
tiếp tục đa dạng và vô tận. Mục tiêu của Việt Nam cho xã hội
tương lai: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” cũng là ước mơ chung của cả nhân loại. Các dân tộc, các
quốc gia, các tôn giáo có lẽ không khác nhau nhiều về mục tiêu
tương lai, tuy nhiên, điều gây ra tranh cãi thậm chí chiến tranh
giữa loài người lại là sự khác biệt về giải pháp, cách làm, mô hình
cụ thể trên con đường đi tới tương lai.
Hy vọng rằng sự hiểu biết về cơ chế vận hành của ba bàn tay
cộng đồng, thị trường và nhà nước sẽ giúp chúng ta kết hợp
chúng thành hệ thống điều hành các quan hệ kinh tế xã hội hợp
lý, đưa đất nước đến một ngày mai “đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn” như tiên đoán của Bác Hồ.
282
Phụ lục
Vấn đề Biện
Cơ chế Phạm vi Điều kiện Kết quả
chính pháp
284
Tài liệu tham khảo chính:
285
16. Fulbright Economic Teaching Program. Economic Development.
Readings. Course 2001-2002.
17. Friedman, T. L. Chiếc xe Luxus và cây Ô liu. 2000.
18. Hượu, T. Đ. Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001.
19. Hượu, T. Đ. Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn Hoá 1995.
20. Kim C. Y., Hoạch định chính sách trên chiến tuyến. Đại sứ quán Hàn
Quốc tại Việt Nam, 1999.
21. Khánh T. H, Tường, T. Q. Tân văn hoa trích TQ, số 9/2003.
22. 102 Sự kiện nổi tiếng thế giới, NXB Văn hoá- Thông tin, 2001.
23. Giáp, V. N. Địên Biên Phủ điểm hẹn lịch sử. NXB Quân đội Nhân dân, Hà
Nội, 2000.
24. Evans R. Đặng Tiểu Bình, NXB Công an Nhân dân, 2003.
25. Evans- Prichard, The Nuer. Oxford University Press, 1940.
26. Hải, P. T. Đặng Tiểu bình nhà cải cách kinh tế hàng đầu thế kỷ 20. NXB
Thanh Niên. Hà Nội 2001.
27. Hayek, Tính tự phụ chết người, NXB Đại học Chicago, 1988
28. Hồ, T. Đ, Cách mạng văn hoá liệt truyện, NXB Mũi Cà Mau, 2003.
29. Hirshleifer, J. Economic Behaviour in Adversity. University of Chicago
press, 1987.
30. Hiển, H. V. và Thảo, N. V. Quan hệ Quốc tế từ 1945-1995. NXB Chính trị
Quốc gia. Hà Nội 1998.
31. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lịch Sử
Thế giới. NXB Chính trị Quốc gia. 2001
32. Huntington, S. P., The Clash of Civilization and the Remaking of World
Order, Touchstone Book, 1996.
33. Institute of Saemual Kon-Kuk University, Seoul, Korea, "The Patterns of
Rural Development in Korea 1970's", 1986.
34. Jin-Hwan Park, “The History of Saemaul Undong”, Saemaul Undong
Training, Saemaul Undong Central Training Institute, 1999.
35. Keynes, J.M. The General Theory of Employment, Interest
and Money, 1936
36. Kang Moon Kyu, Saemaul Undong in Korea, The National
Council of Saemaul Undong Movement in Korea, 1999.
286
37. Khrushchev, N. S. Special Report to the 20th Congress of
the Communist Party of the Soviet Union. Crimes of the
Stalin Era. The New leader. New York 1962.
38. Lê N. H. Khổng Tử. NXB Văn Hoá. Hà Nội 1996.
39. Luận, T. D. (chủ biên và tập thể tác giả). Phát triển xã hội ở
Việt Nam một tổng quan xã hội học năm 2000. NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội 2002.
40. Liên, T. N. B. (biên dịch) Lưu Thiếu Kỳ và ân oán Trung Nam
Hải, NXB Trẻ 1999.
41. Janos, K. Hệ thống xã hội chủ nghĩa, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin,
Hội khoa học Kinh tế Việt Nam, Hà Nội 2002.
42. Machiavelli, The Prince, 1527
43. Mao, Z and Schive, C. Agricultural and Industrial Development in the
Economic Transformation of the Republic of China on Taiwan. Republic of
China: the Council of Agriculture, 1991.
44. Margolis, H. Selfshness. Altrism and Rationality: Atheory of Social
Choice. Cambridge University Press, 1982.
45. Microsoft Encarta Reference Library 2002
46. North, D. C. Structure and change in Economic History. New York:
Norton, 1981.
47. North, D. C. Các thể chế, sự thay đổi thể chế và hoạt động kinh tế. Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. NXB Khoa học Xã Hội và
trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ, Hà Nội 1998. Coppyright 1990 by
Cambridge University Press.
48. Ngân hàng Thế giới Báo cáo phát triển thế giới 2002 Xây dựng Thể chế
Hỗ trợ Thị trường. NXB Chính trị Quốc gia HN 2002.
49. Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Bác Khoa Tri thức phổ thông, 2001.
50. PaulR. M., North, D. C., Weingast B. W. the role of Institutions in the
Revival of trade: The Law Merchant, private Judges, and the Champagne
fairs”. Economics and Politics, 1990.
51. Phàm, T. D. Khảo sát vấn đề “tính hợp pháp” về sự cầm quyền của Đảng
Cộng Sản Liên Xô. Tạp chí Những vấn đề CNXH thế giớ đương đại (Trung
Quốc) số 2/2003.
52. Quốc, N. A. La Revue Communiste 18-19. 1921
53. Quýnh, T. H.; Doãn, P. Đ.; Minh, N. C. Đại cương Lịch sử Việt Nam,
NXB Giáo dục 2000.
287
54. Perle, R. Standard bearer for the new right, Reuters magazine July 2003.
55. Ponsner, R. A. Atheory of Primitive Society, with Special Reference to
Law. Journal of Law and Economic, 23:1-53, 1980.
56. Root, H. Thị trường vốn và tăng năng suất: ví dụ của Thung lũng Silicon.
2003, Sách chưa xuất bản.
http://usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhirctavn.html
57. Simon, H. Rationality in Psychology and Economics, In Robin M. Hogarth
and Melvin W. Reder (els) The Behavioral Foundations of Economic
Theory. Journal of Business. 59: S209-S24. 1986.
58. Sơn Đ. K. Công nghiệp hoá từ nông nghiệp, lý luận, thực tiễn và triển
vọng ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp, 2001.
59. Sơn, B. N., Cơ sở của chế độ bảo hiến, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội , 12/2003.
60. Stanford Encyclopedia of Philosophy. Http//plato.stanford.edu/entries/
61. Thành L. X. chuyện về người viết “học thuyết” khoán hộ, Báo Nông
nghiệp Tết Giáp Thân. 2004.
62. Thư, V. Vai trò của xã hội công dân đối với việc xây dựng nhà nước pháp
luật. Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng Quốc hội, 9 2003.
63. Thọ, N. P. Quan niệm và thực tiễn dịch vụ công ở nước ta. Nghiên cứu lập
pháp. Văn phòng Quốc hội, 9 2003.
64. Thọ, N.H. Theo bước chân đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2002.
65. Thể chế-cải cách thể chế và phát triển lý luận và thực tiễn
ở nước ngoài và Việt Nam, CIEM, NXB Thống Kê, 2002;
66. Thông, H. V. (chủ biên và tập thể tác giả) Học viện Chính trị
Quốc gia, Tập bài giảng Chính trị học. NXB Chính trị Quốc
gia.2000.
67. Tuần báo Thời đại. Cuộc hành binh tới Bát Đa, CHLBĐ
13/2003
68. Tịnh B. Đ. (biên dịch). Lịch sử thế giới, NXB Văn Hoá 1996.
69. Thiên, T. M. Sử ký, Trung tâm Văn hoá, ngôn ngữ Đông Tây.
NXB Văn học, HN 1999.
70. Montbrial, T. Ramses 2001, Thế giới toàn cảnh, NXB Chính
trị Quốc gia. 2001.
71. Toffler, A. Cú sốc tương lai, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2002.
288
72. Những mẩu chuyện Lịch sử nổi tiếng Trung Quốc. NXB Thanh Niên,
2002.
73. US Information Agency, Portrait of the USA, 1997.
74. Văn, N. Tầm nhìn e-Thái Lan, PC World Việt Nam 11/2002
75. Văn, L. B. Nhất cú thoại cải biên thế giới NXB Tiên Giác, Đài Bắc
12/2002
76. Viện Khoa học Xã hội, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm. "Nguyễn Trường
Tộ với vấn đề canh tân đất nước" NXB Đà Nẵng, 2000.
77. Weingast, B. và Marshall W. The Industrial Organization of Cogress; Why
Legislatures like firms are not organized as markets. Journal of Poliitical
Economy 96: 132-163. 1988.
289
Minh họa: Đặng Kim Sơn (dựa theo kiểu dáng Clip Art mso của Microsoft)
Trình bày bìa:
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội năm 2004.
290